" Võ Văn Kiệt - Một Nhân Cách Lớn, Nhà Lãnh Đạo Tài Năng Suốt Đời Vì Nước Vì Dân (Hồi Ký) 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Võ Văn Kiệt - Một Nhân Cách Lớn, Nhà Lãnh Đạo Tài Năng Suốt Đời Vì Nước Vì Dân (Hồi Ký) Ebooks Nhóm Zalo CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN CHỊU TRÁCH NHIỆM NỘI DUNG PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. NGUYỄN HOÀI ANH Biên tập nội dung: TS. VÕ VĂN BÉ NGUYỄN PHƯƠNG THÙY PHẠM THỊ NGỌC AN Trình bày bìa: PHẠM THÚY LIỄU Chế bản vi tính: HOÀNG MINH TÁM Đọc sách mẫu: PHƯƠNG THÙY - NGỌC AN HỘI ĐỒNG CHỈ ĐẠO XUẤT BẢN - TÔ HUY RỨA - PHÙNG HỮU PHÚ - LÊ HỮU NGHĨA - NGUYỄN DUY HÙNG - NGUYỄN VĂN THẠO - LÊ MINH NGHĨA TỔ CHỨC BẢN THẢO - TS. LƯU TRẦN LUÂN - VŨ QUỐC TUẤN - NGUYỄN VĂN TRỊNH - VŨ CẨM TÚ Đồng chí VÕ VĂN KIỆT (1922-2008) LỜI GIỚI THIỆU Ngày 11/6/2008, đồng chí Võ Văn Kiệt - tức Sáu Dân - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đột ngột qua đời trong niềm tiếc thương và nỗi đau buồn khôn xiết của đồng bào, đồng chí và nhân dân cả nước. Với 86 tuổi đời, 69 tuổi Đảng, gần 70 năm hoạt động không ngừng nghỉ cho độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự hùng cường của đất nước, một trái tim lớn đã ngừng đập, một nhân cách lớn đã ra đi. Đồng chí Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, sinh ngày 23/11/1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long thuộc trung tâm của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, trong một gia đình nông dân nghèo. Mặc dù với học vấn chỉ đọc thông, viết thạo, đồng chí đã sớm dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng chuyên nghiệp cứu nước, cứu dân. Ở tuổi 16 (1938), đồng chí tham gia phong trào Thanh niên phản đế, một năm sau đó, ở tuổi 17, đồng chí là đảng viên cộng sản. Ở tuổi 18, với cương vị là Bí thư chi bộ xã, Huyện ủy viên, đồng chí tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 ở Vũng Liêm - Vĩnh Long. Mặc dù bị thực dân Pháp dìm trong biển máu, nhưng cùng với khởi nghĩa Bắc Sơn - Võ Nhai, khởi nghĩa Đô Lương - Nghệ An, khởi nghĩa Nam Kỳ là khúc tráng ca bất hủ, bước tập dượt quan trọng để tiến tới Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau khởi nghĩa Nam Kỳ, do địch khủng bố gắt gao, lùng bắt những người lãnh đạo cho nên đồng chí được điều động về Rạch Giá hoạt động, được cử vào Tỉnh ủy lâm thời 7 và tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Rạch Giá tháng Tám năm 1945. Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, trên cương vị là Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng, đồng chí lăn lộn khắp chiến trường Tây Nam Bộ và trở thành một trong những cán bộ chủ chốt của vùng đất này khi tuổi đời còn rất trẻ. Năm 1950, đồng chí được điều động về làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Cuối năm 1950, đồng chí được cử làm đại biểu của Đảng bộ miền Nam ra Việt Bắc dự Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng diễn ra đầu năm 1951 tại Tuyên Quang - Việt Bắc. Sau thời gian học tập, công tác và dự Đại hội II của Đảng, đồng chí trở lại Nam Bộ làm Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu cho đến ngày cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi. Theo sự phân công của tổ chức, đồng chí không tập kết ra Bắc mà ở lại bí mật tổ chức cuộc đấu tranh của đồng bào, đồng chí Nam Bộ. Trong suốt 21 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai vô cùng gian khổ, ác liệt để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, từ một cán bộ lãnh đạo đầy nhiệt huyết và dày dạn kinh nghiệm trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí trở thành một cán bộ chủ chốt của chiến trường Nam Bộ. Năm 1955, đồng chí được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, giữ chức Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến năm 1975, đồng chí nhiều lần được cử làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định trong những thời điểm cam go, rồi làm Bí thư Khu ủy Khu 9 từ năm 1970 cho đến sau Hiệp định Pari năm 1973. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Năm 1961, thực hiện chủ trương của Đại hội III, Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ ủy Nam Bộ, đồng chí được chỉ định làm Ủy viên Trung ương Cục và từ năm 1973 8 là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam cho đến ngày cơ quan này hoàn thành nhiệm vụ sau ngày 30/4/1975. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đồng chí được Trung ương Cục phân công làm Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban quân quản Sài Gòn. Sau giải phóng, đồng chí được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân rồi Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1960, suốt 37 năm liên tục đồng chí tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó có 25 năm là Ủy viên chính thức. Sau khi đất nước thống nhất, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị rồi Ủy viên chính thức từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và giữ trọng trách này suốt 21 năm cho đến khi thôi nhiệm tháng 12/1997 để làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương. Về mặt Nhà nước, đồng chí là đại biểu Quốc hội khóa VI, VIII, IX. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII diễn ra tháng 6/1987, đồng chí được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Tháng 3/1988, đồng chí được chỉ định làm Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng thay đồng chí Phạm Hùng vừa đột ngột từ trần. Từ tháng 8/1991, đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX, đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Thủ tướng Chính phủ và đảm trách chức vụ này cho đến khi thôi nhiệm. Trong cuộc đời cách mạng dài lâu từ thuở thiếu thời cho đến khi từ giã cõi đời, đồng chí Võ Văn Kiệt đã được giao nhiều trọng trách, là điển hình của lớp cán bộ trưởng thành từ cơ sở, từ lãnh đạo cấp xã cho đến khi trở thành người đứng đầu Chính phủ. Ở bất cứ giai đoạn cách mạng nào, giữ bất cứ cương vị gì, đồng chí đều nỗ lực hết mình, bộc lộ tài năng chói sáng và để lại dấu ấn khó phai mờ - dấu ấn Võ Văn Kiệt. 9 Sau Hiệp định Pari, từ kinh nghiệm xương máu của Hiệp định Giơnevơ năm 1954, đồng chí biết chắc chắn với bản chất ngoan cố và xảo quyệt, kẻ địch sẽ xóa bỏ hiệp định, tung quân đánh phá vùng giải phóng của ta. Trên cương vị là Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy lực lượng vũ trang Quân khu 9, với tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng và nhân dân, đồng chí thống nhất với Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh kiên quyết giáng trả và tiến công địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng. Bài học kiên quyết và chủ động tiến công địch của Khu 9 đã được thực tiễn chứng minh là đúng đắn và sáng tạo, được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đánh giá rất cao, kịp thời rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến trường xốc tới giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc vào ngày 30/4/1975 lịch sử. Sau mùa Xuân toàn thắng, trên cương vị là Chủ tịch Ủy ban nhân dân rồi Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí lo toan ổn định tình hình ngổn ngang của thành phố vừa được giải phóng. Do những sai lầm trong tổ chức chỉ đạo thực hiện, Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cả nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Chính từ trong khó khăn càng ngời sáng phẩm chất và tài năng của người lãnh đạo hết lòng vì nhân dân và sự phát triển của thành phố đông dân nhất nước. Chính từ thực tiễn “phá rào” tìm đường đổi mới cơ chế quản lý của Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương đã giúp Trung ương xác định con đường đổi mới tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Từ khi được điều động về Trung ương công tác, đảm trách nhiều chức vụ quan trọng, nhất là từ khi được Quốc hội bầu làm Thủ tướng Chính phủ, tài năng của đồng chí càng thể hiện chói sáng, vừa là một trong những kiến trúc sư của sự nghiệp đổi mới, vừa là người tổ chức thực hiện thắng lợi con đường đổi mới trong 10 năm đầu rất gian khổ, để lại dấu ấn rất sâu đậm - dấu ấn Võ Văn Kiệt. 10 Trên cương vị là người đứng đầu Chính phủ, đồng chí đã có những quyết sách cực kỳ quyết liệt và táo bạo thực hiện bằng được những chủ trương lớn của Đảng. Đường dây tải điện 500kV Bắc - Nam, Nhà máy thủy điện Trị An, Nhà máy lọc dầu Dung Quất, đường cao tốc bắc Thăng Long - Nội Bài, đường Hồ Chí Minh, công trình cải tạo Tứ giác Long Xuyên và đồng bằng sông Cửu Long để nhân dân “sống chung với lũ”, và rồi cả việc cấm sản xuất, lưu hành và đốt pháo trái phép đã ghi dấu ấn Võ Văn Kiệt - một nhà lãnh đạo năng động và quyết đoán. Không phải ngẫu nhiên mà đồng chí Phạm Văn Đồng từng nói: Trong các đời Thủ tướng thì Võ Văn Kiệt - Sáu Dân là người làm được nhiều việc lớn nhất cho dân, cho nước. Đó là sự khâm phục và đánh giá chân thành của lớp người đi trước đối với lớp cán bộ lãnh đạo tiếp nối sự nghiệp chấn hưng đất nước. Sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, nhất là từ sau khi chúng ta đưa quân vào Campuchia để cứu một dân tộc khỏi thảm họa diệt chủng, chủ nghĩa đế quốc câu kết với các thế lực phản động quốc tế tổ chức cuộc bao vây, cấm vận rất thâm độc hòng bóp nghẹt cách mạng Việt Nam, đất nước sau chiến tranh đã khó khăn lại càng khó khăn chồng chất. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ theo chủ trương của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng: Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, đồng chí đã nỗ lực cao độ lãnh đạo Chính phủ phá bỏ thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch để chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, xúc tiến gia nhập ASEAN và APEC theo lộ trình, tiến tới bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ, đàm phán từng bước để đưa đất nước gia nhập WTO. Đây là thành quả ngoại giao to lớn ghi dấu ấn Võ Văn Kiệt. Bạn bè quốc tế ghi nhận Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một nhà lãnh đạo tài năng, thân thiện, 11 chân thành, rất đáng tin cậy của nước Việt Nam đổi mới trong quá trình hội nhập toàn cầu. Là người thắng trận nhưng đồng chí không mắc bệnh “kiêu ngạo cộng sản” như Lênin từng chỉ dạy mà đã nỗ lực hết mình để đoàn kết dân tộc sau chiến tranh, kể cả những người đã từng một thời ở bên kia chiến tuyến. Đồng chí là nhà lãnh đạo, một người bạn chân thành, tin cậy của các nhân sĩ, các vị chức sắc tôn giáo, trí thức, nhà văn, nhà báo và văn nghệ sĩ nói chung. Ở đồng chí có sức hút, quy tụ và sự lan tỏa kỳ lạ đối với mọi giai tầng. Đồng chí luôn lắng nghe, tin cậy mọi người và vì vậy mọi giới, mọi tầng lớp nhân dân đều quý trọng và mến yêu đồng chí. Tự thân trong huyết quản và được bồi tụ qua những chặng đường cách mạng chông gai, đồng chí là một nhà lãnh đạo tiêu biểu của sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quy tụ xung quanh mình sức mạnh đoàn kết tất cả các giai tầng vì sự phồn vinh của đất nước. Võ Văn Kiệt là con người của hành động, con người của những quyết sách mang tầm vóc lịch sử. Ngay cả khi đã thôi nhiệm, đồng chí vẫn luôn luôn trăn trở suy tư vì dân, vì nước. Dù ở tuổi 86, đồng chí vẫn lăn lộn với các vùng đất, theo dõi sát tình hình thời cuộc, đóng góp những ý kiến có trách nhiệm với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về những vấn đề hệ trọng của quốc gia. Sự nóng lên của trái đất dẫn đến tình trạng nước biển ngày càng dâng cao. Việt Nam là quốc gia ven biển, chịu tác động nặng nề của sự biến đổi khí hậu toàn cầu, nhiều vùng ven biển sẽ bị xâm thực ngập mặn, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của một bộ phận khá lớn cư dân ven biển và hải đảo nước ta. Trên thế giới, Hà Lan là quốc gia có nhiều thành tựu trị thủy và kinh nghiệm đối phó với nước biển dâng. Trong khi đang chuẩn bị những tài liệu cần thiết cho chuyến đi tìm hiểu kinh nghiệm của Hà Lan thì đồng chí đột ngột qua đời mang theo nỗi khắc khoải về điều cuối cùng chưa kịp làm được cho dân, cho nước. 12 Ngay khi đồng chí vừa qua đời đã có hàng trăm bài báo viết về cuộc đời - sự nghiệp của đồng chí đăng tải trên hầu hết các cơ quan truyền thông cả nước. Gần một chục cuốn sách về đồng chí đã được xuất bản. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã tổ chức đội ngũ cộng tác viên đông đảo gồm nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng - Nhà nước, lãnh đạo các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, những người cộng sự, văn nghệ sĩ, trí thức đã từng sống và làm việc viết về cuộc đời, sự nghiệp của đồng chí dưới dạng hồi ký. Bên cạnh đó, từ những bài báo, những bài viết đăng tải trên các phương tiện truyền thông, một số cuốn sách đã xuất bản, chúng tôi tuyển chọn những bài tiêu biểu, biên tập kỹ để đưa vào cuốn sách này. Nội dung các bài viết rất đa dạng, chân thực và cảm động về cuộc đời, con người, sự nghiệp Võ Văn Kiệt - một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo tài năng và quyết đoán, một Thủ tướng để lại nhiều dấu ấn khó phai mờ - dấu ấn Võ Văn Kiệt. Nội dung các bài viết rất phong phú, để bạn đọc tiện theo dõi chúng tôi sắp xếp các bài thành các cụm chủ đề sau đây: - Cụm bài của các đồng chí lãnh đạo Đảng - Nhà nước. - Cụm bài về đồng chí Võ Văn Kiệt trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. - Cụm bài khi đồng chí lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh. - Cụm bài khi đồng chí làm Thủ tướng Chính phủ. - Cụm bài đồng chí với văn hóa, lịch sử dân tộc của trí thức, văn nghệ sĩ. - Cụm bài của quê hương và gia đình. Ngoài các bài viết, cuốn sách còn có nhiều bức ảnh tư liệu quý phản ánh chân thực cuộc đời - con người - sự nghiệp của đồng chí Võ Văn Kiệt. 13 Cuốn sách đã được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản ấn hành lần đầu tiên vào năm 2012. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Võ Văn Kiệt (23/11/1922 - 23/11/2022), nhằm đáp ứng nhu cầu của đông đảo độc giả, Nhà xuất bản tái bản, có chỉnh sửa, bổ sung cuốn sách. Mặc dù đã rất cố gắng trong việc đối chiếu, tra cứu những thông tin, nguồn tư liệu trong cuốn sách, nhưng khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Để bảo đảm tính lịch sử và tôn trọng ý kiến của các tác giả, chúng tôi cố gắng giữ nguyên thông tin trong các nguồn tư liệu cũng như những nhận định, đánh giá của tác giả, góp phần phản ánh một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn về cuộc đời và sự nghiệp của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Nhân dịp cuốn sách ra mắt bạn đọc, Nhà xuất bản xin được trân trọng cảm ơn sự cộng tác, giúp đỡ đầy tinh thần trách nhiệm của đồng chí Vũ Quốc Tuấn, đồng chí Nguyễn Văn Trịnh là những cán bộ giúp việc trực tiếp, gần gũi của đồng chí Võ Văn Kiệt khi còn tại thế, cũng như gia đình đồng chí Võ Văn Kiệt. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 11 năm 2022 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 14 THÔNG CÁO ĐẶC BIỆT* Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vô cùng thương tiếc báo tin:1 Đồng chí VÕ VĂN KIỆT, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX. Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, đồng chí đã từ trần hồi 7 giờ 40 phút, ngày 11/6/2008, thọ 86 tuổi. Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23/11/1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Đồng chí tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế. Năm 1939, đồng chí vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên và tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm. * Báo Nhân dân, ngày 13/6/2008, tr.1. 15 Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí làm Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí được giao các nhiệm vụ Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Từ năm 1955 và trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng chí làm Xứ ủy viên, Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định), Bí thư Khu ủy Khu 9, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Năm 1976, đồng chí làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rồi làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, đồng chí được điều về Trung ương công tác. Hoạt động cách mạng liên tục trên 70 năm, đồng chí đã có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đồng chí mất đi là một tổn thất đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Để tỏ lòng tưởng nhớ và biết ơn đồng chí Võ Văn Kiệt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quyết định tổ chức tang lễ đồng chí Võ Văn Kiệt với nghi thức Quốc tang. BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ỦY BAN TRUNG ƯƠNG MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM 16 TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN KIỆT, NGUYÊN ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ, NGUYÊN THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, NGUYÊN CỐ VẤN BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM* Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh: Sáu Dân.1 Sinh ngày 23/11/1922, tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1938, đồng chí tham gia hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế. Tháng 11/1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, làm Bí thư Chi bộ, Huyện ủy viên và tham gia cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 1941 đến năm 1945, đồng chí hoạt động cách mạng ở Rạch Giá, tham gia Tỉnh ủy lâm thời và tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Rạch Giá. Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, khi thực dân Pháp tái chiếm Nam Bộ, đồng chí làm Ủy viên Chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. * Báo Nhân dân, ngày 13/6/2008, tr.1. 17 Năm 1950, đồng chí được điều về tỉnh Bạc Liêu làm Phó Bí thư rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Năm 1955, đồng chí được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ, Phó Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Năm 1959, đồng chí được điều về Khu Sài Gòn - Gia Định làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định) cho đến cuối năm 1970. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), đồng chí được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Là Ủy viên Trung ương Cục miền Nam, đồng chí tiếp tục làm Bí thư Khu ủy T.4 (Sài Gòn - Gia Định), rồi Bí thư Khu ủy Khu 9 (Khu Tây Nam Bộ). Năm 1972, đồng chí được bầu làm Ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III. Từ năm 1973 đến 1975 đồng chí được điều về công tác ở Trung ương Cục và là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam. Trong thời gian chuẩn bị giải phóng Sài Gòn, đồng chí được Trung ương Cục phân công làm Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn. Năm 1976 đồng chí làm Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VI. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và được phân công làm Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3/1982), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tháng 2/1987, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII 18 và được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Chủ tịch Thường trực rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị. Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VIII, đồng chí được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; sau đó tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII (8/1991), đồng chí được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6/1996), đồng chí tiếp tục được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị và được cử làm Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị. Tại Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX (1992-1997), đồng chí được Quốc hội bầu làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Từ tháng 12/1997 đến tháng 4/2001, đồng chí được Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII cử làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng chí là đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX. Do có công lao to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng, nhiều huân chương, huy chương cao quý khác và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. 19 DANH SÁCH BAN LỄ TANG ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN KIỆT, NGUYÊN ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ, NGUYÊN THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM, NGUYÊN CỐ VẤN BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM* 1. Đồng chí Nông Đức Mạnh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng ban lễ tang.1 2. Đồng chí Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 3. Đồng chí Nguyễn Tấn Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 4. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5. Đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư. 6. Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ. 7. Đồng chí Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương. * Báo Nhân dân, ngày 13/6/2008, tr.1. 20 8. Đồng chí Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. 9. Đồng chí Phạm Gia Khiêm, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. 10. Đồng chí Trương Vĩnh Trọng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ. 11. Đồng chí Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. 12. Đồng chí Đại tướng Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an. 13. Đồng chí Lê Thanh Hải, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. 14. Đồng chí Phạm Quang Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội. 15. Đồng chí Tòng Thị Phóng, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội. 16. Đồng chí Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. 17. Đồng chí Tô Huy Rứa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. 18. Đồng chí Huỳnh Đảm, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 19. Đồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. 20. Đồng chí Hoàng Trung Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ. 21. Đồng chí Hà Thị Khiết, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương. 22. Đồng chí Trần Văn Hằng, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương. 23. Đồng chí Võ Hồng Phúc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 21 24. Đồng chí Trần Văn Tuấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ. 25. Đồng chí Đặng Ngọc Tùng, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. 26. Đồng chí Nguyễn Quốc Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam. 27. Đồng chí Nguyễn Thị Thanh Hòa, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 28. Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 29. Đồng chí Trung tướng Trần Hanh, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam. 30. Đồng chí Trương Văn Sáu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long. 31. Đồng chí Phan Tấn Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. 32. Đồng chí Trương Quốc Tuấn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang. 33. Đồng chí Võ Thanh Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau. 22 LỜI ĐIẾU DO ĐỒNG CHÍ TỔNG BÍ THƯ NÔNG ĐỨC MẠNH ĐỌC TẠI LỄ TRUY ĐIỆU ĐỒNG CHÍ VÕ VĂN KIỆT* Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn! Thưa gia quyến đồng chí Võ Văn Kiệt!1 Đồng chí Võ Văn Kiệt - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Quốc hội các khóa VI, VIII, IX, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, người chiến sĩ cách mạng kiên trung, suốt đời phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân đã vĩnh biệt chúng ta. Đây là một tổn thất lớn đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân ta và gia quyến đồng chí. Hôm nay, trong niềm tiếc thương vô hạn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng đồng bào, chiến sĩ, bạn bè và gia đình tổ chức trọng thể lễ tiễn đưa đồng chí về nơi an nghỉ cuối cùng! Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân, sinh ngày 23/11/1922, tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, * Báo Nhân dân, ngày 16/6/2008, tr.1, 3. 23 tỉnh Vĩnh Long - một vùng đất giàu truyền thống văn hiến, yêu nước và cách mạng. Đồng chí tham gia cách mạng khi mới 16 tuổi, năm 17 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Gần 70 năm hoạt động cách mạng vô cùng phong phú và sôi nổi, từ khi còn lăn lộn với phong trào cách mạng ở quê hương Vĩnh Long, ở Tây Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định rồi Thành phố Hồ Chí Minh cho đến khi giữ cương vị lãnh đạo của cả nước, cuộc đời của đồng chí Võ Văn Kiệt gắn liền với những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng, oanh liệt và vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí thường xuyên kiên trì học tập, nghiên cứu, thực hành tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người. Đồng chí luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, bám sát thực tiễn cách mạng, bằng tư duy sắc sảo, nhạy bén, sáng tạo, tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đồng chí đã có nhiều đóng góp lớn cùng toàn Đảng, toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, đưa sự nghiệp cách mạng luôn tiến lên phía trước. Trong những năm tháng dân tộc ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí luôn nêu cao tấm gương sáng về tinh thần chủ động cách mạng tiến công, kiên cường bám dân, bám đất ở những địa bàn xung yếu và ác liệt nhất, gây dựng và phát triển phong trào cách mạng, đánh thắng mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên chiến thắng mùa xuân năm 1975 lịch sử. Sau ngày đất nước thống nhất, trong những bước đi đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước ta phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách. Trên cương vị là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó là Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Phó Chủ tịch Thường trực, Phó Chủ tịch Thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, 24 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí đã cùng tập thể các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường xây dựng hệ thống chính trị, giữ vững quốc phòng - an ninh, không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao vị thế của đất nước ta trên trường quốc tế. Với tầm tư duy chiến lược, với quyết tâm đổi mới, tác phong sâu sát, quyết đoán, luôn tìm tòi, trăn trở, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đóng góp xứng đáng vào quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Tên tuổi của đồng chí gắn liền với những công trình lớn ở khắp mọi miền đất nước. Là một trong những nhà lãnh đạo chủ chốt của Đảng, ở mỗi giai đoạn đầy khó khăn, thử thách, đồng chí luôn nêu cao tính tiên phong gương mẫu và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng, thương yêu đồng bào, thắt chặt mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Trong công việc chung, đồng chí là một cán bộ lãnh đạo trung thành, tận tụy, bản lĩnh sáng tạo gắn kết ý chí với hành động được đồng chí, đồng bào quý trọng, bạn bè quốc tế mến yêu. Trong gia đình, đồng chí là người chồng, người cha, người ông mẫu mực, giàu đức hy sinh và lòng nhân ái. Với 86 tuổi đời, 69 tuổi Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có những cống hiến to lớn, quan trọng cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Đảng, Nhà nước đã trân trọng trao tặng đồng chí nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác. Cuộc đời đồng chí là tấm gương sáng để đồng bào, cán bộ, chiến sĩ cả nước yêu quý, kính trọng và mãi mãi noi theo. 25 Thưa đồng chí Võ Văn Kiệt - anh Sáu Dân kính mến! Hôm nay chúng tôi có mặt tại đây thương tiếc đưa tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng. Chúng tôi nguyện cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng, ra sức phấn đấu, tiếp tục đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta, Bác Hồ và các thế hệ cách mạng đi trước đã lựa chọn, đã phải đánh đổi bằng muôn vàn hy sinh, gian khổ; tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xin trân trọng gửi đến gia quyến anh Sáu Dân lời chia buồn sâu sắc nhất. Xin kính cẩn nghiêng mình tiếc thương, vĩnh biệt đồng chí Võ Văn Kiệt - anh Sáu Dân kính mến của chúng ta. 26 NÓI VỀ ANH VÕ VĂN KIỆT* ĐỖ MƯỜI** Tôi và anh Võ Văn Kiệt có chung hoàn cảnh gần giống nhau: hoàn cảnh gia đình cũng như quá trình tham gia hoạt động cách mạng.1 Gia đình tôi là nông dân, nhà nghèo. Lúc nhỏ phải đi làm thuê, làm thợ để kiếm sống và giúp đỡ gia đình. Hoàn cảnh gia đình anh Kiệt cũng vậy. Cả hai chúng tôi đều sớm tham gia hoạt động cách mạng. Trong quá trình hoạt động cách mạng trước năm 1945 và trong thời kỳ chống Pháp, tôi hoạt động ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, còn anh Kiệt thì hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ, tôi được Trung ương giao nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam. Lúc đó, anh Võ Văn Kiệt là một trong những đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng tại miền Nam. Trong những năm đầu cách mạng cũng như trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tôi có được nghe nhiều về anh Kiệt, nhưng hai anh em chúng tôi ít có điều kiện gặp nhau. Mãi đến năm 1982 anh Kiệt được Trung ương điều ra công tác ở Chính phủ giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và * Bài đăng trên Báo Nhân dân, ngày 14/6/2008, tr.1, 3. ** Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. 27 Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thì chúng tôi mới gần nhau và có nhiều thời gian làm việc với nhau. Nói về anh Võ Văn Kiệt, nhiều người ca ngợi anh là con người rất thực tiễn, con người của công việc, miệng nói tay làm, không hay lý luận. Nhưng khi làm việc, chỉ đạo điều hành hoặc xử lý về đối nội hay đối ngoại thì anh đã thể hiện một cách nhất quán những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc của Đảng một cách sinh động, triệt để. Nói anh Kiệt là con người thực tiễn, bởi vì cả cuộc đời anh đã luôn gắn bó với dân, gắn bó với phong trào. Anh đã kinh qua nhiều lĩnh vực công tác: công tác đảng, đoàn thể, chính quyền, công tác ở quân đội... Chính vì qua những môi trường công tác từng trải như vậy đã tích lũy cho anh những kinh nghiệm, những sáng tạo trong công việc của mình. Tuy không có điều kiện được học tập và tốt nghiệp ở các nhà trường, nhưng anh Kiệt cũng là một người chịu khó học tập từ thực tiễn. Đặc biệt là anh biết khai thác trí tuệ ở trong dân, trong cán bộ, trong các giới khoa học - kỹ thuật... từ đó mà nảy sinh ra những suy nghĩ chín chắn, đưa đến những quyết định chính xác. Anh Kiệt là con người năng động, luôn luôn suy nghĩ, tìm tòi và làm việc hết sức mình. Có thể nói: anh Kiệt là người dám nghĩ, dám quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám tự phê bình. Điều này thể hiện ở chỗ: Khi làm Thủ tướng, anh đã chỉ đạo hình thành các tổng công ty mạnh, thể hiện quan điểm kinh tế nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo, hoặc cho các đơn vị quân đội làm kinh tế kết hợp với quốc phòng (như Binh đoàn 15...). - Vấn đề cấm đốt pháo, anh là người đề xuất ý kiến và chỉ đạo thực hiện. - Vấn đề xây dựng đường dây tải điện Bắc - Nam (500kV), khi tôi lên thăm Nhà máy thủy điện Hòa Bình, lúc bấy giờ nhà máy đã lắp được 4/8 tổ máy mà chỉ mới tải điện được 3 tổ máy. Trong lúc đó 28 miền Trung và miền Nam đang thiếu điện. Tôi nhắc và bàn với anh Kiệt tập trung sức xây dựng đường dây 500kV đã có trong tổng sơ đồ mạng lưới điện quốc gia, thì anh là người đứng ra tổ chức triển khai và quyết tâm làm, mặc dù lúc đó vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Anh dám chịu trách nhiệm trước công việc mới mẻ này. - Vấn đề khai thác vùng Đồng Tháp Mười cũng thể hiện ở chỗ anh là người đã từng lăn lộn với thực tế, thấu hiểu được lòng dân. Khi đã thấy đây là vấn đề hữu ích là anh dám làm và làm một cách quyết liệt. Trong sinh hoạt Chính phủ hay sinh hoạt Bộ Chính trị, anh là người thẳng thắn, dám đấu tranh phê bình và dám tự phê bình. Thời kỳ sau Đại hội VI trở đi là thời kỳ triển khai công cuộc đổi mới rất mạnh, mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế. Có một việc lớn ở thời kỳ này là chống lạm phát. Ta đang đứng trước một thực trạng rất khó khăn là kinh tế kiệt quệ, cung không đủ cầu, tiền nhiều, hàng ít, lạm phát đến 774%, khủng hoảng nghiêm trọng, cũng là lúc Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, cắt hoàn toàn viện trợ, với Trung Quốc thì chưa bình thường hóa, Mỹ thì bao vây cấm vận! Bây giờ giải quyết thế nào? Lúc đó có nhiều ý kiến. IMF họ nói phải có ba tỷ đôla mới giải quyết được lạm phát. Ba tỷ đôla lúc bấy giờ lấy đâu ra! Lúc đó tôi là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, anh Kiệt là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách kế hoạch. Tôi có bàn với anh Kiệt về biện pháp chống lạm phát và anh Kiệt cũng đồng ý với tôi chỉ có biện pháp duy nhất là phát huy nội lực, dựa vào dân, động viên nhân dân bằng lợi ích để tạo ra những tiềm năng mới và đó cũng là tư tưởng của Bác Hồ: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Chúng tôi đặt ra mấy vấn đề và báo cáo Bộ Chính trị: Trước hết là, đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm. Về nông nghiệp, đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế khoán hộ. Thế là sản xuất bung ra, ta giải quyết được căn bản vấn đề lương thực. 29 Hai là, khai thác mọi nguồn hàng trong nước và ngoài nước. Lúc bấy giờ ai ra nước ngoài thì khuyến khích mang hàng về. Nhà nước không đánh thuế. Vì thế chỉ trong một thời gian ngắn dân mình mang hàng về rất nhiều. Sau một năm tình hình hàng tiêu dùng đã đỡ căng thẳng. Ba là, thu hút tiền nhiều ở trong dân. Chúng tôi chủ trương nâng lãi suất tiết kiệm từ 3% lên 9% ngang với mức giá của hàng hóa. Nếu ai gửi ba tháng thì thêm 3% nữa là 12%. Vậy là dân yên tâm và gửi tiền vào ngân hàng rất nhiều. Như vậy hàng thiếu thì dân chạy hàng, tiền của dân nhiều thì dân gửi vào Nhà nước. Còn Đảng và Nhà nước thì bảo đảm lợi ích cho dân: quy định nghiêm ngặt ngân hàng chỉ được nhận tiền gửi mà cho vay, tài chính chỉ thu mà chi, không được in thêm tiền... Và thế là từ chỗ lạm phát 774% giảm xuống chỉ còn mấy chục phần trăm. Tình hình thế giới và trong nước vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX có nhiều sự kiện quan trọng và diễn biến phức tạp. Có những sự kiện nổi bật và quan trọng như việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, việc ta tham gia ASEAN, vấn đề bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ... Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc được tiến hành từng bước, nhất là sau Hội nghị cấp cao ở Thành Đô trở đi. Đặc biệt, từ ngày 5 đến 10/11/1991, tôi và anh Võ Văn Kiệt dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Chính phủ Việt Nam thăm chính thức Trung Quốc. Hai bên ra Thông cáo chung đánh dấu quan hệ hai Đảng, hai nước Việt Nam và Trung Quốc được bình thường hóa toàn diện. Chuyến thăm có ý nghĩa to lớn đối với quan hệ Việt - Trung. Cuộc gặp này có đặt ra nhiều vấn đề trong đó có vấn đề giải quyết biên giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ, vấn đề hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... 30 Về việc ta gia nhập ASEAN. Khó khăn và thách thức đối với Việt Nam lúc này càng trở nên to lớn hơn khi Liên Xô và Đông Âu tan vỡ, Việt Nam mất chỗ dựa về cả an ninh, quân sự, ngoại giao, kinh tế... mất nguồn viện trợ chủ yếu. Lợi ích của Việt Nam lúc này là hòa bình, ổn định và phát triển. Do đó chúng ta phải tìm mọi cách phá thế bao vây cô lập, mở rộng quan hệ bạn bè. Vì vậy, chính sách khu vực mà trước hết là chính sách đối với tổ chức ASEAN sẽ khai thông và bắc cầu cho việc mở rộng quan hệ đối ngoại, phục vụ cho nhiệm vụ đối ngoại; là tạo dựng môi trường quốc tế hòa bình, ổn định, tận dụng mọi điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước. Hơn nữa, việc “thêm bạn bớt thù”, Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện tốt hơn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, có thể nói ta tham gia ASEAN có tầm quan trọng chiến lược trong chính sách khu vực của Việt Nam. Đó là một quyết sách chiến lược kịp thời và đúng đắn của Bộ Chính trị. Trong quá trình ta tham gia ASEAN, vai trò của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có nhiều đóng góp quan trọng. Anh đã thay mặt Chính phủ đi dự nhiều cuộc họp các nguyên thủ trong khối ASEAN, tiếp nhiều đoàn khách quốc tế trong khu vực và thế giới. Về quan hệ Việt - Mỹ. Trong suốt quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bàn luận nhiều lần. Cá nhân tôi và anh Kiệt đã trực tiếp chỉ đạo cả về những mục tiêu và phương châm chiến lược lớn cũng như trong việc xử lý các vấn đề cụ thể với Mỹ (như vấn đề MIA, Campuchia, tài sản, lập cơ quan liên lạc, trao đổi đại sứ...) và trực tiếp gửi đến Chính phủ và nhân dân Mỹ nhiều thông điệp hết sức quan trọng liên quan đến thiện chí và chính sách đối ngoại của ta. Bộ Ngoại giao đã phối hợp với nhiều bộ, ngành và các địa phương trên cả nước triển khai thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng và Nhà nước, buộc Mỹ bình thường hóa với ta, góp phần quan 31 trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Có thể nói trong quá trình công tác, tôi và anh Kiệt phối hợp công việc với nhau rất chặt chẽ; kể từ khi tôi công tác bên Chính phủ cũng như khi tôi về bên Đảng làm Tổng Bí thư, chúng tôi thường xuyên trao đổi với nhau, có khi đang đêm cũng gọi điện cho nhau, có khi gặp nhau tại sân bóng... Anh Kiệt quả là một vị Thủ tướng giàu thực tiễn, có tài năng, một nhà hoạt động chính trị tầm cỡ của Đảng và Nhà nước được nhân dân trong nước và thế giới ca ngợi. 32 Thủ tướng Võ Văn Kiệt cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước dự lễ kỷ niệm Quốc khánh 2/9/1995 33 Đồng chí Võ Văn Kiệt cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước nâng cốc chúc mừng năm mới 34 Đồng chí Võ Văn Kiệt với Tổng Bí thư Đỗ Mười Đồng chí Võ Văn Kiệt với Đại tướng Võ Nguyên Giáp 35 Đồng chí Võ Văn Kiệt với các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Thủ tướng Võ Văn Kiệt với các thành viên Chính phủ 36 Đồng chí Võ Văn Kiệt với đồng chí Nguyễn Minh Triết Đồng chí Võ Văn Kiệt với các đồng chí Phan Văn Khải, Phạm Gia Khiêm 37 Đồng chí Võ Văn Kiệt với đồng chí Nguyễn Tấn Dũng 38 Đồng chí Võ Văn Kiệt tiếp Hòa thượng Thích Trí Tịnh Đồng chí Võ Văn Kiệt tiếp Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình tại Thành phố Hồ Chí Minh 39 Đồng chí Võ Văn Kiệt chuyện trò thân mật với Anh hùng Núp Đồng chí Võ Văn Kiệt với Anh hùng Lao động Trần Văn Dương (Cần Thơ) 40 Đồng chí Võ Văn Kiệt thăm gia đình Giáo sư Hoàng Xuân Hãn tại Pháp Đồng chí Võ Văn Kiệt với Nghệ sĩ nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh 41 Đồng chí Võ Văn Kiệt thăm Họa sĩ quân đội Lê Duy Ứng Đồng chí Võ Văn Kiệt thăm Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 42 Đồng chí Võ Văn Kiệt và Nghệ sĩ pianô Đặng Thái Sơn Đồng chí Võ Văn Kiệt và nghệ sĩ Thúy Cải - Đoàn dân ca quan họ Bắc Ninh 43 Đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Thủ tướng Chính phủ cùng lãnh đạo các tỉnh, thành phố khu vực miền Đông Nam Bộ thăm di tích căn cứ Khu ủy miền Đông tại chiến khu Đ (8/2001) 44 ANH VÕ VĂN KIỆT - CON NGƯỜI CỦA Ý CHÍ VÀ HÀNH ĐỘNG Đại tướng LÊ ĐỨC ANH* Trong cuộc đời làm cách mạng, bạn bè, đồng chí thì nhiều, nhưng với anh Võ Văn Kiệt, điều tôi tâm đắc nhất là ý chí và hành động cách mạng của anh luôn gắn với nhau. Đó là đặc điểm lớn nhất của anh. Với anh, lời nói và việc làm luôn đi đôi với nhau và biến thành hành động quyết liệt. Dù ở bất cứ hoàn cảnh nào anh cũng vượt qua mọi khó khăn, vượt qua mọi gian nan trở ngại để hoàn thành bằng được nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Chính ý chí và hành động cách mạng của anh có sức lôi cuốn, chinh phục lòng người, đoàn kết, động viên được mọi lực lượng chiến đấu, lao động quên mình trong sự nghiệp giải phóng đất nước và xây dựng Tổ quốc.1 Cuối năm 1963, tôi trở về chiến trường Nam Bộ - nơi đã gắn bó tử sinh cả tuổi thanh xuân của tôi cùng với đồng bào, đồng chí chiến đấu trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi được Trung ương cử vào Bộ Chỉ huy Miền (lúc đó gọi mật danh là B2) đảm trách Tham mưu trưởng. Đầu năm 1964, khi làm kế hoạch quân sự, tôi có làm việc với anh Kiệt, lúc đó làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Định. Tôi thấy anh Kiệt có đầu óc độc lập suy nghĩ. Cái quý nhất trong lãnh đạo cách mạng * Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 45 lúc bấy giờ được anh chủ động đề ra là phải xây dựng được lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang trong nội thành Sài Gòn - Gia Định. Vũ trang là xây dựng đội biệt động giữa Sài Gòn, nhất thiết phải lấy người tại chỗ, tức là người ở ngay trong lòng đô thị. Đây là việc khó, nhưng anh Kiệt đã chỉ đạo làm và quyết tâm làm đến cùng. Những đội biệt động Sài Gòn được thành lập và trở thành một lực lượng vũ trang đặc biệt nằm ngay trong sào huyệt của địch. Việc xây dựng lực lượng chính trị, anh đề nghị với Trung ương Cục điều các đồng chí trưởng ngành về Sài Gòn hoạt động. Anh theo sát các đồng chí này và trực tiếp chỉ đạo để xây dựng lực lượng chính trị. Chị Hai phụ trách phụ nữ Miền lúc bấy giờ cũng vào nội thành để chỉ đạo hoạt động cách mạng ngay trong lòng địch. Khi đã có chủ trương của Đảng, anh thường có nhiều sáng kiến về tổ chức thực hiện và làm cho bằng được. Có người còn do dự, còn cho là khó khăn, nhưng anh luôn sẵn sàng và dứt khoát. Chủ trương đúng là làm, dù có cái được cái mất. Nhưng do ý chí và quyết tâm của anh rất cao, nên bao giờ cái được cũng nhiều hơn, lớn hơn. Lúc chị Hai phụ trách phụ nữ Miền bị hy sinh và nhiều tổn thất khác trong nội thành, nhưng anh vẫn kiên trì động viên anh em xây dựng lực lượng chính trị trong thanh niên, phụ nữ, công đoàn, người Hoa ở Sài Gòn. Anh luôn sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn trở ngại và cả đau thương mất mát của bản thân mình. Trong lúc hàng ngàn đồng bào ta bị giết hại trong đó có vợ và những người con yêu quý của mình, song anh vẫn hăng hái và sẵn sàng vượt qua nỗi đau để phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Do làm tốt được việc xây dựng lực lượng, nên khi Mỹ chuyển sang chiến lược chiến tranh cục bộ, thì ta đã có sẵn lực lượng trên cả ba vùng, góp phần đánh bại mọi ý đồ của địch. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, chủ yếu là lực lượng tại chỗ đương đầu. Lực lượng biệt động Sài Gòn đã tham gia đánh nhiều trận vang dội đến cả nước Mỹ và thế giới, làm cho phong trào chống chiến tranh ở Mỹ nổi lên mạnh mẽ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy 46 Tết Mậu Thân 1968 đã đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ, buộc Mỹ phải chuyển sang chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Người nhận thức sớm được sự chuyển hóa này là anh Kiệt. Anh đã kịp thời chỉ đạo cách mạng phải bám vào vùng đông dân mà hoạt động. Khi Mỹ - ngụy gom dân lập ấp chiến lược, anh đã chỉ đạo phải bám dân, nắm cho được dân mà đánh địch và xây dựng lực lượng cách mạng. Đến cuối năm 1968, đầu năm 1969, cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách vô cùng nghiêm trọng. Tình hình Quân khu 9 lúc này rất khó khăn, phức tạp. Ý chí và hành động của anh Kiệt lại một lần nữa thể hiện ở chiến trường ác liệt này. Đầu năm 1969, tôi được cấp trên giao nhiệm vụ làm Tư lệnh Quân khu 9 thay anh Đồng Văn Cống. Cuối năm 1970, trên điều anh Kiệt xuống Quân khu 9 thay anh Ba Bường làm Bí thư Khu ủy. Tôi có tên bí danh là “Chín Hòa”, anh Kiệt có tên là “Tám Thuận”, khi ráp tên tôi là Hòa với tên mới của anh Kiệt là Thuận thành cặp “Hòa - Thuận” - một sự trùng hợp ngẫu nhiên như có lương duyên suốt quá trình công tác với nhau. Trước tình hình khó khăn của Quân khu 9, anh Kiệt và tôi sát cánh cùng Thường vụ Khu ủy lãnh đạo Quân khu vượt qua khó khăn, khôi phục lại thế và lực, tạo nên sự chuyển biến mới. Từ chỗ bị địch lấn chiếm gần hết đất, hết dân (còn khoảng 2.000 dân), hoàn toàn nằm trong thế bị động chống đỡ địch đánh phá, Quân khu 9 đã gượng dậy và chuyển dần sang chủ động tiến công địch, đánh bại bước đầu chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ - ngụy. Ngày 28/1/1973, Hiệp định Pari có hiệu lực, theo quy định hai bên ngừng bắn tại chỗ. Anh Kiệt thống nhất với Bộ Tư lệnh Quân khu đánh giá tình hình: “Địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh” và chỉ thị cho các đơn vị kiên quyết đánh địch vi phạm Hiệp định. Đúng như dự kiến của Bộ Tư lệnh Quân khu, Nguyễn Văn Thiệu ngoan cố không thi hành Hiệp định Pari và ra lệnh cho Quân đoàn 4 ngụy tiếp tục bình định lấn chiếm. Chúng tập trung nhiều tiểu đoàn quyết giữ Chương Thiện làm bàn đạp để mở rộng, tái bình định các vùng đã mất. Lúc này, Thường vụ Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Miền lệnh 47 cho Quân khu 9 giảm bớt căng thẳng với địch, rút một trung đoàn ngăn chặn tuyến trước về phía sau và các lệnh (từ điện 03, 04, 07) không chỉ cho Quân khu mà trực tiếp xuống các tỉnh đội và tỉnh ủy. Trước tình hình khó khăn nổi cộm phải xử lý, anh Kiệt đã nhất trí với tôi một mặt quyết đánh ghìm giữ địch ở Chương Thiện, không rút trung đoàn ở tuyến trước về. Đồng thời, chúng tôi cho triệu tập ngay cán bộ lãnh đạo và chỉ huy các tỉnh đội từ phía nam sông Hậu, thông báo và lệnh cho các tỉnh tiếp tục thực hiện chủ trương của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 9, chờ lệnh mới. Tôi và anh Kiệt chủ trì phiên họp hỏa tốc với các tỉnh, thông báo tình hình, nêu rõ chủ trương của Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu. Hội nghị đã kết thúc, tất cả đều nhất trí cao với hai yêu cầu về trách nhiệm: Một là, mệnh lệnh trên hết lúc này trong toàn Quân khu là kiên quyết phá bằng được âm mưu phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ - Thiệu, không được để mất đất, mất dân, không có bất cứ mệnh lệnh nào cao hơn. Hai là, Khu ủy và Quân khu chịu trách nhiệm trước cấp trên, các tỉnh phải chấp hành nghiêm mệnh lệnh của Quân khu, của tư lệnh chiến trường. Sau hội nghị, anh Kiệt xúc động nói với tôi: trong tình hình nước sôi lửa bỏng mà ý kiến trên dưới lại thống nhất cao và nhanh như vậy, điều đó chứng tỏ là những cán bộ phụ trách của các địa phương sâu sát với hơi thở cuộc sống của quân và dân ở chiến trường, đặc biệt ý chí và lòng tin của họ đối với chỉ huy quân khu. Anh Kiệt đã cùng Khu ủy và chỉ huy Quân khu lãnh đạo quân và dân Quân khu 9 lần lượt đánh bại 75 tiểu đoàn địch1; đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm miền Tây Nam Bộ, đặc biệt 1. Số tiểu đoàn địch bị đánh bại các tài liệu ghi không giống nhau. Có tài liệu ghi hơn 70 tiểu đoàn, có tài liệu ghi 90 tiểu đoàn (B.T). 48 là địa bàn Chương Thiện. Nhờ vậy Quân khu đã vượt qua được thử thách lớn và được đánh giá công bằng từ Trung ương Cục, Quân ủy Miền và Trung ương Đảng. Cuối năm 1973, tôi lại trở về Bộ Chỉ huy Miền và anh Kiệt được rút về Trung ương Cục. Tháng 10/1974, Trung ương Cục nhận được điện của Bộ Chính trị gọi hai anh Phạm Hùng (Bí thư Trung ương Cục) và anh Trần Văn Trà (Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền) ra Hà Nội họp. Trước khi đi, Trung ương Cục giao cho anh Kiệt thường trực bên Trung ương Cục và giao cho tôi thay vị trí chỉ huy của anh Trà. Anh Kiệt cùng chúng tôi lãnh đạo, chỉ huy các lực lượng B2 bước vào cuộc chiến đấu mùa khô theo kế hoạch. Lực lượng B2 đã đánh thắng địch ở Đồng Xoài - đường 14 - Phước Long. Chiến thắng Đồng Xoài - đường 14 - Phước Long có ý nghĩa là “trận trinh sát chiến lược” thăm dò khả năng quân ngụy và sự can thiệp của Mỹ, làm sáng tỏ hơn những cơ sở để Bộ Chính trị hạ quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Sau khi đánh được Phước Long, chúng tôi lại bắt tay vào xây dựng kế hoạch tiến công giải phóng Sài Gòn. Để thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị về kết hợp đòn tiến công quân sự với phong trào nổi dậy của quần chúng, Trung ương Cục cử anh Võ Văn Kiệt chuyên lo vấn đề tổ chức và chỉ đạo kế hoạch nổi dậy của quần chúng phối hợp với cuộc tiến công của các binh đoàn chủ lực ta vào thành phố. Rồi chúng tôi cùng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, với chiến thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Kết thúc giai đoạn quân quản, anh Kiệt được phân công làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng Thành phố Sài Gòn. Tháng 5/1978, tôi làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7. Giai đoạn này, chúng tôi lại hợp tác với nhau giải quyết các vấn đề an ninh và bảo vệ Thành phố Hồ Chí Minh, bảo vệ biên giới Tây Nam... Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, chúng tôi cùng được phân công giữ những trọng trách của đất nước: Anh Võ Văn Kiệt 49 làm Thủ tướng Chính phủ, tôi giữ cương vị Chủ tịch nước. Chúng tôi lại cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu, vận dụng vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Ý chí và nhiệt huyết sống của anh Kiệt chuyển hóa thành hành động: “Mọi chủ trương và việc làm đều vì nước phồn vinh, mọi tầng lớp nhân dân được sung sướng”. Quan niệm ở anh, phồn vinh là hạnh phúc của nhân dân không chỉ là lý thuyết, mà phải là hiện thực trong cuộc sống. Độc lập, tự do, thống nhất là tư tưởng xuyên xuốt trong lãnh đạo, điều hành đất nước của anh. Điều này thể hiện rõ nhất là khi làm Thủ tướng, anh đã chỉ đạo hình thành các tổng công ty mạnh, thể hiện quan điểm kinh tế nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo, hoặc cho các đơn vị quân đội làm kinh tế kết hợp với quốc phòng. Các công trình lớn mang dấu ấn của anh: Công trình đường dây tải điện 500kV Bắc - Nam là một trong những công trình trọng điểm và lớn nhất quốc gia ở những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Nó biểu hiện tầm nhìn chiến lược, quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước... Về ý nghĩa, tôi cho rằng xây dựng đường dây tải điện 500kV xuyên Việt “là một cuộc đột phá chiến lược về kinh tế và công cuộc điện khí hóa toàn quốc”. Khu đại công nghiệp Dung Quất và Nhà máy lọc dầu Dung Quất ở Quảng Ngãi đã tạo điều kiện cho miền Trung phát triển kinh tế, từng bước tiến lên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Công trình ngọt hóa đồng bằng sông Cửu Long để đồng bằng sông Cửu Long là một vựa lúa lớn của nước ta ngày nay, chúng ta không quên chủ trương quyết liệt và cách làm sáng tạo của anh. Rồi công trình Đường Hồ Chí Minh, v.v.. Với vai trò Thủ tướng Chính phủ, trong bối cảnh kinh tế - xã hội khá phức tạp, khó khăn chồng chất, anh Kiệt đã cùng với tập thể lãnh đạo của Đảng và Nhà nước có những đóng góp quan trọng trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới đất nước. Anh Kiệt luôn sống chan hòa và có tấm lòng nhân hậu, bao dung với tất cả mọi người. Với tôi, nhiệt huyết sống và sự mẫu mực 50 trong tình cảm của anh luôn đi suốt cuộc đời tôi. Tôi còn học ở anh đức tính của con người chỉ biết làm việc phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Sau này, khi đã thôi nhiệm, anh vẫn lo toan cho sự nghiệp đất nước, góp ý cho Đảng, Chính phủ về những việc ích nước lợi dân. Với ý chí và trách nhiệm chính trị của người cộng sản, việc gì có lợi cho dân, cho nước là anh sẵn sàng xông vào, xông vào ngay cả trong những ngày cuối đời... Anh ra đi trong lúc nhiều việc làm đang còn dang dở, ngay cả việc đối phó với mực nước biển dâng, lo cho đời sống người nghèo trong thời hội nhập. Anh Võ Văn Kiệt mất đi là một tổn thất đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Nhận xét đó của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là hoàn toàn đúng đắn. 8 giờ sáng ngày 11/6/2008, tôi nghe tin anh Kiệt đã mất. Tin buồn đến đột ngột quá. Tôi thật sự bàng hoàng, vì trước đó hơn một tháng, anh còn lặn lội về những vùng sâu bên bờ sông Hậu tìm giải pháp mới. Bàng hoàng vì từ nay, tôi mãi mãi mất đi một người bạn, người đồng chí luôn sát cánh bên nhau trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Tôi mãi mãi không quên anh, người bạn chiến đấu thân thiết, kính trọng của tôi. 51 “DẤU ẤN VÕ VĂN KIỆT” TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ NHÂN DÂN TA TRẦN ĐỨC LƯƠNG* Tôi có may mắn được là người cộng sự, người giúp việc gần gũi với Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong suốt 10 năm đầu của thời kỳ đổi mới. Trong 5 năm 1987-1992, đồng chí Võ Văn Kiệt đảm nhiệm trọng trách Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng, còn tôi được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng phụ trách công nghiệp. Trong 5 năm tiếp theo (1992-1997) đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu giữ chức Thủ tướng Chính phủ, còn tôi được bầu làm Phó Thủ tướng, phụ trách các ngành kinh tế - kỹ thuật bao gồm nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và bưu chính viễn thông.1 Nhờ quan hệ công tác gần gũi đó, những dấu ấn về đồng chí Võ Văn Kiệt đã hình thành và đọng lại sống động mãi trong tôi. Đó là dấu ấn về các cống hiến to lớn của đồng chí Võ Văn Kiệt cho sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; những dấu ấn về phong cách và bản lĩnh của một nhà lãnh đạo Chính phủ tài ba trong một thời kỳ đầy biến động và thử thách. * Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 52 Trước hết, nói về cống hiến của đồng chí Võ Văn Kiệt cho sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ngày nay, nhân dân ta và cộng đồng quốc tế đều biết rõ rằng “đổi mới” là một sự kiện, một quá trình bắt đầu từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là dấu mốc lịch sử của đất nước và dân tộc Việt Nam, một bước ngoặt của cách mạng Việt Nam mang tầm vóc thời đại. Nhờ đổi mới, đất nước ta đã có thể vươn mình thoát ra khỏi nghèo nàn lạc hậu, ngày nay đã vượt ngưỡng nước chậm phát triển có thu nhập thấp, đang vững bước thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để sớm trở thành một nước công nghiệp trong tương lai không xa. Nhớ lại những ngày đầu đổi mới, khi đó đất nước ta ở vào tình trạng thật hiểm nghèo. Đó là nạn lạm phát phi mã (đến trên 700%/năm); nạn thiếu đói khá nghiêm trọng (đất nước đã phải nhập khẩu lương thực và nhận viện trợ nhân đạo chống đói); sự bất ổn định nặng nề trong đời sống chính trị - xã hội; là tình trạng bị cô lập, bị bao vây cấm vận nghiệt ngã do đế quốc Mỹ chủ xướng; là quan hệ gián đoạn căng thẳng với Trung Quốc; là tác động cực kỳ bất lợi từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Nhiệm vụ của 10 năm đầu đổi mới là phải bằng chính nội lực của đất nước và nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thử thách hiểm nghèo đó, đưa đất nước ta vào thế ổn định, tạo dựng bàn đạp và đà tăng trưởng phát triển cho các bước tiếp theo: thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhiệm vụ đó đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện thật xuất sắc. Những thành tựu vĩ đại và to lớn đó bắt nguồn từ lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường của cả dân tộc, là tinh thần lao động miệt mài, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã đảm nhiệm xuất sắc sứ mạng lãnh đạo cả dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt 80 năm qua. Đương nhiên, sức mạnh to lớn của 53 toàn Đảng, toàn dân tộc sẽ không phát huy được nếu thiếu vắng vai trò dẫn dắt của cơ quan đầu não. Trong thiết chế lãnh đạo đất nước ta, đầu não đó là tập thể Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cô đọng hơn nữa là bộ phận chủ chốt của Bộ Chính trị, đó là một “lãnh tụ tập thể”. Đồng chí Võ Văn Kiệt là Ủy viên Bộ Chính trị trong nhiều khóa, trước và sau Đại hội VI, đã từng kinh qua các trọng trách là Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, là người đã trải qua nhiều trăn trở trước những khó khăn, trì trệ và những trải nghiệm trước đổi mới. Trong nhiều vấn đề, đồng chí Võ Văn Kiệt luôn đứng về phía đòi hỏi có sự cách tân, cải tiến, chống bảo thủ, trì trệ. Sau Đại hội VI, với trọng trách là Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng và tiếp đó là Thủ tướng Chính phủ, đồng chí là người có những đóng góp to lớn cho việc cụ thể hóa đường lối của Đảng, đưa đường lối vào cuộc sống. Đã có lúc tôi tự đặt ra câu hỏi giả định: nếu trong 10 năm đầu đổi mới, đường lối đổi mới của Đảng không đi vào được cuộc sống, không thành công thì điều gì sẽ xảy ra ở nước ta? Từ đó tôi cho rằng khi nói về thành công của sự nghiệp đổi mới, cần dành cho 10 năm đầu một sự đánh giá đặc biệt. Trong nhận thức của tôi, đồng chí Võ Văn Kiệt là một nhân tố tích cực trong bộ phận đầu não của Đảng và Nhà nước ta, đã có công lao to lớn trong việc góp phần hoạch định đường lối đổi mới cũng như đưa đường lối đó vào cuộc sống, nhất là trong 10 năm đầu đổi mới. Đóng góp xuất sắc của đồng chí cần được ghi công trong bảng vàng danh dự của Đảng và Nhà nước ta. Đồng chí đã để lại trong tôi và trong đồng chí, đồng bào cả nước tấm gương sáng về “phong cách” và “bản lĩnh” của một đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, một “phong cách” và “bản lĩnh” rất Võ Văn Kiệt. Nói về phong cách, tôi muốn nhấn mạnh hai điều: Một là, đồng chí có một lòng tin vững chắc vào sức sống, sức sáng tạo và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trước mọi thử thách của lịch sử. Trên cơ sở đó, 54 đồng chí rất coi trọng việc đi sát thực tế ở các địa phương, cơ sở và đời sống của nhân dân, coi tinh thần cơ bản của đổi mới là phát động một phong trào dân chủ hóa mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, lắng nghe và tiếp thu từ thực tiễn những giải pháp, quyết sách để tháo gỡ các khó khăn tưởng như bế tắc của đất nước, đồng thời kiến tạo thế phát triển lâu dài cho từng địa phương, từng vùng lãnh thổ, cho các ngành kinh tế - kỹ thuật trên phạm vi cả nước. Hai là, đồng chí biết cách tổ chức, lôi cuốn cả tập thể Chính phủ và hệ thống chính quyền cả nước, đề cao trách nhiệm của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, tấn công vào lề lối làm việc quan liêu, xa thực tiễn, xa dân vốn là căn bệnh khá nặng nề trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Trong nhiệm kỳ 1992-1997 do đồng chí làm Thủ tướng, số bộ và các cơ quan ngang bộ trực thuộc Chính phủ đã từ 36 rút xuống còn 27; số phó thủ tướng từ 10 người đã rút xuống còn 3 người. Đồng chí là người sớm mở đầu cho cả quá trình cải cách hành chính ở nước ta. Tôi nhớ lại không khí làm việc khẩn trương, sôi nổi trong những ngày đầu đổi mới. Khi đó, thay vì việc hội họp liên miên để thảo luận, cân đối kế hoạch nhà nước với hệ thống đồ sộ các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, các chỉ tiêu pháp lệnh chi phối mọi yếu tố của sản xuất, lưu thông phân phối, tiêu dùng của cả xã hội, thì thủ tướng, các phó thủ tướng, các thành viên Chính phủ thực hiện một chương trình dày đặc các chuyến đi công tác về với các địa phương, cơ sở, các tổ chức kinh tế - kỹ thuật nhằm góp phần tháo gỡ những khó khăn ách tắc, đồng thời rút ra từ thực tiễn những kết luận cần thiết cho việc thể chế hóa, hiện thực hóa đường lối, chủ trương của Đảng. Đây là một nhiệm vụ nặng nề của Hội đồng Bộ trưởng và Chính phủ trong những năm đầu đổi mới. Ngày nay chúng ta có được hệ thống luật pháp đồ sộ được Quốc hội thông qua và ban hành bao trùm mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhưng ngày đó, việc cấp bách trước mắt của Chính phủ là ban hành hệ thống các văn bản pháp quy dưới các hình thức nghị định và quyết định làm nền tảng cho việc cấu trúc lại toàn bộ nền kinh tế quốc dân từ cơ chế cũ sang cơ 55 chế mới được diễn ra nhanh chóng, tích cực song cũng tránh đổ vỡ lớn. Đó là một quá trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Nếu có ai dành thời gian nghiên cứu, hệ thống hóa các văn bản pháp quy và luật pháp nước ta từ đầu đổi mới đến nay thì sẽ thấy rất rõ tính kế thừa và nâng cao không ngừng của luật pháp, chính sách của đất nước, thấy được những nội dung cơ bản của chính sách đã được bắt đầu định hình từ những nghị định, quyết định của Chính phủ trong 10 năm đầu đổi mới. Cũng nói về phong cách, tôi nhớ lại quyết định mang dấu ấn của đồng chí Võ Văn Kiệt về chế độ làm việc “ba ca” của Thường trực Chính phủ. Bên cạnh thời gian làm việc ngày hai buổi như thường lệ, đồng chí kiến tạo thêm “ca sáng sớm” (kết hợp với buổi ăn sáng). Đó là “ca” làm việc độc đáo, có hiệu quả, hiệu lực rất cao. Buổi làm việc này là dịp để Thủ tướng bàn hẹp với từng phó thủ tướng, các bộ trưởng chuyên ngành có liên quan và trong không ít trường hợp có sự tham dự của các chuyên gia chủ chốt am hiểu từng lĩnh vực. Đó là những buổi làm việc với không khí cởi mở, thẳng thắn, đầy tình đồng chí và cũng đầy tinh thần trách nhiệm. Tôi được biết, thông lệ này đã được các đồng chí lãnh đạo Chính phủ các nhiệm kỳ tiếp theo duy trì cho đến nay. Về bản lĩnh, tôi luôn khâm phục đồng chí ở tính quyết đoán, tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm. Người chỉ huy, người đứng đầu Chính phủ luôn phải đứng trước hai loại áp lực: áp lực từ phía dư luận xã hội khi mà một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng xã hội vì những lý do khác nhau chưa đồng tình với các chủ trương, chính sách; áp lực từ trong nội bộ nhất là ở lãnh đạo cấp cao, mỗi khi các chủ trương, chính sách cụ thể đòi hỏi được cân nhắc, phản biện giữa hai khả năng: đúng hay sai, thành hay bại. Việc quyết định xây dựng đường dây tải điện (500kV) Bắc - Nam là sự việc có tính tiêu biểu. Khi đó, đất nước ta gặp khó khăn lớn về điện lực, nhất là ở Nam Bộ và Trung Bộ. Ngay Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn nhất nước ta lúc đó chỉ dựa vào Nhà máy 56 nhiệt điện Thủ Đức công suất khá nhỏ, do đó thành phố đã phải luân phiên cắt điện hai đến bốn ngày mỗi tuần. Trong khi đó ở phía Bắc, nhờ có các tổ máy của Nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt phát điện đã có được năng lực dư thừa. Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xây dựng đường dây tải điện (500kV) Bắc - Nam, khẩn trương xây dựng trong vòng hai năm (1992-1994). Ngày nay (chúng ta đã xây dựng thêm mạch tải điện thứ hai; việc chuyển tải điện không chỉ theo chiều Bắc vào Nam mà còn ngược lại) ai cũng thấy rõ vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống đường tải điện cao áp này. Công trình đã trở thành một trong những biểu tượng của đổi mới; thể hiện ý chí cách mạng của giai cấp công nhân nước ta, được sự ủng hộ sôi nổi của đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương có đường tải điện đi qua. Công trình không chỉ đáp ứng yêu cầu cấp bách lúc bấy giờ mà còn trở thành xương sống của lưới điện quốc gia, giúp cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện được về cơ bản chương trình điện khí hóa toàn quốc. Tuy vậy, vào thời điểm lúc bấy giờ, quyết định này đã gây nên không ít ý kiến nghi ngờ, phê phán, coi đó là một quyết định duy ý chí, phiêu lưu mạo hiểm, gây lãng phí lớn, thậm chí gây hiểm họa (!). Dư luận khá ồn ào cả trong và ngoài nước được phản ảnh trên dư luận thông tin, báo chí, ở một số diễn đàn kể cả diễn đàn Quốc hội, tác động đến cả một số đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Trước tình hình đó, đồng chí Võ Văn Kiệt với tư cách là Thủ tướng Chính phủ đã công khai bảo vệ, nhận trách nhiệm về công trình và trực tiếp chỉ đạo xây dựng và công trình thành công mỹ mãn. Việc xây dựng hệ thống hạ tầng thủy nông, giao thông, đê bao, cống điều tiết nước, tôn tạo các cụm và tuyến dân cư ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở hai vùng ngập sâu Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, là hệ thống công trình cực kỳ quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long được đồng chí Võ Văn Kiệt đặc biệt quan tâm và trực tiếp chỉ đạo. Nhờ được xây dựng nhanh và quyết liệt, ngày nay đồng bằng sông Cửu Long đã thực sự trở thành 57 vựa lúa lớn không chỉ của Việt Nam mà còn mang tầm vóc thế giới. Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đến nay đã đạt đến 6 triệu tấn/năm, trong đó có đến 80-90% là của đồng bằng sông Cửu Long. Hàng chục vạn nông dân ở các vùng ngập lũ nhiều tháng trong năm đã có thể ổn định cuộc sống ở các cụm, tuyến dân cư được tôn tạo; thay khẩu hiệu “chạy tránh lũ” bằng khẩu hiệu “sống chung với lũ”. Chủ trương này đương nhiên được cán bộ, công nhân ngành thủy lợi, nông nghiệp và đảng bộ, chính quyền, nhân dân địa phương sở tại đồng tình cao và dồn tâm sức thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai, xuất hiện không ít ý kiến phản biện, nhất là trong giới nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường. Loại ý kiến này cho rằng xây dựng các công trình này là sự vi phạm quy luật tự nhiên, tác động xấu đến môi trường, lợi không bù hại. Đương nhiên, luận điểm này phải được quan tâm ở tầm nhìn dài hạn, nhất là trước hiểm họa của biến đổi khí hậu toàn cầu và mực nước biển dâng hiện nay. Tuy nhiên, quan tâm không có nghĩa là rút lui. “Rút lui thụ động” hay “ứng phó tích cực” vẫn đang là phương châm mang tầm vóc chiến lược không chỉ đặt ra với Việt Nam mà là cho cả cộng đồng quốc tế. Loại công trình mang tầm vóc thế kỷ như thế này còn nhiều, tôi chỉ thuật lại hai công trình tiêu biểu gắn liền với vai trò cá nhân của đồng chí Võ Văn Kiệt để minh chứng. Một loạt quyết định khác mang dấu ấn Võ Văn Kiệt không phải vì quy mô to lớn của công trình mà vì tác động sâu rộng đến đời sống xã hội, tấn công vào các tập quán lạc hậu đã tồn tại lâu đời. Thành công của các quyết định đó sẽ còn mãi mãi ghi dấu ấn trong đời sống của đất nước và nhân dân ta. Đó là các quyết định về việc giải thể các trạm kiểm soát trên các đường giao thông (Quyết định số 86-CT tháng 3/1987); quyết định về cấm sản xuất lưu thông và tiêu dùng pháo nổ trong phạm vi cả nước (8/1994); quyết định cưỡng chế, giải tỏa hành lang bảo vệ đê sông Hồng vùng Yên Phụ, Nhật Tân (1995); 58 cuộc vận động xóa bỏ “cầu khỉ”1, “cầu tõm”2 và cấp nước sinh hoạt ở đồng bằng sông Cửu Long; quyết định triển khai chương trình “phủ xanh đất trống đồi núi trọc” trong phạm vi toàn quốc gắn với việc đẩy lùi nạn đốt phá rừng bừa bãi (Quyết định số 327/CT tháng 9/1992); v.v.. Điều tôi muốn lưu ý ở đây là những loại việc như thế này còn nhiều lắm trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước ta cho đến tận hôm nay. Bài học kinh nghiệm ở loại quyết định này là người lãnh đạo phải có dũng khí, tính quyết đoán, biết tổ chức vận động phong trào quần chúng và tổ chức chỉ đạo thật quyết liệt. Những thành công của các quyết định nêu trên để lại cho các thế hệ các nhà lãnh đạo, nhất là trong hệ thống chính quyền hành pháp của chúng ta hôm nay và mai sau những bài học quý giá. Là Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhiều khóa, là Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng rồi Thủ tướng Chính phủ trong 10 năm đầu đổi mới, những đóng góp của đồng chí Võ Văn Kiệt trải rộng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Lĩnh vực nào đồng chí cũng để lại những dấu ấn đậm nét. Do khuôn khổ của bài viết và phạm vi công tác của tôi trong thời gian làm việc ở Chính phủ, bài viết này tôi chỉ dẫn ra một số sự việc có tính chất tiêu biểu, có tính minh chứng cho “phong cách” và “bản lĩnh” của đồng chí Võ Văn Kiệt chủ yếu là trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, coi như người trong cuộc. Mong được bạn đọc chia sẻ. 1, 2. “Cầu khỉ” là cầu bắc qua kênh rạch chỉ bằng một cây tre hoặc gỗ; “Cầu tõm” là cầu tiêu xả thẳng xuống sông, kênh, rạch. 59 PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG BÁM SÁT THỰC TIỄN GÓP PHẦN TẠO NÊN DẤU ẤN VÀ TẦM VÓC VÕ VĂN KIỆT TRƯƠNG TẤN SANG* Đồng chí Võ Văn Kiệt - chú Sáu Dân, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và nhân dân ta, người chiến sĩ cách mạng kiên trung, suốt đời vì nước vì dân đã vĩnh biệt chúng ta hơn một thập kỷ. Lúc đương thời cũng như lúc chú Sáu đi xa, đã có biết bao người, từ các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các địa phương, ban ngành đến trí thức, văn nghệ sĩ, tướng lĩnh... đã viết về cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí Võ Văn Kiệt. Rất nhiều cuốn sách dưới các thể loại phong phú được xuất bản; nhiều hội thảo được tổ chức. Qua đó tôn vinh một nhà lãnh đạo tài năng, quyết đoán, nhân hậu, một Thủ tướng “làm được nhiều việc nhất cho nước cho dân” để lại dấu ấn Võ Văn Kiệt không bao giờ mờ phai trong tâm trí mọi người. Là lớp con cháu của chú Sáu, tôi thẩm thấu sâu sắc công ơn to lớn, tài năng và đức độ ngời sáng của chú Sáu - Võ Văn Kiệt, trong đó tấm gương lăn lộn trong phong trào, luôn bám sát thực tiễn, gắn bó mật thiết với nhân dân mà suy nghĩ, tìm tòi để có quyết sách chính xác và hành động quyết liệt... thực sự là những chỉ dẫn chuẩn xác, soi đường cho cuộc hành trình của mình. 1 * Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 60 Trưởng thành từ phong trào thực tiễn Đồng chí Võ Văn Kiệt sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, không có điều kiện học nhiều, đã sớm bước vào đường đời với biết bao nhiêu gian khổ khốc liệt. Khi bước sang tuổi 16, lúc người mẹ nghèo suốt đời tần tảo nuôi 8 đứa con khôn lớn từ giã cõi đời cũng là lúc người thanh niên Chín Hòa - Võ Văn Kiệt bắt đầu dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng. Chỉ sau 7 - 8 năm, từ một thanh niên đầy nhiệt huyết, thông minh, sáng dạ, tính cương quyết, lăn lộn không mệt mỏi trong phong trào thực tiễn đầy cam go gian khổ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã nhanh chóng trở thành một người lãnh đạo cấp tỉnh lúc mới 22 - 23 tuổi. Tham gia phong trào Thanh niên phản đế ở quê nhà, một năm sau đó được kết nạp vào Đảng, làm Bí thư Chi bộ xã, rồi Huyện ủy viên, tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ ở Vũng Liêm - Vĩnh Long. Trong thời kỳ vận động giải phóng dân tộc, đồng chí Võ Văn Kiệt được điều động về Rạch Giá, tham gia Tỉnh ủy lâm thời, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở tỉnh này trong Cách mạng Tháng Tám 1945. Thời kỳ 9 năm kháng chiến chống Pháp, đồng chí Võ Văn Kiệt tiếp tục lăn lộn khắp chiến trường Tây Nam Bộ. Từ Bí thư Huyện ủy rồi lên Tỉnh ủy Rạch Giá, lại về làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu. Sau khi tham gia Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng ở Việt Bắc, đồng chí được tổ chức cử đi đào tạo ở Trung Quốc nhưng lại “nhớ” chiến trường, xin không đi nữa mà tha thiết được trở lại Nam Bộ tiếp tục gắn bó với phong trào thực tiễn. Sau Hiệp định Genève, đồng chí Võ Văn Kiệt không tập kết ra Bắc mà tương kế tựu kế ở lại với chiến trường Nam Bộ bởi thực tiễn phong trào cách mạng miền Nam đang chờ ông và ông cũng không thể xa rời chiến trường, nơi ông đã gắn bó, trui rèn, thử thách, được nhân dân che chở đùm bọc, trưởng thành. Nhiều lần chú Sáu Dân bồi hồi kể lại những năm tháng sau khi ở lại chiến trường Nam Bộ sau Hiệp định Genève là 61 thời kỳ gian khổ, khó khăn nhất cả trong cuộc sống lẫn tình cảm, tư duy. Đây là thời kỳ vừa phải đối phó với sự ruồng bố gắt gao của địch với chiến dịch “tố cộng, diệt cộng” và chịu sức ép lớn từ những người dân khi họ thấy cách mạng không ra tay đánh giặc như trước đây. Vì để tránh sự bố ráp ngày đêm của địch mà những người cách mạng phải len lỏi hết chỗ này sang chỗ khác, không ở lâu được một nơi nào nhất định. Có người dân nói thẳng “nếu các chú về đây để đánh địch thì tụi tui chứa, nếu về đây trốn thì mấy chú đi nơi khác...”. Điều đó hết sức đau lòng và khó xử. Ngày trước người dân che chở giúp đỡ mình đánh giặc giải phóng quê hương, dù khó khăn nguy hiểm mấy họ vẫn sẵn sàng; bây giờ họ không che chở cách mạng vì họ muốn mình tiếp tục ra tay đánh giặc mà khốn nỗi chủ trương lúc đó của Trung ương lại không cho phép. Tấm lòng, tình cảm cách mạng, ý chí của người dân cao cả và sâu đậm biết chừng nào. Với kinh nghiệm lăn lộn trong phong trào thực tiễn, bám dân, cùng dân bày mưu tính kế đối phó với giặc, đồng chí Võ Văn Kiệt đã vượt qua giai đoạn gian nguy, ác liệt vô cùng. Năm 1959, đồng chí Võ Văn Kiệt, Xứ ủy viên, Phó Bí thư liên Tỉnh ủy miền Tây, được Xứ ủy điều động về làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Lúc này Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn bị tổn thất nặng nề, hầu hết cấp ủy và đảng viên bị bắt, các cơ sở đều bị vỡ. Đồng chí Võ Văn Kiệt đã tiến hành công việc đầu tiên là khẩn trương tìm hiểu tình hình, nắm rõ số đảng viên còn lại, tiến hành ráo riết công tác tổ chức và cán bộ để làm nòng cốt cho hoạt động của phong trào cách mạng đô thị. Mặt khác, từ kinh nghiệm lăn lộn ở chiến trường nông thôn Tây Nam Bộ, đặc biệt là những năm tháng bị địch ruồng bố gắt gao 1956-1958, thấy rõ Sài Gòn - Chợ Lớn phải có địa bàn nông thôn “đứng chân”, Sài Gòn không thể tách rời vùng nông thôn ngoại thành của Gia Định, nên đồng chí đã kiến nghị với Xứ ủy sáp nhập Đảng bộ Sài Gòn - Chợ Lớn với Đảng bộ Gia Định. Có được tầm nhìn chiến lược với những quyết sách đúng đắn, chính xác đó, phần lớn là từ sự am 62 hiểu tình hình thực tiễn, những vốn liếng được tích lũy trong những năm tháng vật lộn, rèn luyện với thực tiễn miền Tây Nam Bộ và phát kiến sáng tạo từ am hiểu tri thức lịch sử cách mạng, từ cách nhìn thấu đáo và phân tích kỹ lưỡng thực tại xã hội và phong trào cách mạng đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định lúc bấy giờ. Nhờ bám sát thực tiễn, phân tích, cân nhắc các tình huống xã hội, trên cơ sở nắm vững cốt lõi của chủ trương mới của Trung ương Đảng, Trung ương Cục, với kinh nghiệm vốn có và tinh thần tiến công, tính quyết đoán, qua gần 12 năm trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng đô thị Sài Gòn - Gia Định, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có những đóng góp to lớn cho phong trào cách mạng ở chiến trường trọng điểm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ lãnh đạo thắng lợi hai đợt đồng khởi 1960-1961, giải phóng 30 xã vùng nông thôn Gia Định, nối liền với vùng giải phóng của Bình Dương, Tây Ninh tạo nên vùng căn cứ địa vững chắc đến xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân của ba vùng (giải phóng, ven đô, nội đô) dẫn đến những trận chiến thắng lợi vang dội của quân dân Sài Gòn - Gia Định, đặc biệt là chiến dịch Mậu Thân 1968 góp phần đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Từ một người sinh ra và trưởng thành trong phong trào cách mạng ở chiến trường nông thôn Tây Nam Bộ, nhưng với phương châm hoạt động bám sát thực tiễn, dựa vào dân, tin dân, trọng dân, trong một thời gian ngắn, đồng chí Võ Văn Kiệt đã trở thành người lãnh đạo tài ba, chói sáng trong phong trào cách mạng đô thị. Tên tuổi và công lao của Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu Võ Văn Kiệt gắn liền với những chiến công hào hùng của quân dân, Đảng bộ Sài Gòn - Gia Định trong cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bám sát thực tiễn đề ra những quyết sách đúng đắn mang tính đột phá Sau giải phóng 1975, Sài Gòn - Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh phải đối mặt với vô số vấn đề phức tạp và bộn bề, giải quyết 63 “hàng núi công việc”. Với cương vị là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố rồi Bí thư Thành ủy, bằng kinh nghiệm được tích lũy qua 35 năm trui rèn trong thực tiễn, với ý chí tiến công, tinh thần vì dân vì nước, đồng chí Võ Văn Kiệt đã lãnh đạo toàn Đảng bộ và nhân dân thành phố mới được giải phóng tích cực tháo gỡ khó khăn, ổn định tình hình, xây dựng chính quyền và tổ chức cách mạng, khôi phục sản xuất, phát triển kinh doanh, chăm lo đời sống nhân dân. Mười năm đầu giải phóng (1975-1985) là thời kỳ khó khăn nhất của thành phố thì đồng chí Võ Văn Kiệt là người đứng mũi chịu sào, chịu trách nhiệm chính trong thời gian hơn 7 năm. Bám sát thực tiễn, phân tích tất cả những vấn đề đặt ra cấp bách, những thách thức phải vượt qua, đồng chí Võ Văn Kiệt thấy nổi lên vấn đề bức xúc trước mắt vừa cốt lõi sâu xa cần phải giải quyết là “dân tình”. Chú Sáu Dân tâm sự: “Tôi có may mắn được sống và chiến đấu cùng đồng bào các giới trong lòng Sài Gòn - Gia Định và miền Tây Nam Bộ. Ở cả hai địa bàn ấy, chúng tôi vẫn tồn tại và hoạt động được là nhờ được sống giữa lòng dân, thuộc đủ các tầng lớp xã hội. Bài học về lòng dân, sức mạnh dân tộc thấm thía sâu trong máu thịt tôi”. Trong tình hình Sài Gòn mới giải phóng sau cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài, chiến thắng là hết sức vĩ đại, song cũng phải trả giá bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại thì có nhiều người vui mà cũng không ít người buồn. Đó là hậu quả rất nặng nề, là vết thương của chiến tranh cần tìm mọi cách khắc phục. Phải làm sao để cho nhân dân Sài Gòn - Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh cũng như cả nước thấy được tầm vóc và ý nghĩa to lớn của chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta sau 30 năm trường kỳ kháng chiến. “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai...” như sau 30/4/1975, khi vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay đồng chí Lê Duẩn đã nắm tay đưa lên cao và nói với giọng đầy cảm xúc. Nhưng tình hình sau giải phóng ngày càng khó khăn, phức tạp. Kinh tế sa sút nghiêm trọng, sản xuất, 64 dịch vụ xuống dốc; giá cả thị trường tăng phi mã. Chiến tranh biên giới hai đầu đất nước xảy ra; thiên tai lũ lụt liên tục... dẫn đến đói kém, xã hội bất ổn... cùng với những chủ trương không sát hợp, duy ý chí, “ngăn sông cấm chợ”, dân tình bất an. Vốn là người được trui rèn trong thực tiễn, được nhân dân che chở, đùm bọc, đã nguyện một lòng vì dân, vì nước, đồng chí Võ Văn Kiệt cùng Thành ủy tập trung lo cái ăn cho dân. Trăn trở suy nghĩ, bàn bạc kỹ lưỡng trong Thành ủy, đồng chí Võ Văn Kiệt đã trực tiếp chỉ đạo việc chạy gạo cho dân, được mang danh là “Bí thư gạo”. Đồng chí mời ông Lữ Minh Châu - Giám đốc Ngân hàng; ông Nguyễn Ngọc Ẩn - Giám đốc Sở Tài chính; bà Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi) - Giám đốc Công ty lương thực thành phố để bàn bạc cụ thể xuống đồng bằng sông Cửu Long mua lương thực. Trong lúc Nhà nước chỉ cấp tiền mua lúa 0,52đ/kg mà giá ngoài chợ là 3đ/kg. Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt quyết: chị Ba Thi xuống miền Tây mua lúa với giá sát thị trường (3đ/kg), về xay xát rồi cấp cho các cửa hàng lương thực bán cho bà con đúng giá vốn gồm cả công chuyên chở, xay xát. Việc này được cho là sai chủ trương của Nhà nước. Sai so với chủ trương nhưng thực tiễn người dân thành phố mừng khôn xiết, vì thường phải bỏ ra 7-8 đồng để mua lén lút 1kg gạo của tư thương mà vẫn không có để mua. Nhờ sự quyết đoán, dám chịu trách nhiệm của chú Sáu mà 3,5 triệu dân Thành phố Hồ Chí Minh lúc bấy giờ được cứu đói, đồng thời giúp bà con nông dân miền Tây bán được lúa với giá gấp 5, 6 lần giá Nhà nước thu mua. Lo gạo để cứu đói cho dân là việc trước mắt, còn việc cơ bản lâu dài là phải phát triển công thương nghiệp vốn là những ngành kinh tế mạnh của thành phố lại đang gặp biết bao khó khăn cả về đầu vào, đầu ra và cơ chế quản lý, vận hành. Đã có nhiều cuộc họp, nhiều sáng kiến, những đề xuất tâm huyết. Song cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới luôn phức tạp, giữa bảo thủ, trì trệ và đổi mới cách suy nghĩ, cách làm diễn ra khá gay gắt, có lúc quy chụp lẫn nhau. Với bản lĩnh và kinh nghiệm, đồng chí Võ Văn Kiệt 65 đã lãnh đạo Thành ủy, các cơ quan kiên trì bám sát thực tiễn, tăng cường xuống cơ sở, gặp gỡ cán bộ, nhân dân và doanh nghiệp để bàn bạc, tháo gỡ, tìm cách làm ăn mới, mạnh dạn “phá rào”, tiến hành “cởi trói” về cơ chế để tạo điều kiện cho sản xuất, kinh doanh phát triển. Bản thân đồng chí Võ Văn Kiệt, người đứng đầu Đảng bộ với trăm công nghìn việc, vẫn nhiều lần xuống các xí nghiệp, nhà máy khảo sát, nghiên cứu, trao đổi với cán bộ, công nhân, mạnh dạn gợi mở nhiều cách làm ăn mới, xóa dần bao cấp, hình thành cách phân phối mới như “ba lợi ích”, lương sản phẩm, v.v.. Để tập hợp được trí tuệ của nhiều người trong việc nắm bắt nhu cầu của thực tiễn cuộc sống, đồng chí Võ Văn Kiệt đã thành lập “Câu lạc bộ giám đốc” để trao đổi kinh nghiệm, đề xuất sáng kiến, cách làm mới. Thành lập nhóm công tác nghiên cứu kinh tế trực thuộc Thành ủy, tập hợp trí thức từ nhiều nguồn, nhiều ngành để tìm lối mở cho kinh tế thành phố. Không chỉ nghiên cứu, tổng kết từ thực tiễn thành phố mà đồng chí Võ Văn Kiệt còn chỉ đạo đi học tập kinh nghiệm ở những nơi có điển hình tốt, có kinh nghiệm hay. Tôi nhớ, khi tiến hành cải tạo nông nghiệp, phát triển nông thôn ngoại thành, nhất là việc xây dựng tổ đoàn kết, hợp tác xã nông nghiệp vốn hết sức mới mẻ mà dân chúng không mấy ưa thích, chú Sáu Dân đã chỉ đạo chúng tôi ra Thái Bình học tập kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã Vũ Thắng, nông trường Nam Hưng được coi là những lá cờ đầu lúc bấy giờ. Sau khi tham quan về, chú Sáu kêu thuật lại đi ra ngoài đó học được cái gì hay, chúng tôi thành thật thưa lại là khó có thể học tập được gì ở đó, vì tất cả đều do Nhà nước bao cấp, không thể áp dụng ở thành phố lúc này. Chú Sáu Dân chau mày ngạc nhiên không hiểu sao mà nghe báo đài và cán bộ Thái Bình nói nhiều cái hay lắm mà mình lại không học được gì. Chúng tôi lại thưa, mình có thể học được kinh nghiệm của họ về vận động thanh niên toàn tỉnh thành phong trào quai đê lấn biển, thành lập nông trường, tổ chức định cư, lập làng thanh niên để sản xuất. Chú Sáu gật đầu 66 rồi nhìn ra xa, trầm ngâm suy nghĩ, trong đầu chú Sáu chắc hẳn đang xuất hiện một ý tưởng mới. Khi thực hiện chủ trương tập hợp thanh niên khai hoang phục hóa, xây dựng nông trường trên vành đai trắng ngoại thành thành phố, theo tinh thần và phong cách Võ Văn Kiệt, chúng tôi luôn bám sát thực tiễn, cùng nhân dân bàn cách phát huy kinh nghiệm truyền thống, tích cực áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, mạnh dạn làm thử những cơ chế mới, cuối cùng đã thành công. Phong cách luôn bám sát thực tiễn cuộc sống để có ý tưởng, quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống người dân của đồng chí Võ Văn Kiệt trong mấy thập niên ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ và Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh được tiếp tục khi đồng chí ra Hà Nội đảm nhiệm các công việc mang tầm quốc gia. Khi còn ở Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt đã trăn trở nhiều về tình trạng ô nhiễm môi trường, dân cư chen chúc ven và trên kênh rạch chằng chịt trong thành phố nhưng chưa có điều kiện giải quyết, nhất là vấn đề vốn. Đến khi có chủ trương bỏ chế độ bao cấp nhà ở, giúp thành phố có kinh phí để chỉnh trang đô thị mà trước mắt là di dời dân trên kênh rạch. Theo tinh thần và phong cách Võ Văn Kiệt, thành phố đã ráo riết đeo bám quyết liệt, “làm sạch” kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè, Bến Nghé, Tân Hóa, Lò Gốm... như ngày nay, góp phần vào việc chỉnh trang và phát triển đô thị. Hoặc sau khi có Luật đầu tư nước ngoài từ năm 1987 nhưng chỉ mới tập trung đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, văn phòng làm việc, còn đầu tư vào công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn về hạ tầng cơ sở, nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, ách tắc thủ tục giấy phép, bởi còn không ít ý kiến đắn đo, lo lắng ảnh hưởng đến việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chính đồng chí Võ Văn Kiệt, với cương vị là Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã khuyến khích Thành phố Hồ Chí Minh mạnh dạn thí điểm, vì không có khu chế xuất, khu công nghiệp thì 67 khó giải quyết đầu vào, đầu ra, không tranh thủ được vốn, khoa học công nghệ, cách quản lý hiện đại của thế giới, sẽ không thể có tốc độ tăng trưởng nhanh được. Theo tinh thần và ý chí Võ Văn Kiệt, thành phố đã xây dựng khu chế xuất Tân Thuận, rồi khu chế xuất Linh Trung, là những khu chế xuất đầu tiên của cả nước, và từ đó đến nay thành phố cũng như cả nước đã có nhiều khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao đã tạo nên một lực lượng sản xuất mới, quan hệ sản xuất mới, tác động tích cực đến đổi mới cơ chế quản lý nhà nước, làm hạt nhân cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế... Đặc biệt ở tầm vĩ mô, với cương vị Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Võ Văn Kiệt đã làm nhiều việc lớn cho nước cho dân mà đến nay ai cũng biết. Tên tuổi Võ Văn Kiệt - Sáu Dân gắn với những công trình mang tính đột phá, có ý nghĩa then chốt tạo nguồn lực cho sự phát triển nhanh của đất nước. Đó là đường dây tải điện 500kV nối liền nguồn mạch năng lượng điện Bắc - Nam cùng với hệ thống giao thông mang tính chiến lược như đường mòn Hồ Chí Minh, đường Bắc Thăng Long - Nội Bài, cao tốc Láng - Hòa Lạc, Cầu Mỹ Thuận. Các công trình thủy điện như Trị An, Thác Mơ, Yaly, Hàm Thuận - Đa My, v.v. rồi chương trình khai thác Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên; chương trình thoát lũ miền Tây, ngọt hóa bán đảo Cà Mau; trị phèn Đồng Tháp Mười - Tứ giác Long Xuyên đến dự án lọc dầu và khu kinh tế Dung Quất, động lực cho cả miền Trung phát triển, góp phần khắc phục cảnh nghèo khổ triền miên của vùng đất lắm thiên tai. Còn nhiều và nhiều công trình ích nước lợi dân mà Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khởi xướng, chỉ đạo thực hiện, và có lẽ cũng còn không ít những toan tính, dự định của một người sống trọn đời vì nước vì dân mà chưa kịp triển khai... Con đường hình thành từ tư duy đến hiện thực của các công trình trên đây dường như theo một tiến trình có tính “quy luật” mang phong cách Võ Văn Kiệt. Từ trăn trở, động não làm cái gì 68 cho nước cho dân, rồi đi khảo sát thực tế, hỏi dân, bàn bạc với cơ sở, hình thành ý tưởng, vạch kế hoạch rồi lại tham kiến những người, những ngành hữu quan am hiểu vấn đề, đặc biệt là trí thức, các chuyên gia. Dường như rất nhiều công trình mang tính chiến lược của quốc gia do Thủ tướng Võ Văn Kiệt khởi xướng và chỉ đạo thực hiện, lúc ban đầu không phải đã được mọi ý kiến đồng tình ủng hộ. Có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau; có phản biện, có nêu những trở ngại, khó khăn, có bàn cãi về khả năng thực hiện, tính khả thi và hiệu quả kinh tế, xã hội, văn hóa... Là người luôn coi thực tiễn là người thầy phản biện nghiêm khắc và chính xác nhất nên ông lại tìm về thực tiễn. Đối với ông, việc gì chưa rõ, khó khăn thì cần phải tìm luận cứ từ thực tiễn chứ không phải tra cứu từ sách vở hay luận giải theo thuyết này, lý nọ. Đồng chí Võ Văn Kiệt rất trọng lý luận nhưng phải là lý luận xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, phù hợp với lợi ích chân chính của con người. Khi thấy vấn đề có ích cho dân, cho nước mà theo ông là đúng thì quyết và làm một cách quyết liệt. Những công trình được đồng chí Võ Văn Kiệt khởi xướng và chỉ đạo thực hiện dù có bị đưa ra bàn tới bàn lui, cuối cùng cũng đã thành công mỹ mãn, mới thấy được cái tài năng chói sáng, tầm nhìn chiến lược xa rộng của một nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và Nhà nước ta. Đó là một con người thực tiễn, con người hành động, luôn gắn bó với dân, với phong trào, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Phương thức bám sát thực tiễn cuộc sống, gắn bó máu thịt với dân, tất cả vì nước vì dân, suy nghĩ chín chắn, đưa ra quyết sách chính xác và thực thi quyết liệt của đồng chí Võ Văn Kiệt là bài học nằm lòng không những cho thế hệ hôm nay mà mãi mãi cho muôn đời sau. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 7 năm 2022 69 SÁNG MÃI TẤM GƯƠNG VÕ VĂN KIỆT* NGUYỄN TẤN DŨNG** Mới đấy mà đã đến ngày giỗ đầu của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người mà tên tuổi đã in sâu đậm trong tâm trí mỗi người Việt Nam và bạn bè quốc tế. Nhớ tới ông, chúng ta nhớ về một người suốt đời gắn bó mật thiết với nhân dân đến mức cái tên Sáu Dân vốn là bí danh, đã nhanh chóng trở thành thân thiết và được mọi người quen dùng hơn cả tên chính thức - Võ Văn Kiệt. Đó chính là nhân cách, phẩm chất và bản lĩnh của đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt, một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta, một chiến sĩ cách mạng kiên cường, một đảng viên cộng sản kiên trung, trọn đời phấn đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Con người đã dành cho chúng ta lòng yêu thương và sự đồng cảm sâu sắc ấy đã đi xa, song từ sự kính trọng và gắn bó trong tâm khảm của mình, tôi cảm thấy ông vẫn như đang đồng hành với chúng ta, đang chia sẻ cùng chúng ta mọi buồn vui, đang tha thiết giãi bày tất cả những gì mà ông ấp ủ trong lòng về sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.1 * Bài viết nhân kỷ niệm một năm ngày mất của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đăng trên báo Nhân dân, ngày 28/5/2009, tr.1, 2. ** Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 70 Gần như đi suốt chiều dài lịch sử của cách mạng, từ phong trào Thanh niên phản đế năm 1938, Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, qua 30 năm kháng chiến chống ngoại xâm, đến sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước ở chặng đường hôm nay; từ người thanh niên hăng hái nhiệt tình tham gia cách mạng ở quê hương Vĩnh Long giàu truyền thống yêu nước, đến cương vị là Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt luôn luôn là con người của hành động, với tất cả sự sáng tạo mãnh liệt mà ông đã hội tụ không mệt mỏi từ đồng bào, đồng chí và bạn hữu. Nhân cách ấy, bản lĩnh ấy hình thành từ tinh thần hy sinh chiến đấu ngoan cường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và từ niềm tin vững chắc của ông đặt vào cả dân tộc. Những năm tháng gần gũi ông, được cùng làm việc với ông, nhìn vào những việc ông làm và lần theo cách suy nghĩ của ông, tôi ngày càng hiểu rõ chính nhân cách, phẩm chất và bản lĩnh ấy đã làm nên nhân vật lịch sử Sáu Dân - Võ Văn Kiệt. Nhân cách ấy và bản lĩnh ấy trước hết là sự thấu suốt đường lối của Đảng và sự hình thành sâu sắc ở trong ông về tư duy và ý chí về đại đoàn kết dân tộc. Ông là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và đóng góp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là một cống hiến to lớn của ông trong sự nghiệp giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhớ lại những thời kỳ gian nan của cách mạng và kháng chiến cũng như những lúc hiểm nghèo khi mới giành được độc lập, thống nhất, nhìn vào những nhiệm vụ mà ông gánh vác qua những bước thăng trầm của đất nước, chúng ta càng nhận thức sâu sắc tầm quan trọng mang tính sống còn của đại đoàn kết dân tộc đối với vận mệnh của Tổ quốc và càng hiểu ông sâu sắc hơn với tính cách là con người của đại đoàn kết dân tộc. Ông mang lại cho đồng bào ta, gồm cả 71 những người trước đây ở phía bên kia chiến tuyến, lời kêu gọi đồng thuận, hướng về phía trước, cùng nhau xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tất cả vì một Tổ quốc Việt Nam thân yêu. Ở đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt, đại đoàn kết dân tộc xuất phát từ niềm tin sâu sắc: Yêu nước không là độc quyền của riêng ai; Tổ quốc là của tất cả mọi người Việt Nam; mọi người Việt Nam đều có quyền và trách nhiệm đóng góp cho đất nước. Noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông cho rằng đoàn kết có nghĩa là chung lòng, chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, vượt lên trên những sự khác biệt, kể cả sự khác nhau về chính kiến. Mãi mãi ghi nhớ và biết ơn những hy sinh, mất mát không kể xiết của dân tộc ta để giành độc lập, thống nhất, chúng ta càng thấm thía về đòi hỏi tất yếu phải đoàn kết hòa hợp dân tộc, phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta càng quý trọng tấm gương của đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt về đại đoàn kết dân tộc. Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, ông luôn có mặt tại chiến trường Nam Bộ, thành đồng Tổ quốc, ở nhiều tỉnh và ở chính tại Sài Gòn, sống giữa lòng dân, đảm đương rất nhiều trọng trách, cùng với đồng bào và chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân vượt qua biết bao gian khổ, ác liệt, hy sinh, lập nên những chiến công hiển hách, đóng góp quan trọng vào chiến công chung vĩ đại của cả dân tộc ta. Tôi muốn đặc biệt nêu lên một cống hiến to lớn vào bậc nhất của ông trong thời gian sau Hiệp định Pari đầu năm 1973, khi ông là Bí thư Khu ủy đồng thời là Chính ủy Quân khu 9. Cùng với Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, ông và Phó Bí thư Khu ủy - Tư lệnh Quân khu Lê Đức Anh đã có một quyết định hành động rất chiến lược, rất dũng cảm và đầy trách nhiệm, phù hợp với tình hình thực tế của chiến trường, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân và 72 các lực lượng vũ trang, đó là: Không chấp nhận ngừng bắn khi chính quyền Sài Gòn đã vi phạm Hiệp định; kiên quyết, chủ động và liên tục tấn công trên các mặt trận, ở cả nông thôn và thành thị trong toàn Khu 9 bằng sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân. Với quyết định đúng đắn và rất sáng tạo này, quân và dân Khu 9 đã làm thất bại âm mưu lấn chiếm với hàng trăm tiểu đoàn chủ lực, bóc gỡ hàng ngàn đồn bốt, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực của địch và đưa một phần lớn đồng bào ta ra khỏi sự kìm kẹp, mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng, tạo nên thế và lực mới rất quan trọng, để Khu 9 cùng với cả nước nổi dậy và tiến công giành thắng lợi trọn vẹn - giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc năm 1975. Cán bộ, đảng viên và quân, dân Khu 9 mãi mãi ghi nhớ quyết định lịch sử và chiến công to lớn này, gắn liền với vai trò của Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu Sáu Dân - Võ Văn Kiệt. Trong thời kỳ xây dựng hòa bình, ông luôn quán triệt và hành động rất quyết liệt, sáng tạo về một quan điểm rất quan trọng của Đảng coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Nhiều thành tựu kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới vừa qua là công sức chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đồng thời cũng đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của ông với tính cách nổi bật là sâu sát thực tế, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, cổ vũ và sẵn sàng dấn thân cho cái mới. Từ những đóng góp cả tư duy và hành động cho việc xóa bỏ cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp, hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới đất nước, đến các công trình quan trọng như thủy điện Trị An, khai phá Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, đường dây tải điện 500kV Bắc - Nam, đường Bắc Thăng Long - Nội Bài, đường Hồ Chí Minh, Nhà máy lọc dầu Dung Quất và phát triển ngành dầu khí, viễn thông, hàng không, các tổng công ty lớn của Nhà nước, các đại học quốc gia, các khu công nghệ cao, 73 Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam... tất cả nói lên tâm huyết và những nỗ lực phi thường của ông trong tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, để lại “dấu ấn Võ Văn Kiệt” góp phần xây dựng nền móng kinh tế, văn hóa, xã hội của nước nhà. Cùng với cái tâm một lòng vì nước, vì dân và sự từng trải, những quyết định sáng suốt của ông dựa trên trí tuệ của không biết bao nhiêu trái tim và khối óc được ông cổ vũ cống hiến cho đất nước. Hầu như không có một quyết định nào của ông ở cương vị người lãnh đạo mà trước đó ông không tập hợp và lắng nghe các chuyên gia, các nhà khoa học và tìm hiểu kinh nghiệm tích lũy từ cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. Ông luôn chân thành, cởi mở khi đến với mọi người, đặc biệt quan tâm tới thế hệ trẻ, khuyến khích phát huy tâm huyết và tài năng của thanh niên. Ông coi trọng, chọn lọc và sáng suốt tiếp thu ý kiến của các trí thức Việt kiều và các chuyên gia nước ngoài. Đất nước gặt hái được những thành tựu nhờ sự bừng dậy trí tuệ và tài năng của người người, lớp lớp những công dân gắn bó với sự nghiệp cao cả của Tổ quốc. Đây chính là con đường thực hiện dân chủ mà ông theo đuổi một cách nhất quán để vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ trong suốt cuộc đời hoạt động của mình. Phá bỏ bao vây cấm vận để chủ động hội nhập toàn cầu là một thời kỳ đầy gian truân, trước những vấn đề rất nhạy cảm cùng với sức ép cạnh tranh rất gay gắt khi nền kinh tế nước ta còn nhiều yếu kém. Theo ông, mỗi đất nước có một sức mạnh riêng, một lợi thế riêng; cần khơi dậy và phát huy tất cả các nguồn lực ấy để giành được nhiều nhất lợi ích cho dân tộc mình trong tư thế độc lập, tự chủ. Với quan điểm đó, ở cương vị Thủ tướng hay cương vị Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông luôn luôn là người tìm cách tiếp cận mới, góp phần tích cực vào việc hình thành những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước. Ngày nay, sản phẩm của nước ta đã vươn ra hầu khắp trên thị trường thế giới, nước ta có quan hệ ngày 74 càng phát triển với tất cả các nền kinh tế lớn, là bạn của các quốc gia, là thành viên của nhiều tổ chức quan trọng của quốc tế và khu vực. Dấu ấn Võ Văn Kiệt in đậm trên chặng đầu của con đường nâng cao vị thế nước ta như một thành viên có trách nhiệm, tích cực và xây dựng trong cộng đồng quốc tế. Khi thôi giữ trọng trách đứng đầu Chính phủ và ngay cả khi không còn làm nhiệm vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ông vẫn đau đáu nỗi lo cho dân, cho nước, vẫn theo dõi sát tình hình, thường xuyên đóng góp ý kiến với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về nhiều vấn đề trọng đại của dân tộc. Đặc biệt trong những năm cuối đời, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt đã dồn hết nghị lực và tâm trí cho công cuộc xây dựng Đảng. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ta luôn luôn xứng tầm là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc, đáp ứng niềm tin của nhân dân, là vấn đề then chốt luôn được ông nêu lên với những kiến nghị cụ thể trong các kỳ đại hội Đảng toàn quốc cũng như trong nhiều sinh hoạt quan trọng khác của Đảng. Qua một thời gian dài hoạt động trong lòng địch, được nhân dân đùm bọc, che chở từ trước Cách mạng Tháng Tám và suốt hai cuộc kháng chiến, rồi đến những thập kỷ xây dựng đất nước trong Hòa Bình và đổi mới, ông cảm nhận sâu sắc sự gắn bó máu thịt giữa dân và Đảng. Người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam Sáu Dân - Võ Văn Kiệt đã từng nói với đồng chí và đồng đội của mình trong những giờ phút gian nguy nhất, kể cả khi cơ sở bị bóc trắng không còn một người: Còn dân là còn tất cả. Có dân sẽ làm nên tất cả. Đó là cội nguồn vun đắp ý thức sâu sắc về sức mạnh của Đảng khi được nuôi dưỡng trong niềm tin của dân. Trong thời bình xây dựng và bảo vệ đất nước, ông kiên trì nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng Đảng mạnh, Nhà nước mạnh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân mạnh 75 để phụng sự tốt nhất lợi ích của dân tộc. Ông thường nhắc nhở phải ghi nhớ và thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc mà Người để lại: Ngay sau khi kháng chiến thành công, việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng1. Không biết bao nhiêu lần ông giục giã các đồng chí xung quanh mình, chúng ta hãy cố tìm ra những lời dạy từ lịch sử vẻ vang của Đảng ta: Điều gì đã giúp Đảng chỉ với 5.000 đảng viên mà làm nên Cách mạng Tháng Tám? Điều gì đã giúp Đảng phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc để chiến thắng những kẻ thù xâm lược mạnh nhất thời đại? Điều gì đã khơi nguồn cho Đảng tiến hành công cuộc đổi mới để đất nước vượt qua được hiểm nghèo và có được những thành quả như ngày hôm nay?... Và từ những trải nhiệm thực tiễn của mình, đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt luôn nhấn mạnh rằng: Dân chủ phải trở thành một mục tiêu, một động lực quan trọng để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về mọi mặt; thực hiện dân chủ trong Đảng là một đòi hỏi cấp bách hàng đầu của sự nghiệp đổi mới và chỉnh đốn Đảng, là điều kiện thiết yếu để thực hiện dân chủ trong xã hội, để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, để đổi mới và nâng cao chất lượng toàn bộ hệ thống chính trị, để nước ta phát triển bền vững trong thế giới ngày nay. Đó cũng là con đường giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, là vũ khí sắc bén nhất trong phòng, chống tham nhũng và mọi tha hóa diễn ra trong Đảng và trong xã hội. Không ai trong chúng ta có thể ngờ rằng việc chuẩn bị đi thăm Hà Lan để tìm hiểu và học tập kinh nghiệm trị thủy của nước bạn để giúp dân, giúp nước mình nhưng không thực hiện được lại là điều cuối cùng ông để lại trước lúc đi xa. Nỗi niềm tiếc thương và sự kính trọng trong tôi càng nhân lên gấp bội khi nhớ đến những 1. Xem Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.29. 76 năm tháng ông lặn lội khắp nơi trên đồng bằng sông Cửu Long trời nước mênh mông, quên ăn quên ngủ, trăn trở suy tư để tìm kế sách cho đồng bào ta có thể chung sống với lũ, làm chủ con nước và làm giàu trên vùng đất đai rộng lớn, màu mỡ trước sự đe dọa của thiên tai. Thấm thoắt một năm đã trôi qua giữa muôn vàn khó khăn thử thách của đất nước. Tưởng nhớ đến ông, noi gương ông và nhân ngày giỗ đầu, xin thắp một nén nhang dâng lên hương hồn đồng chí Sáu Dân - Võ Văn Kiệt với tất cả tâm niệm: Anh Sáu Dân kính mến, xin anh yên lòng; đồng bào và đồng chí của anh đang làm hết sức mình để kế tục hoài bão mà anh để lại, cùng nhau chung sức chung lòng xây dựng thành công một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 77 VÕ VĂN KIỆT TÀI NĂNG - TRÍ TUỆ - DŨNG KHÍ NGƯỜI CON NAM BỘ, THÀNH ĐỒNG TỔ QUỐC LÊ PHƯỚC THỌ* Năm 1947, anh Võ Văn Kiệt về làm Bí thư Huyện ủy Phước Long (thay cho đồng chí Hồng Dân hy sinh, sau đó huyện này đổi tên thành huyện Hồng Dân). Khi anh Kiệt là Bí thư Huyện ủy Hồng Dân, tôi là cán bộ xã Phong Thạnh Tây (lúc đó xã này trực thuộc huyện Phước Long, tỉnh Rạch Giá). Khi có cuộc họp Huyện ủy mở rộng và anh Kiệt xuống xã công tác, tôi mới có điều kiện gặp gỡ, trao đổi công tác với anh. Qua nhiều lần làm việc, tôi mới biết phong cách của anh Kiệt vừa sâu sát cơ sở, vừa dân chủ, chân thành, cởi mở, dễ gần gũi. Do đó, anh được bạn bè, đồng bào, đồng chí kính yêu, khâm phục. Nhờ đức độ và tài năng xuất sắc của anh Kiệt, nên từ lúc bấy giờ tôi đã nhận thấy anh là một cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo có tầm cỡ của Đảng.1 Sau đó, anh Kiệt về công tác ở các tỉnh Rạch Giá, Bạc Liêu (cũ), chúng tôi không có điều kiện gặp nhau. Đến khi ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954, anh Kiệt về làm Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu thay đồng chí Ung Văn Khiêm được Trung ương điều động đi nhận nhiệm vụ mới. * Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương. 78 """