Cuốn sách “Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Việt Nam” của tác giả Trúc Khê là một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về quá trình di cư, khai phá và định cư của người Việt ở vùng đất Nam Bộ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX. Cuốn sách đã khảo sát, tổng hợp và phân tích một lượng lớn các nguồn tư liệu lịch sử khác nhau như sách vở, biên niên sử, các ghi chép của nhà truyền giáo, các tài liệu hành chính để làm sáng tỏ quá trình di cư và định cư của người Việt ở vùng đất mới phía Nam.
Theo tác giả, quá trình Nam tiến của người Việt có thể chia làm 4 giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu tiên kéo dài từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVI. Đây là giai đoạn sơ khai với những đợt di cư nhỏ lẻ của người Việt từ vùng đồng bằng Bắc Bộ xuống khai phá vùng đất mới ở Nam Bộ. Họ tập trung định cư dọc theo sông Tiền, sông Hậu và vùng Đồng Tháp Mười.
Giai đoạn thứ hai từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVII là giai đoạn mở rộng và củng cố. Số lượng người di cư ngày càng đông, họ khai phá và canh tác ở những vùng đất mới xa hơn về phía Nam và Tây Nam. Nhiều làng mạc, xã được hình thành, đời sống kinh tế – xã hội dần ổn định.
Giai đoạn thứ ba diễn ra từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX là giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Lòng người di cư ngày càng đông đảo, họ lan tỏa khắp các vùng đất mới từ Đồng Tháp đến Cà Mau. Nhiều vùng quê mới hình thành, kinh tế phát triển đa dạng hóa.
Cuối cùng, giai đoạn thứ tư bắt đầu từ đầu thế kỷ XIX là giai đoạn hoàn thiện. Quá trình khai phá và định cư cơ bản hoàn tất, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt. Bước sang thế kỷ XX, người Việt đã cư trú khắp Nam Bộ và trở thành chủ nhân chính thức của vùng đất mới này.
Bên cạnh việc phân chia quá trình Nam tiến thành các giai đoạn, tác giả Trúc Khê còn phân tích kỹ lưỡng về những nguyên nhân chính dẫn đến các đợt di cư lớn của người Việt xuống Nam. Theo đó, nguyên nhân chủ yếu là sự tăng dân số mạnh mẽ của các vùng đồng bằng Bắc Bộ đã dẫn đến tình trạng đất canh tác khan hiếm. Bên cạnh đó, những biến cố lịch sử như chiến tranh loạn lạc cũng khiến người dân phải tản cư xuống vùng đất mới phía Nam.
Cuốn sách cũng đi sâu phân tích về các hoạt động kinh tế chính của người dân sau khi di cư vào Nam, như nông nghiệp lúa nước, trồng dứa, chăn nuôi, đánh cá, buôn bán… Đặc biệt, tác giả Trúc Khê đã dành nhiều trang giấy phân tích về hệ thống thủy lợi phức tạp mà người Việt đã xây dựng nhằm khai thác triệt để các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Điều này phản ánh sự thông minh, sáng tạo và tài năng canh tác của cư dân Việt.
Ngoài ra, cuốn sách cũng phân tích kỹ về các hoạt động văn hóa – tôn giáo như tục thờ cúng tổ tiên, xây dựng đình làng, miếu mạo, phát triển nghề thủ công minh…đã góp phần hình thành nên bản sắc văn hóa đặc sắc của người dân Nam Bộ.
Tổng kết, cuốn sách “Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Việt Nam” của tác giả Trúc Khê là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa to lớn về lịch sử dân tộc. Nó đã làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển của vùng đất Nam Bộ cũng như bản sắc văn hóa đặc sắc của người dân nơi đây. Cuốn sách góp phần tôn vinh tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình khai phá và xây dựng quê hương.
Mời các bạn đón đọc Lịch Sử Nam Tiến Của Dân Tộc Việt Nam của tác giả Trúc Khê.
Xét xem lịch sử mở mang bờ cõi của nước ta từ xưa đến nay, có thể gồm vào mà gọi là một cuộc nam tiến; vì trước sau ta chỉ nhằm tiến về một mặt nam mà thôi. Bởi sao mà như thế? Bởi vì địa thế của ta nó khiến như thế. Nước ta ngày xưa phía bắc giáp nước Tàu, phía nam giáp Chiêm, Lạp, phía đông giáp bể lớn, phía tây giáp Ai-lao. Ở giữa cái khoảng núi Tản sông Hồng kia nếu muốn khuếch trương bờ cõi cho rộng lớn thêm có đủ thế lực mà lập nên một nước đứng đắn ở Á-đông, trừ tiến về mặt nam không còn mặt nào hơn nữa. Bởi vì mặt bắc giáp nước Tàu là một nước rất lớn, lo chống chọi với họ để họ khỏi nuốt sống mình còn lo chưa nổi, mong gì khai thác về mặt ấy được; mặt đông thì đã giáp bể; mặt tây giáp với Ai-lao tuy là một nước nhỏ yếu,nhưng vì có nhiều núi cao rừng rậm ngăn cách, thành ra dẫu muốn mở mang về mặt ấy cũng chưa thể được; trừ ra chỉ còn mặt nam giáp với nước Chiêm-thành, nước Chiêm-thành lại giáp với nước Chân-lạp, vì cớ đường thuỷ, đường lục được tiện, vả hai dân ấy đều là dân nhỏ yếu có thể lấn át họ được, vì vậy mà sức bành trướng của dân tộc ta trước sau đều chỉ tràn về mặt nam. Tuy thế mặc lòng, sự khai thác bờ cõi, há có phải là một việc dễ đâu; huống chi dân Chiêm Lạp cũng không phải hoàn toàn là giống hư hèn, cũng là những cái dân đã từng có một nền văn-minh rất sớm, thế mà lấy như một dân tộc nhỏ ở trong mảnh đất Giao-chỉ nọ, ngày lần tháng nữa, đã nghiễm nhiên phá diệt được cả Chiêm-thành lẫn Chân-lạp mà dựng nên một nước lớn Việt-Nam, đủ biết cái công phu huyết hãn của các đứng tiên dân ta xưa, thực đã lớn lao vô cùng vậy. Cứ như các nhà nhân-chủng-học thì bảo dân tộc ta thuộc giống Mông-cổ, song cỗi gốc từ đâu mà đến thì mỗi sách nói một khác không sao đủ bằng cứ được. Sách thì bảo dân ta là ròng rõi Tây-tạng, sách thì bảo là ròng rõi Giao-chỉ, sách thì bảo là ròng rõi Việt thường, sách thì bảo là ròng rõi nước Việt bên Tàu, tổng chi đều là những nhời ức đoán cả, chứ không lấy gì làm đích xác. Vậy chúng ta chỉ nên biết rằng chúng ta là riêng một dân tộc ở trong thế giới, tức ngày nay gọi là dân tộc Việt-nam. Xét về cương vực nước ta đời Hùng dựng nước, đồ bản lúc ấy khác hẳn bây giờ; cứ như sử cũ thì nói bấy giờ phía đông giáp bể Nam, phía tây giáp Ba-thục (tỉnh Tứ-xuyên nước Tầu bây giờphía bắc hồ Đỗng đình (thuộc tỉnh Hồ-namphía nam đến nước Hồ-tôn (sau là Chiêm-thành, quốc hiệu là nước Văn-lang. Cuối đời Hùng-vương (258 trước tây lịch, Thục-Phán diệt nước Văn-lang dựng nước Âu-lạc, tức là Thục An-dương-vương. Năm Đinh Hợi (214 trước T.Lnước Âu-lạc bị nước Tần đem quân sang lấn, lấy đất Lục lương mà đặt ra 3 quận: Nam-hải (Quảng-đôngQuế-lâm (Quảng-tâyTượng-quận (Quảng-tây1. Cuối đời Tần (207 trước T.Lquan Úy quận Nam-hải nhà Tần là Triệu-Đà đêm quân diệt nước Âu-lạc mà dựng nên nước Nam-Việt, xưng là Triệu Vũ-vương, đất cát gồm có 3 quận trên và cả đất của Thục An dương vương. Năm Canh ngọ (111 trước T.Lđời Thuật dương vương nhà Triệu, nước Nam-Việt bị nước Hán diệt mất, thế là từ đó phải nội thuộc về Tầu. Đời Hán Quang-Vũ năm Kiến-vũ thứ 16 (Tây lịch 40vua Trưng giấy quân đuổi quan Thái-thú nhà Hán là Tô-Định, lấy lại được 65 thành đất Lĩnh-nam. Cứ theo như sách Thoái thực ký văn của cụ Trương Quốc Dụng chép thì nói nước ta sau khi nội thuộc về nhà Tây-Hán, nhà Hán chia đất đặt ra 9 quận là Nam-hải, Uất-lâm, Thương ngô, Hợp-phố, Nhật-nam, Cửu-chân, Giao-chỉ, Đam-nhĩ, Châu-nhai mà gọi chung là bộ Giao-chỉ, sau lại bãi 2 quận Châu-nhai Đam-nhĩ mà hợp vào làm 7 quận, quận Giao-chỉ lĩnh 12 thành, (tức là huyện, quận Cửu-chân lĩnh 5 thành, quận Nhật-Nam lĩnh 5 thành, quận Nam-hải lĩnh 7 thành, quận Thương-ngô lĩnh 11 thành, quận Uất-lâm lĩnh 11 thành, quận Hợp-phố lĩnh 5 thành, cả thẩy là 56 thành; vậy thì Đại-Việt sử ký chép là vua Trưng đánh đuổi Tô-Định lấy được 65 thành, có lẽ là số 56 mà nhầm là 65 chăng? Như thế thì đời vua Trưng cũng có thu phục được cả Quảng-đông Quảng-tây vậy. Sau khi vua Trưng mất nước, nước ta lại nội thuộc về nhà Đông-Hán. Năm Kiến-an thứ 15 (210đời Hán Hiến-đế, nhà Hán đổi bộ Giao-chỉ mà đặt làm Giao-châu. Năm Hoàng-vũ thứ 5 (266nhà Ngô, Ngô-Tôn-Quyền cắt 3 quận Nam hải, Thương-ngô, Uất-lâm lập làm Quảng-châu, còn 4 quận kia vẫn để làm Giao-châu, nhưng không bao lâu lại hợp lại như cũ. Đến năm Vĩnh-an thứ 7 (264Ngô-Tôn-Hưu lại lấy 3 quận trước mà đặt làm Quảng châu, châu Giao châu Quảng chia hẳn ra bắt đầu từ đấy, mà chính là khởi điểm cho sự mất đi quá nửa phần đất của nước ta vậy. Từ đấy về sau trải qua mấy phen cách mệnh, nhưng người mình cũng chỉ khôi phục được đất châu Giao mà thôi; đến đời Ngô, Đinh độc lập mà đất châu Quảng đã không còn mong gì khôi phục lại được nữa. Mở xem bản đồ thì nước ta mất đất châu Quảng tức là mất đi quá nửa phần nước, cương vực chỉ còn quanh một xứ Bắc-Kỳ và 3 tỉnh Thanh, Nghệ Tĩnh phía Bắc Trung-kỳ mà thôi. Đất thì nhỏ hẹp mà số dân sinh sản một ngày một nhiều, sự thế không thể không tìm đường bành trướng. Như trên đã nói, ba mặt đông tây bắc không phải là con đường có thể tiến được, tự nhiên là phải tiến xuống mặt nam, huống chi những dân Chiêm-Thành, Chân-Lạp ở mặt nam lại thường hay vào quấy nhiễu nước ta, ta chẳng diệt họ thì họ cũng chẳng để cho ta được yên, nhân thế mà nam tiến là một con đường phải đi của ta, mà sự mở mang bờ cõi của nước ta gồm cả ở trong một cuộc nam tiến vậy. Nay xin lần lượt chép về cuộc nam tiến ấy. Đời vua Lê Đại-Hành niên hiệu Ứng thiên năm thứ 8 (1000bấy giờ vì nước Chiêm-Thành bắt giam sứ-giả nước ta là bọn Từ-Mục, Ngô-Tử, vua giận, tự làm tướng đem quân vào đánh chém được tướng Chiêm là Ti-mi-thuế, Chiêm-vương phải bỏ chạy, quân ta lấy được vàng bạc của cải rất nhiều. Vua Đại-Hành lại sai Ngô-Tử-Yên đem 3 vạn quân mở một con đường đi bộ từ cửa bể Nam-giới cho đến châu Đại-lái (đất Chiêm, nay là phủ Quảng ninh thuộc tỉnh Quảng-bình. Lại đào một con sông từ núi Đồng-cổ cho đến con sông Bà-hoà tức là con sông ở xã Đồng-hoà, huyện Ngọc-sơn bây giờ. Ấy tức là khởi đầu cho bước đường nam tiến của dân tộc ta, vì có hai đường thuỷ lục ấy thì quân ta vào đánh Chiêm-Thành mới được tiện đường vận tải vậy. Nói đến nước Chiêm-Thành tưởng cũng nên thuật về lịch-sử của nước ấy. Nước Chiêm-Thành khi xưa là nước Hồ-Tôn, thuộc về bộ Việt-Thường. Đến nhà Tần đặt làm huyện Lâm-Ấp. Nhà Hán lại đổi làm huyện Tượng-Lâm thuộc về quận Nhật-Nam. Đến thời vua Thuận-Đế nhà Hán năm Vĩnh-Hoà thứ 2 (137người trong quận ấy tên là Khu-Liên đương làm chức Công-Tào, bèn giết quan huyện lệnh mà giữ lấy đất tự xưng là Lâm-ấp-vương. Truyền được vài đời rồi cháu ngoại là Phạm-Dật kế lập, Dật mất, người tướng là Phạm Văn cướp ngôi 2 rồi đánh lấn lấy đất nước láng giềng. Từ đó nước mới rộng lớn, Đông Tây rộng 700 dặm. Nam Bắc dài 3000 dặm, phía nam gọi là châu Thi Bị, phía tây gọi là châu Thượng Nguyên, phía Bắc gọi là châu Ô lỵ, thống trị cả thẩy 38 châu.
Nguồn: https://thuviensach.vn