Nguyên bản: Hitler’s Last Days
Người dịch: Người Sông Kiên và Lê Thị Duyên
Năm xuất bản: 1946
Nhà xuất bản: Sông Kiên
Chúng tôi vẫn còn choáng váng vì cơn biến động hãi hùng đã chụp xuống chúng tôi. Hàng triệu người Đức cảm thấy những khó khăn vĩ đại riêng chỉ để tiếp tục sống mà thôi, nhiều người khác còn bị khổ đau vì các vết thương thể xác và tinh thần mà chiến tranh đã để lại. Liệu chúng tôi đã có thể động đến các vết thương ấy chưa ? Đó là câu hỏi mà tôi tự đặt ra khi nghe câu chuyện lôi cuốn do một Đại úy kỵ binh kể lại trong một trại tù binh nơi tôi bị giam giữ. Các thính giả của ông ta cực kỳ hỗn tạp gồm những người bị bắt một cách thường tình, những người khác bị bắt để thẩm cung, các đảng viên Quốc Xã và những người chống Quốc Xã. Sự tinh cờ đưa đẩy viên sĩ quan trẻ tuổi ấy đến sống bên cạnh Hitler, ba tháng trước khi chiến sự chấm dứt. Những gì diễn ra dưới mắt chúng tôi là cả một cuốn phim về trận đánh đẫm máu tại Bá-linh, những trận chiến do những người phòng vệ cuối cùng tung ra và những khổ đau không thể nào tả được của thường dân, với một bối cảnh đầy những rối ren,những xung đột đầy tham vọng, những tâm trạng vị kỷ không một chút ngại ngùng, những sự luồn cúi nhu nhược, cùng với sự suy mòn của tinh thần và thể chất của một con người đã dẫn dắt dân tộc Đức vào một cơn tai biến rùng rợn nhất Lịch sử.
Những người nghe câu chuyện đã phản ứng khác nhau. Luôn luôn có những người quyết liệt, không chịu rời bỏ dù cho là một phần nhỏ, thiên kiến của mình. Lại có những người, mãi cho đến hồi chung cuộc tàn bạo vẫn vào những bài diễn văn của Fuhrer như lá lời kinh thánh, cũng như vào sự ồn ào của hệ thống tuyên truyền của Goebbels. Những người đó lại còn muốn cho rằng các hình ảnh về các trại tập trung Belsen Buchenmald chỉ là “tuyên truyền”. Nhưng khi nghe câu chuyện của một chứng nhân được nhìn tận mắt, họ cảm thấy vũ trụ của niềm tin và của ảo tưởng bị sụp đổ, không còn giữ được khả năng xây dựng một chuyện truyền kỳ mới vào nữa, cũng như cầu viện đến một danh từ rất thích hợp là “phản bội” nữa. Có những người khác đã từng phải cúi đầu trước sự khủng bố của Sở mật thám Gestapo và đã chỉ tìm thấy trong câu chuyện nay sự xác nhận những điều họ được biết hay cảm thức được từ lâu nay. Tất cả mọi người đều muốn đưa ra ánh sáng để sau cùng có thể lập bảng kết toán của một quá khứ, tất cả mọi người muốn sự thật, chỉ có sự thật mà thôi.
Chắc chắn rằng các biến cố đang còn gần gũi quá, thời gian chưa đủ chín để có thể tuyên bố phán xét tối hậu. Cần phải làm thật nhiều,phải sưu tầm kỹ trước khi có thể viết lại lịch sử của trận Đệ nhị thế chiến và về Fuhrer của nền Đệ tam Cộng hòa Đức Quốc Xã. Những điều mà chúng tôi nghe được từ miệng của Đại úy Boldt là một phần nhỏ trong cái toàn bộ mênh mông, nhưng đấy là một phần đóng góp cho cuộc điều tra rộng lớn cần thiết. Chính vì vậy tôi đã yêu cầu ông ta viết lại câu chuyện về các biến cố trong đó ông ta có tham dự, để giúp dân tộc Đức tìm thấy sự thật. Đó là kết quả là cuốn sách nhỏ này.
Gerhard Boldt nói với chúng tôi với sự ngay thẳng bộc trực,không thiên kiến của một sĩ quan ở tiên tuyến không bao giờ làm chánh trị và cùng với hàng triệu quân nhân Đức khác nữa, ông ta là người luôn luôn tin tưởng nơi cấp chỉ huy của mình, ông ta đã tham dự, trong tư cách là kỵ binh, vào các trận đánh gay go tại phòng tuyến Maginot, giữa Sedan và Montmédy và ông đã tiến vào Toul trên lưng ngựa, kiếm tuốt trần. Chiến trường Nga Sô đã mang ông đi qua các quốc gia ven bờ biển Baltique cho đến Leningrat, trong bão tuyết ở Demiamk, trong khu đầm lầy thuộc Pripet và miền đông nam hồ Ilmen. Ông ta xứng đáng với chiếc huy chương thập tự sắt. Ông ta đã bị thương năm lần nhưng, sau một thời gian nghỉ ngơi ngắn tại Đức và một công việc tạm thời tại Hung Gia Lợi, trong Bộ tham mưu liên lạc với Sư đoàn ky binh Hung, ông ta trở lại Nga Sô và đã sống ngay tuyến đầu qua các trận đánh khủng khiếp trên đường di tản chiến thuật dài dằng dặc. Các huy chương và nhất là chiếc chiến thương bội tinh vàng, đã giúp cho ông ta được chỉ định vào tháng giêng năm 1945, làm sĩ quan tùy của Tướng Guderian, Tổng tham mưu trưởng quân lực Đức một chức vụ mà ông vẫn giữ bên cạnh Tướng Krebs, người tiếp nối Guderian. Người Anh đã bắt giữ ông ta ngày 26 tháng giêng năm 1946, để thẩm vấn ông về những tháng bi thảm cuối cùng ấy và đặc biệt hơn nữa vè những ngày cuối cùng mà ông đã sống với Hitler trong căn hầm tại Dinh Tể Tướng. Ông được trả tự do mà khônq bị một cấm đoán nhỏ nào ngay cả sau khi khai cung.
Câu chuyện của ông bắt đầu vào thời kỳ cuối cùng của trận Đệ nhị thế chiến.
ERNST A. HEPP
Reichenberg, tháng 12 năm 1946
Lúc đó là đầu tháng hai năm 1945. Công trường Wilhelmplatz vắng tanh và lạnh lẽo. Khắp nơi mà mắt có thế nhìn thấy được, những bức tường, những cửa sổ bể tan hoang, đằng sau đó những đống gạch ngói đổ nát điêu tàn chất cao. Từ dinh Tể Tướng cũ, một công thự kiểu trung cổ đẹp mê hồn, tượng trưng cho thời đại Wilhelmie, nay chỉ còn lại mặt tiền bị hư hại nặng. Khu vườn hoa trước dinh bị gạch ngói chôn vùi. Chỉ còn tiền điện của Dinh Tể Tướng mới là còn đứng vững với chiếc bao lơn có góc cạnh, nơi mà Adolf Hitler đến loan báo cho dân chúng Bá-linh các chiến thắng để được các tiếng hoan hô bất tận chào đón. Luôn luôn với vẻ oai nghiêm, hơn thế nữa, vẻ làm lo sợ, biểu hiện toàn vẹn phong thể của Hitler, các tòa nhà của “dinh thự của Fuhrer” trải dài suốt dọc con đường Voss Strasse, giữa công trường Wilhelmphatz và đại lộ Hermann Goering. Những binh sĩ của Tiểu đoàn phòng vệ Bá-linh, những thanh niên cao lớn, từ lâu biến mất trên đường các thành phố Đức quốc, vẫn còn đứng trên các bục gỗ và bồng súng chào tất cả các sĩ quan mà họ trông thấy. Những tấm thép che đường xuống hầm trú ẩn được hé mở. Mỗi khi có báo động chúng được khép lại. Nơi căn hầm này, năm trước mỗi đêm hàng trăm trẻ con tại Bá-linh cùng với mẹ của chúng đến ẩn nấp tránh bom trong tư cách là “khách của Fuhrer”. Nhưng từ nhiều tuần qua, chính Hitler cũng phải xuống ở tại căn hầm ẩn trú dưới mặt đất này.
Đây là lần đầu tiên tôi được đưa đến tham dự hội nghị hàng ngày về tình hình, trong đó có mặt Hitler và đại biểu của ba thành phần cấu tạo quân lực Đức : Lục quân, Không quân, Hải quân. Trong các cuộc hội nghị ấy, tình hình được mang ra thuyết trình và các quyết định liên quan đến đường lối chiến tranh trên bộ, trên biển và trên không được hình thành. Hôm nay tôi sẽ được trình diện ở đó.
Chiếc Mercédés nặng nề dừng bánh trước các cây trụ vuông khổng lồ của cánh cửa vĩ đại phía bên phải, dành cho các quân nhân. Dinh Tể tướng có hai lối ra vào riêng biệt. Cánh cửa bên trái dành cho Đảng, cửa bên phải, dành cho Quân đội. Đại tướng Guderian, Tổng tham mưu trưởng. Thiếu tá Nam tước Freytag Von Loringhoven, phụ tá của ông và tôi, đặt chân xuống đất. Hai binh sĩ canh gác bồng súng chào. Chúng tôi chào lại và bước lên 12 bậc cấp đưa đến cửa ra vào. Tôi đếm từng bậc một và tôi thấy hình như chúng có ảnh hưởng đáng kể đến số mệnh của tôi. Một binh sĩ hầu cận mở cánh cửa bằng cây sồi nặng nề và chúng tôi tiến vào Dinh Tể Tướng. Được soi sáng bằng một vài bóng đèn hiếm hoi và có vẻ khiêm nhường, căn phòng mênh mông càng có vẻ trống trải và lạnh lẽo hơn. Trước sự gia tăng dồn dập của các cuộc không tập, người ta đã đem cất các bức tranh, các tấm thảm. Bốn cửa sổ lớn bị vỡ toang được bịt kín bằng giấy bồi cứng và cây. Trên trần và trên một trong các bức tường một vệt nức rộng và sâu chạy dài. Một tấm vách ván đã được dựng lên phía Dinh Tể Tướng cũ. Một binh sĩ phục dịch mặc đồng phục hỏi giấy phép ra vào quy định của tôi. Vì lẽ tôi không có giấy phép ra vào, cũng như chẳng có giấy tờ tùy thân gì cả nên tên tôi được soát xét lại trong một cuốn sổ lớn. Người ta để cho tôi đi qua. Nam tước Freytag dắt tôi đến cục sở của võ phòng, ở gần ngay đó, và giới thiệu tôi với vị Chánh võ phòng, Trung tá Borgmann. Ông hỏi ông nầy cuộc họp sẽ được tổ chức ở trong văn phòng của Hitler hay dưới hầm ẩn trú. Vì lẽ lúc nầy không có mối đe dọa bị không tập nào đè nặng lên thành phố, cuộc họp được trù liệu diễn ra trong văn phòng rộng lớn. Trong trường hợp trái ngược, phiên họp sẽ diễn ra dưới hầm ẩn trú, nằm ngay dưới dinh Tể Tướng.
Để có thể đến được mục tiêu, chúng tôi phải đi qua không biết bao nhiêu là hành lang và tiền đình. Từ lâu, người ta không thể đi theo lộ trình trực tiếp vì tòa nhà đã bị bom làm thiệt hại nặng nề. Chính vì thế mà gian phòng khách danh dự rộng lớn gần như bị phá hủy hoàn toàn. Cứ đầu mỗi lối đi, các quân nhân SS lại một lần kiểm soát giấy tờ của chúng tôi. Tuy nhiên cảnh tòa nhà trong đó có phòng làm việc hay còn y nguyên và gần như là phần duy nhất của tòa nhà mênh mông còn lại có thể được toàn dụng. Mặt nền các hành lang bóng lộn như gương, các bức tranh vẫn còn được treo trên tường, những bức màn hoa vĩ đại và nặng nề treo mỗi bên của các cửa sổ thật cao.
Trong tiền đình cuối cùng, chúng tôi lại phải chịu một cuộc kiểm soát gắt gao hơn. Chúng tôi thấy có nhiều sĩ quan SS và lính gác với súng tiểu liên. Đại tướng, Thiếu tá và tôi phải gởi vũ khí lại. Hai sĩ quan lấy các chiếc cặp đựng giấy tờ của chúng tôi và kiểm soát kỹ càng xem có chứa vũ khí hoặc chất nổ không. Các chiếc cặp nầy đặc biệt bị nghi ngờ từ khi có vụ mưu sát ngày 20 tháng 7 1. Lẽ tất nhiên chúng tôi lại phải chứng minh lý lịch. Chúng tôi không bị lục soát nhưng các sĩ quan SS quan sát chăm chú quân phục của chúng tôi.
Mời các bạn đón đọc 10 Ngày Cuối Cùng Của Hitler của tác giả Gerhard Boldt.