🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Lập Hiến: Nội Dung Và Giá Trị
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
NGUYỄN THỊ HỒNG QUÝ
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa: ĐƯỜNG HỒNG MAI Chế bản vi tính: NGUYỄN QUỲNH LAN Sửa bản in: VŨ THỊ THU NGUYỄN THỊ YẾN
Đọc sách mẫu: HỒNG QUÝ NGUYỄN VIỆT HÀ
Số đăng ký xuất bản: 427-2021/CXBIPH/18-365/CTQG.
Quyết định xuất bản số: 21-QĐ/NXBCTQG, ngày18/02/2021. In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2021.
Mã số ISBN: 978-604-57-6506-7.
Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm
cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam
Lª ThÞ H»ng
T− t−ëng Hå ChÝ Minh vÒ lËp hiÕn: Néi dung vμ gi¸ trÞ / Lª ThÞ H»ng. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2020. - 220tr. ; 21cm ISBN 9786045760437
1. LËp hiÕn 2. T− t−ëng Hå ChÝ Minh 3. ViÖt Nam 342.597029 - dc23
CTM0411p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Từ những năm tháng hoạt động ở Pháp, Hồ Chí Minh phê phán chế độ cai trị thực dân và nhận thấy sự cần thiết ban hành hiến pháp nói riêng, pháp luật nói chung nhằm ghi nhận, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của nhân dân và hạn chế sự lạm quyền của nhà nước. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng, chỉ sau nhiệm vụ giải quyết nạn đói, nạn dốt là nhiệm vụ tổng tuyển cử bầu Quốc hội, để Quốc hội thay mặt nhân dân soạn thảo hiến pháp dân chủ. Trên cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959 đặt nền móng vững chắc cho nền lập hiến Việt Nam. Đặc biệt với bản Hiến pháp năm 1946, cho đến nay vẫn được coi là mẫu mực trên nhiều phương diện về lập hiến và lập pháp.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về lập hiến, trong gần 35 năm đổi mới, nền lập hiến Việt Nam đã đạt được thành tựu hết sức to lớn. Hiến pháp năm 2013 là kết quả của sự kế thừa, vận dụng và phát triển các quan điểm về lập hiến của Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay. Tuy vậy, lý luận và thực tiễn xây dựng hiến pháp ở Việt Nam hiện nay vẫn đang còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết.
5
Nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn sâu sắc, toàn diện về tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về lập hiến: Nội dung và giá trị của TS. Lê Thị Hằng.
Nội dung cuốn sách được kết cấu gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
Chương II: Nội dung tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Chương III: Giá trị tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Mặc dù đã cố gắng trong quá trình biên tập, xuất bản song
nội dung cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 10 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
Chương I
CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH
I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Hiến pháp
Thuật ngữ hiến pháp đã ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Theo tiếng Latinh “hiến pháp” - “constitutio”, có nghĩa là sự thiết lập, xác định. Nhà nước La Mã cổ đại dùng thuật ngữ này để chỉ các văn bản quy định của Hoàng đế. Nhưng sự ra đời của “hiến pháp” với tính chất là đạo luật cơ bản của nhà nước, có giá trị giới hạn quyền lực nhà nước là sản phẩm của chủ nghĩa lập hiến và gắn liền với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản. Theo quan điểm của các nhà Khai sáng Pháp, cần phải có bản khế ước chung giữa nhân dân và nhà nước, trong đó nhân dân trao quyền lực của mình một cách có điều kiện, có giới hạn cho nhà nước để nhà nước phục vụ và bảo vệ nhân dân. Theo cách định nghĩa hiện đại và phổ biến ngày nay thì “hiến pháp là luật tổ chức cơ bản của một quốc gia hay
7
một nhà nước thiết lập các thể chế và bộ máy chính quyền, xác định phạm vi quyền lực của chính quyền và bảo đảm các quyền và tự do của công dân”1.
Chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng trên cơ sở bản chất giai cấp: Hiến pháp là của ai? Phục vụ cho lợi ích của giai cấp (hoặc các giai cấp) nào? Hiến pháp được tạo ra vì một trật tự xã hội theo định hướng giai cấp nào? Theo đó, mọi hiến pháp đều là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, đều là công cụ
mà giai cấp hoặc liên minh chính trị cầm quyền sử dụng để khẳng định và duy trì sự thống trị của mình. Ở Việt Nam, thuật ngữ “hiến pháp” được đề cập khá phổ biến trong các cuốn sách giáo khoa, giáo trình, sách chuyên khảo, tài liệu nghiên cứu về Luật hiến pháp, lập pháp, lập hiến.
Theo Từ điển chính trị vắn tắt, “Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, quy định các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và nhà nước, hệ thống các cơ quan nhà nước, thể chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan đó, các quyền và nghĩa vụ của công dân”2.
Theo Từ điển tiếng Việt, “Hiến pháp là luật lệ căn bản của Nhà nước, quy định chế độ chính trị, kinh tế,
________________
1. Bryan A. Garner (Ed): Blacks Law Dictionary Nitnh Edition, USA, Thomsan Reuters, 2009, p.353.
2. Từ điển chính trị vắn tắt, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1988, tr.164.
8
xã hội, quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, tổ chức bộ máy nhà nước”1.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, “Hiến pháp là đạo luật cơ bản quy định những vấn đề quan trọng nhất như chế độ chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ quan nhà nước”2.
Thuật ngữ Hiến pháp được Hồ Chí Minh đề cập sớm, từ năm 1919 khi Người viết Việt Nam yêu cầu ca: “Bảy xin hiến pháp ban hành”3. Trong khi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nêu ra nhiệm vụ sau khi giành độc lập, sẽ xây dựng bản Hiến pháp mới cho Việt Nam theo tinh thần dân chủ. Với quan niệm “hiến pháp là luật chính”4, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người chỉ đạo xây dựng các bản hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với yêu cầu: ghi lấy thành tích vẻ vang của cách
________________
1. Trung tâm Từ điển học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr.456.
2. Nguyễn Duy Lâm (Chủ biên): Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.125.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.473.
4. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Phông Văn phòng Quốc hội, Hồ sơ lưu trữ số 381, tr.85.
9
mạng, tuyên bố với thế giới quyền tự do của dân tộc Việt Nam, quyền bình đẳng nam - nữ, bình đẳng giai cấp và tinh thần đoàn kết dân tộc.
Qua các cách tiếp cận trên, hiến pháp được hiểu theo nghĩa là luật gốc, là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật quốc gia, quy định chế độ chính trị quốc gia, ấn định cách tổ chức và phân công quyền lực nhà nước; quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân.
2. Lập hiến
Trong tiếng Hán, chữ “lập” có các nghĩa: “1. Đứng, đứng vững; 2. Dựng lên; 3. Đứng thẳng; 4. Gây dựng, lập, ký kết; 5. Sống còn, tồn tại; 6. Ngay tức khắc, lập tức”1. Chữ “hiến” được viết trong Kinh thi (thế kỷ VIII trước Công nguyên) mang ý nghĩa là khuôn phép, khuôn mẫu dành cho các bậc vua, chúa; trong Kinh thi (thế kỷ V trước Công nguyên) với nghĩa là pháp lệnh. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, quyển số 7, tờ 12 có chép: “Quốc gia đã có hiến, nước Tàu và nước Nam khác nhau”. Chữ hiến trong câu này có nghĩa là phép tắc, chế độ nói chung, chứ không phải là “hiến pháp” theo nghĩa ngày nay. Theo Tự điển Hán Việt của Trần Văn Chánh thì ““hiến” có nghĩa là: 1. Pháp lệnh; 2. Hiến pháp: Lập hiến”2. Hiểu theo nghĩa ________________
1, 2. Trần Văn Chánh: Từ điển Hán Việt: Hán ngữ cổ đại & hiện đại, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2011, tr.691- 692, 356.
10
này, thuật ngữ lập hiến có nghĩa là gây dựng, thành lập nên pháp lệnh, phép nước.
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa thì lập hiến có nghĩa là lập nên hiến pháp và làm tiêu chuẩn cho chính thể: Chính thể lập hiến.
Theo Từ điển luật học, lập hiến được hiểu là: “Định ra hiến pháp (Quốc hội lập hiến, quân chủ lập hiến...). Quyền lập hiến là quyền làm hiến pháp (biểu quyết tán thành thông qua theo trình tự lập hiến) và sửa đổi, bổ sung hiến pháp hoặc làm hiến pháp mới”1.
Theo Từ điển tiếng Việt, lập hiến là định ra hiến pháp2. Bàn về khái niệm lập hiến, trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xây dựng và ban hành Hiến pháp tác giả Trần Ngọc Đường và Bùi Ngọc Sơn cho rằng: “Lập hiến là ban hành hiến pháp, là một quyền không giới hạn, nghĩa là, các chủ thể có quyền lập hiến không bị ràng buộc bởi một thủ tục pháp lý nào và không hạn chế về nội dung của hiến pháp”3.
Trả lời lập hiến là gì, trong cuốn sách ABC về hiến pháp - 83 câu hỏi đáp, giải thích: “Xây dựng hiến pháp
________________
1. Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý: Từ điển luật học, Nxb. Từ điển bách khoa - Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.459. 2. Xem Trung tâm Từ điển học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr.534.
3. Trần Ngọc Đường, Bùi Ngọc Sơn: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc xây dựng và ban hành Hiến pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.44.
11
(còn được gọi là lập hiến hay làm “hiến pháp”) là việc thảo luận, soạn thảo, ban hành hiến pháp”1.
Hồ Chí Minh tuy không đưa ra định nghĩa lập hiến, nhưng qua việc làm cụ thể của Người như chỉ đạo tổ chức bầu Quốc hội lập hiến, thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp, tổ chức kỳ họp Quốc hội và lấy ý kiến nhân dân, sau đó Quốc hội thông qua để ban hành Hiến pháp, có thể nói, Người đã tiếp cận “lập hiến” theo nghĩa xây dựng hiến pháp gồm các bước: soạn thảo, thảo luận, thông qua, ban hành bản Hiến pháp.
Từ những cách hiểu trên, thuật ngữ “lập hiến” là xây dựng hiến pháp, hay nói cách khác là toàn bộ quy trình và tổng thể hoạt động tạo lập nên một bản hiến pháp từ khi lên kế hoạch cho đến khi được thông qua và có hiệu lực thi hành trong thực tế. Lập hiến bao gồm cả
việc lập nên bản hiến pháp mới hoặc sửa đổi, bổ sung hiến pháp hiện hành.
3. Tư tưởng lập hiến
Sự ra đời của một bản hiến pháp đều dựa trên những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo về xây dựng và sửa đổi hiến pháp nhất định. Nội dung của một bản hiến
________________
1. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn, Đỗ Khánh Tùng: ABC về Hiến pháp - 83 câu hỏi đáp, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2013, tr.7.
12
pháp đều là kết quả của việc thể chế hóa các tư tưởng, quan điểm đó.
Tư tưởng lập hiến còn được gọi là tư tưởng về xây dựng hiến pháp được phổ biến rộng rãi trong thời kỳ cách mạng tư sản. Trong thời kỳ này, bên cạnh việc giương cao ngọn cờ tự do, dân chủ, bình đẳng, giai cấp tư sản đề ra khẩu hiệu lập hiến với mục đích huy động quần chúng nhân dân tham gia cuộc cách mạng tư sản lật đổ giai cấp phong kiến cầm quyền. Nội dung chủ yếu của khẩu hiệu lập hiến thể hiện ở việc yêu cầu xây dựng một bản hiến pháp, trong đó ghi nhận chủ quyền nhân dân, tổ chức quyền lực nhà nước, mối quan hệ công dân - nhà nước; từ đó làm cơ sở pháp lý vững chắc cho sự ra đời của một nhà nước mới và bảo vệ quyền cơ bản của con người.
Trong các nghiên cứu ở Việt Nam về hiến pháp, đã có những công trình đề cập đến khái niệm tư tưởng lập hiến. Trong Luận án Lịch sử tư tưởng lập hiến nửa đầu thế kỷ XX và sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam, Đặng Thanh Xuân nêu định nghĩa: “Tư tưởng lập hiến là những quan điểm, chính kiến liên quan đến yêu cầu xây dựng, hoàn thiện bản hiến pháp ở Việt Nam với tư
cách là một văn kiện pháp lý cơ bản của nhà nước và những ý kiến, quan điểm liên quan đến thủ tục xây dựng hiến pháp, liên quan đến nội dung văn kiện hiến pháp mà cụ thể là về thể chế chính trị, về quốc gia và chủ quyền quốc gia, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về tổ
chức bộ máy nhà nước, về các biểu tượng quốc gia như
13
quốc kỳ, quốc ca, quốc hiệu”1. Với những đặc điểm đó, tác giả khẳng định: “Tư tưởng lập hiến là một bộ phận quan trọng của tư tưởng pháp quyền, thuộc lĩnh vực chính trị, nó chịu ảnh hưởng sâu sắc, trực tiếp của quan điểm, tư
tưởng chính trị”2.
Trong Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, tác giả Võ Khánh Vinh cho rằng: “Tư tưởng lập hiến, hay còn gọi tư tưởng về hiến pháp, bao hàm các quan niệm về sự cần thiết phải có một đạo luật cơ bản, để làm nền tảng pháp lý cho thể chế chính trị nhà nước và toàn bộ hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, về phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, tức là chính thể nhà nước mà trong đó cốt lõi là việc thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ đại nghị, về dân quyền và mối quan hệ qua lại giữa công dân với nhà nước”3.
Như vậy, có thể hiểu, tư tưởng lập hiến là những nhận thức, lý luận, quan điểm chỉ đạo về xây dựng hiến pháp, bao hàm các quan niệm về vai trò, chủ thể lập hiến và những nội dung cơ bản của hiến pháp.
________________
1, 2. Đặng Thanh Xuân: Lịch sử tư tưởng lập hiến nửa đầu thế kỷ XX và sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, 2003, tr.13, 14.
3. Võ Khánh Vinh (Chủ biên): Những vấn đề lý luận và thực tiễn về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr.75.
14
4. Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh
Từ những năm tháng hoạt động ở Pháp, Hồ Chí Minh phê phán chế độ cai trị thực dân và nhận thấy sự cần thiết ban hành hiến pháp nói riêng, pháp luật nói chung nhằm hạn chế sự lạm quyền của Nhà nước, ghi nhận, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Một trong những yêu sách đầu tiên mà Người gửi đến các nước đế quốc, là yêu sách về ban hành chế độ ra đạo luật thay các sắc lệnh, dành cho người bản xứ những đảm bảo về pháp luật như người châu Âu. Khi về nước lãnh đạo nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền, Người cũng đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của một chế độ mới và một bản hiến pháp của dân tộc. Những vấn đề về bầu cử, về chính thể, về mô hình tổ chức bộ
máy; về việc ghi nhận, đảm bảo thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân được Người nêu ra. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng, chỉ sau nhiệm vụ giải quyết nạn đói, nạn dốt là nhiệm vụ tổng tuyển cử bầu Quốc hội, để Quốc hội thay mặt nhân dân soạn thảo hiến pháp dân chủ. Như vậy, quan điểm về sự cần thiết của hiến pháp, về cách thức làm hiến pháp, về nội dung cơ bản của một bản hiến pháp đã được hình thành trong thời kỳ tìm đường cứu nước và trở thành tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong quá trình Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
15
Nghiên cứu tư tưởng lập hiến được đặt trong phạm trù tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, chủ yếu được đề cập trong các công trình về nhà nước, pháp luật và chưa có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu. Bàn về
khái niệm tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, có thể kể đến một số tác giả sau:
Trong cuốn sách Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, tác giả Bùi Ngọc Sơn đã đưa ra khái niệm: “Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh - những quan điểm, ý tưởng về tổ chức nhà nước bằng hiến pháp là một trong những nội dung cơ bản cấu thành hệ tư tưởng Hồ Chí Minh”1.
Trong bài viết “Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam”, tác giả Đào Trí Úc phân tích khái niệm tư tưởng này ở nội hàm là quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung của hiến pháp: “Theo tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, Hiến pháp là sự tổng hòa của các yếu tố: tư
tưởng về dân chủ, sự ràng buộc của quyền lực nhà nước bởi hiến pháp và pháp luật để qua đó mà kiểm soát quyền lực, sự bảo đảm của các nguyên tắc pháp quyền, tôn trọng và bảo đảm nhân quyền”2.
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu trong các công trình nghiên cứu đã công bố, qua nghiên cứu tư tưởng lập hiến
________________
1. Bùi Ngọc Sơn: Tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr.14.
2. Đào Trí Úc: “Sự phát triển của chủ nghĩa lập hiến hiện đại ở Việt Nam”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2007, tr.4.
16
Hồ Chí Minh, có thể đưa ra khái niệm: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện, sâu sắc về vấn đề lập hiến ở Việt Nam, từ vai trò, chủ thể, nội dung và điều kiện lập hiến, với nội dung cốt lõi là xây dựng bản Hiến pháp dân chủ. Tư tưởng ấy chứa đựng giá trị khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc, trở thành nền tảng lý luận cho việc xây dựng các bản hiến pháp trong lịch sử lập hiến của dân tộc, cho sự ra đời tư tưởng lập hiến Việt Nam hiện đại và góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng lập hiến của nhân loại.
Định nghĩa trên bao hàm hai nội dung chính: Thứ nhất, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh không phải là sự tập hợp đơn giản những ý tưởng, suy nghĩ của Hồ Chí Minh về hiến pháp trong các giai đoạn cụ thể; mà là một hệ thống quan điểm liên hệ chặt chẽ với nhau, mang tính toàn diện, bao quát về những vấn đề cơ bản nhất của lập hiến: vai trò của hiến pháp, chủ thể lập hiến, nội dung hiến pháp và điều kiện lập hiến; trong đó, hạt nhân cốt lõi là xây dựng bản Hiến pháp dân chủ cho dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trên phương diện lý luận và thực tiễn, dân tộc và nhân loại. Tư tưởng ấy đặt nền tảng cho sự ra đời của tư tưởng lập hiến Việt Nam hiện đại, trở thành nền tảng lý luận để
xây dựng các bản Hiến pháp dân tộc; góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng lập hiến nhân loại ở các nội dung về
17
chính thể nhà nước mới, về mô hình tổ chức quyền lực và các giá trị nhân văn trong việc khẳng định quyền con người, quyền dân tộc.
II- CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH
1. Tiền đề tư tưởng - lý luận
a) Chủ nghĩa hiến pháp phương Tây
Từ những năm học ở trường Quốc học Huế, được làm quen với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, Nguyễn Tất Thành có ý định sang phương Tây tìm hiểu thực chất của tư tưởng đó. Trong thời gian hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc được tiếp xúc, nghiên cứu chủ nghĩa hiến pháp đang phát triển rất mạnh mẽ và phổ biến ở các nước phương Tây.
Chủ nghĩa hiến pháp là sản phẩm pháp lý của thời kỳ quá độ từ chế độ quân chủ chuyên chế sang chế độ tư bản chủ nghĩa, gắn với lịch sử đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm giành quyền lực chính trị và thiết lập một trật tự chính trị - pháp lý mới. Chủ nghĩa hiến pháp gắn liền với quan niệm về pháp quyền, về một chính phủ hữu hạn mà thẩm quyền tối hậu của nó luôn luôn phải tuân thủ sự đồng ý của nhân dân. Quyền lực của người cầm quyền và các cơ quan chính phủ bị giới hạn thông qua những quy trình định sẵn. Đại diện tiêu biểu cho chủ nghĩa hiến
18
pháp thời kỳ này là các chính khách như Thômát Giécphécxơn và Giêm Mađisơn, các triết gia như Thômát Hốpbơ, Giôn Lốccơ, Môngtétxkiơ…
Những yếu tố cấu thành chủ nghĩa hiến pháp gồm hai nội dung chính: quyền lực và nội dung của hiến pháp. Theo đó, hiến pháp phải có quyền lực tối cao, không một cơ quan nào của chính quyền được đình chỉ thi hành hiến pháp hay đơn phương sửa đổi hiến pháp. Về nội dung hiến pháp là vấn đề chủ quyền nhân dân, nhân quyền, phân quyền.
Để giới hạn quyền lực nhà nước, các nhà lập hiến chủ trương phân chia, phân công, phân nhiệm và kiểm tra bằng cơ chế kìm chế và đối trọng. Bằng cách phân định công việc của nhà nước cho ba ngành độc lập, các nhà soạn thảo hiến pháp đảm bảo rằng những quyền lực của nhà nước không bị thao túng bởi nhánh quyền lực nào. Giôn Lốccơ là người khởi thảo học thuyết phân quyền. Ông cho rằng sự phân biệt các quyền là điều kiện tiên quyết và quan trọng để đảm bảo tự do. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và liên hợp. Trong tác phẩm kinh điển Tinh thần pháp luật, Môngtétxkiơ phát triển quan điểm này khi phân chia quyền lực nhà nước thành ba quyền là lập pháp, hành pháp và tư pháp; ba nhánh quyền lực này chia tách, độc lập, cân bằng quyền lực. Đồng thời, mỗi nhánh quyền lực bị kiềm chế, kiểm soát bởi các quyền của hai nhánh kia. Tương ứng với ba quyền đó là ba cơ quan Quốc hội, Chính phủ và Tòa án độc lập với nhau có
19
phương thức hình thành, cách thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng nhưng ràng buộc lẫn nhau. Phương thức để nhân dân ủy thác quyền lực cho người đại diện là bầu cử.
Bên cạnh đó, trong quan niệm của các nhà lập hiến, vấn đề nhân quyền và bảo đảm nhân quyền là một nội dung quan trọng của hạn chế quyền lực nhà nước, là nội dung cơ bản nhất của hiến pháp, chi phối kết cấu và các nội dung khác. Quyền con người không chỉ là những quy định cụ thể trong hiến pháp mà chủ yếu hiến pháp phải chỉ ra những hành vi mang tính trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm cho những nhân quyền đó không được vi phạm. Các nhà học giả tư sản đã dựa trên hai nền tảng chủ yếu là quyền tự nhiên và khế ước xã hội để bảo vệ quyền con người, chống lại sự độc đoán, chuyên quyền của nhà nước. Trong tác phẩm Khế ước xã hội, Rútxô khẳng định các quyền con người như quyền tự do, quyền bình đẳng là “quyền tự nhiên và quyền của mọi người được ấn định bởi luật pháp”1, cũng như “luật không áp dụng cho riêng một cá nhân nào”2. Rútxô đề cao chủ quyền nhân dân, tức ý chí chung của cộng đồng xã hội (nhân dân). Theo Rútxô, chủ quyền nhân dân mang tính chất tối cao, không thể từ bỏ và không thể phân chia. Việc chia quyền lực nhà nước thành quyền hành pháp, lập pháp, tư pháp chỉ là biểu hiện bên ngoài, còn thực chất, các bộ ________________
1, 2. Jean - Jacques Rousseau: Khế ước xã hội, Dịch giả GS. Dương Văn Hóa, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2008, tr.75, 77.
20
phận này đều phụ thuộc vào và nhằm thực hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Quyền lực chính trị của chính quyền sẽ bị thu hồi bất kỳ lúc nào nếu chính quyền không làm đúng chức năng được nhân dân giao phó. Từ
tư tưởng về chính quyền nhân dân, Rútxô tìm đến giải pháp chính trị theo chính thể cộng hòa, là hình thức cầm quyền tốt nhất trong đó quyền lập pháp thuộc về nhân dân, quan chức do nhân dân bầu ra.
Tiếp xúc, nghiên cứu chủ nghĩa hợp hiến phương Tây, Hồ Chí Minh đã hình thành quan điểm về sự cần thiết, tính tối cao của hiến pháp; về vai trò của nhân dân trong việc thiết lập hiến pháp và thực thi quyền lực nhà nước; về
sự phân công quyền lực nhằm hạn chế sự lộng quyền của nhà nước. Ngoài ra, quan điểm về quyền tự nhiên, tự do, bình đẳng của con người trước pháp luật; về chủ quyền nhân dân, luật pháp và chính phủ tồn tại để phục vụ nguyện vọng của nhân dân mà không phải để áp đặt sự thống trị lên họ được khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và hình thành nên các quan điểm nhất quán về quyền và nghĩa vụ của công dân. Tuy nhiên, không chỉ nhận thức vai trò hiến pháp với việc khẳng định chủ quyền nhân dân, lập nên chế độ nhà nước mới, với Hồ Chí Minh, hiến pháp còn là văn kiện để khẳng định, xác lập nền độc lập dân tộc. Nếu học thuyết “tam quyền phân lập” là sự phân chia quyền lực một cách tuyệt đối dẫn đến sự đối trọng, kiềm chế lẫn nhau, thì đến Hồ Chí Minh, sự phân quyền chính là sự
21
phân công hợp lý, cùng phối hợp trong một chỉnh thể thống nhất của quyền lực nhà nước.
b) Lý luận Mác - Lênin về hiến pháp
Để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về hiến pháp, không thể không nhắc đến cơ sở lý luận quan trọng nhất là: chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau nhiều năm ra đi tìm đường cứu nước, tìm tòi, khảo nghiệm Hồ Chí Minh đã có sự lựa chọn đúng đắn là đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bên cạnh kế thừa giá trị tiến bộ của pháp quyền tư sản là đề cao dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, vị trí tối thượng của pháp luật, trên cơ sở nhìn nhận bản chất giai cấp của nhà nước, chủ nghĩa Mác cho rằng sự ra đời và phát triển của hiến pháp bất kỳ nước nào đều là kết quả và sự đúc kết kinh nghiệm đấu tranh giai cấp, biểu thị mối tương quan của các lực lượng, giai cấp ở những thời kỳ lịch sử nhất định. Từ thực tế lịch sử, C. Mác đã chỉ ra rằng, hiến pháp là kết quả sự vận động của đời sống chính trị, không những nội dung, mà cả hình thức của nó đều chịu tác động trực tiếp của tiến trình đấu tranh giai cấp. Đó là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật để bảo vệ giai cấp mình. Vì vậy, hiến pháp mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng là công cụ pháp lý mang tính cưỡng bức của giai cấp nắm quyền lực nhà nước, nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và duy trì trật tự công cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền.
22
Học thuyết Mác tiếp cận vấn đề quyền lực nhà nước từ góc độ quyền lực chính trị, từ bản chất giai cấp gắn liền với chế độ chính trị, nên không chấp nhận sự phân chia quyền lực nhà nước. Phê phán quan điểm phân quyền trong nhà nước tư sản, C. Mác đã đưa ra quan niệm mới cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất và phải tập trung vào tay nhân dân. Phân quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp chỉ là sự phân công lao động trong quyền lực nhà nước thống nhất. Đồng thời, C. Mác đưa ra những ý tưởng có tính nguyên tắc về nhà nước: nhân dân bầu, giám sát đại biểu của mình; các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp đều chịu trách nhiệm trước cử tri, có thể bị
bãi miễn; nhà nước thực hiện đầy đủ nguyên tắc của chế độ tập trung dân chủ; nhân dân tham gia quản lý kinh tế, văn hóa và xã hội.
C. Mác khẳng định chủ quyền nhân dân là quyền lực tối cao của nhà nước: “Chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua, mà ngược lại, chủ quyền của nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân”1. Khi nghiên cứu các hình thức nhà nước trong lịch sử thì C. Mác cho rằng “với chế độ dân chủ thì nhà nước, luật pháp, chế độ nhà nước là yếu tố thống trị, nhưng nhà nước lại không thật sự thống trị, tức là nhà nước không thâm nhập một cách vật chất vào nội dung của những lĩnh vực phi chính trị khác. Trong chế độ quân ________________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.347.
23
chủ thì chế độ nhà nước, luật pháp, bản thân nhà nước - trong chừng mực nhà nước là một chế độ chính trị nhất định - chỉ là sự tự quy định của nhân dân và là nội dung xác định của nhân dân”1.
C. Mác nêu lên quan điểm về một nhà nước đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật, mà pháp luật sở dĩ có quyền lực ràng buộc nhà nước bởi nó xuất phát từ ý nguyện của nhân dân. Luật pháp khởi nguồn từ tự nhiên trong xã hội, là những quy tắc vốn có trong xã hội hợp với ý chí của nhân dân. Nhà lập pháp chỉ có trách nhiệm phát hiện ra chúng và nêu lên thành luật. Nhà nước tuân theo pháp luật có nghĩa là nhà nước phục tùng luật của nhân dân, luật chung của loài người.
Phát triển quan điểm chủ nghĩa Mác về hiến pháp, theo V.I. Lênin thực chất của hiến pháp là ở chỗ những “đạo luật cơ bản của nhà nước nói chung và những đạo luật có liên quan đến quyền bầu cử vào các cơ quan đại nghị, đến quyền hạn của các cơ quan đại nghị đó, v.v. thể hiện được sự so sánh thực tế các lực lượng trong cuộc đấu tranh giai cấp. Hiến pháp sẽ là giả tưởng khi mà luật pháp và thực tế không phù hợp với nhau. Nếu luật pháp và thực tế phù hợp với nhau thì hiến pháp sẽ
không phải là giả tưởng”2. Hiến pháp, như V.I. Lênin đã nhấn mạnh là chính trị, là một biện pháp của chính trị,
________________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.351. 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.17, tr.424.
24
vì vậy, hiến pháp là văn bản phản ánh nội dung chính trị của đời sống xã hội.
Qua tìm hiểu lịch sử của giai cấp tư sản và thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga 1917, V.I. Lênin rút ra vai trò quan trọng của hiến pháp với tư cách là đạo luật cơ bản của hệ thống pháp luật nhà nước. Theo V.I. Lênin, việc định hướng điều chỉnh chính trị xã hội là việc làm đầu tiên, cực kỳ quan trọng sau khi giành chính quyền của cả giai cấp tư sản và vô sản. Bởi vậy, “bất kỳ một giai cấp nào khác, giai cấp công nhân, khi đã giành được chính quyền rồi, thì phải thông qua việc thay đổi quan hệ sở hữu và thông qua việc thực hành hiến pháp mới mà nắm vững và giữ gìn, củng cố chính quyền”1.
Trong bối cảnh ra đời của chủ nghĩa Mác, khi cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra quyết liệt, những nhà kinh điển chủ nghĩa Mác xem hiến pháp như là một công cụ tổ chức việc cai trị, chứ không thuần túy là một công cụ tiết chế quyền lực nhà nước. Với tư cách là một hình thức tổ chức chính quyền chuyên chính vô sản, hiến pháp xã hội chủ nghĩa phải đặt trong mục tiêu chung của giai cấp vô sản là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lênin quan niệm hiến pháp như một công cụ củng cố, tăng cường quyền lực nhà nước nhằm thực hiện chuyên chính vô sản, và là một hình thức định hướng xã hội chủ nghĩa cho các định chế chính trị và xã hội. Điều này dẫn đến quy định
________________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.40, tr.314.
25
của hiến pháp về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tổ chức chính quyền theo nguyên tắc tập quyền, chế độ kinh tế - văn hóa - xã hội chủ nghĩa, các quyền công dân được thực hiện theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa để thiết lập mô hình lập hiến của Việt Nam, cũng như vận dụng sáng tạo vào việc xây dựng hai bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc với nét nổi bật là tạo dựng thể chế chính trị với quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh đến tính giai cấp của hiến pháp, chủ yếu xác lập nhà nước chuyên chính vô sản, bảo đảm quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, thì đến Hồ Chí Minh, hiến pháp dân chủ là hiến pháp của toàn dân và nhà nước dân chủ mới được ghi nhận trong hiến pháp là nhà nước đem lại quyền dân chủ cho tất cả các tầng lớp nhân dân.
c) Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn
Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn là một triết lý chính trị hướng tới việc biến Trung Quốc thành một quốc gia tự do, thịnh vượng và hùng cường; trong đó, ba nội dung cơ bản nhất là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Tôn Trung Sơn cho rằng chủ nghĩa dân tộc là động lực cơ bản để một dân tộc sinh tồn và phát triển. Tôn Trung Sơn giải thích nguyên nhân vì sao một nước đông dân, có lịch sử văn minh lâu đời như Trung Quốc lại trở nên một
26
nước nghèo, có địa vị thấp kém ở quốc tế vì Trung Quốc chỉ có những gia tộc và tông tộc, không có tinh thần dân tộc. Trong điều kiện Trung Quốc bị phong kiến Mãn Thanh thống trị và bị các nước phương Tây xâu xé, muốn giành độc lập dân tộc, cần “phải đề xướng chủ nghĩa dân tộc, dùng tinh thần dân tộc để cứu nước”1, cần phải thức tỉnh, đoàn kết, tập hợp lực lượng từ gia tộc tới tông tộc, rồi đến quốc tộc.
Dân quyền là sức mạnh chính trị của nhân dân. “Chính là việc của dân chúng, trị là quản lý. Suy ra, quản lý việc của dân chúng thì gọi là chính trị. Lực lượng quản lý việc của dân chúng thì gọi là chính quyền. Nay nhân dân quản lý công việc chính trị nên gọi là dân quyền”2. Như vậy, Tôn Trung Sơn đề cập tới dân quyền với nội dung cốt lõi là dân chủ. Để thực hiện dân quyền, phải thực hiện các quyền của dân và của chính phủ. Theo Tôn Trung Sơn, người dân có 4 quyền lợi chính trị căn bản: quyền bầu cử, bãi miễn, sáng chế, phúc quyết. Chính phủ có 5 quyền: quyền hành chính, quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền khảo thí, quyền giám sát. “Dùng 4 chính quyền của nhân dân để quản lý 5 trị quyền của chính phủ, như vậy mới được xem là một cơ quan chính trị dân quyền hoàn hảo”3. Việc thực hiện các quyền này, có thể hiện thực hóa bằng một chính phủ có hiến pháp, giống như chính phủ Mỹ,
________________
1, 2, 3. Tôn Trung Sơn: Chủ nghĩa Tam dân, Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.124, 162-163, 309.
27
tuy nhiên điểm khác ở đây tổ chức chính phủ “ngũ quyền phân lập” so với “tam quyền phân lập” ở phương Tây. Theo tinh thần hiến pháp ấy, người dân Trung Hoa được lựa chọn người tài đức, lựa chọn chính phủ có đủ năng lực, hết lòng lo cho việc công ích để giao trị quyền cho họ. Như vậy, Tôn Trung Sơn đã thống nhất bốn quyền lớn của nhân dân và năm quyền của chính phủ trong một chỉnh thể, hình thành một chế độ chính trị mới mà ở đó, nhân dân đã thực sự có quyền của mình, thực hiện một nền dân chủ và một nhà nước kiểu mới. Quan điểm của Tôn Trung Sơn về ngũ quyền là sự sáng tạo về một nhà nước pháp quyền, ở đó có sự kết hợp giữa văn minh chính trị phương Tây với truyền thống văn hóa và thực tiễn Trung Quốc bấy giờ.
Bàn về chủ nghĩa dân sinh, Tôn Trung Sơn đưa ra định nghĩa: “Có thể nói chủ nghĩa dân sinh là đời sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của quần chúng”1. Những nội dung cơ bản của dân sinh là các nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại. Để giải quyết nhu cầu dân sinh cho nhân dân, cần thực hiện hai chính sách “bình quân địa quyền”, “tiết chế tư bản” và sau đó thực hiện “người cày có ruộng”, thay đổi chủ nghĩa tư bản tư nhân bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tôn Trung Sơn tin rằng, nếu làm được như vậy thì phúc lợi xã hội sẽ dồi dào, mọi người đều được hưởng ấm no, hạnh phúc.
________________
1. Tôn Trung Sơn: Chủ nghĩa tam dân, Sđd, tr.317. 28
Dân tộc, dân quyền và dân sinh theo quan niệm của Tôn Trung Sơn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Giành lại độc lập cho dân tộc, lật đổ triều đại Mãn Thanh, đánh đuổi các thế lực tư bản phương Tây là điều kiện tiên quyết để
có dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Đồng thời, có thực hiện dân quyền mới đảm bảo dân sinh. Ý tưởng của chủ nghĩa tam dân là ““dân hữu, dân trị, dân hưởng”. Ý tưởng của dân hữu, dân trị, dân hưởng là nhân dân cộng hữu quốc gia, nhân dân cộng quản chính trị, nhân dân cộng hưởng lợi ích”1.
Nghiên cứu học thuyết Tôn Trung Sơn, Hồ Chí Minh đã thấy ở đó những tư tưởng thích hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, đó là nhu cầu cơ bản của dân tộc Việt Nam bấy giờ và khát khao tột bậc thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Việc tìm hiểu chủ nghĩa tam dân đã góp phần giúp Hồ Chí Minh bổ sung về mô hình phát triển đất nước, về con đường tạo lập một chính thể mới cho đất nước, một chính thể có thể đáp ứng khát vọng “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho nhân dân và dân tộc Việt Nam.
d) Tư tưởng lập hiến của các nhà cách mạng Việt Nam tiền bối
Chủ nghĩa hiến pháp phương Tây đã được du nhập mạnh mẽ vào Việt Nam đặc biệt qua làn sóng Tân thư ________________
1. Tôn Trung Sơn: Chủ nghĩa tam dân, Sđd, tr.369.
29
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và tiếp thu bởi nhiều phong trào, nhiều tổ chức như: Hội Duy Tân (1904 - 1912), Đông Kinh nghĩa thục (1907), nhóm Đông Dương tạp chí, Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ năm 1923... Những nội dung của chủ
nghĩa hiến pháp như: có một bản hiến pháp để giới hạn chính quyền, chính quyền dân chủ và chủ quyền nhân dân, phân chia quyền lực, các quyền cơ bản của con người, tư pháp độc lập đã được du nhập vào Việt Nam.
Phan Bội Châu là một trong những người đầu tiên đưa ra vấn đề lập hiến ở nước ta đầu thế kỷ XX. Nội dung tư tưởng lập hiến của Phan Bội Châu khá toàn diện, trong đó nổi bật là nhấn mạnh độc lập, chủ quyền quốc gia và dân quyền. Về độc lập dân tộc, Phan Bội Châu chủ trương với một quốc gia, khi bị xâm lược, việc giành lại độc lập, chủ quyền hoàn toàn, đối nội lẫn đối ngoại là vấn đề số một. Phan Bội Châu đã đề cập đến sự phân quyền giữa lập pháp và hành pháp: “Hình pháp, chính lệnh, thuế khoá, tiêu dùng đều do Nghị viện quyết định (...) Chính phủ không được can thiệp vào. Tuy rằng sắc chiếu của Hoàng đế rất là đáng tôn trọng, nhưng nếu Nghị viện không đồng ý thì cũng phải thu hồi mệnh lệnh đó”1. Với vấn đề dân quyền, Phan Bội Châu quan niệm dân quyền được đề cao thì nước mạnh, dân quyền hoàn toàn mất thì nước mất. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, còn chính phủ chỉ đóng vai trò là đại biểu, người đại diện cho nhân dân. ________________
1. Phan Bội Châu: Toàn tập, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1990, t.2, tr.387.
30
Phan Châu Trinh đề cao vai trò của hiến pháp như một công cụ pháp lý để hạn chế quân quyền độc tôn và hà lạm. Phan Châu Trinh kịch liệt phản đối chế độ quân chủ mà ông gọi là “quân trị” và đòi thực hiện chế độ cộng hòa tư sản mà ông gọi là “dân trị”, với việc đề cao lý tưởng dân quyền. Mô hình lý tưởng theo Phan Châu Trinh là tổ chức nhà nước của các nước phát triển ở châu Âu lúc bấy giờ (như Anh, Pháp...), được tổ chức và điều hành theo nguyên tắc cơ bản là “tam quyền phân lập”, với cơ chế lập pháp giao cho Nghị viện; hành pháp đứng đầu là Giám quốc (Tổng thống) do Nghị viện bầu ra; và tư pháp giao cho các cơ quan xét xử độc lập đối với hai ngành kia. Trong cơ chế quyền lực ấy, Phan Châu Trinh ủng hộ có nhiều đảng phái. Ông đề cao yếu tố pháp trị với việc khẳng định vai trò của pháp luật và mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Huỳnh Thúc Kháng đã nhận thức vai trò quan trọng của hiến pháp chính là công cụ hữu hiệu phân định quyền hạn, một giới hạn để quản lý, kiềm chế quyền lực và xác định trách nhiệm của nhà nước. Huỳnh Thúc Kháng cũng chỉ ra cách thức xây dựng bản hiến pháp cho nước Việt Nam là phải lập ra một hội gọi là dự thảo hiến pháp và phải chú ý để nhân dân tự do đầu phiếu. Huỳnh Thúc Kháng đã phản bác mạnh mẽ quan điểm “dân An Nam chưa có trình độ lập hiến” của chính quyền thuộc địa. Về thể chế nhà nước, Huỳnh Thúc Kháng lúc đầu chủ trương thiết lập chế độ quân chủ lập hiến nhưng sau đó chuyển
31
sang chế độ dân chủ đại nghị. Huỳnh Thúc Kháng có quan điểm hết sức tiến bộ về vấn đề dân quyền. Huỳnh Thúc Kháng vạch rõ và phê phán sự bất bình đẳng trong xã hội, sự cách biệt quá lớn giữa các giai tầng, từ đó, chủ trương xây dựng một xã hội bình đẳng và bình quyền.
Tầng lớp tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc thời kỳ này tham gia sôi nổi diễn đàn đấu tranh lập hiến. Tiêu biểu là Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường với chủ trương xây dựng một hiến pháp dân chủ cho Việt Nam. Trong điều kiện đất nước mất chủ quyền, hai ông có quan điểm tiến bộ khi cho rằng độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia là những vấn đề sinh tử. Đồng thời, hai ông đã đấu tranh mạnh mẽ cho việc thực hiện nhân quyền và dân quyền cho nhân dân Việt Nam. Về tổ chức bộ máy nhà nước, Nguyễn An Ninh lên án chế độ quân chủ và hướng tới chính thể Cộng hòa trong đó có Nghị
viện đại diện cho quyền lợi của dân phải bao gồm những đại biểu do dân bầu ra một cách dân chủ. Về mô hình nhà nước, Phan Văn Trường chủ trương xây dựng nhà nước cộng hòa và phải thực hiện tam quyền phân lập triệt để.
Có điều kiện tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với các nhà cách mạng tiền bối đã giúp Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề về độc lập dân tộc, về các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam, về việc cải cách chế độ
chính trị theo hướng dân chủ. Từ việc tìm hiểu về tư tưởng lập hiến của những người đi trước, về cuộc đấu
32
tranh sôi nổi giữa các luồng tư tưởng lập hiến đa dạng đầu thế kỷ XX ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã rút ra điểm tiến bộ và hạn chế, phù hợp và chưa phù hợp để hình thành quan điểm về lập hiến đáp ứng yêu cầu của xã hội Việt Nam bấy giờ.
2. Thực tiễn đời sống pháp luật Việt Nam và thế giới
a) Thực tiễn đời sống pháp luật Việt Nam dưới chế độ thuộc địa
Nửa sau thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam. Từ một quốc gia phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một thuộc địa của Pháp. Dân tộc Việt Nam bị tước đoạt quyền độc lập, phải cam chịu thân phận nô lệ dưới chế độ thực dân. Chính hoàn cảnh đó đã sớm nhen nhóm trong Hồ Chí Minh lòng yêu nước, thương dân, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí tìm đường cứu nước. Bởi vậy, tư tưởng lập hiến của Người ra đời, trước hết là để góp phần phục vụ mục tiêu giải phóng dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Sau khi hoàn thành xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã thiết lập chính quyền thuộc địa. Năm 1887, khi Liên bang Đông Dương được thành lập, đứng đầu liên bang là một viên chức cao cấp người Pháp, mang chức danh Toàn quyền Đông Dương do Tổng thống Pháp bổ
nhiệm bằng sắc lệnh. Toàn quyền Đông Dương là người đại diện cho Chính phủ Pháp ở thuộc địa, được ủy nhiệm
33
thực hiện những “quyền lực của nước Cộng hòa Pháp ở Đông Dương”, thực hiện cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Để thiết lập hệ thống cai trị, thực dân Pháp thi hành chính sách “địa phương phân quyền”. Chúng chia Đông Dương thành 5 xứ theo các thể chế chính trị khác nhau: Nam Kỳ là xứ thuộc địa, do viên Thống đốc đứng đầu; Bắc Kỳ là xứ bảo hộ do viên Thống sứ đứng đầu; còn 3 xứ: Trung Kỳ, Lào, Campuchia tuy cũng là xứ bảo hộ nhưng mỗi xứ lại có viên Khâm sứ đứng đầu. Toàn quyền Đông Dương chỉ cần nắm lấy 5 viên chức chóp bu đó. Đến lượt mình, mỗi viên chức chóp bu lại nắm lấy mạng lưới những viên quan cai trị thực dân đứng đầu cấp tỉnh thuộc xứ mình cai trị. Hệ thống vua quan người bản xứ đều trở
thành công cụ của các viên chức Pháp kể trên. Để cai trị Việt Nam, thực dân Pháp đã áp dụng một chế độ pháp luật hà khắc, độc đoán, phản dân chủ đồng thời với việc dùng bạo lực dã man đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Ở Nam Kỳ và các thành phố nhượng địa (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) các tòa án thuộc địa do thực dân Pháp trực tiếp nắm và điều khiển, xét xử mọi việc với người Việt Nam theo pháp luật thực dân. Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, quan lại nắm quyền hành chính, đồng thời nắm cả quyền xét xử về hình và hộ theo luật pháp bản xứ. Nhân dân Việt Nam bị tước hết mọi quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, có thể bị bắt và giam giữ bất cứ lúc nào, thậm chí bị kết án tử hình vắng mặt.
34
Chính quyền thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam không có cơ sở hiến định, không có những giới hạn cho việc thực thi quyền lực. Điều này là cơ sở cho cách cai trị tùy tiện, chuyên chế của chính quyền thực dân và sự
xâm phạm nghiêm trọng các quyền con người. Từ thực trạng của đất nước, Hồ Chí Minh có nhiều bài viết tố cáo, bóc trần cái gọi là “khai hóa văn minh” của chế độ cai trị thực dân Pháp. Người chỉ ra sự thật công lý ở Đông Dương: “Ở Đông Dương có hai thứ công lý. Một thứ cho người Pháp, một thứ cho người bản xứ. Người Pháp thì được xử như ở Pháp. Người An Nam thì không có hội đồng bồi thẩm, cũng không có luật sư người An Nam. Thường người ta xử án và tuyên án theo giấy tờ, vắng mặt người bị cáo. Nếu có vụ kiện cáo giữa người An Nam với người Pháp thì lúc nào người Pháp cũng có lý cả, mặc dù tên này ăn cướp hay giết người...”1. Hướng tới mục tiêu đòi lại công lý cho nhân dân An Nam, bảo vệ các quyền của con người, Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu nhà nước phải được tổ chức theo hiến pháp, từ đó để thiết lập một nền pháp quyền.
Sau thất bại của phong trào Cần Vương, do ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản, phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Trong giới trí thức Việt Nam đã xuất
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.445.
35
hiện tư tưởng lập hiến với hai khuynh hướng chính. Khuynh hướng thứ nhất, thiết lập chế độ quân chủ lập hiến ở Việt Nam dưới sự bảo hộ của Pháp, cầu xin Pháp ban bố cho Việt Nam một bản hiến pháp, trong đó quyền của thực dân Pháp vẫn được duy trì, quyền của Hoàng đế Việt Nam cần hạn chế và quyền của “dân An Nam” về tự
do, dân chủ được mở rộng. Khuynh hướng thứ hai, chủ trương đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc và sau khi giành được độc lập sẽ xây dựng bản hiến pháp của nhà nước độc lập đó. Hiến pháp phải do một nghị viện thực sự đại diện cho nhân dân soạn thảo, biểu quyết trong điều kiện đã độc lập. Tuy có những điểm khác biệt nhưng nói chung, tư tưởng lập hiến đầu thế kỷ XX đều thống nhất đề cao hiến pháp, khẳng định sự cần thiết phải có hiến pháp, hướng tới việc xây dựng chính thể nhà nước theo mô hình nhà nước tư sản (quân chủ lập hiến hoặc cộng hòa dân chủ) với ý niệm tam quyền phân lập một cách thực sự rõ ràng, đồng thời đề cao dân quyền theo quan điểm tư sản. Các tư tưởng tiến bộ này đã thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi độc lập, tự do, bình đẳng. Tuy nhiên, đến những năm 20 của thế kỷ XX, về cơ bản các trào lưu yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều thất bại. Đó chính là sự thất bại và bất lực của tư tưởng lập hiến dân chủ tư sản ở Việt Nam. Từ thực tiễn này, thôi thúc Hồ Chí Minh đi tìm con đường mới, một mô hình hiến pháp mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam.
36
b) Thực tiễn đời sống pháp luật thế giới
Trên thế giới, chủ nghĩa hiến pháp hình thành gắn liền với cuộc đấu tranh chống chế độ quân chủ chuyên chế. Nước Anh là quốc gia đi tiên phong trong việc xây dựng và thực hành chính quyền hợp hiến hiện đại. Thắng lợi đầu tiên ở Anh với việc các bá tước ép vua ban hành Đại hiến chương Magna Carta năm 1215, theo đó hạn chế quyền lực của nhà vua, đồng thời thừa nhận một số quyền tự do của con người. Sang thế kỷ XVII, hàng loạt các đạo luật được Nghị viện Anh đề cập việc bảo vệ quyền con người như Luật cấm bắt giam người trái pháp luật năm 1679, Luật về các quyền năm 1689 quy định về quyền bầu cử Nghị viện và quyền tự do ngôn luận trong hoạt động của Nghị viên. Ở Anh, không có một bản hiến pháp thành văn cụ thể, mà là tập hợp một số luật và các nguyên tắc pháp luật, các điều ước quốc tế, các án lệ, tập quán của Nghị viện và các nguồn khác. Cùng với sự thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản, từ cuối thế kỷ XVIII, các hiến pháp thành văn bắt đầu được xây dựng ở Hoa Kỳ (năm 1787), Pháp (năm 1791). Sang thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, nhiều nước ở châu Âu đã ban hành hiến pháp. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng loạt các bản hiến pháp mới được ra đời ở các nước bại trận và các nước mới giành độc lập. Tư tưởng chủ đạo để xây dựng hiến pháp là đấu tranh chống chế độ phong kiến chuyên chế, đòi hỏi thực hiện các quyền con người; đòi hỏi về một chế độ dân chủ dưới hình thức chính thể cộng hòa hay chế độ đại nghị.
37
Các bản hiến pháp tư sản đã khẳng định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Nhưng người dân không thể trực tiếp sử dụng toàn bộ quyền lực nhà nước của mình, nên thỏa thuận thông qua văn bản hiến pháp để
giao quyền, ủy quyền cho nhà nước. Bởi vậy, hiến pháp được coi là điều kiện của một chính quyền hợp hiến. Các bản hiến pháp thời kỳ này thường có nội dung hẹp, chủ yếu quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và một số quyền cơ bản của công dân. Dựa trên học thuyết phân quyền, tuy có sự thể hiện khác nhau, nhưng đều quy định quyền lực nhà nước được cấu thành bởi ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; ba quyền có sự độc lập tương đối, có sự phân định nhiệm vụ quyền hạn và có sự chế ước lẫn nhau. Dựa trên học thuyết về luật pháp tự nhiên, quyền con người, quyền công dân được quan niệm là các quyền tự nhiên của con người. Nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo, không được xâm phạm các quyền đó. Trên cơ sở thuyết chủ quyền nhân dân, quyền lập hiến thuộc về nhân dân nên quy trình thủ tục lập hiến thường được tiến hành dân chủ, chặt chẽ bằng các quy định của hiến pháp về đa số đồng ý trong Hội nghị Lập hiến, Quốc hội Lập hiến hay tiến hành trưng cầu dân ý.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, với sự ra đời Nhà nước Xôviết, bên cạnh mô hình hiến pháp tư sản, trên thế giới xuất hiện mô hình hiến pháp của các nước xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu các bản Hiến pháp Nga năm 1918, Hiến pháp Liên Xô năm 1924 và năm 1936. Theo
38
mô hình hiến pháp Liên Xô, chủ quyền nhân dân được thay thế bằng nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Các bản hiến pháp xác định chính thể Nhà nước cộng hòa Xôviết. Tổ chức quyền lực nhà nước được quy định dựa trên nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa không chấp nhận nguyên tắc phân chia quyền lực. Xôviết tối cao được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thành lập ra các cơ quan hành pháp, tư pháp và có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan này. Cơ quan hành pháp và tư pháp phải báo cáo về hoạt động của mình trước cơ quan Xôviết tối cao. Phạm vi điều chỉnh hiến pháp mở rộng quy định cả
những vấn đề kinh tế, văn hóa, an ninh - quốc phòng và đối ngoại. Hiến pháp quy định không chỉ tổ chức quyền lực nhà nước mà các thành tố cấu thành hệ thống chính trị. Trong các bản hiến pháp này, quyền công dân được mở rộng, không chỉ có các quyền chính trị, dân sự mà còn có các quyền kinh tế - văn hóa - xã hội. Trong quy trình lập hiến, việc lấy ý kiến đóng góp của đông đảo các tầng lớp nhân dân được coi trọng, nhưng không tiến hành phê chuẩn ý kiến của nhân dân thông qua trưng cầu dân ý.
Với tinh thần sáng tạo, Hồ Chí Minh đã học hỏi, tiếp thu những yếu tố tích cực từ các bản hiến pháp đó, xây dựng một mô hình hiến pháp riêng, tiến bộ và phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.
39
3. Phẩm chất Hồ Chí Minh
Nổi bật trước hết ở Hồ Chí Minh là tấm lòng yêu nước nồng nàn, sâu sắc. Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, chịu đựng mọi gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh cả cuộc đời để tìm con đường cứu nước, cứu dân. Trên hành trình vạn dặm ấy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với các nền văn hóa, những tư tưởng tiến bộ, những con người ưu tú và cách mạng; thấu hiểu tận cùng nỗi đau của dân tộc và nhân loại. Từ đó, Người tự làm giàu tri thức, vốn sống, văn hóa của mình, để hình thành tư tưởng cách mạng, trong đó có tư tưởng lập hiến với một trong những nội dung cốt lõi là vấn đề độc lập dân tộc.
Điểm đặc biệt ở Hồ Chí Minh đó là yêu nước gắn liền với thương dân. Người nhận thức một cách sâu sắc về vai trò, khả năng của nhân dân. Người coi trọng phẩm giá cao quý con người, có sự đồng cảm sâu sắc và niềm tin mãnh liệt với nhân dân lao động, đặc biệt với những người cơ cực nhất, khốn cùng nhất. Điều đó, đã tạo nên sự khác biệt trong chí hướng cách mạng của Người so với một số nhà cách mạng tiền bối. Với Hồ Chí Minh, cứu nước không chỉ là giành lại độc lập cho đất nước, mà cứu nước là để cứu dân, giải phóng dân tộc thống nhất với giải phóng nhân dân lao động, vì hạnh phúc của con người. Đòi dân tộc độc lập để dân quyền tự do, để mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân. Đây chính là khởi nguồn cho những quan điểm về quyền con người - nội dung
40
trọng yếu trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Với Người, pháp luật không phải để cai trị dân mà nhằm mục đích phục vụ nhân dân, việc thiết lập trật tự, khuôn khổ xã hội với những quy định mang tính ràng buộc cũng nhằm ghi nhận và bảo đảm thực thi quyền tự do, dân
chủ; bảo vệ phẩm giá tốt đẹp của con người. Hồ Chí Minh là người có bản lĩnh chính trị, trí tuệ thiên bẩm, tinh thần độc lập, tư chất ham học hỏi, nhạy bén với cái mới. Điều đó đã tạo nên ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành một năng lực quan sát, khả năng phân tích, phê phán tinh tường để khám phá điều mới mẻ. Ở độ tuổi 13, khi được biết đến khái niệm “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, Người muốn tìm xem những gì ẩn sau cụm từ ấy. Khâm phục tinh thần của các bậc tiền bối, nhưng Người vẫn quyết định đi theo con đường riêng của mình, sang phương Tây chứ không phải sang phương Đông với suy nghĩ tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. Với tầm nhìn sâu rộng và tư duy sắc sảo, Người đã có những nhận định đúng đắn về các phong trào cách mạng, phân tích sức mạnh các lực lượng cách mạng, về mặt tích cực và hạn chế của các cuộc cách mạng tư sản và cách mạng vô sản, để từ đó lựa chọn con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Tiếp xúc với trào lưu tư tưởng tiến bộ lúc bấy giờ của các nhà dân chủ tư sản và chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thâu thái những giá trị tích cực nhất, bổ sung và phát triển cho phù hợp điều kiện Việt Nam. Với bản lĩnh và trí
41
tuệ của mình, Người trực tiếp thiết kế mô hình và chỉ đạo xây dựng hiến pháp kiểu mới ở Việt Nam, mang đặc điểm riêng ở Việt Nam chứ không lệ thuộc vào những lý thuyết, mô hình sẵn có.
Hồ Chí Minh là người đấu tranh kiên quyết với những bất công, nghịch lý trong xã hội, đề cao công lý, tôn trọng lẽ phải. Người nhận thức sâu sắc muốn thực thi công lý, bảo vệ lẽ phải không chỉ dựa vào đạo đức, lòng tốt của con
người, mà cần một công cụ sắc bén, có hiệu lực mạnh mẽ, đó chính là pháp luật. Tư duy pháp lý của Hồ Chí Minh được hình thành từ rất sớm qua việc Người nghiên cứu các tác phẩm của Môngtétxkiơ và Rútxô. Ngay từ buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước, Người đã nhận thức vai trò quan trọng của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội;
sớm nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa quyền làm chủ xã hội, quyền dân chủ, tự do của nhân dân với hiến pháp và các đạo luật; thấy được vai trò của hiến pháp, của các đạo luật trong việc làm thay đổi tính chất của một chế độ chính trị từ chuyên chế, độc tài sang một nền chính trị dân chủ. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh nêu lên vấn đề phải có một bản Tuyên ngôn độc lập và bản hiến pháp dân chủ làm cơ sở
cho sự ra đời của một nhà nước hợp hiến. Trong suốt quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, Người luôn luôn quan tâm đến công tác lập hiến, lập pháp và coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cách mạng. Điều đó thể hiện sự nhạy bén về pháp lý
42
và tầm nhìn chiến lược của Người trong việc xây dựng chế độ mới thật sự tự do và dân chủ.
Có thể khẳng định, những phẩm chất cá nhân đó đã tác động trực tiếp đến việc Hồ Chí Minh tiếp nhận, lựa chọn, chuyển hóa, phát triển các giá trị của nền lập pháp dân tộc, tư tưởng chính trị pháp lý tiến bộ thành tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
III- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH
1. Giai đoạn trước năm 1920: Tiếp thu văn hóa lập pháp dân tộc, tư tưởng chính trị pháp lý trên thế giới và hình thành lý tưởng dân quyền
Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, từ nhỏ, Hồ Chí Minh có điều kiện được học tập Nho giáo cũng như được tìm hiểu về lịch sử dân tộc Việt Nam. Những kiến thức về Nho giáo và các trường phái tư tưởng Trung Quốc, những kiến thức lịch sử, văn hóa dân tộc mà Người được tiếp thu từ gia đình, nhà trường giúp Người có nền tảng văn hóa, làm cơ sở hình thành quan điểm về nhà nước và hiến pháp sau này. Bên cạnh đó, lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, từ rất sớm Hồ Chí Minh đã hình thành lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
Đi ra nước ngoài, tận mắt chứng kiến cuộc sống cùng cực, bị áp bức, đàn áp của các dân tộc thuộc địa và chứng
43
kiến cuộc sống bất bình đẳng giữa giai cấp tư sản và nhân dân lao động ở các nước tư bản phát triển, Hồ Chí Minh có thêm cơ sở vững chắc củng cố những suy nghĩ trước đây về sự suy đồi của nhà nước thực dân - phong kiến. Trong bài viết Tâm địa thực dân, Người chỉ ra nước Pháp là một nước Cộng hòa, nhưng trên thực tế những hành động của chúng đã bóp nghẹt quyền tự do, dân chủ ở thuộc địa. Người vạch trần bản chất phản dân chủ, vô nhân đạo, phi công lý của nền cai trị thực dân Pháp qua bộ mặt của các quan cai trị, qua việc ban hành và thực thi chính sách đối với người bản xứ ở Đông Dương... Có thể khẳng định, xuất phát từ lập trường dân tộc, dân chủ, từ lập trường “trong thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự
quyết”1, Nguyễn Ái Quốc đã khái quát nên bức tranh toàn cảnh sắc nét về một nền pháp lý ở thuộc địa nói chung, ở Việt Nam nói riêng.
Một trong những nét độc đáo trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh là Người đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật trước khi trở thành người cộng sản. Năm 1919, nhân danh nhóm người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị
Vécxây Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm với các nội dung đòi cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, dành cho người bản xứ những đảm bảo về pháp luật như người châu Âu, đặc biệt trong yêu sách thứ 7 đã đòi
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.10.
44
“Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”1. Đây là tác phẩm thể hiện rõ nét các đòi hỏi tự do, dân chủ của người dân thuộc địa, yêu cầu một chế độ cai trị văn minh - cai trị bằng luật pháp. Tuy chưa thể có những quan điểm rõ ràng về lập hiến, nhưng những khát vọng của Người về quyền con người, quyền dân tộc, đặc biệt những yêu cầu trong việc cải cách nền pháp lý Đông Dương đã thể hiện tư duy pháp lý tiến bộ và hiện đại của Hồ Chí Minh. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc chuyển thể nội dung Yêu sách của nhân dân An Nam thành Việt Nam yêu cầu ca và yêu sách thứ bảy đã chuyển thành 2 câu thơ lục bát “Bảy xin hiến pháp ban hành,/Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”2. Điều đáng chú ý là hai câu thơ lục bát này không những đã chuyển thể khá thành công nội dung của yêu sách thứ bảy mà đã nâng tầm: đòi ban hành hiến pháp, trên tinh thần “thần linh pháp quyền”. Đó là tinh thần thượng tôn pháp luật, trước hết là thượng tôn hiến pháp. Đến đây, một vấn đề mới đã hình thành trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc là quyền lợi của nhân dân phải được đảm bảo bằng hiến pháp.
2. Giai đoạn 1920 - 1930: Thời kỳ nghiên cứu lý luận Mác - Lênin và hình thành quan điểm về một số nội dung của lập hiến
Trong khi Nguyễn Ái Quốc khảo sát tìm tòi con đường cách mạng cứu nước, cứu dân, thì sự kiện chấn
________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441, 473.
45
động thế giới là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Không thỏa mãn với con đường cách mạng tư sản, Người tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga và V.I. Lênin. Năm 1920, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã có một sự lựa chọn mang tính cách mạng và khoa học. Về con đường cách mạng, Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng vô sản. Về lý luận, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Về mô hình nhà nước, Người lựa chọn kiểu nhà
nước vô sản, nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin. Nghiên cứu lý luận Mác - Lênin về nhà nước, pháp luật và hiến pháp, Nguyễn Ái Quốc có thêm cơ sở lý luận quan trọng để định hình kiểu nhà nước và hiến pháp tương lai ở Việt Nam. Những quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam theo học thuyết Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện rõ nét qua tác phẩm Đường kách mệnh. So sánh các cuộc cách mạng trên thế giới, Người khẳng định cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản mà phải là con đường cách mạng vô sản theo kiểu Cách mạng Tháng Mười Nga. Cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản nghĩa là hình thức chính thể được thiết lập sau khi giành chính quyền là hình thức chính thể thể hiện bản chất giai cấp vô sản. Nhà nước đó được tổ chức theo nguyên tắc nhà nước Xôviết là “giao chính quyền cho dân chúng số nhiều”.
46
Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các Văn kiện tại Hội nghị là Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng do Người khởi thảo đã đề ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, những nguyên tắc về xây dựng Chính phủ công nông: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1; “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”2; “Dựng ra Chính phủ công nông binh”3. Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng thể hiện những quan điểm cốt lõi về độc lập dân tộc và thiết chế dân chủ nhân dân, là văn kiện đánh dấu sự hình thành tư tưởng về thành lập nhà nước dân chủ nhân dân, về ghi nhận các quyền con người cơ
bản cho nhân dân Việt Nam của Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định, đây là giai đoạn hình thành quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về các vấn đề cách mạng Việt Nam, trong đó có vấn đề lập hiến.
3. Giai đoạn 1930 - 1945: Tiếp tục phát triển lý luận kết hợp với những thử nghiệm đầu tiên xây dựng lập hiến ở Việt Nam
Sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, trước những chuyển biến tích cực của tình hình cách mạng trong nước, tháng 01/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước cùng Đảng Cộng sản
________________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr.1.
47
Đông Dương trực tiếp lãnh đạo nhân dân đánh đuổi Pháp - Nhật giành chính quyền. Tháng 5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám với sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy. Về mặt nhà nước, Nghị quyết Trung ương 8 khẳng định “lúc đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ
thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung của toàn dân tộc”1. Có thể thấy từ chủ trương thành lập chính phủ công - nông binh đến thành lập chính quyền của chung của toàn thể dân tộc, thể hiện sự phát triển quan trọng của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh trong quan niệm về một kiểu nhà nước mang bản chất dân chủ nhân dân; nhà nước và pháp quyền dân chủ thích hợp với đất nước và con người Việt Nam. Bởi vì, như Người đã nói trong bức thư kêu gọi đồng bào, khi thành lập Mặt trận Việt Minh: “muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết”2.
Sau này, trong Chương trình Việt Minh, hình thức nhà nước được đề cập rõ hơn: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.114. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.230.
48
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”1. Chương trình Việt Minh với nội dung toàn diện về chính sách chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá như “bản hiến pháp lâm thời” của Việt Nam.
Tháng 10/1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho quốc dân đồng bào thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập “một cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra”2. Đại hội quyết định Tổng khởi nghĩa, cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng để lãnh đạo toàn dân. Quốc dân nổi dậy. Đại hội do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng, tổ chức lãnh đạo đã làm tròn vai trò của một “tiền Quốc hội”. Có thể khẳng định, đây là một hình thức tổ chức phản ánh tư tưởng lập hiến đặc sắc của Hồ Chí Minh được thực thi ngay trong tiến trình giải phóng dân tộc. Trong lời kêu gọi đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam “tức như Chính phủ lâm thời”. Các chính sách
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.7, tr.150.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.537.
49
và mệnh lệnh do Chính phủ lâm thời ban hành là căn cứ vào Chương trình mười điểm mà Đại hội Tân Trào đã thông qua. Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đã nhận xét sự kiện này như nền tảng của Hiến pháp năm 1946, là “Vương miện dát kim cương” trên đầu Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố trước thế giới về nền độc lập, chủ quyền của nhân dân Việt Nam. Sự kiện này thể hiện bước phát triển quan trọng trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh về một nhà nước hợp hiến và đặt nền móng pháp lý cho sự ra đời hiến pháp Việt Nam. Tuyên ngôn mở đầu từ các quyền tự nhiên của con người đã được thế giới thừa nhận thành những giá trị hiến định. Tuyên ngôn đề cao nguyên tắc quốc gia thống nhất, chủ quyền dân tộc và tự do dân chủ, khẳng định xây dựng chế độ Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, bảo đảm quyền độc lập dân tộc, tự do dân chủ cho công dân Việt Nam. Như vậy, Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam góp phần tạo lập và khẳng định một nền pháp lý và công lý mới của văn minh nhân loại, hướng tới công bằng, bình đẳng, xóa bỏ mọi áp bức, bất công trên bình diện quốc gia và quốc tế.
Như vậy, đến đây Hồ Chí Minh đã có quan niệm rõ ràng về ý nghĩa, vai trò, vị trí, cách làm ra hiến pháp, và
50
hiến pháp trong mối quan hệ với các phạm trù tự do, dân chủ, quyền tự quyết của các dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đồng thời chuẩn bị những điều kiện cho sự ra đời của một bản Hiến pháp dân tộc.
4. Giai đoạn 1946 - 1969: Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được hiện thực hóa và bổ sung phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam
Trong giai đoạn này, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh có điều kiện được hiện thực hóa, được bổ sung, phát triển qua thực tiễn chỉ đạo xây dựng các bản hiến pháp của dân tộc. Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra một trong sáu nhiệm vụ cấp bách lúc này là “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”1. Đến ngày 8/9/1945, Người ký Sắc lệnh số 14 về việc Tổng tuyển cử
để bầu Quốc dân đại hội. Tiếp đó, ngày 20/9/1945, Người tiếp tục ký Sắc lệnh số 34 thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là những văn bản có tính chất lập hiến đầu tiên, đến khi toàn dân bầu ra Quốc hội chính thức và Quốc hội bầu ra Chính phủ chính thức thì công tác lập hiến và lập pháp càng được đẩy mạnh.
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7.
51
Qua một chặng đường dài sau gần ba thập kỷ kể từ Yêu sách của nhân dân An Nam (năm 1919) gửi Hội nghị Vécxây đến năm l946, tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được hiện thực hóa qua bản Hiến pháp năm
1946. Hiến pháp ra đời đặt nền tảng cho việc thiết lập một thể chế chính trị dân chủ, với đầy đủ các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp, đoạn tuyệt với chế độ chính trị thực dân và quân chủ phong kiến. Nội dung của Hiến pháp năm 1946 phản ánh đậm nét quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân, thể chế nhà nước dân chủ nhân dân, các quyền con người và phương thức lập hiến. Hiến pháp năm 1946 thể chế hóa về mặt pháp lý quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về thể chế chính trị hiện đại dựa trên hai nguyên lý Dân chủ và Cộng hòa, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là bản Hiến pháp mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiến pháp. Quyền lực nhà nước dù tổ chức theo mô hình tập quyền chứ không phân quyền, nhưng vẫn có sự phân chia rành mạch, sự kiểm soát lẫn nhau, tư pháp độc lập trong việc thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và quyền lực nhà nước. Quyền công dân được quy định như những quyền tự nhiên, buộc nhà nước phải đảm bảo thực hiện và trở thành giới hạn với quyền lực nhà nước.
Kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, đất nước tạm chia thành hai miền.
52
Miền Bắc tiến lên xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình của Liên Xô. Tình hình mới cần thiết phải có một hiến pháp mới, phù hợp hơn với hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Ngày 23/01/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Quốc hội sửa đổi Hiến pháp năm 1946 và được Quốc hội đồng ý. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản Hiến pháp năm 1959 đã ra đời, là cơ sở hiến định để nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh tiến tới hòa bình thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 1959 có nhiều điểm mới, điểm bổ sung, mở rộng về cơ cấu tổ chức nhà nước, về quyền công dân, về phương thức lập hiến. Phản ánh thực tế công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nội dung Hiến pháp năm 1959 khẳng định định hướng của đất nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được khẳng định rõ rệt hơn với những thay đổi trong cấu trúc quyền lực của bộ máy nhà nước. Quyền công dân được mở rộng hơn trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, Hiến pháp bổ sung các điều khoản quy định về chế độ kinh tế xã hội theo mô hình Hiến pháp Liên Xô.
Tư tưởng lập hiến dân chủ pháp quyền Hồ Chí Minh hình thành từ những thập niên đầu thế kỷ XX và liên tục có sự phát triển qua các giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Sự phát triển của tư tưởng lập hiến cũng đi từ sự
quan sát đến ý tưởng, tư tưởng pháp lý và từ ý tưởng, tư
53
tưởng pháp lý đã đi vào hiện thực qua xây dựng Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng chế độ mới, căn cứ vào tình hình thực tiễn, trong việc chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Hồ Chí Minh đã có những điều chỉnh phù hợp vừa đảm bảo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa đáp ứng kịp thời yêu cầu của cách mạng qua từng giai đoạn. Có thể khẳng định, giá trị và sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ở chỗ tư tưởng này hình thành từ quá trình trải nghiệm, quan sát, nghiên cứu thực tiễn, thông qua hoạt động của chính bản thân Người và được kiểm nghiệm tính đúng đắn trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh, là kết quả tổng hợp của các nhân tố khách quan và chủ quan, gắn chặt với yêu cầu của tình hình thực tiễn trong nước và quốc tế. Để hình thành quan điểm về “hiến pháp dân chủ”, Hồ Chí Minh tìm tòi, nghiên cứu các quan điểm, trào lưu tư tưởng lập hiến trên thế giới cũng như quan sát, trải nghiệm thực tế đời sống qua nhiều nước trên thế giới. Điểm đặc sắc trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh là Người đã tiếp nhận, chắt lọc những giá trị cốt lõi, phổ biến của văn minh nhân loại cả phương Đông lẫn phương Tây, cả tư tưởng của tư sản và chủ nghĩa mácxít, từ đó kế thừa, vận dụng, để xây dựng nên mô hình hiến pháp riêng, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
54
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh chia thành nhiều giai đoạn với hai thời kỳ chính. Thời kỳ trước năm 1945 là thời kỳ tiếp xúc, học hỏi tư tưởng lập hiến tiến bộ trên thế giới, hình thành những quan điểm cơ bản về vấn đề lập hiến. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1969, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh được hiện thực hóa trong quá trình chỉ đạo xây dựng Hiến pháp, Người đã có những sự bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Trên cương vị là người chỉ đạo xây dựng hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét qua nội dung hai bản Hiến pháp này, đặc biệt là bản Hiến pháp năm 1946.
55
Chương II
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG LẬP HIẾN HỒ CHÍ MINH
I- VAI TRÒ CỦA LẬP HIẾN
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nền kinh tế suy kiệt, ngân sách nhà nước trống rỗng, nhân dân đói ăn, đa số mù chữ và những hủ tục của chế độ cũ
còn rất nặng nề. Nghiêm trọng hơn là âm mưu xâm lược lần thứ hai của đế quốc Pháp và sự xuất hiện của các nước đế quốc dưới danh nghĩa quân Đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Bên cạnh đó, được sự ủng hộ của các nước đế quốc, các thế lực phản động trong nước tăng cường hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng non trẻ ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” và đặt ra hàng loạt nhiệm vụ cần kíp phải làm ngay để bảo vệ và giữ vững thành quả cách mạng, củng cố
nền độc lập mới giành được và kiến thiết đất nước. Bởi vậy, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Không phải ngẫu nhiên mà
56
trong các công việc cấp bách cần phải làm ngay của một chính quyền cách mạng non trẻ mới thành lập, lại đang phải chuẩn bị đối phó cuộc chiến tranh ác liệt, Hồ Chí Minh đã nêu nhiệm vụ xây dựng “bản hiến pháp dân chủ” ngay sau khi giải quyết được nạn đói, nạn dốt. Yêu cầu của Người về tổ chức càng sớm càng tốt cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, sau đó soạn thảo Hiến pháp, chứng tỏ
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về vai trò của Hiến pháp - đạo luật gốc, văn bản pháp lý quan trọng nhất đối với củng cố nền độc lập và xây dựng thể chế chính trị quốc gia, với sự tồn tại và phát triển của đất nước cũng như với cuộc sống của mỗi người dân.
1. Khẳng định chủ quyền của quốc gia
Từ thân phận của người dân ở một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh quan niệm khi chưa có chủ quyền quốc gia thì trước hết hiến pháp phải gắn với cuộc đấu tranh đòi độc lập, tự do của dân tộc. Trong những năm tháng bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh nhận thức một cách sâu sắc hơn nỗi nhục của cảnh nước mất, nhà tan và giá trị cao quý của một nhà nước độc lập, có chủ quyền. Vì thế, khi yêu cầu “ban hành hiến pháp” nhằm ghi nhận những quyền cơ bản của người dân Việt Nam không được thực dân Pháp chấp nhận, Người càng thấu hiểu việc ban hành hiến pháp chỉ có thể thực hiện trong một đất nước độc lập, tự chủ. Hiến pháp không chỉ gắn với vấn đề về
nhân quyền, mà trước hết phải gắn với chủ quyền đất nước. Khi đã giành độc lập, hiến pháp là văn kiện pháp lý
57
được nhân dân thông qua, tạo sự chính danh cho nhà nước mới thành lập.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các nước đế quốc vẫn tìm mọi cách phủ nhận chính quyền thành lập trong cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày 27/10/1946, Pháp ban hành Hiến pháp Đệ tứ cộng hòa, trong đó từ Điều 60 đến Điều 82 của Chương VIII vẫn duy trì thuộc địa trước đây trở thành các tỉnh và vùng lãnh thổ trong Liên hiệp Pháp. Trong khối Liên hiệp, dù đã ghi nhận sự tự do của vùng lãnh thổ địa phương nhưng “khẳng định và bảo đảm sự thống nhất không thể phá vỡ của thế giới chính trị Pháp”1 và người Pháp vẫn nắm giữ vị trí điều hành tại một số cơ quan bản địa. Để đối phó với tình hình hết sức khó khăn, phức tạp của tình hình thế giới cũng như trong nước lúc này, Hồ Chí Minh thực thi hàng loạt các biện pháp cấp bách nhằm củng cố sự vững chắc và tính hợp pháp cho chính quyền cách mạng: tổng tuyển cử bầu Quốc hội và xây dựng bản Hiến pháp. Thực hiện quyết tâm đó, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (ngày 6/1/1946) đã bầu ra Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 9/11/1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946. Việc ban hành Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sự khẳng định mạnh mẽ về mặt pháp lý chủ quyền quốc gia, về một hệ thống chính quyền thống nhất và hợp hiến.
________________
1. Xavier Yacono Les étapes de la décolonisation française, presses universitaires de France, 1991, p.55-56.
58
Hiến pháp năm 1946 phản ánh rõ rệt thắng lợi của cuộc đấu tranh dân tộc và dân chủ lâu dài, gian khổ, hy sinh của nhân dân Việt Nam, trực tiếp là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Điều này được thể
hiện rất rõ ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946, khẳng định nền độc lập dân tộc và xác định rõ nhiệm vụ là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập dân tộc hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ. Trong bài nói chuyện tại Kỳ họp thứ 12 Quốc hội khóa I, tháng 4/1960, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong năm đầu (1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp. Đó là bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước ta, nó xác nhận những thắng lợi to lớn của nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã thoát khỏi gót sắt của thực dân, đã lật đổ ngai vàng của vua chúa”1. Đến Hiến pháp năm 1959, tư tưởng về dân tộc độc lập, thống nhất tiếp tục thể hiện rõ ngay từ Lời nói đầu và chương đầu tiên quy định về chính thể.
2. Xác lập cơ sở pháp lý của chế độ Dân chủ Cộng hòa và định hướng con đường phát triển đi lên của dân tộc
Thấm nhuần tinh thần của V.I. Lênin: chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, sau khi cách mạng thành công, tổ chức
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.548.
59
quyền lực nhà nước là nhiệm vụ trọng tâm nhất. Chính thể nhà nước mới, chính thể Cộng hòa Dân chủ nhân dân, phải được định chế hóa trong một văn bản pháp lý tối cao là hiến pháp.
Trong quản lý đất nước, Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa phương thức bằng pháp luật hay bằng đạo đức, nhưng để thực hiện chức năng này, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Khi chưa tìm được con đường đúng đắn cho cách mạng giải phóng dân tộc, Người đã sớm nhận ra và phê phán tính chất bất hợp hiến, hợp pháp của nhà nước thực dân. Đó là lối cai trị tùy tiện, chuyên chế, dựa trên ý chí và mong muốn của nhà cầm quyền. Đó là sự phân biệt đối xử nặng nề giữa người dân bản xứ với kẻ đi đô hộ, mà trong đó người dân bị tước đoạt hết quyền cơ bản của con người cũng như không có một cơ sở pháp lý nào để có thể tự bảo vệ mình. Khi chính quyền mới chưa được tổ chức thông qua tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu và chưa thông qua được hiến pháp, Người triệu tập Đại hội Quốc dân Tân Trào để cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam. Lần đầu tiên tổ chức có tính chất “tiền Chính phủ” được đại biểu của nhân dân bầu ra bảo đảm tính hợp pháp để lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Người nêu vấn đề phải có bản Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về sự “khai sinh” của một nước Việt Nam mới. Bản Tuyên ngôn là một văn kiện chính trị mang tính
60
pháp lý đặc biệt, khẳng định sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hợp pháp, hợp lẽ phải. Một nhà nước được lập nên từ thành quả đấu tranh của nhân dân, được sự ủng hộ của nhân dân thì mới có đủ tư cách để đại diện nhân dân, trở thành một nhà nước hợp pháp và hợp hiến.
Trong hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước được thể hiện rất đậm nét. Hiến pháp như Hồ Chí Minh nói “chính là luật pháp cơ bản rồi”1, đã xác định chế độ chính trị mới của nước Việt Nam thông qua các hiến định về chính thể, tổ chức các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp cũng như thẩm quyền của từng cơ quan; các quyền và nghĩa vụ công dân trên các lĩnh vực. Hiến pháp năm 1946 đã xác định “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều thứ 1). Đến Hiến pháp 1959 đã tiếp tục khẳng định và làm rõ quan điểm: “Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân”2. Trong nội dung của hai bản hiến pháp đều có những quy định để nhân dân
________________
1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Văn phòng Quốc hội, Hồ sơ lưu trữ số 378, tr.28.
2. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.31.
61
sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp, gián tiếp thông qua các cơ quan nhà nước và các phương thức do hiến pháp quy định.
Với những nội dung trên, các bản Hiến pháp đã “hợp hiến hóa” nhà nước dân chủ nhân dân, đã xác lập tính chính đáng và hợp pháp của Nhà nước ta, đặt nền tảng cho sự ra đời của chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân ở
Việt Nam - chế độ mà trong đó nhân dân là chủ đất nước, là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Không chỉ đặt nền tảng pháp lý cho sự ra đời của chế độ mới, theo quan điểm Hồ Chí Minh hiến pháp còn đóng vai trò là văn bản tuyên bố các giá trị của một dân tộc mà giá trị cốt lõi nhất là lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết để
giành, giữ độc lập và xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, hiến pháp phải “ghi lấy thành tích vẻ vang của cách mạng”1 mà thành tích vẻ vang nhất chính là nền độc lập dân tộc, nền cộng hòa dân chủ và sự phát triển đất nước theo xu thế “độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của nhân loại”2.
Khi tình hình đất nước đã có những thay đổi căn bản và toàn diện, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra yêu cầu sửa đổi Hiến pháp theo đường lối chiến lược mới, mục tiêu chiến lược mới của cách mạng Việt Nam. Trong phiên họp đầu tiên của Ban Sửa đổi Hiến pháp, Hồ Chí Minh nêu ra
________________
1, 2. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Sđd, tr.29.
62
những định hướng lớn: “Bản Hiến pháp chúng ta sẽ thảo ra phải là một bản Hiến pháp phát huy cái tinh thần tiến bộ của Hiến pháp năm 1946, đồng thời phải phản ánh đầy đủ tình hình thực tế của chế độ ta do cuộc cách mạng phản đế, phản phong thắng lợi đã mang lại; phản ánh đúng đắn con đường đang tiến lên của dân tộc ta. Nó sẽ là bản Hiến pháp của một nước dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội”1. Hiến pháp đó “chẳng những phải tiêu biểu được các nguyện vọng của nhân dân miền Bắc, mà còn phải là một mục tiêu phấn đấu cho đồng bào miền Nam”2. Bản Hiến pháp này còn là một phương tiện quan trọng để tuyên bố và thực hiện đường lối chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Do đó, ngoài quy định về chính quyền theo lối tập quyền xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp 1959 còn chính thức hóa định hướng với các chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trong các quy định mới về chế độ kinh tế, xã hội.
3. Đặt nền móng xây dựng pháp quyền và nhà nước pháp quyền
Tư tưởng pháp quyền và xây dựng nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền đã sớm hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Năm 1919, trong tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây thì đã có bốn
________________
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.510.
63
điểm liên quan đến pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người. Khi đề ra yêu sách “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”1 và sau đó là yêu cầu thành lập “Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”2, Người đã nhận thấy sự cần thiết phải có pháp luật, nhưng không phải là thứ pháp luật độc đoán, hà khắc mà là pháp luật của một chế độ
dân chủ, thể hiện được ý chí của đa số bằng một cơ quan đại diện do cử tri bầu ra và ban hành bằng hình thức đạo luật. Đây chính là một cải cách lớn về mặt chính trị theo hướng dân chủ, từng bước nâng địa vị người dân thuộc địa lên ngang vị trí của công dân Pháp ở chính quốc. Có thể khẳng định, Bản yêu sách đã thể hiện một định hướng chính trị sâu sắc, mạnh mẽ theo tinh thần dân chủ, pháp quyền.
Trong Việt Nam yêu cầu ca, vấn đề này được đề cập ở phương diện mới và được nâng tầm thành yêu cầu “Bảy xin hiến pháp ban hành,/Trăm đều phải có thần linh pháp quyền”3. Hiến pháp là hình thức văn bản pháp luật không chỉ cao hơn luật về mặt hiệu lực pháp lý mà cả mặt dân chủ và pháp quyền. Hơn nữa, ở đây, Người nhắc đến “pháp quyền” chứ không phải là “nhà nước pháp quyền”. Pháp quyền là một phương thức tổ chức xã hội mà trong đó ________________
1, 2, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.441, 441, 473. 64
pháp luật giữ vai trò thống trị và điều chỉnh tất cả các chủ thể trong xã hội. Pháp quyền được Hồ Chí Minh nâng lên mức “thần linh”, nhằm nhấn mạnh vị trí tối cao và quyền uy của pháp luật - một thứ pháp luật hợp lẽ phải, hợp tự nhiên; trong đó, Người xem hiến pháp là linh hồn của pháp quyền, là công cụ quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Hiến pháp tạo cơ sở pháp lý cho phương thức quản lý đất nước bằng pháp luật. Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cốt lõi, tinh túy của một nền pháp quyền chính là ở chỗ đưa tinh thần thượng tôn pháp luật, mà trước hết là thượng tôn hiến pháp vào trong công tác quản lý xã hội.
Để xây dựng xã hội pháp quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý việc xây dựng một nhà nước pháp quyền làm nền tảng. Một nhà nước mạnh là nhà nước có hiệu lực và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Không quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến cán bộ lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của dân, cũng như
công dân dễ có hành vi xâm phạm quyền của người khác, của cộng đồng. Vì vậy, khi chưa xây dựng hiến pháp và hình thành hệ thống pháp luật mới, Người đề nghị vận dụng những điều luật cũ còn tương đối phù hợp, không làm phương hại đến nền độc lập Việt Nam, không trái với chính thể Dân chủ Cộng hòa, nhất là những luật về thương mại và hình sự. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh số 47/SL, về việc tạm thời áp dụng các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung và Nam Bộ nếu không
65
trái với những điều thay đổi được ấn định cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất ở Việt Nam. Khi xây dựng hiến pháp và các đạo luật, Hồ Chí Minh đều lấy điểm xuất phát từ ý nguyện và lợi ích của nhân dân. Có thể dễ nhận thấy trong các bản Hiến pháp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều thiết kế theo tư tưởng pháp quyền. Hiến pháp do một Quốc hội (hoặc Nghị viện nhân dân) - một cơ quan dân cử xây dựng và ban hành, bởi vậy hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Quyền con người, quyền công dân được ghi nhận và trở thành độc lập đối với bất kỳ quyền uy nào, kể cả các cơ quan, viên chức nhà nước cao nhất. Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ, đều hoạt động theo quy định của pháp luật, có sự kiểm tra và giám sát lẫn nhau. Ví dụ quyền kiểm soát và phê bình Chính phủ của Ban Thường vụ Nghị viện (Điều thứ 36, Hiến pháp năm 1946); Thủ tướng có quyền nêu vấn đề tín nhiệm để Nghị viện biểu quyết (Điều thứ 54, Hiến pháp năm 1946)... Vai trò độc lập xét xử của Tòa án được bảo đảm bởi các tòa được thiết kế không theo cấp hành chính (Điều thứ 63, Hiến pháp năm 1946) và khi xét xử, thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp (Điều thứ 69 Hiến pháp năm 1946), (Điều 100, Hiến pháp năm 1959). Như vậy, thông qua hoạt động lập hiến của cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, các thiết chế hiến định đã là cơ sở pháp luật cao nhất cho toàn bộ hoạt động của Nhà nước và xã hội theo tinh thần dân chủ pháp quyền.
66
4. Xác lập cơ sở pháp lý để ghi nhận và đảm bảo quyền con người, quyền công dân
Đấu tranh giành và bảo vệ quyền con người là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm về một thể chế tôn trọng những quyền tự do, dân chủ cho người dân được hình thành từ sớm và xuyên suốt trong suốt cuộc đời của Người. Trong Yêu sách của nhân dân An Nam, Hồ Chí Minh và các nhà yêu nước đã đưa ra những yêu cầu cụ thể cho quyền lợi của nhân dân Việt Nam bao
gồm: quyền bình đẳng về mặt pháp luật như người Âu, quyền tự do đi lại, ngôn luận, hội họp, lập hội, tự do xuất dương, tự do học tập và được bầu đại biểu thường trực của mình tại Nghị viện Pháp. Đây chính là những quyền dân sự, chính trị cốt lõi nhất được nêu trong luật nhân quyền quốc tế về sau. Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng thể
hiện sâu sắc tư tưởng nhân quyền qua chủ trương xây dựng nước Việt Nam mới về phương diện xã hội: “a) Dân chúng được tự do tổ chức. b) Nam nữ bình quyền, v.v.. c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”1. Trước Tổng khởi nghĩa, Đại hội đại biểu quốc dân ở Tân Trào (ngày 16/8/1945) dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh đã thông qua Nghị quyết về Tổng khởi nghĩa và cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, trong đó có quy định về vấn đề nhân quyền như: “ban bố những quyền của dân, do dân: a. Nhân quyền; b. Tài quyền (quyền sở hữu tài sản); c. Dân
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
67
quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ, quyền tự do tín ngưỡng, ngôn luận hội họp, đi lại, dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền”1.
Để thiết lập và bảo vệ quyền con người cơ bản, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò của hiến pháp như là một trong những yếu tố quyết định. Người yêu cầu mọi quyền của người dân phải được hiến định thông qua hiến pháp. Là một người dân thuộc địa, Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ của con người bị tước đoạt quyền làm người. Bởi vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, hiến pháp phải gắn liền với “dân quyền” hay nói một cách khác, hiến pháp là văn bản pháp lý ghi nhận các quyền cơ bản của con người. Người nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”2. Qua đây, có thể thấy rõ trong tư duy Hồ Chí Minh, hiến pháp là một thực thể gắn bó chặt chẽ với chế định dân chủ, một xã hội không có hiến pháp thì người dân trong xã hội không được hưởng quyền tự do dân chủ. Bởi vậy, dù đất nước đang ở tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Người khẩn trương chỉ đạo xây dựng hiến pháp dân chủ để khẳng định và bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân ta vừa
________________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, tr.559.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.7.
68
mới giành được, xóa bỏ hoàn toàn chế độ chuyên chế trong nhiều thế kỷ ở Việt Nam.
Hai bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban dự thảo - Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 đã ghi nhận các quyền con người, quyền công dân cơ bản sau: quyền bình đẳng, tự do, dân chủ, các quyền về chính trị, về kinh tế, về văn hóa, về
xã hội. Với những quy định cụ thể trong hiến pháp, quyền con người được thể chế hóa thành các quyền và nghĩa vụ cụ thể, không phân biệt “nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Các quyền con người khi đã ghi nhận trong hiến pháp trở thành nguyên tắc hiến định, đòi hỏi nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện trong thực tế. Việc quy định các quyền con người, quyền công dân cũng là cách thức nhằm giới hạn, kiểm soát quyền lực nhà nước,
đòi hỏi nhà nước phải đáp ứng và không được vi phạm. Theo quan niệm Hồ Chí Minh, dân chủ là gốc, hiến pháp là điều kiện để bảo đảm quyền tự do dân chủ hay nói cách khác “thần linh pháp quyền” vừa là nền tảng vừa là mục tiêu cần đạt được. Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh đã đi tới cùng vấn đề của cách mạng - đó là vì hạnh phúc cho con người. Người từng nói “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”1. Mục tiêu trực tiếp cũng đồng thời là mục tiêu cao nhất của nền dân chủ, của công tác lập hiến là làm cho
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.64.
69
con người được tự do, hạnh phúc. Sứ mệnh của Hiến pháp năm 1946 trong việc bảo đảm và bảo vệ dân chủ, quyền và tự do con người đã được Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc lại sau này: “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã đảm bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân. Ngay từ khi mới thành lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền nhân dân đã ban bố luật lao động, thi hành giảm tô, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và bọn Việt gian đem chia cho dân cày. Quyền bầu cử và ứng cử, quyền tham gia công việc Nhà nước và của nhân dân được đảm bảo; quyền tự do dân chủ được thực hiện. Đó là một chế độ dân chủ mới”1.
Như vậy, trong tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh, hiến pháp là văn bản pháp lý khẳng định nền độc lập dân tộc, thực thi quyền lực chính trị của nhân dân, nền pháp quyền và là sự bảo đảm cho các quyền của con người. Nói cách khác, hiến pháp là sự tổng hòa các yếu tố về dân tộc, dân chủ, pháp quyền và nhân quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về ý nghĩa của Hiến pháp năm 1946: “Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới: phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”2;
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.366.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.491.
70
Hiến pháp năm 1959 “Bản Hiến pháp mới của chúng ta sẽ khuyến khích hơn nữa đồng bào miền Bắc thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, khuyến khích đồng bào miền Nam đấu tranh bền bỉ hơn nữa để đòi tự do dân chủ và thống nhất nước nhà”1. Có thể khẳng định, đó là quan niệm của chủ nghĩa lập hiến mang tính phổ biến, tiến bộ trên thế giới mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu và kiểm nghiệm trong thực tiễn Việt Nam.
II- QUYỀN LẬP HIẾN
1. Nhân dân - chủ thể của quyền lập hiến
Quyền lập hiến là quyền làm hiến pháp, trong đó bao gồm quyền sáng kiến lập hiến, quyền soạn thảo dự thảo hiến pháp, quyền tham gia góp ý trong quá trình dự thảo hiến pháp, quyền thông qua hiến pháp, sửa đổi hiến pháp.
Tại sao hiến pháp lại có hiệu lực pháp lý tối cao? Câu trả lời nằm ở vấn đề chủ thể của quyền lập hiến, bởi “quyền lập hiến là quyền gốc, thể hiện một cách toàn diện nhất chủ quyền quốc gia, vì quyền lập hiến chung quy là quốc gia tự ấn định cho mình quy tắc tổ chức và điều hành”2. Trong một chế độ dân chủ, nhân dân là chủ của nhà nước, nên nhân dân chính là chủ thể của quyền lập
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.392.
2. Nguyễn Văn Bông: Luật Hiến pháp và chính trị học, Sđd, tr.51.
71
hiến. Nói cách khác, quyền lập hiến là quyền thể hiện một cách trọn vẹn nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo tư duy này, nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, có nghĩa là người quy định những giới hạn quyền lực nhà nước của quốc gia. Khi nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, hiến pháp trở nên tối thượng so với chính quyền và có ý nghĩa giới hạn chính quyền.
Kế thừa quan điểm tiến bộ về quyền lập hiến, Hồ Chí Minh khẳng định toàn thể nhân dân là chủ thể tối cao của đất nước, của quyền lực nhà nước, của quyền lập hiến. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người viết: “Dân ta đã đánh đổ
các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”1. Ở đây, chủ thể nước Việt Nam mới, của chế độ Dân chủ Cộng hòa chính là nhân dân. Khi lãnh đạo công cuộc xây dựng chế độ mới sau khi giành chính quyền, nhiều lần Người nhắc lại quan điểm: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”2. Nhân dân là chủ của đất nước, của quyền lực nhà nước, vì vậy, một cách tất yếu, quyền lập hiến - quyền lập ra hiến pháp để
ấn định thể chế nhà nước phải thuộc về nhân dân. Trong Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 đã thể hiện rất rõ quan điểm này của Hồ Chí Minh khi quy định chủ thể của
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.258.
72
quyền lập hiến là “quốc dân” (nhân dân): “Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách mạng”1.
Tuy nhiên, do tính phức tạp của quy trình lập hiến cũng như điều kiện thực tế của đất nước, nhân dân không thể trực tiếp thực hiện toàn bộ các giai đoạn của quy trình lập hiến. Vì vậy, một câu hỏi được đặt ra là: cần xác lập phương thức lập hiến dân chủ bảo đảm để nhân dân trong điều kiện không trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình lập hiến vẫn có khả năng tác động đến quá trình lập hiến,
bảo đảm cho nội dung, tinh thần của hiến pháp phù hợp với ý nguyện của nhân dân.
2. Phương thức thực hiện quyền lập hiến của nhân dân
Để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền lập hiến, Hồ Chí Minh đề xuất và tổ chức thực hiện theo hai phương thức: gián tiếp thông qua bầu Quốc hội, ủy quyền cho Quốc hội soạn thảo Dự thảo Hiến pháp và trực tiếp thông qua đóng góp ý kiến và phúc quyết Hiến pháp.
Theo Hồ Chí Minh, quyền lập hiến của nhân dân trước tiên phải là quyền được bầu chọn cơ quan soạn thảo và
________________
1. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và các Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992), Sđd, tr.11.
73
thông qua hiến pháp. Cơ quan đó có thể là Quốc hội lập hiến hoặc Quốc hội thông thường tùy theo từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng nhất thiết phải là đại diện cho toàn dân. Ngay thời kỳ khi đang hoạt động trên nước Pháp, Hồ
Chí Minh hình thành quan điểm quyền lực thuộc về nhân dân và thiết lập một cơ quan quyền lực do dân cử. Người phê phán các Viện dân biểu do Pháp lập ra chỉ là tổ chức mang tính mị dân, không có thực quyền “không phải do cuộc đầu phiếu phổ thông mà chỉ do các kỳ mục, địa chủ
và thương nhân bầu ra”1, “Tất cả những “vị dân biểu” này chỉ có tiếng nói tư vấn thôi. Các vị dân biểu Trung Kỳ thì mỗi năm hội họp một lần và lúc nào họp là do khâm sứ quyết định. Thậm chí họ không có lấy một phòng họp, hay một phòng để làm việc”2, trong số hàng trăm yêu sách của họ, không có yêu sách nào được thực hiện, họ không có quyền tham gia giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến đất nước. Từ đó, Người đề nghị thành lập “Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ”3. Sau này, trên tờ báo L’Humanité, Người đã có dịp giải thích rõ hơn quan điểm được nêu trong Bản yêu sách như sau: “Báo L'Humanité ngày 18/6 mới đây đã đăng văn bản thỉnh cầu của những người An Nam (...) và sau cùng, đòi có một đoàn đại biểu
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.271.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.272.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.470.
74
thường trực của dân bản xứ, được bầu vào Nghị viện Pháp. Chúng tôi chỉ có thể coi các yêu sách rất đúng đắn đó cũng là của chính mình, trong thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự quyết”1. Năm ngày sau khi tuyên bố độc lập, ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và công bố ban hành Sắc lệnh số 14 với hai nội dung quan trọng là tổ chức Tổng tuyển cử để bầu Quốc dân đại hội và thành lập Ủy ban khởi thảo Hiến pháp. Trong phần mở đầu Sắc lệnh viết: Xét rằng nhân dân Việt Nam do Quốc dân đại hội thay mặt, là quyền lực tối cao để ấn định cho nước Việt Nam một hiến pháp dân chủ cộng hòa. Tiếp đó, trong khoản 4 Sắc lệnh nêu rõ: Quốc dân đại hội sẽ có toàn quyền ấn định hiến pháp cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như vậy, ở đây chủ thể trình hiến pháp để
nhân dân tham gia ý kiến là Quốc dân đại hội - một cơ quan do nhân dân bầu ra.
Cuộc tổng tuyển cử ở nước ta được tổ chức một cách thực sự dân chủ. Điều 2 Sắc lệnh số 14 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường”2. Với những người ốm đau mà muốn bầu sẽ có hòm phiếu
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.10.
2. Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước - Trung tâm Lưu trữ quốc gia III: Bảo vật quốc gia: Tập Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1945 - 1946, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr.25.
75
tận nhà, tận giường. “Về điểm này khi có người thắc mắc thì Bác Hồ thông hành đến đả thông. Người nói, đại ý “dân ta, ai cũng yêu nước, ai cũng thích tự do, bình đẳng, thế thì ai cũng biết chọn mặt gửi vàng. Người nào không biết viết thì ban phụ trách bầu cử sẽ có cách giúp, khó gì đâu... Điều lệ của ta đặt chế độ người viết giúp với những biện pháp pháp lý để đảm bảo sự tín nhiệm của cử tri với người viết giúp”“1. Ở thời điểm năm 1945, Việt Nam là một trong số ít nước thực hiện tổng tuyển cử dân chủ như vậy. Kể cả ở các nước Âu - Mỹ thời kỳ này, quyền chính trị cơ bản này của phụ nữ hoàn toàn bị phủ nhận hoặc cắt xén. Với quyền ứng cử, tiêu chuẩn là người trưởng thành từ 21 tuổi và biết chữ, ai xét thấy mình đủ khả năng thì nộp đơn mà không bị hạn chế bởi các điều kiện về mức tài sản, điều kiện cư trú, trình độ học thức... mà nhiều nước đã đặt ra.
Sau Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, Hồ Chí Minh đề nghị với Quốc hội mở rộng số đại biểu ra thêm 70 người dành cho tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội thể hiện rõ đoàn kết toàn dân, tập hợp mọi lực lượng có thể tranh thủ được vì lợi ích lâu dài của cách mạng dân tộc. Biên bản kỳ họp lần 2, Quốc hội khóa I ghi rõ các thành phần tham gia “Tả: 14 mác xít, 24 xã hội, 45 dân chủ, cộng 83 người. Đứng giữa:
________________
1. Vũ Đình Hòe: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hóa Thông tin - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr.77.
76
80 Việt Minh, 90 vô đảng phái, cộng 170 người. Hữu: 17 Cách mạng đồng minh hội, 20 Quốc dân Đảng, cộng 37 người”1. Trong diễn văn khai mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa I (ngày 2/3/1946), Hồ Chí Minh nói: “Trong cuộc toàn quốc đại biểu đại hội này, các đảng phái đều có đại biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế, cho nên các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam”2.
Với việc thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp, Hồ Chí Minh rất chú ý đảm bảo cơ cấu sự tham gia của các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các khuynh hướng chính trị ở Việt Nam khi đó, “với sự cân đối lực lượng giữa bốn đảng, giữa đảng và không đảng”3. Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp đầu tiên gồm 7 người do Hồ Chí Minh làm Trưởng ban. Sau đó, Tiểu ban dự thảo Hiến pháp mới do Quốc hội thành lập trong khóa họp đầu tiên ngày 2/3/1946 gồm 11 người, phân chia giữa các chính đảng như sau: Trần Duy Hưng, Tôn Quang Phiệt (Dân chủ), Đỗ Đức Dục (Dân chủ), Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi (Việt Minh),
________________
1. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III, Phông Văn phòng Quốc hội, Hồ sơ lưu trữ số 04, tr.5.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.217.
3. Vũ Đình Hòe: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr.83.
77
Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ (Việt Cách), Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ (Việt Quốc), Nguyễn Thị Thục Viên. Trong phiên họp ngày 29/10/1946, Tiểu ban được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào thiểu số để tham gia tu bổ thêm bản dự án. Các đại biểu đã tranh luận sôi nổi trên tinh thần thống nhất cao vì một bản hiến pháp Việt Nam dân chủ, tiến bộ, như Vũ Đình Hòe nhận định: “Hiến pháp năm 1946 do Chính phủ liên hiệp kháng chiến soạn qua nhiều trận tranh luận sóng gió, cuối cùng được Quốc hội thông qua suôn sẻ cuối năm 1946, hình ảnh tuyệt đẹp về tinh thần đại đoàn kết dân tộc và toàn dân làm chủ đời mình”1.
Trong Lời kêu gọi của Quốc hội gửi đồng bào toàn quốc sau khi soạn thảo Hiến pháp năm 1946 nêu rõ: “Quốc hội đã làm xong cái nhiệm vụ nặng nề nhất mà quốc dân giao phó cho là thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”2.
Với việc soạn thảo Hiến pháp năm 1959, để đảm bảo quyền lợi cho các tầng lớp nhân dân trong cả nước, do điều kiện miền Nam không tiến hành bầu cử được, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I, Hồ Chí Minh đề nghị Quốc hội ra
________________
1. Vũ Đình Hòe: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Sđd, tr.83.
2. Văn phòng Quốc hội: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.1, tr.100-101.
78