🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tiểu Thuyết Việt Nam Thời Kì 1965 - 1975 Nhìn Từ Góc Độ Thể Loại
Ebooks
Nhóm Zalo
NGUYỄN ĐỨC HẠNH
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM Thời kì 1965 – 1975
nhìn từ góc độ thể loại
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Bản quyền thuộc Nhà xuất bản Giáo dục
843-2007/CXB/8-1856/GD Mã số: 8V718M8-CDT 1
Lời giới thiệu
Trong lịch sử 30 năm chiến tranh cách mạng thì thời gian 1965 - 1975 là 10 năm kết thúc. Để đến với Đại thắng mùa xuân 1975, cả dân tộc đã huy động tổng lực sức mạnh vật chất và tinh thần của mình, trong đó có sức mạnh của văn học, với đóng góp không chỉ là con tim và khối óc, mà còn là sinh mệnh, là xương và máu của mấy thế hệ
nhà văn cầm súng, lịch sử tiếp nối từ Nam Cao, Trần Đăng... đến Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân...
Việc đánh giá văn học Việt Nam trong 30 năm chiến tranh, sau khoảng lùi gót 30 năm, kể từ sau 1975 cho đến nay hẳn không còn chuyện gì gây bàn luận. Đã hết sự đôi co: phủ định hay không phủ định? Đã hết những phán xét chung quanh chỗ đứng hoặc cách nhìn... để trở lại sự bình tĩnh cần thiết. Nhiều tiểu thuyết viết về chiến tranh sau chiến tranh đã lần lượt ra đời, với các giá trị mới, nhưng không phải vì mới mà phủ
định các giá trị cũ. Lịch sử đã trở về với gương mặt lịch sử, với những giá trị ổn định của nó. Nếu dân tộc đã có một thời hào hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", nếu khẩu hiệu “Không có gì quí hơn Độc lập Tự do” đã từng vang động núi sông, thì văn học cũng đã có những trang rực rỡ - sản phẩm của cả một đội ngũ người viết cùng nhất tề ra trận, “cùng xương thịt với nhân dân"; và tiểu thuyết, với ưu thế riêng của thể loại gã gánh trọn nhiệm vụ ghi lại gương mặt chung của dân tộc.
Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 - nhìn từ góc độ thể loại của TS.Nguyễn Đức Hạnh là một đóng góp vào việc nhận diện lại văn học Việt Nam trong cuộc chiến cả nước chống Mĩ vĩ đại. Một nhận diện - từ góc độ thể loại; để minh chứng cho sự đối ứng giữa một bên là tiêu cầu của cách mạng và công chúng, và một bên là sáng tạo nghệ thuật của nhà văn; và để soi vào sự biến đổi của chính bản thân thể loại (ở đây là tiểu thuyết) trong một hành trình phát triển chỉ hơn nửa thế kỉ của văn xuôi Quốc ngữ.
Khảo sát tác phẩm theo yêu cầu loại hình, gồm loại hình cảm hứng, loại hình nhân vật và loại hình kết cấu - xung đột, đó là thao tác khá quen thuộc ở tác giả Nguyễn Đức Hạnh trong công trình này để qua đó đi tới một nhận thức tổng quan về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ 1965 - 1975 - trong xu thế vươn tới quy mô và tính chất sử
thi. Trong bề bộn của nhiều cuốn tiểu thuyết, với hàng vạn trang in, việc tìm ra một mô hình chung cho sự tìm kiếm quả không phải là việc dễ; và Nguyễn Đức Hạnh đã làm việc đó không chỉ với những thao tác phân tích cẩn trọng, mà còn với cả sự rung động và xúc cảm của một người đọc luôn trân trọng những giá trị của quá khứ.
Là người được đọc từ rất sớm bản thảo chuyên khảo khi còn là luận án, tôi đã từng chia sẻ với TS. Nguyễn Đức Hạnh không ít khó khăn trước khối lượng tác phẩm đồ sộ; và cũng đồ sộ không kém là nhúm luận văn, luận án, bài viết, công trình về chính đề
2
tài này, phải một khổ công lớn trong kiên trì và bền bỉ để tìm ra một cách tiếp cận riêng, mong không trùng, không giống với các đồng nghiệp trên cùng một hành trình với mình. Hơn ba năm đã qua, tôi hi vọng cuốn sách vẫn chưa phà gã cũ, trong khám phá những dấu ấn đặc tặng cho một giai đoạn văn học quan trọng của thế kỉ XX.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc quý mến!
Hà Nội tháng 1 – 2007
GS. PHONG LÊ
3
4
DẪN NHẬP
Tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 đã đạt được những thành tựu xuất sắc về giá trị nội dung tư tưởng, đã có đóng góp lớn lao cho công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mười năm cuối cùng của giai đoạn 1945 - 1975 có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì trong mười năm ấy đã xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết thuộc loại tầm cỡ nhất của cả giai đoạn văn học - những tác phẩm vừa có cấu trúc thể loại hoàn kết nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, vừa là đỉnh cao của lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đến thời điểm này. Các tác giả
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại trải qua một hành trình sáng tạo bền bỉ đã đạt tới độ chín trong nghệ thuật tiểu thuyết: mười năm cuối cùng (1965 - 1975) còn có tính bản lề khép lại một giai đoạn văn học mang những đặc trưng riêng của thời đại chiên tranh cách mạng với mô hình sử thi hoá, chuẩn bị tiền đề cho bước chuyển giao để đi tới một thời đại văn học mới với mô hình phi sử thi
Nếu so sánh với tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, thì tiểu thuyết 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết 1965 - 1975 nói riêng đã có sự đổi mới sâu sắc về nội dung thể tài và các nguyên tắc xây dưng hình thức thể loại Một cấu trúc thể loại mới mẻ chưa từng có trong lịch sử phát triển tiểu thuyết Việt Nam đã ra đời với đặc trưng của loại hình tiểu thuyết sử thi. Một cấu trúc thể loại được hình thành từ yêu cầu thời đại để đáp ứng những nhiệm vụ nặng nề mà vinh quang do yêu cầu chính trị, yêu cầu lịch sử giao phó. Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này đã hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó.
Nhưng do sự chủ phối tuyệt đối của nhiệm vụ chính trị do yêu cầu cổ vũ động viên kịp thời công cuộc kháng chiến kiến quốc, nhà văn, bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình văn học đều đặt tiểu thuyết trước một hệ quy chiếu đậm tính chất xã hội học. Các bài phê bình văn học, các công trình nghiên cứu văn học thời kỳ này chủ yếu khai thác giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm với ba yêu cầu nặng về chính trị: Có phản ánh chân thực trà kịp thời cái hiện thực vĩ đại đã có sẵn không? Có thực hiện tốt chức năng giáo dục đối với quần chúng nhân dân? Có nêu cao yêu cầu tính Đảng khi tái hiện bức tranh lịch sử xã hội không?
Do đó, trong rất nhiều bài viết về tiểu thuyết thời kỳ này, những nghiên cứu và đánh giá về cấu trúc thể loại tiểu thuyết trong tính loại hình của nó thật là ít ỏi. Ngay cả những bài viết tìm hiểu lý thuyết về thể loại tiểu thuyết 1945 - 1975 cũng chỉ tập trung vào phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc điển hình hoá, vấn đề nguyên mẫu và nhân vật...
5
Sau năm 1975 và đặc biệt từ khởi điểm đổi mới 1986, một số bài phê bình văn học và công trình nghiên cứu đã tập trung vào khảo sát thi pháp tiểu thuyết 1945 - 1975 ở những bình diện mang tính cục bộ: quan mềm nghệ thuật, hình tượng con người, kết cấu, xung đột... Nhưng các công trình ấy vẫn chưa đi đến một cái nhìn tổng thể về cấu trúc thể loại của tiểu thuyết giai đoạn này. Những vấn đề được nghiên cứu hoặc tách rời khỏi hệ thông của nó hoặc mới chỉ dừng lại ở nhận đinh khái quát mà chưa được chứng minh thật thấu triệt.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hi vọng với sự cố gắng của mình sẽ đóng góp được phần nào vào việc phác hoạ diện mạo, định hình cấu trúc thể loại và phân tích, làm sáng tỏ một số đặc điểm thi pháp của tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975, trong đó tập trung chuyên sâu vào các bình diện thủ pháp tiểu thuyết: loại hình cảm hứng tư tưởng, loại hình nhân vật, loại hình kết cấu và xung đột... trong cấu trúc thể loại của tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975.
Từ đầu những năm 80 của thế kỉ.XX, một giai đoạn văn học mới đã ra đời. Ngoại trừ một số ít tác phẩm vẫn được sáng tác theo quán tính của văn học thời chiến tranh cách mạng, phần lớn sáng tác đã hướng tới mô hình nghệ thuật phi sử thi, xét riêng ở thể loại tiểu thuyết, từ sự đổi mới thi pháp tiểu thuyết kể trên đã xuất hiện một số ý kiến đánh giá lại về giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết 1945 - 1975.
Trong bối cảnh đó, đặt vấn đề nghiên cứu cấu trúc thể loại và các bình diện thủ pháp trong nó của tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn. Từ sự nghiên cứu đó, chúng ta đánh giá toàn diện và chính xác hơn về giá trị và đóng góp của tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam trong tính lịch sử của nó một cách khoa học. Với cái nhìn loại hình học lịch sử tiểu thuyết, chúng ta có thể xác định những tiêu chí thể loại của một loại hình tiểu thuyết - sản phẩm đặc thù của thời đại chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. So sánh mô hình thể loại của tiểu thuyết sử thi trước 1975 với mô hình thể loại của tiểu thuyết phi sử thi sau 1975, chúng ta nhận ra sự phủ đinh biện chứng và sự tiếp biến - kế thừa ở phương diện thi pháp tiểu thuyết khi thời đại chuyển giao hệ hình tư duy nghệ thuật. Sự nghiên cứu những vấn đề kể trên sẽ là một đóng góp tích cực để tiểu thuyết Việt Nam hiện đại nhìn lại mình rồi tự vượt chính mình.
Trong chương trình môn văn của các trường Đại học và Cao đẳng sư phạm, giai đoạn văn học 1945 - 1975 có một vị trí quan trọng. Nhưng việc giảng dạy và học tập giai đoạn văn học này, từ thực tiễn giảng dạy của chúng tôi, chưa phải đã đạt được kết quả mong muôn. Tình trạng dạy chay, học chay vẫn còn xuất hiện ở nơi này nơi khác. Thực trạng đó xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chúng tôi cho rằng có ba nguyên nhân chủ yếu: sự lười đọc của một số thầy và trò trong xu thế xuống cấp của văn hoá đọc, các tiểu thuyết giai đoạn 1945 - 1975 ít tái bản và nếu tái bản cũng chỉ với số lượng ít, khả năng mua sách của giáo viên và đặc biệt của sinh viên rất hạn hẹp.
Trước thực trạng đó, cuốn sách hy vọng sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho 6
công tác dạy và học văn trong trường sư phạm nói riêng và trong nhà trường nói chung.
7
GIỚI THUYẾT VỀ THỂ LOẠI SỬTHI
VÀ TIỂU THUYẾT SỬ THI HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
1945 – 1975
1. Giới thuyết về thể loại sử thi và tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam 1945 - 1975
1.1. Khái niệm sử thi và thể tài sử thi
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thể loại sử thi ở Việt Nam và nước ngoài [xem 1, 55, 56, 114]. Qua các ý kiến của Arixtốt, Hêghen, Biêlinxki... Ở nước ngoài, của Phan Đăng Nhật, Hoàng Ngọc Hiến, Phan Thu Hiền, Đinh Gia Khánh... Ở Việt Nam, chúng ta có thể tìm đến một khái niệm thống nhất về thể loại sử thi: “Thể loại tác phẩm tự sự dài (thường là thơ) xuất hiện rát sớm trong lịch sử văn học của các dân tộc nhằm ngợi ca những sự nghiệp anh hùng có tính toàn dân và có ý nghĩa trọng đại đối với dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử. Về kết cấu, sử thi là một câu chuyện được kể lại có đầu có đuôi với quy mô lớn vì theo Hêghen: “nội dung và hình thức của nó thực sự là toàn bộ các quan niệm, toàn bộ thế giới và cuộc sông của một dân tộc được trình bày dưới hình thức khách quan của một biến cố thực tại”. Các nhân vật chính của sử thi là những anh hùng - tráng sĩ tiêu biểu cho sức mạnh thể chất và tinh thần, cho ý chí và trí thông minh, lòng dũng cảm của cộng đồng” [157 - 192].
Nhưng số phận của thể loại sử thi ra sao trong lịch sử thể loại văn học thế giới? Hiện nay có hai ý kiến khác nhau trả lời câu hỏi này.
Thứ nhất: Ý kiến của Hêghen tiêu biểu cho các ý kiến khẳng định sự “một đi không trở tại” của thể loại sử thi cùng với thời đại đã sản sinh ra nó. Sử thi cổ đại ra đời vào thời điểm bản lề khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và xã hội bộ tộc, bộ lạc tiền giai cấp xuất hiện. Nó tồn tại trong xã hội cổ đại, kéo dài qua thời kỳ trung cổ với những phiên bản mang đặc điểm thể loại của nó, rồi biến mất trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo.
Ý kiến của Mĩ. Bakhtin trong tác phẩm Lý luận và thi pháp tiểu thuyết có nhiều điểm tương đồng với Hêghen. Nhưng M.Bakhtin khác Hêghen ở chỗ: ông vẫn khẳng định sức sống lâu bền của một số đặc điểm thể loại của sử thi trong các thể loại văn học hiện đại: “Cái cảm quan về thời gian ấy và quan niệm về đẳng cấp thời gian mà nó [tức sử thi - chúng tôi nhấn mạnh] ấn định đã thấm nhuần vào tất cả các thể loại cao cả
thời cổ đại và trung đại. Nó thấm xuống tận nền móng các thể loại sâu xa đến nỗi vẫn tiếp tục sống ở đó cả trong các thời đại sau này - cho đến tận thế kỉ XIX và thậm chí lâu hơn nữa” [8 - 46].
Ý kiến của Bakhtin đã dự báo sự hồi sinh của những phẩm chất sử thi trong các thể loại văn học hiện đại.
8
Thứ hai: Ý kiến của giáo sư Nga N. Pôxpêlốv lại cho rằng: Sử thi là một loại hình văn học thuộc thể tài lịch sử - dân tộc tồn tại trong suất tiến trình văn học của nhân loại.
Vậy thể tài là gì? Muốn xác định và phân chia loại thể văn học phải dựa vào tiêu chí nội dung thể loại mang tính loại hình, đó là những đặc điểm thể loại mang tính phổ quát của nhân loại - những đặc điểm vừa mang tính hình thức vừa mang tính nội dung của hàng loạt tác phẩm văn học nằm trong một loại hình. Cái đơn vị "hình thức mang tính quan niệm” ấy là thể tài [thuật ngữ của giáo sư Trần Đình Sử].
Theo Pôxpêlốv, văn học nhân loại trong tiến trình của nó đã xuất hiện bốn thể tài chính tương ứng, với bốn loại hình nội dung đời sống của con người. Mỗi một loại hình nội dung đời sống của con người được quan niệm như một kiểu quan hệ của con người với thế giới.
Kiểu quan hệ thứ nhất: Kiểu quan hệ thần thoại với thể tài thần thoại. Đây là kiểu quan hệ giữa con người với thần linh.
Kiểu quan hệ thứ hai: Kiểu quan hệ lịch sử dân tộc với thể tài sử thi. Đây là kiểu quan hệ giữa con người của cộng đồng này với con người thuộc cộng đồng khác, dân tộc này với dân tộc khác.
Kiểu quan hệ thứ ba: Kiểu quan hệ thế sự với thể tài thế sự - phong tục. Đây là kiểu quan hệ giữa táng lớp này với tầng lớp khác hộ phận người này với bộ phận người khác trong mối quan hệ dân sự.
Kiểu quan hệ thứ tư. Kiểu quan hệ đời tư với thể tài tiểu thuyết. Đây là kiểu quan hệ giữa cá nhân với cá nhân ở góc độ đời tư
Như vậy thể tài sử thi không phải là tên gọi một thể loại văn học mà là một phương thức chiếm lĩnh đời sống theo nguyên tắc sử thi hoá trong văn học. Nguyên tắc phản ánh hiện thực này có đặc điểm: hướng về những đề tải và xung đột mang tầm vóc lịch sử - dân tộc; đặt ra những vấn đề liên quan đến vận mệnh cộng đồng; tái hiện hiện thực bằng kinh nghiệm cộng đồng (nếu phản ánh đời sống cá nhân từ góc độ cộng đồng thì vẫn có tính sử thi); khắc hoạ hình tượng người anh hùng hay cón người lý tưởng của dân tộc trong một bức tranh hiện thực hoặc có quy mô sử thi hoành tráng hoặc có tính sử thi ở cảm hứng tư tưởng, ở chủ đề. Vì thế, thể tài sử thi có thể xuất hiện ở bất cứ thời đại nào có những biến cố lịch sử trọng đại liên quan đến vận mệnh sống còn của dân tộc, hoặc quyết định những bước ngoặt lịch sử của mỗi cộng đồng. Mặc dù, nghiêng về ý kiến thứ hai, chúng tôi vẫn lấy ý kiến mang tính dự báo về sự tiềm ẩn những phẩm chất sử thi trong nền móng các thể loại văn học hôm nay của Bakhtin là một gợi ý quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài.
1.2. Khái niệm tiểu thuyết sử thi (còn gọi là tiểu thuyết anh hùng ca) và tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 – 1975
9
Về loại hình tiều thuyết này, Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa: "Tên gọi ước lệ (...) để chỉ những tiểu thuyết (từ thế kỉ XIX - XX) có dung lượng lớn thể hiện những đề tài lịch sử - dân tộc Những tác phẩm này vừa là tiểu thuyết, đồng thời vừa có nhiều thuộc tính gần gũi với thể loại sử thi cổ đại và trung đại (tầm bao quát tính hoành tráng của những sự kiện có tầm thời đại), cảm hứng dân tộc hoặc lịch sử, mô tả
các sự kiện và xung đột có tính bước ngoặt như chiến tranh cách mạng...". [157 - 230]
Trong một thời gian dài, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam chỉ xếp một số tiểu thuyết Việt Nam hiện đại có dung lượng lớn như Cửa biển (Nguyên Hồng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), Sông mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng)... vào loại hình tiểu thuyết sử thi. Đây là cách phân loại dựa vào tiêu chí quy mô sử thi hoành tráng. Từ
thập kỉ 80 của thế kỉ XX trở lại đây, tiêu chí xác định loại hình thể loại của tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 đã thay đổi theo xu thế rộng mở hơn. Tiểu thuyết sử thi không chỉ phản ánh hiện thực theo bề rộng với quy mô lớn mà có thể phản ánh hiện thực theo chiều sâu của tư tưởng và cảm hứng mang tính sử thi Với những tiêu chí này, không chỉ tiểu thuyết mà toàn bộ nền văn học Việt Nam 1945 - 1975 là một nền văn học mang tính sử thi - một nền văn học mang nội dung lịch sử dân tộc và có hình thức nghệ thuật thấm đẫm chất sử thi. Ở giai đoạn văn học ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng này chúng ta không chỉ được tiếp xúc với tiểu thuyết sử thi mà còn gặp gỡ với truyện ngắn sử thi, thơ sử thi... Thể tài lịch sử - dân tộc và khuynh hướng sử thi hoá đã mang lại cho văn học nói chung và tiểu thuyết thời kỳ này nói riêng một vẻ đẹp và sức mạnh hào hùng, xứng đáng với thời đại Hồ Chí Minh - một thời đại anh hùng. Tình hình tương tự cũng diễn ra trong các nền văn học sử thi hiện đại của các nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa cũ (xem một số vấn đề của tiểu thuyết hiện đại - 158). Khái niệm sử thi hoá ở đây cần được hiểu theo cách kiến giải của giáo sư Trần Đình Sử: "Khái niệm sử thi hoá ở đây không phải là khái niệm thể loại mà còn là khái niệm loại hình nội dung thể loại hay đúng hơn là loại hình văn học. Khi M.Bakhtin đem đối lập sử thi với tiểu thuyết là ông đối lập hai loại hình văn học. Do đó, khái niệm sử thi ở đây không hề đồng nhất với sử thi cổ đại với tính chất tự sự khách quan, dung lượng lớn, kể hết mọi biểu hiện phong phú của đời sống như bách khoa toàn thư. Sử thi ở đây hiểu là khuynh hướng ưu tiên cho chủ đề dân tộc, mâu thuẫn địch - ta, xây dựng những con người tiêu biểu cho ý chí phẩm chất cao đẹp của dân tộc". [129 - 10]
2. Sự tương đồng giữa sử thi cổ điển và tiểu thuyết sử thi hiện đại ở một số phương diện thi pháp thể loại
2.1. Tinh thần dân tộc và ý thức cộng đồng
Sử thi ra đời trong những thời đại có những biến cố lịch sử đặc biệt có ý nghĩa quyết định đối với đời sống tinh thần và vận mệnh của dân tộc và nhân dân. Thời đại diễn ra những xung đột dữ dội, những sự kiện kì vĩ ấy được gọi là thời đại có trạng thái sử thi. Trong những thời đại như thế, tinh thần dân tộc và ý thức cộng đồng là động lực mạnh mẽ tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn cho cả cộng đồng, đoàn kết muôn
10
người như một, coi nhau như anh em để chiến thắng kẻ thù, vượt qua trở ngại, thực hiện mục đích chung của cả cộng đồng. Cũng trong những thời điểm lịch sử đặc biệt như thế lòng tự hào dân tộc và ý thức gắn bó sống còn với cộng đồng đã khiến mỗi cá nhân tự giác đề cao ý thức trách nhiệm trước dân tộc, động cơ cá nhân luôn hoà đồng với mục đích và quyền lợi của cộng đồng. Người anh hùng Asin trong Iliát của Hômerơ đã gắn bó cùng đội quân của 18 thành bang Hi Lạp, kề vai sát cánh trong chiến đấu vì mục đích chung. Asin cũng đã gạt bỏ hiềm khích cá nhân với Agamenông, ra trận chiến đấu vì danh dự và quyền lợi của toàn thể quân đội và các thành bang Hi Lạp. Đăm San trong sử thi Bài ca chàng Đăm San của bộ tộc Ê-đê đồng cam cộng khổ cùng toàn thể bộ tộc trong lao động sản xuất, đi chặt cây thần, chiến đấu và đánh bại hai tù trưởng hùng mạnh khác. Lòng tự hào và ý thức gắn bó với cộng đồng chúng ta trong thế đối lập với cộng đồng chúng nó đã tạo ra vẻ đẹp tuyệt vời của sức mạnh đoàn kết cùng tinh thần xả thân trong các sử thi cổ - trung đại.
Với văn học sử thi hiện đại thế giới nói chung và tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 nói riêng, chúng ta thấy loại hình văn học này cũng chỉ xuất hiện trong những thời đại anh hùng có những xung đột lịch sử mang tầm vóc kì vĩ và có ý nghĩa sống còn với cộng đồng. Cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân xâm lược Napôlêông của dân tộc và nhân dân Nga thế kỉ XIX là một bối cảnh sử thi để xuất hiện sử thi hiện đại Chiến tranh và hoà bình của L.Tônxtôi. Cuộc Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, nội chiến và chống quân can thiệp nước ngoài, cuộc chiến tranh vệ quốc chống phát xít Đức của Liên Xô cũ ở thế kỉ XX là một thời đại anh hùng để từ đó sản sinh ra Suối thép, Sapaép, Thép đã tôi thế đấy, Sông Đông êm đềm v.v...
Với Việt Nam, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và ba mươi năm kháng chiến đánh bại hai tên xâm lược khổng lồ là Pháp và Mỹ, mười lăm năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc... là một giai đoạn lịch sử hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc. Những biến cố bi hùng của giai đoạn này đã tạo ra một trạng thái sử thi cho thời đại Hồ Chí Minh. Một thời đại mà tinh thần dân tộc cùng ý thức cộng đồng như đôi cánh vĩ đại nâng mỗi người và mọi người bay lên khỏi cuộc sống đời thường theo ánh sáng soi đường của Đảng mà đến với đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bay lên ngang tầm thời đại để hoàn thành trách nhiệm công dân trước dân tộc và lịch sử. Chính thời đại anh hùng này đã tạo ra trạng thái sử thi để từ đó ra đời một nền văn học cách mạng mang tính sử thi, trong đó xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết sử thi như Cửa biển, Vỡ bờ, Đất nước đứng lên, Đất Quảng, Mẫn và tôi, Bão biển, Buổi sáng, Chủ tịch huyện v.v... Những tiểu thuyết nhiều tập đồ sộ đáp ứng tiêu chí quy mô sử thi, những tiểu thuyết có dung lượng không lớn đáp ứng tiêu chí Âm hưởng sử thì (thuật ngữ của giáo sư Phan Cự Đệ). Trong các tiểu thuyết sử thi ấy; tinh thần dân tộc và ý thức cộng đồng trong sử thi xưa đã hồi sinh, tinh thần của những Đăm San, Xinh nhã đã sống lại, tạo thành nền móng tinh thần cho sức mạnh Việt Nam quật khởi trước thử thách của lịch sử.
11
2.2. Xung đột sử thi
Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng bao giờ cũng phản ánh hiện thực cuộc sống qua những xung đột trong xã hội và xung đột trong tư tưởng, tình cảm con người. Nhưng mỗi một loại hình văn học lại ưu tiên thể hiện một loại xung đột đặc thù phù hợp với bản chất thể loại của nó. Văn học sử thi ở mọi thời kỳ lịch sử luôn tập trung thể hiện một loại hình xung đột trung tâm: xung đột cộng đồng.
Cấu trúc của mỗi kiểu loại xung đột lại quy định một nguyên tắc để xây dựng các mối quan hệ tương tác giữa các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm. Cấu trúc loại hình của xung đột cộng đồng trong sử thi hình thành một nguyên tắc có tính quy phạm.
Xung đột trong phạm vi lịch sử - dân tộc, có quy mô kì vĩ, có cường độ dữ dội, hướng tới mục đích và quyền lợi của cả cộng đồng. Nguyên tắc trên chi phối cách tổ chức của cả bốn kiểu xung đột trong xung đột cộng đồng của sử thi: xung đột chiến tranh giữa các cộng đồng dân tộc; xung đột giữa con người trong cộng đồng với thế giới tự nhiên; xung đột về tôn giáo; xung đột mang tính thời đại lịch sử. Trong bốn kiểu xung đột này, xung đột chiến tranh là kiểu xung đột phổ biến nhất và mang tính đặc thù nhất cho sử thi cổ điển. Khảo sát các sử thi Hi Lạp cổ đại như Iliát và Ôđixê sử thi Ấn Độ như Ramayana và Mahabharata, sử thi Việt Nam như Đẻ đất đẻ nước, Đăm San, Xinh nhã..., chúng ta có những ví dụ sinh động cho kiểu xung đột trên.
Với loại hình tiểu thuyết sử thi nói chung, tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 nói riêng, chúng tôi thấy kiểu xung đột chiến tranh đã trở thành xung đột trung tâm, đóng vai trò nòng cốt và động lực phát triển của cốt truyện. Xung đột chiến tranh của sử thi xưa đã hồi sinh trong những hình thức nghệ thuật mới và mang một bản chất mới. Nhưng nguyên tắc tổ chức của nó thì vẫn không đổi với ba đặc điểm lặp lại của sử thi - xung đột diễn ra trong phạm vi lịch sử - dân tộc, quy mô kì vĩ, cường độ dữ dội, hướng tới mục đích và quyền lợi của cả cộng đồng. Các tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng ở Việt Nam như Xung kích, Mặt trận trên cao, Vào lửa (Nguyễn Đình Thi), Dòng sông phẳng lặng (Tô Nhuận Vĩ), Hòn Đất (Anh Đức), Chiến sĩ (Nguyễn Khải)...; các tiểu thuyết Nga Xô viết về chiến tranh vệ quốc như Thép đã tôi thế đấy (N. ôxtơrốpxki), Đội cận vệ thanh niên (Fađêép), Pháo đài Bréxt (Ximônốp)... đều tập trung xây dựng kiểu xung đột chiến tranh với những đặc điểm loại hình kể trên.
Nhưng sử thi không nhất thiết phải miêu tả các xung đột quân sự và các anh hùng chiến trận. Sử thi còn ngợi ca tinh thần và trí tuệ của bộ tộc trong những xung đột thế sự và xung đột đời tư mang ý nghĩa thời đại. Trong ôđixê của Hômerơ, Uylítxơ đại diện cho trí tuệ và sức mạnh tinh thần của dân tộc Hi Lạp thời cổ đại đấu tranh và chinh phục thiên nhiên với khát vọng mở mang bờ cõi Nhưng xung đột giữa Uylítxơ với 108 vị cầu hôn lại là xung đột thế sự - đời tư. Chàng Đăm San trong sử thi của người êđê là anh hùng chiến trận trong các xung đột quân sự. Nhưng xung đột giữa Đăm San với tục nối dây lại là xung đột thế sự - đời tư mang ý nghĩa thời đại.
12
Kiểu xung đột này cũng đã hồi sinh trong tiểu thuyết sử thi Việt nam ở bộ phận tiểu thuyết đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội Xung đột thế sự - đời tư trong các tác phẩm Bão biển (Chu Văn), Buổi sáng, Đất làng (Nguyễn Thị Ngọc Tú), Xi măng (Huy Phương), Chủ tịch huyện (Nguyễn Khải)... đều được sử thi hoá bằng cách vừa gán bó và chịu sự tác động của xung đột chiến tranh vừa được miêu tả bằng kinh nghiệm cộng đồng để thể hiện tinh thần thời đại.
Các tác phẩm văn học Nga Xô viết viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng xây dựng kiểu xung đột xã hội có cấu trúc tương tự: Đất vỡ hoang (Sôlôkhốp), Rừng Nga (Lêônốp), Truyện núi đồi và thảo nguyên (Aimatốp)...
2.3. Nhân vật sử thi: người anh hùng và nhân dân
Trong thế giới nghệ thuật sử thi của sử thi cổ - trung đại, nhân vật người anh hùng và nhân vật nhân dân là hai kiểu nhân vật trung tâm mang những phẩm chất loại hình.
Trong thế giới nhân vật sử thi, nhân vật anh hùng là nhân vật trung tâm luôn toả sáng với với vẻ đẹp phi thường. Vẻ đẹp ấy vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân loại ở thời đại ấy. Tính dân tộc được thể hiện ở những chuẩn mực thẩm mỹ mang sắc thái riêng của từng cộng đồng dân tộc. Vẻ đẹp của A sin là vẻ đẹp của một bán thần. Sức mạnh thể chất, ngoại hình, vũ khí và cả cơn nóng giận của chàng đều gợi liên tưởng đến các vị thần trên đỉnh ôlanhpơ. Con người anh hùng trong sử thi Ấn Độ lại mang vẻ đẹp và sức mạnh của con người ở một đất nước nhiều thú dữ: "khoẻ như cọp sức mạnh như chim ưng, cơn thịnh nộ của họ khác gì rắn độc đang điên máu”.
Bên cạnh những chuẩn mực thẩm mỹ mang tính dân tộc, vẻ đẹp và sức mạnh của người anh hùng sử thi còn mang tính nhân loại: đó là cái phi thường với những kích thước lớn lao vượt trội, cái anh hùng của người anh hùng sử thi trong mọi tác phẩm sử thi cổ - trung đại. Vẻ dẹp phi thường ấy được biểu hiện qua bốn phương diện sau đây:
Thứ nhất: Vẻ đẹp ngoại hình, trang phục, vũ khí phi thường.
Thứ hai: Sức mạnh thể chất phi thường.
Thứ ba: Trí tuệ khát vọng phi thường.
Thứ tư. Tái năng, chiến công và sự hy sinh mang tầm vóc phi thường.
Mỗi tác phẩm sử thi lại nhấn mạnh một vài hay lất cả bốn phương diện kể trên trong vẻ đẹp của người anh hùng đại diện cho phẩm chất và khát vọng của cộng đồng.
Với ý thức cộng đồng, người anh hùng sử thi không bao giờ tách rời khỏi tập thể nhân dân anh hùng. Tập thể của những con người có tên và không tên, mang sức mạnh tiềm tàng tiếp sức cho người anh hùng trên từng chặng dường lập chiến công vì lợi ích cộng đồng.
Từ những đặc điểm loại hình của kiểu nhân vật sử thi này, tiểu thuyết sử thi đã tiếp nối, nâng cao, đổi mới về hình thức biểu hiện để xây dựng các nhân vật lý tưởng của
13
mình hi thế giới quan duy vật biện chứng thay thế cho thế giới quan trần linh chủ nghĩa, vẻ đẹp huyền ảo, siêu phàm của nhân vật người anh hùng đã không còn. Nhưng sự phi thường về sức mạnh tinh thần, trí tuệ, tài năng, chiến công, lý tưởng và khát vọng, sự xả thân cho cộng đồng... vẫn hồi sinh và trở thành hạt nhân trong cấu trúc hình tượng nhân vật anh hùng, một cấu trúc nghệ thuật có nội dung mang chất sử thi và hình thức mang chất tiểu thuyết, với tính đời thường bình dị của nó.
Những Mẫn (Mẫn và tôi - Phan Tứ), Khắc (Vỡ bờ - Nguyễn Đình Thi), Tiệp (Bão biển - Chu Văn)... là những nhân vật anh hùng được xây dựng theo cấu trúc nghệ thuật ấy.
Đặc biệt, sự gắn bó giữa người anh hùng cách mạng với cộng đồng nhân dân trong tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 đã có sự đổi mới trong nội dung của mối quan hệ này. Trong sử thi cổ điển, những phẩm chất phi thường của người anh hùng là do thiên phú, tập thể nhân dân với các thành phần như tôi tớ, nô lệ, binh lính... gắn bó với người anh hùng trong quan hệ thụ động và tuân phục. Còn trong tiểu thuyết sử thi ở Việt Nam và trên thế giới, mối quan hệ giữa anh hùng và nhân dân diễn ra một cách tích cực ở cả hai chiều quan hệ: không có nhân dân anh hùng thì không có cá nhân anh hùng; người anh hùng lãnh đạo nhân dân nhưng chính nhân dân góp phần hun đúc lên phẩm chất anh hùng ở họ.
Có ba loại nhân vật trong kiểu nhân vật tập thể nhân dân mang ba chức năng khác nhau trong sử thi cổ điển: nhân vật người già biểu tượng cho trí tuệ cộng đồng mang chức năng ban phát lời khuyên; nhân vật phụ nữ biểu tượng cho cái đẹp, lòng nhân hậu, đức hy sinh mang chức năng phần thưởng và điểm tựa tinh thần; nhân vật đám đông biểu tượng cho sức mạnh quần chúng mang chức năng phò trợ. Cả ba loại nhân vật này khi hồi sinh trong tiểu thuyết sử thi hiện đại đã hoá thân thành các nhân vật người già, phụ nữ, đám đông mang vẻ đẹp vừa cổ điền vừa hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển thể hiện ở sự tiếp nối có chọn lọc những phẩm chất sử thi vốn có ở các loại nhân vật này. Vẻ đẹp hiện đại thể hiện ở sự hoà quyện những phẩm chất sử thi đã được chọn lọc với những phẩm chất cách mạng của thời đại hôm nay.
Các cụ già như ông già sông Trúc (Đất Quảng - Nguyễn Trung Thành), ông già U Minh (Rừng U Minh - Trần Hiếu Minh), cụ Cam, cụ Ước (Của biển - Nguyên Hồng), má Bảy (Gia đình má Bảy - Phan Tứ), má Sáu (Hòn Đất - Anh Đức)... vẫn là những biểu tượng cho trí tuệ cộng đồng nhưng còn là những lão chiến sĩ trên các mặt trận khác nhau và trước những thử thách khác nhau. Nhân vật phụ nữ trong tiểu thuyết sử
thì Việt Nam vẫn là biểu tượng cho vẻ đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam với lòng nhân hậu, đức hy sinh và là điểm tựa tinh thần cho cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng họ không chỉ là những ăngđrômác sầu bi hay Pêlênốp chung thuỷ. Họ còn là những chiến sĩ "anh hùng, bắt khuất, trung hậu, đảm đang”. Nhân vật đám đông trong sử thi đã hoá thân thể những tập thể anh hùng trong tiểu thuyết sử thi. Đây không phải là những đám đông vâng phục và đi theo người anh hùng một cách
14
thụ động. Đây là những tập thể anh hùng đã sản sinh, nuôi dưỡng và tạo ra những người anh hùng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ như dải Ngân Hà ngời sáng mà những người anh hùng là những ngôi sao sáng nhất: nhân dân xã Kì Bường (Gia đình má Bảy), nhân dân xã Hoà Thanh (Đất Quảng), nhân dân Hòn Đất (Hòn Đất)... là những dải Ngân Hà như thế!
2.4. Hiện thực sử thi với không gian - thời gian kì vĩ
Bức tranh hiên thực trong sử thi cổ điển có quy mô hoành tráng, dài rộng và được miêu tả tỉ mỉ chi tiết ở mọi lĩnh vực đời Sống xã hội như bách khoa toàn thư. Chính sự rộng lớn về dung lượng hiện thực đã tạo ra quy mô sử thi - một đặc điểm được nhiều nhà nghiên cứu chọn làm tiêu chí để xác định đặc điểm thể loại của tiểu thuyết sử thi hiện đại. Nhưng thực ra đây chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là đủ để xác định đâu là một tác phẩm sử thi hiện đại. Cái quan trọng nhất đâu phải là tác phẩm miêu tả cái gì mà là tác phẩm ấy đã miêu tả đối lượng đó như thế nào. Một bài thơ bốn câu "O du kích nhỏ giương cao súng” của Tố Hữu hay truyện ngắn số phận một con người của M.Sôlôkhốp còn có tính sử thi hơn nhiều tác phẩm dài tập phản ánh hiện thực từ góc nhìn đời tư. Bởi vậy, tiểu thuyết sử thi hiện đại một mặt kế thừa đặc điểm quy mô sử thi của sử thi cổ điển trong các bộ tiểu thuyết đồ sộ như Cửa biển, Vỡ bờ, Vùng đời ở
Việt Nam hay như Con đường đau khổ (A.Tôn xtôi), Sông Đông êm đềm (M.Sôlôkhốp)... trong văn học Nga Xô viết, mặt khác lại xây dựng những tiểu thuyết phản ánh thời gian ngắn, không gian hẹp, nhân vật ít nhưng vẫn có tính sử thi ở góc nhìn cộng đồng với đối tượng phản ánh.
Bởi vậy, kiểu không gian, thời gian đặc thù của sử thi cổ điển với đặc điểm: không gian hoành tráng, thời gian không bị hạn chế - không phải là điều kiện tiên quyết để xác định bản chất loại hình của tiểu thuyết sử thi. Không gian, thời gian trong loại hình tiểu thuyết này có độ co giãn rất linh hoạt. Nếu nó gắn bó với số phận cộng đồng, được triển khai và cắm mốc bằng hệ thống sự kiện lịch sử dân tộc, được miêu tả bằng kinh nghiệm cộng đồng thì dò không gian chỉ là một làng quê nhỏ bé, thời gian nghệ thuật chỉ tính bằng ngày bằng tháng, không gian, thời gian ấy vẫn có tính sử thi. Một làng Cá kiên cường được đặt vào cái mốc lịch sử là năm 1965 trong Mẫn và tôi (Phan Tứ) vẫn trở thành một không gian, thời gian sử thi vì ở không gian, thời gian ấy đang diễn ra một xung đột mang tính cộng đồng: xung dột giữa dán tộc với ngoại xâm. Từ xung đột này, sự chiến thắng hay thất bại của quân dân làng Cá mang tính điển hình vì khả
năng phản ánh cả cục diện và xu thế lịch sử của chiến trường Miền Nam, rộng ra là cả nước. Hai tuyến nhân vật địch - ta đối đầu trong xung đột lịch sử này được miêu tả bằng kinh nghiệm cá nhân của nhà văn thống nhất tuyệt đối với kinh nghiệm cộng đồng. Ta dũng cảm, mưu trí, yêu nước, căm thù giặc. Địch tàn bạo mà hèn nhát, ngu tối. Ta thắng - địch thua là tất yếu! Nhà văn và cộng đồng đều quan niệm như thế và thời đại khẳng định đó là một chân lí.
2.5. Hệ thống lời văn sử thi
15
Mỗi một thể loại văn học đều có một hệ thống lời văn đặc thù phù hợp với bản chất thể loại của nó. Sử thi cổ điển với cấu trúc thể loại đã hoàn kết đòi hỏi phải có một hệ thống lời văn thuần nhất tính sử thi của riêng nó. Trong những "lời có cánh” này không thể có sự pha tạp với bất cứ thể loại nào ở phương diện sắc thái thẩm mỹ
của lời văn. Hệ thống lời văn sử thi, từ sự chi phối của đặc trưng thể loại sử thi có các đặc điểm sau đay: tràn ngập những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ, gắn liền với thủ pháp cường điệu, phóng đại và các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ...; thiên về miêu tả các hành động phi thường với tần số dày đặc các động từ mạnh; luôn gắn bó với giọng điệu ngưỡng mộ, ngợi ca, tự hào; chỉ gợi tả diễn biến nội tâm qua ngoại hiện của nhân vật, có nhịp điệu mạnh, tốc độ lời văn dồn dập, hối hả. Đây là chàng Đăm San với "hơi thở như sấm sét, tiếng nói tiếng cười như sấm vang sét đánh". Người anh hùng A sin lại có "tiếng hét âm vang như tiếng kèn xung trận, làm cho đấu gối của hết thảy người Tơroa đều run rẩy. Và trái tim thì tan ra thành nước". Còn đoạn văn miêu tả khung cảnh chiến trận sau đây trong Iliát của Hômerơ thể hiện rõ nét những đặc điểm cơ bản của lời văn sử thi: "Tiếng giao chiến rung động xé toang bầu không khí. Tiếng kẻng, kèn, còi, tiếng tù và ầm ĩ khiến trời đất rung chuyển. Ngựa hí. Voi gầm. Các chiến binh hò la như sư tử. Tên phóng đi trong không khí tựa những ngôi sao băng".
So sánh lời văn sử thi cổ điển với lời văn của tiểu thuyết sử thi Việt Nam và tiểu thuyết sử thi Nga Xô viết, chúng tôi thấy tính sử thi thuần nhất đã bị phá vỡ. Trong tiểu thuyết sử thi hiện đại, hệ thống lời văn có sự kết hợp đặc điểm lời văn sử thi với đặc điểm lời văn tiểu thuyết và lời văn của kịch (xét ở phương diện kịch bản văn học), lời văn của kí và lời văn của loại thể trữ tình, một sự tổng hợp và kết tinh chưa từng có đã diễn ra trong lời văn nghệ thuật của tiểu thuyết sử thi. Dẫu đặc điểm lời văn sử thi vẫn chiếm ưu thế trong sự "cộng sinh thể loại” ở phương diện ngôn ngữ và phương diện giọng điệu, nhưng sự tham gia của các kiểu lời văn của các thể loại khác đã đem lại cho tiểu thuyết sử thi tính tổng hợp để "bộ mặt thể loại” của nó phong phú, đa diện, hiện đại như chính bộ mặt cuộc sống trong thời đại anh hùng của chúng ta. Trong Sông mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), chúng ta bắt gặp sự tổng hợp ấy. Đây là một đoạn văn mang đặc điểm lời văn sử thi hào hùng tráng lệ và đầy chất thơ: "Một lá cờ đỏ loé lên. Một đơn vị bộ đội, mũ ca lô sao vàng lấp lánh, mình mặc áo trấn thủ xanh lá cây, chân đi giầy từ đầu phố tiến vào. Súng trên vai tua tủa, bước chân rầm rập (...). Tiếng hát cất lên:
Đi là đi chiến đấu
Đi là mang mối thù thiên thu
Tiếng hát tràn ngập lòng người, tràn ngập toàn khu phố. Lòng súng sáng biếc trong bóng chiều (...) tiếng hát vẫn vang lên. Hàng ngũ bước đi hùng dũng, cuồn cuộn nhấp nhô như dòng suối xanh mát giữa hai bờ cao oi ả..." [140 - 163]
Nhưng bên cạnh lời văn trang trọng, đẹp đẽ ấy là những lời văn mang đặc điểm của lời văn tiểu thuyết, của kí, với sắc thái trần trụi thô nhám như chính cuộc đời đa
16
tạp: "Đêm đêm (...) ông đi nhặt những xác chết trần truồng chỉ còn da bọc xương, trong đám người đói nằm la liệt ngoài đường, dồn lại một đống để chờ xe xác đến mang đi. Tờ mờ sáng, sau khi những người đói còn sống sót toả đi các phố xin ăn, ông lại sửa sang sạch sẽ những chỗ vỉa hè họ vừa nằm vừa bậy ra hôi thối đến nôn mửa". [140 - 155]
Trong tiểu thuyết sử thi Pháo đài Brext của Ximônốp, hệ thống lời văn mang tính tổng hợp được sử dụng để tái hiện cuộc chiến đấu bi hùng của các chiến sĩ Xô viết. Bên cạnh lời văn mang đặc điểm của kí - tư liệu, của tiểu thuyết, lời văn mang đặc điểm lời văn sử thi vẫn chiếm ưu thế. "ánh lửa của những tràng đạn pháo, tiểu liên và súng máy lắp loé trên khắp mặt luỹ. Sông Mukhavext sôi lên dưới lửa, đạn súng máy ken dày đặc từ hai phía trút xuống cầu (...) những người khác vẫn hăm hở xông qua làn đạn súng máy, vượt qua những người chết và bị thương, vừa xông lên vừa bắn tiểu liên, ném lựu đạn...". [152 - 138]
Đặc biệt, chúng tôi lưu ý đến một đặc điểm mới trong hệ thống lời văn của tiểu thuyết sử thi hiện đại. Bên cạnh sự hồi sinh những đặc điểm lời văn sử thi và khả năng tổng hợp sức mạnh lời văn của các thể loại khác, chúng tôi còn thấy lời văn của tiểu thuyết sử thi hiện đại có thêm một đặc điểm: âm hưởng sử thi hàm ẩn trong lời văn giản dị bình thường cũng sẽ mang lại cho nó tính sử thi. Những lời văn không hào hùng tráng lệ, không giàu hình ảnh và các biện pháp tu từ, chỉ mộc mạc như lời nói đời thường nhưng vẫn trở thành lời sử thi mới khi nó nói được số phận, khát vọng và lý tưởng của cả cộng đồng, niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau và ước nguyện của toàn dân. Câu nói giản dị của chị út Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi) "Còn cái lai quần cũng đánh” đâu có gì tương đồng với những "lời có cánh” trong sử thi xưa? Nhưng nó đích thực là lời văn của sử thi mới ở nội dung, ở sắc thái biểu cảm và ở tư thế người nói gắn bó với chủ nghĩa anh cách mạng hùng Việt Nam. Cũng tương tự như thế là lời nhân vật Cượng rỗ (Dưới đám mây màu cánh vạc - Thu Bồn) hỏi vợ vừa sinh con: "Trai hay gái?", chị Gừng đáp: "Lại phải tìm cho nó một cây súng nữa". Lời đáp này không hề có những đặc điểm của lời văn sử thi cổ điển, cũng không hào sảng như lời văn trong một số tiểu thuyết chống Mĩ khác. Nhưng nó vẫn mang âm hưởng sử thi hào hùng dưới đáy sâu của ngôn từ, khi đề cập tới những vấn đề mang tính cộng đồng bấy giờ: vấn đề kế tiếp các thế hệ anh hùng khi đất nước còn bị xâm lược, vấn đề chủ nghĩa anh hùng cách mạng được biểu hiện qua các chi tiết giản dị đời thường nhất.
Cấu trúc thể loại của tiểu thuyết luôn vận động, biến đổi qua từng thời đại. Chỉ có thể khẳng định cấu trúc thể loại của từng loại hình tiểu thuyết trong từng chặng đường của lịch sử loại hình tiểu thuyết thế giới. Từ góc độ phác hoạ mô hình cấu trúc thể loại của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975, chúng tôi đi tìm mô hình nghệ thuật của nó trong sự đối sánh với mô hình cấu trúc thể loại của sử thi cổ điển ở các phương diện kể trên. Từ những phác hoạ sơ lược ban đầu này, chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát cấu trúc thể loại của tiểu thuyết sử thi Việt Nam hiện đại trong ba chương tiếp theo của luận án.
17
Chương một
LOẠI HÌNH CẢM HỨNG SỬ THI TRONG CẤU TRÚC THỂ LOẠI CỦA TIỂU THUYẾT SỬ THI VIỆT NAM 1965 – 1975
1. Loại hình cảm hứng sử thi - một phức hợp cảm hứng tư tưởng đóng vai trò chủ đạo trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
1.1. Khái niệm cảm hứng tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật và cảm hứng sử thI 1.1.1 Cảm hứng tư tưởng trong tác phẩm văn học
Là một lớp nội dung đặc thù trong nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học, cảm hứng tư tưởng có một vị trí và chức năng quan trọng. Bức tranh hiện thực xã hội hay bức tranh tâm trạng trong tác phẩm văn học không được tái hiện một cách lạnh lùng mà bao giờ cũng gắn liền với những cảm xúc mãnh liệt.
Nhà phê bình Nga Biêlinxki nói: "Tư tưởng thơ, đó không phải là phép tam đoạn thức, không phải là giáo điều, không phải là quy tắc, mà tà một ham mê sống động, đó là cảm hứng [92 - 268]. Cảm hứng, đó là tình yêu say đắm mang tư tưởng, là sự hoà quyện nhuần nhuyễn giữa cảm xúc của trái tim với tư tưởng của trí tuệ khi cả hai cùng hướng tới một đối tượng thẩm mỹ nào đó. Biêlinxki cũng đã giải thích hiện tượng này:”Trong cảm hứng, nhà thơ là người yêu tư tưởng như yêu cái đẹp, yêu một sinh thể sống, thấm nhuần tư tưởng một cách nhiệt tình” [92 - 286].
Như vậy, cảm hứng tư tưởng là một lớp nội dung quan trọng trong chỉnh thể tác phẩm. Đó là một tình cảm mạnh mẽ mang tính tư tưởng, một "ham muốn tích cực đưa đến hành động” [230 - 230]. Lớp nội dung đặc thù trong tác phẩm văn học này không thể hiểu một chiều mà mang tính phức hợp với sự liên kết nhiều loại cảm hứng xung quanh một cảm hứng trung tâm. Nó không phải là một thứ tình cảm được trực tiếp xướng lên mà là tình cảm nồng nhiệt mang tư tưởng, toát ra từ tính cách nhân vật, từ tình huống điển hình và miêu tả nghệ thuật trong tác phẩm văn học. tình cảm gắn với tư tưởng sai trái, giả tạo, tầm thường, không thể tạo ra cảm hứng. Chỉ những tư tưởng lành mạnh tiến bộ, cách mạng của thời đại mới khơi mở và làm bùng lên những cảm hứng tư tưởng tích cực. Cảm hứng tư tưởng - khái niệm mà Pôxpêlốv còn gọi là "khuynh hướng tư tưởng - cảm xúc”, là "nhiệt hứng” [117 - 43], bị quy định bởi hiện thực đời sống mà nghệ sĩ phản ánh, đồng thời nó cũng bắt nguồn từ thế giới quan và lý tưởng xã hội của nhà văn.
1.1.2. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học
Khi cảm hứng tư tưởng được nghệ thuật hoá trong tác phẩm văn học thì được gọi là cảm hứng nghệ thuật. Trước và trong khi đặt bút sáng tác, cảm hứng tư tưởng mới là động lực thôi thúc, là ngọn lửa làm tan chảy và hoà quyện mọi chất liệu đời sống mà người nghệ sĩ đã thâu góp để trở thành tác phẩm. Khi tác phẩm hoàn thành, cảm hứng
18
tư tưởng đã được hoà tan vào cấu trúc nghệ thuật. Nó vô hình nhưng lại nằm trong và chi phối mọi yếu tố của chỉnh thể nghệ thuật. Bản thân cảm hứng tư tưởng là một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm. Nhưng đó chỉ là một cách khu biệt và định danh để dễ nghiên cứu về nó. Thực chất khi tác phẩm đã hoàn thành, cảm hứng tư tưởng đã được nghệ thuật hoá thì nó trở thành linh hồn của cấu trúc nghệ thuật, chi phối và ảnh hưởng đến mọi yếu tố thuộc bình diện hình thức và nội dung của tác phẩm. Theo Pôxpêlốv, căn cứ vào phẩm chất thẩm mỹ của bản thân hiện thực đời sống mà có thể nêu lên các loại "Cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính hoặc là cảm hứng cảm thương và cảm hứng lãng mạn, hoặc là cảm hứng châm biếm và cảm hứng hài hước cùng các biến thể của nó” [116 - 215].
1.1.3. Cảm hứng sử thi trong tác phẩm văn học
Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học do Pôxpêlốv chủ biên, các tác giả đã phân chia lịch sử văn học nhân loại theo tiêu chí thể tài văn học. Khái niệm thể tài hiểu theo nghĩa cô đọng nhất là sự thống nhất giữa thể loại với đề tài, là một hình thức thể loại mang tính nội dung.
Lịch sử văn học nhân loại gồm bốn thể tài chính - bốn loại hình nội dung đời sống của con người. Môi một loại hình nội dung đời sống của con người được quan niệm như một kiểu quan hệ của con người với thế giới.
Loại trừ thể tài thần thoại đã ra đi cùng thời đại sản sinh ra nó, với ba thể tài đã và đang tồn tại - phát triển (thể tài sử thi, thể tài thế sự - phong tục, thể tài tiểu thuyết), chúng ta thấy thể tài văn học nào cũng có cảm hứng tư tưởng mang tính đặc thù của nó. Chẳng hạn, thể tài sử thi (tức thể tài dân tộc - lịch sử) lấy cảm hứng sử thi làm cảm hứng tư tưởng chủ đạo. Các cảm hứng thuộc phạm vi thế sự và đời tư chỉ mang tính phối thuộc và bị chi phối bởi một "áp lực sử thi". Cảm hứng chủ đạo này chi phối các tác phẩm thuộc thể tài sử thi ở cả hai cấp độ vĩ mô và vi mô. Nó là cảm hứng chủ đạo của một trào lưu văn học, một thời đại văn học nằm trong cái khung của thể tài sử thi. Khi được biểu hiện trong các tác phẩm văn học cụ thể, nó lại được phân thân thành rất nhiều biến thể, nhưng các biến thể ấy dù mang hình thức này hay khác dù có kết hợp với các kiểu loại cảm hứng tư tưởng khác ở mức độ nào, tất cả đều bị quy định bởi những chuẩn mực nghệ thuật sử thi của nền văn học nằm trong thể tài sử thi ấy.
1.2. Cảm hứng sử thi - cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
Chúng tôi đã trình bày ý kiến của mình về khái niệm cảm hứng tư tưởng trong văn học. Đồng thời, chúng tôi cũng khẳng định vị trí, chức năng và nội dung của cảm hứng sử thi trong thể tài dân tộc - lịch sử, từ đó soi chiếu vào thời đại văn học chiến tranh cách mạng ở Việt Nam, một thời đại văn học mà cảm hứng sử thi là dòng cảm hứng tư
tưởng chủ đạo của nó. Trong dòng cảm hứng chủ lưu ấy có sự góp mặt của nhiều cảm hứng khác như cảm hứng bi kịch, cảm hứng cảm thương, cảm hứng lãng mạn...
19
Những khẳng định trên đây được hình thành dựa trên ba cơ sở:
Thứ nhất: Cơ sở lịch sử.
Cảm hứng thời đại trong văn học, theo giáo sư Hà Minh Đức "thường trước hết được thể hiện ở sự miêu tả thành công, chân thực và sâu sắc những sự kiện tớn của đất nước, của cộng đồng tác động đến vận mệnh chung của mọi người”[44]. Từ mối quan hệ giữa thời đại với nhà văn, chúng ta thấy "mỗi thời đại đều có tầm vóc bước đi và âm vang của nó” [44]. Chính âm vang thời đại ấy tạo nên tính thời đại trong văn học. Tính thời đại là một chuẩn mực thẩm mỹ để đánh giá văn học. Một tác phẩm văn học mang tính thời đại là một tác phẩm mang cảm hứng thời đại.
Với thời đại văn học 1945 - 1975, chúng ta thấy các khái niệm cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng lãng mạn hay cảm hứng cảm thương đều còn quá chật hẹp, chưa đủ bao quát hết cảm hứng chủ đạo của nó. Một số công trình nghiên cứu văn học định danh cảm hứng chủ đạo của thời đại văn học này là: tính sử thi, chất sử thi, yếu tố sử thi, văn học sử thi, cảm nhận sử thi, cảm hứng sử thi...
Từ sự không thống nhất trong khái niệm ấy dẫn đến tình trạng nhận thức mơ hồ của người đọc. Chúng tôi sử dụng khái niệm cảm hứng sử thi như tên gọi của dòng cảm hứng tư tưởng bao trùm thời đại văn học này, một dòng cảm hứng xuất hiện từ Cách mạng tháng Tám, rồi tiếp tục sự tìm kiếm những phương thức nghệ thuật thích hợp cho nó trong văn học chống Pháp và kết tinh rực rỡ trong văn học chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội từ 1960 đến 1975. Thời đại Hồ Chí Minh là một thời đại anh hùng của dân tộc Việt Nam. Không một ai, kể cả những kẻ từng là kẻ thù của chúng ta có đủ chứng cứ để bác bỏ điều đó.
Một thời đại anh hùng tất yếu sẽ sản sinh ra một thời đại văn học anh hùng. Trong một nền văn học lấy cái anh hùng, cái vĩ đại làm đối tượng thẩm mỹ trung tâm thì cảm hứng chủ đạo của nó làm sao có thể rên rỉ ốm yếu? Cảm hứng sử thi xuất hiện trong nền văn học này là một điều tất yếu.
Thứ hai: Cơ sở lý luận.
Tính quy phạm của thể tài văn học với các thành tố nằm trong cấu trúc nghệ thuật của nó là một tất yếu. Mỗi một thể tài văn học đều là một cấu trúc nghệ thuật thống nhất với tính hệ thống của nó. Từ đề tài, chủ đề, thế giới nhân vật, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ, điển hình nghệ thuật... đều mang tính quy phạm. Các yếu tố của thể tài khác khi gia nhập "vương quốc” của thể tài dân tộc - lịch sử đều bị biến dạng và không thể
giữ nguyên vẹn giá trị tự thân đích thực của nó. Nói như vậy để khẳng định: Cảm hứng chủ đạo của thể tài dân tộc - lịch sử phải là cảm hứng sử thi như Lỗ Tấn từng nói đại ý: Trong tim chảy ra phải là máu. Trong suối chảy ra phải là nước.
Thứ ba: Cơ sở thực tiễn văn học.
Khảo sát tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, chúng tôi có đủ cơ sở để khẳng định 20
cảm hứng sử thi là cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975. Những minh chứng cho luận điểm này sẽ được trình bày ở các chương tiếp theo.
1.3. Cảm hứng sử thi là một phức hợp cảm hứng tư tưởng Với hai bộ phận tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng và đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, cảm hứng sử thi với hình thức là một phức hợp cảm hứng được biểu hiện trong từng bộ phận tiểu thuyết với đặc trưng vừa thống nhất vừa có nét đặc thù.
1.3.1. Cảm hứng sử thi trong tiểu thuyết sử thi viết về đề tài chiến tranh cách mạng
Chiến tranh là một biến cố đặc biệt của lịch sử, một đề tài trung tâm của thể tài dân tộc - lịch sử. Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 viết về đề tài chiến tranh cách mạng nằm trong cấu trúc của thể tài dân tộc - lịch sử đã lấy cảm hứng sử thi làm cảm hứng chủ đạo của nó. Trong phức hợp của cảm hứng tư tưởng này, cảm hứng anh hùng là nguồn ánh sáng phi thường rọi chiếu vào tất cả. Các loại cảm hứng khác đều xuất hiện trong sự chi phối của nó.
Cảm hứng sử thi với tư cách là cảm hứng thời đại của giai đoạn văn học 1945 - 1975, là cảm hứng chủ đạo của cả trào lưu văn học sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, trong đó có tiểu thuyết 1965 - 1975.
Tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chiến tranh cách mạng 1965 - 1975 là tiểu thuyết sử thi (hay còn gọi là tiểu thuyết anh hùng ca) với đặc điểm: "Sự hình thành những tính cách các nhân vật được đặt trong liên hệ phối thuộc với các sự kiện có quy mô lịch sử dân tộc” [116]. Cảm hứng sử thi của nó là phức hợp cảm hứng, với cấu trúc gồm các nhóm cảm hứng sau đây:
1.3.1.1. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính
Bàn về cảm hứng anh hùng, Pôxpêlốv đã viết: "Cảm hứng anh hùng bao hàm sự khẳng định chiến công lớn lao của một cá nhân hoặc của cả một tập thể. Sự khẳng định ý nghĩa to lớn của chiến công đó với sự phát triển của nhân dân, dân tộc, nhân loại. Đối tượng của cảm hứng anh hùng trong văn học là chất anh hùng của bản thân thực tại hoạt động tích cực của những con người đã thực hiện những nhiệm vụ lớn mang tính chất tiến bộ của toàn dân tộc” [116 - 143].
Như vậy cảm hứng anh hùng là một tình cảm xã hội với ý thức hướng về chiến công và nhấn mạnh ý nghĩa của những chiến công đó đối với dân tộc và nhân loại. Chủ thể của những chiến công đó là những con người anh hùng (cá nhân hoặc tập thể). Tất nhiên, nhà văn thường không ca ngợi "chất anh hùng” (một khái niệm mang tính dân tộc - lịch sử) một cách trực tiếp mà "lý giải bằng tư tưởng sáng tạo tính anh hùng ấy dưới ánh sáng lý tưởng về sự dũng cảm, trung thực và nghĩa vụ công dân. Nghệ sĩ tái tạo đời sống thành thế giới hình tượng của tác phẩm, trong đó thể hiện quan niệm của tác giả về chiến công, về bản chất, số phận và ý nghĩa của tính cách anh hùng” [116 - 143].
21
Nhưng khi loại hình hoá các dạng thức của cảm hứng tư tưởng trong văn học, Pôxpêlốv và các cộng sự của ông đã nghiên cứu chúng ở tình trạng biệt lập tách rời. Chúng tôi thấy chưa có sự đầy đủ ở cách tiếp cận này. Dù ai cũng hiểu cảm hứng tư tưởng của một tác phẩm văn học hiện đại là một hệ thống gồm nhiều dạng thức châu tuần quanh một dạng thức cảm hứng trung tâm. Nhưng không phải ai cũng thấy có những dạng thức luôn gắn bó song hành với nhau. Đó là cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính. Chỉ có thông qua xung đột và kịch tính, chất anh hùng mới được bộc lộ
và khẳng định. Xung đột và kịch tính giữa con người và hoàn cảnh, với các thế lực đối lập hoặc trong chính nội tâm con người. Không có một con người nào ngồi im không hoạt động, không suy nghĩ, không tình cảm, không tư tưởng mà có thể được gọi là anh hùng. Vậy cảm hứng anh hùng chỉ có thể được bộc lộ qua cảm hứng kịch tính. Vậy cảm hứng kịch tính là gì? Đó là: "Những tình thế kịch tính và những cảm xúc kịch tính do tình thế ấy gây nên ở con người, có thể trở thành đối tượng của sự đánh giá mang tư tưởng sâu sắc trong các tác phẩm văn học, và tạo nên cảm hứng của chính nó” [116 - 153].
Khảo sát tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về cảm hứng sử thi của tiểu thuyết giai đoạn này với cấu trúc mang tính hệ thống của nó. Cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính là hai dạng thức cảm hứng đầu tiên cần bàn đến trong cấu trúc cảm hứng này.
Trong các tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng ta thấy rõ ràng đã xuất hiện những "tình thế đời sống mang tính kịch căng thẳng”. Đó là khi "khát vọng - nhu cầu xã hội - nhu cầu cá nhân” của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam "bị đặt trước nguy cơ thất bại hoặc chết chóc do sức mạnh bên ngoài, độc lập với ý thức và ý chí của họ” [l 16 - 152].
Thế giới phân đôi giữa ta và địch, giữa dân tộc và ngoại xâm, giữa nông dân và địa chủ trong mối thù truyền kiếp... trong tiểu thuyết giai đoạn này đã biểu hiện một xung đột gay gắt, sống còn nhất. Mà "xung đột giữa cái cao cả với cái thấp hèn sẽ làm nảy sinh cảm hứng anh hùng” [4 - 152]. Cảm hứng kịch tính là điều kiện nghệ thuật để
cảm hứng anh hùng bộc lộ. Cảm hứng anh hùng bao giờ cũng mang nội dung khẳng định và phủ định như hai mặt đối lập mà thống nhất.
Thứ nhất: Cảm hứng anh hùng với nội dung khẳng định cái cao ca.
Hàng loạt nhân vật anh hùng với những chiến công phi thường đã xuất hiện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975. Họ là quần chúng cách mạng, cán bộ cách mạng và đặc biệt là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ - hình tượng người anh hùng vệ quốc kiểu mới, lần đấu tiên xuất hiện trong lịch sử văn học Việt Nam. Họ đã "chống trả bọn ngoại xâm, đấu tranh với các thế lực phản động, nhằm đạt tới những hình thái xã hội chính trị tiên tiến” [4 - 153]. Họ được miêu tả với cảm hứng khẳng định, ca ngợi, biết ơn vì những phẩm chất cao đẹp hay vì những chiến công, tin tưởng, đau xót thương tiếc khi họ ngã xuống vì quê hương đất nước.
22
Cảm hứng anh hùng với nội dung khẳng định cái cao cả ấy đã dành bao yêu thương kính trọng cho Thắm, Hoàng, ông già sông Trúc, Vân, Vi, Xuyến trong Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, Khắc An, Quyên trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Quỳnh, Đông, Hảo trong Vùng trời của Hữu Mai, Huy trong Chiến sĩ của Nguyễn Khải... Không chỉ hướng về nhân vật anh hùng là người cán bộ cách mạng, người lính cách mạng đã vượt qua những thử thách khốc liệt nhất, những đau thương mất mát ghê gớm nhất để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cách mạng (đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích vấn đề này nên chúng tôi không trình bày lại), cảm hứng anh hùng trong tiểu thuyết sử thi thời kỳ này còn rọi chiếu ánh sáng lý tưởng hoá vào một nhân vật đẹp đẽ vô ngần có tên gọi là nhân dân. Nhân dân giản dị, bình thường mà vĩ đại là một hình tượng nghệ thuật trung tâm. Họ có tên hoặc không tên nhưng sức mạnh của họ là vô địch. Trong tập thể anh hùng ấy ta bắt gặp các cụ già anh hùng: ông già sông Trúc trong Đất Quảng, ông già U Minh trong Rừng U Minh, ông Nhâm trong Gia đình má Bảy, cụ Ước trong Sóng gầm...
Và đó là các bà mẹ Việt Nam anh hùng: má Sáu trong Hòn Đất; má Bảy trong Gia đình má Bảy; má Chín trong Rừng U Minh; bà Tư trong Dưới đám mây màu cánh vạc...
Rồi các cô gái như Mẫn trong Mẫn và tôi; Vân, Vi trong Đất Quảng; út Sâm, Ngọ trong Gia đình má Bảy; Quyên trong Hòn Đất các em thiếu niên và nhi đồng như Bưởi, Xuyến, Sơn trong Đất Quảng, thằng út trong Hòn Đất, Tự, Thó trong Dưới đám mây màu cánh vạc... tất cả khác nhau về đặc điểm cá thể hoá nhưng đều có chung bản chất xã hội, đều thuộc kiểu nhân vật loại hình. Họ là những người anh hùng trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Lí tưởng cách mạng mang lại cho họ sức mạnh tinh thần kì diệu để vượt qua mọi thử thách. Lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, những đau thương họ phải vượt qua và chiến công của họ đều thật phi thường. Khuynh hướng lý tưởng hoá ấy có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn cách mạng. Văn học cách mạng nói chung và tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng đã cố gắng phản ánh trung thực về hiện thực cuộc sống ấy và có lẽ vẫn còn chưa theo kịp cuộc sống. Các hồi kí của các nhà văn từng vừa cầm súng vừa cầm bút đã cho biết điều đó: "Các nhà văn viết về chiết: tranh cầm bút trong một hoàn cảnh thật cách xa với những cái mà đôi khi chúng ta đã bắt gặp thấy (...) dù một trí tưởng tượng phong phú và bất ngờ đến đâu cũng không thể nghĩ ra được những gì xảy đến trong chiến tranh” [16 - 47]. Tác phẩm viết về chiến tranh còn sơ lược một nhược điểm mà nhiều ý kiến đề cập đến gần đây, thì lại phụ thuộc vào nhiều lý do, trong đó có lý do tài năng của nhà văn, rồi cách hiểu đơn giản về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, quan niệm đơn giản về người anh hùng... Những lý do ấy thì ở văn học hôm nay và có lẽ mai sau vẫn tồn tại. Với không khí dân chủ hoá đời sống và tự do sáng tác hôm nay, với điều kiện vật chất thời gian, thông tin... đầy đủ như hôm nay, các nhà văn Việt Nam đã có một tác phẩm nào (dù viết về chiến trình hay viết về công cuộc đổi mới) xứng đáng với tầm vóc thời đại hay chưa? Hình mẫu nhân vật trung tâm của thời đại
23
hôm nay là ai? Biết rõ những nhược điểm mà văn học Việt Nam 1945 - 1975 mắc phải, tại sao văn học đương đại vẫn chưa thể vượt qua và đạt được những thành tựu rực rỡ ? Có lẽ, câu trả lời vẫn là: Chúng ta chưa có những tài năng lớn để vượt qua những nhược điểm, thử thách, mà sự xuất hiện những tài năng lớn lại không phụ thuộc vào ý chí của chúng ta. Tất cả các nhân vật anh hùng của cảm hứng anh hùng kể trên đều được đặt vào những tình thế giàu kịch tính. Đây không chỉ là một biện pháp nghệ
thuật, một kỹ thuật tiểu thuyết có vai trò tạo độ căng và sự hấp dẫn cho tác phẩm. Đây là một cảm hứng tư tưởng chi phối cấu trúc nghệ thuật của loại hình tiểu thuyết sử thi trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tác phẩm văn học có thể có cảm hứng kịch tính mà không có cảm hứng anh hùng, nhưng cảm hứng anh hùng bao giờ cũng song hành với cảm hứng kịch tính, kịch tính thấm đượm vào tác phẩm từ cấp độ vĩ mô đến vi mô, chi tiết, ngôn ngữ, đến toàn bộ chỉnh thể nghệ thuật. Cảm hứng anh hùng với tư cách là hạt nhân của loại hình cảm hứng sử thi, đã tạo ra một chuẩn mực thẩm mỹ lấy cái hùng, cái cao cả làm nội dung và làm tiêu chuẩn đánh giá cao nhất. Các loại cảm hứng tư tưởng khác đều bị chi phối bởi tiểu chuẩn thẩm mỹ này và biến đổi về chất theo sự quy định của nó.
Tất cả các nhân vật đều được đưa tới những thử thách khắc nghiệt nhất, đều được đưa lên trận tuyến ác liệt để chọn một trong hai con đường sống và chết hiểu theo cả nghĩa hẹp và nghĩa rộng của nó. Thắm và tập thể anh hùng xã Hoà Thanh trong Đất Quảng đứng trước hai thử thách: bó tay chịu chết hay đồng khởi? Bỏ chạy hay cầm súng đánh Mĩ?
Cửa biển và Vỡ bờ - hai bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ viết về quá trình tức nước vỡ bờ của hàng triệu con người lao khổ đi theo ánh sáng soi đường của cách mạng đến cuộc hồi sinh vĩ đại cho cả một dân tộc... Số phận của cá nhân hoà chung vào số phận của cả dân tộc. Bão táp trong tâm hồn mỗi con người cũng chính là bão táp trong hiện thực lịch sử bấy giờ.
Như vậy cảm hứng kịch tính kết hợp với cảm hứng anh hùng đã thấm đượm vào thế giới quan nhà văn, vào phương thức chiếm lĩnh hiện thực và hiện hữu trong thế giới nghệ thuật của các tiểu thuyết sử thi thời kỳ này.
Thứ hai: Cảm hứng anh hùng với nội dung phủ định cái thấp hèn.
Khẳng định và ngợi ca cái cao cả, phủ định và đả kích cái thấp hèn, đó là hai mặt đối lập trong sự thống nhất của nội dung cảm hứng anh hùng. Khí phủ định cái thấp hèn (mà ở đây là loại nhân vật phản diện), chúng tôi thấy sự xuất hiện của cảm hứng châm biếm. Đó là chân dung ngoại hình của nhân vật phản diện được vẽ bằng thủ pháp phóng đại để trở thành lố bịch, hài hước hay quái dị. Sự ngu đốt, hèn hạ và độc ác của chúng là đối tượng của cảm hứng châm biếm - đả kích. Thế nhưng sự hài hước chỉ
dừng lại ở các chi tiết mà không trở thành cảm hứng hài hước.
Cái thấp hèn ở đây được hình tượng hoá thành thế lực bóng tối: đó là đế quốc Mĩ 24
xâm lược và bè lũ tay sai. Bút pháp nghệ thuật xây dựng kiểu nhân vật loại hình này gần gũi với bút pháp dân gian khi xây dựng các nhân vật đại diện cho cái ác. Với bút pháp này, các nhân vật phản diện trong tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 cũng chỉ nổi bật bản chất loại hình của chúng, còn phương diện cá thể hoá của chúng còn mờ nhạt. Nhân vật thằng Xăm trong Hòn Đất xào gan người ăn, hút máu người; thằng cảnh sát Phổ trong Gia đình má Bảy cũng uống máu người; nướng gan người nhắm lượn; cha con Hứa Xang, Hứa Mìn trong Đất Quảng”chọc tiết cán bộ cách mạng rồi uống xì xụp suốt đêm... Các nhân vật cố vấn Mỹ, lĩnh Mỹ cũng được miêu tả tương tự nhưng mờ nhạt hơn nữa. Những tội ác của chúng khiến người đọc căm giận, ghê tởm. Nhưng xét về phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết thì đây là một hạn chế của tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975. Nếu với các nhân vật chính diện, nhược điểm trên còn có thể cơi là một đặc điểm của văn học và tiểu thuyết thời kỳ này (yêu cầu của lịch sử - chính trị, yêu cầu của công chúng văn học, yêu cầu của thể tài dân tộc - lịch sử và truyền thống văn hoá dân tộc...) thì với các nhân vật phản diện, sự đơn giản, sơ lược, một chiều là một hạn chế đáng tiếc.
1 3.1.2. Cảm hứng lãng mạn - cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương
Trong tác phẩm Dẫn luận nghiên cứu văn học, Pôxpêlốv đã trình bày ý kiến của mình về lịch sử hình thành, đặc điểm nội dung, và các hình thức biểu hiện của ba biến thể cảm hứng tư tưởng trong văn học kể trên. ông viết:
"Tình huống bi kịch bao hàm ở mâu thuẫn và đấu tranh của những nguyên tắc cá nhân và "siêu cá nhân” trong ý thức con người (...) là mâu thuẫn giữa "những yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử” của đời sống và việc "không có khả năng thực hiện yêu cầu nói trên của thực tiễn"“[116 - 160].
"Cảm hứng cảm thương - là sự xúc động của tâm hồn, được gây nên bởi ý thức về những phẩm giá đạo đức trong tính cách những con người bị hạ thấp về mặt xã hội hoặc có liên quan với tầng lớp đặc quyền lợi thiếu đạo đức. Trong các tác phẩm văn học tính thương cảm mang khuynh hướng tư tưởng khẳng định” [116 - 182].
"Chất lãng mạn lại là sự phấn chấn tinh thần hướng tới một lý tưởng cao cả”siêu cá nhân”và những biểu hiện của lý tưởng” [116 - 188].
Ý kiến của Pôxpêlốv về ba loại cảm hứng kể trên vừa là sự tổng kết ý kiến của những người đi trước về vấn đề này (Hêghen, ăng ghen, Biêlinxki, Sexnưxepxki..), vừa là phát hiện cá nhân sau khi khảo sát thực tiễn văn học thế giới, đặc biệt là văn học châu Âu Rõ ràng phạm vi khảo sát ấy đã không bao gồm mảng văn học phương Đông cổ điển và hiện đại. Và như vậy, sự chưa đầy đủ của nó là tất yếu. Trong các công trình lý thuyết và lịch sử văn học ở Việt Nam, các ý kiến bàn về cảm hứng tư tưởng của nó trong văn học chưa nhiều và cũng chưa đầy đủ.
Chúng tôi thấy, cảm hứng tư tưởng xuất hiện như một phức hợp cảm hứng trong một tác phẩm văn học, một trào lưu văn học, một thời đại văn học. Mỗi cảm hứng lại
25
hướng về một phạm trù Mĩ học, lấy nó làm đối tượng thẩm mỹ của mình. Các cảm hứng tồn tại trong sự liên kết phối thuộc với nhau để tạo ra một cấu trúc cảm hứng tư tưởng mang tính chỉnh thể. Trong mối liên hệ phối thuộc ấy có thể tồn tại mối quan hệ tay đôi hoặc tay ba theo kiểu quan hệ chính - phụ hoặc đẳng lập. Mỗi nhóm cảm hứng ấy lại tìm đến một phạm trù Mĩ học, lấy nó làm đối tác gợi cảm xúc đắm say, căng thẳng, mãnh liệt cho cả nhóm.
Cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính trong quan hệ chính - phụ cùng hướng về cái hùng, cái cao cả. Cảm hứng bi kịch và cảm hứng kịch tính trong quan hệ chính - phụ hướng về cái bi. Cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương trong quan hệ đẳng lập hướng về cái bi và cái hùng. Cảm hứng lãng mạn và cảm hứng cảm thương hướng về cái cao cả và cái bi trong quan hệ đẳng lập v.v...
Trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam viết về đề tài chiến tranh cách mạng, cảm hứng sử thi là cảm hứng thời đại và cũng là cảm hứng thể loại của tiểu thuyết thời kỳ này. Trong cảm hứng sử thi có sự tồn tại các nhóm cảm hứng kể trên nhưng tất cả đều chịu sự quy định của cảm hứng anh hùng. Từ thực tiễn văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng, chúng tôi muốn bàn thêm về khái niệm cảm hứng mà Pôxpêlốv đưa ra ở một số
khía cạnh sau.
Với một thời đại anh hùng, một nền văn học sử thi, việc hiện điện cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính (như đã trình bày ở trên) là điều tất yếu. Nhưng trong tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 có tồn tại cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương không? Cảm hứng anh hùng và cảm hứng lãng mạn kết hợp như thế nào trong việc miêu tả cái cao cả, cái đẹp? Cảm hứng anh hùng đã tác động và làm biến đổi nội dung các loại cảm hứng tư tưởng khác nằm trong loại hình cảm hứng sử thi như thế nào? Chúng tôi thấy, cảm hứng anh hùng đã chi phối và biến cảm hứng lãng mạn thành cảm hứng lãng mạn cách mạng, biến cảm hứng cảm thương thành cảm hứng cảm thương - bi tráng, biến cảm hứng bi kịch thành cảm hứng bi kịch - lạc quan.
Trước hết, trong tiểu thuyết sử thi thời kỳ này, cảm hứng anh hùng kết hợp với cảm hứng kịch tính chủ yếu để khẳng định, ngợi ca hình tượng người anh hùng (hữu danh và vô danh) với những biểu hiện anh hùng. Còn sự kết hợp cảm hứng bi kịch với cảm hứng cảm thương lại lấy cái bi và cái hùng làm phẩm chất thẩm mỹ của mình. Kết hợp cảm hứng này hướng về hai tư thế bi hùng sau đây của hình tượng người anh hùng cách mạng.
Tư thế vượt qua thử thách khắc nghiệt để trở thành người anh hùng. Tư thế hy sinh của hình tượng người anh hùng.
Trong tiểu thuyết Gia đình má Bảy của Phan Tứ, ta gặp tư thế thứ nhất ở út Sâm, tư thế thứ hai gặp ở nhân vật Ngọ. út Sâm hồn nhiên, dũng cảm, say mê cách mạng còn hơn say mê người yêu đã bị giặc tra tấn khủng khiếp, nỗi đau trên thể xác Sâm và nỗi đau trong lòng má Bảy đã làm trào dâng sự thương cảm và kính phục. Rồi cảm
26
hứng bi kịch ùa đến khi chúng ta chứng kiến sự hy sinh thật đau thương và cao đẹp của Ngọ.
"Một cặp chân ứ máu tím dính vào một đống lùng nhùng những thịt, da, tóc nhào với bùn xám, từng chỗ nhô tên vài cái đầu xương trắng như tròng mắt long nhìn giặc” [138 - 389]. Nhưng ở đây cảm hứng bi kịch đã biến thành cảm hứng bi kịch lạc quan, bởi cái chết của Ngọ đã gieo mầm cho sự sống, đã mở đường tới chiến thắng. Cái chết ấy đã hoá thành bất tử, cảm hứng bi kịch truyền thống đã mang một chất lượng mới trong văn học Việt Nam nói chung và tiểu thuyết nói riêng.
"Ngọ không già nữa, Ngọ cứ trẻ vui thế mãi (...) còn mối thù phải trả tiếp cho Ngọ, Sâm đã đúc nó thành một viên đạn nằm gọn trong tim, không để nó chảy tràn trong nước mắt nữa. Những người hy sinh muốn chúng ta cười để thắng giặc" [138 - 359].
Với sự kết hợp cảm hứng bi kịch lạc quan cùng cảm hứng cảm thương trong Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, ta nghe tiếng kêu, tiếng thét, tiếng giẫy đạp của những người cán bộ bị giặc "chọc tiết” bên bờ sông Trúc. Rồi cái chết của anh Quế, của Vi, của em Xuyến. Nôi đau và cái chết chưa trở thành cái bi, chúng chỉ trở thành cái bi "khi hướng tới và khẳng định cái bất tử về mặt tinh thần của con người"[4 - 26]. Và sau cảm hứng bi kịch là lòng thương cảm vô bờ dành cho những người con ngã xuống vì tổ quốc. Chúng ta biết họ trở thành bất tử vì những người kế tiếp (Thắm, Hoàng, Vi...) đã mang lý tưởng của họ vào trận đánh, đã mang tên họ trong tim để đi tới chiến thắng. Chúng tôi nói chất bi kịch ở đây là bi kịch lạc quan là vì thế.
Trong tiểu thuyết Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu cảm hứng chủ đạo mang hai dạng thức cảm hứng trung tâm là cảm hứng anh hùng và cảm hứng kịch tính. Nhưng bên cạnh đó, cảm hứng bi kịch và cảm hứng cảm thương cũng xuất hiện qua sự hy sinh của Cận, của Lữ và bao người khác: "Lữ ngã gục ngay xuống, máu từ trên mái tóc rủ loà xoà ám đầy khói cháy xối xuống hai hố mắt và hai bên vạt áo quân phục (...) Lữ nằm gục trên chiếc đài, những ngón tay vẫn nắm chặt cái ống tổ hợp” [15 - 474]. Cái chết của Lữ được miêu tả bằng cả cảm hứng bi kịch, cảm hứng anh hùng và cảm hứng cảm thương, qua đó nhà văn khẳng định sự bất tử của người lính cách mạng anh hùng và phát hiện những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam - dân tộc Việt Nam trong chiến tranh vệ quốc.
"Người chiến sĩ điện thanh ấy trước lúc hy sinh còn ngẩng cao đầu lên một lần cuối cùng. Trên nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay...” [15 - 474].
Góp phần khắc hoạ vẻ đẹp lý tưởng của nhân vật anh hùng, cảm hứng lãng mạn tinh lọc lấy những gì đẹp nhất để tạo thành những phẩm chất phi thường cho hình tượng người anh hùng cách mạng. Vẻ đẹp lý tưởng của chị Sứ trong Hòn Đất, Nguyễn Đức Thuận trong Bất khuất, Khắc trong Vỡ bờ... đều được khắc hoạ từ điểm nhìn vừa hiện thực vừa lãng mạn ấy. Nói đến bút pháp hiện thực vì nhân vật anh hùng không hề
27
xa cách hiện thực đời sống. Nói đến bút pháp lãng mạn vì các nhà văn chỉ chọn lọc những chất liệu lý tưởng của đời sống để xây dựng hình tượng người anh hùng.
Với sự hy sinh của hình tượng người anh hùng, cảm hứng lãng mạn đã biến cái bi thành bi hùng, đã rọi chiếu hào quang vào sự mất mát đó, biến cái chết thành sự bất tử.
Sự hy sinh của anh Khắc, chị Sứ, em Xuyến... đều có ý nghĩa nâng những người còn sống đứng dậy, giục họ bước tiếp con đường mà lý tưởng đã chọn.
Cảm hứng lãng mạn cách mạng còn là cơ sở để tạo thành niềm tin tưởng lạc quan trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975. Từ trong hiện thực đấu tranh cách mạng, dù đen tối hay đau thương đến đâu, âm hưởng lạc quan tin tưởng vẫn vang ngân trong từng trang viết.
"Ánh trăng đổ tràn trên bờ suối, làm nổi rõ bóng Sứ đang quỳ, nổi rõ cây cọc nhú lên quá đầu chị độ một gang tay. Lát sau, tóc Sứ chợt vờn nhẹ, thế rồi mái tóc ấy bồng lên, bay xoã theo chiều gió. Chẳng còn thấy cây cọc kia đâu nữa. Chỉ có áng tóc tắm ánh trăng của Sứ đang bay lượn” [37 - 149].
Như vậy, với vai trò cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh 1965 - 1975, cảm hứng sử thi đã xuất hiện như một phức hợp cảm hứng với hàng loạt dạng thức: cảm hứng anh hừng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng cảm thương, cảm hứng hài hước và châm biếm... cùng các biến thể của nó. Do đặc trưng thời đại và truyền thống văn hoá dân tộc, các dạng thức cảm hứng tư
tưởng kia vừa in đậm tính dân tộc vừa mang tính nhân loại. So sánh tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 với tiểu thuyết sử thi của văn học Nga Xô viết, chúng ta thấy rõ sự tương đồng ở phương pháp sáng tác, cấu trúc thể loại và sự khác biệt ở bút pháp và phong cách nghệ thuật. Cảm hứng tư tưởng của văn học Việt Nam 1965 - 1975 nói chung, của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng, là một vấn đề khó chưa được nghiên cứu thấu đáo và trọn vẹn trong bất cứ công trình nghiên cứu văn học nào. Trên đây mới chỉ là những tìm tòi ban đầu và còn mang tính sơ lược của chúng tôi về vấn đề này.
1.3.2. Cảm hứng sử thi trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội
Tiểu thuyết sử thi Việt Nam nói chung và tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng tập trung phản ánh hai đề tài lớn: Chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là hai biến cố lịch sử trọng đại liên quan đến vấn mệnh của tổ quốc, của dân tộc và nhân dân. Nhân vật của cả hai bộ phận tiểu thuyết này, trong khi biểu hiện ý chí tự do của mình, đều tự giác phục tùng nghĩa vụ yêu nước và cách mạng cao cả, lợi ích lớn nhất đối với họ là lợi ích vì tổ quốc, vì tập thể.
Trong các tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, cảm hứng sử thi vẫn đóng vai trò là cảm hứng chủ đạo. Những biểu hiện cụ thể của nó đã mang dáng vẻ riêng phù hợp với mặt trận không tiếng súng này.
28
Nhưng đặc trưng của nó vẫn thống nhất và nằm trong cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này.
Cảm hứng sử thi với cảm hứng anh hùng tà cảm hứng trung tâm trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nếu trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 về đề tài chiến tranh cách mạng, cảm hứng anh hùng hướng về xung đột chiến tranh cách mạng, thì trong bộ phận tiểu thuyết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, cảm hứng anh hùng hướng về xung đột xã hội với cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa, giữa hai lối sống, hai lực lượng xã hội tích cực và tiêu cực, giữa hai thế lực cách mạng và phản cách mạng. Với cảm hứng anh hùng, các nhà văn đã phát hiện và ca ngợi cái đẹp, cái cao cả trong hiện thực xã hội ở phạm vi đời tư và thế sự đã được sử thi hoá.
Cảm hứng sử thi lấy cảm hứng anh hùng làm trung tâm với nội dung khẳng định, ngợi ca cái đẹp, cái mới, cái cao cả trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và nội dung phê phán cái xấu, cái ác cùng các hiện tượng tiêu cực.
Trong tiểu thuyết Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú, cảm hứng anh hùng toả sáng từ các hình tượng nhân vật lý tưởng như Khái Thức Ngát, Bưởi... và được biểu hiện qua các tình huống thử thách - những thử thách thuộc phạm vi đời tư trong môi gia đình trong những quan hệ riêng tư như tình vợ chồng, mẹ con, họ tộc. lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể luôn luôn là mâu thuẫn giằng xé ở những mức độ khác nhau, buộc các nhân vật lý tưởng phải chọn lựa. Rồi thử thách ở phạm vi thế sự với mọi mối quan hệ trong cộng đồng, làng xã vốn không dễ rạch ròi ở một đất nước nông nghiệp như nước ta. Những khó khăn thử thách ở đồng đất bạc màu, ở kĩ thuật canh tác lạc hậu, ở
những phần tử tiêu cực như Quế, Bảy đớp, Tị... từ việc chuyển giống cũ sang giống mới, chăn nuôi theo đúng khoa học tiên tiến mở cống đón lũ về lấy phù sa... tất cả đều là những thử thách vô hình và hữu hình, không chỉ có trong các phần lử tiêu cực chống đối mà có trong chính vợ con, đồng chí và nhiều khi có ngay trong chính bản thân mình. Lòng yêu nước, tinh thần vì tập thể, bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng dũng cảm.. là những biểu hiện cao đẹp của các nhân vật lý tưởng được miêu tả và ngợi ca bằng cảm hứng anh hùng.
Cảm hứng hài hước và trào phúng ở vị trí phối thuộc với cảm hứng anh hùng dự biến các nhân vật phản diện thành những bức chân dung biếm hoạ lạc lõng, đáng ghét: thói bần tiện ở Tị, sự gian ngoan, xảo quyệt ở Quế, thói lười nhác và hèn hạ ở Bảy đớp... Các nhân vật phản diện với số lượng ít ỏi là mảng tối nhỏ nhoi còn rơi rớt lại của xã hội cũ, của một số nhược điểm cố hữu truyền đời của người nông dân, đóng vai trò vật tương phản để làm ngời sáng hơn vẻ đẹp tinh thần và trí tuệ của các nhân vật lý tưởng.
Tiểu thuyết Buổi sáng phản ánh công cuộc hợp tác hoá và cơ giới hoá ở nông thôn 29
miền Bắc trong những tháng năm vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa chuẩn bị chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ. Cảm hứng anh hùng không bộc lộ trực tiếp mà thấm sâu vào từng hành động, từng việc làm cụ thể của nhân vật lý tưởng như Huấn, Minh, Hằng, Mơ... Huấn phục hồi chiếc máy kéo đổ ở cánh đồng thiên lôi, Mơ lãnh đạo hợp tác xã cải tạo cánh đồng bạc màu, tìm tòi giống lúa mới, ông Chúc dằn vặt bởi những yếu kém trong năng lực quản lý của mình rồi nhường quyền lãnh đạo trạm máy kéo cho anh em trẻ... đó chính là những chiến công thầm lặng trên mặt trận lao động sản xuất. Họ chiến thắng trở ngại của hoàn cảnh và những trở ngại trong chính bản thân mình để đóng góp nhiều hơn cho tập thể, cho đất nước. Cảm hứng anh hùng toả sáng một thứ ánh sáng mới - giản dị lặng thầm hơn nhưng không kém phần đẹp đẽ so với cảm hứng anh hùng trong các tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng.
Cũng tương tự như trong Đất làng, cám hứng hài hước và cảm hứng trào phúng trong Buổi sáng tập trung vào một số nhân vật tiêu cực xuất hiện như một đối trọng để làm nổi bật các nhân vật lý tưởng: thói tư lợi và xu nịnh của Sơn, sự dửng dưng vô trách nhiệm của Vượng, những toan tính cá nhân của Túc, Long đen...
Nhưng với hai tiểu thuyết kể trên của Nguyễn Thị Ngọc Tú, chúng tôi thấy xung đột trong tác phẩm chưa có độ căng kịch tính, lực lượng tiêu cực thật yếu ớt, mâu thuẫn được giải quyết dễ dàng, vì thế thắng lợi chưa có được ý nghĩa đích thực của nó.
Tìm được một lối đi riêng và có những khám phá sắc sảo khi phản ánh đề tài xây dựng xã hội chủ nghĩa là Nguyễn Khải. Chất trí tuệ và khả năng phát hiện những vấn đề nổi cộm trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa là mặt mạnh của ngòi bút văn xuôi tỉnh táo này. Cảm hứng anh hùng trong tác phẩm Chủ tịch huyện của Nguyễn Khải không hào sảng phơi phới như trong một số tác phẩm cùng thời mà trầm tư sâu lắng hơn. Cảm hứng anh hùng trong Chủ tịch huyện của Nguyễn Khải không tập trung vào những hành động anh hùng trong sản xuất, những chiến công làm nức lòng người. Cảm hứng anh hùng thầm lặng mà toả sáng từ những thử thách mang tính hướng nội trong mỗi con người, dù họ ở vị trí xã hội nào. Ngoại trừ nhân vật Bí thư tỉnh uỷ Quang được trực tiếp ca ngợi ở phong cách làm việc sâu sát, gần gũi: tự tay dọn dẹp căn nhà bừa bộn của Mộc, cầm dầm xới chân ngô và bắt sâu cùng nông dân... còn lại tất cả các nhân vật chính diện như Hiệp, Thuỳ Mai, An, Hạ... đều phải trải một cuộc đấu tranh gian khổ để chiến thắng những hạn chế, nhược điểm trong chính bản thân mình. Và cảm hứng anh hùng toả sáng từ những chiến thắng ấy. Có thể coi câu nói sau đây của Hiệp là tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
"Nói cho cùng, cái thử thách lớn nhất, phức tạp nhất vẫn là tự vượt qua mình. Ngoài ra những khó khăn thử thách khác đều không đáng sợ...” [67 - 155]
Đó chẳng phải là chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc đấu tranh để vượt lên chính mình của những người cộng sản chân chính hay sao?
Tác phẩm thành công nhất viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này 30
là Bão biển của Chu Văn. Cảm hứng anh hùng, cảm hứng kịch tính và cảm hứng lãng mạng đã kết hợp nhuần nhị trong hình tượng những con người mới ở nông thôn, trong thời điểm lịch sử sóng gió nhất, trong một không gian chất chứa những xung đột dữ dội nhất. Với không gian nghệ thuật là một vùng công giáo toàn tòng, với hàng loạt xung đột giàu kịch tính như xung đột giữa niềm tin tôn giáo với thực tế làm đổ vỡ niềm tin ấy, xung đột giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa, xung đột giữa hai lực lượng cách mạng và phản cách mạng... Tiệp - nhân vật người anh hùng kiểu mới phi thường trong sự bình đi đời thường, đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh không khoan nhượng và chiến thắng mọi thử thách. Những nhược điểm ở Tiệp khiến anh gần gũi và đáng yêu hơn.
Bên cạnh các cảm hứng anh hùng - kịch tình - lãng mạn dành cho nhân vật lý tưởng, chúng ta còn bắt gặp cảm hứng hài hước và cảm hứng trào phúng trong nhiệt tình phê phán các thế lực thù địch với cách mạng trong Bão biển. Đó là các nhân vật phản diện đã đạt tới tính điển hình như Giám mục Phạm Văn Độ, Cha Hoan, Chánh Hạp... quả còn ít có tác phẩm nào ở thời kỳ này xây dựng được những điển hình văn học về cái xấu cái ác thành công đến thế.
Cảm hứng cảm thương được tập trung vào hình tượng nhân vật Nhân và Xơ Khuyên. Có biết bao nhiêu xót xa và cảm thông được tác giả dành cho những thân phận bị vùi dập này. Tác giả như đã cố tình đặt Nhân cạnh Ái để cho sự chậm tiến của người chị càng làm nổi rõ sự chuyển mình nhanh chóng của người em. Sự chậm tiến của Nhân cũng mang giá từ tố cáo: bọn thầy tu phản động và niềm tin tôn giáo mù quáng đã huỷ hoại ghê gớm đến chừng nào với một con người.
Bên cạnh các tác phẩm tiêu biểu kể trên, chúng ta còn có thể kể đến một số tác phẩm viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội như Miền Tây của Tô Hoài, Đi bước nữa của Nguyễn Thế Phương, Xi Măng của Huy Phương... Cảm hứng sử thi trong các tác phẩm này vẫn là một tình cảm xã hội đã được ý thức, bao gồm những tình cảm khẳng định như ngợi ca, biết ơn, vui sướng, tin yêu, đau xót tiếc thương... hoặc là những tình cảm phủ định cái xấu, cái ác như căm thù, tố cáo, châm biếm, mỉa mai... Tất cả được kết tinh tại trong một phức hợp cảm hứng tư tưởng lấy cảm hứng anh hùng làm trung tâm.
2. Quy định của cảm hứng sử thi đối với diện mạo chung của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
2.1. Quy định của cảm hứng sử thi đối với quan niệm nghệ thuật về con người
Mỗi một thời đại văn học có một quan niệm nghệ thuật về con người Sự chuyển đổi các thời đại văn học trong tiến trình văn học nhân loại, suy cho cùng, là sự chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người, chuyển đổi về trình độ nhận thức và hình thức phản ánh con người trong văn học.
Vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người trong vãn học nói chung, tiểu thuyết sử 31
thi Việt Nam 1945 - 1975 nói riêng đã được bàn khá kĩ trong hàng loạt công trình nghiên cứu của Trần Đình Sử (129), Phan Cự Đệ [35], Nguyễn Hải Hà và Nguyễn Thị Bình [47]... Trong chuyên mục này, chúng tôi muốn bước đầu tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 (đặc biệt trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975) từ sự tác động và tương giao với loại hình cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết giai đoạn này.
Vậy cảm hứng sử thi có quan hệ như thế nào với quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975? Nếu ở giai đoạn chuẩn bị và bắt tay vào sáng tác của nhà văn, quan niệm về con người vừa nằm trong khuôn khổ của thời đại, vừa mang dấu ấn cá nhân phải có trước thì cảm hứng chủ đạo chỉ hình thành sau quá trình xây dựng tác phẩm. Nhưng nếu chỉ xét riêng về văn bản nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người "Là sự cắt nghĩa và quan niệm về con người bằng hình tượng nghệ thuật” [92 - 44] lại nằm trong và hoà nhuyễn vào cảm hứng chủ đạo. Bởi cảm hứng chủ đạo là một tình yêu mạnh mẽ, nhiệt thành với một tư tưởng xác định, tư tưởng xác định ấy là sự tổng hoà của thế giới quan, lý tưởng chính trị và lý tưởng thẩm mỹ cùng quan niệm về con người. Tình yêu lớn mang tư tưởng này sẽ "đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm tinh thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ và yêu tố của nội dung tác phẩm” [92 - 32].
Như vậy, khái niệm cảm hứng chủ đạo rộng hơn khái niệm quan niệm nghệ thuật về con người sau khi văn bản nghệ thuật hình thành. Cảm hứng chủ đạo như một chất keo gắn kết tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung tác phẩm, trong đó có quan niệm nghệ thuật. Sự thống nhất giữa cảm hứng chủ đạo và quan niệm nghệ thuật về con người lại chỉ ra mối quan hệ của hai yếu tố này, mối quan hệ vừa độc lập vừa phụ
thuộc và tác động tương hỗ với nhau.
Trong sáng tác, cảm hứng chủ đạo hình thành và triển khai trong tác phẩm như là bột phát và mang tính cá nhân của nhà văn. Có thể ví nó như một cơn lũ bất ngờ trào dâng và đi tới. Trên hành trình của nó, cảm hứng chủ đạo cuốn theo, nhận vào trong nó cả lý tưởng chính trị và thẩm mỹ, cả thế giới quan và quan niệm về con người của nhà văn. Nhưng xét sâu xa, chính lý tưởng chính trị và thẩm mỹ, thế giới quan và quan niệm về con người của nhà văn đã mai phục và định hình từ trước, nó tạo ra những vết hằn có sẵn trong tư duy nghệ thuật, khiến cho cơn lũ cảm hứng chủ đạo kia trào dâng và đi tới như tự nó. Thực ra, cảm hứng chủ đạo đã được định trước dòng chảy và hướng đi theo những vết hằn định sẵn của tư duy nghệ thuật. Sau khi tác phẩm hoàn thành, cảm hứng chủ đạo và quan niệm nghệ thuật về con người - cái quan niệm về con người đã được nghệ thuật hoá, lại được các nhà nghiên cứu văn học tách riêng như
hai nguồn lực quan trọng góp phần xây dựng nên chỉnh thể nghệ thuật.
Trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975, cảm hứng sử thi và quan niệm nghệ thuật về con người chính trị, con người lý tưởng cũng có mối quan hệ như thế. Cảm hứng thời đại của thời đại Hồ Chí Minh là cảm hứng hướng về những sự kiện
32
lịch sử lớn và người anh hùng lý tưởng lập chiến công vì cộng đồng. Cảm hứng thời đại ấy được nghệ thuật hoá trong văn học nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết nói riêng, trở thành cảm hứng sử thi với cảm hứng yêu nước và anh hùng ở vị trí trung tâm. Cảm hứng yêu nước và anh hùng gặp gỡ và cuối hút vào trong nó quan niệm về
con người của thời đại Con người lao động được đổi đời nhờ cách mạng, con người cách mạng tham gia vào các sự kiện lịch sử trọng đại và quyết định vận mệnh của đất nước; con người mới xã hội chủ nghĩa xuất hiện với tư cách nêu gương trong lao động, chiến đấu, học tập... Quan niệm về con người trong thời đại Hồ Chí Minh mang tính cách mạng và duy vật xuất hiện từ thực tế lịch sử. Nó trở thành một nhân tố vừa tham gia cấu thành vừa định hướng nội dung cho cảm hứng sử thi. Cảm hứng yêu nước và anh hùng đã hướng các nhà văn tập trung khắc hoạ những tấm gương sáng về chủ nghĩa yêu nước và anh hùng trong tác phẩm của mình. Chính những tâm gương sáng ấy là tiêu điểm hội tụ, kết tinh quan niệm nghệ thuật về con người chính trị, con người lý tưởng của cả cộng đồng trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975.
Vậy con người Việt Nam trong quan niệm nghệ thuật của thời kỳ này có những đặc điểm loại hình nào? Khi các nhà nghiên cứu văn học phân loại và xác định: Con người quần chúng trong văn học chống Pháp (1946 - 1954), con người tập thể trong văn học xây dựng chủ nghĩa xã hội (1954 - 1964), con người chính trị mang tính lý tưởng của văn học chống Mĩ (1965 - 1975) thì đó là cách phân chia theo tiêu chí đạo đức - chính trị. Các kiểu nhân vật trên hình thành trong văn học như những mô hình nghệ thuật mà hạt nhân cấu trúc của nó là tính giai cấp, tính dân tộc. Nó được xác định trong chiều rộng của phạm vi liên kết nó với bộ phận người, tầng lớp người mà nó đại diện.
Chúng tôi muốn xác định đặc điểm loại hình của con người trong quan niệm nghệ thuật của nhà văn theo tiêu chí nhân cách và mức độ hoàn thiện của nó trong tiến trình phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975. Bởi vì nhân cách là một phạm trù của sự hài hoà giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, giữa mặt cá nhân và mặt cộng đồng. Từ loại hình nhân cách của nhân vật trong từng chặng đường phát triển của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975, chúng ta nhận ra từ chiều sâu quá trình vận động của quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết giai đoạn này (nhưng đây lại là vấn đề thuộc phạm vi một công trình khác).
Ở đây dựa vào tiêu chí nhân cách, chúng tôi muốn khái quát một số đặc điểm loại hình của con người trong tiểu thuyết sử thi việt Nam 1945 - 1975:
2.1.1. Con người hoàn tất ở phẩm chất”con người xã hội". Nhân cách con người mang”mẫu số chung”và vận động theo một”con đường”ổn định.
Ba mươi năm chiến tranh cách mạng, hai cuộc kháng chiến để đánh bại hai tên xâm lược khổng lồ là thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích chiến thắng nghèo đói lạc hậu đã ngự trị ngàn đời, đó là những điều kiện thử thách ghê gớm chưa từng có trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Thử thách
33
lịch sử này đưa cả dân tộc và mỗi con người vào một đời sống bất bình thường, đòi hỏi có sự vươn lên của chính mình rất phi thường. Hoàn cảnh lịch sử đặc biệt ấy đã tạo ra con người thời đại và nhân vật văn học của thời đại. Con người hoàn tất và chói chang ở phương diện con người xã hội, và tất yếu có phần sơ lược mờ nhạt ở phương diện con người cá nhân. Đây là một đặc điểm có tính lịch sử bởi nhân cách con người là sản phẩm của thời đại hình bóng của con người thời đại là nhân vật văn học cũng không vượt ra ngoài quy luật ấy. Từ những phác thảo ban đầu về chân dung con người của thời kháng chiến chống Pháp trong ứng kích (Nguyễn Đình Thi), Con trâu (Nguyễn Văn Bổng), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), những con người vừa thoát khỏi kiếp nô lệ, lấy cuộc sống tập thể và chiến công giết giặc là hạnh phúc lớn nhất của mình, đến niềm sung sướng khôn tả của út Sâm (Gia đình má Bảy - Phan Tứ) khi được cầm súng giết giặc có khác gì nhau?
Trong Cao điểm cuối cùng, Vùng trời của Hữu Mai, Cửa sông, Dâu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Xung đột, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Cửa biển của Nguyên Hồng, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Hòn Đất của Anh Đức, Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành các nhân vật chính diện đều hoàn tất ở phẩm chất con người xã
hội với một hệ thống chuẩn mực chung được hình thành từ tính thời đại và kinh nghiệm cộng đồng như: tình yêu quê hương đất nước, ý thức xả thân vì cách mạng, có lý tưởng cao đẹp, đặt cái chung lên cái riêng, anh hùng trong chiến đấu và lao động, tin tưởng lạc quan trong hoàn cảnh đó khăn nguy hiểm... Các nhân vật phản diện cũng mang phẩm chất xã hội ổn định và bất biến - những phẩm chất luôn trùng khít với chiếc áo khoác xã hội của nhân vật. Nếu nhân vật chính diện luôn luôn là biểu tượng của cái tốt đẹp cái cao cả thì nhân vật phản diện lại luôn là biểu tượng của cái xấu, cái ác. Những sai lầm lệch lạc (bao giờ cũng rất nhỏ bé) nếu có, cũng chỉ để tô điểm cho vẻ đẹp tinh thần của nhân vật chính diện như lửa thu vàng. Phấn lương tri nhân tính (cũng rất ít ỏi) còn sót lại ở nhân vật phản diện cũng chỉ tô đậm thêm quá trình thú vật hoá ở chúng.
Sự hoàn tất về con người xã hội trong hình tượng con người của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 thực ra là biểu hiện của sự không hoàn tất về phương diện khắc hoạ nhân cách con người. Nếu ở giai đoạn này, quan niệm nghệ thuật về con người có phần cực đoan khi nghiêng về cái chung thì trong tiểu thuyết xuất hiện sau 1975, đặc biệt sau năm 1986, cái nhìn ấy lại nghiêng về cái riêng với nhiều vênh lệch, khập khiễng, dở dang trong miêu tả nhân cách con người. Các tiểu thuyết: Nước mắt đỏ
(Trần Huy Quang), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh), Cù lao Chăm (Nguyên Mạnh Tuấn)... là minh chứng của điều đó.
2.1.2. Lịch sử sô phận, lịch sử tâm hồn con người song trùng với lịch sử dân tộc trong thời đại chiến tranh cách mạng. Con người minh chứng cho các sự kiện lịch sử xã hội.
Kết cấu của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 là kết cấu sự kiện. Cốt truyện 34
bao giờ cũng xoay quanh trục sự kiện lịch sử - xã hội. Sự vận động tính cách và sự hoàn thiện nhân cách ở phương diện con người xã hội của nhân vật bao giờ cũng được cắm mức bằng sự kiện lịch sử - xã hội. Vì thế lịch sử số phận, lịch sử tâm hồn của nhân vật luôn song trùng với lịch sử của quê hương đất nước ở thời đại kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quá trình trưởng thành về tính cách và nhân cách của Thắm trong Đất Quảng (Nguyễn Trung Thành), Lữ trong Dấu chân, người lính (Nguyễn Minh Châu), út Hảo, Chín Kiên trong Rừng U Minh (Trần Hiếu Minh), Diệu Linh, Bảo trong Dòng sông phẳng lặng (Tô Nhuận Vĩ)... gắn liền với sự trưởng thành của phong trào cách mạng ở
một vùng đất cụ thể. Sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của Sâm, Sỏi, má Bảy (Gia đình má Bảy - Phan Tứ) gắn liền với cuộc đồng khởi; của Mẫn và Thiêm (Mẫn và tôi - Phan Tứ), gắn với sự kiện chống chiến tranh cục bộ của đế quốc Mĩ; của Đông, Quỳnh, Hảo (Vùng trời - Hữu Mai) gắn với sự kiện chống chiến tranh phá hoại... của Đằng, Tự (Chủ tịch huyện - Nguyễn Khao gắn với sự kiện hợp tác hoá nông nghiệp; của Sen (Vào đời Hà Minh Tuân) gắn với sự kiện công nghiệp hoá đất nước....
Dù ở chiến trường hay hậu phương, nhà máy, đồng ruộng hay trường học, nhân cách của con người là sự vận động đi lên cùng xu thế vận động tết đẹp cửa quê hương đất nước trong kháng chiến và trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi thế, trong sự vận động của cái chung có cái riêng, nhân vật vừa tham gia vừa là minh chứng cho xu thế
vận động tất yếu của dòng sự kiện lịch sử - xã hội ấy. Phong trào hợp tác hoá hoàn thành thì nhân vật lão Am (Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ) cũng chuyền biến tích cực. Cả Khuê, Lượng (Dầu chân người lính) đều trưởng thành hơn sau chiến dịch Khe Sánh.. Chúng ta luôn gặp con người Việt Nam lớn bổng diệu kì về nhân cách và nhịp bước đi lên cùng đất nước trong tiểu thuyết nói riêng và văn học thời kỳ này nói chung.
Như vậy, cảm hứng sử thi gắn bó và tương tác với quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975. Từ cảm hứng sử thi, chúng ta thấy xuất hiện hàng loạt hình tượng nhân vật mang phẩm chất có mẫu số chung. Đó là con người hoàn tất về phẩm chất con người xã hội. Đó là con người có lịch sử số phận - tâm hồn song trùng với lịch sử cách mạng của dân tộc. Đó là con người có tính cách ổn định và ít biến đổi nếu có vận động cũng chỉ đi theo một con đường tất yếu. Hình tượng con người trong tiểu thuyết giai đoạn này mang đậm dấu ấn sử thi của một thời đại anh hùng. Những thành công và hạn chế của nó đều mang tính lịch sử. Nhưng những thành công và hạn chế ấy đều đã đặt tiền đề cho sự xuất hiện hình tượng con người Việt Nam trong tiểu thuyết ở giai đoạn sau 1975.
2.2. Quy định từ cảm hứng sử thi đối với loại hình kết cấu
Tiểu thuyết 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 nói riêng có một vị trí quan trọng trong tiến trình tiểu thuyết Việt Nam. Việc khám phá và khẳng định cả thành công và hạn chế của loại hình tiểu thuyết sử thi này đã đạt được nhiều
35
thành tựu. Một số phương diện thi pháp của tiểu thuyết giai đoạn này đã được cày xới với cái nhìn khái quát và loại biệt: loại hình đề tài và chủ đề ưa thích; quan niệm nghệ thuật về con người; loại hình nhân vật; cảm hứng tư tưởng; ngôn ngữ và giọng điệu... Còn riêng phương diện kết cấu và xung đột nghệ thuật, chúng tôi mới chỉ bắt gặp những ý đến rải rác theo hướng khái quát mà chưa chứng minh trọn vẹn và thuyết phục. Bởi vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu phương diện kết cấu và xung đột của tiểu thuyết giai đoạn này trong sự tương tác với cảm hứng lư tưởng của loại hình tiểu thuyết sử thi hiện đại 1965 1975 ở Việt Nam.
Trong thể tài lịch sử - dân tộc, cấu trúc thể loại tiểu thuyết sử thi đã tạo ra tính loại hình trong hàng loạt tác phẩm ở hầu hết các phương diện nội dung và nghệ thuật, trong đó có loại hình kết cấu và xung đột. Cảm hứng sử thi đã chi phối và góp phần quan trọng (bên cạnh thế giới quan, lý tưởng chính trị và thẩm mỹ, phương pháp sáng tác và phong cách trào lưu...) để hình thành loại hình kết cấu và xung đột trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975.
Cảm hứng sử thi với loại hình kết cấu đơn tuyến trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
Chúng tôi nhận thấy kết cấu của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 với sự kết hợp hai kiểu kết cấu sự kiện và tâm lý đã hình thành loại hình kết cấu mang tính quy phạm ổn định và ít biến đổi. Trong loại hình kết cấu này, kết cấu sự kiện đóng vai trò nòng cốt, kết cấu lâm lý ở vị trí phối thuộc và có phần mờ nhạt hơn. Tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 chưa đạt được sự song hành gắn kết tuyệt vời giữa biện chứng pháp lịch sử và biện chứng pháp tâm hồn như trong tiểu thuyết của L.Tônxtôi. Nhưng chúng tôi muốn xem đây là một đặc điểm chứ không phải là một nhược điểm.
Từ đặc trưng của thể tài lịch sử - dân tộc, từ đặc điểm của cấu trúc thể loại tiểu thuyết sử thi, cảm hứng sử thi đã chi phối đến phương diện kết cấu. Cảm hứng sử thi với hạt nhân là cảm hứng anh hùng bao giờ cũng tập trung phản ánh những sự kiện lịch sử trọng đại và những nhân vật anh hùng của các biến cố lịch sử ấy. Bởi vậy cảm hứng sử thi không chỉ gắn bó mà còn có thể được bộc lộ chủ yếu qua hệ thống sự kiện lịch sử trong lác phẩm, các nhân vật anh hùng cũng chỉ có thể bộc lộ phẩm chất của mình trong và qua chuỗi sự kiện xuất hiện theo quy luật nhân quả và trong diễn tiến thời gian. Với đặc điểm này, kết cấu lịch sử - sự kiện mang tầm vóc lịch sử dân tộc trở thành xương sống của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975.
Nhưng tại sao kết cấu tâm lý không đóng vai trò ấy? Bởi trong tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975, kết cấu tâm lý tuy song hành gắn bó nhưng chỉ là hệ quả của kết cấu - sự kiện. Mọi diễn biến tâm lý nhân vật, chỉ có thể nảy sinh khi nhân vật đối diện và được thử thách bằng sự kiện. Sự kiện có thể đem lại cảm xúc thuận chiều hay nghịch chiều cho tâm trạng nhân vật. Nhân vật trong tiểu thuyết sử thi là nhân vật hành động và chủ yếu hướng ngoại. Bởi vậy, nếu thiếu sự cọ xát với hệ thống sự kiện, tâm lý nhân vật sẽ không vận động, biến đổi. Nhưng sự xuất hiện và vận động của tâm lý nhân vật trong
36
tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 lại diễn ra trong tính quy phạm bởi bị đóng khung trong quy luật nhân quả: sự kiện và tâm lý, tâm lý bên trong và hành động bên ngoài. Nghĩa là luôn có một hệ thống mô típ tâm trạng nhân vật hô ứng với hệ thống sự kiện, với hệ thống mô ắp tình huống cố định. Đặc biệt, sự hình thành mối quan hệ
nhân quả: tính cách nào thì diễn biến tâm lý ấy; diễn biến tâm lý như thế nào thì hành động như thế ấy - đã tạo ra một đường ray định sẵn cho sự tái hiện tâm lý nhân vật. Tính cách, phẩm chất của nhân vật không thay đổi mà mô ắp tình huống - sự kiện lại cố định tất yếu dẫn đến những mô típ tâm lý công thức và bất biến. Chính bởi lý do này, kết cấu tâm lý có phần đơn điệu và mờ nhạt trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975.
Trong kết cấu tâm lý của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng tôi đã bắt gặp hàng loạt mô típ tâm lý – hành động xuất hiện trước những mô típ tình huống - sự kiện. Những diễn biến lâm lý có thể bộc lộ trực tiếp qua độc thoại nội tâm hay gián tiếp qua hành động và ngoại cảnh, bởi vì tâm lý và hành động của nhân vật trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 bao giờ cũng thống nhất.
Với nhân vật chính diện:
- Mô típ "đau thương và căm thù” trước tội ác của quân thù; mô típ "yêu thương - xả thân vì đồng đội và người thân”; mô típ "gan dạ bất khuất” trước thử thách...
Còn với nhân vật phản diện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, diễn biến tâm lý cũng được khắc hoạ tương tự như thế, tuy có phần mờ nhạt hơn. Qua khảo sát, chúng tôi thấy xuất hiện một số mô típ tâm lý - hành động của kiểu nhân vật này. - mô típ "dục vọng đen tối” trước sự cám dỗ của đồng tiền và của cải; mô típ "con quỷ
dâm ô"; mô típ "hèn hạ khiếp nhược” trước thử thách; mô típ "con quỷ khát máu”...
Chính bởi những lý do và thực trạng văn học kể trên, kết cấu của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 thuộc loại kết cấu đơn và đóng khép: chỉ có một hệ thống sự kiện trải ra theo thời gian tuyến tính là trục chính của kết cấu. Kết cấu tâm lý ở vị trí thứ yếu gắn kết với kết cấu sự kiện theo. quy luật nhân - quả mang tính tất yếu. Tính quy phạm của kết cấu tâm lý đã tạo ra những mô típ tâm lý mang tính công thức, tuy làm người đọc xúc động bởi tính chân thực và tính thời sự nhưng chưa tạo được chiều sâu tâm lý cho nhân vật. Khi tính thời sự đi qua, sự cộng hưởng trực tiếp giữa sáng tạo và tiếp nhận không còn, người đọc chỉ nhớ nhân vật làm gì mà không nhớ nhân vật nghĩ gì trước và sau khi hành động.
2.3. Quy định của cảm hứng sử thi đối với loại hình xung dột
Cảm hứng sử thi đã chi phối việc hình thành loại hình kết cấu trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975. Cũng chính cảm hứng thời đại ấy đã quyết định sự hình thành hai loại hình xung đột trong kết cấu của tiểu thuyết giai đoạn này: loại hình xung đột chiến tranh của tiểu thuyết chiến tranh cách mạng; loại hình xung đột xã hội của tiểu thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cả hai loại hình xung đột ấy đều được xây dựng
37
theo nguyên tắc sau: Nguyên tắc phản ánh - miêu tả bằng bút pháp tả thực kết hợp với bút pháp lãng mạn. Xung đột được miêu tả từ điểm nhìn trực tiếp Xung đột xuất hiện trong hiện thực trực tiếp đã được giải quyết theo kiểu”mở nút có khuynh hướng” (46).
2.3.1. Loại hình xung đột chiến tranh
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa về xung đột : "Sự đối lập, sư mâu thuẫn được dùng như một nguyên tắc để xây dựng các môi quan hệ tương tác giữa các hình tượng trong tác phẩm nghệ thuật” [157 - 12].
Từ định nghĩa chung ấy, chúng tôi nhận thấy xung đột trong tác phẩm nghệ thuật là sự kết tình và nghệ thuật hoá xung đột mang tính lịch sử của mỗi thời đại, Mỗi một thời đại lại có một kiểu xung đột trung tâm và những loại xung đột phối thuộc. Trong tác phẩm nghệ thuật, xung đột bao giờ cũng gắn bó với cảm hứng thời đại. Thời đại chiến tranh cách mạng 1945 - 1975 làm xuất hiện loại hình tiểu thuyết sử thi lấy cảm hứng sử thi làm cảm hứng chủ đạo, và đây cũng chính là cảm hứng thời đại. Với cảm hứng sử thi, tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 tập trung phản ánh những xung đột có tính sử thi hoá. Đó là những xung đột thuộc phạm vi lịch sử - dân tộc xuất hiện với tầm vóc kì vĩ, trong đó xung đột chiến tranh là xung đột trung tâm.
Nếu tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 hướng về một hiện thực gián tiếp, tái hiện chiến tranh trong hồi ức, phản ánh xung đột chiến tranh bằng nguyên tắc phản ánh - phân tích qua sự đa dạng của bút pháp, thì xung đột chiến tranh trong tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 xuất hiện trong hiện thực trực tiếp, nóng hổi tính thời sự. Nó được tái hiện bằng nguyên tắc phản ánh - miêu tả với những kiểu xung đột cụ thể sau: xung đột giữa dân tộc với ngoại xâm và xung đột giữa giai cấp với giai cấp.
2.3.1.1. Xung đột chiến tranh vận động dữ dội trong bề rộng hiện thực trực tiếp và gắn với những biến cố lịch sử trọng đại
Ở những tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh xuất hiện sau năm 1975 và đặc biệt sau năm 1986 như: Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Nước mắt đỏ của Trần Huy Quang, Thân phận tình yêu của Bảo Ninh, ăn mày dĩ vãng của Chu Lai..., chúng tôi thấy xung đột chiến tranh xuất hiện trong chiều sâu tâm hồn cá nhân, gắn với hiện thực gián tiếp về chiến tranh với bao nhiêu hồi ức, chiêm nghiệm về chiến tranh, ở cả chất hùng ca và chất bi kịch của nó. Các nhà tiểu thuyết tái hiện xung đột chiến tranh bằng nguyên tắc phản ánh - phân tích nhằm mục đích khám phá lịch sử những số phận cá nhân trong cơn bão táp của thời đại ấy.
Còn trong tiểu thuyết viết về chiến tranh (1945 - 1975), xung đột chiến tranh xuất hiện trong hiện thực trực tiếp. Điểm nhìn ở cự ly gần và tư thế áp sát hiện thực của nhà văn đã mang lại cho xung đột chiến tranh tính thời sự nóng hổi, tìm được sự hô ứng cảm xúc tức thì cho người đọc, nhưng lại chưa đạt đến chiều sâu khám phá những vấn đề nhân sinh từ xung đột ấy. Xung đột chiến tranh xuất hiện trong bề rộng hiện thực cuộc sống nên có quy mô hoành tráng: đó là xung đột giữa dân tộc và đế quốc Mĩ xâm
38
lược; xung đột giữa nông dân với địa chủ v.v... Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp đã hoà nhập làm một, đòi hỏi giải quyết một cách gay gắt. Nhưng các nhà văn mới thiên về miêu tả mà ít phân tích các xung đột ấy Các nhà văn vừa cầm súng vừa cám bút mới chỉ nhanh chóng và kịp thời phác hoạ diện mạo xung đột để trả lời câu hỏi: Đặc điểm của xung đột ấy là gì? Nó tác động như thế nào tới số phận cộng đồng? Còn câu hỏi: xung đột chiến tranh tác động như thế nào, để lại những bi kịch và di chứng nào cho số phận cá nhân tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 chưa kịp trả lời do yêu cầu lịch sử, yêu cầu chính trị và những khuôn khổ của nó chưa cho phép.
Những khuôn khổ ấy có thể bất bình thường với thời đại hôm nay nhưng lại phù hợp với thời đại bất bình thường là thời đại chiến tranh - một thời đại mà vấn đề hệ trọng nhất là sự sống còn của dân tộc, vinh nhục của đất nước. Trước sự tồn vong của cả cộng đồng, những yêu cầu nghệ thuật trở nên nhỏ bé, thậm chí vô nghĩa, đúng như Tố Hữu từng viết:
"Dẫu một cây chông trừ giặc Mĩ
Hơn nghìn trang giấy luận văn chương"
Bởi thế, xung đột chiến tranh mang nội dung dân tộc và giai cấp xuất hiện với sự đối nghịch địch - ta căng thẳng. Và dù được miêu tả bằng những hình thức khác nhau, loại hình cấu trúc của xung đột là bất biến: ta từ nhỏ bé vươn lên lớn mạnh nhanh chóng một cách phi thường. Bằng vũ khí thô sơ, bằng trang bị kém hơn, ta đã chiến thắng kẻ địch hùng mạnh bằng lòng dũng cảm và trí tuệ việt Nam, bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân và sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử anh hùng. Địch thừa thãi vũ khí tối tân nhưng ngu tối và hèn nhát, dù tàn bạo điên cuồng đến đâu cũng chắc chắn thất bại. Cấu trúc của loại hình xung đột này mang ba đặc điểm là phân tuyến, hướng ngoại và bám sát sự kiện lịch sử. Vì thế, xung đột nội tâm xuất hiện rất ít trong tiểu thuyết thời kỳ này.
Trong Hòn Đất, xung đột chiến tranh nổ ra giữa một bên là đội du kích hang Hòn gồm mười chín người (có cả phụ nữ và trẻ em), vũ khí thiếu thốn, lương thực và nước uống hết, một bên là gần một nghìn tên giặc trang bị vũ khí tối tân, có máy bay, phi pháo yểm trợ. Khi xung đột lên tới đỉnh điểm thì xuất hiện kiểu mở nút có khuynh hướng - kiểu giải quyết xung đột theo xu thế tất yếu không hề có đột biến, rẽ ngoặt hay phi lý như ở một số tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1986.
Đó là kiểu giải quyết xung đột theo xu hướng: ta thắng địch thua như một quy luật tất yếu.
Cũng tương tự như thế là xung đột chiến tranh giữa bộ đội và du kích Làng Cá với quân Mĩ - Nguỵ trong Mẫn và tôi của Phan Tứ, quân dân xã Hoà Thanh với cha con tên ác ôn Hứa Xang, Hứa Mìn cùng bè lũ tay sai trong Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành, đoàn không quân Sao vàng trong thế trận chiến tranh nhân dân với không lực Mĩ trong Vùng trời của Hữu Mai, bộ binh và thiết giáp phối hợp đương đầu với giặc
39
Mĩ trong Chiến sĩ của Nguyễn Khải...
Xung đột chiến tranh ở một làng xã nhỏ bé, một cung đường Trường Sơn hay trên một hòn đảo giữa biển khơi đều được miêu tả theo nguyên tắc lây điểm nói diện, từ cái vi mô nói cái vĩ mô.
Từ một trận đánh nhỏ bé của đội du kích cũng phản ánh được xung đột lớn lao trên loàn chiến trường. Với những đặc điểm lặp đi lặp lại trong những ngoại cảnh khác nhau: tương quan lực lượng; mức độ dữ dội; tình thế - diễn biên; xu thế - kết thúc; bài học kinh nghiệm rút ra từ đau thương mất mát hay từ chiến thắng... Loại hình xung đột chiến tranh với cấu trúc quen thuộc của nó hướng tới mục đích cuối cùng là mô tả
cho chân thật và điển hình lịch sử một thời đại. Lịch sử những số phận cá nhân tham gia vào xung đột chiến tranh ấy nằm trong một mô túi hành trình số phận từ bóng tối đến ánh sáng, xuất hiện như những dẫn chứng cùng loại để chứng minh cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và xu thế vận động tất yếu của thời đại chiến tranh cách mạng.
2.3.1.2. Xung đột chiến ranh gắn với số phận cộng đồng và được miêu tả bằng kinh nghiệm cộng đồng
Chiến tranh được miêu tả như một xung đột chính trị - xã hội ở tầm vĩ mô quyết định đến số phận dân tộc. Chiến tranh được miêu tả như một anh hùng ca với những chiến công của dân tộc được đặt lên hàng đầu. Chiến tranh như một nhát dao tàn bạo chém vào đất nước, cứa vào lương tâm danh dự, trách nhiệm công dân. Bởi thế số
phận cá nhân lùi xuống hàng thứ yếu, các tiếng không có ý nghĩa gì khi đặt bên cái chung. Sự chiến đấu hy sinh, xả thân vì đất nước một cách nhẹ nhõm, vô tư của các nhân vật lý tưởng cùng chủ nghĩa khắc kỉ trong phạm vi đời tư của họ là minh chứng cho điều đó.
Trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, các nhân vật lý tưởng đứng trước xung đột chiến tranh đều hành động theo mô típ xả thân và khắc kỉ. Đàm mặt đầy máu, hai tay hai quả lựu đạn lăn xả vào bọn biệt kích Mĩ để cứu Lữ và bảo vệ điện đài. Lượng dành bằng được quyền ở lại chặn địch cho đồng đội rút lui và cố gắng gạt bỏ tình yêu với Xiêm để giữ trọn vẹn danh dự anh bộ đội cụ Hồ. Lữ cùng ba người bạn thân đốt sách vở rồi xung phong nhập ngũ. Không phải họ không yêu sách vở và không mơ giảng đường. Nhưng họ đã hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để được chiến đấu hy sinh vì đất nước.
Còn với Vùng trời của Hữu Mai, Quỳnh gác lại chuyện cưới Hảo để toàn tâm toàn ý cho cuộc chiến đấu chống quân thù, cả Quỳnh và Hảo đều kìm giữ những khát khao mang tính riêng tư.... Thắm trong Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành sau giây phút đau đớn tê dại vì cái chết của đứa con gái thân yêu, đã từ vai trò người mẹ trở về với vai trò người Bí thư chi bộ anh hùng. Chị nghĩ về sự hy sinh của em Xuyến như nghĩ về sự hy sinh của một em bé dũng cảm nào khác. Lí trí đã được đặt lên trên trái tim, nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung vì số phận của cả dân tộc lớn lao hơn hết thảy.
40
Như vậy xung đột chiến tranh với kích thước vĩ mô của nó hiện diện trong khung cảnh hoành tráng, gắn bó với số phận dân tộc Số phận dân tộc dù hiện diện trực tiếp hay gián tiếp, ở quy mô hiện thực lớn hay nhỏ, bao giờ cũng là tình yêu và nỗi đau trong trái tim mỗi người và mọi người. Đẩy số phận cá nhân xuống hàng thứ yếu hoà nỗi đau riêng vào nỗi đau chung của đất nước, coi hạnh phúc lớn nhất của cá nhân là được chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 đã miêu tả xung đột chiến tranh qua hệ thống sự kiện lịch sử và đây cũng là một đặc điểm loại hình tiểu thuyết sử thi. Với cái nhìn sử thi ấy, con người Việt Nam xuất hiện trong xung đột với tư cách con người công dân và con người yêu nước chứ không phải với tư cách con người cá nhân. Điều đó tất yếu tạo ra một hệ quả: tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 miêu tả xung đột chiến tranh bằng kinh nghiệm cộng đồng. Vậy kinh nghiệm cộng đồng là gì? So sánh cách miêu tả xung đột chiến tranh trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 với xung đột chiến tranh trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1986, ta sẽ trả lời được câu hỏi đó.
Trong tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1986, xung đột chiến tranh xuất hiện trong hồi ức, hiện thực chiến tranh từ hiện tại trở thành quá khứ. Nguyên tắc phản ánh - phân tích thay thế nguyên tắc phản ánh miêu tả. Xung đột chiến tranh được soi qua số phận cá nhân, gắn với những biến cố đời thường và đặc biệt được miêu tả bằng kinh nghiệm cá nhân. Đó là cái nhìn đời thường hoá chiến tranh, miêu tả chiến tranh như
nó vốn có bằng thang giá trị xây dựng theo chuẩn mực cá nhân, có thể trùng khớp hoặc không trùng khớp với chuẩn mực cộng đồng. Giải quyết xung đột chiến tranh ở những tình huống cụ thể theo sự cảm nhận cá nhân nên đầy đột biến, so le, vênh lệch: hợp lý và phi lí, chiến thắng và thất bại, anh hùng ca và bi kịch... miêu tả con người dù là nhân vật phản diện hay chính diện đều với nguyên tắc là sự tổng hoà của con người cá nhân và con người xã hội...
Còn trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, xung đột chiến tranh được miêu tả bằng kinh nghiệm cộng đồng. Lãng mạn hoá, phi thường hoá chiến tranh, thang giá trị đúng - sai, tốt - xấu được xây dựng theo chuẩn mực của cả cộng đồng, lý tưởng hoá nhân vật chính diện, quái gở hoá nhân vật phản diện, đánh giá con người theo tiêu chuẩn đạo đức “- chính trị nên đề cao con người xã hội mà chưa chú ý đúng mức đến con người cá nhân, giải quyết xung đột chiến tranh bằng cái nhìn cộng đồng nên bao giờ cũng có một kết thúc hợp lý và tất yếu...
Với cách miêu tả xung đột chiến tranh theo kinh nghiệm cộng đồng, chúng ta thấy đường biên phân tuyến địch - ta thường là cố định và bất biến. Các nhân vật chính diện và phản diện đều mang những phẩm chất phi thường: tốt đẹp và anh hùng đến phi thường ở nhân vật chính diện, xấu xa và tàn ác đến phi thường ở nhân vật phản diện. Do đời sống nội tâm ít được miêu tả hoặc có miêu tả cũng chỉ dừng lại ở mức độ sơ lược, các nhân vật của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 gần gũi với các biểu tượng cho cái đẹp cái cao cả hoặc cho cái xấu, cái ác.
41
2.3.2. Loại hình xung đột xã hội
Quy định của cảm hứng sử thi đối với loại hình xung đột xã hội trong tiết thuyết sử thi Việt Nam I965 - 1975 về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội
Cảm hứng sử thi luôn có cái nhìn phân tuyến - đối lập để chia đôi thế giới thành hai tuyến địch - ta, tích cực - tiêu cực rành mạch trong thế đối kháng, luôn nhìn hiện thực từ góc nhìn cộng đồng với sự khẳng định - phủ định thật dứt khoát. Đặc trưng ấy của cảm hứng sử thi đã tạo ra hai nguyên tắc sau đây để xây dựng cấu trúc nghệ thật của xung đột xã hội trong tiểu thuyết giai đoạn này: xây dựng và miêu tả xung đột xã hội trong sự gắn kết và chịu tác động của xung đột chiến tranh, xây dựng và miêu tả xung đột xã hội bằng kinh nghiệm cộng đồng.
Nói một cách khác, xung đột thế sự - đời tư trong tiểu thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội được sử thi hoá bằng hai nguyên tắc sau đây:
Thứ nhất: Xung đột thế sự - đời tư được xây dựng và miêu tả bằng kinh nghiệm cộng đồng.
Xung đột thế sự - đời tư trong tiểu thuyết giai đoạn này trước hết là xung đột về tính cách, nhân cách của những bộ phận người khác nhau trong cùng một cộng đồng, có sự đối lập về tư tưởng hoặc lý tưởng. Sau nữa, đó là xung đột về tính cách, nhân cách của những con người có tư tưởng đối lập trong một gia đình hoặc trong tình yêu đôi lứa. Trong Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú, chúng ta bắt gặp cả hai loại xung đột kể trên.
Đó là xung đột về tác phong làm việc, bản lĩnh chính trị và trình độ khoa học kỹ thuật giữa Khái và Hân. Khái - Bí thư đảng uỷ xã năng nổ, nhạy bén, quyết đoán nhìn xa trông rộng bao nhiêu thì Hân - chủ tịch xã bảo thủ, rụt rè, thụ động bấy nhiêu. Đó là xung đột về tư tưởng và nhân cách giữa Khái và Tị. Khái làm việc quên mình vì tập thể, trong sạch và mẫu mực. Tị xảo quyệt dùng đủ mưu mẹo để vụ lợi cho cá nhân, bần tiện và tầm thường trong các mối quan hệ với đồng chí, với xã viên, với gia đình...
Đó còn là xung đột ngay trong một gia đình giữa tư tưởng gia trưởng và tính cách bần tiện của Tị với phẩm chất tốt đẹp của con người lao động và khát vọng được gắn bó cùng tập thể của Kếnh.
Còn đây là xung đột về tư tưởng và đạo đức trong tình yêu lứa đôi giữa Tuấn và Liên. Tư tưởng ích kỉ, hiếu danh và có phần cơ hội của Tuấn đối lập với sự trong sáng, chân thành và ý thức quên mình vì tập thể của Liên...
Tất cả các loại xung đột cụ thể trong kiểu xung đột thế sự - đời tư này đều được sử thi hoá bằng kinh nghiệm cộng đồng. Kinh nghiệm cộng đồng trở thành một nguyên tắc để xây dựng) kiểu xung đột này. Phân tuyến - đối lập rõ ràng giữa tích cực - tiêu cực tốt - xấu mới - cũ, con đường xã hội chủ nghĩa và con đường phi xã hội chủ
nghĩa... Nội dung diễn biến và cách giải quyết xung đột bao giờ cũng đi theo một con 42
đường định sẵn, không thể có cách hiểu khác và giải quyết khác. Đó là con đường định sẵn trong tư duy sáng tạo của nhà văn và tư duy tiếp nhận của công chúng văn học: cái chung đáng quý hơn cái riêng; quyền lợi tập thể phải được đặt lên trên quyền lợi gia đình; sự đóng góp nhiều hay ít cho cộng đồng là thước đo duy nhất cho phẩm giá, năng lực và danh dự của một con người.
Đọc Đất làng, chúng ta thấy rõ sự chi phối của nguyên tắc nghệ thuật này đến cách tổ chức và giải quyết xung đột. Sự tốt - xấu đúng - sai, cái cần phải khẳng định và cái cần phải phủ định. được xác định rõ ràng theo những chuẩn mực thẩm mỹ được cả cộng đồng quy ước và khẳng định.
Thứ hai: Xây dựng và miêu tả xung đột thế sự - đời tư trong sự gắn kết và chịu tác động của xung đột chiến tranh.
Xung đột chiến tranh dù đã qua hay sắp tới đều để lại bóng dáng của mình trong đời sống cộng đồng. Văn học Việt Nam 1965 - 1975 nói chung và tiểu thuyết thời kỳ này nói riêng đã phản ánh chân thực sự thật đó. Nhưng trong các tiểu thuyết về xây dựng chủ nghĩa xã hội 1965 - 1975, xung đột chiến tranh dù xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp đều không hề đáng sợ. Dù đó là tiếng máy bay Mĩ vút qua bầu trời trong Buổi sáng hay những bản tin chiến thắng nức lòng người trong Đất làng (Nguyễn Thị Ngọc Tú), dù đó là cảnh bom rơi, nhà đổ, người chết trong Những tầm cao (Hồ Phương) hay Vùng trời (Hữu Mai)..., cuộc sống lao động sản xuất vẫn giữ nhịp điệu thanh bình của nó sau những giờ phút quyết liệt Trong cuộc sống thế sự - đời tư, xung đột chiến tranh xuất hiện chỉ để thực hiện ba chức năng sau đây: điều kiện để bộc lộ rõ hơn vẻ đẹp anh hùng của con người Việt Nam yếu tố xúc tác mãnh liệt để người ở hậu phương làm việc bằng hai vì tiền tuyến; một phản đề để làm nổi bật sự thanh thản, tự tin trong tâm hồn Việt Nam, từ đó ngợi ca sức mạnh Việt Nam tiềm ẩn trong những con người bình dị vừa lao động vừa ca hát bất chấp sự đe dọa của chiến tranh.
Trong bối cảnh chung như thế, xung đột thế sự - đời tư dù ít dù nhiều đều nằm trong bầu khí quyển của xung đột chiến tranh và chịu sự chi phối ở một vài hoặc toàn bộ các phương diện cấu thành tổ chức của nó.
Với các nhân vật tham gia xung đột, người từng là bộ đội ở chiến trường về bao giờ cũng tốt đẹp (Huấn trong Buổi sáng, Khái trong Đất làng, Tiệp trong Bão biển...), kẻ từng là nguỵ quân có tội ác hay phần tử chậm tiến quanh quẩn ở hậu phương bao giờ cũng xấu xa (Quế, Bảy đớp trong Đất làng, Long đen trong Buổi sáng, Nhượng, Tân Hưng, Phùng trong Bão biển...).
Và xuất hiện một cách giải quyết xung đột thế sự - đời tư bằng việc đề cao ý thức trách nhiệm của người hậu phương với chiến trường. Trong Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú, bằng cách này, xung đột gay go trong việc thu hồi đất xã viên lấn chiếm trả cho hợp tác xã đã được giải quyết êm đẹp:”ông Minh gập lá thư lại () nói rất thản nhiên:
43
Trong đội ta có chín gia đình có con em đi bộ đội, đi chiến trường Họ đang hy sinh xương máu, hạnh phúc riêng tư, đi chiến đấu để chúng ta yên ấm ở làng, yên ấm gia đình, lấy vợ đẻ con... chúng ta có nỡ cứ lấn mãi đất ra để làm lợi cho riêng mình? (...) mai kia, đuổi được thằng Mĩ rồi, con em chúng ta về, chúng nó ở vào đâu? (...) nghe những lời thấm thía của ông Minh, lúc này có người muốn khóc thật, [142 - 236]
Với áp lực của cảm hứng sử thi và sự quy định của hiện thực lịch sử, xung đột thế sự - đời tư trong tiểu thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội 1965 - 1975 nằm trong loại hình xung đột cộng đồng của tiểu thuyết sử thi hiện đại Việt Nam. Nó được xây dựng và miêu tả bằng kinh nghiệm cộng đồng để thể hiện tinh thần thời đại gắn kết và chịu sự tác động của xung đột chiến tranh. Xung đột thế sự - đời tư được sử thi hoá để trở thành một thành tố trong cấu trúc thể loại của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này.
Như vậy, cảm hứng sử thi với vai trò là cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 không chỉ thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của nội dung ở hàng loạt tác phẩm mà còn tạo ra tính loại hình cho các cấp độ và yếu tố thuộc bình diện hình thức, trong đó có kết cấu và xung đột. Với loại hình kết cấu - sự kiện mang tính quy phạm và loại hình xung đột chiến tranh với cấu trúc xung đột mang ba đặc điểm: phân tuyến; hướng ngoại; bám sát sự kiện lịch sử, với loại hình xung dột thế sự - đời tư được sử thi hoá, cả loại hình kết cấu và xung đột ấy góp phần tạo ra những tình huống thử thách ở phạm vi lịch sử dân tộc. Qua mô ắp tình huống có chức năng thử thách ấy, phẩm chất nhân vật được khẳng định và chứng minh, đề tài và chủ đề được triển khai và giải quyết. Loại hình kết cấu và xung đột này không chỉ là một cấp độ
hình thức trong cấu trúc thể loại của tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chiến tranh cách mạng 1945 - 1975, mà còn là một phương diện biểu hiện cụ thể của phong cách thời đại ở thời kỳ lịch sử này.
2.4. Quy định của cảm hứng sử thi đối với loại hình không gian - thời gian mang tính sử thi
2.4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam về đề tài chiến tranh cách mạng
Các tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh thời kỳ 1960 - 1975 đã mở rộng dung lượng phản ánh, cố gắng bao quát những bức tranh hiện thực rộng lớn, ôm chứa những sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, diễn biến và những bước đi thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Không gian nghệ thuật được khắc hoạ với xu thế mở và luôn biến động dữ dội. Nơi đang diễn ra cuộc đối kháng quyết liệt, một mất một còn, nơi ôm chứa những xung đột đầy kịch tính. Đó là không gian chiến trận của sử thi chứ không phải không gian sinh hoạt của đời thường với các mối quan hệ thế sự. Không gian nghệ thuật đậm chất sử thi ấy lại được khắc hoạ thành hai kiểu: không gian hoạt động của địch với phạm vi hẹp, đóng khép, có xu thế thu nhỏ dần. Và không gian của ta là hai mảng tối - sáng đang giao tranh, biểu hiện sức mạnh và xu thế tất thắng của ta, sự suy yếu dần và chiến bại tất yếu của địch. Nhưng đây là không gian mang tính
44
sử thi ở chiều sâu khái quát vấn đề lịch sử xã hội chứ không chỉ mở ra theo quy mô bề rộng sử thi. Đó là không gian nghệ thuật trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu - một không gian chiến trận bao trùm rừng núi miền tây Quảng Trị. Không gian sinh hoạt của bộ đội ta mà ở đây chủ yếu là cán bộ chiến sĩ trung đoàn 5 bắt đầu được miêu tả từ những con đường hành quân, rồi mở rộng ra các cao điểm, các đài quan sát Nhưng rồi sau những chiến thắng Tà Cơn, làng Vây và cuối cùng là Khe Sanh, không gian ấy đã mở rộng bát ngát, đầy ắp niềm vui. Không gian nghệ thuật này được miêu tả trong một thời gian nghệ thuật đặt biệt: thời gian chiến dịch, vì vậy, nhịp điệu vận động của nó được cắm mốc với hai đầu chiến dịch - một nhịp điệu vận động được miêu tả với quá trình động tĩnh - tĩnh động... Sự chuẩn bị náo nức cho chiến dịch: “tiếng lính gọi nhau í ới, tiếng dao phát cành cây, tiếng đóng cọc chí chát” [tr.52] và”dòng thác ngưới như một dòng suối thép đang ào ạt cuốn tới”[tr 58]. Trong những trang viết miêu tả quá trình chuẩn bị chiến dịch của Dấu chân người lính, ta thấy các động từ chỉ hoạt động mạnh và tính từ chỉ âm thanh mạnh được sử dụng dày đặc. Nhưng sau cái động dữ dội ấy là cái tĩnh lạ lùng trước khi mở màn chiến dịch, cái tĩnh chuẩn bị cho cái động dữ dội hơn sắp xuất hiện.
"Khung cảnh cái tập đoàn cứ điểm lớn thật là yên tĩnh (....) sự yên tĩnh trước mắt đang gây một ấn lượng mãnh liệt trong tâm hồn Chính uỷ Kinh (...) Kinh tự kiểm điểm những ngày yên tĩnh nhất trong đời mình cũng chỉ để chuẩn bị bước vào một giai đoạn biến động khác. Một cuộc chiến đấu khác” [tr. 129 - 131]. Nhưng sau phút giây yên tĩnh tạm thời ấy, cao trào của chiến dịch bùng nổ với sấm sét hờn căm đã tích tụ từ bao ngày tháng: "chiến dịch bắt đầu Tiếng súng mở màn chiến dịch đã nổ với tất cả tính chất gay gắt. Cả hai bên đều dự trữ lực lượng mạnh. Miền đất sát giới tuyến như đầu một cái mỏ hàn mà các âm các dưỡng đã tiếp xúc” [tr. 159], xung đột đã bùng nổ với cường độ dữ dội nhất. Cái cao cả đấu chọi với cái thấp hèn để làm bừng sáng cảm hứng anh hùng. Những nhân vật mà chúng ta yêu quý lần lượt ngã xuống: Đàm với hai quả lựu đạn trên tay, mặt đấy máu lăn xả vào một đại đội của giặc. Tiểu đội giữ cao điểm 475 với Hoạt, Cận, Sĩ, Moan... đã chiến đấu và hy sinh đến người cuối cùng, trước khi các anh ngã xuống, trên 400 xác lính Mĩ đã nằm co quắp suốt từ chân đồi đến đỉnh đồi. Ở trạm phần tiền phương, cô y tá Dự giặt quần áo cho thương binh, máu và bông băng trôi đỏ suối. Đặc biệt tư thế hy sinh bi hùng của Lữ đã tạc một tượng đài bất tử trên cao điểm 475. Chàng thi sĩ tương lai ấy đã hy sinh như một người anh hùng. Giọt lệ duy nhất của Chính uỷ Kinh còn mặn chát trong lòng người đọc hôm nay, như một nốt lặng trầm buồn trong bản anh hùng ca chống Mĩ.
Nhưng sau cái động ấy, không gian chiến trận lại trở về cái tĩnh đến lạ lùng. Đó là phút giây im lặng dồn nén đề chuẩn bị bùng nổ một cơn bão lớn:
"Mới đấy mà sáng nay đã yên tĩnh thế này ư ? - Không biết Khuê vừa hỏi hay Kinh đang tự lắng nghe một cảm giác quen thuộc mỗi lần đúng trước một vị trí địch vừa giải quyết xong...”[tr. 542]
45
Trong không gian hoạt động của chiến sĩ ta, một không gian mở và động ấy, chúng tôi thấy xuất hiện ba mô típ nghệ thuật đắt giá mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa.
Mô típ "con đường” xuất hiện 19 lần trong Dấu chân người lính.
Mô típ "ngọn lửa - bếp lửa” xuất hiện 47 lần trong Dấu chân người lính.
Mô típ "âm thanh tươi trẻ và lạc quan chiến thắng bạo tàn” xuất hiện 5 loại âm thanh với: tiếng cười, tiếng chim hót, tiếng sáo, tiếng hát và tiếng đàn trong Dấu chân người lính.
Mô típ "con đường” vừa là con đường kháng chiến chống Mĩ cứu nước của cả một dân tộc anh hùng, vừa là con đường lý tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ, con đường nhận thức sức mạnh Việt Nam tiềm ẩn trong từng con người bình dị nhất mỗi khi giặc đến lại "Rũ bùn, đứng dậy sáng loà" (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
Mô líp "ngọn lửa - bếp lửa" là một mô típ hàm súc và đa nghĩa. Đó là ngọn lửa của anh đồng đội và tinh thần đoàn kết, ngọn lửa của lý tưởng cách mạng, nhen lên từ gian khổ thử thách, ngọn lửa sức mạnh Việt Nam từ vạn ngôi nhà đã gửi tới đây để góp lửa, ngọn lửa của khát vọng tình yêu, kỉ niệm và hồi ức, ngọn lửa của đau thương và căm thù...
Mô típ thứ ba xuất hiện với tần số ít hơn nhưng đã tạo ra hiệu quả nghệ thuật đắc lực. Những âm thanh tươi vui trong sáng ấy được đặt vào thế tương phản với những âm thành bạo tàn để khẳng định tinh thần lạc quan cách mạng.
Còn với thời gian nghệ thuật, chúng tôi thấy: mặc dù sử dụng thời gian biên niên, thuận chiều và gắn bó với các sự kiện lịch sử (cốt truyện chủ yếu được triển khai theo lô tục sự kiện chứ không phải theo lô lục tính cách hay tâm lý của nhân vật), tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chiến tranh cách mạng thường dồn nén và đốt cháy thời gian bằng "độ căng" đầy kịch tính với những biến cố bất ngờ. Những bước ngoặt vĩ đại liên quan đến số phận từng cá nhân và cả cộng đồng. Thời gian trong tiểu thuyết thời kỳ này mang bước chuyển phi thường của nhân vật: từ con người bình thường trở
thành anh hùng.
Cũng tương tự như thế, tiểu thuyết Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành đã sử dụng không gian - thời gian đậm tính sử trú. Không gian chiến trận từ xã Hoà Thanh mở rộng ra các xã lân cận. Không gian hoạt động của quân dân Hoà Thanh cũng ở xu thế mở và động - từ không gian gia đình của mỗi số phận đau thương như ông già sông Trúc, Thắm, Vi, Hoàng... từ không gian nhỏ hẹp là từng căn hầm bí mật đã mở rộng ra thành một vùng đất cách mạng vùng lên đồng khởi, thành một xã kháng chiến giữa vùng tạm chiến, một mảnh đất kiên cường lần đầu tiên đánh Mĩ và thắng Mĩ ở miền
trung. Từ phạm vi nhỏ hẹp ban đầu hay phạm vi rộng lớn về sau, không gian nghệ thuật ấy bao giờ cũng ở trạng thái vận động dữ dội: Cái mới lạ của Đất Quảng ở đây là: không gian vật thể của thiên nhiên và đời sống song trùng hoà nhịp với không gian tâm tưởng của các nhân vật chính diện, không gian tâm tưởng ấy cũng mở rộng dần từ
46
nỗi đau riêng đến nỗi đau chung, từ đau thương căm thù đến quyết chiến quyết thắng, từ bóng tối đến ánh sáng.
Không gian hoạt động của bè lũ Mĩ nguỵ trước ngày đồng khởi trong Đất Quảng cũng mang cáu trúc tương tự như ở Dâu chân người lính: từ ngự trị bao trùm bóng đêm lên lất cả phải co hẹp dần về một vài đồn bốt. Bóng tối bị ánh sáng đẩy lùi dần. Sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối là tất yếu. Thời gian nghệ thuật trong Đất Quảng cũng bị dồn nén đến tột cùng. Thời gian tuyến tính bị căng ra hai đầu với hai sự kiện lịch sử. Sự kiện đồng khởi và sự kiện quân Mĩ đổ bộ vào Việt Nam, thời gian như
sợi dây bị kẻo căng tột cùng ở hai đầu. Đi qua sợi dây ấy là bao số phận con người, bao máu và nước mắt. Cũng từ đau thương ấy mà chân lý cách mạng bừng cháy soi đường cho mỗi con người và cho cả dân tộc đi tiếp con đường bi hùng tới chiến thắng. Thời gian nghệ thuật ở đây không có xáo trộn, đồng hiện nhưng là thời gian lịch sử kết hợp với thời gian tâm lý: có những giây phút dài bằng cả đời người. Có những giây phút quyết định sự sống chết của cả cộng đồng. Thời gian không còn chỉ là một dòng chảy để các sự kiện nương theo mà là sự tiếp nối các thế hệ, sự kết nối những cuộc đời đã vùng lên tìm sự sống từ trong cái chết.
Các tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chiến tranh ở giai đoạn 1965 - 1975 đều sử dụng không gian - thời gian sử thi với cấu trúc tương đồng như hai tác phẩm vừa phân tích kể trên.
Trong tiểu thuyết Mẫn và tôi của Phan Tứ, cảm hứng sử thi là động lực thúc đẩy nhà văn phác hoạ một không gian sử thi rộng lớn: Từ làng Cá mở rộng ra một diện bao quát kéo dài từ Quảng Ngãi vào đến Bình Định. Đây là một không gian chiến trận trong vận động dữ dội, ầm vang tiếng súng và phong trào đấu tranh sôi sục ở cả nông thôn và thành thị. Rồi những trận lụt khủng khiếp, những cơn mưa rừng, những trận bom pháo làm rung chuyển đất trời... tất cả gắn kết lại trong một không gian nghệ
thuật có quy mô sử thi hoành tráng. Thời gian nghệ thuật được phản ánh là năm 1965 đầy thử thách và chiến công - năm bản lề giữa chiến tranh đặc biệt và cục bộ của đế quốc Mĩ. Thời điểm lịch sử ấy mang "độ căng" đầy kịch lính vì chất chứa bao biến cố lịch sử với cộng đồng, bao sự kiện dữ dội và bi hùng với số phận các nhân vật như Mẫn, Thiêm. Nhưng từ thời điểm lịch sử cụ thể này, tác giả đồng hiện và đan xen quá khứ với hiện tại. Đây là một sáng tạo trong nghệ thuật trần thuật của Phan Tứ.
Với tiểu thuyết Rừng U Minh (Trần Hiếu Minh) và Hòn Đất (Anh Đức), không gian nghệ thuật mang đầy đủ những đặc điểm của không gian sử thi sục sôi chiến trận. Nhưng với một xứ Hòn Đất nhỏ bé và một vùng đất Rừng U Minh thì đâu là quy mô sử thi rộng lớn? Thực ra, cả hai vùng đất cụ thể này đều gắn bó mật thiết với chiến trường miền Nam đau thương mà anh dũng trong những ngày tháng ấy. Từ một giọt nước nhỏ nhoi, chúng ta vẫn nhìn thấy cả biển khơi. Thời gian nghệ thuật trong hai tác phẩm này không trải dài mà đồn nén vào một thời điểm lịch sử cụ thể.
Nhưng đó là thời điểm lịch sử mà "một ngày bằng 20 năm" bởi có bao nhiêu máu 47
và nước mắt, bao nhiêu đau thương và quật khởi cháy tên thành ngọn lửa anh hùng soi sáng từng năm tháng bi tráng ấy.
Sự chi phối của cảm hứng sử thi đến Phương diện không gian và thời gian nghệ thuật rõ nét nhất là ở hai bộ tiểu thuyết đồ sộ: Cửa biển của Nguyên Hồng và Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi. Không gian nghệ thuật trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi thật rộng dài với quy mô hoành tráng. Từ làng quê bên bờ sông Lương đến Hà Nội, từ vịnh Bái Tử Long đến bến đò sông Rừng, núi Yên Tử, từ Hải Phòng đến Chợ Lớn... Không gian trải rộng cùng với thời gian lịch sử trải dài từ những ngày đen tối trước Cách mạng đến Tổng khởi nghĩa tháng 8 - 1945. Cả không gian và thời gian ấy nằm trong tình huống "tức nước vỡ bờ” với nhịp điệu vận động căng thẳng, dữ dội, đột biến trong bão táp cách mạng.
Trong Cửa biển, Nguyên Hồng đã từ Hải Phòng lam lũ, đau thương và bất khuất mở rộng không gian nghệ thuật lên đến chiến khu Việt Bắc với Cao Bằng, Bắc Kim, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Rồi ta gặp cảnh quân Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ lên Hải Phòng tháng 8, tháng 9 năm 1940. Rồi tin chiến sự về chiến tranh thế giới với việc Hồng Quân công phá Béclin, mở mặt trận tiến vào Viễn Đông... Chưa có một tiểu thuyết nào trong thời kỳ này bao quát một không gian nghệ thuật hoành tráng và đồ sộ đến thế. Thủ pháp ghép cảnh của điện ảnh được vận dụng để đồng hiện nhiều môi trường địa điểm gần và xa, phạm vi đất nước và phạm vi thế giới cùng một lúc. Và không gian sử thi bao giờ cũng song hành với thời gian lịch sử. Ở một mức độ nào đó, chúng ta có thể nói thời gian lịch sử mang những sự kiện trọng đại đang biến động dữ dội quả đã đóng vai một nhân vật chính trong Cửa biển của Nguyên Hồng. Dòng sông lịch sử của dân tộc đã chảy đến điểm rẽ sóng gió nhất Nguyên Hồng đã chọn khúc sông ghềnh thác hoành tráng nhất này để phản ánh số phận của đất nước và số phận của mỗi con người lao khổ đang đứng dậy từ bùn nhơ nô lệ.
2.4.2. Không gian - thời gắm nghệ thuật trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội
Các tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 có xu hướng khái quát kiểu không gian nghệ thuật vừa mở ra chiều rộng với quy mô sử thi vừa xoáy xuống chiều sâu các vấn đề tư tưởng mang cảm hứng sử thi. Đó là những vùng quê tưởng như rất bình yên, những hợp tác xã nông nghiệp, trạm máy kéo, thôn xóm... trong Buổi sáng và Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú, Bão biển và Đất mặn của Chu Văn, Chủ tịch huyện của Nguyễn Khải, Đi trước nữa Nguyễn Thế Phương... Đây là những không gian không có tiếng súng, không có những xung đột dữ dội như xung đột chiến tranh. Nhưng ở bề sâu của bức tranh hiện thực tưởng như bình yên ấy là những con sóng ngầm đang lan toả từ một xung đột vừa mang tính thời sự vừa mang tính lâu dài trên đất nước nông nghiệp này: nghèo đói và khát vọng ấm no hạnh phúc, nền sản xuất nhỏ lạc hậu, trì trệ
với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đầu óc tiểu nông, tư hữu cùng bao nhược điểm truyền đời của người nông dân cá thể với cung cách làm ăn mới, lực lượng cách
48
mạng tiến bộ với lực lượng phản cách mạng cùng các phần tử tiêu cực thoái hoá.... Chính xung đột mang tầm vóc sử thi và được phản ánh từ góc nhìn cộng đồng, được giải quyết từ lợi ích cộng đồng này là một tiêu chí quan trọng của không gian sử thi, là dấu hiệu quan trọng của cảm hứng sử thi.
Ở phương diện thời gian nghệ thuật, chúng tôi cũng bắt gặp một tình hình tương tự như thế. Dù thời gian nghệ thuật không dài nhưng bị kéo căng tột cùng với bao sự kiện, biến cố với số phận của cộng đồng nhỏ là nền kinh tế tập thể với cộng đồng lớn là chủ nghĩa xã hội trong viễn cảnh tươi sáng của đất nước. Không có cái riêng nào nằm ngoài cái chung. Thời gian nghệ thuật đầy ắp các sự kiện mang tính thử thách mà vấn đề riêng - chung là tiêu chuẩn thử thách, sự lựa chọn giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn gay gắt nhất. Xung đột chiến tranh tuy dữ dội nhưng vẫn là xung đột nhất thời. Xung đột giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa mới là xung đột dài lâu trong cộng đồng nói chung và trong mỗi con người nói riêng. Chính kiểu xung đột mang ý nghĩa cộng đồng này cùng xung đột chiến tranh đã mang lại tính sử thi cho không gian - thời gian nghệ thuật nói riêng, cho tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 nói chung. Bởi với kiểu xung đột mang ý nghĩa toàn dân, quyết định đến vận mệnh và hướng đi của cả cộng đồng, đòi hỏi phải có hình tượng người anh hùng lý tưởng đại diện cho cả dân tộc này, những dấu hiệu của tiểu thuyết sử thi mới xuất hiện và định hình trong một cấu trúc tiểu thuyết có sự cộng sinh thể loại giữa sử thi và tiểu thuyết.
2.5. Quy định của cảm hứng sử thi đối với loại hình giọng điệu và ngôn ngữ
Chúng ta đã biết: giọng điệu là âm thanh được con người phát ra với sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc, âm lượng của nó. Giọng điệu trong văn học là phạm trù có liên quan đến các yếu tố tạo nên văn phong bao gồm: cách diễn đạt, hình tượng, cú pháp, âm thanh, nhịp điệu. Giọng điệu vừa biểu hiện một thái độ về đối tượng thẩm mỹ trong tác phẩm văn học vừa là thái độ của người phát ngôn văn học đối với người nghe.
Giọng điệu trở thành một yếu tố quan trọng góp phần tạo ra đặc trưng riêng cho mỗi loại hình văn học và cũng góp phần xác định phong cách của mỗi một nhà văn, một trào lưu văn học.
Giọng điệu và ngôn ngữ gắn bó trong quan hệ tương hỗ. Với giọng điệu của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 nói chung, tiểu thuyết viết về chiến tranh 1965 - 1975 nói riêng, các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại đã tìm được sự thống nhất khi cho rằng: đó là giọng điệu đơn thanh đầy cảm xúc. Đó là "giọng điệu trữ tình rưng rưng hào sảng” [110]. Đó là "giọng văn sử thi với” sự "trang nghiêm thiên về ngợi ca” [154]... Và một số ý kiến tương tự như vậy đã xuất hiện. Nhưng đó mới là những nhận định khái quát chưa được chứng minh một cách thấu đáo.
Chúng tôi nhất trí với nhận định về tính đơn thanh của giọng điệu tiểu thuyết 1945 49
- 1975 nói chung, tiểu thuyết sử thi 1965 - 1975 nói riêng. Nhưng giọng điệu sử thi ấy hiện diện trong các tiểu thuyết thời kỳ này không đơn giản chỉ có một giọng điệu anh hùng ca dù giọng điệu ấy đóng vai trò trung tâm. Bên cạnh nó còn hàng loạt giọng điệu khác đóng vai trò phối thuộc. Một tập hợp giọng điệu này tạo thành giọng điệu của nguồn trần thuật nằm trong tính quy phạm của thể tài dân tộc - lịch sử với đặc trưng sử thi. Giọng điệu của các nhân vật lại gắn bó với đặc trưng tiểu thuyết qua tính cá thể hoá sinh động - một thuộc tính không thể có ở sử thi cổ đại.
2.5.1. Giọng điệu trữ tình ngợi ca ngưỡng mộ gắn bó với cảm hứng anh hùng, cảm hứng lãng mạn và ngôn ngữ giàu chất thơ
Đây là giọng điệu chủ đạo của nhân vật người trần thuật trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, một giọng điệu đặc trưng cho tiểu thuyết sử thi. Với nhân vật trung tâm là người anh hùng lý tưởng của thời đại, các nhà văn đều từ điểm nhìn”chiêm ngưỡng”để ngợi ca hình mẫu người anh hùng của nhân dân. Giọng điệu trữ tình ngợi ca ngưỡng mộ gắn bó mật thiết với cảm hứng anh hùng, cảm hứng lãng mạn và đôi khi đi cùng với cảm hứng bi kịch, hướng về con người xuất thân bình thường mà phi thường ở chiến công, sức mạnh tinh thần và những đau thương mất mát của họ. Đây là giọng điệu ngưỡng mộ ngợi ca dành cho nhân vật chị Sứ.
"Cũng giống như dòng suối, lá cành, hoa quả, chị Sứ như thuộc về Hòn Đất, không tách ra được, chị thuộc về niềm hãnh diện của xóm làng, kể cả sắc đẹp lẫn tính tình” [37 - 162]. Và đây là giọng điệu ngợi ca mang âm vang sử thi của Thu Bồn trong Dưới đám mây màu cánh vạc:
“Người mẹ khiêng chiến sĩ du kích tí hon hy sinh trong trận đánh sáng nay ra ngàn khơi. Trong các vườn, hoa tý ngọ đã nở; loại hoa màu đỏ, trên đất cát nó mọc lên và nở hoa hệt như là máu của cát. Trên xác người du kích tí hon được phủ đầy hoa...” [tr.389]
Từ cái chết, Thu Bồn ngâm nghĩ về sự sống: "những đám mây cứ bay qua, những ngôi sao bị mờ nhạt đi chứ không bao giờ mất. Những ngôi sao bị tẩy xoá rất nhiều vẫn long lanh trên nền trời - bản thân cái chết không mang nổi cuộc sống đi theo” [tr.253]
Có thể nói, chất trữ tình đậm đặc và âm vang sử thi hùng tráng là hai đặc điểm nổi bật trong tiểu thuyết của Thu Bồn.
Giọng điệu trữ tình ngợi ca hào sảng cũng là giọng điệu chủ đạo trong Sao Băng của Nguyễn Gia Núng. Cũng như các tiểu thuyết sử thi khác trong giai đoạn 1965 - 1975, giọng điệu ấy luôn đi cùng ngôn ngữ trang trọng, hùng hồn giàu sức biểu cảm và tạo hình. Đây là đoạn văn miêu tả sự hy sinh anh dũng của nhân vật Hải:
“Lá cờ quẫy trong gió, mỗi lúc thêm rực rỡ. Hải đã là đảng viên của Đảng rồi ư? Phút chốc, anh vụt thấy toàn thân nhẹ bỗng. Xe anh đang bay như một ánh sao giữa bầu trời (...) mặt trời đỏ rực nhô lên, bồng bềnh trên mặt biển dâng đầy. Những cánh
50
buồm gần, những cánh bướm xa như đàn bướm lớn mùa xuân.” [93 - 304]
Do sự chi phối của cảm hứng sử thi, giọng điệu chủ đạo của tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài chiến tranh là giọng điệu sử thi. Trong giọng điệu sử thi ấy, hai giọng điệu gần gũi cảm thông và trữ tình ngợi ca chiếm vai trò chủ đạo. Cũng từ những giọng điệu ấy xuất hiện loại hình lời văn nghệ thuật đầy cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tăng tính biểu cảm và làm đậm hơn chất trữ tình.
2.5.2. Giọng điệu gần gũi cảm thông gắn bó với cảm hứng bi kịch, cảm hứng cảm thương và ngôn ngữ giàu cảm xúc
Đây là giọng trần thuật phổ biến ở các tiểu thuyết viết về quá khứ đau thương của dân tộc, về những con người lao động đứng dậy từ máu và nước mắt để đi theo cách mạng. Đó là giọng điệu của người trần thuật trong Sóng gầm (Nguyên Hồng) dành cho cuộc đời của mẹ La, Gái đen... Đây cũng là giọng điệu mà Nguyễn Đình Thi sử dụng để dành bao yêu thương cho Quế, Mầm, Xoan... trong Vỡ bờ. Cũng như thế, trong Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, tác giả giành bao yêu thương, cảm thông cho người mẹ miền Nam bất khuất:
"Má Ba bỗng ngồi sụp xuống, như bao nhiêu đau khổ tủi nhục chất chồng từ ngày anh bị bắt đến nay đều dồn lại, má không còn chịu nổi, bật oà lên khóc!... Má khóc giàn giụa nghẹn ngào” [tr. 336]
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng tôi còn thấy xuất hiện một số kiểu giọng điệu ở vị trí phối thuộc với hai giọng điệu trung tâm. Đó là giọng điệu châm biếm đả kích, giọng điệu bông đùa suồng sã và giọng điệu trung tính.
2.5.3. Giọng điệu châm biếm đả kích gắn bó với cảm hứng trào phúng và ngôn ngữ thông tục đời thường
Giọng điệu châm biếm đả kích xuất hiện để khắc hoạ loại nhân vật phản diện. Đây là giọng điệu gắn bó với thủ pháp cường điệu, với cái nhìn trào phúng, sử dụng ngôn ngữ thông tục đời thường để đả kích kẻ thù. Giọng điệu này thường đi cùng hai loại chi tiết nghệ thuật - hai loại hình ảnh sau đây để thực hiện mục đích trào phúng của mình.
Đó là loại chi tiết - hình ảnh có tính lố bịch để làm bật ra tiếng cười trào phúng. Chúng ta bắt gặp giọng điệu châm biếm đả kích với loại chi tiết - hình ảnh này trong Gia đình má Bảy (Phan Tứ) qua bức chân dung biếm hoạ của tên trung sĩ Huỳnh: "Tay chống nẹ khuỳnh khuỳnh vào thắt lưng, thắt lưng đeo súng ngắn sệ xuống mông, cặp mông ngoáy theo nhịp chân đi hất hất chữ bát” [138 - 98].
Đó là loại chi tiết - hình ảnh mang tính ghê rợn, tập trung trong các hành động tàn bạo như ác quỷ của các nhân vật phản diện. Giọng điệu châm biếm đả kích đi cùng ngôn ngữ thông tục chỉ có một sắc thái biểu cảm là căm thù, khinh bỉ đã tố cáo tội ác của quân thù, lột trần bản chất thú vật của chúng: "Thằng Xứng không bắn. Nó trói
51
anh lại (...) dè anh xuống, tống một cái đầu gối nhọn hoắt vào giữa ngực. Xưa nay thằng Xang chỉ chuyên độc một cách giết người: nó cắt tiết, cha con xì xụp uống với nhau tới sáng” [141 - 23].
Có thể nói, giọng điệu châm biếm đả kích trong tiểu thuyết thời kỳ này như một đối âm - một giọng điệu đối nghịch với giọng điệu ngợi ca và cảm thông thấm đẫm chất thơ giành cho các nhân vật chính diện. Sự đối âm về giọng điệu này cũng là minh chứng cho sự đối lập mà vẫn kết hợp hài hoà giữa chất sử thi với chất tiểu thuyết trong loại hình tiểu thuyết sử thi.
2.5.4. Giọng điệu bông đùa suồng sã gắn bó với cảm hứng hài hước và ngôn ngữ vừa thông tục đời thường vừa giàu tính biểu cảm
Đây là giọng điệu trần thuật xuất hiện không nhiều trong văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng thời kỳ này, bởi đó là một trong những giọng điệu nghệ thuật chủ yếu của tiểu thuyết nguyên chất với đặc trưng thể loại của nó. Tiểu thuyết sử thi với cảm hứng sử thi vốn không chấp nhận giọng điệu trần thuật này như một giọng điệu chủ
đạo. Nhưng cảm hứng sử thi là một phức hợp cảm hứng. Bên cạnh cảm hứng anh hùng, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi kịch còn có cảm hứng hài hước. Cảm hứng hài hước gắn bó với giọng điệu này. Chúng ta chỉ gặp giọng điệu bông đùa suồng sã trong đối thoại tuổi trẻ hồn nhiên của các chàng lính trẻ trong Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, dù tần số xuất hiện của nó là rất ít ỏi:
"Chúc các cô "ê hàng" nhé!
Chúng em cũng chúc các anh...
- Chúc gì nào?
- Thôi chẳng chúc nữa !(...)
- Bác sĩ Lan ơi, làm thế nào bây giờ?
- thế nào tà thế nào hả bay, không biết bơi à?
- Hay là thủ trưởng quay mặt vào trong bụi kia".... [tr. 404 - 405]
Cũng hiếm hoi như thế, giọng điệu bông đùa suồng sã xuất hiện trong Gia đình má Bảy của Phan Tứ.
Tóc đầy gió, mắt đựng mặt trời, tim sủi tăm, còn cái dạ dày thì chẳng biết nó đi đằng nào” [tr.170].
Giọng điệu bông đùa suồng sã xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975 với ba chức năng nghệ thuật: tạo một khoảng lặng yên bình thật ít ỏi giữa khung cảnh dữ dội của chiến trận; biểu hiện tinh thần lạc quan cách mạng của các nhân vật chính diện trong chiến đấu và trong lao động; là dấu ấn tiểu thuyết đích thực trong cấu trúc thể loại vốn đậm chất sử thi của tiểu thuyết giai đoạn này.
2.5.5. Giọng điệu trung tính
52
Giọng điệu trung tính là giọng điệu đặc trưng của loại hình lời văn tiểu thuyết. Nó xuất hiện cùng với ngôn ngữ vô âm sắc, không sử dụng tới những phép ẩn dụ, cường điệu của tu từ học. Nhưng với cảm hứng sử thi đóng vai trò cảm hứng chủ đạo, tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 chỉ sử dụng giọng điệu này ở vị trí phối thuộc. Rải rác trong một số tiểu thuyết của giai đoạn văn học này, chúng tôi bắt gặp giọng điệu trung tính khi người kể chuyển giữ sắc giọng bình thường để trần thuật các sự kiện, hành động, nhân vật (điều này chỉ nên hiểu một cách ước lệ khi phân biệt với các kiểu giọng điệu khác. Bản thân người trần thuật không giữ thái độ khách quan hoàn toàn). Ở giai đoạn văn học 1930 - 1945, với sự thống trị của thể tài đời tư và thế sự, giọng điệu trung tính và giọng điệu vô âm sắc chiếm vị trí trung tâm trong tiểu thuyết hiện thực. Ở vị trí thứ yếu là giọng điệu cảm xúc. Các sáng tác của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... là những ví dụ điển hình. Tình trạng ấy đã được đảo ngược lại trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975. Trong bộ Cửa biển của Nguyên Hồng, số lần xuất hiện giọng điệu trung tính thật ít ỏi:
"Người ăn vẫn là các ả gái nhà chứa. Họ ngồi chồm hỗm gọi ăn ngay ở bờ hè, ngay giữa tôi đi cạnh những hàng cá, hàng rau, mặc cả, giằng giật chửi nhau túi bụi. Quần áo nhàu nát, mặt mày bợt bạt, tóc như ma dại, nhiều ả khoác cả áo tây đàn ông (...) sụp soạn nào ăn bún ốc, lòng, tiết canh” [Sóng gầm - tr. 111]
Nếu có thể coi giọng điệu cảm xúc là loại hình giọng điệu chung cho tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng thì có thể nói tới một hiện tượng đột xuất - một nhà văn đã hình thành cho mình phong cách nghệ thuật riêng, đó là Nguyễn Thi. Ông là một trong số rất ít nhà văn đặt nền móng chuẩn bị cho sự chuyển đổi hệ hình tư duy tiểu thuyết từ thời đại chiến tranh sang thời đại hoà bình. Chất tiểu thuyết trong sáng tác của ông đậm nét hơn so với các tác phẩm - tác giả cùng thời.
Trong suất hành trình sáng tác của mình, xét về cấu trúc thể loại tiểu thuyết, Nguyễn Thi dù ở vị trí "lĩnh xướng” vẫn chỉ là một giọng hát đặc sắc trong dàn đồng ca. Dù trong giọng điệu trữ tình - sử thi nói chung vân có sự phối thanh của một số giọng điệu khác nhưng tất cả đều chỉ là bè đệm cho tiếng hát anh hùng ca bay lên. Còn đến tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa - tiểu thuyết cuối cùng và còn dở dang của Nguyễn Thi, tính đối thoại, đa thanh trong một cấu trúc mở đã xuất hiện, báo hiệu sự đổi mới thi pháp thể loại đã bắt đầu, giọng điệu trung tính đã xuất hiện bên cạnh giọng điệu cảm xúc.
“ Vợ Ba Sồi vẫn nhỏ nhẹ nói với lão đại diện:
- Tôi biểu ăn chay đi, đừng có mang tiếng ác vào mình, nhưng đàn ông tôi nó ham lắm. Nhờ ông nói với ông Bẩy Kiệt bớt bớt cho.
Đại diện Hiếm bẻ tay rốp rốp:
- Xin thể với miếu Bà đây, tôi không ngó vô đó lấy một đồng xu Hắn lại liếc sang 53
tên cảnh sát.
Bên này ngài cảnh sát cũng không chịu lép, y nói với anh thanh niên, khách hàng của mình.
- Nếu rán lo được ba trăm, tôi sẽ mướn người thế cho anh...
- Năm ngàn một công là do chính phủ ra giá, nên bà muôn bớt thì... - Nói ông cảnh sát bỏ lỗi, vợ em đau, em phải cõng nó đi ỉa...
- Phải không ông? Đàn ông tôi là đứa ngu nên nó mới chịu giá với ông năm ngàn...
- ... ? Hử mấy cha Hoa Kiều ngoài chợ cũng phải bỏ ba trăm đồng mướn người thế đi làm khu trù mật thì sao?
- Vợ em sẽ chết !...
- Anh coi cái miếng thịt trâu của vợ anh nó lớn khu trù mật à?
- Nếu bà giữ chìa khoá tiền thì...
- Thà ông đại diện cứ nói thẳng thớm như ông cảnh sát ở bàn bên cho đàn ông tôi nó dễ toán.
- Ối tiền bạc nó bằng giấy bà à...
- Anh nói vợ anh đái lên đầu ? đá á... i lên đâ ầ..... u” [131 - 354,355]
Với đoạn trích gồm 16 câu văn, trong đó có 13 câu đối thoại của 4 nhân vật đều là lời trực tiếp (trong đó đa số lời đối thoại bỏ lửng) và 3 câu trần thuật lời gián tiếp mang giọng điệu trung tính của nhân vật người kể chuyện, chúng tôi thấy dấu hiệu đổi mới giọng điệu tiểu thuyết của Nguyễn Thi ở bước đi ban đầu.
Trong các tiểu thuyết ra đời trong giai đoạn này, mỗi tác phẩm có thể sử dụng tới năm giọng điệu khác nhau (gần gũi cảm thông; trữ tình ngợi ca; châm biếm đả kích; bông đùa suồng sã; trung tính). Nhưng cả năm giọng điệu ấy không có mối quan hệ bình đẳng với nhau. Chúng đều phải phụ thuộc vào một giọng điệu ngầm của tác giả: giọng điệu sử thi ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và con người mới, cuộc sống mới, khẳng định sự ưu việt của cách mạng, của chế độ xã hội chủ nghĩa và Đảng quang vinh. Cũng từ tính đơn thanh ấy, lời độc thoại ít xuất hiện, lời văn đối thoại mang nội dung đơn nghĩa. Câu hỏi và câu nghi vấn chiếm tỷ lệ ít ỏi bên loại câu kể
mang nội dung sáng rõ và hoàn tất Còn trong đoạn trích kể trên, bốn nhân vật đối thoại mang bốn giọng điệu khác nhau cứ luân phiên xuất hiện liên tiếp, thay thế nhau và đối thoại với nhau:
Lão đại diện với giọng điệu ngọt nhạt bóng gió đang gợi ý xa xôi thận trọng; tên cảnh sát thô lỗ với giọng điệu trơ tráo đê tiện; anh thanh niên với giọng điệu nài nỉ nhũn nhặn; vợ Ba Sồi với giọng điệu cò kè quỷ quyệt.
54
Cả bốn giọng điệu đối thoại ấy với chức năng nghệ thuật bình đẳng ngang giá trị, không phụ thuộc vào nhau và cũng không chịu sự chi phối của người trần thuật mang giọng điệu trung tính. Số lượng câu bỏ lửng chiếm tới tám câu trên mười ba câu đối thoại đã tạo ra một khoảng lặng để xuất hiện tính dở dang chưa hoàn kết. Câu bỏ lửng bao giờ cũng hàm ẩn sắc thái nghi vấn đã kết hợp với ba câu nghi vấn để biểu hiện tính cách các nhân vật đang đối thoại này. Những tính cách của nhân vật tiểu thuyết hiện đại đang vận động biến đổi, đang vừa đối thoại trực tiếp vừa đối thoại ngầm với nhau để tạo thành tính đa thanh.
55
Chương hai
LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG CẤU TRÚC THỂ LOẠI CỦA TIỂU THUYẾT SỬ THI VIỆT NAM 1965 – 1975
1. Nhân vật văn học và nhân vật tiểu thuyết
Các Từ điển văn học và thuật ngữ văn học đã đưa ra những định nghĩa và kiến giải về nhân vật văn học, đã trình bày những đặc điểm mang tính khu biệt về nhân vật tiểu thuyết trong quá trình so sánh nó với nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. Bên cạnh các định nghĩa và khái niệm, nhân vật tiểu thuyết được khu biệt với nhận vật trữ tình và nhân vật kịch ở bốn đặc điểm: nhân vật tiểu thuyết gắn bó với cái nhìn đời tư, nhân vật tiểu thuyết mang chất văn xuôi đời thường ngổn ngang bề bộn, nhân vật tiểu thuyết là con người nếm trải đang biến đổi trong hoàn cảnh và đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo, nhân vật tiểu thuyết được miêu tả cặn kẽ tỉ mỉ về tiểu sử, diễn biến tình cảm... Chúng tôi thấy cần phải bổ sung một ý kiến nhỏ về nhân vật tiểu thuyết. Nếu nói về góc nhìn đời tư không chỉ có nhân vật tiểu thuyết mà còn có nhân vật tịch, nhân vật trữ
tình cũng được miêu tả bằng cái nhìn thân thuộc gần gũi này. Và cũng không chỉ có nhân vật tiểu thuyết là Con người nếm trải. Những Ôtenlô, Hăm lét của Sếcxpia chẳng vậy sao? Còn đặc điểm: nhân vật tiểu thuyết được miêu tả đặc biệt tỉ mỉ về tiểu sử, mối quan hệ giữa người với người, giữa người với hoàn cảnh, với các sự vật, hiện tượng trong đời sống...thì ta thấy ở phương diện này, nhân vật tiểu thuyết và nhân vật của kí văn học nào có khác gì nhau? Riêng phương diện được miêu tả cặn kẽ là tâm trạng, suy tư về thế giới, về đời người... thì nhân vật tiểu thuyết lại chẳng sánh được với nhân vật trữ tình? Đặc biệt cả nhân vật kịch, nhân vật trong kí văn học đều mang chất văn xuôi đời thường thì đâu chỉ có nhân vật tiểu thuyết mới hấp thụ vào trong nó cái ngổn ngang bề bộn của cuộc sống? Vậy thì đâu là đặc điểm quan trọng nhất để khu biệt nhân vật tiểu thuyết với các loại nhân vật văn học khác? Chúng tôi muốn nhấn mạnh một đặc điểm quan trọng của nhân vật tiểu thuyết. Đó là khả năng tổng hợp và kết tinh mọi thế mạnh của các kiểu nhân vật văn học. Chúng tôi thấy nhân vật tiểu thuyết là con người hành động như nhân vật kịch, là con người tư duy và "nếm trải” được miêu tả cặn kẽ thế giới nội tâm như nhân vật trữ tình, là những hình tượng nhân vật xây dựng từ nguyên mẫu như nhân vật của kí văn học. Chỉ có nhân vật tiểu thuyết mới có khả năng "cộng sinh thể loạn”, mạnh mẽ và toàn diện đến thế. Khả năng ấy cũng có ở một số kiểu nhân vật khác nhưng mức độ yếu ớt hơn và không trở thành một đặc trưng có tính đặc thù như ở nhân vật tiểu thuyết. Chẳng hạn, nhân vật kịch giao duyên với nhân vật trữ tình ở thể loại kịch thơ, nhân vật kí văn học ở những tác phẩm thành công đạt tới giá trị điển hình như nhân vật tiểu thuyết... nhưng đó chỉ là những hiện tượng cá biệt và không thể hiện được bản chất thể loại của chúng.
Với khả năng "cộng sinh thể loại” này, nhân vật tiểu thuyết trong loại hình tiểu thuyết sử thi đã hình thành với một cấu trúc nghệ thuật có sự kết hợp đặc trưng của sử
56
thi cổ - trung đại với đặc trưng của tiểu thuyết. Tiểu thuyết sử thi chỉ xuất hiện trong thời đại anh hùng. Hoàn cảnh lịch sử đặc biệt với những biến cố trọng đại, những bước ngoặt to lớn trong lịch sử mỗi dân tộc đã quyết định cấu trúc thể loại của loại hình tiểu thuyết này trong đó có cấu trúc hình tượng nhân vật của nó.
2. Phân loại nhân vật tiểu thuyết
Các giáo trình Lý luận văn học phân loại nhân vật tự sự nói chung và nhân vật tiểu thuyết nói riêng theo ba tiêu chí: Phân loại theo vị trí, vai trò của nhân vật trong tác phẩm, chúng ta có: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Phân loại theo tiêu chí ý thức hệ, chúng ta có: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện.
Phân loại theo cấu trúc hình tượng nhân vật, chúng ta có: nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng, nhân vật chức năng.
Bên cạnh cách phân chia ấy, chúng tôi muốn đề xuất cách phân loại nhân vật tiểu thuyết theo tiêu chí cấu trúc nhân cách và nguyên tắc nghệ thuật miêu tả nhân cách con người của các loại hình tiểu thuyết Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm "nhân cách” được giải thích: “Tư cách và phẩm chất con người”. Nhưng khái niệm “nhân cách” ở
đây không đồng nghĩa với khái niệm nhân cách của con người cụ thể trong đời sống được sao chép lại, càng không phải là khái niệm nhân cách mà đạo đức học, tâm lý học, xã hội học chọn làm đối tượng nghiên cứu. Nhân cách của nhân vật tiểu thuyết là nhân cách của con người mang trình lịch sử, tính dân tộc và thời đại được phản ánh qua “Lăng kính” nghệ thuật của nhà văn, được nghệ thuật hoá trong một diễn ngôn tự
sự. Nó mang theo quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người và thế giới. Nó được phản ánh bằng một phương pháp sáng tác, bằng một kiểu tư duy nghệ thuật nào đấy. Khi khảo sát cấu trúc nhân cách của hàng loạt nhân vật tiểu thuyết trong một thời đại văn học, chúng ta tìm ra tính loại hình ở chúng để từ đó khái quát được những kiểu loại nhân vật nằm trong phương pháp sáng tác của một trào lưu văn học. Rộng lớn hơn thêm tìm ra loại hình cấu trúc nhân cách của nhân vật nằm trong một phong cách thời đại nào đó.
2.1. Cấu trúc nhân cách của loại hình nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi
Chúng ta đều biết “nhân cách” là một phạm trù của sự hài hoà giữa mặt sinh vật và mặt xã hội [156 - 232].
Những thuộc tính của con người cá nhân (những đặc điểm tâm sinh lý của một "con người này”) hài hoà với những phẩm chất của con người xã hội tạo ra nhân cách. Trong tiểu thuyết chương hồi, cấu trúc nhân cách của nhân vật xuất hiện với hai đặc điểm là lĩnh và đóng khép, chúng ta chỉ nhìn thấy diện mạo, hành động, lời nói của nhân vật mà không biết nhân vật suy nghĩ, cảm xúc như thế nào khi hành động nói năng như thế. Nhân cách của nhân vật là cố định, bất biến: các nhà văn trung đại miêu tả tính cách nhân vật qua ngoại hiện và bằng nguyên tắc ước lệ với tính phạm quy chặt
57
chẽ.
2.2. Cấu trúc nhân cách của loại hình nhân vật trong tiểu thuyết lãng mạn
Với chủ nghĩa lãng mạn ở phương Tây thế kỉ XIX, cấu trúc nhân cách của nhân vật được xây dựng bằng nguyên tắc phi thường hoá nên trở thành không tưởng, không điển hình. Cả cái thiện, cái đẹp và cái xấu, cái ác đều được khắc hoạ ở mức độ phi thường: Jăngvanjăng và Jave (Những người khôn khô), Gô vanh và Lăngtơnắc (Năm 93). Exmêranda - Quadimôđô và Phụng (Nhà thờ Đức bà Phủ) của V.Huy gô, Rộng của Satôbriăng, các nhân vật lãng mạn trong sáng tác của Puskin và Barơn... Ta thấy đó là những nhân cách phi thường và cô độc trước hoàn cảnh. Tất cả đều nằm trong một loại hình cấu trúc nhân cách: nhẹ tính chung - khái quát hoá mà nặng tính riêng - cá thể hoá. Đó là những nhân cách hoặc tha hoá để trở thành sản phẩm của hoàn cảnh xã hội hoặc vùng lên phản kháng rồi thất bại, bế tắc trước hoàn cảnh. Sự chiến thắng hoàn cảnh ở phương diện tinh thần cũng vẫn chỉ mang tính không tưởng.
Với tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945, chúng ta bắt gặp hàng loạt cấu trúc nhân cách mang tính giả tạo yếu ớt, chạy trốn thực lại xã hội bằng nhiều ngả đường như: tình yêu, thoát ly, xê dịch và hưởng lạc. Trừ một vài nhân vật có ý nghĩa tích cực buổi ban dầu như: Loan (Đoạn tuyệt), Mai (Nửa chừng xuân)...còn lại là những nhân cách tầm thường được thi vị hoá bằng cái nhìn chủ quan lộ liễu của các tác giả. Đó là Dũng trong Đoạn tuyệt, Lộc trong Nửa chừng xuân, Tuyết trong Đời mưa gió, Quang Ngọc, Phạm Thái, Nhị Nương trong Tiêu Sơn tráng sĩ, Hạc và Bảo trong Gia đình, Duy và Thơ trong Con đường sáng... - những cấu trúc nhân cách mà ý thức cá nhân thì cô đơn, bất lực còn ý thức xã hội thì yếu ớt.
2.3. Cấu trúc nhân cách của loại hình nhân vật trong tiểu thuyết hiện thực phê phán
Điểm qua hàng loạt các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao..., chúng ta bắt gặp một loại hình nhân cách nhỏ bé của các nhân vật. Trong cấu trúc nhân cách mang tính loại hình này, chúng ta thấy có ba đặc điểm phổ quát: nhân cách nhỏ bé bị tha hoá; nhân cách nhỏ bé nhưng dũng cảm đấu tranh tự phát; nhân cách nhỏ bé dằn vặt, giằng xé trong bi kịch và khát khao vươn tới cái tốt đẹp.
Có thể nói, chỉ đến tiểu thuyết hiện thực phê phán, nhân cách của của nhân vật mới đạt tới điển hình với sự hoà hợp cái riêng và cái chung, con người cá nhân và con người xã hội, cá thể hoá và khái quát hoá. Những cấu trúc nhân cách vừa mang tính giai cấp vừa mang cá tính sắc nét là một đóng góp lớn của tiểu thuyết hiện thực phê phán. Nhưng trong mối quan hệ giữa nhân cách với hoàn cảnh vẫn chỉ diễn ra quan hệ
một chiều: nhân cách tha hoá vì hoàn cảnh nhân cách có đấu tranh vẫn thất bại trước hoàn cảnh. Các nhân vật chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo, Thứ, Tám Bính... là minh chứng cho điều đó.
58
2.4. Cấu trúc nhân cách của loại hình nhân vật trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975
Đồng thời với cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại năm 1945 là một cuộc cách mạng lớn lao trong vãn hoá văn nghệ và trong tiểu thuyết Lần đầu tiên trong lịch sử tiểu thuyết Việt Nam xuất hiện một mô hình nhan cách con người Việt Nam mới mẻ, đặc sắc và hiện đại đến thế. Mới mẻ và đặc sắc vì trước đó chưa từng có. Hiện đại vì với mô hình nhân cách này, tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 đã hoà vào xu thế
chung của dòng tiểu thuyết sử thi hiện đại ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Và đây cũng là lần đầu tiên tiểu thuyết Việt Nam nhịp bước cùng tiểu thuyết thế giới chứ không phải đi sau và chịu ảnh hưởng như các giai đoạn trước đó Trong cuốn Một số vấn đề tiểu thuyết hiện đại (158), bài viết lnhững nhận xét về tiểu thuyết các nước xã hội chủ nghĩa (Thanh Vũ lược thuật) đã chỉ ra sự xuất hiện các “sử thi mới”ở các nước xã hội chủ nghĩa những năm bảy mươi của thế kỉ XX đáp ứng một nhu cầu bức thiết của lịch sử:”Quy mô nắm toàn bộ các vấn đề đã tạo điều kiện cho việc xuất hiện của “sử thi mới”. “Tính sử thi mới” không chỉ thể hiện trong ý nghĩa thể loại mà còn trong quy mô của những vấn đề được nêu lên hoàn toàn vượt xa khuôn khổ của đời sống cá nhân riêng lẻ và cả trong những tham số mà con người được nhìn nhận. Những quy mô này đáp ứng những đòi hỏi tinh thần của xã hội xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay” (158 - 13). Sau khi lý giải cơ sở hình thành và một số đặc điểm mang tính đổi mới của “sử thi mới” so với tiểu thuyết truyền thống, tác giả bài báo viết:” Trong tiểu thuyết những năm 70, nhà văn đã thoát khỏi những quan điểm cực đoan của các giai đoạn trước về mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật (...) Lập trường của tác giả nhìn chung gắn với việc đào sâu quan niệm về nhân cách, quan niệm về vị trí của con người trong thế giới và lịch sử, về tự do và trách nhiệm của nó, về cái thiện và cái ác...” [158 - 14]. Nằm trong xu thế chung của tiểu thuyết sử thi ở các nước xã hội chủ nghĩa, tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 trong từng chặng đường phát triển của nó đã xây dựng thành công cấu trúc nhân cách của các nhân vật đại diện cho con người cách mạng, con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong cấu trúc nhân cách này, một sự thống nhất chưa từng có đã diễn ra: cái riêng hoà nhập vào cái chung mà vẫn không đánh mất ý thức cá nhân của mình, con người cá nhân tự nguyện phục tùng con người xã hội vì mục đích cách mạng và kháng chiến. Căn bệnh sơ lược trong các sáng tác thời kỳ đầu và xuất hiện rải rác về sau có làm cho sự thống nhất kể trên trở thành đơn giản máy móc. Nhưng ở các tác phẩm thành công, chúng ta bắt gặp hàng loạt nhân cách của các nhân vật làm xúc động lòng người, là những điển hình nghệ thuật kết tinh từ cuộc sống. Thời đại anh hùng cách mạng thực sự đã sản sinh ra những con người lý tưởng mang nhân cách cao đẹp khoẻ khoắn có sức mạnh và khả năng cải tạo hoàn cảnh như thế! Văn học nói chung và tiểu thuyết thời kỳ này nói riêng cũng mới chỉ phản ánh được một phần nhỏ cái đẹp, cái hùng trong hiện thực cuộc sống. Dù thế, đọc tiểu thuyết sử thi ở giai đoạn hào hùng này, chúng ta vẫn sững sờ trước vẻ đẹp nhân cách của con người Việt Nam anh hùng: yêu nước và dũng cảm, hiện thực và lãng
59
mạn, truyền thống và hiện đại... Từ những phác thảo ban đầu trong Xung kích, Vùng mỏ, Con trâu... đến những đỉnh cao như Cửa biển, Vỡ bờ, Vùng trời, Dấu chân người lính, Rừng U Minh, Hòn Đất..., các nhà văn đã khắc hoạ tương đối thành công tượng đài lịch sử cho nhân cách con người Việt Nam trong một thời điểm lịch sử dữ dội và bi hùng nhất, những tượng đài toàn bích còn đợi chờ chúng ta ở thời gian tới Với nhân vật chính diện, con người cá nhân được miêu tả bằng cái nhìn tiểu thuyết với sự giản dị bình thường từ ngoại hình, trang phục, ngôn ngữ, nguồn gốc xuất thân và đặc biệt là những phẩm chất của con người cá nhân (tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình mẹ con, anh em...) nhưng phẩm chất con người xã hội trong nhân cách của nhân vật chính diện lại được khắc hoạ bằng cái nhìn sử thi với tính phi thường hoá, lý tưởng hóa: yêu thương, căm thù và anh hùng đến mức phi thường. Vì yêu nước, họ sẵn sàng hiến dâng cuộc sống của mình. Vì căm thù giặc, họ vượt qua những thử thách ghê gớm mà những con người bình thường không thể vượt qua. Phẩm chất anh hùng sáng lên rực rỡ trong những Má Năm, Má Bảy, Chị Sứ, Chị Thắm, Anh Khác, Mẹ La... - những con người vốn mộc mạc bình thường như bao con người Việt Nam quanh ta.
Với loại nhân vật phản diện, nguyên tắc biếm hoạ được sử dụng để khắc hoạ nhân cách của chúng. Với thu pháp phóng đại, cái nhìn biếm hoạ đã tạo ra những bức chân dung méo mó, dị dạng cả về ngoại hình lẫn nhân cách. Những bức chân dung quái gở của lũ Mĩ ngụy khát máu trong tiểu thuyết thời kỳ này gần gũi với cái nghịch dị ở một mức độ nhất định. Những thằng Xăm, cha con ác ôn Hứa Xang, Hứa Mìn, thằng cố vấn Mĩ Rô bớt Lin... đều xuất hiện như những con người - quỷ cả về nhân hình và nhân tính, nhưng đây là những cấu trúc nhân cách chưa có chiều sâu tâm lý, cả hai mặt con người cá nhân và con người xã hội đều còn mờ nhạt. Chúng như những con rối trong tay một thế lực hắc ám đang điên cuồng chém giết vì tiền và vì những dục vọng thú vật của mình. Đây cũng là một món nợ mà tiểu thuyết sử thi 1945 - 1975 chưa trả được cho lịch sử và dân tộc của mình.
3. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
Văn học Việt Nam 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng nằm trong thể tài lịch sử - dân tộc. Với đặc trưng và tính quy phạm của thể tài văn học này, cấu trúc thể loại của tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 (và đặc biệt là tiểu thuyết 1965 - 1975) là “cấu trúc lịch sử - sự kiệ” (156 - 227). Với cấu trúc thể loại này, đối tượng thẩm mỹ trung tâm của tiểu thuyết giai đoạn 1965 - 1975 là các sự kiện lịch sử trọng đại và số phận dân tộc đất nước. Số phận cá nhân hoà nhập vào số phận dân tộc và được soi chiếu qua hệ thống sự kiện lịch sử. Cũng vì những lý do trên, nhân vật trung tâm của tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết 1965 - 1975 nói riêng là nhân vật người anh hùng lý tưởng của cả cộng đồng. Con người cá nhân được nén xuống và mờ đi để đề cao con người xã hội trong mỗi nhân vật lý tưởng đang chiến đấu và lao động quên mình vì tổ quốc. Cùng vì lẽ đó nhân vật chính diện trong tiểu thuyết thời kỳ này được tô đậm tính chung - khái quát hoá và có sự
60
thống nhất về bản chất xã hội. Tính riêng - cá thể hoá vẫn được thực hiện do yêu cầu điển hình hoá nhưng không phải là mục đích chính của các nhà văn cho nên chưa đạt được yêu cầu nghệ thuật cần có của một điển hình văn học. Với một thời đại văn học mà cả dân tộc có chung tâm hồn có chung gương mặt (Chế Lan Viên) như thế, kiểu nhân vật loại hình và kiểu nhân vật tư tưởng chiếm vị trí trung tâm, kiểu nhân vật tính cách lùi xuống hàng thứ yếu cũng là một quy luật tất yếu. Nhưng nhân vật anh hùng trong thời đại Hồ Chí Minh là người anh hùng cách mạng xuất hiện trong những tập thể anh hùng chứ không phải là người anh hùng cá nhân cô độc của Chủ nghĩa lãng mạn. Vì thế, chúng ta luôn bắt gặp hình tượng nhân dân anh hùng và trong cái tập thể ngời sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng ấy, những người anh hùng xuất chúng xuất hiện như những vì sao sáng nhất trong một bầu trời đầy sao.
3.1. Các kiểu nhân vật trong thế giới nhân vật chính diện của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
3.1.1. Nhân vật loại hình
Phần lớn các nhân vật chính diện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 thuộc kiểu nhân vật loại hình với đặc điểm: “Thể hiện tập trung một loại phẩm chất, tính cách nào đó của con người hoặc các phẩm chất tính cách đạo đức của một loại người nhất định của một thời đại” [157 - 158]. Tuy nhiên, kiểu nhân vật loại hình này luôn có xu thế kết hợp với yếu tố tính cách và yếu tố tư tưởng. Việc phân loại chúng chỉ mang ý nghĩa tương đối và chỉ căn cứ vào đặc điểm loại hình nào nổi trội hơn trong cấu trúc hình tượng nhân vật. Với thế giới nhân vật chính diện trong tiểu thuyết giai đoạn này, chúng ta bắt gặp muôn vàn nhân vật anh hùng xuất hiện như hoa mùa xuân với đủ mọi thành phần, lứa tuổi. Các cụ “già anh hùng như má Bảy (Gia đình má Bảy - Phan Tứ), ông già U Minh, bà Tư Hù (Rừng U Minh - Trần Hiếu Minh), ông già sông Trúc (Đất Quảng - Nguyễn Trung Thành)..., rồi các chiến sĩ anh hùng như: Khuê, Lữ, Cận, Lượng (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu), Hải Voi, Ngôn Bốc (Sao băng - Nguyễn Gia Núng)... rồi các chị phụ nữ anh hùng như chị Sứ (Hòn Đất - Anh Đức), Mẫn (Mẫn và tôi - Phan Tứ), các em nhỏ anh hùng như: Sơn, Bưởi (Đất Quảng), Tự, Thó (Dưới đám mây màu cánh vạc - Thu Bồn), rồi người nông dân trong Buổi sáng và Đất làng (Nguyễn Thị Ngọc Tú), người công nhân (Xi măng - Huy Phương)... Tất cả những nhân vật lý tưởng ấy tuy khác nhau về lần tuổi, giới tính, nghề nghiệp, thành phần giai cấp nhưng lại rất giống nhau về bản chất xã hội. Họ gặp nhau ở tính chung - khái quát hoá cao độ để tương đồng về phẩm chất con người xã hội mang tính lý tưởng trong nhân cách. Xuất hiện loại hình nhân cách mang tính lý tưởng cho kiểu nhân vật này với hai phẩm chất chung: nhân đạo và anh hùng. Khái niệm nhân đạo ở đây biểu hiện cụ thể ở tình yêu thương dành cho quê hương đất nước, cho người thân, cho đồng chí đồng bào, cho vẻ dẹp của thiên nhiên, ở lòng cao thượng và sự khoan dung dành cho những kẻ thù đã thất thế. Nhưng phẩm chất nhân đạo của con người lý tưởng lại gắn bó với phẩm chất anh hùng và là hai mặt không thể tách rời. Chính bởi giàu yêu thương mà con người Việt Nam mới căm thù giặc ngoại xâm, chiến đấu bất khuất, anh hùng để bảo vệ những gì mình nâng niu, yêu quý. Kiểu nhân vật loại hình trong tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975 đã kết tinh trong nhân cách mình hai phẩm chất tư tưởng - đạo đức trên để đại diện cho phẩm chất cao đẹp của cả dân tộc Việt Nam trong những năm chống Mĩ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và chính ở đây, chúng ta bắt gặp một
61
dấu hiệu sử thi đã hồi sinh trở lại trong tiểu thuyết giai đoạn này: nhân vật anh hùng của sử thi cổ - trung đại mang vẻ đẹp lý tưởng đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn, sức mạnh, khát vọng, chiến công và số phận của cả cộng đồng. Cũng tương tự như thế, chúng ta thấy hành trình số phận từ nô lệ và khổ đau đến giải phóng và hạnh phúc của các nhân vật chí Thắm (Đất Quảng), chị Tâm (Dưới đám mây màu cánh vạc), Chín Kiên, út Hảo, má Sáu (Rừng U Minh)... đã nhịp bước cùng hành trình của dân tộc đi từ đau thương đến quật khởi. Vẻ đẹp lý tưởng của chị Sứ không chỉ là niềm kiêu hãnh của xứ Hòn mà còn kết tinh từ chính hoa ngọt trái sai của thiên nhiên, từ truyền thống anh hùng của nhân dân Hòn Đất. Rồi một mẹ La gan góc trong Cửa biển của Nguyên Hồng như đã thu nhận vào trong phẩm chất của mình bao lam lũ đau thương và bất khuất của vùng dết cùng con người Hải Phòng... Rồi những Huấn, Minh, Hằng trong Buổi sáng của Nguyễn Thị Ngọc Tú, Tiệp, Thất, ái, Vượng trong Bão biển của Chu Văn... họ vừa lạ vừa quen với chúng ta. Lạ vì những nét cá thể hoá của họ, quen vì vẻ đẹp nhân cách của họ như đã được gặp trong các tác phẩm khác và trong cuộc sống. Nếu xét về tiêu chuẩn điển hình hoá thì kiểu nhân vật loại hình này là những nhân vật điển hình về tính chung - khái quát hoá, đúng như tác giả A.Gulưga từng nhận xét trong cuốn “Nghệ thuật trong thời đại của khoa học:”Hình tượng điển hình gần tính
cụ thể cảm tính hơn, hình tượng loại hình gần tính cụ thể khái quát hông [150 - 171]. Tuy nhiên, những nét cá thể hoá của kiểu nhân vật loại hình này dù mang lại những chi tiết sinh động chân thực của đời sống nhưng khái niệm “loại” vẫn là cốt lõi của chúng. Bởi thế: “nhân vật loại hình có khả năng khái quát cao, nhưng ít hay nhiều đều mang tính lược đồ” [157 - 159].
3.1.2. Kiểu nhân vật tư tưởng
Trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, kiểu nhân vật loại hình chiếm số lượng đông đảo nhất rồi đến kiểu nhân vật tư tưởng. Chúng ta đều biết nhân vật tư tưởng là: “Loại nhân vật tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội” [157 - 161]. Trong văn học cổ điển và lãng mạn, kiểu nhân vật tư tưởng thường mang tính tượng trưng cho một tư tưởng nào đó và rất dễ rơi vào sơ lược, minh hoạ. Trong văn học hiện thực và hiện thực xã hội chủ nghĩa, kiểu nhân vật tư tưởng thường kết hợp với nhân vật loại hình hoặc nhân vật tính cách nên có sức thuyết phục hơn.
Trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng tôi thường bắt gặp sự kết hợp giữa nhân vật tư tưởng và nhân vật loại hình. Thực ra, hai kiểu nhân vật này luôn có xu thế tiếp biến vào nhau về đặc điểm loại hình. Khi nói kiểu nhân vật loại hình thể hiện tập trung các phẩm chất, tính cách, đạo đức của một loại người nhất định của một thời đại thì trong “các phẩm chất tính cách đạo đức” ấy đã bao hàm cả yếu tố tư tưởng rồi và khi nói đến tư tưởng thì ta đều biết tư tưởng bao giờ cũng tồn tại trong một con người, một bộ phận người và được biểu hiện bằng nhiều phương diện, trong đó có “phẩm chất, tính cách, đạo đức” của con người ấy bộ phận người ấy. Bởi vậy, sự khu biệt nhân vật loại hình với nhân vật tư tưởng nhiều khi chỉ để làm sáng rõ đối tượng nghiên cứu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu phê bình văn học mà thôi. Với những lý do kể trên, chúng tôi phân loại và xác định có ba loại nhân vật trong kiểu
62
nhân vật tư tưởng của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975:
3.1.2.1. Loại nhân vật tư tưởng kết hợp với yêu tô loại hình
Đó là nhân vật Chính uỷ Kinh (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu). Trước hết, Chính uỷ Kinh thuộc kiểu nhân vật loại hình vì mang “các phẩm chất, tính cách, đạo đức” đại diện cho một loại người nhất định trong thời đại bấy giờ. Đó là phẩm chất lý tưởng với hai nội dung nhân đạo và anh hùng: tính cách mạnh mẽ, quyết đoán tuy còn gia đình chủ nghĩa của một người chỉ huy “thương lính kiểu đàn bà”, đó là đạo đức của người cộng sản đã được tôi luyện trong máu lửa chiến tranh. Với những phẩm chất ấy Chính uỷ Kinh đại diện cho một thế hệ anh hùng trưởng thành trong chống Pháp nay tiếp tục cùng cháu con chống Mĩ. Vấn đề tiếp nối thế hệ anh hùng đã được đặt ra và giải quyết đúng như Tố Hữu từng ca ngợi:
“Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành"
Nhưng nhân vật Chính uỷ Kinh còn là một nhân vật tư tưởng. Nhân vật này tập trung thể hiện tư tưởng cách mạng kiên định và có phần khắc kỉ của người chiến sĩ cộng sản lão thành đã được tôi luyện qua thử thách để cứng rắn hơn sắt thép. Bên cạnh vai trò một chính uỷ làm công tác chính trị - tư tưởng trong quân đội, Chính uỷ Kinh còn là một người chỉ huy gan dạ, sáng suốt, một người chiến sĩ anh hùng. Nhưng nổi bật nhất ở nhân vật này vẫn là vai trò của người truyền bá lý tưởng, cổ vũ, động viên chiến sĩ bằng tư tưởng của Đảng - người thắp sáng ngọn lửa tư tưởng cách mạng để
“soi đường” cho các chiến sĩ vượt qua thử thách: “người cán bộ lãnh đạo ấy có một thứ tầm vóc vô hình nào đó chiếm một khoảng không gian lớn hơn người khác. Nhưng đứng cạnh tầm vóc ấy, người chung quanh không những không cảm thấy mình bị chèn lấn và choán chỗ mà còn cảm thấy chính mình cũng lớn lên, mình cùng không thể làm một người tầm thường được. Cái tầm vóc vô hình ấy chính là luồng tư tưởng và tình cảm rất mãnh liệt của một người cộng sản, là lý tưởng cách mạng và lòng nhân hậu của một người đã từng trải trong cuộc đấu tranh” [15 - 272].
Nhưng lý tưởng cách mạng, đường lối chính sách của Đảng đã thấm nhuần và trở thành máu thịt trong Chính uỷ Kinh. Để rồi, ông truyền dòng máu nóng ấy cho đồng đội một cách tự nhiên và thắm thiết nhất: “Đường lối ấy đã thấm nhuần trong con người ông một cách sâu sắc và nhuần nhuyễn như một thứ bản năng...” [15 - 283]. Tuy nhiên, để nhấn mạnh vai trò này ở Chính uỷ Kinh, đôi khi Nguyễn Minh Châu xây dựng một số chi tiết có tính khiên cưỡng nên thiếu tính chân thực. Đây là lời Chính uỷ Kinh động viên bộ đội sau khi chịu tổn thất bởi trận bom thù: “Chúng ta tiếp tục xuất kích! Những đồng chí vừa hy sinh đang đòi chúng ta! Những đồng chí vừa hy sinh không cho phép chúng ta mất tinh thần và buồn bã. Tôi đề nghị với các đồng chí: chúng ta hãy giơ cao súng và cười lên rồi xuất phát! Chúng ta hãy cười vào mặt chúng nó!
63
Tiếng cười liền vang lên trong hàng quân, biểu lộ sự bình tĩnh và quyết tâm” [15 - 157].
Cùng nằm trong kiểu nhân vật tư tưởng kết hợp với yếu tố loại hình này, chúng tôi còn bắt gặp nhân vật Tư Thiệt (Đất Quảng), ông Sáu và anh Ba Lớn (Rừng U Minh), Hai Thép (Hòn Đất)...
Đây là các nhân vật vừa nằm trong loại hình nhân vật chiến sĩ cộng sản kiên trung mang phẩm chất lý tưởng vừa tập trung thể hiện tư tưởng, đường lối cách mạng của Đảng trong cuộc chiến tranh cách mạng. Họ là người thắp lửa và truyền lửa cho quần chúng nhân dân trong những ngày đen tối. Họ là những người chỉ đường vạch lối để
cuộc chiến đấu của dân tộc ta đi tới chiến thắng. Trong các tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta cũng thấy kiểu nhân vật tư tưởng kết hợp với yếu tố loại hình và tính cách này xuất hiện trong Bão biển của Chu Văn với Bí thư huyện uỷ Thái, trong Chủ tịch huyện của Nguyễn Khải với Bí thư
tỉnh uỷ Quang, trong Buổi sáng của Nguyễn Thị Ngọc Tú với Bí thư huyện uỷ Viết... Đây là các nhân vật lãnh đạo mang tính lý tưởng đại diện cho Đảng ở cơ sở. Một kiểu nhân vật tư tưởng nằm trong mô típ Người Đảng, tiếp nối hàng loạt nhân vật loại này trong tiểu thuyết và truyện ngắn Việt Nam ra đời ở giai đoạn trước: anh Cầm trong Đất nước đang lên của Nguyên Ngọc, A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài... Tuy loại nhân vật tư tưởng nằm trong mô típ Người của Đảng ở giai đoạn này có trình độ
văn hoá, khoa học và lý luận cao hơn, được miêu tả chí tiết hơn về tác phong làm việc xông xáo, thái độ tình cảm gần gũi nhân dân (Bí thư huyện uỷ Thái trong Bão biển làm việc không ngừng nghỉ, dùng xe con kịp thời đưa cháu Huy đi bệnh viện, Bí thư huyện uỷ Viết trong Buổi sáng làm ta kính phục về tầm nhìn xa trong công việc và sử dụng cán bộ qua cuộc đối thoại với ông Bảng...) nhưng người đọc vẫn thấy đây là những bức chân dung sơ lược được phác hoạ để chuyển tải một tư tưởng, một ý thức xã hội về người cán bộ lãnh đạo của Đảng. Đời sống nội tâm và phương diện con người cá nhân trong nhân cách của các nhân vật này hầu như bị bỏ quên.
3.1.2.2. Loại nhân vật tư tưởng kết hợp với yếu tố tính cách và yếu tố loại hình
Nếu nhân vật loại hình được xây dựng nhằm mục đích khắc hoạ một mô hình nhân cách đại diện cho một bộ phận người trong thời đại thì nhân vật tư tưởng lại được xây dựng để khẳng định hay phê phán một mô hình tư tưởng của một loại người nào đó trong xã hội. Cả hai kiểu nhân vật này đều ít nhiều kết hợp với yếu tố tính cách nhưng yếu tố tính cách là phương tiện chứ không phải là mục đích sáng tác của nhà văn. Bởi thế, nhân vật loại hình hấp dẫn chúng ta ở phương diện phẩm chất đạo đức, nhân cách nhân vật tư tưởng làm chúng ta say mê ở phương diện tư tưởng và những vấn đề triết lý nhân sinh, tuy cả hai có thể còn sơ lược về tính cá thể hoá và khả năng tạo hình cảm tính. Với loại nhân vật tư tưởng thứ hai trong tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975, chúng tôi thấy yếu tố tư tưởng đã kết hợp với yếu tố tính cách để tạo ra một chất lượng mới, một sự hấp dân mới cho loại nhân vật này trong các sáng tác của Nguyễn Khải. Cái
64
mới mẻ hấp dẫn ấy không chỉ nằm trong những phát hiện về tư tưởng, nhận thức của con người hay khả năng khám phá những vấn đề bức xúc nổi cộm trong triết lý nhân sinh. Những vấn đề trên đã được nhiều nhà nghiên cứu văn học bàn đến (xem 95, 106, 109, 120).
Chúng tôi thấy, nhân vật tư tưởng của Nguyễn Khải đã kết hợp theo một cách riêng với yếu tố tính cách và yếu tố loại hình tuy vẫn nằm trong giới hạn của thời đại. Và đây chính là nguyên nhân dẫn tới sự mới mẻ hấp dẫn cho nhân vật tư tưởng của ông. Và cùng chính với cách kết hợp độc đáo này, Nguyễn Khải đã báo trước và tạo tiền đề cho sự đổi mới thi pháp tiểu thuyết Việt Nam sau 1975. Có thể thấy từ Xung đột (1959 - 1961) xuất hiện trước tiêu điểm 1965 cho đến Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chiến sĩ (1973), Nguyễn Khải đã xây dựng hàng loạt nhân vật tư tưởng mang đậm dấu ấn phong cách nghệ thuật giàu chất trí tuệ của ông. Nhân vật của ông thể hiện ý thức bám sát hiện thực cuộc sống để tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội, từ đó đúc rút những triết lý nhân sinh vừa mang ý nghĩa thời sự vừa có giá trị lâu bền với cộng đồng. Nhưng nhân vật tư tưởng của Nguyễn Khải luôn gắn bó với yếu tố tính cách ở chiều sâu của khái niệm này. Yếu tố tính cách không phải là sự miêu tả tỉ mỉ, chân thực dời sống cá nhân hay khai thác phương diện con người cá nhân của nhân vật ở góc độ đời tư yếu tố tính cách trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải chủ yếu được khai thác và biểu hiện ở hai phương diện sau đây:
Thứ nhất: yếu tố tính cách nằm trong sự vênh lệch, không trùng khớp giữa con người cá nhân và con người xã hội trong cấu trúc nhân cách nhân vật tư tưởng của Nguyễn Khải. Và rộng lớn hơn là sự vênh lệch ít nhiều giữa cấu trúc nhân cách có sự “dở dang” ấy với yêu cầu của thời đại về nhân vật con người lý tưởng. Thứ hai: yếu tố tính cách được biểu hiện qua những ngả rẽ đầy bất ngờ, qua sự đột biến về nhân cách của nhân vật. Hành trình số phận của nhân vật không thẳng tắp một chiều từ bóng tối đến ánh sáng, không vận động trên thột đường ray định sẵn như hầu hết các tác phẩm cùng thời mà phần nào có sự khập khiễng, dở dang không thể đoán định trước.
Với hai đặc điểm trên đây của yếu tố tính cách, nhân vật tư tưởng của Nguyễn Khải mới mẻ hơn, có phần khác lạ hơn các nhân vật trong tác phẩm cùng thời. Nó mang những dấu hiệu nghệ thuật của nhân vật tiểu thuyết sau 1975: những nhân vật sau này sẽ đi từ gặp thời đến lạc thời, hợp lý đến phi lí... ngổn ngang bề bộn đầy những bất ngờ như chính cuộc sống đa tạp quanh ta.
Những dấu hiệu đổi mới kể trên xuất hiện từ Xung đột của Nguyễn Khải qua ba nhân vật Môn, Nhàn, Thụy. Môn là một cán bộ cách mạng xuất sắc có tính cách mạnh mẽ, thẳng thắn, có khả năng gánh vác mọi công việc và trở thành đối thủ xứng đáng nhất của lũ cha cố phản động. Nhưng bi kịch khổ đau đến với Môn từ sự oan sai do chính trận tuyến bên “ta” đem lại: trong cải cách, do đội cải cách mắc mưu kẻ thù, Môn bị bắt oan, nhà cửa bị tịch thu, con ốm, vợ hoá điên. tình huống oan khiên của
65
Môn rất ít xuất hiện trong tiểu thuyết cùng thời. Nó cho thấy Nguyễn Khải quan tâm sâu sắc đến số phận con người và phản ánh số phận con người trong sự trớ trêu với tính tất yếu và bất thường, không phải bao giờ cũng thuận chiều và rành mạch. Dù sau sửa sai, Môn lại tiếp tục hăng hái tham gia công tác nhưng âm hưởng bi kịch dã manh nha hé lộ trong bản anh hùng ca mà dàn đồng ca tiểu thuyết bấy giờ ít ai chạm đến.
Còn với nhân vật Nhàn, chúng ta lại gặp bao giằng xé nội tâm: “Tôi không bỏ đạo được, mà tôi cũng không thể bỏ hoạt động được () Tôi theo chúa, tôi theo Chính phủ, tôi theo cả hai mà không được sao” [66 – T1 - 248]. Đây không chỉ là cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật giữa niềm tin tôn giáo và lý tưởng cách mạng. Đây còn là sự mâu thuẫn và đấu tranh giữa niềm tin tâm linh của con người cá nhân với lý tưởng chính trị
của con người xã hội trong cấu trúc nhân cách của nhân vật. Cuộc đấu tranh nội tâm này là một hiện tượng khác lạ với xu thế chung của tiểu thuyết Việt Nam bấy giờ: cái tôi tự nguyện phục tùng và hoà nhập vào cái ta, những nhu cầu khát vọng riêng tư của con người cá nhân hoặc bị triệt tiêu hoặc trở nên không còn ý nghĩa trước yêu cầu phục vụ và cống hiến cho đoàn thể và cách mạng. Nhân vật Tiệp trong Bão biển của Chu Văn chẳng đã hy sinh tình yêu say đắm với Nhân để gìn giữ danh dự của người đảng viên đó hay sao? Nhưng tình huống mâu thuẫn giữa phương diện cá nhân và phương diện xã hội, giữa con người sinh vật và con người cộng đồng lại rất phổ biến trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975. Tác phẩm Thân phận tình yêu của Bảo Ninh là một minh chứng cho điều đó.
Bên cạnh những bi kịch cá nhân và sự giằng xé nội tâm kia, nhân vật Thuỵ trong Xung đột của Nguyễn Khải lại là nhân vật tiêu biểu cho sự dở dang, đột biến trong tư tưởng và nhân cách của con người. Môi trường chiến đấu đã đưa Thụy từ một tu sĩ với nhận thức đầy sai lầm bảo thủ trở thành một cán bộ cách mạng có phẩm chất cao quý, sẵn sàng hy sinh thân mình vì Đảng vì dân. Vậy mà chỉ vì không giữ vững lập trường cách mạng, Thuỵ đánh mất tất cả và trở lại điểm xuất phát ban đầu về tư tưởng. Cuộc sống đa tạp và con người vốn đa đoan như thế. Nhưng đấy mới thật sự là cuộc sống và con người. Nhân vật tư tưởng của Nguyễn Khải làm ta say mê vì điều đó!
Tiếp tục mạch nguồn đã khơi từ Xung đột, các nhân vật tư tưởng trong Đường trong mây của Nguyễn Khải lại làm người đọc say mê bởi tính vấn đề bức xúc đặt ra ở phương diện tư tưởng và đạo đức Với các tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, nhân vật chính diện đều là những con người lý tưởng. Nhân cách cao đẹp ở họ như “viên ngọc không tỳ vết". Những nhược điểm nếu có ở họ hoặc rất ít ỏi hoặc được sửa chữa tương đối dễ dàng. Thậm chí, nhược điểm còn làm cho nhân vật chính diện người hơn, đáng yêu hơn. Chẳng hạn, tật nói hay “bốc” và hay vung tay cùng nhược điểm “thương lính kiểu đàn bà”của Chính uỷ Kinh (Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu). Hay phút yếu lòng bối rối với tâm lý cầu an của Má Bảy (Gia đình má Bảy - Phan Tứ). Nhưng với nhân vật Ca trong Đường trong mây của Nguyễn Khải lại khác! Anh là nhân vật chính diện với vai trò là linh hồn cho cả đơn vị: “Sự có mặt của Ca bao giờ
66
cũng đem lại cho tập thể cái gì đó còn hơn cả những câu nói đùa của anh. Những ý kiến thông minh khi bàn bạc, hai cánh tay xốc vác khi có việc làm, sự bình tĩnh khi gặp phải một tình huống bất lợi và vô vàn chuyện vui buồn được thu lượm trong cuộc đời gian nan của người cầm súng” [68 - 160]. Nhưng những tính toán riêng tư của Ca lại biến anh thành nhân vật phản diện theo quan điểm đánh giá bấy giờ. Suy nghĩ của Ca về gia đình và tương lai như nhuốm màu tư hữu và cá thể. mảnh vườn nên trồng cây gì để có thu nhập cao, cái thổ ở và những tính toán làm sao có lợi nhất cho gia đình mình, ước mơ làm giàu sau khi hết chiến tranh, kế hoạch lo cho vợ một việc làm nhàn nhã bằng chính sách ưu tiên cho vợ bộ đội... Vậy thì, Ca là nhân vật chính diện hay phản diện? Sự phân đôi và mâu thuẫn trong nhân cách giữa con người xã hội tích cực với con người cá nhân tiêu cực, hay Ca là hình mẫu của con người lý tưởng giỏi việc nước đảm việc nhà sẽ xuất hiện sau chiến tranh? Câu trả lời phụ thuộc vào quan điểm đánh giá với tính lịch sử của nó.
Như một thái cực đối lập với Ca là nhân vật Vịnh - một nhân vật rất giỏi trong công việc chung nhưng lại ngơ ngác trước mọi lo loan đời thường. Anh ngạc nhiên và bất bình trước mọi sinh hoạt cá nhân mang tính đời tư của chiến sĩ: “Thụ này, thằng Nam lại dám mày tao với cả vợ (...) rồi mình phải gọi nó lên, xạc cho nó một trận. Cán bộ cách mạng mà đối xử với vợ không bình đẳng (...) thằng A dạo này lại uống cả rượu thuốc, ở chân thường lại có cả một hũ rượu thuốc. Ôi trời một anh cán bộ quân đội mà lại kè kè bên mình một hũ rượu thuốc (...) thằng B bỏ cả ngày chủ nhật mua vôi về trát vách (...) vợ con với nhau cả đời đã vội gì mà ngày nghỉ nào cũng rúc vào nhau hú hí” [68 - 116].
Với nhân vật Vịnh, nhà văn muốn đưa ra một tư tưởng: gắn bó quá lâu với tập thể, con người sẽ chỉ biết đến cái chung mà đánh mất cái riêng. Đáng buồn hơn thế, con người sẽ đem tiêu chuẩn của cái chung mà phán xét cái riêng, nếu cứ như vậy mà đi xa hơn nữa thì một hiện tượng tha hoá sẽ xuất hiện, khi cấu trúc nhân cách lệch lạc chỉ
còn con người xã hội mà vắng bóng con người cá nhân. Bí kịch cho bản thân mình và cho mọi người sẽ từ đấy mà sinh ra. Nhân vật Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu đã phải chịu bao nhiêu khổ đau vì những người rất tốt đó hay sao? Với nhân vật Ca và nhân vật Vịnh, phải chăng Nguyễn Khải đã dự báo sự xuất hiện của hai loại người có nhân cách đan xen cả yếu tố tích cực và tiêu cực sẽ xuất hiện sau chiến tranh? Và họ sẽ trở thành con người tích cực hay tiêu cực là điều không thể đoán định trước.
Trong Chủ tịch huyện, Ra đảo, Chiến sĩ của Nguyễn Khải, chúng tôi vẫn bắt gặp hàng loạt nhân vật tư tưởng có cấu trúc hình tượng nghệ thuật tương tự. Tuy vậy, ở các nhân vật trong Ra đảo và Chiến sĩ, yếu tố tư tưởng và loại hình nổi trội lên trong khi yếu tố tính cách mờ nhạt đi.
3.1.3. Kiểu nhân vật kết hợp nhuần nhuyễn cả yếu tô loại hình, yếu tố tư tưởng và yếu tố tính cách
Có một nhà văn mà nhân vật trong sáng tác của ông có sự kết hợp nhuần nhuyễn 67
đến không thể phân biệt rạch ròi ba yếu tố: loại hình, tư tưởng và tính cách. Đó là Nguyễn Thi! Chỉ cần đọc qua ba chương của cuốn tiểu thuyết còn dang dở mang tên ở xã Trung Nghĩa, chúng ta đủ cơ sở để khẳng định điều đó.
Với ba chương của tiểu thuyết ở xã Trung Nghĩa, các nhà nghiên cứu văn học đã hết lời khen ngợi tài năng dựng cảnh, dựng người của tác giả. Một không khí oi nồng ngột ngạt tột cùng như bầu trời trước cơn dông. Một bức tranh xã hội đen tối với bao máu và nước mắt. Chỉ cần vài nét phác hoạ sơ sài mà tinh tế, các nhân vật đã hiện lên như bằng xương bằng thịt, có khả năng “đóng đinh” vào trí nhớ người đọc. Các nhân vật chính diện như ông Tư Trầm, bà Tư, chị Hai Khê là nhân vật loại hình bởi họ mang phẩm chất đạo đức tính cách đại diện cho đồng bào Miền Nam đau thương mà anh dũng, giàu tinh thần cách mạng, trong cùm kẹp áp bức vân âm thầm nuôi giữ ngọn lửa quật cường không chịu khuất phục. Ông Tư Trầm kiên cường gan góc trước âm mưu cướp đất của đại diện Hiếm, trước sự tàn bạo của cảnh sát âu. Chị Hai Khê tần tảo nuôi đàn con nhỏ, một mình “vượt cạn”, chống chọi với vợ chồng địa chủ Ba Sồi, đối phó với thằng Ba Kì thật gan góc... Bà Tư bất chấp lệnh cấm của quan thù đến thăm chị Hai Khê... Những chi tiết cụ thể sinh động mà đều tập trung biểu hiện bản chất anh hùng bất khuất - một phẩm chất mang tính loại hình của các nhân vật chính diện trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này. Nhưng các nhân vật kể trên đồng thời lại là nhân vật tư tưởng bởi qua họ tác giả muốn lý giải, khẳng định một tư tưởng: ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh! Chính sự thối nát tàn bạo của quân thù là nguyên nhân dẫn chúng tới sự diệt vong! Những con người miền Nam yêu nước và anh hùng tất yếu sẽ đến với cách mạng vì đó là con đường sống duy nhất của họ trong những tháng năm đen tối này!
Nhưng những nhân vật loại hình kết hợp với yếu tố tưởng ấy lại có sức sống và máu thịt thật kì diệu. Các nhân vật được cá thể hoá cao độ để gặp gỡ một lần sẽ không thể nào quên: dáng đi của ông Tư Trầm là dáng đi của một con người mang cả khối hờn căm trong tim chỉ chực bùng nổ. Chi tiết chị Hai Khê leo cây bẻ cau, thái độ bình tĩnh và lạnh lùng của bà Tư khi bị địch bắt. Nhưng cơ sở quan trọng nhất mang lại yếu lố tính cách cho các nhân vật chính diện của Nguyễn Thi lại là: yếu tố cá tính ở mỗi nhân vật được tô đậm và hết sức sắc nét. Yếu tố cá tính không biểu hiện ở ngoại hình dị biệt, xuất thân dị biệt của nhân vật. Nó biểu hiện ở chỗ: nhân vật có ý kiến riêng về bản thân mình và về cuộc đời hay không? Trong hoàn cảnh bị đè nén áp bức tột cùng, ông Tư Trầm vẫn gan góc nói lên ý kiến riêng của mình: “Nồi cơm lôi chỉ có bấy nhiêu đó, ai cho thì tôi nhớ ơn, ai cướp đi thì nói ông bỏ lỗi, thân già này chống...". Bà Tư, chị Hai Khê bộc lộ ý kiến riêng của mình với cái chế độ thối nát này bằng thái độ
vừa căm hờn, khinh bỉ vừa lạnh lùng. Có sự tự tin và cứng cỏi trong thái độ lạnh lùng ấy “Khu trù mật” mang lại cho dân sự no ấm ư? Nó sinh ra ở “cái chỗ ấy đấy" [131 - 456]. Bọn cảnh sát, đại diện tưởng chúng có uy quyền ư...? Thì đây: “Tôi già rồi, tôi không biết gì hết. Mấy ông muốn đem giết đi cũng được” [131 - 433]
68
Bên cạnh nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật bằng độc thoại nội tâm và lời nửa trực tiếp, Nguyễn Thi còn tạo ra tính đa thanh trong tác phẩm bằng một thứ ngôn ngữ vừa mang cá tính sắc nét vừa có sự hoà thanh nhiều giọng điệu. Tất cả đã tạo ra yếu tố tính cách đặc sắc cho các nhân vật vừa mang yếu tố loại hình vừa mang yếu tố tư tưởng kia. Với các nhân vật khác trong sáng tác của Nguyễn Thi ở thời kỳ này: chị út Tịch trong Người mẹ cầm súng, chị Hạnh trong ước mơ của đất, Việt và Chiến trong Những đứa con trong gia đình, Đực và Bỉnh trong Chuyện xóm tôi... chúng ta cũng gặp một cáu trúc hình tượng nhân vật có sự đan xen kết hợp nhuần nhuyễn nhiều yếu tố loại hình nhân vật như vậy.
3.1.4. Kiểu nhân vật tính cách trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
Thuộc loại hình tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết Việt Nam 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết 1965 - 1975 nói riêng xây dựng thế giới nhân vật của mình theo một cấu trúc nghệ thuật đặc thù. Đó là một cấu trúc nghệ thuật có sự “cộng sinh thể loại”giữa sử thi và tiểu thuyết. Tính sử thi nằm trong hạt nhân, trong cốt lõi của cấu trúc hình tượng nhân vật với những phẩm chất định sẵn và bất biến được phi thường hoá. Đó là những phẩm chất được quy phạm hoá như đạo đức, tính cách, tư tưởng để tạo ra tính loại hình về bản chất xã hội cho hàng loạt nhân vật. Tính tiểu thuyết lại nằm trong hình thức bề ngoài của cấu trúc hình tượng nhân vật nhằm tạo ra tính cá thể hoá về xuất thân, ngoại hình, nghề nghiệp, ngôn ngữ cá tính... cho nhân vật. Như vậy, cấu trúc hình tượng nhân vật của loại hình tiểu thuyết sử thi đã xuất hiện với đặc điểm “vừa quy phạm vừa cá thể hoá”, trong đó đặc điểm “quy phạm hoá” là đặc điểm thể loại của nó. Điều đó tất yếu sẽ dẫn tới một hệ quả: nhân vật loại hình và nhân vật tư tưởng chiếm đa số, nhân vật tính cách là thiểu số.
Quả vậy, khi khảo sát tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975, chúng tôi thấy số lượng nhân vật thuần nhất là nhân vật tính cách thật ít ỏi. Đó là các nhân vật Tư, Hội, Phượng trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, Giáng Hương trong Cửa biển của Nguyên Hồng, Nhân và Xơ Khuyên trong Bão biển của Chu Văn... Nhân vật tính cách vốn không lấy những thuộc tính phẩm chất xã hội mang tính phổ biến làm linh hồn của chúng. Hạt nhân của chúng là cá tính chứ không phải khái niệm “loại” như ở nhân vật loại hình. Chúng xuất hiện với sự ngổn ngang, bề bộn, dở dang, đột biến như chính con người thực trong cuộc đời:”Một kiểu nhân vật phức tạp được miêu tả trong tác phẩm như một nhân cách, một cá nhân có cá tính nổi bật” [9 - 161].
Soi chiếu các nhân vật tính cách trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 vào cơ sở lý luận kể trên, chúng tôi thấy có thể đánh giá một số nhân vật vốn gây nhiều bàn cãi từ một góc nhìn khác
Với Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, hai nhân vật Tư và Hội đã được đánh giá ổn định thoả đáng. Chúng tôi muốn bàn thêm về nhân vật Phượng - một nhân vật đã làm tốn khá nhiều giấy mực của các nhà phê bình văn học. Sau nhiều ý kiến khác nhau bàn về nhân vật Phượng, giới nghiên cứu phê bình văn học đã thống nhất với nhận định của
69
Giáo sư Phan Cự Đệ trong tác phẩm “Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại:” ở tập hai người ta thấy rõ tác giả đã có lúc thi vị hoá nhân vật này và dành cho cô ta khá nhiều tâm huyết, quá nhiều không gian và ánh sáng... mà một người đàn bà hư hỏng buông tuồng, một nhóm vật phụ trong một cuốn tiểu thuyết - không đáng được “hậu đãi đến như thế” [35 - 417]
Nhận xét kể trên là xác đáng khi tác giả nhận xét nhân vật Phượng ở hai góc độ: góc độ vị trí vai trò của nhân vật trong tác phẩm (Phượng chỉ là nhân vật phụ), góc độ ý thức hệ (Phượng chỉ là một nạn nhân của xã hội thực dân phong kiến và cũng là một tội nhân).
Nhưng chúng tôi muốn khảo sát cấu trúc nhân cách của hình tượng nhân vật này để khẳng định Phượng là một nhân vật tính cách xuất sắc của Nguyễn Đình Thi. Xét về phương tiện cấu trúc loại hình nhân vật thì đây là một thành công của nhà văn. Chúng ta đều biết để khăng định bản chất loại hình của nhân vật lính cách phải dựa vào hai tiêu chí.
Thứ nhất: nhân vật phải có một nhân cách có cá tính sắc nét, có ý kiến riêng, có thái độ ứng xử riêng với cuộc đời, có ý thức cá nhân về bản thân.
Thứ hai: trong cấu trúc nhân cách của nhân vật, mối tương quan giữa con người cá nhân và con người xã hội nghiêng về phía nào? Tương quan giữa nhân cách ấy với môi trường, tình huống, hoàn cảnh sống diễn ra ra sao?
Nếu Phượng là một nhân vật không có cá tính độc đáo, cá biệt, cụ thể không có ý kiến riêng về bản thân và cuộc sống thì Phượng sẽ thuộc kiểu nhân vật loại hình hay tư tưởng chứ không phải là nhân vật tính cách.
Nếu trong nhân cách của Phượng, phương diện con người cá nhân mờ nhạt hoặc bị triệt tiêu để chỉ còn lại con người xã hội với những phẩm chất thuộc tính xã hội đại diện cho một loại người nào đó thì Phượng không còn là Phượng của tác phẩm Vỡ bờ. Khi khảo sát tác phẩm, chúng ta thấy thực tế ngược lại với những giả thiết trên bởi Phượng là một nhân vật tiểu thuyết đích thực theo đúng nghĩa của khái niệm này. Khi chút ít nhân phẩm, khá nhiều ảo tưởng và tình yêu trong sáng với Tư của Phượng bị huỷ hoại trong cái xã hội đen tối ấy thì Phượng là một nhân vật tha hoá. Bi kịch tinh thần xuất hiện khi con người tha hoá ấy ý thức được sự tha hoá và hoàn cảnh sống của mình. Mâu thuẫn nội tại và nghịch lý xuất hiện trong gàng xé bởi nhân vật tính cách không đồng nhất giản đơn vào chính nó. Chỉ có những con người có ý thức về cá nhân mình mới nếm trải nỗi đau bi kịch này. Nhân vật Hộ (Đời thừa) và Thứ (Sống mòn) của Nam Cao chẳng đã trải qua chính bi kịch tinh thần này hay sao? Khi Phượng lao vào cuộc sống trụy lạc thì cô là nhân vật nổi loạn của cái giai cấp thống trị mà cô không phải là con đẻ thì cũng là con nuôi của nó. Nếu khi Phượng nổi loạn trong bế
tắc và tiêu cực mà cô không còn chút luyến tiếc khổ đau nào cho những gì đẹp đẽ đã đánh mất thì Nguyễn Đình Thi có khác gì Khái Hưng với Đời mưa gió? Nhưng không!
70
Phượng muốn đập phá cuộc dời mình bởi nhận ra sự vô nghĩa lý của “cái xã hội chó đểu” ấy (từ dùng của Vũ Trọng Phụng). Nhưng ngay trong giây phút bế tắc tột cùng ấy, chút nhân phẩm nhỏ nhoi sót lại trong Phượng vẫn khiến cô nhớ đến Tư và chính điều đó phần nào đã “chiêu tuyết” cho cô với tư cách một nạn nhân đáng thương hơn là đáng trách. Chúng ta có thể xót thương Tám Bính của Nguyên Hồng, Thị Mịch của Vũ Trọng Phụng thì sao không thể xót thương cho Phượng của Nguyễn Đình Thi?
Nếu chỉ ở phương diện cấu trúc loại hình nhân vật, xét đến cấu trúc nhân cách và cá tính của Phượng, chúng ta thấy đây là một nhân vật tính cách được xây dựng thành công của Nguyễn Đình Thi.
Còn trong Bão biển của Chu Văn, chúng ta thấy nhà văn đã xây dựng hàng loạt nhân vật “sóng đôi” để chúng bổ sung và soi sáng cho nhau. Đó là cặp hình tượng Cha Phạm và Cha Hoan: một ngọt ngào, nham hiểm - một thô lỗ, tàn bạo đến điên cuồng. Đó là Tiệp và Thất: một cứng rắn đến khắc kỉ, một mềm yếu dấn nhu nhược. Đó là chánh Hạp và Ngật: một thâm độc, xảo quyết, một võ biền thô lỗ. Rồi Bõ Sức và cụ Ba Bơ trong sự đối lập, Tiệp và Vượng trong sự đồng thuận... Nhưng chúng tôi đặc biệt chú ý đến
nhân vật Nhân trong hai mối tương giao: Nhân và ái, Nhân và Xơ Khuyên. Nhân là nhân nhân vật tính cách còn ái là nhân vật tư tưởng kết hợp với yếu tố loại hình. Nhân và ái “sóng đôi” trong thế đối lập: sự vô tư và hoà nhập mau chóng vào cuộc sống mới của ái đóng vai trò “làm nền” để làm nổi rõ hơn bi kịch của Nhân một người phụ nữ
sùng đạo đến u mê và bước vào cuộc sống mới với bao nhiêu ràng buộc níu kéo của cuộc sống cũ. Nhưng Nhân và Xơ Khuyên lại là một cặp nhân vật vừa đồng thuận vừa đối lập và cả hai đều là nhân vật tính cách. Có thể nói, Nhân là “bản sao” của Xơ Khuyên ở chặng đầu, Xơ Khuyên lại là tấm gương để Nhân soi mình ở chặng cuối quãng đời được phản ánh trong tác phẩm. Cả hai đều mang trong mình bi kịch tinh thần với bao mâu thuẫn nội tâm giằng xé thật đau đớn. Cả hai đều thuộc kiểu nhân vật tư duy nếm trải và trưởng thành nhờ cuộc đời dạy bảo. Cả hai đều được cá thể hoá sinh động không chỉ ở ngoại hình, số phận mà quan trọng hơn ở lính cách. Yếu tố cá tính trong cấu trúc nhân cách của họ là tiêu chuẩn nghệ thuật để khẳng định Xơ Khuyên và Nhân thuộc kiểu nhân vật tính cách.
3.1.5. Hệ thống nhân vật tập thể thuộc kiểu nhân vật tư tưởng kết hợp với yêu khoai hình và chức năng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đem lại cho nhân dân lao động một vẻ đẹp mới chưa từng có trong lịch sử và một sức mạnh vĩ đại Nhân dân trở thành một trong những nhân vật trung tâm của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975. Nhân dân xuất hiện trong tiểu thuyết thời kỳ này như một nhân vật tập thể lớn, đoàn kết muôn người, như một dưới lá cờ của Đảng. Nhân vật tập thể nhỏ là một đơn vị bộ đội đang hành quân hay chiến đấu, một hợp tác xã với những người xã viên hăng say sản xuất trên đồng ruộng, một nhà máy với những người công nhân ưu tú đang làm việc quên mình
71
vì tổ quốc... Cả hai loại nhân vật tập thể này đều mang sức mạnh vô địch của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Họ là chủ nhân của lịch sử, động lực của cách mạng, là bệ phóng để xuất hiện những nhân vật anh hùng lý tưởng.
Thực ra, khái niệm “nhân vật tập thể”, “ nhân vật đám đông” xuất hiện trong các công trình nghiên cứu và phê bình văn học ở Việt Nam là do cách chuyển nghĩa khi dịch một thuật ngữ chỉ một nhân vật kiểu mới xuất hiện trong văn học Xô viết những năm 20 của thế kỉ XX. Nhà văn Xô viết Xêraphimôvils đã chỉ ra những phẩm chất xã hội và khả năng khái quát lớn của kiểu nhân vật này: “Chỉ tập trung soi sáng những khát vọng tập thể, những cảm xúc chung của quần chúng (...) Nếu chỉ miêu tả cái cá thể thì sẽ không bao quát được thời đại với tầm rộng khôn lường của nó” (35 - 50). Nhà nghiên cứu l.Kuzmirép lại khẳng định: “Tiểu thuyết sử thi có thể không có nhân vật chính, nhưng nó không thể thiếu được một điều kiện cơ bản - nhiệm vụ của nhân vật chính là nhiệm vụ của nhân dân. Nhưng ý nghĩa nhân dân trong từng hoàn cảnh phải được xác định cụ thể. Nếu như không có nhân vật chính thì phải có một” nhóm nhân vật", một tập thể anh hùng, cái tạo nên hạt nhân anh hùng của tác phẩm” [151 - 50]. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn học có uy tín như Phan Cự Đệ, Trần Đình Sử, Phong Lê... là những người có công lao xác lập diện mạo của kiểu nhân vật tập thể và khái quát đặc điểm loại hình của nó. Giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định: “Tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta đã miêu tả những người anh hùng trong mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Chủ nghĩa anh hùng mới của chúng ta là chủ nghĩa anh hùng tập thể, chủ nghĩa anh hùng quần chúng [35 - 399]. Đặc biệt, giáo sư Trần Đình Sử đã có một phát hiện mới mẻ khi tìm hiểu về “con người trong văn học Việt Nam sau 1945". Đó là hình tượng “con người quần chúng”, “con người kháng chiến”, “con người tập thể”, “con người chính trị và dân tộc” trong 30 năm văn học cách mạng này. Từ việc xác lập hình tượng con người Việt Nam trong từng chặng đường văn học của giai đoạn 1945 - 1975, giáo sư Trần Đình Sử đi tới một kết luận có ý nghĩa to lớn về học thuật: “Quan niệm con người quần chúng đã cải tạo lại cấu trúc bên trong của hình tượng nghệ thuật. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học, dân tộc, quần chúng được nhận thức và lý giải như là một chủ nhân của đất nước (...). Họ là nhân vật chính diện, nhân vật trung tâm của văn học” [130 - 299]. Và: “con người trong văn học Việt Nam hiện đại thường được thể hiện chủ yếu qua các kiểu hình tượng tập thể, hình tượng tập hợp, hình tượng tư tưởng, hình tượng loại hình và hình tượng tính cách. Với tất cả thành tựu hiện có, Văn học Việt Nam bốn mươi năm qua chưa có nhiều thành công về mặt hình tượng tính cách. Yếu tố cá tính chưa nổi bật, sự phân tích xã hội, tâm lý chưa được phát triển đầy đặn Còn ít những hình tượng có tầm cỡ có thể cung cấp một mẫu mực thuyết phục trọn vẹn về phương diện này” [130 - 280]. Ngay từ năm 1979, trong cuốn Văn học Việt Nam chống Mĩ cứu nước, giáo sư Phong Lê đã khẳng định chủ nghĩa anh hùng tập thể trong văn học chống Mĩ và phác hoạ chân dung tinh thần của kiểu nhân vật này: “Điều nổi bật của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại chống Mĩ là một chủ nghĩa anh hùng tập thể. Từ đó, được thể hiện
72
trong văn xuôi chân dung con người như là một thành viên của tập thể, lấy sức mạnh từ trong tập thể” [85 - 77] và “Sự xây dựng những điển hình quần chúng cách mạng, không phải chỉ như một cái nền cho nhân vật chính hoạt động, mà bản thân họ cũng được điển hình hoá, cũng trở thành một chân dung tập thể với nhiều bản sắc cá nhân” [85 - 79]. Những hình tượng nhân vật tập thể trong văn xuôi Việt Nam 1945 - 1975 nói chung, trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng thuộc loại hình nhân vật nào? Câu hỏi này chưa có một công trình nghiên cứu văn học nào trả lời! Những đám đông quần chúng vùng dậy đi theo lá cờ đỏ sao vàng, phá kho thóc của Nhật, tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cửa biển (Nguyên Hồng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi), những biển người cuộn sóng hờn căm ngày “đồng khởi” trong Đất Quảng (Nguyễn Trung Thành), trong Rừng U Minh (Trấn Hiếu Minh)...; những người nông dân trong Buổi sáng (Nguyễn Thị Ngọc Tú), trong Bão biển (Chu Văn), những người công nhân trong) Xi măng (Huy Phương)... những người lính có lên và không tên cuồn cuộn như những dòng sông vượt Trường sơn cứu nước trong Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu)...họ thuộc vào kiểu nhân vật nào xét trên phương diện cấu trúc loại hình? Chúng toi thấy hình tượng nhân vật tập thể này thuộc kiểu nhân vật tư tưởng kết hợp với yếu tố loại hình và yếu tố chức năng.
Trước hết, những đám đông quần chúng cách mạng, những tập thể con người mới xã hội chủ nghĩa thuộc kiểu nhân vật tư tưởng. Hầu hết các nhà văn xây dựng loại nhân vật này để tập trung thể hiện một số tư tưởng chủ đề có tính phổ quát trong văn học thời kỳ này:
Thứ nhất: tư tưởng cách mạng là ngày hội của quần chúng Trong Cửa biển của Nguyên Hồng, nhà văn đã xây dựng hình tượng nhân vật tập thể (gồm công nông và trí thức) trong sự vận động của tính cách và số phận qua ba thời điểm lịch sử: những ngày đen tối trước Cách mạng tháng Tám; những ngày vùng lên phá kho thóc của Nhật; những ngày tổng khởi nghĩa. Chính những đau thương tủi nhục trong thời điểm lịch sử
thứ nhất đã hình thành quá trình “tức nước” để bùng nổ thành quá trình “vỡ bờ” trong hai thời điểm lịch sử sau. Có thấm thía nỗi đắng cay tủi nhục của kiếp nô lệ mới cảm nhận hết bao hả hê vui sướng khi vùng lên đấu tranh để trở thành con người làm chủ và tự do. Cách mạng thực sự hồi sinh cho cả dân tộc, đưa mọi người lao khổ và mỗi người đến một ngày hội lớn.
Với hình tượng nhân vật tập thể trong Vỡ bờ, Đất Quảng, Rừng U Minh, chúng tôi thấy dù hoàn cảnh lịch sử đã đổi khác nhưng tính luận đề của loại nhân vật tập thể cho tư tưởng này là không thay đổi.
Thứ hai: tư tưởng sức mạnh vô địch của quần chúng cách mạng
Cách mạng đã tập hợp quần chúng bằng một lý tưởng cao đẹp, gắn kết muôn người như một để tạo ra một sức mạnh lay trời chuyển đất. Tư tưởng ấy và hiện thực ấy được tập trung biểu hiện ở loại nhân vật tập thể Trong Dấu chân người lính, chúng ta gặp một cuộc hành quân vĩ đại: cả dân tộc ra trận để dành lấy độc lập tự do. Có lực lượng
73
bạo tàn nào khuất phục nổi sức mạnh kì vĩ này:
"Đông đúc quá! Không ai có thể lài nào mà phân biệt hoặc đếm được có bao nhiêu đơn vị, cũng không thể biết đây là đường rừng hay quảng trường, là rừng cây hay rừng người và rừng súng đạn. Người ta chỉ biết đông đúc và chật chội, là hơi thở và mùi mồ hôi người, là tiếng nói ồn ào của cuộc sống, là đàn ong cần lao đang san một nửa tổ đi đánh giặc, là cơn giận dữ của đất nước lại một lần cầm lấy súng. Người ta cũng không thể phân biệt hiện tại hay là khung cảnh lịch sử, hay là tương lai đang bước ra từ đây trên đôi bàn chân đất của người lính?” [15 - 46]. Còn đây là sức mạnh vô địch của quần chúng cách mạng trong công cuộc quai đê lấn biển. Chu Văn dã viết lên những trang viết mang âm hưởng anh hùng ca hào hùng, ca ngợi sự chiến thắng của con người lao động trước thiên nhiên hung bạo: “Bỗng rắc một tiếng, nghe ghê rợn như đất xương sống một con rắn khổng lồ bị gẫy khúc. Dãy cọc tre đực cắm làm khung chắc chắn như thế mà lả oằn đi (...). Đất lở xuống ùm ùm, nước mặn thừa thế tràn bừa vào, sủi lên dữ dội (...) một tiếng reo to nổi lên, rồi ầm ầm hơn hai chục thanh niên cả nam lẫn nữ, mỗi người vác một vác củi vẹt, nhảy xuống dòng nước đang cuốn dữ. Họ
khoác vai nhau thành một sợi dây dài lấy thân mình ngăn dòng nước mặn...” [146 - 569]
Thứ ba: tư tưởng không có tập thể anh hùng thì cũng sẽ không có những cá nhân anh hùng bởi cánh mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tư tưởng kể trên xuyên thấm vào tất cả các tiểu thuyết thời kỳ này, biểu hiện qua các nhân vật cụ thể và các chi tiết sinh động: đó là mối quan hệ mật thiết như máu thịt của chị Thắm với quân dân xã Hoà Thanh (Đất Quảng), của Mẫn và Thiêm với nhân dân Làng Cá (Mẫn và tôi), của út Sâm, Sỏi, Bê với nhân dân xã Kì Bường...Cá nhân anh hùng chỉ có thể xuất hiện và toả sáng trong tập thể anh hùng, tập thể anh hùng tôn vinh cá nhân anh hùng, và nếu không có Đảng, không có cách mạng thì cũng sẽ không có cả hai. Chân lý này là hạt nhân tư tưởng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm chống Mĩ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Như vậy loại nhân vật tư tưởng trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 nói chung và tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 nói riêng thuộc kiểu nhân vật tư tưởng khi tập trung thể hiện một tư tưởng, một ý thức tồn tại trong đời sống tinh thần của xã hội. Nhưng mặt khác loại nhân vật tập thể này lại gắn bó với yếu tố loại hình và yếu tố chức năng. Ở đây, chúng tôi muốn trở lại với ý kiến của giáo sư Phong Lê: nhân vật tập thể cũng được “điển hình hoá", cũng trở thành một chân dung tập thể với nhiều bản sắc cá nhân". Khi nói đến nghệ thuật điển hình hoá để tạo ra bức chân dung tập thể
của quần chúng cách mạng, của những con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo sư Phong Lê muốn nói đến khả năng kết tinh những yếu tố “Loại” trong bức chân dung tập thể này. Đó là bức chân dung tinh thần của nhiều người có chung một loại phẩm chất, tính cách, đạo đức. Đây chính là nghệ thuật điển hình tính chung - khái quát hoá để tạo ra một tập thể dẫu có trăm gương mặt khác biệt nhưng lại có chung một bản chất xã hội,
74
một tâm hồn Việt Nam và tính cách Việt Nam. Yếu tố loại hình đã xuất hiện trong loại nhân vật tập thể này.
Nhưng cũng chính loại nhân vật tập thể ấy còn thống nhất yếu tố tư tưởng, yếu tố loại hình kể trên với yếu tố chức năng. Bởi loại nhân vật tập thể trong tiểu thuyết thời kỳ này “có các đặc điểm phẩm chất cố định", không thay đổi từ đầu đến cuối, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hoạt động của nó chỉ nhằm thực hiện một số chức năng trong truyện và trong việc phản ánh đời sống. Nhân vật đồng nhất với vai trò mà nó đóng trong tác phẩm” [9 - 157].
Quả thực, những phẩm chất tính thần của loại nhân vật tập thể như yêu nước, căm thù giặc, chiến đấu bất khuất, lao động anh hùng... là cố định không thay đổi. Các tình huống truyện kế tiếp nhau thay đổi chỉ làm cho các phẩm chất ấy ngời sáng hơn. Đời sống nội tâm không được miêu tả trong loại nhân vật này mà chỉ được biểu hiện qua ngoại hiện. Loại nhân vật tập thể xuất hiện chỉ để thực hiện các chức năng nghệ thuật: phản ánh quá trình vận động kì vĩ của số phận dân tộc trong những biến cố lịch sử trọng đại như chiến tranh và cách mạng; minh chứng cho tư tưởng sự đổi đời của nhân dân lao động nhờ công ơn của cách mạng; lý giải sự hình thành chủ nghĩa anh hùng tập thể trong thời đại Hồ Chí Minh. Đặc biệt, nhân vật tập thể mang yếu tố chức năng luôn đồng nhất với vai trò tập thể anh hùng của nó trong các tiểu thuyết sáng tác trong giai đoạn lịch sử hào hùng này.
3.2. Các kiểu nhân vật trong thế giới nhân vật phản diện của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975
Đã có nhiều ý kiến thống nhất trong việc đánh giá nhược điểm của tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1945 - 1975 ả phương diện xây dựng thế giới nhân vật phản diện: sự sơ lược trong miêu tả tâm lý nhân vật cái nhìn cực đoan trong những bức chân dung méo mó quái gở, chưa phản ánh đầy đủ và sâu sắc quá trình thú vật hoá ở những con người - thú này. Đặc biệt, việc chưa xây dựng được những điển hình sắc nét về quân xâm lược Pháp và Mĩ là một món nợ của các nhà tiểu thuyết với lịch sử và dân tộc...
Từ góc nhìn cấu trúc thể loại tiểu thuyết, chúng tôi không muốn bàn đến những vấn đề quen thuộc kể trên mà muốn khảo sát phân loại thế giới nhân vật phản diện theo nguyên tắc loại hình học, từ đó tìm ra nghệ thuật miêu tả nhân vật phản diện của tiểu thuyết Việt Nam sáng tác trong giai đoạn 1965 - 1975.
3.2.1- Hệ thống nhân vật phản diện thuộc kiểu nhân vật loại hình kết hợp với yếu tố chức năng trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam I965 - 1975
Có một số ít nhân vật phản diện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 thuộc kiểu nhân vật này. Đó là tên tư sản Pháp kiêm mật thám Đờ Vanhxi trong Cửa biển của Nguyên Hồng, tên chánh cẩm Lanéc và tên “đồ tể” Rôbe trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, tên cố vấn Mĩ Rôbơt Lin trong Dòng sông phẳng lặng của Tô Nhuận Vỹ, hai tên sỹ quan thiết giáp Lệch và Râu giơ trong Dưới đám mây màu cánh
75
vạc của Thu Bồn, bọn giặc lái Mĩ trong Vùng trời của Hữu Mai, lũ lính Mĩ xuất hiện thấp thoáng trong Dấn chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Mẫn và tôi của Phan Tứ, Đất Quảng của Nguyễn Trung Thành. Tất cả lũ giặc cướp nước thuộc hai đội quân xâm lược Pháp và Mĩ ấy xuất hiện trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này với đặc điểm của kiểu nhân vật loại hình.
Bản chất xã hội của chúng tiêu biểu cho bản chất tham lam, tàn bạo của những tên thực dân kiểu cũ và kiểu mới, muốn dùng đồng tiền và sức mạnh bạo tàn để bắt các dân tộc khác cúi đầu. Dục vọng là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của chúng nên nhân cách ấy méo mó và đen tối đến đáng ghê tởm. Dù chúng mang tên gì, ngoại hình ra sao và từ đâu tới thì bản chất của chúng vẫn không hề thay đổi. Chúng ta có thể mượn lời nhận xét của giáo sư Phan Cự Đệ để hiểu rõ hơn về nhân vật Đờ Vanhxi: “Tên” Cai Xin Đờ Vanhxi này bẩn thỉu và keo kiệt, nghiệt ngã từng đồng với cả những người cu li đổ thùng. Hắn lại là một tên dâm dục, chuyên bao gái để hành lạc và “lơn” vợ hoặc con gái người khác. Ngoài cái nghề bao thầu, hắn còn là một tên mật thám chính trị giảo quyệt, nham hiểm và cực kì phản động” [35 - 411]. Và đây là bản chất của tên cố vấn Mĩ Rô bớt Lin qua sự đánh giá của nhân vật Phi Hùng: “Hắn là một con rắn độc, một con quỷ khát máu người được che đậy dưới cái vỏ lịch sự và văn hoá, dưới cái vẻ sùng kính văn chương và lịch sử cổ đại. Chính hắn chứ không ai khác đã tự tay chấm toạ độ trên từng trường tiểu học, từng mái chùa (...) để lúc cần thì cả thành phố này là một biển lửa mà hắn là bạo chúa Nê rông...” [147, T2 - 208]
Hai tên xâm lược mang hai vỏ bọc lịch lãm xuất hiện ở hai thời điềm lịch sử khác nhau nhưng có chung một bản chất đen tối. Yếu tố “Loại” trong những tên xâm lược này đem lại cho chúng phẩm chất của nhân vật loại hình. Nhưng những nhân vật loại hình này trong cấu trúc nhân cách của chúng còn có sự kết hợp với yếu tố chức năng. Với những bức chân dung ngoại hình quái gở, những âm mưu thâm độc cùng hành động tàn bạo, chúng xuất hiện như những con quỷ dữ không có đời sống nội tâm (hoặc nếu có thì rất mờ nhạt và đen kịt bởi dục vọng). Những tình cảm, cảm xúc thật sự “con người” cũng vắng bóng ở chúng. Bản chất xã hội ở chúng cố định, không thay đổi từ đầu tới cuối. Sự tồn tại và hoạt động của chúng trong tác phẩm chỉ nhằm thực hiện chức năng ác quỷ để cướp bóc, bản giết và thoả mãn những dục vọng thấp hèn. Chúng đại diện cho cái ác trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng với cái thiện.
3.2.2. Hệ thống nhân vật phản diện có sự kết hợp yếu tố loại hình vẽ yếu tố tư tưởng và yếu tố chức năng
3.2.2.1. Các nhân vật phản diện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 viết về đề tài chiến tranh cách mạng
Đó là các nhân vật ác ôn Ngụy cùng bè lũ tay sai của thực dân đế quốc trong tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng: thằng Xăm (Hòn Đất - Anh Đức); thằng Ba Phổ, thằng Tư Rân (Gia đình má Bảy - Phan Tứ); Ba răng vàng, Tư gà lôi, trung uý Đào (Rừng U Minh - Trần Hiếu Minh); Hứa Xang (Đất Quảng - Nguyễn Trung
76
Thành); Đạm, Tư Quéo (Dưới đám mây màu cánh vạc - Thu Bồn); Kim Tú, Tây Cậu (Cửa biển - Nguyên Hồng)... Trước hết, lũ ác ôn tay sai này mang những đặc điểm của kiểu nhân vật loại hình. Đây là một hệ thống hình tượng nhân vật tập trung thể hiện những phẩm chất đạo đức, tính cách của một loại người trong xã hội Việt Nam bấy giờ. Có thể xếp chúng vào loại nhân vật tha hoá kiểu mới. Nếu như các nhân vật tha hoá của văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930 - 1945 còn ở vị trí nạn nhân và làm người đọc xót thương, thông cảm, thì loại nhân vật tha hoá kiểu mới này đều là những tội nhân đáng căm ghét ghê tởm. Chúng đã bị thú vật hoá bởi thủ đoạn và âm mưu đen tối của lũ quan thầy thực dân đế quốc. Chúng trở thành ác quỷ gieo rắc tội ác do sự sai khiến của đồng tiền và đục vọng. Kiểu nhân vật loại hình này xuất hiện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 với hai đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: chúng là những con tốt trong tay lũ quan thầy Pháp - Mĩ.
Rất ít nhân vật phản diện trong tiểu thuyết thời kỳ này hành động và suy nghĩ theo một lý tưởng chính trị nhất định. Hầu hết các nhân vật phản diện xuất hiện như những công cụ tay sai tầm thường nhất trong tay các ông chủ. Quá trình thú vật hoá ở chúng sóng đôi với quá trình lưu manh hoá. Trong Hòn Đất của Anh Đức thằng Xăm hành động như cái máy theo lệnh thiếu tá Sằn, còn tên thiếu tá lại cung cúc làm việc theo lệnh cố vấn Mĩ. Còn Tư gà lôi và Ba răng vàng (Rừng U Minh - Trần Hiếu Minh) thì vừa “chống cộng” như những tên tay sai hạng bét theo lệnh quan thầy vừa cướp bóc, hãm hiếp như những tên lưu manh đê tiện nhất. Kim Tú và một lũ lay sai (Cửa biển - Nguyên Hồng) bộc lộ rõ bản chất lưu manh trong vụ cướp nhà Đờ Vanhxi. Và cũng chỉ có lũ lưu manh ấy hăm hở nhảy ra sân khấu chính trị làm những con rối trong tay Pháp - Nhật. Trong Gia đình má Bảy của Phan Tứ, một lũ tay sai xuất hiện, vừa lưu manh về bản chất vừa bạc nhược về tinh thần, tên tay sai cấp dưới là con rối trong tay tên tay sai cấp trên... và cứ thế cho đến Tổng thống của chúng cũng chỉ là tay sai trong tay đế quốc Mĩ trung sỹ Huỳnh sợ thằng Ba Phổ, Ba Phổ cúi đầu nghe lời dạy dỗ của trưởng ty công an Châu, tên Châu lại cúi đầu trước hai tên cố vấn Mĩ trong buổi tra tấn út Sâm...
Thứ hai: chúng là những con quỷ khát máu hành động tàn bạo vì những dục vọng đen tối. Hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của các nhân vật phản diện là dục vọng. Trong nhân cách của chúng phần con người xã hội được miêu tả bằng nguyên tắc rối hoá: cái vỏ bọc hào nhoáng bên ngoài không che đậy nổi bản chất xấu xa bên trong. Dù là áp trưởng, đại diện xã, đồn trưởng hay tỉnh trưởng... cái “áo khoác”chức danh rách tã của chúng cũng không che đậy nổi những nhân cách thối nát cùng cực. Còn phần con người cá nhân trong nhân cách của chúng thì méo mó đến dị dạng, chỉ nổi trội lên phần bản năng thú tính được miêu tả bằng nguyên tắc quỷ hoá. Thằng Xăm (Hòn Đất - Anh Đức) là một trong sáu “anh hùng” của miền Tây Nam bộ dưới thời Ngô Đình Diễm đã xuất hiện như một con quỷ: xào gan người ăn, mổ bụng lấy mật rất khéo, khoét đít để người bị bắt vừa nhổm dậy ruột đã xổ ra đằng hậu môn...
77
Hứa Xâng (Đất Quảng - Nguyễn Trung Thành) và Ba Phổ (Gia đình má Bảy - Phan Tứ) lại thích uống máu người và “cắt tiết” người rất giỏi. Thằng Tây Cậu (Cửa biển - Nguyên Hồng) cứ tra tấn tù cộng sản là rú lên ằng ặc như lên cơn điên...
Có thể nói, dục vọng đen tối là động lực chi phối các nhân vật phản diện này. Dục vọng và hành động của chúng được miêu tả theo quy luật nhân - quả: dục vọng nào thì hành động ấy! Với những con người – thú “chống cộng” để lấy tiền thưởng, để trả thù cá nhân hoặc trả mối thù giai cấp, để từ thành phần lưu manh ngoi lên các địa vị xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu chém giết và hưởng lạc này, thất bại của chúng là tất yếu. Tuy nhiên, cách khắc hoạ hình ảnh kẻ thù như vậy, dù đã cố gắng bám sát và phản ánh hiện thực khách quan, vẫn có phần hạ thấp kẻ thù. Khi hạ thấp kẻ thù, chiến tháng của lực lượng cách mạng rất khó đạt tới tầm vóc kì vĩ vốn có của nó.
Kiểu nhân vật loại hình kể trên còn kết hợp yếu tố tư tưởng và yếu tố chức năng trong cấu trúc nghệ thuật của chúng. Các nhân vật phản diện này còn là nhân vật chức năng với phẩm chất, đặc điểm thú vật vốn cố định ở chúng, không thay đổi từ đầu đến cuối. Chúng xuất hiện với những hành động tàn bạo mà không có đời sống nội tâm (nếu có thì cũng rất mờ nhạt, đơn điệu, nghèo nàn). Hầu hết các nhân vật phản diện chỉ
cho người đọc thấy chúng làm gì mà không cho thấy chúng nghĩ gì khi hành động. Chúng tồn tại chỉ nhằm thực hiện hai vai trò sau trong tác phẩm:
Xét ở chức năng xã hội chúng là công cụ mù quáng: nếu lũ giặc cướp nước Pháp - Mĩ là chúa quỷ thì lũ ác ôn này là bầy quỷ tay sai - những công cụ đắc lực trong việc thực hiện những âm mưu đen tối của quan thầy mà đã là công cụ thì không biết hoặc ít biết đến suy nghĩ. Chúng ta chưa gặp một nhân vật phản diện nào có trăn trở, giằng xé nội tâm khi gây tội ác. Có chăng chúng chỉ suy nghĩ về tiền, gái và làm sao để thoả
mãn những dục vọng dơ bẩn của chúng.
Xét ở chức năng văn học chúng đóng vai trò phản đề: hệ thống nhân vật phản diện đại diện cho cái ác, cho lực lượng bóng tối trong cuộc giao tranh với cái thiện, với lực lượng ánh sáng là quân dân ta trong những tháng năm kháng chiến. Các nhà văn Việt Nam thời kỳ này đều sáng tác theo khuynh hướng: càng tô đậm lực lượng bóng tối bao nhiêu thì càng đề cao lực lượng ánh sáng bấy nhiêu ! Cách miêu tả này gợi nhớ đến các nhân vật chức năng và bút pháp nghệ thuật trong các truyện cổ tích. Các nhân vật chức năng trong truyện cổ tích và truyện hiện đại đều được đóng khung phẩm chất của mình trong tính quy phạm. Nhân vật phản diện là phản đề của nhân vật chính diện.
Các nhân vật phản diện thuộc kiểu nhân vật loại hình kết hợp với yếu tố chức năng này còn mang những đặc điểm của kiểu nhân vật tư tưởng. Chúng đại diện cho tư tưởng phản cách mạng, phản tiến bộ trong cuộc giao tranh với tư tưởng cách mạng tiến bộ của thời đại. Mọi hành động, suy nghĩ của chúng đều xuất phát từ hai động lực: dục vọng cá nhân và tư tưởng phản cách mạng. Chính những dục vọng đen tối như tiền, gái, sở thích chém giết ấy lại hoà điệu nhịp nhàng với tư tưởng phản cách mạng bởi đó cũng chính là mục đích sống của lực lượng thù địch với cách mạng. Chúng điên cuồng
78
chống phá cách mạng vì biết cách mạng sẽ không để cho chúng tồn tại với mục đích sống bẩn thỉu ấy. Tiểu thuyết Việt Nam 1965 - 1975 đã khắc hoạ tương đối rõ nét sự gặp gỡ giữa lẽ sống đen tối với tư tưởng đen tối trong bầy ác quỷ này.
3.2.2.2. Các nhân vật phản diện trong tiểu thuyết sử thi Việt Nam 1965 - 1975 viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội
Cũng mang một cấu trúc loại hình tương tự như thế giới nhân vật phản diện kể trên, các nhân vật phản diện trong tiểu thuyết viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ này xuất hiện ít hơn và cũng mờ nhạt hơn (riêng Bão biển của Chu Văn là một ngoại lệ). Đó là các nhân vật phản diện mang phẩm chất đạo đức đại diện cho loại người tiêu cực trong xã hội. Những cán bộ, công nhân viên chức hoặc tha hoá đạo đức cách mạng hoặc còn mang trong mình những thói hư tật xấu như thói tư hữu, vụ lợi, hám danh... Đó là Sơn, Thăng (Buổi sáng - Nguyễn Thị Ngọc Tú) với thói xu nịnh và hành động lợi dụng của công mưu lợi riêng. Đó là Vượng với những thu vén cá nhân, thói gia trưởng độc đoán và đặc biệt là sự thờ ơ trước mọi lo toan của đồng đội, lợi ích của tập thể. Trong Đất làng, Nguyễn Thị Ngọc Tú còn cho thấy căn bệnh “tư hữu” và thói hiếu danh trong nhân vật Tị. Đây là căn bệnh truyền đời của dòng máu nông dân cá thể chảy trong mỗi người chúng ta và không phải dễ dàng loại trừ được nó. Rồi sự tha hoá của Đàm (Chủ tịch huyện - Nguyễn Khải). Sự lưu manh hoá của Nguyễn Mai (Vào đời - Hà Minh Tuân). Rồi các phần tử chậm tiến như Bảy đớp trong Buổi sáng, Long đen trong Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc Tú...Văn Sổ, Huyền Tơ trong Những tầm cao của Hồ Phương... Các nhân vật phản diện này xuất hiện như một vệt đen nhỏ bé trên nền cảnh sáng sủa hồng hào của cuộc sống mới. Các tiểu thuyết viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ này chưa phản ánh thật trúng và thật đúng những mâu thuẫn cơ bản trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và nếu có phản ánh thì các nhà văn mới chỉ chạm vào bề mặt của hiện thực cuộc sống một cách sơ lược. Những căn bệnh âm ỉ trong lòng xã hội khi đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội là: chủ nghĩa bình quân và chủ nghĩa hình thức, mâu thuẫn giữa năng lực quản lý và thực tế cuộc sống, thói tư hữu cá thể và làm ăn tập thể, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể chưa tìm được tiếng nói chung... tất cả những “căn bệnh” này chưa được phản: ánh chính xác và sâu sắc.
Và nếu mâu thuẫn cùng khuyết điểm của chúng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ đơn giản và được giải quyết dễ dàng đến thế thì chúng ta đã không đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vất vả đến thế! Phải đến sau năm 1975, chúng ta mới nhìn thẳng vào sự thật với Cù lao Chàm, Đứng trước biển của Nguyễn Mạnh Tuấn, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường... cùng hàng loạt tác phẩm thuộc dòng văn học “nhìn thẳng vào sự thật” khác. Tuy không bỏ qua tính lịch sử
nhưng nói một cách nghiêm khắc, tiểu thuyết Việt Nam viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ này mới chỉ hoàn thành yêu cầu thời đại mà chưa hoàn thành yêu cầu nghệ thuật có tính vĩnh hằng với mọi tác phẩm văn học chân chính: không chỉ
79