Nhà văn Đoàn Giỏi (1925 – 1989) quê ở Tiền Giang. Ông sáng tác từ năm 17 tuổi với tác phẩm đầu tiên Nhớ cố hương đăng ở Tạp chí Nam kỳ. Làm bộ tuyển tập này, NXB Văn hóa – Thông tin đã trân trọng viết trong lời giới thiệu: “Các tác phẩm của ông không chỉ thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa số phận của người dân với vận mệnh của đất nước, mà trong cái rộng lớn là Tổ quốc, ông còn thể hiện một cách tinh tế, nhuần nhuyễn, hòa quyện trong đó cảnh sinh hoạt, phong tục, tập quán, cảnh sắc thiên nhiên và nhất là tính cách và tâm hồn của người Nam bộ… Với vốn sống phong phú về vùng đất phương Nam, với niềm say mê, tìm tòi, khám phá, những tác phẩm của ông luôn sống cùng thời gian, để lại cho người đọc sự trong trẻo, hồn nhiên và cái cao cả trong tình người. Phải nói rằng Đoàn Giỏi là cây viết về thiên nhiên Nam bộ hay nhất từ trước tới nay”.
Tuyển tập Tiếng Gọi Ngàn gồm có:
– Dừng tay lại! Đừng đâm… Đừng đâm nghe các cha nội!
– Tại sao? – Người toan đâm mặt đầy sát khí, hầm hầm quay lại hỏi.
– Linh vật đa! Không thấy cái đốm giữa trán nó sao? Từ nhỏ tới giờ tôi mới thấy giống heo rừng có con này là một.
– Vậy mà thả nó sống để nó lớn lên thành tinh à?
– Thả đâu! Bắt về chứ! Để bắt nó về tặng thầy giáo Bảy! Nhờ cái vá trắng giữa trán và lòng mến mộ thầy giáo Bảy của bà con ấp Kèo Nèo mà con lợn rừng con này thoát chết.
Thầy giáo Bảy thích nuôi chim, nuôi khỉ, nuôi trăn… Khi chúng quen người và lớn rồi, thầy thả sống tự do chứ không giam nhốt. Dường như con nào cũng “khôn”, rong chơi chán- có khi đến vài ba tháng – lại biết tìm về nhà chủ. Nhưng rốt cuộc thầy không còn con nào. Có thể chúng sa hầm vướng bẫy, thọ tên chết ở một cánh rừng nào đó; cũng có thể chúng ra đi theo tiếng gọi của núi rừng và giống loài muôn thuở cũng nên. Thiệt là Uổng công xúc tép nuôi cò, cò ăn cò lớn cò dò lên cây! Cũng đã có vài người tiếc hộ công linh, chê thầm thầy như vậy. Thầy Bảy được tiếng là người có tài thuyết phục các con vật rừng mà ai cũng cho là khó nuôi dạy. Nhiều lúc thầy ngồi suy tư hàng giờ, con trăn bò lên cổ, quấn quanh người, thè lưỡi liếm mặt, thầy cũng không động đậy. Chú Tư Đằng từng nghĩ: ắt thầy là người khai sáng một thứ đạo gì đó, chẳng qua “phong vân chưa gặp hội” nên còn “ẩn tích mai danh”, chưa ra mặt cứu đời. Cho nên khi ôm con lợn rừng con đến tặng thầy, chú có nói vui, giọng thật thà: “Biết đâu nó cũng là một Thiên bồng nguyên soái phải đọa xuống trần cũng nên!”. Thầy Bảy cười, cảm ơn chú rối rít, rồi lại lắc đầu cười mà chẳng có ý kiến nhận xét, bình phẩm gì. Nói cho “miên” thì bà con chẳng ai rõ lai lịch thầy Bẩy. Người thì bảo: chắc ông thất tình hoặc trốn nợ; kẻ cho rằng: có chữ nghĩa như ông, ra làm việc thông ngôn ký lục dễ như chơi, lại bỏ trốn thị thành lánh về xứ khỉ ho cò gáy này, sống như một nông dân lam lũ, là ông muốn tỏ thái độ bất hợp tác với nhà nước Pháp… Tất cả những tiếng xì xầm ấy đều có đến tai thầy. Thầy chỉ mỉm cười. Mà điều này, chánh hương quản ở tận trên “nhà việc” cách hai mươi cây số cũng có để mắt tới. Nhất hông là chuyện khi mới về đây, thầy thường khuyên nhủ bà con cố gắng cho con cháu đi học để “mở mang tâm trí”. Biết vậy, nhưng mà học ở đâu?
Ngay cả xã và làng phụ cận cũng không có lấy một trường tiểu học? Hương chức hội tề nhiều ông còn dốt đặc cán mai, tập được một chữ ký tên đã là khá lắm. Thầy xin phép làng, đứng ra dạy các em học tại nhà mình không lấy một đồng xu cắc bạc nào: trò nào nghèo quá thầy còn cấp thêm cho cả giấy bút. Bà con dân ấp cảm phục nghĩa cử ấy, mặc nhiên gọi ông là thầy giáo. Lâu ngày thành một danh xưng. ở thời buổi đế quốc tư bản Pháp khuếch trương kinh tế lớn tại các thuộc địa sau đại chiến thế giới thứ nhất, giữa lúc mọi người bon chen theo đường danh lợi, giữ mình thanh khiết được như thầy là chuyện hiếm. Thầy cất một ngôi nhà sàn nhỏ ngoài đầu xóm, xin phá đất cấy một khoảnh ruộng nhỏ đủ gạo ăn; cũng đi “ăn ong”, đốn củi như mọi người. Ngoài những giờ lao động, thầy lấy sự dạy trẻ và chăm sóc các con vật rừng làm vui. Hầu như thế sự gác ngoài tai.
…
Mời các bạn đón đọc Tuyển tập Tiếng Gọi Ngàn của tác giả Đoàn Giỏi.