"
Thức ăn vật nuôi vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Thức ăn vật nuôi vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam
Ebooks
Nhóm Zalo
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN VĂN PHÙNG, HOÀNG TOÀN THẮNG, NGUYỄN THỊ HẢI
THỨC ĂN VẬT NUÔI VÙNG TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
(Sách chuyên khảo)
NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP
Hà Nội - 2012
1
2
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 6
MỞ ĐẦU 9 Điều kiện tự nhiên 10 Về vị trí của ngành nông lâm nghiệp vùng trung du miền núi phía Bắc 11
Chƣơng 1. CÁC NHÓM THỨC ĂN VẬT NUÔI CỦA VÙNG TRUNG DU MIỀN NÖI PHÍA BẮC 13
1.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ GIÁ TRỊ DINH DƢỠNG CỦA CÂY THỨC ĂN 13 1.1.1. Giống cây trồng 13 1.1.2. Các giai đoạn phát triển của cây trồng 13 1.1.3. Ảnh hƣởng của phân bón và đất trồng 14 1.1.4. Ảnh hƣởng của mùa vụ 16
1.2. THỨC ĂN THÔ XANH VÀ PHẾ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP 16 1.2.1. Thức ăn xanh 16 1.2.2. Thức ăn thô khô và phế phụ phẩm nông nghiệp 28
1.3. THỨC ĂN HẠT VÀ SẢN PHẨM PHỤ CỦA NGÀNH CHẾ BIẾN NÔNG SẢN 34 1.3.1. Tiềm năng nguồn thức ăn hạt cốc ở vùng trung du miền núi phía Bắc 34 1.3.2. Đặc điểm dinh dƣỡng của thức ăn ngũ cốc 36 1.3.3. Đặc điểm một số loại thức ăn hạt cốc và sản phẩm chế biến từ hạt cốc 37
1.4. THỨC ĂN GIÀU PROTEIN CÓ NGUỒN GỐC THỰC VẬT 42 1.4.1. Tiềm năng nguồn thức ăn đậu đỗ của vùng trung du miền núi phía Bắc 42 1.4.2. Đặc điểm của thức ăn hạt đậu đỗ 43 1.4.3. Đặc điểm một số đậu đỗ và sản phẩm phụ của chế biến đậu đỗ 43
1.5. THỨC ĂN NGUỒN GỐC ĐỘNG VẬT 48 1.5.1. Cá và bột cá 49 1.5.2. Bột thịt 51 1.5.3. Bột máu 51 1.5.4. Bột phế phụ phẩm của công nghiệp chế biến thịt gia cầm 51 1.5.5. Bột lông vũ 52
3
Chƣơng 2. MỘT SỐ LOÀI CÂY THỨC ĂN VẬT NUÔI BẢN ĐỊA 53 2.1. Cây nhò vàng 54 2.2. Cây hu đay 55 2.3. Cây dƣớng lá to 56 2.4. Cây sắn dây rừng 57 2.5. Cây đậu Mèo xám 58 2.6. Cây khoai nƣa 59 2.7. Cây chuối lá 61 2.8. Cây khoai mon 62 2.9. Cây ngõa lông 63 2.10. Rong sông, hồ 64 2.11. Thài lài tím 65
Chƣơng 3. VAI TRÕ CÁC CHẤT DINH DƢỠNG CƠ BẢN VÀ NGUYÊN LÝ PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THÀNH PHẦN HÓA HỌC THỨC ĂN VẬT NUÔI 67
3.1. CÁC CHẤT DINH DƢỠNG TRONG THỨC ĂN VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ 67 3.1.1. Protein 67 3.1.2. Vai trò của lipit 68 3.1.3. Vai trò của chất xơ 69 3.1.4. Vai trò của năng lƣợng 70 3.1.5. Vai trò của chất khoáng 71
3.2. PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA THỨC ĂN 73 3.2.1. Phƣơng pháp lấy mẫu phân tích 73 3.2.2. Phƣơng pháp xác định vật chất khô 73 3.2.4. Phƣơng pháp xác định hàm lƣợng chất béo thô 74 3.2.5. Phân tích chất xơ (xơ thô, NDF, ADF) 75 3.2.6. Phân tích khoáng 76 3.2.7. Phƣơng pháp xác định dẫn xuất không đạm (NFE) 76 3.2.8. Phân tích axit amin 77 3.2.9. Phân tích giá trị năng lƣợng thô 77
3.3. PHƢƠNG PHÁP ƢỚC TÍNH GIÁ TRỊ DINH DƢỠNG DỰA VÀO THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA THỨC ĂN 78 3.3.1. Phƣơng pháp ƣớc tính giá trị năng lƣợng 78 3.3.2. Phƣơng pháp ƣớc tính giá trị axit amin trong thức ăn vật nuôi dựa vào hàm lƣợng protein thô 85
4
Chƣơng 4. PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN 89
4.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 89 4.1.1. Tiêu chuẩn ăn 89 4.1.2. Nội dung tiêu chuẩn ăn 89 4.1.3. Khẩu phần ăn 90
4.2. CÁC NGUYÊN TẮC VÀ PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN 90
4.3. GIỚI HẠN SỬ DỤNG THỨC ĂN TRONG KHẨU PHẦN 91
4.4. PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN CHO VẬT NUÔI 93 4.4.1. Một số điểm lƣu ý 93 4.4.2. Phƣơng pháp xây dựng khẩu phần thức ăn cho vật nuôi 94
Chƣơng 5. THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ GIÁ TRỊ DINH DƢỠNG CỦA THỨC ĂN VẬT NUÔI 99 5.1. Thành phần hóa học của các loại thức ăn 99 5.2. Giá trị năng lƣợng của các loại thức ăn 144 5.3. Thành phần axit amin của các loại thức ăn 183 5.4. Thành phần nguyên tố đa - vi lƣợng của các loại thức ăn 196 5.5. Thành phần vitamin của các loại thức ăn 234
PHỤ LỤC: TIÊU CHUẨN ĂN CHO CÁC LOẠI VẬT NUÔI 265 1. Tiêu chuẩn ăn cho gia cầm 265 2. Tiêu chuẩn ăn cho lợn 273 3. Tiêu chuẩn ăn của gia súc nhai lại 282
TÀI LIỆU THAM KHẢO 293
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tiếng Việt (Vietnamese)
Tiếng Anh (English)
ADF
CB
DXKĐ
KTS
MĐNLTĐ
NDF
NLT
NLTDT
NLTDTSX
NLTST
NLTTS
NLTh
NLTH
NLTĐ
PHTDC
PKHTDC
Pth
TDDTH
TCVN
VCK
TS
TDMNPB
TX
TN
Xơ còn lại sau thủy phân bằng dung dịch axit (gồm cellulose, lignin, silic)
Chất béo
Dẫn xuất không đạm hoặc chất chiết không Nitơ
Khoáng tổng số
Mật độ năng lượng trao đổi
Xơ còn lại sau thủy phân bằng dung dịch trung tính (gồm cellulose, lignin, hemicellulose)
Năng lượng thuần
Năng lượng thuần duy trì
Năng lượng thuần duy trì và sản xuất
Năng lượng thuần sinh trưởng
Năng lượng thuần cho tiết sữa
Năng lượng thô
Năng lượng tiêu hóa
Năng lượng trao đổi
Protein hòa tan trong dạ cỏ
Protein không hòa tan trong dạ cỏ
Protein thô
Tổng các chất dinh dưỡng tiêu hóa
Tiêu chuẩn Việt Nam
Vật chất khô
Tổng số
Trung du miền núi phía Bắc
Thị xã
Thái Nguyên
ADF
EE
NFE
TA
MEC
NDF
NE
NEm
NEg
NEl
GE
DE
ME
RDP
UDP
CP
TDN
DM
CF
Acid detergent fibre
Ether extract
Nitrogen free extractives
Total ash
Metabolisable energy concentration
Neutral detergent fibre
Net energy
Net energy for maintenance
NEmp Net energy for maintenance and production
Net energy for gain
Net energy for lactation
Gross energy
Digestible energy
Metabolisavle energy
Rumen degradable protein
Undegradable protein
Crude protein
Total digestible nutrients
Dry matter
Crude fibre
6
LỜI NÓI ĐẦU
Vùng trung du miền núi phía Bắc là địa bàn sinh sống của đông đảo nhiều dân tộc thiểu số trong tổng số 54 dân tộc Việt Nam. Đây là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về an ninh kinh tế, chính trị và quốc phòng của đất nước trong quá khứ, hiện tại cũng như tương lai lâu dài. Sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của khu vực này là một đảm bảo vững chắc cho ổn định an sinh xã hội, chính trị và quốc phòng của đất nước.
Do điều kiện địa lý, khí hậu nên ở đây đã hình thành các tiểu vùng sinh thái khác nhau và sản xuất nông lâm nghiệp được xác định là ngành sản xuất chính. Trong đó, chăn nuôi gia súc nhai lại cùng các loài vật nuôi bản địa là thế mạnh góp phần phát triển kinh tế xã hội cho người dân khu vực này. Đây cũng là vùng có sự đa dạng, phong phú về hệ thống cây tự nhiên và cây trồng có khả năng thích ứng cao với điều kiện khí hậu tự nhiên, khả năng chống chịu tốt, là nguồn thức ăn chủ yếu cho gia súc, gia cầm.
Trong nhiều năm qua, tập thể các nhà khoa học Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã dành nhiều công sức tập trung nghiên cứu về nguồn cây thức ăn tự nhiên và cây trồng tại khu vực. Với 693 mẫu thuộc 9 nhóm thức ăn trên khắp các địa phương trong vùng đã được thu thập, nghiên cứu, phân tích thành phần hóa học và dinh dưỡng. Cuốn sách “Thức ăn vật nuôi vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam” là tập hợp các kết quả nghiên cứu về thành phần hóa học và tiềm năng nguồn thức ăn vật nuôi trên địa bàn. Bằng các kỹ thuật phân tích hiện đại tại các phòng thí nghiệm của Trường Đại học Nông Lâm và Viện Khoa học sự sống, các kết quả nghiên cứu sẽ là các tài liệu có giá trị đóng góp vào tiến trình phát triển chăn nuôi của khu vực.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ, động viên của các nhà khoa học, các thầy cô giáo, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên của Nhà trường. Đặc biệt các cán bộ kỹ thuật viên thuộc Phòng Thí nghiệm Trung tâm trước đây, Bộ môn Hóa sinh của Viện Khoa
7
học sự sống ngày nay đã không quản ngại vất vả, ngày đêm miệt mài trong các phòng thí nghiệm để tìm tòi, nghiên cứu xác định ra những tư liệu quý giá này.
Với mong muốn cung cấp một tài liệu bổ ích cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển sản xuất chăn nuôi của khu vực, chúng tôi đã dành nhiều công sức và nhiệt huyết để sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn cuốn sách. Mặc dù vậy cuốn sách cũng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Trong quá trình sử dụng, chúng tôi luôn mong nhận được những góp ý của các độc giả để tiếp tục hoàn thiện trong lần xuất bản tiếp theo.
Trân trọng cảm ơn!
Nhóm tác giả
8
MỞ ĐẦU
Vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam (TDMNPB) bao gồm 14 tỉnh, trong đó Bình, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên).
có 10 tỉnh vùng Đông Bắc (Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang) và 4 tỉnh vùng Tây Bắc (Hòa
Lược đồ tự nhiên vùng trung du và miền núi phía Bắc tù nhiªn vïng Trung du v ng Trung du vµ miÒn nói B¾c Bé
L-îc ®å
Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam - 61 tỉnh và thành phố - Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
9
Điều kiện tự nhiên
Vùng TDMNPB có diện tích tự nhiên 95.388 km2 (chiếm 29,6 % diện tích cả nƣớc). Độ cao địa lý biến động từ nơi thấp nhất là ven biển tới nơi cao nhất là dãy Hoàng Liên Sơn. Địa hình khu vực rất phức tạp, bị chia cắt bởi các mạch núi cùng hệ thống sông suối lớn nhỏ không chỉ là nguồn sinh thủy cho vùng đồng bằng Bắc Bộ mà còn hình thành nhiều vùng sinh thái với các sắc thái khí hậu và đất đai khác nhau tạo nên sự đa dạng bậc nhất của Việt Nam về các loài động thực vật, các giống cây trồng vật nuôi gắn liền với nền văn hóa của mỗi dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn.
Dân số
Theo Niên giám Thống kê 2009, tính tới 4/2009 vùng TDMNPB có 11,0952 triệu ngƣời (chiếm 14,5% dân số toàn quốc). Mật độ dân số bình quân 116 ngƣời/km2, bằng 47,1% mật độ dân số trung bình của cả nƣớc (232 ngƣời/km2), gây ra những hạn chế về thị trƣờng và nguồn lao động tại chỗ. Đây là địa bàn cƣ trú của một cộng động dân cƣ gồm nhiều dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Mông, Thái, Mƣờng, Dao, Hoa, Dáy, Sán Chí, Lô Lô, Pu Péo... Dân cƣ tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, chiếm 83,5% dân số toàn vùng, với 1,8 triệu hộ sản xuất nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Quy mô bình quân khoảng 5 nhân khẩu với 2,3 lao động chính/hộ. Đất nông nghiệp bình quân đầu ngƣời 1.182m2so với bình quân chung toàn quốc đạt 96,2% (toàn quốc 1.229m2/ngƣời).
Trình độ phát triển kinh tế
Nhìn chung kinh tế trong khu vực phát triển chậm, thu nhập từ nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao trong tổng thu nhập, các cơ sở công nghiệp tập trung ở một số đô thị lớn của khu vực nhƣ Thái Nguyên, Hòa Bình..., một số địa phƣơng nhƣ Bắc Kạn, Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên... cơ sở kinh tế công nghiệp còn yếu kém. Các vấn đề kinh tế du lịch, dịch vụ, lƣu thông phân phối tuy có nhiều tiềm năng nhƣng chƣa đƣợc khơi dậy đúng mức. Sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản chiếm vai trò chủ đạo nhƣng trình độ áp dụng tiến bộ kỹ thuật còn hạn chế, tập quán sản xuất còn nặng tính truyền thống, tình trạng du canh du cƣ vẫn tồn tại trong một bộ phận dân cƣ, một số khu vực vùng sâu, vùng xa. Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới của cả nƣớc, vùng TDMNPB đã có những bƣớc phát triển mạnh về kinh tế - xã hội, trong đó sản xuất nông lâm nghiệp đã chuyển biến tích cực theo hƣớng sản xuất hàng hóa, từng bƣớc vƣợt qua sức kìm hãm của nền kinh tế tự cấp tự túc xƣa kia. Năng suất, sản lƣợng của nhiều loại nông lâm sản ngày càng tăng do có sự đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sản xuất tập trung, áp dụng các kỹ thuật về giống, phân bón, thâm canh tăng vụ... Sản xuất nông lâm nghiệp theo hƣớng hàng hóa đã góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện rõ rệt đời sống của đồng bào các dân tộc trong vùng. Tuy nhiên, tập quán sản xuất truyền thống vốn gắn liền với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi địa phƣơng đã hình thành hàng ngàn đời nay. Tập quán ấy đã ăn sâu bắt rễ trong nếp nghĩ, thói quen của ngƣời nông dân không dễ gì thay đổi trong một sớm một chiều, vì thế để góp phần
10
thúc đẩy sản xuất nông lâm nghiệp nói riêng, kinh tế nói chung của vùng phát triển song hành với các vùng khác của cả nƣớc cần thiết phải khai thác mọi tiềm năng sẵn có của khu vực với sự đóng góp thiết thực của khoa học và công nghệ.
Về vị trí của ngành nông lâm nghiệp vùng TDMNPB
Hiện tại, ngành nông lâm nghiệp vẫn giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế của khu vực. Cơ cấu dân cƣ trên địa bàn có tới 83,5% dân số sống trong khu vực nông thôn, trong đó khu Đông Bắc là 82,6% và Tây Bắc là 87,0%. Đời sống của hầu hết bộ phận dân cƣ này là dựa vào sản xuất nông lâm nghiệp. Trong định hƣớng kinh tế của các địa phƣơng vùng TDMNPB thì nhiệm vụ phát triển nông lâm nghiệp luôn đƣợc đặt lên vị trí hàng đầu và đƣợc ƣu tiên đầu tƣ mọi mặt để ổn định dân cƣ, cải thiện dân sinh kinh tế vì vùng này cũng là địa bàn nhạy cảm, có vị trí đặc biệt quan trọng về an ninh chính trị và quốc phòng của đất nƣớc.
Trong toàn vùng, tỷ trọng GDP ngành nông lâm nghiệp chiếm 41,3% tổng giá trị sản phẩm, trong đó Đông Bắc 39,7% và Tây Bắc 49% (Nông nghiệp Việt Nam - 61 tỉnh và thành phố, Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, 2001). Trong khi đó bình quân toàn quốc tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 25,4% trong cơ cấu GDP. Ngành nông nghiệp đã góp phần tích cực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Sản xuất nông lâm nghiệp trên địa bàn thu hút 4,1 triệu lao động (khoảng 89% lực lƣợng lao động xã hội tham gia trong các thành phần và ngành kinh tế) và là ngành chủ yếu mang lại thu nhập và đời sống cho 1,8 triệu hộ nông dân trên địa bàn.
Trong giai đoạn trƣớc mắt cũng nhƣ lâu dài nông nghiệp sẽ vẫn là ngành kinh tế giữ vị trí hàng đầu của vùng TDMNPB, là ngành có sản phẩm hàng hóa xuất khẩu chủ yếu, trong đó các sản phẩm chăn nuôi gắn liền với nền nông nghiệp hữu cơ mang tính chất là sản phẩm sạch không chỉ là tiềm năng mà còn là lợi thế khu vực. Hƣớng phát triển chăn nuôi tạo ra loại sản phẩm này đang đƣợc các cấp quản lý trên địa bàn quan tâm và tạo mọi điều kiện để hình thành và phát triển.
Những lợi thế và hạn chế để sản xuất nông nghiệp hàng hóa của vùng trung du miền núi phía Bắc
Lợi thế phát triển
+ Vùng TDMNPB có điều kiện sinh thái thích hợp (Đất đai, khí hậu, tài nguyên giống...) để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng về cơ cấu sản phẩm bao gồm các sản phẩm nông nghiệp nhiệt đới, á nhiệt đới và một số sản phẩm nông nghiệp ôn đới khá tập trung về quy mô. Một số loại sản phẩm có ƣu thế cạnh trạnh trên thị trƣờng và có nhiều tiềm năng phát triển nhƣ chè, cà phê, hoa quả (vải thiều, mơ, mận, lê, đào, hoa lan, hoa ly, hồng,...).
+ Trong vùng có một số trung tâm công nghiệp, đô thị lớn nhƣ: Thái Nguyên, Việt Trì, Hòa Bình... Có các trung tâm du lịch mang tầm quốc gia, quốc tế nhƣ Sa Pa, Điện
11
Biên Phủ, Công viên địa chất toàn cầu Đồng Văn... Có nhiều cửa khẩu quốc tế giao lƣu với Lào và Trung Quốc. Có hệ thống giao thông đƣợc mở rộng nâng cấp để nối các địa phƣơng trong vùng. Hệ thống giao thông mở mang nhanh chóng trong thời gian qua đang làm giảm bớt khó khăn trong vận chuyển nông sản phẩm tới thị trƣờng tiêu thụ.
+ Đàn vật nuôi phong phú và nguồn thức ăn gia súc dồi dào, đa dạng: Theo Niên giám Thống kê (2009) thì đàn trâu của vùng TDMNPB có 1,6263 triệu con, chiếm 56% đàn trâu cả nƣớc; bò có 1,0317 triệu con con, chiếm 18% cả nƣớc; lúa ngô thừa cho nhu cầu của con ngƣời (riêng ngô chiếm 38,8% sản lƣợng ngô cả nƣớc) nên đƣợc chuyển hầu hết cho chăn nuôi đã làm tăng số lƣợng đàn lợn lên 6,3172/27,627 triệu con, chiếm 22% đàn lợn toàn quốc và đàn gà đạt 61,224/280,181 triệu con. Đặc biệt cơ cấu giống vật nuôi rất phong phú với các giống gia súc nhai lại nổi tiếng cả nƣớc nhƣ bò Mông, trâu Bắc Quang, trâu Hàm Yên, nhiều giống lợn, gia cầm có giá trị đặc sản nhƣ dê núi Hà Giang, lợn Mƣờng Khƣơng, lợn Táp Ná, lợn Mán... các giống gia cầm nổi tiếng nhƣ gà nhiều ngón Thanh Sơn, gà Mông đen, Vịt bầu Kỳ Lừa, Thất Khê... Những giống vật nuôi này hầu hết đƣợc nuôi theo tập quán truyền thống, sử dụng các loại thức ăn sẵn có ở địa phƣơng, theo tập quán sản xuất và văn hóa đặc trƣng của từng dân tộc.
Đây là những lợi thế góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hƣớng hàng hóa, thuận lợi cho lƣu thông xuất khẩu nông sản và sản phẩm chăn nuôi trong đó có các sản phẩm chăn nuôi chất lƣợng cao phục vụ tiêu dùng trong nƣớc và xuất khẩu.
Những hạn chế
+ Địa hình chia cắt, đa phần là đất dốc. Khí hậu khắc nghiệt với tình trạng rét đậm, rét hại kèm sƣơng muối và nguồn nƣớc thiếu nghiêm trọng trong mùa khô. + Hệ thống hạ tầng còn kém phát triển đặc biệt là giao thông và thông tin thị trƣờng cho những khu vực xa xôi, vì thế việc tiêu thụ sản phẩm còn khó khăn chủ yếu ở dạng nguyên liệu, bán thành phẩm, giá bán rẻ chƣa có tác dụng khuyến khích ngƣời dân tích cực sản xuất.
+ Trình độ dân trí và kỹ thuật sản xuất của một bộ phận đáng kể dân cƣ còn thấp làm hạn chế năng suất và hiệu quả lao động, đặc biệt với vùng sâu, vùng xa. + Đời sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, phong tục tập quán cũ đè nặng, thiếu vốn để đầu tƣ thâm canh theo hƣớng tạo sản phẩm hàng hóa.
12
Chƣơng 1
CÁC NHÓM THỨC ĂN VẬT NUÔI
CỦA VÙNG TRUNG DU MIỀN NÖI PHÍA BẮC
Mỗi vùng sinh thái khác nhau có cơ cấu nguồn thức ăn vật nuôi khác nhau. Tùy theo các điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, thổ nhƣỡng mà hình thành các nguồn thức ăn đặc trƣng. Vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam là vùng sinh thái đa dạng, có đầy đủ các nhóm thức ăn cho vật nuôi mà thành phần hóa học và giá trị dinh dƣỡng của chúng rất biến động và chịu ảnh hƣởng của nhiều yếu tố nội tại và ngoại cảnh.
1.1. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ GIÁ TRỊ DINH DƢỠNG CỦA CÂY THỨC ĂN
1.1.1. Giống cây trồng
Có sự khác nhau nhiều về giá trị dinh dƣỡng giữa các giống cây trồng (Bộ Đậu và họ Hòa thảo); giữa các nhóm cây thức ăn xanh (cây mọc trên cạn với cây mọc dƣới nƣớc); giữa các loài cây trồng trong cùng một nhóm (lá khoai lang với lá mít, cỏ Ghine với thân lá ngô non).
Ví dụ: - Nhóm cây trên cạn có hàm lƣợng vật chất khô cao (10 - 43%) so với nhóm cây thủy sinh (8 - 11%), trong khi đó họ Hòa thảo (có 10,6 - 13,0 % protein thô), thấp hơn bộ Đậu (10 - 30%).
- Ngay trong nhóm cây bộ Đậu là nhóm có hàm lƣợng protein cao nhƣng tùy theo loài mà có sự thay đổi rất lớn nhƣ: Đậu tƣơng từ 37 - 43% trong khi đậu Mèo chỉ đạt 19 - 21% protein trong vật chất khô.
1.1.2. Các giai đoạn phát triển của cây trồng
Hàm lƣợng các chất dinh dƣỡng biến động lớn qua các giai đoạn phát triển của cây trồng theo hƣớng tăng sự tích lũy lƣợng vật chất khô, chất xơ và đƣờng, đồng thời giảm lƣợng protein thô và lƣợng nitơ phi protein. Nói chung, cây càng non thì tỷ lệ nƣớc càng cao, tỷ lệ xơ thấp, nhƣng tỷ lệ protein tính theo vật chất khô lại cao. Cây càng già thì tổng lƣợng vật chất khô càng tăng lên nhƣng protein giảm thấp, tỷ lệ xơ thô tăng cao kèm theo sự “gỗ hóa - hay còn gọi là lignin hóa”. Pachauri và Patil (1985) nghiên cứu trên 15 loại cỏ bộ Đậu nhiệt đới cho thấy tỷ lệ protein thô, các chất dinh dƣỡng dễ tiêu trong dịch tế bào, tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô của phần lớn các giống cỏ đều giảm theo giai đoạn sinh trƣởng (1, 2, 3 tháng tuổi) còn lƣợng xơ trung tính (NDF) và xơ axit (ADF) lại tăng lên làm cho tỷ lệ tiêu hóa thức ăn giảm thấp. Murugan và cộng sự (1986)
13
cho biết tỷ lệ tiêu hóa vật chất khô, protein, chất béo, xơ thô, dẫn xuất không đạm của cỏ bộ Đậu nhiệt đới Stylosanthes hamata đều giảm theo giai đoạn tuổi (60, 70, 75 ngày). Mức độ giảm sự tiêu hóa theo giai đoạn sinh trƣởng của cỏ hòa thảo cao hơn so với cỏ bộ Đậu (Tiutiunhikov và Phadaev, 1985).
Giá trị dinh dƣỡng của hạt cũng có sự thay đổi theo giai đoạn thu hoạch. Theo Ilana và Valdemiro (1983) thì tỷ lệ protein thô trong hạt ngô giai đoạn 20 ngày sau thụ phấn là 13% trong vật chất khô, giai đoạn hạt già là 11,9%, hàm lƣợng lysine, giá trị sinh học của protein trong hạt cũng giảm đi.
Đây là sự thay đổi tỷ lệ các chất dinh dƣỡng theo mức độ phát triển để đáp ứng nhu cầu cây ở mỗi giai đoạn sinh lý của nó. Ví dụ: Thân lá cây ngô non có tỷ lệ vật chất khô 16,73%, tỷ lệ protein 14,05 % so với vật chất khô, trong khi thân lá cây ngô vừa đông sữa, không chỉ có lƣợng chất khô cao mà tỷ lệ protein theo vật chất khô cũng cao, đạt 27,4%. Cây họ Đậu khi đủ nụ hoa có giá trị dinh dƣỡng cao nhất.
1.1.3. Ảnh hƣởng của phân bón và đất trồng
Việc bón phân cũng nhƣ thành phần và tính chất của đất trồng có ảnh hƣởng rất lớn tới thành phần hóa học trong cây.
- Bón phân
Bón phân không chỉ làm nâng cao năng suất mà còn ảnh hƣởng đến thành phần hóa học và giá trị dinh dƣỡng của cây thức ăn. Bón phân đạm cung cấp Nitơ, là loại dinh dƣỡng quan trọng nhất để khai thác tiềm năng năng suất của cây trồng. Bón phân đạm thƣờng làm tăng hàm lƣợng protein thô, giảm bột đƣờng trong cây. Tuy nhiên, nếu bón phân đạm với liều cao quá, không cân đối với các thành phần dinh dƣỡng khác, nhất là bón trong điều kiện thiếu ánh sáng sẽ dẫn tới sự tích lũy nhiều nitrat, nitrit, amit có hại cho vật nuôi.
Theo Trechiakov và cộng sự (1984), bón 340 kg N/ha làm tăng protein trong cỏ hòa thảo lên 2 lần và làm tăng lƣợng N - nitrat lên 3 - 4 lần tùy theo lứa cắt so với đối chứng. Tuy nhiên, các nghiên cứu của cùng các tác giả trên lại cho biết nếu bón phân hữu cơ sẽ ít ảnh hƣởng đến quá trình tích lũy nitrat trong cây cỏ so với nitơ từ phân vô cơ.
Ảnh hƣởng của việc bón phân đạm đến thành phần protein trong cây còn phụ thuộc vào cƣờng độ chiếu sáng. Denium (1981) cho biết, khi cƣờng độ chiếu sáng là 32 watt/m2với các mức bón phân đạm 0, 100, 200 mgN/kg đất thì tỷ lệ protein trong lá tƣơng ứng 19,9; 20,3 và 18,3%; lƣợng N trong nitrat tƣơng ứng là 0,14; 1,09 và 1,61%. Khi cƣờng độ chiếu sáng 96 watt/m2thì protein tƣơng ứng là 16,8; 22,6 và 23,5%; lƣợng N - nitrat tƣơng ứng là 0,09; 0,35 và 0,72%. Nghĩa là, khi tăng cƣờng độ chiếu sáng sẽ làm tăng lƣợng protein tích lũy, nhƣng lại làm giảm N - nitrat. Đinh Huỳnh (1996) thí nghiệm tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh đã nhận thấy lƣợng nitrat trong
14
cỏ trồng vào mùa mƣa cao hơn so với mùa khô. Tác giả cũng cho biết: Sau mỗi lứa cắt, nếu tăng cƣờng bón phân đạm sẽ làm tăng lƣợng protein trong cỏ voi, cỏ sả, đồng thời cũng làm tăng lƣợng nitrat, nhất là khi bón sát ngày thu hoạch.
Trần Trang Nhung và cộng sự (2010) thí nghiệm thâm canh cỏ VA06 bằng phân bón điều hòa dinh dƣỡng cây trồng NEB - 26 cho biết: Khi tăng lƣợng bón ure với 3 mức 180; 220; 260 kg N/ha thì mức tích lũy nitrat cũng tăng dần qua 3 mức 529,76; 736,43; 943,09 mg/kg cỏ tƣơi và khi thay thế 50% mức bón N trong mỗi công thức bằng NEB - 26 thì lƣợng nitrat trong cỏ đều giảm đi.
Đối với cây thức ăn hạt, việc tăng cƣờng bón phân đạm cũng làm tăng protein trong hạt nhƣng lại làm giảm chất lƣợng hạt do làm giảm một số axit amin thiết yếu trong protein thô. Webb và cộng sự (1981) nhận thấy tỷ lệ protein trong hạt gạo tăng từ 9,3 lên 14,2% khi tăng lƣợng bón phân đạm từ 90 lên 402 kg N/ha, nhƣng đồng thời làm giảm lysine, threonine trong protein. Barber và cộng sự (1985) cũng nhận thấy hàm lƣợng lysine, threonine, methionine, cystine, tryptophan trong protein của gạo giảm khi protein tăng.
- Ảnh hưởng của thành phần và tính chất đất đai
Đất đai không chỉ cung cấp các chất dinh dƣỡng N, P, K cho cây trồng mà còn cung cấp rất nhiều các chất dinh dƣỡng khác. Đặc biệt, hàm lƣợng các chất khoáng đa, vi lƣợng trong cây chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ thành phần khoáng chất có trong đất. Tầng đá mẹ phát sinh đất rất khác nhau về chủng loại và tỷ lệ các khoáng chất, vì thế mỗi loại đất khác nhau sẽ có thành phần khoáng trong đất khác nhau, từ đó ảnh hƣởng trực tiếp tới cây trồng thông qua sự trao đổi khoáng chất giữa cây và đất trồng. Cây trồng sử dụng các chất dinh dƣỡng trong đất để cấu tạo chất nguyên sinh trong tế bào, cấu tạo màng tế bào, tích lũy các vật chất dinh dƣỡng trong các sản phẩm của cây trồng... (Nguyễn Ngọc Nông, 1999). Cây trồng không chỉ hút các chất dinh dƣỡng từ đất mà còn nhả ra đất một số chất dinh dƣỡng nhất định, mối quan hệ 2 chiều này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tính chất đất nhƣ: Cấu tƣợng đất, độ thoáng của đất, nhiệt độ và độ ẩm đất...
McDowell và Conrad (1978) khi phân tích 2615 mẫu cỏ đã cho biết có đến 53% số mẫu thiếu cô ban, 35% thiếu magie, 75% thiếu phốt pho, 60% thiếu natri, 75% thiếu kẽm so với nhu cầu tối thiểu của gia súc. Các tác giả cho rằng thành phần khoáng trong cây không chỉ phụ thuộc vào đất trồng, giai đoạn sinh trƣởng của cây, năng suất đồng cỏ, khí hậu..., mà còn phụ thuộc chủ yếu vào hàm lƣợng của các chất khoáng trong đất. Từ kết quả của Vijchulata và cộng sự (1983) phân tích thành phần khoáng trong thức ăn, trong máu, trong gan của trâu bò ở vùng miền trung Thái Lan cho thấy trong thức ăn ở vùng này thiếu canxi, phốt pho, natri, đồng, kẽm so với nhu cầu tối thiểu. Cũng cần phải thấy rằng hệ thống khoáng trong đất khác với hệ thống khoáng trong cây trồng, cho nên từ thành phần khoáng trong đất chƣa có thể dự đoán đƣợc thành phần khoáng trong thức ăn cho gia súc, vì tƣơng quan giữa chúng rất thấp (Tegada và cộng sự (1985).
15
1.1.4. Ảnh hƣởng của mùa vụ
Mùa vụ trồng khác nhau bị chi phối bởi các yếu tố thời tiết chính là nhiệt độ, ẩm độ, lƣợng mƣa... trong đó yếu tố chủ đạo là nhiệt độ môi trƣờng do thay đổi số giờ chiếu sáng và cƣờng độ chiếu sáng của mặt trời, dẫn tới sự khác nhau trong phản ứng của cây trồng, từ đó ảnh hƣởng tới sự tích lũy vật chất dinh dƣỡng trong các bộ phận của cây.
Campbell và Davididson (1979) nghiên cứu thấy hàm lƣợng protein thô trong hạt lúa mỳ trồng ở nhiệt độ đất 27/12oC cao hơn so với nhiệt độ 22/12oC có nghĩa rằng nhiệt độ đất đã ảnh hƣởng tới sự tích lũy protein trong hạt. Tác giả nhận thấy yếu tố quan trọng ảnh hƣởng đến lƣợng protein trong hạt là nhiệt độ. Ford và cộng sự (1979) nghiên cứu ảnh hƣởng của nhiệt độ trồng khác nhau (21/13oC, 27/19oC, 34/24oC) đến thành phần lignin, cellulose, hemicellulose của 13 giống cỏ nhiệt đới và 11 giống cỏ ôn đới thấy NDF ở cỏ nhiệt đới giảm chủ yếu phần cellulose, còn hemicellulose và lignin có xu hƣớng tăng khi tăng nhiệt độ trồng; còn ở cỏ ôn đới thì cả hàm lƣợng cellulose, hemicellulose và lignin đều tăng khi tăng nhiệt độ trồng.
Tăng nhiệt độ trồng làm giảm tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dƣỡng của cỏ ôn đới xuống 6 đơn vị, nhƣng lại ảnh hƣởng không nhiều đến sự tiêu hóa chất dinh dƣỡng ở cỏ nhiệt đới. Theo Wilson và Ford (1971) thì năng suất thân, lá, rễ của một số cỏ nhiệt đới (cỏ Ghine, cỏ chỉ) tăng khi tăng nhiệt độ trồng (15,6/10oC, 21,1/15,6oC, 16,7/21,1oC, 32,2/26,7oC) trong khi đó, lƣợng protein trong thân lá lại giảm. Denium (1981) cũng nhận thấy protein thô, bột đƣờng dễ tan trong cỏ nhiệt đới giảm, còn xơ thô tăng khi tăng nhiệt độ trồng. Tăng cƣờng độ chiếu sáng làm giảm lƣợng protein thô, nitơ - nitrat trong cỏ nhiệt đới cũng nhƣ cỏ ôn đới, nhƣng lại làm tăng hàm lƣợng tinh bột dự trữ.
1.2. THỨC ĂN THÔ XANH VÀ PHẾ PHỤ PHẨM NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Thức ăn xanh
1.2.1.1. Tiềm năng nguồn thức ăn xanh ở khu vực trung du miền núi phía Bắc Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi nƣớc ta phát triển với tốc độ khá nhanh. Số lƣợng đầu lợn và gia cầm tăng nhanh đem lại hiệu quả kinh tế cao cho ngƣời chăn nuôi. Bên cạnh sự phát triển chăn nuôi lợn và gia cầm thì chăn nuôi gia súc nhai lại; trâu, bò, dê... cũng ngày càng phát triển mạnh.
Theo Phùng Quốc Quảng (2002) thống kê thì trên 96% số gia súc nhƣ trâu bò, dê, lợn và trên 75% vật nuôi nói chung hiện có trong chăn nuôi là ở các hộ nông dân. Đặc biệt là nông dân miền núi và trung du là nơi chăn nuôi và cung cấp phần lớn sản phẩm về trâu, bò, dê cho cả nƣớc. Vì vậy, giải quyết nguồn thức ăn xanh đủ và đều cho gia súc là vấn đề luôn có tính thời sự để ổn định và phát triển chăn nuôi ở địa bàn chiến lƣợc này.
Khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam là nơi có hệ thống canh tác và hệ thống sinh thái rất đa dạng, cho nên nguồn thức ăn xanh cho vật nuôi cũng rất phong phú
16
và đƣợc cung cấp từ nhiều nguồn gốc khác nhau: Gồm cỏ hòa thảo tự nhiên và cỏ hòa thảo trồng. Cỏ bộ Đậu tự nhiên và cỏ bộ Đậu trồng. Các loại cây thuộc các họ thực vật (họ Ráy, họ Bầu bí, họ Khoai...). Các cây thân bụi, thân gỗ (mít, sung, ngái, dƣớng và nhiều loại cây bản địa khác...) Các loại rau xanh, và các loại thực vật thủy sinh: Rau, bèo, rong tảo. Mỗi loại tùy thuộc nguồn gốc, mà chúng phân bố tập trung hay tản mạn. Nhóm thức ăn này bao gồm thân lá của các loại cây, cỏ trồng, cây cỏ mọc tự nhiên cả ở trên cạn và dƣới nƣớc, nó là nguồn thức ăn quan trọng cho các đối tƣợng vật nuôi ở nƣớc ta, nhất là chăn nuôi nhỏ lẻ trong các nông hộ và hầu hết đƣợc vật nuôi sử dụng ở trạng thái tƣơi. Loại thức ăn này chiếm tỷ lệ cao trong khẩu phần loài nhai lại, các vật nuôi ăn cỏ.
Nhóm thức ăn xanh chứa hầu hết các chất dinh dƣỡng cần cho vật nuôi nhƣ protein, hydratcarbon, vitamin, các chất khoáng đa lƣợng và vi lƣợng thiết yếu. Ngoài ra, chúng còn cung cấp các chất có hoạt tính sinh học cao nhƣ hormone thực vật, các chất kích thích...
Với đặc điểm là khu vực đất rộng bởi diện tích chăn thả lớn tới 150.000 ha, chiếm 1/3 diện tích bãi chăn trên toàn quốc, ngƣời thƣa, địa bàn trung du và miền núi phía Bắc từ xƣa tới nay luôn là khu vực đƣợc xác định có thế mạnh phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại. Khu vực này cũng sẵn có các bãi chăn, đồng cỏ tự nhiên hình thành dƣới tán rừng, trên các khu vực canh tác bị bỏ hóa do thiếu nƣớc, độ màu mỡ của đất giảm, không còn thích hợp với trồng cây lƣơng thực. Trên các diện tích này các loài cỏ tự nhiên phát triển mạnh nhƣ: Cỏ tranh, cỏ chỉ, cỏ lá tre, cỏ mật, cỏ mần trầu,... Tuy các số liệu cụ thể về diện tích, năng suất, sản lƣợng cỏ tự nhiên không đƣợc thống kê, nhƣng trên thực tế đàn vật nuôi ăn cỏ (Trâu, bò dê, ngựa) trong khu vực vẫn tăng trƣởng đều qua các năm từ chính nguồn thức ăn tự nhiên này, bất chấp sự thu hẹp diện tích đồng cỏ. Đây là một minh chứng thực tế cho tiềm năng của nguồn thức ăn xanh là cỏ tự nhiên.
Hiện nay, do công tác giao đất giao rừng tới tay ngƣời lao động triển khai ở hầu khắp các địa phƣơng, diện tích bãi chăn ngày càng có xu hƣớng thu hẹp, hơn nữa đồng cỏ không đƣợc cải tạo, chăm sóc nên thoái hóa, năng suất thấp. Đứng trƣớc thực trạng này, nhiều nơi đã thực hiện các dự án phát triển các loại cỏ trồng năng suất cao nhƣ: Cỏ voi, cỏ VA06, cỏ Ghine, cỏ Goatêmala, cỏ Stylo... diện tích trồng cỏ của các địa phƣơng trong khu vực không ngừng tăng qua các năm. Đặc biệt, những khu vực mang sắc thái khí hậu ôn đới lại có địa hình bằng phẳng nhƣ cao nguyên Mộc Châu là địa bàn lý tƣởng để thâm canh cỏ trồng nuôi bò sữa. Ở đây đã trở thành thủ phủ bò sữa Việt Nam với những cánh đồng chăn thả và cỏ cắt rộng lớn.
Ở những nơi có lợi thế mặt nƣớc hoặc chủ động nƣớc hình thành các diện tích mặt nƣớc lại có sự phân bố rất phong phú của các loài thực vật thủy sinh, trong đó có rất nhiều loài đƣợc sử dụng làm thức ăn vật nuôi nhƣ: Rau dừa nƣớc, rau muống, bèo tây, bèo cái, khoai nƣớc, rong, rêu, tảo... Các loại thức ăn thủy sinh có đặc điểm sinh trƣởng rất nhanh trong điều kiện ngập nƣớc, đƣợc ngƣời dân thu hái, sử dụng làm thức ăn xanh chủ yếu cho nhiều đối tƣợng vật nuôi và thích hợp với điều kiện của mọi mùa vụ trong năm.
17
Cũng chính sự đa dạng về các điều kiện địa lý khu vực, đã tạo nên sự đa dạng, phong phú về hệ thống cây làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Các giống cây này vừa có nguồn gốc tự nhiên lại vừa do con ngƣời chủ động trồng cấy, chúng đóng vai trò rất lớn trong sản xuất và đời sống của ngƣời dân miền núi nhƣ các giống chuối hột, chuối tây, chuối rừng, không chỉ cung cấp quả ăn mà còn là nguồn thức ăn xanh quan trọng, nhiều khi mang tính chủ lực để duy trì chăn nuôi lợn, trâu bò trong vụ khan hiếm thức ăn ở nhiều gia đình, nhất là ở những vùng xa, vùng sâu. Ở những khu này, ngƣời dân còn tận dụng nguồn cây rừng có thể sử dụng làm thức ăn cho vật nuôi nhƣ cây mùng rừng, các cây thân gỗ có lá làm thức ăn nhƣ: Cây ngõa, cây dƣớng, cây mạy tèo, mạy hu... Đây là những giống cây có khả năng thích ứng cao với điều kiện tự nhiên, khả năng chống chịu tốt, đƣợc ngƣời dân gìn giữ, bảo vệ để thu hái lá nuôi gia súc...
Tuy nhiên, những nghiên cứu về sự phân bố, đặc điểm sinh học và thành phần hóa học của các loài cây này còn hạn chế. Chính sự hạn chế đó đã gây ảnh hƣởng đến ứng dụng trong khoa học về thức ăn, dinh dƣỡng cho vật nuôi và là một trong những nguyên nhân làm hạn chế phát triển chăn nuôi của khu vực.
Mặc dù thức ăn xanh phong phú, đa dạng và khá dồi dào, nhƣng để sử dụng chúng một cách hiệu quả, ngƣời chăn nuôi phải biết tận dụng triệt để nguồn thức ăn đó và phát huy tối đa tác dụng của chúng, thông qua kết hợp một cách có hiệu quả trong phối hợp khẩu phần ăn của vật nuôi. Đây là vấn đề không đơn giản. Thức ăn xanh hầu hết đều sinh trƣởng mạnh vào mùa mƣa, còn mùa khô thì hầu nhƣ không phát triển, do đó, cần phải có biện pháp bảo quản, chế biến, dự trữ để cung cấp đủ và rải đều quanh năm cho vật nuôi, đặc biệt là gia súc nhai lại. Đây là nguồn thức ăn tiềm tàng, có khối lƣợng lớn, nếu đƣợc sử dụng có hiệu quả hơn thì nhất định sẽ thúc đẩy ngành chăn nuôi khu vực phát triển bền vững, đem lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao hơn.
1.2.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng
Thức ăn xanh là loại thức ăn chứa nhiều nƣớc, chiếm tới 70 - 90% khối lƣợng tƣơi, khá nhiều chất xơ (gồm cellulose, hemicenlulose), tinh bột và đƣờng dễ tan trong vật chất khô. Mỗi giai đoạn khác nhau thì chúng có tỷ lệ xơ khác nhau, tỷ lệ xơ trung bình ở giai đoạn còn non là 2 - 3%, còn ở giai đoạn trƣởng thành là 6 - 8% (Vũ Duy Giảng và cộng sự, 1999).
Chất khô trong thức ăn xanh tuy không cao nhƣng chứa đủ các chất dinh dƣỡng cần thiết cho động vật và khá cân đối, lại dễ tiêu hóa (trên 70% ở loài nhai lại, còn ở lợn là khoảng 60 - 70%) và có tính ngon miệng cao (Từ Quang Hiển và cộng sự, 2000).
Protein trong vật chất khô của thức ăn xanh biến động khá cao, hàm lƣợng thay đổi nhiều phụ thuộc bộ phận của cây, tuổi thu hái, trạng thái non hay già. Theo Viện Chăn nuôi Quốc gia (2001), hàm lƣợng axit amin trong protein biến động rất lớn và phụ thuộc vào giống, giai đoạn sinh trƣởng, điều kiện kỹ thuật canh tác, loại cây trồng. Hàm lƣợng lyzin trong cỏ hòa thảo (0,59 - 1,68 g/kg VCK) rất khác cỏ bộ Đậu (1,2 - 8,8 g/kg VCK).
18
Thức ăn xanh đƣợc coi là nguồn cung cấp quan trọng các chất có hoạt tính sinh học cao nhƣ các loại khoáng đa, vi lƣợng, các loại vitamin quan trọng nhất cho vật nuôi (nhiều caroten, vitamin B, vitamin C, đặc biệt là vitamin B2 và vitamin E) nhƣng hàm lƣợng lipit thấp dƣới 4% tính theo vật chất khô và chủ yếu là các axit béo chƣa no, hàm lƣợng đƣờng biến động khoảng 40 - 300g/kg VCK phụ thuộc vào giống, loài, tuổi thu hái. Hàm lƣợng đƣờng ở trong thân cao hơn ở lá, khi cây cỏ ra hoa hàm lƣợng đƣờng đạt cao nhất.
Thức ăn xanh chiếm tỷ lệ khá cao trong khẩu phần ăn của gia súc: Ở loài nhai lại chiếm tới 70 - 100%; lợn: 20 - 40%, gia cầm: 5 - 10%. Hàng ngày một lợn nái cần cung cấp đủ 4 - 8 kg tùy theo giống, 1 lợn thịt cần cho ăn 2 - 4 kg tùy theo lứa tuổi.
Thành phần hóa học và giá trị dinh dƣỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây trồng, mùa vụ, độ phì nhiêu của đất, các loại phân bón khác nhau, đƣợc sử dụng ở mùa vụ khác nhau, điều kiện thu hoạch và kỹ thuật thu hoạch, bảo quản và chế biến dự trữ... Khi thu hoạch đúng thời vụ sẽ đảm bảo đƣợc giá trị dinh dƣỡng cao. Nếu thu hoạch sớm thì ít xơ, nhiều nƣớc, hàm lƣợng vật chất khô giảm. Ngƣợc lại nếu thu hoạch quá muộn hàm lƣợng nƣớc sẽ giảm, vật chất khô tăng và chủ yếu tăng chất xơ, còn lipit và protein giảm.
Cây thức ăn xanh dễ trồng, không kén đất và cho năng suất xanh cao. Ví dụ: 1 ha rau muống cho 50 - 70 tấn, 1 ha bèo dâu cho 350 tấn, 1 ha cỏ voi cho 150 - 300 tấn, 1 ha cỏ VA06 cho 300 - 500 tấn/năm. Năng suất xanh cao hay thấp là tùy thuộc mùa vụ trồng, vào mức độ dinh dƣỡng đất, phân bón, vào điều kiện tƣới tiêu hay tuổi thu hái...
Do nhiều nƣớc nên tổng lƣợng các chất dinh dƣỡng trong thức ăn xanh thƣờng thấp và vì vậy giá trị dinh dƣỡng thấp (4,5 kg cỏ voi tƣơi mới cho lƣợng chất khô bằng 1kg cám gạo, hơn 5kg cỏ Ghine mới cho lƣợng protein bằng 1kg cám gạo), trừ một số loại thân lá cây bộ Đậu có hàm lƣợng protein thô khá cao tuy nhiên chúng không cân đối về axit amin.
Nếu tính theo trạng thái khô, một số loại thức ăn xanh có hàm lƣợng protein khá cao, chúng có thể sử dụng để chế biến thành dạnh bột lá, bột cỏ khô có giá trị cung cấp protein. Ví dụ: Bột thân lá họ Đậu: 22 - 25%; bột lá sắn: 25 - 30%; bột lá keo dậu: 20 - 24%; bột lá chè đại: 21 - 24%; bột lá khoai lang 20 - 30% và bột cỏ stylô: 20 - 25% protein thô tính theo vật chất khô.
Hàm lƣợng chất khoáng trong thức ăn xanh thay đổi tùy theo loại thức ăn, tính chất đất đai, chế độ bón phân và tuổi thu cắt. Nói chung, thân lá họ Đậu có hàm lƣợng khoáng tổng số cao hơn thân lá họ Hòa thảo
1.2.1.3. Những điểm cần chú ý khi sử dụng thức ăn xanh
Thu hoạch đúng tuổi sinh trƣởng, đúng thời điểm phát triển của cây là điều kiện quan trọng để đảm bảo giá trị dinh dƣỡng cao. Nếu thu hoạch quá muộn hàm lƣợng nƣớc giảm, vật chất khô tăng nhƣng chủ yếu tăng chất xơ, còn lipit và protein giảm.
19
Tuổi thu cắt thích hợp với các loại rau xanh nói chung sau khi trồng là 1 - 1,5 tháng, thân lá cây ngô thu hoạch trƣớc khi trổ cờ, thân lá họ Đậu thu hoạch vào thời gian ngậm nụ trƣớc khi ra hoa. Rau muống, rau lấp sau khi trồng 20 - 25 ngày thu hoạch lứa 1, sau 15 ngày thu hoạch lứa tiếp theo. Các loại cỏ hòa thảo trồng tùy theo giống mà thu hoạch trong khoảng 30 - 40 ngày kể từ khi trồng.
Đề phòng một số chất có sẵn trong thức ăn: lá sắn, cây cao lƣơng, cỏ Xu đăng... có độc tố sản sinh axit cyanhydric (HCN). Gia súc khi bị nhiễm độc HCN thì sắc tố hô hấp (Hemoglobin - Hb) trong máu bị phong bế, chúng chuyển về dạng gọi là Methemoglobin (Hb - OH) làm cho hồng cầu không vận chuyển đƣợc oxy. Hàm lƣợng HCN trong cây thƣờng cao hơn ở giai đoạn còn non và giảm dần ở giai đoạn trƣởng thành. Vì vậy, sử dụng các loại thức ăn này ở giai đoạn chín sáp, hoặc nấu chín, hoặc thông qua các giải pháp chế biến để khử bớt độc tố là cách tốt nhất. Cỏ Medicago (Medicago sativa; Luzec), điền thanh là những cây thuộc bộ Đậu có chất saponin, nếu cho con vật ăn nhiều sẽ mắc chứng chƣớng bụng đầy hơi do sức căng mặt ngoài của bọt saponin quá lớn làm khí không thoát đƣợc khi trâu bò ợ hơi, nên dùng với số lƣợng vừa phải và trộn với các loại thức ăn khác. Một cây bộ Đậu khác có chứa các các độc tố nhóm alkaloid hoặc các axit amin bất thƣờng có tác dụng độc. Cây keo dậu là cây bộ Đậu chứa độc tố mimosine làm cho gia súc ngộ độc, tình trạng ngộ độc chính là làm rối loạn hoạt động tuyến giáp, làm giảm tác dụng của thyroxyn tuyến giáp. Giải pháp loại trừ mimosine trong lá keo dậu tƣơi bằng cách ngâm nƣớc trƣớc khi ăn hoặc trộn thêm sunfat sắt (FeSO4) với lƣợng 0,2% đã làm giảm độc tố 34% so với ban đầu (Từ Quang Hiển và cộng sự, 2005) hoặc cho ăn với lƣợng hợp lý. Một số loại cây thuộc họ Hoa thập tự nhƣ cải bắp, cải ba lá trắng chứa phitoshormone có thể gây kích thích tăng trọng, bầu vú phát triển, sữa nhiều. Nếu ăn nhiều dễ sảy thai hay sa tử cung sau khi đẻ. Lá cải bắp già chứa chất kháng vitamin B1 (Anti - thiamine) nếu cho ăn nhiều trong thời gian dài dễ làm gia súc chán ăn. Ngoài ra, trong một số cây thức ăn xanh thƣờng chứa NO3-dƣới dạng KNO3 khoảng 1 - 1,5%. Nếu hàm lƣợng NO3-quá cao sẽ làm cho con vật ngộ độc hô hấp mà chết. Triệu chứng ngộ độc là con vật thở gấp, run rẩy, sùi bọt mép, khó thở, máu có màu thẫm, hàm lƣợng NO3- trong nƣớc tiểu tăng. Biện pháp giải độc: Dùng dung dịch xanh methylen 2 - 4%, vitamin C 5% tiêm vào tĩnh mạch con vật.
Nên đảm bảo tỷ lệ thích hợp thức ăn xanh trong khẩu phần:
- Lợn 20 - 30% tính theo đơn vị khẩu phần.
- Trâu bò (cao sản): 70 - 80% tính theo đơn vị khẩu phần.
- Trâu bò (thấp sản): 100% tính theo đơn vị khẩu phần.
- Gia cầm lớn: 5 - 10% tính theo đơn vị khẩu phần (dạng tƣơi).
- Gà thịt: 2% tính theo đơn vị khẩu phần (dạng bột).
- Gia cầm khác: 4 - 6% tính theo đơn vị khẩu phần (dạng bột).
20
1.2.1.4. Đặc điểm những loại thức ăn xanh phổ biến nhất
- Cỏ hòa thảo: Điều kiện khí hậu vùng trung du miền núi phía Bắc thuận lợi cho sự phát triển cây cỏ hòa thảo nhiệt đới. Bên cạnh nhóm cỏ hòa thảo chủ lực có nguồn gốc tự nhiên ở miền núi khá phong phú nhƣ cỏ tranh, cỏ lá tre, cỏ chít, cỏ mần trầu... thì các địa phƣơng cũng đã du nhập nhiều giống cỏ hòa thảo nhƣ cỏ mộc châu, cỏ voi, cỏ pangola, cỏ guatemala... làm phong phú thêm tập đoàn cỏ hòa thảo của khu vực. Nếu đảm bảo cung cấp đầy đủ nhu cầu phân bón và nƣớc thì cỏ hòa thảo phát triển rất nhanh, đạt năng suất cao. Tuy nhiên, vào mùa đông, sự sinh trƣởng của cỏ hết sức hạn chế. Điều kiện khô hạn của mùa đông có thể làm cho cỏ chết lụi, dẫn tới tình trạng thiếu trầm trọng thức ăn xanh cho gia súc nhai lại. Nhìn chung, giá trị dinh dƣỡng của cỏ hòa thảo thấp hơn cỏ họ Đậu. Hàm lƣợng protein chiếm khoảng 9 - 10%, xơ thô 30 - 32% (theo vật chất khô). Tuy nhiên, nếu bón phân đầy đủ, đúng kỹ thuật và thu hoạch giai đoạn còn non (khoảng cách giữa 2 lứa cắt 25 - 30 ngày) thì protein thô có thể đạt 14 - 15%, xơ thô giảm còn 27 - 28% và có thể dùng làm thức ăn cho lợn. Hiện nay, hầu hết các địa phƣơng miền núi và trung du phía Bắc đều phát triển các giống cỏ hòa thảo năng suất cao nhƣ cỏ voi (Pennisetum purpureum), cỏ Ghine (Panicum maximum), cỏ voi lai (King grass), cỏ Brizantha... để chăn nuôi trâu, bò thâm canh, đặc biệt là bò sữa. Một số giống cỏ hòa thảo nhập nội đƣợc chọn lọc và theo dõi thích nghi trên địa bàn miền núi, đã và đang mở ra triển vọng nhân rộng trong khu vực nhƣ Brachiaria Decumbens, Brachiaria Brizantha, Ghine TD - 58, (Paspalum Atratum), VA06... (Từ Trung Kiên và cộng sự, 2010).
Đặc điểm một số giống cỏ mới đƣa vào sản xuất ở vùng TDMNPB: + Cỏ Vasrime số 6 (Cỏ VA06): Giống cỏ VA06 là giống đƣợc lai tạo giữa giống cỏ voi và cỏ đuôi sói của châu Mỹ, đƣợc đánh giá là “Vua các loài cỏ”. Cỏ VA06 dạng nhƣ cây trúc, thân thảo, cao lớn, dạng bụi, mọc thẳng, năng suất cao, chất lƣợng tốt, phiến lá rộng mềm, có hàm lƣợng dinh dƣỡng cao, khẩu vị ngon, hệ số tiêu hóa cao. Protein của cỏ VA06 có 17 loại axit amin và nhiều loại vitamin, ở trạng thái cỏ tƣơi, hàm lƣợng protein thô là 4,6%, protein tinh 3%, đƣờng 3,02%, còn trong cỏ khô hàm lƣợng protein thô là 18,46%, protein tinh 16,86%, đƣờng tổng số 8,3%. Cỏ VA06 vừa có thể làm thức ăn tƣơi, làm thức ăn ủ chua, phơi khô hoặc làm bột cỏ để nuôi bò thịt, bò sữa.
VA06 có thể trồng đƣợc ở hầu hết các loại đất, kể cả đất cát sỏi, đất mặn, kiềm nhẹ, chịu đƣợc pH =4,5. Trên đất khô hạn, đất đọng nƣớc, đất dốc, đất bằng, đất ven đê... đều có thể sử dụng để trồng loại cỏ này.
Giống cỏ VA06 yêu cầu các điều kiện môi trƣờng nhƣ sau: Số ngày nắng/năm trên 100 ngày, độ cao so với mặt biển dƣới 1500 m, nhiệt độ môi trƣờng bình quân 15oC, lƣợng mƣa/năm trên 800mm, số ngày không sƣơng muối/năm trên 300 ngày. Do phổ
21
thích nghi rộng, sức chống chịu tốt nên tỷ lệ sống sau trồng đạt rất cao, nói chung trên 98%, ngay trên vùng đất thấp ẩm ƣớt và rét tỷ lệ sống vẫn đạt trên 90%.
Năng suất cỏ đạt rất cao: Trung bình 50 - 70 tấn/lần cắt, sản lƣợng 225 - 375 tấn/năm/ha. Nếu thâm canh cao có thể đạt 480 tấn/ha/năm. Khả năng lƣu gốc khá lâu 6 - 7 năm. Loại cỏ trồng này ít sâu bệnh.
+ Cỏ King grass (Cỏ vua, cỏ voi lai): King grass thuộc họ Hòa thảo thân đứng (có thể cao 4 - 6 m). Cỏ có nhiều đốt nhƣ cây mía, lá rậm, sinh trƣởng nhanh. King grass yêu cầu về đất tƣơng đối khắt khe: Ƣa đất màu, giàu dinh dƣỡng và thoáng khí, có tầng canh tác sâu, pH 6 - 7, không ƣa đất cát và không chịu đƣợc ngập úng nhƣng chịu đƣợc khô hạn khá tốt.
Giai đoạn sinh trƣởng chính vào mùa hè khi nhiệt độ và độ ẩm lớn. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trƣởng là từ 22 - 25oC với lƣợng mƣa trung bình 1500 mm/năm. Khi khô hạn kéo dài hoặc khi sƣơng muối thì quá trình sinh trƣởng ngừng lại.
Kinh grass là giống cỏ thích hợp với chăn nuôi gia súc nhai lại theo quy mô trang trại vì có khả năng trồng trên diện tích lớn với mức độ thâm canh cao. Cỏ có thể dùng làm thức ăn bổ sung tại chuồng hoặc ủ chua dự trữ.
Là giống cỏ có năng suất cao tùy theo trình độ thâm canh, năng suất có thể biến động từ 100 tấn đến 300 tấn/ha/năm, thậm chí một số nơi đạt 400 - 500 tấn/ha/năm. + Cỏ Panicum Maximum Ghine TD58 (Ghine TD58): Cỏ Ghine TD58 là giống cỏ có nguồn gốc từ châu Phi, đƣợc lai tạo giữa cỏ Ghine thuần với cỏ hòa thảo khác và đƣợc chọn giống lâu năm, thân bụi, đẻ nhánh trên mặt đất, lá có bẹ ôm lấy thân, cả lá và bẹ lá đều có lông, bẹ lá gần gốc không có màu tím nhƣ cỏ Tây Nghệ An. Cỏ cho năng suất xanh cao (trên 100 tấn/ha/năm) trong điều kiện đất tốt. Cỏ lâu ra hoa, khi có hoa thì ra đồng loạt, hạt chắc, có tỷ lệ nảy mầm cao, vì vậy có thể trồng bằng gốc hoặc bằng hạt đều tốt. Cỏ có thể trồng thuần thu cắt nhiều lứa/năm, có thể trồng xen với cỏ họ Đậu khác, chịu đƣợc bóng, chịu đƣợc hạn và ƣa nóng ẩm. Tỷ lệ thân/lá là 1/7, cụm hoa hình chuông là đặc trƣng của cỏ, bộ rễ có nhiều nhánh, phát triển rất mạnh.
Cỏ phát triển thành cụm to dạng phễu hứng đƣợc mƣa nên có khả năng chống hạn cao. Nhiệt độ thích hợp cho cây cỏ sinh trƣởng là từ 19,1 - 22,9oC nhƣng không chịu đƣợc sƣơng muối nặng. Cỏ sinh trƣởng tốt trong những vùng có lƣợng mƣa từ 800 - 1800mm/năm.
Cỏ sống và sinh trƣởng tốt trên nhiều loại đất, nhƣng ƣa đất nhiều màu và đất phù sa, nhiều canxi, oxyt sắt, đất tiêu nƣớc tốt. Tốt nhất là ở pH - 6, không chịu đƣợc ẩm kéo dài, chịu đƣợc đất mặn nhẹ.
Là cây phản ứng với ánh sáng ngày ngắn và tƣơng đối chịu bóng.
Có thể mọc ở những nơi cao hơn mặt biển 2500 m.
22
Năng suất đạt 80 - 150 tấn/ha/năm, ở đất tốt, thâm canh cao có thể đạt 200 tấn/ha/năm. Có thể thu cắt chất xanh 7 - 9 lứa/năm, hàm lƣợng vật chất khô 8 - 21%, proteine thô 9 - 11% trong vật chất khô.
+ Cỏ Paspalum atratum: Cỏ P. Atratum có nguồn gốc ở phía bắc Brazil và Argentina, hiện đƣợc trồng nhiều nơi trên thế giới, nhiệt độ thích hợp từ 25 - 30oC, lƣợng mƣa là 750mm/năm trở lên. Đây là giống cỏ vừa có khả năng chịu hạn, chịu úng tốt, đất khô cằn vẫn cho năng suất khá cao. P. Atratum là giống cỏ lâu năm, thân bụi, đẻ nhánh trên mặt đất, thân không cao và chia lóng nhƣ một số loại cỏ hòa thảo khác, lá xuất phát từ gốc lên không có bẹ lá ôm lấy thân nhƣ một số cỏ thân cao chia lóng. Lá có màu xanh đậm, dày và dài nên gia súc nhai lại không thích ăn bằng các giống cỏ khác. Tuy nhiên, đây là giống cỏ thân cao nên rất thích hợp cho việc thu cắt để chăn nuôi theo kiểu nuôi nhốt. Cỏ có thể trồng bằng hạt, bằng gốc, năng suất bình quân đạt trên 140 tấn/ha/năm.
+ Cỏ Brachiaria mulato II: Cỏ Brachiaria Mulato II đƣợc cơ quan CIAT tại Colombia tạo ra lai tạo từ các giống B.Ruziziensis × B.Brizantha × B.Decumbens,. Cỏ có đặc điểm:
- Chịu hạn rất tốt,
- Có hàm lƣợng dinh dƣỡng cao: CP=12%VCK,
- Khả năng tận dụng của gia súc đƣợc nhiều hơn các loại cỏ khác,
- Cho năng suất cao, >100 tấn/ha/năm.
- Có thể cho ăn tƣơi hoặc cắt phơi khô dự trữ mùa đông tốt.
Hiện nay, cỏ đƣợc nhập về Việt Nam dƣới dạng hạt và trồng thử nghiệm ở một số nơi, bƣớc đầu cho kết quả khá tốt.
Nhƣợc điểm: Hạt giống nhập nội trong điều kiện bảo quản lâu nên giá thành đắt và tỷ lệ nảy mầm kém.
+ Cỏ Brachiaria brizantha: B. Brizantha có nguồn gốc từ châu Phi, thích nghi cao ở vùng nhiệt đới ẩm. Hiện nay, các dòng chọn lọc trong thí nghiệm đã đƣợc giới thiệu và trồng ở nhiều nƣớc trên thế giới, nhiệt độ thích hợp từ 25 - 30oC, mùa đông vẫn sinh trƣởng đƣợc ở nơi có độ ẩm cao trên 3000m so với mặt biển, chịu hạn tốt nhƣng không chịu úng, thích ứng với nhiều loại đất khác nhau, kể cả đất xấu, đất hơi chua, nhƣng cho năng suất cao ở đất tốt, đủ ẩm, độ pH trung tính.
B. Brizantha là cỏ thân bụi thấp, đẻ nhánh trên mặt đất, thân có nhiều đốt, lá có bẹ ôm lấy thân, bẹ lá và lá có nhiều lông nhỏ, mịn, mềm, vì vậy gia súc thích ăn. Cỏ đƣợc trồng chủ yếu bằng gốc, năng suất đạt từ 80 - 140 tấn/ha/năm trong điều kiện đất tốt, bình quân đạt dƣới 60 tấn/ha/năm, tỷ lệ protein thô từ 8 - 15% trong vật chất khô.
Cỏ B. Brizantha 6387 (còn gọi là cỏ Mulato), là cỏ lai giữa cỏ B. Brizantha với cỏ Ruzi, cỏ này có đặc tính thực vật tƣơng tự B. Brizantha nhƣng bẹ và lá có nhiều lông, thân có màu xanh nhạt và cao hơn. Đây là giống cỏ đang trong quá trình thử nghiệm.
23
+ Cỏ Brachiaria decumbens: Có nguồn gốc từ châu Phi, các dòng của giống đƣợc giới thiệu và trồng ở nhiều nƣớc trên thế giới, đặc biệt là những nƣớc á nhiệt đới và nhiệt đới. Cỏ nhập vào Việt Nam cùng với nhiều dòng Brachiaria khác.
Cỏ Brachiaria decumbens sinh trƣởng tốt trong vụ Xuân hè, nhiệt độ thích hợp từ 25 - 30oC, chịu đựng sƣơng giá tốt, mùa đông vẫn sinh trƣởng đƣợc, nhu cầu lƣợng mƣa trên 1500mm/năm, khả năng chịu hạn tốt, không chịu úng, ƣa đất xốp, đủ ẩm, nhƣng cũng chịu đƣợc điều kiện đất khô cằn và chua.
Cỏ Brachiaria decumbens có dạng thân bò hoặc nửa bò nửa bụi, thân có lóng ngắn, lá có bẹ ôm lấy thân, phiến lá nhỏ, ngắn và mỏng, thân lá mềm nên gia súc thích ăn, dễ phơi khô dự trữ.
Khi cỏ trồng trên đất tốt đƣợc thâm canh cao, năng suất đạt trên 80 tấn/ha/năm; đất trung bình thâm canh vừa phải đạt khoảng 60 tấn/ha/năm. Năng suất VCK đạt 6 - 36 tấn/ha/năm tùy theo mức độ đầu tƣ. Tỷ lệ protein thô từ 5 - 15%, tỷ lệ tiêu hóa 50 - 70% tùy theo độ tuổi (R.Schultze - Kraft, 1992). Cỏ đƣợc trồng bằng gốc vì sản suất hạt rất khó trong điều kiện khí hậu nhƣ của Việt Nam.
Hiện nay, giống B. decumbens 1873 là cỏ lai giữa cỏ Pangola với B. decumbens, có đặc tính thực vật tƣơng tự nhƣ giống cỏ này, ngoài ra cỏ đang là giống trồng thử nghiệm theo dõi năng suất và các đặc tính khác.
+ Cỏ Stylosanthes gracilis: Có nguồn gốc từ châu Mỹ, châu Phi, đƣợc nhập về nƣớc ta qua nhiều đợt với thời gian khác nhau. Đây là giống cỏ chịu đƣợc điều kiện đất chua, khô hạn, cằn cỗi; có khả năng cải tạo đất tốt sau một thời gian trồng. Khả năng ra hoa kết hạt kém, tỷ lệ hạt chắc thấp, hạt chín không đồng đều do vậy rất khó thu hoạch. Cỏ có thể trồng bằng hạt, bằng cành (nhƣng tỷ lệ nảy mầm kém). Cỏ có năng suất khá cao: 40 - 50 tấn/ha/năm, tỷ lệ protein thô đạt 18 - 20% trong vật chất khô. Cỏ đƣợc trồng để thu cắt chất xanh cho trâu, bò, dê, thỏ rất tốt.
+ Cây chè đại (Trichanthera gigantea): Cây chè đại có nguồn gốc từ châu Phi, nhập vào Việt Nam qua các chƣơng trình dự án. Là cây trồng lâu năm, rất dễ trồng, phát triển quanh năm, chịu đƣợc hạn, chịu đƣợc lạnh, ƣa bóng, có thể trồng thuần hoặc trồng xen cây lâm nghiệp, cây ăn quả. Năng xuất xanh đạt 60 tấn/ha/năm, tỷ lệ protein thô cao: Chiếm 20 - 22% VCK, thích hợp với nhiều loại gia súc, gia cầm. Có thể sử dụng cho lợn, dê, gia cầm ở dạng cho ăn tƣơi hoặc chế biến bột lá rất tốt vì phiến lá mỏng, chóng khô.
- Rau bèo
Là nhóm thức ăn thực vật sống dƣới nƣớc phổ biến ở vùng nhiệt đới. Khu vực trung du miền núi phía Bắc có nhiều sông suối, đầm, hồ, ao thuận lợi cho sự phát triển các loại rau bèo, rong tảo... Đây là nguồn thức ăn đƣợc sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi ở nƣớc ta nói chung, khu vực miền núi và trung du phía Bắc nói riêng. Hàm lƣợng protein trong nhóm rau bèo nhìn chung thấp, nhƣng khá cân đối các thành phần axit amin, đặc biệt các axit amin thiết yếu. Đồng thời nhóm thức ăn này có khá nhiều vitamin cần thiết
24
nhƣ: Caroten, vitamin B, C..., giàu các khoáng đa lƣợng nhƣ kali, canxi, một số khoáng vi lƣợng nhƣ mangan, sắt... Một số rau bèo, rong tảo có khả năng tích tụ nhiều khoáng chất từ môi trƣờng, trong số đó có một số kim loại nặng độc hại. Do vậy, cần lƣu ý khi sử dụng rau bèo sinh trƣởng trên các nguồn nƣớc thải công nghiệp, nƣớc thải sinh hoạt có chứa nhiều yếu tố độc hại. Nhƣợc điểm chung của rau bèo là chứa nhiều nƣớc (90 - 94%) nên khó chế biến và bảo quản, giá trị năng lƣợng thấp không thể sử dụng với tỷ lệ cao trong khẩu phần vật nuôi có năng suất cao.
- Rau muống
Rau muống là loại rau xanh phổ biến đƣợc trồng, đƣợc sử dụng rộng rãi ở nhiều vùng vì giá trị dinh dƣỡng và năng suất cao. Rau muống cũng là loại thức ăn xanh chứa nhiều đƣờng nên có tính ngon miệng cao với nhiều đối tƣợng vật nuôi, nhất là lợn, gia cầm. Rau muống có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau: Từ đất khô, ẩm đến đất sình lầy hay ngập nƣớc... Thân lá rau muống tƣơng đối giàu protein, ít xơ hơn cỏ hòa thảo. Trung bình 1kg chất khô trong rau chứa 180 - 280g protein thô, 150 - 200g đƣờng, 140 - 150g xơ và cung cấp đến 2500 - 2600kcal năng lƣợng trao đổi với lợn. Nếu cho lợn ăn nhiều rau muống sẽ có hiện tƣợng “đi phân lỏng”.
Có nhiều loại rau muống đƣợc trồng cấy và sử dụng: Rau muống hạt đƣợc trồng ở trên cạn, có cuộng to và giòn, năng suất cao và thu cắt từng lứa. Rau muống cạn trồng bằng hom, rau muống tím thả bè dƣới nƣớc có thể thu hoạch từng lứa cắt hoặc hái tỉa từng ngọn dài. Cần chú ý rửa sạch rau trƣớc khi cho ăn để giảm ký sinh trùng đƣờng ruột. Rau muống khi già tỷ lệ xơ tăng cao, khi cho lợn ăn, chúng bỏ lại nhiều cuộng rau.
- Cây khoai lang
Khoai lang là một loại cây trồng quan trọng của vùng trung du miền núi phía Bắc, đƣợc trồng chủ yếu ở những khu đất không đủ nƣớc tƣới, nhất là trên các chân ruộng một vụ. Diện tích trồng khoai lang của vùng khoảng 40.000 ha, sản lƣợng củ thu đƣợc hàng năm dao động trong khoảng 250 - 280 ngàn tấn. Khoai lang trồng tập trung chủ yếu ở các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hòa Bình. Chỉ tính riêng 4 tỉnh này, sản lƣợng năm 2009 đã đạt 161,3 ngàn tấn chiếm 2/3 sản lƣợng khoai lang toàn khu vực (Niên giám Thống kê 2009). Khoai lang là loại cây trồng với mục đích chính là lấy củ ăn tƣơi hoặc phơi khô dự trữ. Khoai lang củ tƣơi là loại thức ăn chứa nhiều nƣớc, nghèo protein, mỡ, khoáng nhƣng giàu tinh bột, đƣờng, hàm lƣợng xơ thô thấp, dễ tiêu hóa và có tính ngon miệng cao.
Thân lá là phần tận thu làm thức ăn xanh hoặc phơi khô dự trữ cho vật nuôi. Ngoài ra, khoai lang còn có thể trồng gơ với mật độ hom dày để cung cấp thức ăn xanh cho vật nuôi. Khoai lang khi đƣợc chăm sóc tốt có khả năng tái sinh khá nhanh. Ở lứa đầu có thể thu cắt sau khi trồng khoảng 50 - 60 ngày, các lứa tái sinh cho thu sớm hơn khoảng 40 - 45 ngày. Sau khoảng 3 - 4 lứa cắt thì rau cỗi, cần phá đi trồng lại để đảm bảo năng suất. Sản lƣợng thu cắt/ha có thể lên tới 80 - 90 tấn.
25
Chúng tôi đã thu thập các mẫu củ và thân lá khoai lang ở nhiều địa phƣơng trong khu vực để phân tích thành phần hóa học. Kết quả cho thấy, thân lá khoai lang chứa hàm lƣợng cacbon hydrat thấp nhƣng giá trị dinh dƣỡng chủ yếu là protein và vitamin, hàm lƣợng protein trung bình 18,5% (tính theo vật chất thô), hàm lƣợng xơ thô đạt 16 - 17% thấp hơn nhiều so với cỏ hòa thảo. Củ khoai chứa nhiều cacbon hydrat dễ tiêu hóa, tuy nhiên, các chất kháng tryxin trong củ tƣơi làm giảm tỷ lệ tiêu hóa protein trong khẩu phần có củ khoai trong khi thân lá khoai không chứa nhiều các chất này.
Trong giai đoạn 1999 - 2000, tổ chức CIAT (Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới Quốc tế) đã đƣa vào nƣớc ta nhiều giống khoai lang mới có năng suất thân lá, củ và giá trị dinh dƣỡng cao. Việc trồng và thử nghiệm các công thức chế biến, dự trữ khoai lang đƣợc nghiên cứu chủ yếu theo 2 hƣớng là phơi khô và ủ chua với nhiều loại nguyên liệu khác nhƣ thân lá lạc... để dùng nuôi lợn thịt, trâu, bò ở vùng trung du miền Bắc đã cho kết quả tốt. (Tuyển tập các kết quả nghiên cứu về chế biến, bảo quản và sử dụng khoai lang và các cây nguyên liệu khác làm thức ăn cho lợn thịt giai đoạn 1999 - 2005, CIP, 2006). Các kết quả nghiên cứu của CIP (2006) cho thấy thân lá và củ khoai lang thực sự là nguồn thức ăn rất tốt cho lợn và gia súc nhai lại, nhất là bò sữa. Ví dụ: Một con bò nặng 400 - 500 kg có thể ăn hết 50 - 70 kg/ngày. Tăng tỷ lệ thân lá khoai lang trong khẩu phần đã làm tăng sản lƣợng sữa của bò. Bổ sung thân lá khoai lang cải thiện rõ rệt lƣợng ăn vào và tăng trọng của bò đực giống.
Bột thân lá khoai lang là nguồn protein và xanthophyl trong khẩu phần gia cầm. Xanthophyl và β - caroten trong bột lá khoai lang làm cho màu lòng đỏ trứng và da gà tốt hơn.
- Cây sắn
Sắn là loài cây có củ làm lƣơng thực chính của nhân dân nhiều nƣớc Trung Phi. Sắn cũng là cây trồng quen thuộc và lâu đời ở các địa phƣơng vùng trung du miền núi phía Bắc với tổng diện tích trồng hàng năm khoảng trên 100 ngàn ha. Theo Niên giám Thống kê 2009: Diện tích trồng sắn của vùng khá ổn định và biến động trong khoảng 97 - 101 ngàn ha, sản lƣợng củ sắn thu đƣợc qua 3 năm từ 2007 - 2009 lần lƣợt là 1132,3 - 1309,9 và 1216,8 ngàn tấn. Các tỉnh trồng nhiều sắn nhất là Sơn La, Yên Bái, Hòa Bình, Lào Cai, riêng năm 2009 bốn tỉnh này đã trồng 54,600 ha sắn, sản lƣợng củ thu đƣợc là 746,800 tấn chiếm 53,99% tổng diện tích và 61,37% sản lƣợng sắn toàn khu vực. Trƣớc những năm 2000, sắn đƣợc xác định là lƣơng thực, vì thế nó đƣợc tính quy đổi đƣa vào cân đối lƣơng thực/đầu ngƣời. Hiện nay, củ sắn đang là một loại nông sản cao giá để làm thức ăn vật nuôi, làm tinh bột sắn, làm nhiên liệu lỏng sinh học (Biopetrol) bởi hiệu suất thu hồi Etanol cao khi nấu cồn từ sắn khô. Từ 2010, khi các dự án sản xuất năng lƣợng sạch từ sắn triển khai mạnh ở khu vực này và việc xuất khẩu sắn lát đang đƣợc giá trên thị trƣờng quốc tế thì nông dân nhiều nơi đã tự phát mở rộng diện tích trồng sắn, nhiều nơi cao hơn 150% so với kế hoạch.
26
Cơ cấu giống sắn rất phong phú (trong tài liệu này chúng tôi đã thu thập 42 mẫu sắn để phân tích) bao gồm chủ yếu là các giống sắn địa phƣơng và một số giống sắn nhập nội.
Củ sắn là sản phẩm chính thƣờng ít sử dụng ở dạng tƣơi, mà làm khô ở các dạng: Củ sắn sấy khô, sắn lát phơi khô hoặc sắn duôi sợi phơi khô. Mẫu sắn khô tốt thƣờng trắng không có vỏ, không bị mọt, mốc và không lẫn vật lạ. Sắn là nguồn thức ăn giàu năng lƣợng và rẻ tiền ở Việt Nam (Năng lƣợng trong 1kg vật chất khô của củ sắn tƣơng đƣơng mức năng lƣợng trong 1kg hạt ngũ cốc). Hầu hết các mẫu sắn tƣơi nghèo protein (0,9 - 1,5%), nhất là các giống sắn địa phƣơng. Một số giống sắn cao sản do tổ chức CIAT đƣa vào Việt Nam (Trần Ngọc Ngoạn, 1995) có tỷ lệ protein đƣợc cải thiện nhiều nhƣ giống sắn KM60 có 3,55%, giống sắn Tăng sản 62 có 4,81% protein trong vật chất khô. Protein của sắn có chất lƣợng thấp (thiếu nhiều methionine). Sắn chủ yếu đƣợc sử dụng trong khẩu phần của lợn thịt, gà thịt, vịt thịt. Cũng có thể sử dụng trong khẩu phần gà đẻ, song không nên vƣợt quá 20%. Đối với gia cầm, nên sử dụng sắn trong thức ăn đƣợc ép viên.
Lá sắn là phần tận thu từ cây sắn trong quá trình sinh trƣởng của cây, nhất là khi thu hoạch củ. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, các dự án cây có củ của tổ chức CIAT đã đƣa nhiều giống sắn năng suất cao, thời gian sinh trƣởng ngắn vào trồng ở một số địa phƣơng vùng trung du miền núi phía Bắc nƣớc ta. Nếu tận thu phụ phẩm làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, chỉ cần mỗi ha sắn ta thu lấy 4 tấn vật chất khô từ lá sắn, thì nguồn lá thu đƣợc đã lên tới 400 ngàn tấn.
Trong những năm qua, nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu khai thác, chế biến, bảo quản và sử dụng nguồn lá sắn cho vật nuôi nhƣ gà thịt, gà trứng, lợn thịt, trâu, bò thịt. Điển hình là các nghiên cứu của Từ Quang Hiển và cộng sự (1982), của Dƣơng Thanh Liêm (1997)... sử dụng loại thức ăn này cho các đối tƣợng trâu, bò, lợn và gà. Lá sắn có hàm lƣợng protein thô cao (25% tính theo vật chất khô, biến động từ 16 - 40%) trong đó 85% là nitơ protein.
Không chỉ cung cấp protein có chất lƣợng khá cao, lá sắn còn là nguồn cung cấp khoáng đa lƣợng nhƣ Ca, Mg và khoáng vi lƣợng nhƣ Mn và Zn. Lá sắn cũng là nguồn cung cấp vitamin A, vitamin B2, nhất là vitamin C cùng nhiều chất dinh dƣỡng khác.
Lá sắn giàu protein (22 - 28%) nhƣng lại thiếu hụt 1 loại axit amin thiết yếu là methionine, vốn đƣợc coi là axit amin giới hạn thứ 2 trong khẩu phần của nhiều nhóm vật nuôi. Cây sắn cũng có một hạn chế lớn là chứa nhiều linamarin, một loại độc tố nhóm glucosid, dƣới tác dụng của enzym linamarase sẽ chuyển thành axit cyanhydric (HCN) là chất độc đối với gia súc. HCN gây nên các triệu trứng trúng độc cho vật nuôi, nhất là lợn, do rối loạn hô hấp bởi tình trạng Met - Hemoglobin. Lợn trúng độc thở dốc, da tím tái, mắt đỏ lừ, sùi bọt mép, thần kinh hoảng loạn... Tuy nhiên, thông qua các phƣơng pháp chế biến nhƣ nấu chín, phơi khô hay ủ chua đều làm giảm đáng kể nồng độ axit này. Phạm Sỹ Tiệp (1998) khi khảo sát và phân tích độc tố cho biết HCN trong
27
sắn tập trung ở đọt non, lá non, ở 2 đầu củ sắn và trong lớp vỏ tím của củ sắn. Biện pháp xử lý giảm độc tố dễ làm, rẻ tiền nhất là thái nhỏ ngâm nƣớc vôi hoặc phơi khô để làm bột lá, với củ sắn thì chặt bỏ 2 đầu củ, bóc bỏ vỏ, ngâm nƣớc trƣớc khi luộc, nấu chín kỹ để ăn. Ngƣời dân vùng trung du miền núi có kinh nghiệm ăn sắn luộc chấm mật mía hoặc đƣờng kính để phòng ngừa say sắn là rất khoa học.
- Cây thân gỗ cho lá làm thức ăn vật nuôi
Là khu vực có tính đa dạng sinh học thực vật cao vào hàng bậc nhất Việt Nam, trên địa bàn TDMNPB có rất nhiều loại cây rừng có thể ăn đƣợc. Nhân dân các dân tộc anh em sinh sống ở vùng này có tập quán thu hái nhiều loại lá cây rừng, trong đó có những cây thuộc dạng thân gỗ để làm thức ăn cho ngƣời và chăn nuôi lợn, trâu, bò, dê. Tùy theo điều kiện tự nhiên của từng vùng mà có những cây thức ăn khác nhau, phổ biến nhất là các loại lá nhƣ mạy hu, mạy tèo, dƣớng, sung, ngoã, mít, duối... Những loại cây cho lá này thƣờng mọc tản mát nơi có điều kiện sống thích hợp và hầu nhƣ xanh quanh năm, chúng cung cấp đều chất xanh trong mọi điều kiện mùa vụ khác nhau, đặc biệt vào mùa đông, khi mà nguồn cỏ hòa thảo hầu nhƣ ngừng sinh trƣởng do thiếu nƣớc. Những loại lá này thƣờng đƣợc thu hái phần ngọn non, tùy theo loại gia súc mà cách cho ăn khác nhau nhƣ thái nhỏ trộn cám cho lợn, cho trâu, bò, dê ăn trực tiếp sau khi hái về. Đây là loại thức ăn có giá trị dinh dƣỡng khá cao, nếu tính trong vật chất khô thì tỷ lệ protein thô nằm trong khoảng 8,48 - 16,7 %, xơ thô trong khoảng 19,02 - 33,3%; DSVĐ thô: 23, 23 - 57,23 %, Khoáng thô: 7,62 - 12,8 %... Một trong những điểm nổi bật của các lá cây thân gỗ là có tỷ lệ nƣớc thấp hơn cỏ hòa thảo, nên cung cấp nhiều dinh dƣỡng hơn nếu tính cho 1 kg dạng tƣơi, phù hợp với sự thu hái trong điều kiện tự nhiên miền núi đồi núi dốc, tốn nhiều công sức vận chuyển.
1.2.2. Thức ăn thô khô và phế phụ phẩm nông nghiệp
Tất cả các loại cỏ xanh tự nhiên hoặc cỏ trồng, đƣợc thu cắt và phơi khô, các loại phế, phụ phẩm của cây trồng đem phơi khô, có hàm lƣợng xơ trên 18% đều gọi là thức ăn thô khô. Thức ăn thô khô bao gồm: Cỏ khô bộ Đậu hoặc họ Hòa thảo, rơm rạ, dây lang, dây lạc và thân cây ngô... phơi khô. Ngoài ra còn gồm vỏ các loại hạt thóc, lạc, đậu, lõi và bi ngô. Gần đây, thân cây sắn cũng đƣợc xác định là nguồn thức ăn thô rất tốt cho bò thịt và cả bò sữa, việc sử dụng thân cây sắn làm thức ăn cho bò đã có một số tác giả nghiên cứu cho kết quả tốt (Cao Văn và cộng sự, 2010).
1.2.2.1. Cỏ khô
Cỏ khô là sản phẩm cỏ dự trữ của phƣơng pháp chế biến thức ăn xanh cổ truyền - phƣơng pháp phơi khô. Chất lƣợng cỏ khô phụ thuộc vào thời điểm thu cắt, chế biến và điều kiện thời tiết thích hợp khi thu hoạch. Phƣơng pháp chế biến kinh tế và chủ yếu nhất là phơi dƣới ánh nắng mặt trời. Mục đích chính của việc phơi khô là làm giảm lƣợng nƣớc trong cỏ xanh đến mức độ đủ thấp, để kìm hãm hoạt động của các enzym có sẵn trong cây cỏ hay của vi sinh vật, nhằm giảm thấp nhất mức tiêu hao dinh dƣỡng
28
trong cỏ. Cỏ tƣơi sau khi cắt thƣờng chứa khoảng 65 - 85% nƣớc, trong khi phơi nƣớc sẽ bốc hơi, khi độ ẩm trong cỏ giảm dần tới khoảng 15 - 20% thì có thể đem cất để sử dụng dần. Ở điều kiện cất giữ, các hoạt động hô hấp trong tế bào ngừng hoàn toàn, các vi sinh vật cũng hạn chế hoạt động để không làm hỏng thức ăn.
Trong điều kiện thời tiết nắng ráo, độ ẩm không khí thấp, cỏ sau khi thu hoạch về đƣợc nhanh chóng làm khô nên sự mất mát dinh dƣỡng thấp. Để làm cho cỏ chóng khô, cần phải rải cỏ thành lớp đủ mỏng và tăng cƣờng đảo trộn để cho cỏ khô đều và nhanh. Tuy nhiên, sự mất mát dinh dƣỡng là điều không thể tránh khỏi. Trong điều kiện còn đủ ẩm, tế bào thực vật vẫn tiếp tục các phản ứng hô hấp, phân giải các hợp chất hydrat cacbon và các hợp chất chứa nitơ trong cỏ. Trong phản ứng hô hấp đó, hydrat cacbon chuyển thành dạng các đƣờng đơn fructoza và glucoza, tiếp theo đó là quá trình oxy hóa tạo thành CO2, H2O và tỏa nhiệt làm khối cỏ bị nóng lên. Chính vì sự mất mát các hợp chất hydratcacbon dễ tan, nên đã làm tăng tỷ lệ xơ trong vật chất khô của cỏ. Sự mất mát protein là do enzym proteaza của thực vật, chúng phân hủy protein thành các peptit và các axit amin. Khi phơi khô, caroten và các loại vitaimin, nhất là vitamin C bị mất mát rất đáng kể. Hàm lƣợng caroten giảm đi hàng chục lần sau khi phơi khô (chỉ còn 2 - 20 mg/kg chất khô). Nếu phơi cỏ trong điều kiện thời tiết bất lợi thì các phản ứng chuyển hóa trong tế bào có đủ điều kiện và thời gian để xảy ra mạnh mẽ, làm cho caroten bị mất hầu hết, đồng thời kèm theo cả sự mất khoáng, đƣờng hòa tan và các hợp chất có nitơ. Độ ẩm trong cỏ khô cao cũng là điều kiện đồng hành, thuận lợi cho các vi sinh vật hoạt động để tăng cƣờng sự phân hủy các chất dinh dƣỡng có sẵn trong cỏ khô, đồng thời cũng tạo cơ hội cho nấm mốc phát triển. Vì vậy, cỏ sau khi thu hoạch nên làm khô càng nhanh càng tốt, độ ẩm càng thấp thì chất dinh dƣỡng của cỏ càng đƣợc bảo tồn.
Giá trị dinh dƣỡng của cỏ khô trong điều kiện phơi tốt, trung bình chứa 9,6% protein, 56,3% chất hữu cơ tiêu hóa, hàm lƣợng xơ cao: 33,5% - 35%, năng lƣợng trao đổi 1100 - 2000 Kcal/kg VCK. Trong chăn nuôi, cỏ khô là nguồn thức ăn quan trọng cho gia súc ở các nƣớc ôn đới cũng nhƣ các nƣớc nhiệt đới. Cỏ khô đƣợc sử dụng phối hợp với thức ăn ủ chua, thức ăn tinh, thức ăn củ quả, rỉ mật và các sản phẩm phụ của công nghiệp chế biến rau quả (bã dứa, vỏ chuối...) để nuôi gia súc nhai lại cho kết quả tốt.
Ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc, những vùng chăn nuôi bò sữa nhƣ Mộc Châu, Tuyên Quang, đã có tập quán chế biến cỏ khô dự trữ để bổ sung cho bò sữa tại chuồng. Còn ở hầu hết các địa phƣơng khác, ngƣời dân chƣa hình thành tập quán này. Trong mùa mƣa, cỏ hòa thảo sinh trƣởng rất nhanh, trâu, bò ăn không hết, trong khi vào vụ Đông Xuân khô hạn, cỏ tự nhiên lụi hết, kèm theo đó là những đợt rét đậm, rét hại kéo dài đã làm hàng loạt trâu, bò, dê bị chết. Nguyên nhân chính là do trâu bò bị đói làm giảm sức chống rét. Từ thực tế này, rất cần phải hình thành tập quán chế biến cỏ khô dự trữ cho trâu, bò vụ Đông, nếu muốn bảo vệ và phát triển chăn nuôi trâu bò, đối tƣợng vật nuôi vốn luôn đƣợc coi là thế mạnh của khu vực.
29
1.2.2.2. Rơm rạ
Rơm rạ là sản phẩm phụ của nghề trồng lúa, nói rộng ra, ta hiểu rơm rạ là sản phẩm phụ của cây trồng ngũ cốc và cây bộ Đậu. Ở miền núi và trung du phía Bắc, các loại cây trồng cung cấp nguồn sản phẩm phụ rơm rạ là lúa, ngô, đậu tƣơng, lạc. Trong đó rơm lúa là nguồn chủ đạo, luôn bị ngƣời dân bỏ phí do ỷ lại vào nguồn thức ăn tự nhiên vốn phong phú. Rơm lúa chứa nhiều xơ với tỷ lệ 35 - 40% trong vật chất khô, chủ yếu là thành phần lignin có giá trị dinh dƣỡng thấp. Hàm lƣợng protein trong rơm lúa rất thấp, từ 25 - 40g/1kg chất khô.
Rơm lúa có hàm lƣợng lignin tƣơng đối cao, chiếm 60 - 70g/kg chất khô, hàm lƣợng khoáng rất cao: 170g/kg chất khô, trong đó chủ yếu là silic, vì vậy hệ số tiêu hóa của rơm lúa rất thấp. Tỷ lệ tiêu hóa của rơm tăng lên nếu thông qua xử lý rơm rạ bằng phƣơng pháp kiềm hóa nhƣ ủ rơm với vôi, với ure hay ủ chua rơm tƣơi...
Thành phần hóa học cơ bản của rơm lúa phụ thuộc nhiều vào giống lúa, thời điểm thu hoạch, phần thân đƣợc tận thu, phân bón và thành phần của đất trồng... Nhìn chung, thành phần hóa học chính của rơm lúa bao gồm:
- Dạng hydratcacbon cấu tạo thành vách tế bào nhƣ cellulose, hemicellulose và lignin chiếm 60 - 80% tổng vật chất hữu cơ của rơm.
Cellulose: Là thành phần cấu tạo chính của thành tế bào cây lúa, chiếm vào khoảng từ 32 - 47% tổng vật chất khô trong rơm. Cellulose là chuỗi polysaccharit dạng homosaccharit đƣợc hình thành bởi các đơn phân cấu tạo là phân tử β - glucoza gắn với nhau bằng liên kết β - glucozit 1 - 4. Cellulose không thể tiêu hóa đƣợc ở động vật dạ dày đơn vì hệ tiêu hóa không tiết enzym thủy phân chất này. Các vi khuẩn trong dạ cỏ loài nhai lại và manh tràng của thỏ, ngựa lại có thể sản sinh enzym cellulaza phân giải cellulose rất tốt để cung cấp năng lƣợng cho con vật.
Hemicellulose: Khác với cellulose, hemicellulose đƣợc tạo thành từ hetero - polymers không có hình dạng nhất định bao gồm tất cả các đƣờng pentoza nhƣ xyloza, arabinoza. Chuỗi đại phân tử của hemicellulaza thì ngắn hơn cellulaza. Hemicellulaza chỉ tiêu hóa đƣợc một phần.
Lignin: Là một hetero - polymers phenol nó gắn với hemicellulaza. Mối liên kết giữa lignin và hemicellulaza cho đến nay vẫn chƣa đƣợc hiểu một cách chính xác. Tổ chức các tiểu phần xơ của cellulaza đã tạo thành hàng rào chắn cơ học chắc chắn. Vì vậy, lignin không những không tiêu hóa đƣợc mà còn làm cản trở sự tiêu hóa của các hydratcacbon khác. Tỷ lệ lignin trong thức ăn thô khô tăng lên cùng với tuổi sinh lý của cây trồng và tỷ lệ nghịch với tỷ lệ tiêu hóa các thành phần dinh dƣỡng khác trong đƣờng tiêu hóa của vật nuôi.
- Tỷ lệ protein thô trong rơm rạ rất thấp, nó giảm đi nhanh theo tuổi sinh lý của cây lúa, chiếm vào khoảng 2 - 5%. Không những thế, giá trị sinh vật học và tỷ lệ tiêu hóa của protein rơm lúa cũng rất thấp, do enzym của vi sinh vật dạ cỏ khó tiếp cận phân giải
30
nguồn nitơ này, vì màng tế bào lignin hóa đã tạo lớp vỏ bọc chắc chắn, ngăn cản các hoạt động vi sinh vật.
- Tỷ lệ khoáng thô trong rơm cao nhƣng chủ yếu là silic, nên rơm rạ thực chất là loại thúc ăn thô nghèo khoáng và vitamin, do chúng đƣợc tận thu sau khi cây lúa đã phát triển đầy đủ để cung cấp dinh dƣỡng cho sản phẩm chính là hạt. Trong thực tế, loại thức ăn này thiếu hầu hết các nguyên tố khoáng đa lƣợng nhƣ Ca, P, Na và các nguyên tố khoáng vi lƣợng. Đồng thời chúng cũng thiếu hụt các vitamin nhƣ A và D3.
Rơm lúa khó bị biến đổi thành phần trong dạ cỏ do màng tế bào của rơm bị lignin hoá, một mặt nó cản trở vi sinh vật chui vào bên trong tế bào, từ đó cản trở enzym phân giải chất xơ, mặt khác nó tạo nên đặc tính bền chặt cho tế bào, cản trở sự chia cắt trong quá trình nhai lại. Thức ăn phải lƣu lại lâu trong dạ cỏ từ đó làm giảm lƣợng ăn vào, cho nên khẩu phần với rơm là chính chỉ có ý nghĩa duy trì cho con vật.
Tuy nhiên, phải thấy rằng với diện tích trồng lúa tới 669.900 ha và năng suất lúa bình quân 4,55 tấn/ha (Theo Niên giám Thống kê, 2009), nếu tận thu nguồn sản phẩm phụ này với tỷ lệ 70% năng suất hạt, thì hàng năm khu vực miền núi và trung du phía Bắc cũng có thể có 2,13 triệu tấn thức ăn thô khô là rơm lúa, tƣơng đƣơng 90 vạn tấn TDN (1kg rơm khô tƣơng đƣơng 0,41 kg TDN). Đây là nguồn thức ăn tiềm tàng và thực tế, cần có giải pháp và chính sách khuyến khích nông dân phơi khô, hoặc ủ chua dự trữ rơm, để giải quyết nhu cầu thức ăn cho trâu bò vụ Đông, tránh những tổn thất to lớn không đáng xảy ra nhƣ thực tế trong vụ rét năm 2007 - 2008 và 2010 - 2011 đã gây ra cho đàn gia súc. Hiện tại, nguồn thức ăn khổng lồ và rất có ý nghĩa này hầu hết bị bỏ phí hoặc đốt bỏ, một số nơi đƣa rơm làm nguyên liệu sản xuất nấm ăn.
1.2.2.3. Mía và các phụ phẩm chế biến đường mía
Mía là một loại cây công nghiệp họ Hòa thảo đƣợc trồng ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc. Hầu hết các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ đều trồng mía để sản xuất đƣờng mật, đƣờng phên và nhất là đƣờng tinh luyện. Theo Niên giám Thống kê 2009: sản lƣợng mía của khu vực này khá ổn định qua 3 năm 2007 - 2008 và 2009, mỗi năm đạt trung bình 1.350.000 tấn mía cây. Phần chính của cây mía là thân cây, đƣợc đƣa vào ép lấy nƣớc mía thô để nấu thành các dạng sản phẩm đƣờng khác nhau. Phần sản phẩm phụ tận thu làm thức ăn vật nuôi là ngọn mía, lá mía và bã mía sau khi ép hết nƣớc. Các khảo sát thực tế cho thấy: Để thu đƣợc 100 kg thân mía thì thƣờng ngƣời ta thải ra 28 kg ngọn mía, 16 kg lá mía và cứ 100 kg thân mía sau khi ép lấy nƣớc mía thô, ngƣời ta thải ra khoảng 19 kg bã mía. Với sản lƣợng mía thu đƣợc nhƣ trên, mỗi năm khu vực trung du miền núi phía Bắc có hàng chục vạn tấn sản phẩm tận thu từ cây mía có thể đƣa vào chăn nuôi. Ngọn mía là thức ăn truyền thống cho gia súc nhai lại, chủ yếu cho trâu, bò cày, kéo trong mùa thu hoạch mía. Việc sử dụng ngọn mía cho gia súc làm việc còn chƣa đƣợc nghiên cứu nhiều. Bò vẫn duy trì đƣợc thể trạng và vẫn làm việc hăng hái trong khi ăn một khẩu phần toàn ngọn mía. Điều đó chứng tỏ rằng, quá trình lên men
31
của ngọn mía trong dạ cỏ đã cung cấp đủ dinh dƣỡng cho duy trì và lao tác ở mức thấp. Tuy nhiên, với khẩu phần đơn điệu chỉ có ngọn mía kéo dài và không đƣợc bổ sung các loại thức ăn khác nhƣ rỉ mật, cám... thì sức làm việc sẽ bị giảm sút, tình trạng này kéo dài sẽ làm cho con vật giảm khối lƣợng cơ thể. Chính vì vậy, ngọn mía không đƣợc sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, khi sử dụng ngọn mía để nuôi gia súc ở dạng ủ ure hoặc bổ sung cám sẽ nâng cao tỉ lệ tiêu hóa xơ và nâng cao giá trị dinh dƣỡng của loại thức ăn này. Ngọn mía gồm ba phần: lá, bẹ lá và phần ngọn non. Thành phần hóa học các phần của cây mía rất khác nhau phụ thuộc vào giống, tuổi thu hoạch, điều kiện trồng và cách chăm sóc quản lý... nhƣng giá trị trung bình vào khoảng 5 tấn vật chất khô/ha, nếu tính theo lý thuyết thì lƣợng này đủ cung cấp cho một con bò có khối lƣợng 500kg.
Ngọn mía có thể đƣợc ủ chua tại thời điểm thu hoạch mía bằng cách băm nhỏ ngọn mía 3 - 4cm rồi ủ yếm khí với rỉ mật, hay cám gạo và 1% amôn sunphat trƣớc khi dùng. Tuy nhiên, quá trình ủ vẫn đạt kết quả tốt mà không cần bổ sung thêm chất phụ gia vào. Có thể ủ bằng các khối ủ nhỏ khoảng 5 tấn ngọn, đủ để nuôi 2 con bò trong một tháng. Lá mía cũng có thể đƣợc ủ kèm ngọn nhƣng khả năng tiêu hóa rất thấp và khả năng lựa chọn loại thức ăn này cũng rất khác nhau tùy loài vật nuôi. Đa số bò thích lựa chọn phần bẹ lá hay phần mọng nƣớc còn rất ít ăn phần lá xanh. Nếu cho ăn tự do, bò có thể ăn tới 90kg/con/ngày phần ngọn non. (Lê Đức Ngoan và cộng sự, 2004).
Bã mía là sản phẩm phụ thải ra sau các công đoạn ép mía cây lấy nƣớc mía thô. Thành phần hóa học của bã mía còn lại phụ thuộc vào công nghệ ép mía thủ công hay hiện đại. Nhìn chung, phần bã còn lại sau khi thu nƣớc mía có khoảng 90% vật chất khô, hàm lƣợng xơ thô cao 50% với tỷ lệ lignin chiếm >20%, lƣợng khoáng tổng số thấp 2,5%, đƣờng hòa tan còn lại là saccharose với tỷ lệ 1,5 - 4%. Bã mía đặc biệt ít protein (khoảng 1%) và có hàm lƣợng dẫn suất vô đạm cao tới 45 - 46%. Với đặc điểm nghèo dinh dƣỡng lại khó tiêu hóa nên phần bã mía sử dụng để chăn nuôi trâu bò ít có hiệu quả.
Rỉ mật là phụ phẩm của sản xuất đƣờng kết tinh. Tùy theo các giai đoạn của quá trình kết tinh đƣờng mà có nhiều loại rỉ mật. Rỉ mật loại 1 là sản phẩm phụ đầu tiên khi ly tâm trích ly đƣờng cho ra đƣờng thô và nó chiếm vào khoảng gần 77% so với tổng số rỉ mật thải ra nói chung. Đƣờng thô là phần nƣớc mía đƣợc gạn lọc rồi cho cô đặc và kết tinh. Rỉ mật loại 1 là phần phụ phẩm của quá trình tạo đƣờng loại 1, đƣờng đầu tiên của sự chế biến chứa 80 - 85% vật chất khô. Rỉ mật loại 2 là rỉ mật thứ hai của quá trình gạn lọc để cho ra 12% đƣờng thô (đƣờng loại 2). Rỉ mật cuối cùng đƣợc biết đến là rỉ mật loại 3, đó là phần thu đƣợc từ quá trình kết tinh phần lỏng đặc sánh là rỉ mật loại 2, mà sau khi nấu và ly tâm cho ra đƣờng loại 3 và rỉ mật loại 3. Ngay cả khi rỉ mật loại 3 đƣợc lọc kỹ và là sản phẩm phụ cuối cùng của nhà máy đƣờng thì rỉ mật này vẫn chứa một lƣợng lớn đƣờng saccharose (vào khoảng 32 - 42% trong rỉ mật loại 3) nhƣng nó cũng không thể đƣợc lọc lại lần nữa để tận thu phần đƣờng còn lại. Rỉ mật loại 3 luôn có mặt trên thị trƣờng.
32
Rỉ mật là nguồn đậm đặc cacbonhydrat có khả năng lên men, là chất cao năng lƣợng, hàm lƣợng protein thấp (2 - 4%), nitơ chủ yếu nằm dƣới dạng nitơ phi protein. Rỉ mật đƣợc sử dụng vào các mục đích cho chăn nuôi sau đây:
+ Là cơ sở năng lƣợng để vỗ béo bò nuôi thâm canh.
+ Là chất mang ure, khoáng và các chất dinh dƣỡng khác để cải thiện hiệu quả sử dụng khẩu phần nghèo nitơ.
+ Là nguồn chất phụ gia quan trọng cho việc dự trữ chiến lƣợc thức ăn thô cho trâu bò.
Vai trò của rỉ mật trong thức ăn cho gia súc:
+ Là chất cung cấp cacbonhydrat lên men trong khẩu phần cơ sở của động vật nhai lại.
+ Chất mang có tính ngon miệng có hàm lƣợng cao các chất dinh dƣỡng khác (nhƣ ure, khoáng...) để bổ sung vào khẩu phần giàu xơ và cũng là chất keo trong khối liếm. Rỉ mật là phần dịch đƣợc tạo ra từ nƣớc mía không đƣợc gạn lọc trong quá trình chế biến đƣờng theo nguyên tắc đảo liên tục chống lại sự kết tinh, rồi cho bay hơi nƣớc để làm khô cho đến khi thành phần vật chất khô đạt vào khoảng 80%.
Tùy thuộc lƣợng đƣờng saccharose (chiếm 90 - 92% theo vật chất khô), đây là nguồn năng lƣợng lý tƣởng cho gia súc dạ dày đơn. Tuy nhiên, nó cũng là loại thức ăn đắt tiền.
Một ví dụ quan trọng để chứng minh điều này là rỉ mật loại 2 đƣợc tạo ra từ nƣớc ban đầu có độ nguyên chất cao thì có tỷ lệ kết tinh đƣờng trong quá trình bảo quản rất cao. Nhƣng ngƣợc lại rỉ mật loại 1 và loại 2 đƣợc tạo ra từ nƣớc ban đầu có độ nguyên chất thấp thì khả năng kết tinh đƣờng rất thấp. Tuy nhiên, mức trung bình vào khoảng 70 - 80% đƣờng sẽ không đƣợc kết tinh trong quá trình bảo quản.
Rỉ mật đƣợc sử dụng chủ yếu là nguồn cung cấp năng lƣợng, các thành phần dinh dƣỡng khác nhƣ chất béo, chất xơ và protein thấp. Chất chiết không chứa nitơ chiếm khoảng 85 - 95% theo vật chất khô, nó là hỗn hợp cả phần đƣờng đơn và phần không phải là đƣờng. Phần không phải là đƣờng có khả năng lên men và tỷ lệ tiêu hóa thấp. Phần này thƣờng chiếm khoảng 18% tính theo vật chất khô đối với rỉ mật loại 1, 23% ở rỉ mật loại 2 và 33% ở rỉ mật loại 3.
Ở vùng trung du và miền núi phía Bắc, các nhà máy sản xuất đƣờng mía từ nguyên liệu mía cây có ở nhiều nơi nhƣ Phú Thọ, Tuyên Quang, Cao Bằng... hàng năm thải ra một lƣợng lớn rỉ mật bán cho các nơi khác mà ít đƣa vào phục vụ chăn nuôi trên địa bàn. Bên cạnh đó, các lò đƣờng thủ công vẫn tồn tại ở nhiều vùng, công nghệ chế biến lạc hậu, phần rỉ mật thải ra chứa một lƣợng tan rất cao nhƣng hầu hết bị bỏ phí.
Hƣớng sử dụng rỉ mật:
+ Mức thấp: Rỉ mật đƣợc sử dụng trong khẩu phần của gia súc để nâng cao tính ngon miệng của thức ăn khô với mức bổ sung 5 - 15% trong khẩu phần; tỷ lệ 5 - 8% rỉ
33
mật nhƣ là chất kết dính trong thức ăn viên, trong thức ăn khó tiêu nhƣ bã mía, lõi mía thì tỷ lệ rỉ mật thƣờng bổ sung khoảng 15%. Một hỗn hợp gồm 3 phần nƣớc, một phần rỉ mật đƣợc hòa đều và rải trên đồng cỏ để tăng tính ngon miệng của gia súc. Kỹ thuật này cũng đƣợc sử dụng tƣơng tự với khẩu phần chủ yếu là bã mía trong mùa khô cho khẩu phần duy trì, tuy nhiên có bổ sung một lƣợng nhỏ nitơ phi protein. Rỉ mật là loại nguyên liệu lên men nhanh, do vậy ngƣời ta có thể sử dụng bổ sung vào hỗn hợp ủ chua mức 5% nhƣ là chất phụ gia để tăng tính ngon miệng của gia súc. Rỉ mật cũng đƣợc sử dụng làm chất kết dính tăng độ keo của thức ăn, hạn chế sự phân hủy của vi sinh vật dạ cỏ nhƣ là chất thoát qua. Rỉ mật cũng đƣợc sử dụng trong những khẩu phần có những loại thức ăn có vị đắng, vị chát nhƣ ure thì có thể sử dụng theo tỷ lệ nhƣ sau: Rỉ mật loại 3: 80 - 85%, ure: 10 - 15%, muối 2,5% và dicanxi phosphat: 5,5%.
Trong khối liếm đa dinh dƣỡng, rỉ mật đƣợc dùng với tỷ lệ cao, công thức nhƣ sau: Rỉ mật: 50%, ure: 10%, muối 5%, dicanxi phosphat 5%, canxihydroxyt 10%, và 20% thức ăn giàu xơ nhƣ rơm hay bã mía. Có thể sử dụng xi măng thay cho vôi tôi (canxihydroxyt) trong công thức khối liếm, nhƣng phải đƣợc trộn với mức 40% nƣớc trƣớc khi cho vào thêm các thành phần khác của hỗn hợp.
+ Mức cao: Thƣờng đƣợc sử dụng trong hệ thống vỗ béo bò thƣơng phẩm. Theo Lê Đức Ngoan và cộng sự (2004), ở những nƣớc có nghề mía đƣờng và chăn nuôi bò phát triển nhƣ Cu Ba, rỉ mật đƣợc dùng ở mức cao với nguồn thức ăn chủ yếu là hỗn hợp rỉ mật với 3% ure, hạn chế bột cá và các nguồn protein khác, hạn chế thức ăn thô (3kg/100kg khối lƣợng sống), lựa chọn khoáng tự do với tỷ lệ 50% dicanxi phosphat và muối. Hỗn hợp rỉ mật/ure với vật chất khô tổng số 70%, gồm 91% rỉ mật và 6,5% nƣớc. Ure và muối trƣớc tiên đƣợc hòa tan vào nƣớc, sau đó mới trộn với rỉ mật, nén chặt vào khuôn và cho ăn mỗi ngày một lần với lƣợng cung cấp 70g protein thoát qua (bột cá)/100kg trọng lƣợng sống. Ngoài ra cũng có thể sử dụng công thức vỗ béo bò có hiệu quả với khẩu phần hàng ngày/đầu con đƣợc tính nhƣ sau: 90g hỗn hợp khoáng, 250g bột cá, 6kg rỉ mật/ure và 10kg thức ăn thô. Với khẩu phần trên có thể làm tăng trọng đạt mức từ 0,8 - 1kg/bò/ngày; chuyển hóa thức ăn ở mức từ 10 - 12 TDN. Ngoài ra, rỉ mật cũng đƣợc một số nơi sử dụng trong chăn nuôi lợn và gia cầm.
1.3. THỨC ĂN HẠT VÀ SẢN PHẨM PHỤ CỦA NGÀNH CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
1.3.1. Tiềm năng nguồn thức ăn hạt cốc ở vùng trung du miền núi phía Bắc Những năm trƣớc kia, khi những tiến bộ kỹ thuật về giống cây trồng còn hạn chế, kỹ thuật thâm canh chƣa cao, ngƣời dân vùng trung du miền núi phía Bắc còn trong cảnh thiếu ăn, các loại ngũ cốc đƣợc sử dụng hầu hết làm lƣơng thực nuôi sống con ngƣời. Hiện nay, tình hình sản xuất hạt cốc của nƣớc ta có sự tăng trƣởng đáng kể, theo báo cáo của các địa phƣơng trong khu vực, cho thấy: Mặc dù diện tích gieo trồng cây lƣơng thực của vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm tỷ lệ thấp (≈ 9%) so với diện tích tự nhiên và khó có khả năng tăng thêm do những hạn chế của các điều kiện địa
34
hình, nhƣng nhờ áp dụng giống mới và các kỹ thuật thâm canh tăng năng suất mà sản lƣợng lƣơng thực của toàn vùng vẫn tăng trƣởng đều qua các năm. Sản lƣợng cây có hạt tăng đều qua 3 năm từ 2007 - 2009 lần lƣợt là 4,2939; 4,4489; 4,5751 triệu tấn, trong đó lúa, ngô là hai cây ngũ cốc chính. Theo Niên giám Thống kê (2009): Trong năm 2009, tổng diện tích trồng lúa của vùng trung du miền núi phía Bắc là 669,9 ngàn ha, sản lƣợng thu hoạch đạt 3,471 triệu tấn. Các tỉnh đạt sản lƣợng lúa cao trong khu vực là Bắc Giang: 572,8 ngàn tấn, Phú Thọ: 362,8 ngàn tấn, Thái Nguyên: 341,1 ngàn tấn. Các tỉnh sản xuất ít lúa là Bắc Kạn: 97,4 ngàn tấn, do diện tích trồng lúa thấp nhất khu vực (chỉ có 21,5 ngàn ha). Cây lúa ở vùng trung du miền núi phía Bắc đƣợc coi là cây chủ đạo để cân đối lƣơng thực nuôi sống con ngƣời, ngƣời dân khai hoang mở rộng diện tích trồng lúa ở bất kỳ nơi nào có khả năng và ruộng nƣớc là một tài sản thừa kế có ý nghĩa sống còn với ngƣời nông dân. Xét trên bình diện chung, sản lƣợng lúa ở khu vực này đủ để cân đối nhu cầu lƣơng thực.
Riêng cây ngô, chỉ đƣợc gieo trồng trên diện tích khoảng 440 ngàn ha nhƣng do áp dụng giống mới nên năng suất thu hoạch và sản lƣợng ngô không ngừng tăng lên. Qua 3 năm từ 2007 - 2009, sản lƣợng ngô lần lƣợt là 1,4017; 1,5446; 1,5276 triệu tấn (chiếm trên 30% sản lƣợng ngô của cả nƣớc). Các tỉnh đi đầu trong sản xuất ngô là Sơn La (132,1 ngàn ha và 524,3 ngàn tấn), Hòa Bình (34,0 ngàn ha và 136,5 ngàn tấn), Hà Giang (46,8 ngàn ha và 121,4 ngàn tấn với năng suất ngô thấp do trồng chủ yếu trên khu vực cao nguyên đá Đồng Văn), Cao Bằng (37,2 ngàn ha và 111 ngàn tấn). Hà Giang, Cao Bằng còn dùng nhiều giống ngô địa phƣơng năng suất thấp, nhƣng chất lƣợng cao để cân đối lƣơng thực, nhất là cho nhân dân các dân tộc sống ở vùng rẻo cao. Các nơi có sản lƣợng ngô hàng hóa lớn là Sơn La, Hòa Bình, trồng chủ yếu các giống mới năng suất cao để làm thức ăn vật nuôi. Riêng Sơn La, là một trong những vùng sản xuất ngô lớn nhất cả nƣớc (đứng sau Đắk Lắk với sản lƣợng 603 ngàn tấn). Ở đây có khí hậu ôn hòa và đặc biệt thời tiết khi thu hoạch ngô rất khô ráo, thuận lợi cho thu hái, phơi khô và dự trữ ngô. Cũng chính từ tình hình sản xuất ngô khu vực cho thấy một thực tế là, nguồn sản phẩm tận thu từ cây ngô: Thân lá, lõi ngô, bi ngô thải ra hàng năm rất lớn, trong khi ở những địa phƣơng này, việc chăn nuôi nói chung, chăn nuôi vật nuôi nhai lại nói riêng vẫn phát triển chƣa xứng với tiềm năng sẵn có.
Kết quả tăng trƣởng của sản xuất các loại hạt cốc đã làm cho bình quân lƣơng thực/đầu ngƣời trong khu vực tăng lên liên tục, mặc dù số dân không ngừng gia tăng qua các năm. Mức lƣơng thực bình quân/ngƣời đạt từ 390,2 kg trong năm 2007 tăng lên tới 404,3 kg trong năm 2008, riêng 2009 đạt 412,3kg. (Niên giám Thống kê, 2009). Với mức bình quân này, ngƣời dân trong khu vực đã đủ gạo ăn, phần hạt cốc dƣ thừa mà chủ yếu là ngô, đƣợc chuyển gần nhƣ hoàn toàn sang phục vụ chăn nuôi trong toàn vùng và bán ra thị trƣờng.
Ngoài ra, trong một số cộng đồng dân cƣ ở vùng cao còn trồng mạch ba góc, cao lƣơng, kê là những loại hạt cốc không phổ biến, có sản lƣợng không đáng kể, nhƣng lại
35
là những cây trồng bản địa gắn bó với tập quán sản xuất và tiêu dùng của các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam. Với khả năng giải quyết nhu cầu lƣơng thực tại chỗ, phần lƣơng thực dƣ thừa sẽ đƣợc chuyển sang chăn nuôi để mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, các địa phƣơng vùng trung du và miền núi phía Bắc có cơ hội tiếp cận công nghệ chăn nuôi thâm canh, năng suất cao một số loài vật nuôi nhƣ lợn nạc, gà chuyên thịt, chuyên trứng... từ nguồn nguyên liệu thức ăn sản xuất ngay trên địa bàn, để tạo ra những sản phẩm có giá thành hạ, góp phần năng cao thu nhập cho nông dân.
1.3.2. Đặc điểm dinh dƣỡng của thức ăn ngũ cốc
Tên “ngũ cốc” là tên đặt cho các loại cây trồng lấy hạt thuộc họ Hòa thảo, chúng đƣợc trồng bằng hạt. Hạt cốc gồm: Hạt lúa, ngô, mì, mạch, cao lƣơng. Ngoài sản phẩm chính là hạt cốc đã đƣợc chế biến, làm sạch sử dụng làm lƣơng thực cho con ngƣời thì những sản phẩm phụ của ngành chế biến hạt cốc gồm cám, tấm, tấm bổi, trấu, gluten ngô, gluten mì... cũng có khối lƣợng lớn và đƣợc dùng chủ yếu cho chăn nuôi. Khi nhu cầu lƣơng thực cho con ngƣời đã đƣợc đáp ứng đầy đủ thì một phần ngũ cốc đƣợc chuyển thành thức ăn cho vật nuôi. Ở nhiều nƣớc, ngƣời dân chỉ có tập quán sử dụng một loại hạt cốc nhất định làm lƣơng thực, các loại hạt cốc khác đƣợc gieo trồng để làm thức ăn cho vật nuôi. Trong những năm gần đây, tiến bộ của công nghệ gen đã giúp con ngƣời tạo ra đƣợc nhiều giống ngô, lúa mới, kể cả những giống đƣợc chuyển gen để nâng cao tỷ lệ protein trong hạt, thì giá trị dinh dƣỡng của hạt cốc nói chung và hạt ngô đã đƣợc cải thiện nhiều.
Hạt cốc là nhóm thức ăn cung cấp năng lƣợng chính trong khẩu phần vật nuôi, có thành phần chính là tinh bột, trong đó gồm 2 loại: Tinh bột tan trong nƣớc (amylose) và tinh bột không tan trong nƣớc (amylopectin). Hàm lƣợng vật chất khô của thức ăn hạt cốc phụ thuộc chủ yếu vào thời gian thu hoạch, phƣơng pháp thu hoạch và điều kiện phơi sấy, bảo quản, nhƣng nhìn chung nằm trong khoảng 80 - 90% hay 800 - 900g VCK/kg hạt. Thành phần dinh dƣỡng chính của thức ăn hạt là tinh bột, chiếm khoảng 70 - 75%, hàm lƣợng protein thô thƣờng thấp, khoảng 8 - 12% trong đó có 90 - 95% là thành phần nitơ protein. Protein phân bổ không đều trong hạt, chủ yếu nằm trong phần nội nhũ, hàm lƣợng tăng dần từ giữa hạt ra bên ngoài. Chất lƣợng protein của hạt cốc không cao, chúng thƣờng thiếu hụt các axit amin quan trọng nhƣ lysine, methionine, threonine. Đặc biệt trong ngô thƣờng rất thiếu hụt triptophan (Vũ Duy Giảng, 2001). Protein hạt cốc có vai trò quan trọng để thúc đẩy sự tăng trƣởng của mầm hạt. Một loại côn trùng là con mọt thƣờng phá hoại hạt cốc, khi hạt ngũ cốc bị mọt tấn công thì phần nội nhũ hạt thƣờng bị ăn trƣớc làm tổn thất dinh dƣỡng và giảm nghiêm trọng tỷ lệ protein. Hàm lƣợng protein của các loại hạt cốc đƣợc xếp theo thứ tự cao đến thấp nhƣ sau: Yến mạch > lúa mạch > ngô > lúa mì > hạt thóc.
Hàm lƣợng lipit thay đổi phu thuộc loài, giống, chủng loại nếp hay tẻ và biến động từ 2 - 5%. Tuy thế, lipit trong hạt cốc lại chứa nhiều axit béo không no nhƣ axit linoleic,
36
oleic, chúng dễ bị phân hủy trong quá trình bảo quản, làm cho thức ăn bị oxy hóa có mùi ôi, khét, nhất là sau khi hạt cốc bị nghiền thành bột.
Hàm lƣợng xơ thô biến động lớn từ 7 - 14%, nhiều nhất là ở các loại hạt có vỏ trấu nhƣ hạt mạch và hạt thóc, ít nhất là ở hạt mỳ và ngô từ 1,8 - 3%.
Giá trị năng lƣợng trao đổi ở ngô đối với gia cầm là cao nhất, khoảng 3300 - 3400 Kcal/kg và thấp nhất ở lúa mạch 2400 Kcal/kg.
Hạt cốc rất nghèo khoáng, đặc biệt là canxi, hàm lƣợng canxi 0,15%, phốtpho > 0,3 - 0,5% nhƣng hầu hết phốtpho có mặt trong hạt ngũ cốc ở dạng phytate không thể hấp thu, khi cân đối nhu cầu Ca/P trong khẩu phần nếu không chú ý tới điều này thì dẫn tới thiếu phốtpho cho vật nuôi. Hạt ngũ cốc rất nghèo vitamin D, A, B2 (trừ ngô vàng rất giàu caroten), giàu E và B1 (nhất là ở cám gạo, 1kg cám gạo loại I có 22,2mg B1, 13,1mg B2).
Ở miền núi và trung du phía Bắc Việt Nam có rất nhiều các giống ngũ cốc (chủ yếu là ngô, thóc) bản địa có chất lƣợng rất cao, phù hợp với tập quán và thị hiếu tiêu dùng mang tính truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, chúng đƣợc ngƣời dân lƣu giữ qua nhiều đời. Những giống này đƣợc coi là một di sản văn hóa vật thể, chúng luôn có tái tạo đổi mới sau mỗi vụ gieo trồng và là nguồn gen rất quan trọng để chọn tạo các giống ngũ cốc mới cho tƣơng lai.
Hạt cốc là loại thức ăn tinh chủ yếu dành cho lợn, gia cầm, để bồi dƣỡng cho trâu bò và nuôi bê nghé. Trong mỗi giai đoạn sinh trƣởng của vật nuôi, khi sử dụng hạt cốc ta thƣờng có điều chỉnh chút ít tỷ lệ trong khẩu phần, nhƣng nói chung hạt cốc và sản phẩm phụ của nó chiếm khoảng 80 - 90% giá trị năng lƣợng cung cấp trong khẩu phần.
1.3.3. Đặc điểm một số loại thức ăn hạt cốc và sản phẩm chế biến từ hạt cốc
1.3.3.1. Hạt ngô
Bên cạnh giá trị là lƣơng thực chính với một số nhóm dân cƣ sinh sống trong hệ thống canh tác nƣơng rẫy, trong những vùng xa, vùng cao của các tỉnh miền núi phía Bắc, ngô còn đƣợc coi nguồn cung cấp thức ăn năng lƣợng chủ yếu trong chăn nuôi ở khu vực này nói riêng cũng nhƣ cả nƣớc. Với hàm lƣợng tinh bột cao (730g tinh bột/kg vật chất khô) và rất ít xơ nên ngô có giá trị năng lƣợng trao đổi rất cao (3300 - 3400 kcal ME/kg), là nguồn thức ăn giàu năng lƣợng tuyệt vời cho lợn, gà. Hàm lƣợng protein của ngô rất biến đổi và thƣờng dao động từ 8 - 13%. Giá trị sinh học của protein ngô không cao do thiếu hụt một số axit amin thiết yếu so với nhu cầu của vật nuôi nhƣ methionine, arginine và nhất là lysine. Hạt ngô chứa 2 loại protein là zein (chiếm tỷ lệ lớn, có nhiều ở nội nhũ - loại protein này chứa ít lysine và tryptophan) và glutelin (có nhiều ở mầm phôi - ít thiếu lysine và tryptophan hơn zein). Hiện nay, trong sản xuất có một số giống ngô cải tiến, có tỷ lệ protein cao và chứa nhiều lysine hơn các giống ngô thƣờng. Viện Nghiên cứu Ngô Trung ƣơng trong những năm qua đã đƣa giống ngô
37
thuộc dòng ngô Opaque - 2 với tên gọi là ngô HQ - 2000 ra sản xuất, giống này đã đƣợc nghiên cứu sử dụng làm thức ăn hạt cơ bản trong thức ăn hỗn hợp cho nhiều đối tƣợng vật nuôi. Ngô HQ - 2000 có tỷ lệ protein bình quân 11,5%, mức lysine 4,07%, tryptophan 0,86% tính theo protein, trong khi ở ngô thƣờng có các kết quả tƣơng ứng là 8,80% protein; 2,9% lysine và 0,50% tryptophan (Hoàng Toàn Thắng, Cao Văn, 2006). Dầu ngô (lipit) chiếm từ 3 - 6% và có chứa các axit béo không no với tỷ lệ cao, dễ làm mô mỡ động vật bị mềm. Ngô rất thiếu canxi nhƣng ít thiếu phốt pho. Các vitamin thƣờng thiếu trong ngô là vitamin B12, B2, pantothenic axit, niacin. Có sự khác nhau về thành phần dinh dƣỡng giữa các giống ngô nhƣng không nhiều. Các giống ngô địa phƣơng thƣờng có hàm lƣợng protein cao hơn so với ngô lai, ngô nếp cao hơn ngô tẻ. Việc thu thập và đƣa vào phân tích thành phần hóa học 72 mẫu ngô đƣợc giới thiệu trong tài liệu này cho thấy, các cộng dân cƣ dân tộc ít ngƣời sinh sống ở những vùng cao, vùng xa vẫn lƣu giữ nhiều giống ngô bản địa năng suất thấp nhƣng chất lƣợng cao, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của địa phƣơng. Đặc biệt, chúng là nguồn vật liệu khởi đầu để chọn tạo các giống ngô cho tƣơng lai. Có một số giống ngô giống mới đƣa ra sản xuất có nguồn gốc từ nƣớc ngoài hoặc do chọn tạo trong nƣớc nhƣ: Bioseed, LVN10, TSB1, LH919, VM1... là những loại ngô đỏ, ngô vàng thƣờng rất đƣợc ƣa chuộng dùng làm thức ăn cho gà, vịt do chúng chứa sắc tố cryptoxanthin, β - Caroten là tiền tố của vitamin A, làm màu da, màu lòng đỏ vàng hơn.
Tuy nhiên, việc sản xuất ngô trong điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa ở nƣớc ta, khi vào mùa mƣa thƣờng độ ẩm không khí lên cao, rất thuận lợi cho sự phát triển của nấm mốc, sinh độc tố aflatoxyn với nhiều dạng trên hạt ngô. Khi độ ẩm của ngô vƣợt quá 22% sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho nấm Fusarium graminearum sinh độc tố zearalenone gây sƣng âm hộ lợn nái, sảy thai hàng loạt, làm yếu tinh trùng, làm giảm tỷ lệ thụ tinh của trứng gia cầm (Lê Đức Ngoan và cộng sự, 2004) các chủng nấm Aspergillus flavus và Aspergillus parasiticus sản sinh độc tố aflatoxyn, trong đó dạng B1 là phổ biến và nguy hiểm nhất. Nấm Penicillium sinh độc tố ochratoxyn. Độc tố nấm mốc làm suy giảm chức năng gan, thận, làm gia cầm chậm lớn, giảm hiệu quả thức ăn, tăng tỷ lệ chết, giảm tỷ lệ đẻ trứng và giảm chất lƣợng vỏ trứng. Đặc biệt độc tố aflatoxyn B1 gây tác hại lớn đến năng suất và sức khỏe của lợn, gia cầm, nhất là đối với vịt con và gia súc non. Với liều cao, aflatoxyn có thể gây ra ung thƣ gan. Ngô bị nhiễm mốc rất nhanh từ giai đoạn chín nhƣng chƣa kịp thu hoạch. Nấm xâm nhập vào phần hở của bi ngô để nhiễm vào hạt. Ở miền núi cao, nông dân không có điều kiện thu hoạch ngô ngay sau khi chín bắp, họ phơi quả ngô trên cây rồi thu về dần dần, các giống ngô mới dù năng suất cao nhƣng bi ngô không che kín bắp cũng không đƣa vào sản xuất đƣợc, đây là đặc điểm mà các nhà chọn tạo giống ngô cần quan tâm, khi chuyển giao tiến bộ kỹ thuật giống ngô cho miền núi.
Trƣờng hợp ngô đã bị nhiễm nấm mốc thì cần phải sử dụng rất hạn chế trong khẩu phần, nhất là đối với gia súc non, hoặc áp dụng các biện pháp vật lý hay hóa học để loại trừ bớt nấm mốc và độc tố, vô hiệu hóa độc tố nhƣ xử lý bằng NH3, các axit hữu cơ
38
trƣớc khi dùng, hoặc dùng một số chế phẩm có khả năng hấp phụ độc tố aflatoxyn nhƣ mycofix, mycosorb... nhằm giảm bớt một phần tác hại của độc tố. Trong các sản phẩm zeolit có đặc tính hấp phụ độc tố nấm mốc, chế phẩm Mycofix - plus của hãng Biomin (Áo) đƣợc sử dụng khá phổ biến và có hiệu quả cao trong thức ăn gà thịt cũng nhƣ các vật nuôi khác (Hoàng Toàn Thắng và cộng sự, 2000).
Trong khẩu phần ăn cho lợn, gà, ngô thƣờng đƣợc dùng với tỷ lệ khá cao lên đến 50 - 70%. Hiện nay, giá ngô hạt khá đắt nên các loại nguyên liệu thức ăn thay thế đƣợc nghiên cứu sử dụng để giảm bớt tỷ lệ ngô trong khẩu phần. Tuy nhiên, do lipit trong ngô chứa nhiều axit béo không no nên việc cho ăn ngô với tỷ lệ cao trong khẩu phần làm giảm chất lƣợng khổ mỡ, cần cho ăn ở mức thấp hơn ở cuối kỳ nuôi béo.
1.3.3.2. Hạt thóc
Hạt thóc (lúa) là loại hạt cốc chủ yếu của vùng Đông Nam Á, cái nôi của nền văn minh lúa nƣớc. Hạt thóc và sản phẩm chính của nó là gạo, là nguồn lƣơng thực nuôi sống 1/3 nhân loại. Cây lúa rất thích hợp với khí hậu ẩm ở nhiệt đới và á nhiệt đới. Miền núi phía Bắc nƣớc ta là vùng nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới, bất kỳ chỗ nào có nguồn nƣớc đều đƣợc ngƣời dân tận dụng để mở mang diện tích trồng lúa nƣớc. Đây cũng là khu vực còn đƣợc ngƣời dân lƣu giữ rất nhiều giống lúa bản địa có thời gian sinh trƣởng dài, năng suất thấp nhƣng chất lƣợng gạo cao có giá trị đặc sản nhƣ gạo tẻ Điện Biên, gạo Bao thai Chợ Đồn (Bắc Kạn), gạo nếp Tú Lệ ở Nghĩa Lộ (Yên Bái), nếp Mƣờng Chanh (Sơn La), gạo nếp cẩm ở Thanh Sơn (Phú Thọ)... Trong tổng số 102 mẫu thóc gạo đã đƣợc thu thập về để phân tích thành phần hóa học, có nhiều mẫu là các giống địa phƣơng. Hạt thóc ở vùng trung du miền núi có giá trị đặc biệt vì nó là nguồn lƣơng thực chính. Để đáp ứng nhu cầu lƣợng thực trong điều kiện dân số gia tăng, mở rộng diện tích lúa nƣớc để tăng sản lƣợng lúa là giải pháp rất hạn chế. Vì vậy, con đƣờng chủ yếu để tăng sản lƣợng thóc lúa chính là sử dụng các giống mới năng suất cao, đi liền với tăng vụ trên cơ sở sử dụng các giống lúa có thời gian sinh trƣởng ngắn và áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến.
Hạt thóc có 2 phần: Vỏ trấu bên ngoài, chiếm 20% khối lƣợng của hạt thóc, nó rất giàu silic và có thành phần chủ yếu là cellulose, lớp vỏ lụa mỏng bên trong (cám) bao quanh hạt gạo. Khi xát thóc và chế biến gạo thì phần vỏ lụa đƣợc chà bong ra kèm với phần nội nhũ của hạt thóc, cho ta thứ phụ phẩm là cám gạo thơm, ngọt giàu dinh dƣỡng chứa khoảng 11 - 13% protein thô, 10 - 15% lipit và đặc biệt rất giàu vitamin B1 nên có tính ngon miệng cao. Hạt thóc đƣợc dùng chủ yếu cho loài nhai lại và ngựa, gạo làm lƣơng thực nuôi sống con ngƣời, tấm và cám chủ yếu dùng cho nuôi lợn và gia cầm.
Trong chăn nuôi, có khi ngƣời ta dùng cả lúa nguyên hạt nghiền mịn dùng làm thức ăn cho gia súc. Tuy nhiên, những mảnh vỏ trấu chƣa nhiều silic trong thức ăn nghiền có cạnh sắc, gây thƣơng tổn niêm mạc đƣờng tiêu hóa của gia súc, ảnh hƣởng xấu tới tỷ lệ tiêu hóa, vì thế, đây là cách sử dụng hạt thóc lợi bất cập hại.
39
1.3.3.3. Tấm gạo
Tấm gạo là những mảnh gạo nhỏ vỡ ra từ hạt gạo nguyên trong quá trình xay xát, là sản phẩm phụ của ngành xay giã chế biến thóc, gạo. Có một vài loại cỡ hạt tấm khác nhau, phụ thuộc vào công nghệ xay xát. Hiện nay, ngành xay xát, chế biến gạo xuất khẩu của nƣớc ta tập trung chủ yếu ở miền Nam. Trong quá trình chế biến cho ra 3 loại tấm gạo có cỡ nhƣ sau: loại 1/2, 1/3 và 1/4, chúng chiếm khoảng 1 - 17% khối lƣợng hạt lúa. Với lƣợng gạo xuất khẩu không ngừng tăng qua các năm, đạt tới gần 6 triệu tấn trong năm 2010, thì lƣợng tấm thu đƣợc để phục vụ chăn nuôi cũng tới hàng chục vạn tấn. Đây là nguồn thức ăn tinh bột tốt cho các loại gia súc, gia cầm vì ít xơ... Thành phần hóa học và giá trị dinh dƣỡng của tấm tƣơng đƣơng gạo, giàu năng lƣợng (3340 kcal ME/kg), xơ thấp (0,9%). Hàm lƣợng protein của tấm gạo dao động trong khoảng 6,73 - 12,49%, nhƣng mức trung bình thƣờng là 9 - 10%. Các thành phần khác nhƣ hàm lƣợng béo, xơ, khoáng, canxi, phốt pho... không bị thay đổi nhiều theo giống. Không có sự khác nhau đáng kể giữa các loại tấm của các giống lúa trồng trên các loại đất khác nhau.
Ở miền Bắc nƣớc ta, đặc biệt là khu vực trung du miền núi, ngành xay xát kém phát triển, chủ yếu là hoạt động tƣ nhân nhỏ lẻ, công nghệ đơn giản nên tấm đƣợc trộn lẫn vào cám gạo. Nếu sử dụng tấm gạo là nguồn cung cấp năng lƣợng chính trong khẩu phần cho gà, gà đẻ sẽ cho ra loại trứng có lòng đỏ nhợt màu, da gà thịt trắng, không phù hợp thị hiếu tiêu dùng của ngƣời Việt Nam, vì vậy, cần bổ sung vào khẩu phần các sắc tố tổng hợp hoặc các loại bột cỏ, bột lá chứa nhiều caroten, xanthophin để khắc phục hiện tƣợng này.
Tấm gạo thƣờng ít bị nhiễm nấm mốc sinh độc tố aflatoxyn nên có thể sử dụng với tỷ lệ cao trong khẩu phần gia súc.
1.3.3.4. Cám gạo
Cám gạo là sản phẩm phụ có tỷ lệ cao nhất khi xay xát thóc lúa để sản xuất gạo. Nếu tính lƣợng cám thu đƣợc bình quân là 10% khối lƣợng lúa thì với sản lƣợng lúa thu đƣợc của toàn vùng là hơn 3 triệu tấn, khu vực TDMNPB có ít nhất 30.000 tấn cám gạo để dùng cho chăn nuôi. Cám gạo là hỗn hợp của các thành phần chính trong hạt lúa gồm vỏ lụa bao quanh hạt gạo, phôi nhũ, một phần nhỏ trấu và một ít tấm. Chất lƣợng của cám thay đổi tùy thuộc vào hàm lƣợng trấu trong cám và chất lƣợng của công nghệ xay xát thóc gạo. Cám lẫn nhiều trấu sẽ giảm chất lƣợng do tăng tỷ lệ xơ thô và silic, giảm tỷ lệ tiêu hóa chung. Tùy theo lƣợng trấu còn ít hay nhiều mà cám đƣợc phân thành loại I, loại II hay loại III. Hiện nay, trên thị trƣờng không còn cám loại III do chất lƣợng thấp.
Cám là nguồn cung cấp vitamin B1 phong phú, ngoài ra còn có cả vitamin B6 và B4, 1kg cám gạo có khoảng 22mg vitamin B1, 13mg vitamin B6 và 0,43mg B4. Cám gạo là sản phẩm có giá trị dinh dƣỡng cao, chứa 11 - 13% protein thô, 10 - 15% lipit thô, 8 -
40
9% chất xơ thô, khoáng tổng số là 9 - 10%. Khi đem hấp chín và ép thì lipit thô trong cám sẽ đƣợc chiết ra, dịch chiết thu đƣợc là dầu cám. Đây là sản phẩm chứa chủ yếu là các axit béo không no. Các axit béo này trong dầu cám dễ dàng bị oxy hóa làm cho cám bị ôi, giảm chất lƣợng của cám và làm cho cám trở nên đắng, khét. Do vậy, trong quy mô công nghiệp có thể ép hết dầu để cám gạo bảo quản đƣợc lâu hơn. Cũng có thể bảo quản cám bằng các biện pháp hấp, trộn với muối, xông khói... Ở miền núi, thóc gạo chủ yếu đƣợc chế biến ở các cơ sở xay xát tƣ nhân có công suất nhỏ, dây chuyền đơn giản, cám sản xuất ra tới đâu đƣợc tiêu thụ hết tới đó. Chất lƣợng các mẫu cám ít biến đổi bởi công nghệ mà chủ yếu là do yếu tố giống lúa, các giống lúa đặc sản thƣờng có chất lƣợng cám cao hơn.
Cám gạo là một nguồn phụ phẩm rất tốt cho vật nuôi, có thể dùng thay thế một phần thức ăn tinh trong khẩu phần loài nhai lại và lợn. Tuy nhiên, cám có hạn chế là các chất đƣờng trong nó không phải tinh bột, đó là những đƣờng đa do những đƣờng đơn tạo nên thông qua các liên kết β - 1,4; β - 1,6 - glycosit... nên tỷ lệ tiêu hóa cám ở gia súc dạ dày đơn không cao.
Cám gạo chứa 14 - 18% dầu, dầu này có thể đƣợc chiết từ cám để tránh gây mùi ôi khó chịu trong quá trình bảo quản, nguyên nhân là do sự hoạt động của các enzym lipolytic khi cám đƣợc tách ra từ gạo đã làm tăng nhanh thành phần axit béo tự do. Hàm lƣợng axit béo tự do của cám từ gạo đã luộc qua là dƣới 3%, nhƣng ngay sau khi nghiền có thể tăng nhanh với tỷ lệ 1%/giờ. Quá trình gây ôi của dầu trong cám có thể đƣợc hạn chế bằng phƣơng pháp xử lý nhiệt hay phơi khô ngay sau khi xay, nghiền gạo. Xử lý nhiệt ở nhiệt độ 100oC trong vòng 4 - 5 phút bằng hơi nƣớc nóng là đủ để làm chậm lại quá trình sản sinh axit béo tự do. Cám có thể đƣợc làm khô bởi nhiệt bằng cách trải rộng trên các khay chứa và xử lý ở nhiệt độ 200oC trong vòng 10 phút. Độ ẩm trong cám tốt nhất nên ở 4% trong khi bảo quản sẽ làm vô hiệu hóa sự phân giải các chất dinh dƣỡng.
Cám gạo còn là nguồn vitamin B phong phú và là loại thức ăn khá hấp dẫn cho gia súc, gia cầm. Dầu cám là nguyên nhân gây mỡ mềm, ngoài việc lƣu ý dầu cám ra, cám là nguồn thức ăn cho tất cả các đối tƣợng gia súc. Lƣợng cám tối đa có thể dùng trong khẩu phần trâu bò là 40%, của lợn không nên quá 30 - 40%. Tuy nhiên, giai đoạn cuối vỗ béo cần giảm tỷ lệ cám trong khẩu phần để tránh hiện tƣợng mỡ mềm, gia cầm chỉ nên dùng 25% của khẩu phần. Cám không khử dầu đƣợc sử dụng nhƣ là chất mang, chất kết dính trong thức ăn hỗn hợp. Cám gạo thƣờng có pha lẫn vỏ trấu vì vậy thành phần xơ có thể tăng lên 10 - 15%.
Những điểm cần chú ý khi sử dụng cám
- Có thể sử dụng với mức cao trong khẩu phần: Từ 30 - 70%, nhƣng phải phối hợp thêm các loại thức ăn giàu đạm.
- Cần có biện pháp chế biến thích hợp nhƣ ủ men, ủ chua, lên men nhẹ, đƣờng hoá, nấu chín... để nâng cao tỷ lệ tiêu hóa.
- Khi dùng hỗn hợp hạt ngũ cốc cần bổ sung thêm canxi. Đối với gia súc dạ dày đơn, không nên cho ăn quá nhiều và cần bổ sung thêm phospho vô cơ.
41
1.4. THỨC ĂN GIÀU PROTEIN CÓ NGUỒN GỐC THỰC VẬT
1.4.1. Tiềm năng nguồn thức ăn đậu đỗ của vùng trung du miền núi phía Bắc Với đặc điểm là khu vực đa dạng về thành phần dân tộc, văn hóa, khu vực này lƣu giữ nhiều giống cây thuộc bộ Đậu đỗ rất đặc sắc về chất lƣợng, hƣơng vị, đƣợc sử dụng để làm thức ăn cho con ngƣời và vật nuôi. Tổng số 110 mẫu hạt đậu đỗ đã đƣợc thu thập để phân tích thành phần hóa học, thành phần axit amin, khoáng và vitamin. Trong số mẫu thu về có 88 mẫu đậu, 14 mẫu lạc và 8 mẫu vừng, là những minh chứng cụ thể cho nhận xét trên. Đây là những giống cây trồng có sự thích nghi cao với các điều kiện đất đai, khí hậu tự nhiên, tập quán canh tác và thị hiếu tiêu dùng của nhân dân các dân tộc sinh sống trong khu vực. Ngoài giá trị để làm thức ăn, nhiều giống đậu đỗ đƣợc trồng để cải tạo đất trong công thức luân canh, xen canh trên hệ thống canh tác nƣơng rẫy ở vùng cao nhƣ cây đậu nho nhe, cây đậu Mèo, đậu răng ngựa, đậu đỏ, đậu quốc... Chỉ tính riêng những cây đậu đỗ chủ lực là đậu tƣơng và lạc thì hàng năm khu vực TDMNPB đã sản xuất một khối lƣợng sản phẩm lớn. Ở nhiều địa phƣơng, cây đậu tƣơng và cây lạc đã là cây trồng chiếm tỷ trọng cao trong thu nhập từ nông nghiệp, nhƣ Hoàng Su Phì, Xín Mần (Hà Giang), Pắc Nậm, Ba Bể (Bắc Kạn), Bắc Hà, Si Ma Cai (Lào Cai)... Số liệu thống kê về diện tích và sản lƣợng đậu tƣơng, lạc sản xuất ở khu vực trung du miền núi phía Bắc đƣợc đƣa ra ở bảng dƣới đây:
Tình hình sản xuất đậu tƣơng, lạc ở khu vực TDMNPB
Loại cây
trồng
Diện tích (1000 ha)
Sản lƣợng (1000 tấn)
2007
2008
2009
2007
2008
2009
Lạc
44,20
50,50
50,40
70,20
85,30
86,30
Đậu tương
62,00
63,30
61,90
69,90
75,70
74,40
Nguồn: Niên giám Thống kê 2009 - Nhà xuất bản Thống kê.
Về cây lạc: Các tỉnh trồng nhiều lạc là Bắc Giang (23,1 ngàn tấn), Tuyên Quang (12,4 ngàn tấn), Phú Thọ (10,4 ngàn tấn) và Hòa Bình (9,5 ngàn tấn). Các giống lạc của ta nói chung năng suất còn thấp và tỷ lệ dầu chƣa cao so với các giống lạc tốt của thế giới.
Về đậu tƣơng: Tỉnh Hà Giang là địa phƣơng trồng nhiều đậu tƣơng nhất với 21,20/61,90 ngàn ha (chiếm trên 34,24% diện tích đậu tƣơng toàn vùng), sản lƣợng thu hoạch cao nhất: 23,70/74,40 ngàn tấn (chiếm gần 30% sản lƣợng đậu tƣơng toàn vùng). Chất lƣợng đậu tƣơng của Hà Giang khá tốt, tỷ lệ protein trong khoảng 37 - 39% và hàm lƣợng xơ thấp, rất đƣợc ƣa chuộng để chế biến các loại thực phẩm cho ngƣời nhƣ đậu phụ, sữa đậu, phó mát đậu (tào phớ) cũng nhƣ sử dụng cho chăn nuôi.
Mặc dù sản lƣợng đậu, lạc thu đƣợc hàng năm còn khiêm tốn nhƣng tỷ trọng sản phẩm do khu vực này sản xuất ra so với cả nƣớc là rất đáng kể, trong đó tỷ trọng sản lƣợng lạc là 61,90/525,1 ngàn tấn chiếm khoảng 12%, còn tỷ trọng sản lƣợng đậu tƣơng
42
là 74,40/213,60 ngàn tấn chiếm 33% sản lƣợng đậu tƣơng của cả nƣớc. Hiện nay, ngành trồng trọt đang tích cực đƣa các giống lạc, giống đậu tƣơng năng suất cao vào sản xuất, đi liền với sự ổn định và mở rộng diện tích thì sản lƣợng đậu đỗ của khu vực TDMNPB sẽ tăng lên.
Mặc dù đây là nguồn cung cấp protein chính cho chăn nuôi ở nƣớc ta nhƣng hiện tại với mức sản lƣợng đạt đƣợc, sản phẩm hạt đậu đỗ chủ yếu để tiêu thụ nội địa làm thực phẩm cho ngƣời, phần dùng cho chăn nuôi ít và chƣa đƣợc thống kê. Hàng năm chúng ta phải nhập khá nhiều các loại khô dầu đậu tƣơng, khô dầu lạc từ nƣớc ngoài mà chủ yếu là Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc... để phục vụ chăn nuôi.
1.4.2. Đặc điểm của thức ăn hạt đậu đỗ
Hạt đậu đỗ đƣợc hiểu là những loại thức ăn thực vật giàu protein, chất béo (đặc biệt đậu tƣơng, lạc, vừng) chủ yếu nằm trong bộ Đậu. Đậu đỗ và các sản phẩm phụ của chế biến đậu đỗ là nguồn cung cấp protein chính trong khẩu phần ăn của vật nuôi ở nƣớc ta nói chung, trong đó có khu vực trung du miền núi phía Bắc.
Hạt bộ Đậu giàu protein và các loại axit amin thiết yếu. Tỷ lệ protein trong đậu đỗ và khô dầu của nó dao động rất lớn từ 20 - 50% phụ thuộc vào chủng loại, trong đó có hơn 95% là nitơ protein, đƣợc gia súc tiêu hóa tƣơng đối tốt (75 - 90%). Giá trị sinh học của protein đậu đỗ cao hơn so với hạt ngũ cốc, trung bình vào khoảng 72 - 75%. Hạt đậu tƣơng có tỷ lệ và chất lƣợng protein cao nhất, tƣơng đƣơng protein động vật, nó có đủ các axit amin thiết yếu đáp ứng nhu cầu của vật nuôi. Đặc biệt, protein đậu đỗ giàu lysine (trừ khô dầu lạc) là axit amin thƣờng hay thiếu hụt trong khẩu phần của gia súc. Các loại hạt đậu đỗ khác có thành phần hóa học rất khác nhau, protein biến động trong khoảng 20 - 30%.
Trong hầu hết các loại hạt đậu đỗ thƣờng chứa một số độc tố, các chất kháng men tiêu hóa, nhất thiết phải đƣợc xử lý nhiệt trƣớc khi sử dụng để phá hủy các chất kháng men.
1.4.3. Đặc điểm một số đậu đỗ và sản phẩm phụ của chế biến đậu đỗ
1.4.3.1. Đậu tương và khô dầu đậu tương
Đậu tƣơng đƣợc trồng rộng rãi ở nhiều nƣớc, đặc biệt ở một số nƣớc Bắc và Nam Mỹ, nhiều nhất là Mỹ, Argentina, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ. Đậu tƣơng là nguồn cung cấp chủ yếu nhu cầu về protein cho chăn nuôi. Ở Việt Nam, đậu tƣơng đƣợc trồng đƣợc ở nhiều vùng. Riêng trong khu vực trung du miền núi phía Bắc thì Hà Giang là tỉnh trồng nhiều đậu tƣơng nhất, tập trung chủ yếu ở huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần. Các tỉnh khác cũng tùy điều kiện mà tập trung trồng đậu tƣơng ở những
vùng có điều kiện phù hợp. Tuy nhiên, diện tích và sản lƣợng chƣa nhiều, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngành chăn nuôi do năng suất và hiệu quả kinh tế thấp, do vậy, hiện tại mỗi năm nƣớc ta vẫn còn phải nhập đậu tƣơng và khô dầu đậu tƣơng từ nhiều nƣớc nhƣ Argentina, Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ với số lƣợng tƣơng đối lớn, từ 700.000
43
- 1.000.000 tấn. Hiện nay, trên 60% đậu tƣơng của Mỹ và 90% đậu tƣơng của Argentina là sản phẩm biến đổi gen. Các nhà máy chế biến thức ăn vật nuôi ở khu vực TDMNPB còn ít và công suất nhỏ sử dụng rất ít trong số khô dầu đậu tƣơng nhập khẩu hàng năm.
Protein trong đậu tƣơng chiếm tỷ lệ rất cao (35 - 40%), xếp vào loại cao nhất trong các loại đậu đỗ. Giá trị sinh học của protein đậu tƣơng cao nhất trong các nguồn đạm thực vật và tƣơng đƣơng với nhiều loại protein động vật. Protein đậu tƣơng khá cân đối các axit amin thiết yếu so với nhu cầu của vật nuôi. Đặc biệt, protein đậu tƣơng giàu lysine, là axit amin thƣờng hay thiếu hụt trong nhiều loại thức ăn, chỉ có methionine trong đậu tƣơng còn thấp hơn so với nhu cầu của gia súc, gia cầm. Đậu tƣơng, khô đậu tƣơng rất giàu leucine, arginine, lysine, isoleucine, phenylalanine nhƣng nghèo methionine. Không có sự khác nhau nhiều giữa các giống đậu tƣơng, các loại đậu tƣơng trồng trên các đất khác nhau.
Đối với đậu tƣơng nguyên hạt, có thể sử dụng làm thức ăn cho gia súc với các biện pháp chế biến đơn giản. Tuy nhiên, do tỷ lệ chất béo trong hạt đậu tƣơng tƣơng đối cao (18 - 20%) nên tỷ lệ sử dụng đậu tƣơng cao trong khẩu phần không chỉ đắt tiền mà còn làm cho thức ăn chứa quá nhiều năng lƣợng, không phù hợp với nhu cầu vật nuôi. Dầu đậu tƣơng chứa nhiều (khoảng 50%) axit béo không thay thế (linoleic), có tác dụng nâng cao khối lƣợng trứng gà. Khẩu phần gà đẻ nên chứa ít nhất 10% đậu tƣơng hạt. Tuy nhiên, khẩu phần lợn thịt nếu sử dụng nhiều đậu tƣơng sẽ có nhiều dầu sẽ ảnh hƣởng đến chất lƣợng mỡ. Trong sản xuất thƣờng có hai phƣơng pháp chính để tách dầu từ đậu tƣơng là ép và chiết bằng dung môi, từ đó cho ra 2 loại sản phẩm khô dầu khác nhau, chủ yếu về tỷ lệ protein và chất béo. Ở khô dầu đậu tƣơng ép, lƣợng chất béo còn lại trên 6% và protein từ 39 - 41%; khô dầu đậu tƣơng chiết ly thì chất béo còn lại thấp, dƣới 2% và protein thô cao hơn, tới 42 - 45%. Chất lƣợng protein đậu tƣơng tƣơng đối hoàn hảo (chỉ cần bổ sung methionine). Các thí nghiệm của Lã Văn Kính và cộng sự (1999), Hoàng Toàn Thắng và cộng sự (2002), Trần Tố (2004) và Lê Huy Liễu (2006)... cho thấy đậu tƣơng và khô dầu đậu tƣơng hoàn toàn có thể đƣợc sử dụng nhƣ nguồn cung cấp protein duy nhất trong khẩu phần ăn của gà.
Thành phần hóa học của đậu tƣơng trồng ở nƣớc ta biến động tƣơng đối rộng do trồng nhiều giống khác nhau, điều kiện đất đai, khí hậu, mùa vụ, kỹ thuật canh tác ở các vùng cũng khác nhau. Nhìn chung, tỷ lệ protein trong hạt đậu tƣơng trồng ở vùng TDMNPB khá cao, trung bình khoảng 38% (biến động từ 36 - 41%), chất béo trung bình ở mức 17,8% (từ 15 đến 22%).
Cũng nhƣ các loại hạt đậu khác, trong hạt đậu tƣơng sống có chứa các chất kháng men tiêu hóa làm giảm sự tiêu hóa protein, đặc biệt là đối với gia súc dạ dày đơn và gia cầm. Do vậy hạt đậu tƣơng cần đƣợc xử lý nhiệt nhằm phá hủy chất kháng men tiêu hóa trƣớc khi dùng. Những chất độc chính có trong đậu tƣơng là:
44
Chất ức chế men proteaza (proteasa inhibitors): Về bản chất, đây là những protein thực vật, chúng bao bọc và ức chế enzym tiêu hóa trong dạ dày đơn, đƣờng ruột. Đậu tƣơng chứa chất kháng men (trypsin inhibitor) gây ức chế men tuyến tụy là trypsin và chymotrypsin, hậu quả dẫn đến là tỷ lệ tiêu hóa protein giảm và tuyến tụy bị sƣng vì phải tiết nhiều dịch bù đắp cho sự mất mát hoạt tính enzym, chất ức chế men này bị phá hủy bởi nhiệt.
Allergin: Đậu tƣơng chứa một số loại protein là glicinin và conglicinin gọi chung là allergin gây hại cho động vật non, nó bền vững với nhiệt nhƣng trong thực tế sản xuất, sự có mặt của nó trong khẩu phần không có hại đối với gia cầm và lợn lớn.
Lectins: Lectins hoặc hemaglutinins là protein gây ngƣng kết hồng cầu, rất độc nếu tiêm chích cho gia súc ở dạng đậm đặc. Bằng đƣờng ăn uống, lectins có thể kết hợp với tế bào ruột làm giảm sự hấp thu protein. Lectin đậu tƣơng có độc tính thấp hơn so với lectin của các loại hạt đậu khác, nó dễ bị phá hủy bởi nhiệt trong quá trình chế biến.
Photoestrogens: Là hợp chất isoflavons có hoạt tính oestrogenic, chúng không bị phá hủy bởi nhiệt nhƣng sự có mặt của nó trong hạt đậu tƣơng không đủ lƣợng gây độc cho lợn, gà.
Lipoxygenaze: Thƣờng đƣợc gọi là saponin, đây là một glucozide có vị đắng, gây dị ứng màng nhầy và nhiều ảnh hƣởng sinh học khác nhƣ gây tăng tiết cholesterol, giảm sinh trƣởng, nồng độ cao gây ra sự tan máu. Saponin không bị phá hủy bởi nhiệt độ nhƣng là hàm lƣợng của nó chƣa đủ để gây độc trong thực tế.
Oligosacharides: Đậu tƣơng chứa khoảng 6,2% saccharose, 1,4% rafinoza và 5,2% stachyoza (tính theo vật chất khô). Những đƣờng tan này dễ bị lên men ở ruột già, sinh khí độc có hại cho động vật. Các đƣờng này không bị phá hủy bởi nhiệt độ, nhƣng nếu tách các đƣờng rafinoza, stachyoza ra sẽ nâng cao giá trị dinh dƣỡng của đậu tƣơng (ME tăng).
Phytin: Là một loại hợp chất khoáng của phốt pho với axit phytic ở dạng phức hợp của hexaphosphote và inositol, nó bền vững với nhiệt độ. Vì phốt pho của phytin không dễ tiêu nên nó không đƣợc coi là nguồn phốt pho. Có thể thêm enzym phytaza vào thức ăn để biến phytin thành phốt pho dễ tiêu và giảm ô nhiễm môi trƣờng gây ra bởi phốt pho trong phân gia súc. Những nghiên cứu theo hƣớng này đang đƣợc các nhà khoa học ở Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên phối hợp với Viện Chăn nuôi tiến hành trên lợn, gà.
1.4.3.2. Lạc và khô dầu lạc
Khu vực trung du miền núi phía Bắc là nơi còn lƣu giữ nhiều giống lạc bản địa với đặc điểm riêng là hạt nhỏ, mùi thơm đặc biệt và nói chung năng suất thấp. Lạc không chỉ là nguồn thực phẩm quan trọng của ngƣời dân, đƣợc dùng trực tiếp ở các dạng rang, luộc, nấu canh, làm kẹo... mà ở một vài nơi, lạc còn đƣợc ép lấy dầu theo phƣơng pháp thủ công. Lạc là nguồn thức ăn bổ sung chất đạm, chất béo quan trọng trong bữa ăn của nhiều ngƣời, nhiều vùng nông thôn miền núi. Việc sử dụng lạc làm thức ăn gia súc, gia cầm hầu nhƣ không có tập quán.
45
Về thành phần hóa học của hạt lạc: Kết quả phân tích 14 mẫu lạc hạt cho thấy: Lạc có tỷ lệ lipit thô rất cao, biến động từ 45 - 51%. Tỷ lệ protein thô cao, biến động từ 28,4 - 33.7%. Hàm lƣợng xơ thô và khoáng thấp, tỷ lệ vật chất không chứa nitơ cao, khoảng 45 - 46%. Đặc biệt, lạc là loại đậu đỗ dễ ăn, dễ chế biến, hợp thị hiếu của hầu hết mọi ngƣời. Thành phần các chất dinh dƣỡng trong khô dầu lạc rất khác nhau, chủ yếu phụ thuộc vào quy trình kỹ thuật tách, ép dầu. Protein trong khô dầu lạc biến động từ 30 - 50%, xơ thô từ 6 - 22%, béo thô 5 - 10%, năng lƣợng trao đổi 2300 - 3400 Kcal ME/kg. Khô dầu thu đƣợc từ hạt lạc đã đƣợc tách bỏ vỏ có giá trị dinh dƣỡng cao hơn từ lạc chƣa tách vỏ hoặc tách một phần vỏ. Khô dầu thu đƣợc từ kỹ thuật chiết tách dầu bằng máy hoặc dung môi hữu cơ có hàm lƣợng béo thấp hơn và các chất dinh dƣỡng còn lại cao hơn so với khô dầu ép thủ công. Chất lƣợng protein trong khô dầu lạc thấp hơn so với một số loại đậu đỗ khác do thiếu hụt nhiều axit amin thiết yếu so với nhu cầu của gia súc, nhất là lysine và methionine. Do vậy, khi sử dụng khô dầu lạc cần chú ý bổ sung những loại thức ăn giàu lysine nhƣ bột cá, khô dầu đậu tƣơng hoặc bổ sung axit amin tổng hợp.
Khô dầu lạc rất dễ nhiễm nấm Apergillus flavus sinh ra các độc tố đó là aflatoxyn B1, G1, B2, G2 trong đó aflatoxyn B1 là nguy hiểm nhất. Nhiều lúc, nhiều nơi có mẫu chứa đến 1500 - 2000 ppb. Thức ăn hỗn hợp cho gà không nên chứa quá 10 ppb. Hiệp hội ngũ cốc Mỹ đã khuyến cáo thức ăn cho gà con không nên chứa quá 20 ppb và gà đẻ không quá 50 ppb aflatoxyn. Aflatoxyn làm tăng độ mẫn cảm của gia cầm với các tác nhân stress, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn, hủy hoại hệ thống miễn dịch, rối loạn trao đổi protein và chất béo. Độ mẫn cảm đối với độc tố aflatoxyn ở các loại gia súc khác nhau là khác nhau. Trong gia cầm thì gà tây, vịt mẫn cảm hơn so với ngỗng, ngan, gà. Trong gia súc thì chó, lợn, bò mẫn cảm hơn ngựa, cừu. Cùng loại gia súc thì gia súc non mẫn cảm hơn gia súc trƣởng thành. Do vậy không nên sử dụng khô dầu lạc nhiều tộc tố aflatoxyn ở mức cao làm thức ăn cho lợn, gia cầm. Trƣờng hợp nhiễm ở mức thấp thì có thể sử dụng khô dầu lạc cho gia súc trƣởng thành ở mức hạn chế (không nên vƣợt quá 15% trong khẩu phần).
1.4.3.3. Vừng và khô dầu vừng
Cây vừng gồm nhiều chủng loại giống khác nhau (vừng trắng, vừng đen, vừng hoa...) đƣợc nhân dân các dân tộc vùng TDMNPB trồng rải rác, hạt vừng thu đƣợc chủ yếu để làm thực phẩm và chế biến bánh kẹo. Đây là loại cây cho hạt chứa dầu với tỷ lệ cao. Hạt vừng khô có tỷ lệ nƣớc thấp, hàm lƣợng lipit 39 - 47%, chủ yếu là các axit béo không no, hàm lƣợng protein 23 - 29%, xơ thô 7,6 - 17,44%, khoáng tổng số 2,6 - 5,47%. Vỏ hạt vừng khá dày và khó tiêu nên khi sử dụng phải chà tróc vỏ.
Ở nhiều địa phƣơng, trƣớc kia ngƣời dân ép vừng lấy dầu ăn, thắp sáng và làm thuốc nhuận tràng, sản phẩm còn lại là khô dầu vừng rất giàu dinh dƣỡng. Thành phần dinh dƣỡng của khô dầu vừng dao động nhiều tùy theo giống sử dụng (hạt màu trắng, nâu, đen), mức độ tách vỏ và phƣơng pháp chế biến. Khô dầu vừng thu đƣợc bằng phƣơng pháp ép chứa nhiều chất béo và ít protein hơn phƣơng pháp chiết ly. Về mặt hóa
46
học, khô dầu vừng chứa 38 - 48% protein thô, 0,7 - 11% béo, 5 - 7% xơ, 9 - 13% khoáng, nhiều axit oxalic (35 mg/100g) axit phytic (5%). Các axit này có mặt trong vỏ (quả giống vừng màu sẫm) ngăn cản việc sử dụng các chất khoáng nhƣ canxi, phốtpho, kẽm, sắt, manhê..., đồng thời gây vị đắng và giảm tính thèm ăn của gia súc, gia cầm. Việc tách vỏ trƣớc khi ép, chiết ly sẽ loại bỏ hầu nhƣ hoàn toàn 2 axit trên.
- Protein của khô dầu vừng giàu methionine, cystine, tryptophan, leucine, arginine và phenylalanine nhƣng nghèo lysine và threonine. Cho nên việc dùng khô dầu vừng cần đƣợc phối hợp với thức ăn giàu lysine.
Dầu cặn còn dƣ trong khô dầu vừng chứa nhiều axit béo không no và nó có thể gây tình trạng mỡ nhão nếu gia cầm ăn với lƣợng nhiều. Dầu còn lại trong khô dầu vừng nhanh bị ôi và gây mất tính ngon miệng. Khô dầu vừng có nhiều axit phytic, làm phốt pho của nó khó tiêu, vì vậy khẩu phần chứa nhiều khô dầu vừng có thể cần bổ sung một lƣợng canxi nhất định cho cân đối tỷ lệ Ca/P. Khô dầu vừng loại tốt có tính ngon miệng tƣơng đối cao và cũng có tính nhuận tràng. Lã Văn Kính và cộng sự (2003) ở Viện Khoa học kỹ thuật miền Nam nghiên cứu sử dụng khô dầu vừng trên gà đẻ thấy rằng nếu cân đối dinh dƣỡng tốt, có thể sử dụng từ 5% tới 10% khô dầu vừng.
Trong quá trình thu thập mẫu thức ăn trên địa bàn các tỉnh TDMNPB, chúng tôi không thu đƣợc một mẫu khô dầu vừng nào, có thể sự có mặt của dầu ăn công nghiệp, dầu hỏa và điện thắp sáng... đã làm cho nhu cầu về sản phẩm ép dầu vừng không còn lý do để tồn tại?
1.4.3.4. Đậu xanh
Hạt thƣờng nhỏ, hình oval, đều hạt, có màu xanh rêu, bóng, hoặc hơi mốc vỏ, đậu thƣơng phẩm thƣờng khô, giòn. Thịt hạt màu vàng hoặc trắng. Các mẫu hạt thƣờng không lẫn hạt lép và vật lạ. Giá trị dinh dƣỡng của hầu hết các mẫu thu đƣợc là nhƣ nhau (protein: 20%; béo: 2%; xơ: 5 - 6%)... và nói chung có độ dao động thấp. Đậu xanh ở miền núi chủ yếu trồng trên nƣơng hoặc ruộng một vụ vào vụ Xuân, theo phƣơng thức chuyên canh hoặc xen canh với ngô xuân, lạc xuân. Đậu xanh dùng chủ yếu cho nhu cầu của con ngƣời, sản phẩm tận thu cho chăn nuôi chính là phần phôi nhũ tách ra khi chế biến đậu mảnh đóng gói, số lƣợng không nhiều và không thể ƣớc tính đƣợc sản lƣợng.
Hiện nay, các giống đậu xanh bản địa gọi là đậu xanh mốc, lòng vàng, năng suất thấp đang dần đƣợc thay thế bởi các giống đậu xanh mới da trơn, vỏ xanh mỡ, thịt hạt màu vàng nghệ và có năng suất cao.
1.4.3.5. Đậu nho nhe
Hạt to hơn đậu xanh, màu nâu pha chấm đen nhƣ trứng cuốc. Loại đậu này có hƣơng vị thơm bùi gần giống đậu xanh. Đậu nho nhe là giống đậu bản địa đặc trƣng của các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc đặc biệt là vùng đồng bào Mông sinh sống.
47
Đậu nho nhe thƣờng đƣợc trồng xen canh trên nƣơng ngô hè thu, thân ngô làm giá thể cho cây đậu leo lên sau khi ngô đã thu bắp. Khi trồng ngƣời dân bỏ 2 loại hạt giống vào chung một hốc, trong quá trình sinh trƣởng một vài đợt thu lá đậu nho nhe đƣợc ngƣời Mông vùng cao tiến hành để thái nhỏ cùng cỏ hòa thảo, thân ngô non làm thức ăn vỗ béo bò. Cuối thu khi tiết trời miền núi cao khô ráo thì cũng là lúc thu hoạch ngô nƣơng và đậu để dự trữ cho đến vụ sau, đất đai đƣợc bỏ hóa vụ Đông Xuân để sau đó lại đƣợc tiếp tục canh tác trong vụ Hè Thu năm sau. Đây là phƣơng thức xen canh rất khoa học của đồng bào Mông trong hệ thống canh tác nƣơng rẫy. Các mẫu đậu nho nhe trên thị trƣờng khá thuần nhất không lẫn lép lửng, tạp chất. Thành phần hóa học ít biến động, trong đó tỷ lệ protein từ 23,5 - 24,5% tùy ẩm độ mẫu, tỷ lệ mỡ rất thấp 0,88%, tỷ lệ xơ 8,02%, năng lƣợng trao đổi khá cao 3200 - 3400 Kcal ME...
Đậu nho nhe thƣờng đƣợc sử dụng ăn lẫn ngô, cho gia súc hoặc bán để làm nhân bánh rán, bánh trƣng, bánh gù...
1.4.3.6. Các loại đậu đỗ khác
Khu vực miền núi và trung du phía Bắc còn có rất nhiều các loại đậu đỗ bản địa khác, chúng đƣợc bảo tồn và lƣu truyền theo tập quán canh tác truyền thống nhƣ đậu đen, đậu đỏ, đậu trắng, đậu Mèo xám... Các giống đậu này có màu sắc, kích thƣớc hạt đa dạng, không trồng tập trung chuyên canh mà thƣờng trồng xen canh hoặc rải rác nên năng suất, sản lƣợng thu hoạch thƣờng thấp và không có số liệu thống kê cụ thể. Trong các giống đậu này, đậu đen, đậu đỏ, đậu trắng thƣờng đƣợc sử dụng làm thực phẩm vì có hƣơng vị ngon, bùi. Các loại đậu khác nhƣ đậu Mèo xám, đậu đao, đậu ngồi... ít dùng làm thực phẩm vì có nhiều độc tố và tính ngon miệng không cao. Chúng chủ yếu đƣợc dùng cho gia súc, khi chế biến phải ngâm nƣớc và luộc chín, rang chín để khử bớt độc tố. Giá trị dinh dƣỡng kém hơn các loại đậu trên, tỷ lệ protein 22 - 23%, mỡ 1,24 - 3,91%, tỷ lệ xơ 5,7 - 9%. Các cán bộ khoa học của Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên trong những năm qua đã có nhiều nghiên cứu về các loại đậu đỗ giống địa phƣơng miền núi và phƣơng pháp sử dụng chúng trong chăn nuôi (Hoàng Toàn Thắng, 2004; Trần Tố, 2004; Hoàng Toàn Thắng và Phạm Đức Chƣơng, 2005...).
1.5. THỨC ĂN NGUỒN GỐC ĐỘNG VẬT
Thức ăn nguồn gốc động vật sử dụng cho chăn nuôi thƣờng gồm có sữa, bột sữa; cá, bột cá; các sản phẩm phụ từ chế biến sữa, tôm, cá; các sản phẩm phụ từ chế biến thủy hải sản, từ giết mổ gia súc, gia cầm... Thức ăn nguồn gốc động vật là nguồn cung cấp protein có giá trị sinh học cao, giàu các axit amin thiết yếu so với protein thực vật nhƣ lysine, methionine, tryptophan... Các đối tƣợng vật nuôi tiêu hóa và hấp thu rất tốt nguồn protein động vật. Ngoài ra, thức ăn nguồn gốc động vật còn giàu các vitamin, khoáng đa lƣợng, vi lƣợng, là thành phần không thể thiếu đƣợc trong khẩu phần của các vật nuôi có năng suất cao, các vật nuôi để làm giống, vật nuôi còn non. Thành phần hóa
48
học và giá trị dinh dƣỡng thức ăn nguồn gốc động vật biến động tƣơng đối lớn phụ thuộc vào thành phần nguyên liệu, kỹ thuật chế biến... Với những đặc trƣng của mình, vùng trung du miền núi phía Bắc nói chung thiếu nguồn protein động vật để có thể chủ động trong tổ chức chăn nuôi thâm canh các vật nuôi cao sản ở quy mô hàng hóa. Nguồn thức ăn động vật chính ở khu vực này là sản phẩm phụ của giết mổ các loài gia súc, gia cầm và thủy sản, chỉ có ý nghĩa tận dụng trong chăn nuôi phạm vi hộ gia đình hoặc trang trại nhỏ.
Về thủy sản: Số liệu thống kê tình hình sản xuất thủy sản của vùng cho thấy năm 2009 sản lƣợng thủy sản đạt 55.374 tấn mà chủ yếu là cá nuôi với sản lƣợng thu hoạch 54.857 tấn (Niên giám Thống kê 2009). Nguồn thủy sản này sử dụng làm thực phẩm cho con ngƣời là chính. Một phần nhỏ đƣợc sử dụng cho chăn nuôi hầu hết là dạng cá con, cá tạp với kỹ thuật chế biến đơn giản là rửa sạch ƣớp muối hoặc ủ thêm với men rƣợu để dự trữ, bổ sung thêm trong khẩu phần cho vật nuôi. Các nguồn thức ăn động vật khai thác đƣợc từ thiên nhiên (cá tôm ở sông suối, động vật rừng...) ngày càng ít đi do tình trạng khai thác quá mức, với các giải pháp khai thác, đánh bắt mang tính tận diệt. Vì thế, hầu hết nguồn protein động vật để sản xuất thức ăn cho vật nuôi đều phải nhập từ nƣớc ngoài. Đây chính là một trở ngại làm giảm tính chủ động trong sản xuất thức ăn với giá thành mang tính cạnh tranh để hạ giá thành chăn nuôi trong khu vực.
1.5.1. Cá và bột cá
Bột cá là nguồn thức ăn protein động vật có chất lƣợng rất tốt, đƣợc dùng rộng rãi cho chăn nuôi lợn và gia cầm trên toàn thế giới. Nƣớc ta là một quốc gia có 3200 km bờ biển với nhiều ngƣ trƣờng khai thác hải sản với sản lƣợng cao. Trong những năm gần đây ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản của ta phát triển với tốc độ nhanh, tỷ trọng thu nhập từ thủy hải sản mỗi năm một tăng. Chỉ tính riêng nguồn thu thủy hải sản, năm 2009 nƣớc ta đã thu đƣợc 61.756 tỷ VNĐ giá trị tổng sản phẩm chiếm 3,72% GDP của cả nƣớc. Các sản phẩm phụ của chế biến thủy hải sản rất lớn và đa dạng đƣợc chuyển thành nguồn protein phục vụ chăn nuôi trong đó chủ yếu có bột cá. Tuy nhiên, bột cá là nguồn protein đắt tiền và luôn có nhu cầu cao trên thị trƣờng nên tỷ lệ sử dụng bột cá có xu hƣớng giảm đi. Protein bột cá có chất lƣợng cao vì rất giàu lysine, methionine, tryptophan và các amino axit không thay thế khác. Tỷ lệ tiêu hóa, hấp thu protein, amino axit của bột cá rất cao. Hàm lƣợng protein trong bột cá phụ thuộc nhiều vào nguồn gốc của nó. Bột cá chế biến từ đầu, vây, ruột cá hoặc từ cá ƣớp muối có giá trị dinh dƣỡng thấp hơn bột cá chế biến từ cá nhạt nguyên con. Có 2 loại sản phẩm cá và bột cá đƣợc dùng phổ biến trên thị trƣờng thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam và cả khu vực trung du miền núi phía Bắc.
- Bột cá sấy công nghiệp: Hầu hết các loại bột cá nhập từ nƣớc ngoài nhƣ Peru, Chile đƣợc chế biến bằng công nghệ tiên tiến, cá đƣợc tách bớt mỡ trƣớc khi sấy nghiền
49
nên có chất lƣợng rất cao. Hàm lƣợng protein của loại bột cá này thƣờng cao 63 - 65% và có thành phần amino axit rất cân đối. Một loại bột cá công nghiệp nữa thƣờng đƣợc sản xuất ở các nhà máy của Việt Nam nhƣ bột cá Hạ Long, bột cá Đà Nẵng, bột cá Kiên Giang... từ phế phụ phẩm của công nghiệp chế biến cá cho ngƣời hoặc từ cá con. Hàm lƣợng protein của bột cá này cũng tƣơng đối cao 45 - 60% song thành phần amino axit không ổn định.
- Cá nhạt loại tốt: Các loại cá nhỏ nguyên con nhƣ cá cơm, cá liệt, cá bò... đƣợc phơi nắng trên cát rồi đƣợc cung cấp tới từng cơ sở chăn nuôi để chế biến thức ăn hỗn hợp. Hàm lƣợng protein của loại bột cá này từ 40 - 50%. Việc sử dụng loại bột cá này cho gia cầm phải rất thận trọng, vì chúng thƣờng chứa một lƣợng cát sạn, vi sinh vật có hại cao hơn bột cá sấy và đôi khi có lẫn cả cá độc (cá nóc...) dễ gây chết cho gà con. Để nâng cao chất lƣợng loại bột cá này, cần phải phơi khô lại và loại bỏ các dạng tạp chất trƣớc khi nghiền.
Ngoài ra, trên thị trƣờng cũng lƣu hành một số loại bột cá có chất lƣợng thấp (hàm lƣợng protein khoảng dƣới 40%). Thông thƣờng, đây là bột cá sản xuất từ cá muối phơi khô (thƣờng gọi là bột cá mặn) với các tỷ lệ muối khác nhau, biến động từ 10 đến 35%, protein thô từ 25 - 40%, khoáng tổng số từ 25 - 50%. Chất lƣợng bột cá mặn thƣờng thấp, nghèo các chất dinh dƣỡng, chứa nhiều tạp chất nhƣ đất, cát, các chất độc hại từ quá trình phân hủy protein, nhiều vi khuẩn độc hại, gây bệnh nhƣ E.coli, Salmonella... Loại bột cá này chỉ có thể tận dụng cho trâu bò hoặc lợn thịt, không nên dùng trong khẩu phần cho gia súc non, gia súc sinh sản và gia cầm. Bột cá có hàm lƣợng muối và khoáng càng cao thì hàm lƣợng protein và năng lƣợng lại càng thấp (Lã Văn Kính, 2003). Ở thị trƣờng thức ăn chăn nuôi vùng TDMNPB, dạng sản phẩm cá tạp và bột cá mặn hầu hết do tƣ thƣơng tổ chức khai thác, tiêu thụ trên địa bàn các tỉnh trong khu vực, không có căn cứ để xác định sản lƣợng.
Trƣớc đây, ngƣời ta thƣờng cho rằng bột cá rất quan trọng trong khẩu phần của gà và sự thay thế nó bởi các nguồn protein khác sẽ ảnh hƣởng xấu tới sinh trƣởng và sức khỏe con vật. Quan niệm này bắt nguồn từ những ý kiến cũ cho rằng, bột cá cung cấp “nhân tố protein động vật” mà trong nguồn protein thực vật không có. Nhƣng từ khi phát hiện ra rằng “nhân tố protein động vật” thực chất là cyanocobalamin (còn gọi là vitamin B12) và nguyên tố Se, là một loại khoáng vi lƣợng, các yếu tố này có thể đƣợc đáp ứng bằng cách bổ sung bằng premix khoáng vitamin. Các thí nghiệm, thực nghiệm gần đây của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam và Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên đã cho thấy hoàn toàn có thể sử dụng khẩu phần không chứa protein động vật (chỉ có đậu tƣơng, khô dầu đậu tƣơng và axit amin tinh thể cân đối amino axit trong khẩu phần) để nuôi gà cho kết quả tốt. Kết quả này đã đƣợc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật và nhiều nơi áp dụng thành công trong sản xuất.
50
1.5.2. Bột thịt
Bột thịt thƣờng đƣợc chế biến bằng cách sấy khô, nghiền một phần hoặc toàn bộ thân thịt của gia súc gia cầm không đạt tiêu chuẩn làm thực phẩm cho ngƣời. Thông thƣờng, chất béo đƣợc tách trƣớc khi chế biến bột thịt. Sản phẩm không chứa lông mao, lông vũ, sừng, móng, da, dạ dày, ruột và có hàm lƣợng protein thay đổi lớn phụ thuộc vào quy trình chế biến, dao động từ 55 - 70%, hàm lƣợng chất béo từ 3 - 13%, chứa nhiều canxi, phốt pho, mangan, các vitamin nhóm B. Protein bột thịt giàu lysine nhƣng nghèo methionine, tryptophan, tỷ lệ tiêu hóa của axit amin thịt nhìn chung thấp hơn bột cá. Trong những năm gần đây, tình hình các bệnh truyền nhiễm trên đàn gia súc, gia cầm có nhiều diễn biến phức tạp. Bệnh truyền nhiễm trên vật nuôi không chỉ là vấn đề của một quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn cầu, là thách thức với tất cả các nƣớc trên thế giới vì nhiều bệnh trên vật nuôi có khả năng lây sang ngƣời nhƣ cúm H5N1, cúm A H1N1, bệnh bò điên... Trong đó bột thịt đƣợc xác định là một nguy cơ vì khả năng tồn lƣu các mầm bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Vì thế, một số quốc gia, nhất là các nƣớc châu Âu đã cấm nhập và sử dụng bột thịt trong chăn nuôi, đặc biệt, sau sự kiện “Bệnh bò điên” ở nƣớc Anh những năm 80 - 90 của thế kỷ trƣớc.
1.5.3. Bột máu
Bột máu là sản phẩm phụ của công nghệ giết mổ gia súc. Trƣớc đây, bột máu không đƣợc coi là nguồn protein tốt cho lợn, gà. Bột máu có hàm lƣợng protein rất cao (80%) và rất nhiều lysine nhƣng các phƣơng pháp xử lý cũ làm mất tác dụng của lysine do sự liên kết của lysine với carbonhydrat trong bột máu. Các phƣơng pháp xử lý mới nhƣ sấy phun, sấy Flash đã làm giảm tối đa sự phân giải lysine.
Từ trƣớc tới nay, việc giết mổ gia súc gia cầm ở khu vực TDMNPB đều ở quy mô nhỏ, trong các lò mổ tƣ nhân, máu của con vật bị giết mổ đƣợc sử dụng hầu hết làm thực phẩm, một số ít đƣợc tận dụng để chăn nuôi. Hiện nay, trong xu thế kiểm soát giết mổ để đảm bảo an toàn thực phẩm và kiểm soát tốt dịch bệnh, việc giết mổ đang đƣợc quản lý thống nhất, các sản phẩm thải của nghề này sẽ đƣợc tận thu làm thức ăn chăn nuôi trong đó có máu động vật.
Tuy nhiên, cần chủ động trang bị công nghệ chế biến bột máu khi việc giết mổ đƣợc tập trung thống nhất. Bột máu là loại thức ăn kiềm tính sinh lý do chứa nhiều các loại muối kiềm (NaHCO3, Na2HPO4, K2HPO4), chúng thƣờng chủ yếu sử dụng cho chăn nuôi thƣơng phẩm thịt.
1.5.4. Bột phế phụ phẩm của công nghiệp chế biến thịt gia cầm
Bột này đƣợc chế biến từ đầu, chân, máu, ruột (gần nhƣ không có lông) của gia cầm. Các phế phụ phẩm này đƣợc nghiền, nấu chín, ép bỏ dầu mỡ, sấy khô. Thành phần dinh dƣỡng rất biến động vì tỷ lệ khác nhau của nguyên liệu. Trong khoảng 15 năm trở
51
lại đây, ngành chăn nuôi gia cầm của Việt Nam phát triển với tốc độ nhanh. Trong các doanh nghiệp chăn nuôi gia cầm lớn, việc tổ chức kinh doanh đã đi vào chu trình khép kín từ sản xuất đến lƣu thông phân phối và tiêu thụ sản phẩm, cho nên, những sản phẩm phụ của công đoạn giết mổ gia cầm thịt đƣợc tận thu và là một nguồn protein động vật tốt để sản xuất thức ăn chăn nuôi.
1.5.5. Bột lông vũ
Bột lông vũ đƣợc sản xuất từ lông vũ do nhà máy chế biến thịt gia cầm thải ra. Lông vũ chứa chủ yếu lớp protein chứa lƣu huỳnh trong cấu trúc phân tử có tên gọi là keratin, trong chúng có nhiều liên kết disulfide mà dịch tiêu hóa của động vật lại không chứa enzym phân giải. Để lông vũ có thể là nguồn cung cấp protein, ngƣời ta phải thủy phân keratin bằng hơi khá lâu trong điều kiện áp lực cao. Bột lông vũ có hàm lƣợng protein rất cao (80%) nhƣng cân bằng amino axit nghèo nàn và tỷ lệ tiêu hóa thấp, biến động từ 50 - 70%. Bột lông vũ thƣờng đƣợc sử dụng trong khẩu phần có hàm lƣợng protein thấp, nhất là khẩu phần cho động vật nhai lại. Tỷ lệ tiêu hóa pepsin của bột lông vũ bằng phƣơng pháp Mett thông thƣờng là 70 - 75%. Bột lông vũ hiện nay hầu hết do các cơ sở tƣ nhân sản xuất, công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trƣờng bởi các sản phẩm khí thải chứa lƣu huỳnh.
52
Chƣơng 2
MỘT SỐ LOÀI CÂY THỨC ĂN VẬT NUÔI BẢN ĐỊA
Trong tập quán sản xuất quảng canh truyền thống, hầu hết các dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam đều có thói quen thu hái các loại thức ăn có nguồn gốc từ tự nhiên, nhất là các loại rau xanh để cung cấp cho nhu cầu trong bữa ăn hàng ngày của con ngƣời cũng nhƣ vật nuôi. Trƣớc kia, các loại rau xanh rất ít đƣợc trồng trong vƣờn nhà. Rừng và thiên nhiên quanh nơi ở chính là khu vƣờn lớn cung ứng nhu cầu rau xanh cho con ngƣời và vật nuôi. Hiện nay, các mô hình kinh tế vƣờn ao chuồng đã và đang đƣợc khuyến khích phát triển để cải thiện cơ cấu và chất lƣợng bữa ăn hàng ngày của ngƣời dân. Tuy nhiên, ngƣời dân vẫn duy trì tập quán thu hái, khai thác các nguồn thức ăn tự nhiên sử dụng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm vì không phải mất công trồng cấy, chăm sóc chúng. Hơn nữa các nguồn thức ăn xanh tự nhiên này giá trị dinh dƣỡng và tính ngon miệng cao với nhiều loại vật nuôi, vì thế chúng là phần không thể thiếu trong khẩu phần ăn của vật nuôi khu vực này.
Tùy theo điều kiện từng vùng mà cơ cấu cây thức ăn vật nuôi bản địa có sự khác nhau, tuy nhiên có một số cây thức ăn chính có tính phổ biến ở mọi địa phƣơng trong khu vực và đƣợc hầu hết nhân dân các dân tộc miền núi thu hái, sử dụng nhất là ở những vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, kinh tế kém phát triển.
Các loại cây thức ăn tự nhiên có thể sử dụng chung cho nhiều loại vật nuôi, cũng có nhóm chỉ sử dụng cho từng
loại động vật. Các loại cây dùng cho động vật ăn cỏ nhƣ cây nhò vàng, cây dƣớng, cây hu đay; cây sắn dây..., có loại sử dụng cho lợn nhƣ các loại cây khoai mon rừng, cây bon, cây khoai nƣa, hoặc rong sông... Đặc biệt, một số loại cây họ Đậu địa phƣơng nhƣ cây đậu Mèo, đậu trắng, đậu nho nhe... có tầm quan trọng không những đối với cuộc sống của con ngƣời mà còn cả đối với chăn nuôi của khu vực.
Hình 1. Thu hái rau rừng làm thức ăn cho lợn
53
2.1. Cây nhò vàng
Tên khoa học: Streblus macrophyllus Bl.
Tên địa phƣơng: Mạy tèo.
Cây chịu bóng thƣờng chiếm ƣu thế tầng 2 của rừng núi đá vôi. Phân bố nơi ẩm ƣớt ven suối hoặc trong các thung lũng.
Hay gặp ở các tỉnh: Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Hà Tây (cũ), Hòa Bình, Ninh Bình.
Hình 2. Lá cây nhò vàng dùng làm thức ăn cho trâu bò
Đặc điểm nhận biết
Hình 3. Cây nhò vàng (Mạy tèo) trong tự nhiên tại Ba Bể
Cây gỗ thuộc loại trung bình, cao từ 15 - 20m, đƣờng kính 25 - 30 cm. Là loại cây thân thẳng gồ ghề, lác đác có u bƣớu nhỏ. Vỏ nâu vàng nhạt, vết vỏ đẽo hơi vàng nhiều nhựa mủ trắng. Cành nhỏ dài màu lục, nhẵn.
Lá đơn mọc cách hình trái xoan, đầu lá có mũi nhọn dài, đuôi lá nhọn và gấp, phiến lá dài 10 - 20cm, rộng 4 - 8 cm, cuống lá ngắn. Hai mặt của lá nhẵn, mép lá có răng cƣa thƣa, có 9 - 10 gân bên cong về phía đầu lá. Lá kèm nhỏ có hình tam giác, thƣờng rụng sớm.
Hoa đơn tính cùng gốc. Hoa tự hình bông đuôi sóc mọc lẻ ở nách lá, hoa nhỏ, mẫu 4. Hoa tự cái ngắn hơn, ít hoa mọc ở nách lá, hoa cái có 4 cành đài bầu có cuống ngắn, đầu nhụy xẻ đôi.
Quả cây nhò vàng có hình cầu đƣờng kính khoảng 1,5 cm.
54
Giá trị sử dụng làm thức ăn cho gia súc
Kết quả phân tích cho thấy, cây nhò vàng có lƣợng vật chất khô tƣơng đối cao, đạt tới 50,39%, hàm lƣợng protein thô đạt 5,97%; chất béo thô đạt 3,65%; chất xơ thô đạt 22,80%; chất khoáng thô đạt 7,84%; dẫn xuất không đạm là 10,13%.
Ngƣời dân địa phƣơng thƣờng sử dụng lá cây nhò vàng làm thức ăn cho trâu bò. Theo kinh nghiệm của ngƣời Mông, khi vỗ béo trâu bò nếu cho mỗi một con trâu hoặc bò ăn khoảng 20 kg lá cây Mạy tèo cùng với một ít cỏ hoặc rơm và khoảng 1 kg cám gạo hoặc cám ngô thì trâu bò béo nhanh hơn, lông da bóng mƣợt hơn.
2.2. Cây hu đay
Tên khoa học: Trema angustifolia (Planch) Blume.
Tên địa phƣơng: Mạy hu.
Phân bố
Cây phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Thƣờng mọc tại các khu rừng mới phục hồi và đồi trọc.
Hình 4. Cây hu đay (Mạy hu) Hình 5. Cành và lá cây hu đay làm thức ăn cho gia súc
Đặc điểm nhận biết
Cây bụi cao từ 1 - 3m. Cành mảnh, lúc non có lông ngắn dạng củ và ráp, lúc già nhẵn hay có lông lún phún. Lá hình trái xoan nhọn, tròn hoặc hình tim và bằng ở gốc, nhọn ở chóp, mặt trên của lá sần sùi những chấm nhỏ, do vết của các lông cũ, mặt dƣới nhạt, gân gốc 3, gân bên 2 - 3 đôi, cuống lá có lông củ, lá kèm dễ rụng. Cụm hoa xếp thành xim có ít hoa. Hoa đực có 5 lá đài, 5 nhị và nhụy lép hình trứng chia 2 - 3 thùy, hoa cái có 5 lá đài và bầu nhẵn. Quả chín màu đỏ, hình trái xoan.
Cây hu đay ƣa ánh sáng, chịu đƣợc khô hạn, là loại cây tiên phong thƣờng gặp ở ven rừng hoặc rừng phục hồi sau nƣơng rẫy, nơi đất còn tốt. Mùa hoa nở từ tháng 3 - 7, quả chín từ tháng 8 - 10 hàng năm.
55
Giá trị sử dụng làm thức ăn cho gia súc
Kết quả phân tích thành phần hóa học của cây hu đay cho thấy, lá cây hu đay có thành phần hóa học tƣơng đối cao. Tỷ lệ vật chất khô của lá cây hu đay đạt 31,38%; hàm lƣợng protein thô đạt 4,47%; hàm lƣợng chất béo thô đạt 0,59%; chất xơ thô đạt 5,96%; dẫn xuất không đạm đạt 17,96%.
Đồng bào miền núi thƣờng dùng ngọn non thái nhỏ nấu canh ăn, ngƣời Campuchia cũng sử dụng lá non làm rau ăn. Ở Trung Quốc, rễ và lá đƣợc dùng trị bong gân, chảy máu. Chúng ta thƣờng sử dụng lá cây hu đay làm thức ăn cho trâu, bò, dê.
2.3. Cây dƣớng lá to
Tên khoa học: Broussonetia papyrifera Vent.
Tên địa phƣơng: Mạy Sla
Phân bố
Phân bố rộng khắp các tỉnh ở trung du miền núi phía Bắc Việt Nam. Thƣờng gặp ở ven rừng hoặc đất bỏ hoang sau nƣơng rẫy. Cây dƣớng có biên độ sinh thái rộng đối với ánh sáng và độ ẩm đất.
Đặc điểm nhận biết
✔ Biết đƣợc nơi phân ✔
Là loại cây gỗ nhỏ, cao từ 10 - 15 m. Thân tròn, tán xòe rộng. Vỏ có màu nâu nhạt và nhiều xơ. Vết vỏ đẽo có nhiều nhựa trắng. Cành non phủ nhiều lông mềm màu xám. Lá đơn mọc cách, hình trứng, đầu nhọn gấp, đuôi gần tròn hoặc hình tim đôi khi hình nêm rộng.
Mép lá có răng cƣa, lá non xẻ thùy sâu, hai mặt lá có phủ nhiều hoa nhỏ, hoa đực mẫu 4, nhị ngắn và mọc đối với đài.
Hoa tự hình cầu đƣờng kính 1,2 - 1,8cm, lá bắc hình đầu đinh, đài xẻ 3 - 4 răng, bầu trên; 2 vòi nhụy ở bên dài và cong.
Quả phức hình cầu, đƣờng kính 3cm, khi chín màu đỏ.
Hình 6. Lá cây dướng Hình 7. Cây dướng tại Trùng Khánh - Cao Bằng
56
Giá trị sử dụng làm thức ăn cho gia súc
Gỗ màu trắng, mềm, vỏ nhiều sợi, là cây cho nguyên liệu giấy sợi tốt. Hạt có dầu dùng để chế biến xà phòng và sơn.
Lá cây dƣớng có tỷ lệ vật chất khô đạt 28,80%; hàm lƣợng protein tổng số đạt 2,21%; chất béo tổng số đạt 1,43%; chất xơ thô đạt 11,03% và dẫn xuất không đạm đạt 7,86%. Ngƣời dân thƣờng sử dụng lá cây dƣớng làm thức ăn cho gia súc. Đối với trâu bò, dê, hƣơu nai cho ăn lá tƣơi, đối với lợn thƣờng nấu chín lẫn với ngô, cám.
2.4. Cây sắn dây rừng
Tên khoa học: Pueraria montana (Lour.) Merr.
Tên địa phƣơng: Thau cát.
Thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Phân bố
Thƣờng mọc trong các lùm, bụi, dọc bờ suối và dọc đƣờng đi, trên đất sét, từ vùng thấp tới vùng núi cao 1500m, từ Lai Châu, Bắc Kạn, Lạng Sơn đến Lâm Đồng.
Đặc điểm nhận biết
Là loại cây thân mềm, có khả năng tái sinh cao, thích ứng với khí hậu nóng ẩm mƣa nhiều và phát triển tốt ở những nơi ẩm ƣớt.
Dây leo cao. Lá chét hình trái xoan, dài 9 - 18cm, rộng 6 - 12cm, tròn ở gốc, nhọn sắc ở đỉnh, có lông mềm ở mặt dƣới, gân bên 4 - 5 đôi, cuống lá 10 - 15mm, có lông mềm.
Lá kèm hình ngọn giáo, dài 2,5cm, dễ rụng, lá kèm nhỏ dạng dơi.
Cụm hoa ở nách lá thành chùm dày đặc, dài 15 - 40cm, đài có 4 thùy, tràng 12 - 15mm màu tím, cánh cờ hình mắt chim, bầu có lông.
Quả dẹp, dài 10cm, rộng 1cm, có lông lởm chởm, hạt hình trứng.
Hình 8. Bụi cây sắn dây mọc trong rừng Hình 9. Cây sắn dây
57
Giá trị sử dụng làm thức ăn gia súc
Cây mọc phổ biến và có nhiều tác dụng. Đƣợc dùng làm thuốc chữa cảm mạo phát nhiệt, phiền khát, ẩu thổ, giải say rƣợu, giải độc nọc rắn. Vỏ thân có nhiều xơ có thể dùng làm giấy, củ có thể giã lấy bột, hạt dùng ép dầu. Loại dây sắn dây đỏ đƣợc dùng để bắt trăn đất.
Kết quả phân tích thành phần hóa học của lá sắn dây cho thấy, hàm lƣợng vật chất khô biến động từ 24,30 - 32,73%; hàm lƣợng protein thô từ 3,02 - 3,80%; chất béo thô từ 0,49 - 0,91%; chất xơ thô từ 3,39 - 3,65%; dẫn xuất không đạm từ 14,65 - 23,25%. Ngƣời dân khu vực miền núi thƣờng sử dụng lá sắn dây làm thức ăn cho trâu bò, ngựa và dê.
2.5. Cây đậu Mèo xám
Tên khoa học: Mucuna cochinchinensis (Lour.) A. Chev.
Tên địa phƣơng: Thúa Mèo.
Thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Phân bố
Đậu nhiệt đới có ở nhiều nƣớc, ở nƣớc ta đƣợc trồng nhiều ở các vùng miền núi Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Sơn La, Phú Thọ, Hòa Bình, Bắc Giang, Lai Châu...
Đặc điểm nhận biết
Là loại cây thân thảo, sống hàng năm, dài tới 10m, thân có lông trắng. Lá kép 3 chét, lá chét giữa hình trái xoan, 2 lá chét bên hình móng chó. Mặt dƣới lá có lông trắng, thân lá khi khô có màu đen xám. Rễ có nhiều nốt sần.
1
2
3
Hình 10. Hạt đậu Mèo Hình 11. Đậu Mèo
(1. Cành, lá; 2. Hoa; 3. Quả)
Cụm hoa chùm ở nách lá mọc thòng xuống, dài tới 30cm mang nhiều hoa to màu trắng dài 4 - 5cm. Mỗi mấu có 2 - 3 hoa. Đài hoa hình đấu, có lông trắng mềm. Nhị hoa
58
xếp thành 2 bó. Bầu hoa có lông. Quả tròn mập, hơi cong hình chữ S, dài 10 - 12cm, vỏ quả có nhiều lông màu hung, gây ngứa. Khi quả già khô, mỗi bên có 3 đƣờng gân dọc, quả mang 4 - 5 hạt hình bầu dục dẹt màu xám có vằn.
Hình 12. Quả đậu Mèo (Thúa mèo)
Giá trị sử dụng
Hạt đậu Mèo có hàm lƣợng vật chất khô từ 88,64 - 91,12%; hàm lƣợng protein thô từ 23,17 - 23,89%; hàm lƣợng chất béo thô từ 3,98 - 4,25%; dẫn xuất không đạm từ 48,05 - 49,64%.
Là loại hạt có thể làm thức ăn cho ngƣời và vật nuôi sau khi đã khử độc tố axit cyanhydric bằng rang vàng hay sấy ở nhiệt độ 105 - 106 oC trong vòng 3 - 4 giờ hoặc nấu chín có thay nƣớc 2 - 3 lần. Ngƣời dân miền núi thƣờng sử dụng hạt đậu Mèo để chăn nuôi lợn, gia cầm.
Cành lá tƣơi hoặc lá phơi khô có thể dùng làm thức ăn cho trân bò, lợn. Đậu Mèo còn là cây che phủ đất, có tác dụng chống xói mòn và cải tạo đất tốt.
2.6. Cây khoai nƣa
Tên khoa học: Amorphophallus rivieri Dur.,
Tên địa phƣơng: Toọng nghè.
Họ Ráy (Araceae)
Phân bố
Cây mọc hoang dại nơi rừng thƣa, thung lũng núi đá vôi các tỉnh trung du miền núi phía Bắc và nhiều nơi khác. Có nơi trồng để lấy củ ăn và nuôi lợn.
Đặc điểm nhận biết
Cây thân thảo, có thân củ to hình cầu dẹt, đƣờng kính củ tới 20cm hoặc hơn, thịt củ màu vàng.
59
Hình 13. Cây khoai nưa trồng tại vườn Hình 14. Cây khoai nưa mọc trong tự nhiên
Cuống lá dài tới 60cm hoặc hơn, trên cuống lá có các đốm trắng, phiến lá chia 3 nhánh, các nhánh lại xẻ thùy sâu hình lông chim nhƣ những lá chét. Chột nƣa (thân) là phần thân ăn đƣợc và rất ngon. Cây nƣa ƣa chuộng đất ẩm, nên thƣờng đƣợc trồng vào mùa hè và thu hoạch đầu vụ Đông.
Cụm hoa là một bông mo đơn với mo bao bọc ở ngoài, hoa có màu tím thẫm đến nâu thẫm, hoa đực ở trên, hoa cái ở dƣới đều không có bao hoa.
Quả mọng, hạt không có nội nhũ.
Giá trị sử dụng
Có thể làm thức ăn cho ngƣời và nuôi lợn nhƣng trong cây có chất gây ngứa có thể làm đau rát lƣỡi, họng nên thƣờng xử lý bằng thái nhỏ ngâm nƣớc vôi trƣớc khi nấu chín cho ăn.
Khắp vùng núi phía Bắc, ngƣời dân thƣờng lấy cây nƣa và củ nƣa về nấu chín làm thức ăn cho lợn.
Ở nhiều địa phƣơng, chột nƣa là phần chính để chế biến nhiều món ăn riêng đặc hữu. Một món ăn rất bình dân nhƣng “cực kỳ” Huế là chột nƣa kho với cá vụn nƣớc lụt mùa đông nhƣ cá cấn, cá mại, cá mƣơng, cá sơn... tên địa phƣơng gọi chung là “cá cù”. Thừa Thiên Huế là tỉnh “thừa trời”, mùa đông mƣa lụt đến “thối đất”, bù lại đây là mùa thu hoạch vụ nƣa và dƣới sông rạch lại có lắm “cá cù”. Món con cá chột nƣa đƣợc ngƣời Huế nghĩ ra một cách sáng tạo để ăn với cơm nóng hổi trong cái ẩm lạnh cắt da cắt thịt của mùa đông.
60
2.7. Cây chuối lá
Tên khoa học: Musra barjoo sieb.
Tên thƣờng gọi: Chuối hột, chuối lá, chuối lợn, chuối chát.
Hình 15. Thu cắt cây chuối lá làm thức ăn cho lợn
Phân bố
Hình 16. Cây chuối thường được trồng xung quanh nhà làm thức ăn cho lợn, trâu bò
Cây chuối hột mọc khắp mọi vùng của cả nƣớc, nhƣng do giá trị kinh tế thấp ngƣời ta không trồng nhiều ở vùng đồng bằng. Ở miền núi hầu nhƣ gia đình nông dân nào cũng có đôi ba bụi chuối hột để lấy lá làm bánh, thân chuối làm thức ăn xanh cho lợn, bò, trâu.
Đặc điểm nhận biết
Thân giả gồm nhiều bẹ lá kết thành có thể to tới 35 - 40cm đƣờng kính và cao tới 3 - 4m, thân thật là củ nằm dƣới đất và phát sinh chồi để thành cây mới, khả năng phân nhánh mạnh nên một bụi chuối có thể tới vài chục cây chuối to nhỏ khác nhau, năng suất chất xanh khá cao.
Lá hình phiến bản lá rộng tới 50 - 60cm và dài tới 2,5 - 3,0m.
Hoa chuối mọc thẳng, dạng hoa phức, mỗi hoa hình thành một quả dạng nải xếp trên một cuống hoa chung, số nải hữu hiệu tới 8 - 9 nải.
Quả non màu xanh, khi chín thì vàng, trên vỏ quả có 5 đƣờng gân dọc, ruột quả vàng có vị ngọt và chứa nhiều hạt.
Giá trị sử dụng
Thân giả của chuối có giá trị dinh dƣỡng thấp do quá nhiều nƣớc và chất xơ, dùng làm thức ăn xanh nuôi lợn nội ở dạng sống hoặc nấu chín với cám, ngô, sắn củ... Kết quả phân tích thành phần hóa học của thân cây chuối lá cho thấy, hàm lƣợng vật chất khô đạt từ 6,95 - 12,85%; hàm lƣợng protein thô đạt từ 0,35 - 0,71%; hàm lƣợng chất béo đạt 0,07 - 0,25%; chất xơ thô đạt từ 1,78 - 3,67%; dẫn xuất không đạm đạt từ 3,51 - 5,97%.
61
Rất nhiều nơi của khu vực miền núi, đặc biệt vào mùa đông ngƣời dân thƣờng sử dụng cây chuối hột nhƣ nguồn thức ăn thô xanh chính để nuôi trâu, bò. Khi dùng cho bò, cây chuối hột đƣợc thái nhỏ, để ráo bớt nƣớc, trộn thêm cám bột ngô để tăng dinh dƣỡng. Với phƣơng pháp này, nhiều hộ gia đình miền núi đã giải quyết tốt việc khan hiếm thức ăn xanh dùng chăn nuôi đại gia súc, hạn chế trâu bò bị đổ ngã trong vụ Đông.
Quả cây chuối hột chín chủ yếu sử dụng làm thuốc chữa sỏi thận và tiểu đƣờng khá hiệu quả, ít dùng để ăn vì quá nhiều hạt và vị nhạt.
2.8. Cây khoai mon
Tên khoa học: Colocasia esculenta.
Tên địa phƣơng: Mạy bon.
Thuộc họ Ráy: Araceae.
Phân bố
Thƣờng mọc ở ruộng hay những nơi có bờ nƣớc cạnh ao, dọc sông suối. Cũng có loại cây chỉ cần mọc những nơi ẩm thấp.
Đặc điểm nhận biết
Là loại cây thảo, mọc hoang trong tự nhiên và đƣợc trồng, có củ ở gốc hình khối tròng, lá có cuống cao 0,3 - 0,8 m, phiến lá dạng tim dài đến 0,75 m. Loại lá láng, phiến không thấm nƣớc vì lông mịn nhƣ nhung, màu xanh đậm hoặc sẫm tùy từng loại khác nhau, gân lá nổi rõ. Mo nang có phần ống xanh, đầu nhọn. Trục bông mo nang mang hoa đực và hoa cái, hoa cái có bầu, nhiều noãn, noãn sào dính phôi trắc mô có nhiều tiểu noãn. Quả chín có màu vàng to từ 3 - 4mm.
Lá và cuống quả là nguồn cung cấp provitamin A và C. Củ chứa đến 30% chất bột màu trắng, không mùi vị. Trong củ và thân lá có hoạt chất oxalat canxium gây cảm giác ngứa, cho nên cần phải nấu chín khi cho ăn. Đối với củ dùng cho ngƣời, nên luộc chín bỏ nƣớc mới loại bỏ cảm giác ngứa. Khi nấu chín vẫn giữ đƣợc 37 - 70% vitamin B1, còn riboflavin hay vitamin B2, vitamin PP vẫn giữ đƣợc tỷ lệ khá cao.
Hình 17. Thu cắt cây mạy bon làm thức ăn cho lợn tại Trùng Khánh - Cao Bằng
Hình 18. Cây mạy bon
62
Giá trị sử dụng
Cây khoai mon có hàm lƣợng vật chất khô đạt từ 8,90 - 12,37%; hàm lƣợng protein thô đạt từ 1,35 - 2,14%; chất béo thô từ 0,29 - 0,56%; hàm lƣợng chất xơ từ 1,72 - 1,96%. Thân lá cây mon đƣợc dùng làm thức ăn cho lợn. Kinh nghiệm của ngƣời dân khi sử dụng cây khoai mon nhƣ sau: Thái nhỏ thân và lá cây khoai mon, nấu chín cùng với tấm gạo, cám, ngô sắn. Thức ăn nấu bằng cây khoai mon nên cho ăn hết ngay trong ngày, không nên để sang ngày hôm sau vì dễ bị lên men, ôi thiu. Tại rất nhiều nơi nhƣ Trùng Khánh, Cao Bằng, khu vực gần sông hồ nhƣ Ba Bể, Bắc Kạn... cây khoai mon là nguồn thức ăn xanh chính để nuôi lợn.
2.9. Cây ngõa lông
Tên khoa học: Ficus fulva Reinw.ex Blume.
Tên thƣờng gọi: Ngõa lông.
Tên địa phƣơng: Toong mản.
Phân bố
Cây mọc nhiều ở ven rừng thứ sinh ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi. Đặc biệt thích hợp với những nơi ẩm, dƣới tán lá cây to hoặc sấp bóng.
Đặc điểm nhận biết
Cây cao khoảng 6 - 8m, màu vàng hung. Lá dày, hình bầu dục - tim, tròn hay hình tim ở gốc, trên có khi chia thùy, gân nổi rõ, nhiều lông cứng, màu vàng hung, mép lá khía răng, cuống lớn, lá kèm hình tam giác lớn, tất cả có lông dày cứng. Quả nang trên cành non, hình bầu dục, xếp 3 quả một chỗ, nhiều lông ráp, màu vàng đậm. Có hoa quả tháng 1 - 3.
Hình 19. Cây ngõa lông trong rừng Hình 20. Lá cây ngõa lông làm thức ăn cho gia súc
63
Giá trị sử dụng
Lá sử dụng làm thức ăn cho gia súc, ở nhiều nơi vào vụ Đông, ngƣời dân thƣờng thu hái lá của cây này làm thức ăn cho trâu bò. Họ cho rằng cho trâu bò ăn lá của cây toong mản sẽ có tác dụng làm tăng sản lƣợng sữa của trâu bò cái. Kết quả phân tích thành phần hóa học của cây ngõa lông cho thấy, lá cây ngõa lông có 19,52% vật chất khô; 3,27% protein thô; 0,54% chất béo; 5,81% chất xơ.
Đông y xác định cây ngõa lông có vị ngọt, tính bình; có tác dụng tiêu thũng, chỉ tả, mạnh gân cốt, kiện tỳ ích khí, hoạt huyết khƣ phong. Rễ và vỏ đƣợc dùng chữa đau phong thấp, khí huyết hƣ nhƣợc, tử cung trễ xuống, trĩ, thủy thũng, ỉa lỏng.
2.10. Rong sông, hồ
Tên khoa học: Hydrilla verticillata thuộc họ Hydrocharitacea
Tên thƣờng gọi: Rong sông, rong hồ, rong tóc tiên, rong mái chèo.
Tên địa phƣơng: Ne.
Phân bố
Gốc ở Ðịa Trung Hải, ngày nay lan tràn rộng rãi ở các vùng ôn đới, một phần ở nhiệt đới và á nhiệt đới. Ở nƣớc ta, rong tóc tiên phổ biến trong những ruộng lúa, sông suối, hồ nƣớc ngọt.
Đặc điểm nhận biết
Rong tóc tiên mọc chìm dƣới nƣớc, có thêm rễ ngắn nằm trong đất. Lá hình mái chèo, dài ngắn tùy theo mực nƣớc sâu hay nông, có thể dài tới 2 m, rộng 5 - 10mm, chóp lá tù hoặc có mũi nhọn.
Hình 21. Khai thác rong sông làm thức ăn cho lợn
tại sông Quây Sơn - Trùng Khánh - Cao bằng
Rễ trắng, bám chặt vào lòng sông và mƣơng máng nên nƣớc chảy mạnh cũng không trôi đi đƣợc. Hoa khác gốc, hoa đực rất nhỏ, đầu hoa có cuống ngắn đƣợc bao bọc trong một lá mo trong suốt và nổi ở trên mặt nƣớc khi nở; hoa cái nằm trên một cuống rất dài và xoắn nhƣ lò xo, nổi trên mặt nƣớc. Thụ phấn nhờ nƣớc; sau khi thụ phấn, hoa cái xoắn lại, quả và hạt phát triển ở đáy nƣớc.
Cây phát triển mạnh vào các tháng 8 - 12, đến tháng 1 - 2 thì ra hoa và lụi dần.
Giá trị sử dụng
Theo tài liệu của Viện Chăn nuôi (1979), trong rong tóc tiên có 7,10% vật chất khô, 0,8% protein, 0,2% lipit, 1% cellulose, dẫn xuất không protein 2,9% và 2,6% khoáng
64
toàn phần. Các chất đã chiết đƣợc là chondrillasterol, β - sitosterol và Eicosanol. Kết quả phân tích thành phần hóa học rong sông hồ khu vực miền núi phía Bắc cho thấy, hàm lƣợng vật chất khô đạt từ 8,57 - 9,21%; protein thô từ 0,92 - 1,05%; chất béo thô từ 0,19 - 0,21%; chất xơ từ 1,02 - 1,14%.
Rong tóc tiên có vị đắng, tính ấm, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, lý khí, trục nƣớc bẩn. Các lá non ở giữa cây có thể làm rau xanh cho ngƣời, dùng ăn sống.
Ở khu vực miền núi, những nơi có sông suối và hồ nƣớc, rong tóc tiên đƣợc sử dụng là nguồn thức ăn xanh quan trọng cho lợn, trâu bò và cả gia cầm trong vụ Đông. Ngƣời dân thƣờng đi vớt rong tóc tiên ở sông, hồ về, cắt ngắn rồi đem nấu nhừ cho lợn ăn. Họ cho rằng khi cho lợn ăn rong tóc tiên,
Hình 22. Trâu đang ăn rong tóc tiên tại hồ Ba Bể
lợn lớn nhanh hơn các loại cây thức ăn khác, khi mổ thịt thành ruột mỏng, thịt mỡ ngon hơn.
Rong tóc tiên cũng dùng làm thuốc, chữa bệnh bạch đới của phụ nữ. Liều dùng 30g, dạng thuốc sắc. Ở Trung Quốc, ngƣời ta dùng làm thuốc có tác dụng lý khí điều đƣợc huyết bên trong. Khi cho phụ nữ sinh đẻ uống thì trục đƣợc máu xấu.
2.11. Thài lài tím
Tên khoa học: Tradescantia pallida.
Tên thường gọi: Thài lài tím.
Tên địa phương: Poi pi đeng.
Phân bố
Cây thài lài tím thuộc bộ Commelinaceae đƣợc gọi chung là cây thài lài. Nguồn gốc của cây thài lài tím từ vùng vịnh Mexico. Cây thài lài tím ở khu vực miền núi phía Bắc thƣờng mọc trên các mỏm đá, dƣới các tán lá cây mát mẻ, thƣờng loài cây này bị chết do sƣơng giá nhƣng mọc lại từ rễ cây.
Hình 23. Cây thài lài tím mọc trên núi đá
65
Đặc điểm nhận biết
Thài lài tím là loài cây thân bò, với thân lá có chứa nhiều nƣớc, lá nhọn. Lá rộng khoảng 2,5cm; dài khoảng 8 - 10cm. Thân và mặt trên của lá có màu xanh tím nhạt, mặt dƣới có màu tím đậm. Cây thài lài tím thƣờng nở hoa vào lúc thời tiết nắng ấm, nhƣng hoa cũng chỉ nở vào buổi sáng.
Là loại cây có khả năng chống chịu tốt với thời tiết, mặc dù phát triển tốt trong điều kiện ẩm, nhƣng vẫn sinh trƣởng trong điều kiện khô hạn, cũng có thể sống rất lâu khi trời không có mƣa. Đôi khi cũng chịu đựng đƣợc điều kiện ngập úng.
Giá trị sử dụng
Ở khu vực miền núi phía Bắc, cây thài lài tím thƣờng gặp nhiều dƣới tán lá cây của núi đá vôi, ngƣời dân địa phƣơng coi đây là nguồn thức ăn rất tốt cho lợn và gà, đặc biệt vào vụ Xuân sau khi trải qua một mùa
đông giá lạnh, hầu hết các loại cây thức ăn khác đều chƣa kịp hồi phục. Kết quả phân tích thành phần hóa học cho thấy, thân lá thài lài tím có vật chất khô 11,56%; 1,68% protein thô; 0,28% chất béo thô; 3,22% chất xơ.
Cây thài lài tím đƣợc băm nhỏ cho gà vịt ăn sống. Đối với lợn, thƣờng đƣợc nấu chín với ngô, cám rồi mới cho ăn.
Khi trồng trong nhà, thài lài tím đã đƣợc đánh giá là có hiệu quả đặc biệt trong việc cải thiện chất lƣợng không khí trong nhà bằng cách lọc các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (Volatile Organic Compounds), một lớp các chất ô nhiễm thông thƣờng và các chất
Hình 24. Thân và lá cây thài lài tím
gây kích thích đối với hệ hô hấp, bằng một quá trình đƣợc gọi là phytoremediation. Theo Đông y, lá thài lài tím có vị ngọt chát, tính mát, thƣờng dùng để giã nát với phèn chua để bó khớp và đắp mụn nhọt.
66
Chƣơng 3
VAI TRÕ CÁC CHẤT DINH DƢỠNG CƠ BẢN
VÀ NGUYÊN LÝ PHƢƠNG PHÁP PHÂN TÍCH THÀNH PHẦN HÓA HỌC THỨC ĂN VẬT NUÔI
Thức ăn cung cấp các chất dinh dƣỡng cần thiết cho mọi hoạt động sống, sinh trƣởng, sinh sản của vật nuôi. Trong cơ thể, mỗi chất dinh dƣỡng có những vai trò riêng và không thể thay thế hoàn toàn lẫn nhau. Khi thức ăn không cung cấp đủ nhu cầu dinh dƣỡng sẽ dẫn tới các rối loạn chuyển hóa trong cơ thể vật nuôi, gây nên tình trạng bệnh tật ảnh hƣởng xấu tới sức khỏe. Mặt khác, việc không cung cấp đủ và cân đối nhu cầu dinh dƣỡng còn dẫn tới làm giảm hiệu quả thức ăn, gây lãng phí dinh dƣỡng và làm tăng giá thành sản phẩm cũng nhƣ ảnh hƣởng xấu tới môi trƣờng sống.
3.1. CÁC CHẤT DINH DƢỠNG TRONG THỨC ĂN VÀ VAI TRÕ CỦA NÓ
3.1.1. Protein
Protein là một đại phân tử chất hữu cơ, trong thành phần của nó chứa các nguyên tố C, H, O, N, P, S... trong đó N luôn chiếm tỷ lệ 16% khối lƣợng của phân tử, vì thế khi phân tích protein bằng phƣơng pháp Kjeldhal ngƣời ta định lƣợng số N bay ra và nhân với hệ số proein (6,25) để tính ra số % protein có trong mẫu phân tích và gọi đó là protein thô. Trong phƣơng pháp Dumart, mẫu chứa N đƣợc đốt trong buồng kín, lƣợng khí N2 bay ra đƣợc các sensors hóa học cảm nhận và chuyển tín hiệu về bộ xử lý trung tâm của thiết bị phân tích (Detector CNS) để thông tin về hàm lƣợng cụ thể.
Protein là chất hữu cơ quan trọng nhất trong cơ thể động vật vì nó là thành phần cấu tạo chính của tế bào các cơ quan tổ chức, mỗi một mô bào có một cấu trúc protein riêng. Protein đóng vai trò là những chất có hoạt tính sinh học đặc biệt: Ở dạng nucleoprotein, protein là vật chất di truyền trong nhân tế bào, trong các tế bào sinh dục nhƣ tinh trùng, trứng, để truyền đạt thông tin di truyền cho các thế hệ sau. Protein ở dạng hemoglobin là sắc tố hô hấp thực hiện chức năng trao đổi khí giữa cơ thể và môi trƣờng. Protein cấu tạo nên các loại kháng thể để hình thành các phản ứng miễn dịch và các chất bảo vệ cơ thể khác. Protein là thành phần cơ bản cấu tạo các enzym, trao đổi chất xúc tác các phản ứng sinh hóa trong cơ thể động vật. Một số hormon có bản chất protein đóng vai trò điều hòa các hoạt động chức năng của cơ thể động vật. Protein còn là chất điều hòa môi trƣờng toan kiềm trong máu thông qua hoạt động đệm của nó với vai trò là một chất có tính lƣỡng tính.
67
Protein còn là nguồn cung cấp năng lƣợng cho các hoạt động sống, mỗi gam protein khi phân giải hoàn toàn trong cơ thể sẽ cung cấp 4,1Kcal năng lƣợng trao đổi. Protein của thức ăn đƣợc sử dụng làm cơ chất để tổng hợp nên protein của cơ thể vật nuôi và các sản phẩm của chúng vì thế protein là thành phần cơ bản của các sản phẩm động vật nhƣ thịt, trứng, sữa, nếu cung cấp thiếu protein trong khẩu phần ăn thì không khai thác đƣợc tiềm năng năng suất ở vật nuôi.
Động vật nói chung không tự tổng hợp đƣợc protein từ lipit, gluxit... mà phải lấy từ thức ăn để tổng hợp protein của cơ thể. Protein là phân tử hữu cơ năng động nhất luôn thể hiện đặc trƣng sống thông qua các phản ứng chuyển hóa tổng hợp và phân giải protein. Luôn có một sự mất protein bắt buộc xảy ra trong cơ thể vì thế cần cung cấp tối thiểu một khẩu phần có protein ở mức duy trì để bù đắp và ổn định các hoạt động chức năng sinh lý bình thƣờng. Sự thiếu hụt protein ở mức duy trì sẽ dẫn tới tình trạng suy kiệt cơ thể và gây chết cho con vật.
Protein đƣợc cấu tạo từ các 20 axit amin do vậy giá trị dinh dƣỡng của protein phụ thuộc vào sự có mặt và hàm lƣợng axit amin trong khẩu phần ăn. Khi protein trong khẩu phần ăn không đầy đủ hoặc thiếu cân đối các axit amin thiết yếu thì hiệu quả sử dụng protein sẽ thấp, đặc biệt là các axit amin thiết yếu nhƣ: lysine, methionine, tryptophan... Axit amin là nguyên liệu đầu tiên để tổng hợp các phân tử protein. Vì thế, để nâng cao giá trị sinh vật của protein trong khẩu phần ăn của vật nuôi ngƣời ta thƣờng phối hợp các loại protein khác nhau và bổ sung thêm axit amin tổng hợp để cân đối số lƣợng và tỷ lệ axit amin trong khẩu phần.
3.1.2. Vai trò của lipit
Lipit là tên gọi của một nhóm chất hữu cơ phổ biến trong tự nhiên và trong cơ thể động vật, thực vật. Lipit có đặc tính không hòa tan trong nƣớc nhƣng hòa tan trong dung môi hữu cơ nhƣ: Ether, benzen, chloroform, cồn và axeton... Lipit gồm các loại: Dầu, mỡ, axit béo trong đó mỡ là quan trọng nhất. Một số loại khác cũng giữ vai trò quan trọng trong dinh dƣỡng, đồng thời còn có các chức năng sinh lý đặc biệt nhƣ Cholesterol là tiền chất của vitamin D và hormon steroid trong đó có các loại hormon sinh dục.
Trong cơ thể sinh vật, lipit là thành phần cấu tạo nên các mô cơ thể, chúng nằm xen trong các thớ cơ vân, bao quanh các cơ quan nội tạng để bảo vệ, chống đỡ va chạm. Các sản phẩm của quá trình phân giải lipit tham gia các phản ứng trao đổi trung gian trong đó có các phản ứng oxy hóa sản sinh năng lƣợng cho cơ thể hoạt động. Nhu cầu năng lƣợng hàng ngày của động vật do lipit cung cấp khoảng 30% hoặc hơn nữa, ngoài ra lipit còn là nguồn năng lƣợng dự trữ tốt nhất của cơ thể (oxy hóa 1g mỡ cho 9,3 Kcal). Đem so với một lƣợng calo của 1g đƣờng hoặc protein (4,1 kcal/1g) thì lƣợng calo sản ra của lipit nhiều hơn gấp đôi. Lipit là môi trƣờng hòa tan các vitamin A, D, K, E, nếu khẩu phần thiếu lipit lâu ngày thì động vật dễ mắc bệnh thiếu các vitamin kể trên. Lớp
68
lipit dƣới da của động vật có tác dụng gối đệm và giữ ấm cho cơ thể nhờ tính êm và tính dẫn nhiệt kém. Đối với các loại động vật ngủ đông, động vật di cƣ và các loại sâu kén lipit còn là nguồn cung cấp nƣớc, vì khi oxy hóa 100g lipit sẽ tạo ra 107g nƣớc. Ngoài ra, lipit còn có thể liên kết nhiều chất đơn giản khác thành những chất phức hợp có tính chất sinh học khác nhau. Những phức hợp ấy giữ vai trò quan trọng trong hoạt động thần kinh và bắp thịt.
Lipit thô là khái niệm đƣợc dùng để chỉ tất cả vật chất đƣợc hòa tan trong dung môi hữu cơ là ether. Lipit thô chứa nhiều thành phần chất béo khác nhau nhƣ mỡ trung tính, axit béo tự do no và axit béo không no, stearin, phốtpholipit, sterit... Vì vậy trong phân tích xác định hàm lƣợng lipit thô, ngƣời ta dùng phƣơng pháp chiết mỡ trong ether trên hệ thống chiết Shoxlet thủ công hay tự động.
Khẩu phần ăn của vật nuôi nếu chỉ cân đối lipit thô thì chƣa đủ mà cân đối tới các axit béo, đặc biệt là một số axit béo không no vì chúng có vai trò sinh lý riêng, sự thiếu hụt chúng trong cơ thể sẽ dẫn tới các rối loạn chức năng. Trong công nghiệp chế biến thức ăn, các nguyên liệu đƣợc sử dụng chủ yếu là phế phụ phẩm của ngành công nghiệp chế biến lƣơng thực, nguồn nguyên liệu này thƣờng nghèo năng lƣợng. Do đó ngƣời ta thƣờng dùng các loại dầu, mỡ bổ sung với tỷ lệ nhất định để tăng giá trị năng lƣợng của khẩu phần nhất là với gia cầm nuôi thịt.
3.1.3. Vai trò của chất xơ
Chất xơ là một cấu trúc phổ biến nhất của thực vật, nó chiếm một lƣợng lớn trong mọi loại cây trồng và là thành phần chủ yếu cấu tạo nên tế bào thực vật. Chất xơ là thành phần có tỷ lệ cao trong vật chất khô của thức ăn xanh. Chất xơ chỉ bị phân giải bởi các axit mạnh hoặc bởi các enzym của vi sinh vật trong dạ cỏ động vật nhai lại và trong manh tràng ngựa, thỏ. Dƣới tác dụng của các men này chất xơ bị phân giải thành các axit axetic, axit lactic, axit propionic... và chúng đƣợc hấp thụ. Chất xơ thô hoàn toàn không có ý nghĩa dinh dƣỡng đối với gà, vịt, ngan, riêng ngỗng có thể tiêu hóa 30%. Nhƣng trong khẩu phần có tỷ lệ xơ thấp 3 - 5% lại có tác dụng tăng cƣờng nhu động của hệ thống tiêu hóa và tạo khuôn phân để hoạt động thải phân của vật nuôi đƣợc thuận lợi. Cũng rất cần thiết có một tỷ lệ xơ thích hợp để đảm bảo cảm giác no ở vật nuôi, một loại cảm giác quan trọng trong hoạt động của chúng. Ngoài ra nếu nhƣ cho một lƣợng chất xơ trong khẩu phần ăn hàng ngày từ giai đoạn gà con thì sẽ giảm đáng kể hiện tƣợng rứt lông, cắn mổ lẫn nhau ở gà. Đối với gia súc nhai lại chất xơ là nguồn dinh dƣỡng chủ yếu, hoạt động lên men của hệ vi sinh vật dạ cỏ có khả năng tiêu hóa 40 - 50% xơ thô trong khẩu phần thành axit béo bay hơi cấp thấp là những chất cung cấp năng lƣợng và tổng hợp sản phẩm ở loài nhai lại.
Đối với mỗi loại vật nuôi khác nhau và ở vào các giai đoạn khác nhau thì nhu cầu về tỷ lệ xơ trong khẩu phần là khác nhau, tỷ lệ tiêu hóa của vật nuôi thƣờng tỷ lệ nghịch với tỷ lệ xơ thô trong khẩu phần ăn. Ở gà, vịt thƣờng không cân đối quá 5% xơ thô, lợn
69
choai 3 - 8% riêng tỷ lệ này có thể lên tới 18% đối với lợn nái, nhƣng với lợn nái đẻ không quá 7% xơ thô trong khẩu phần. Đối với lợn sinh trƣởng ăn nhiều xơ sẽ chậm lớn, đặc biệt là lợn con. Đối với ngựa tỷ lệ xơ trong khẩu phần từ 10 - 30%.
3.1.4. Vai trò của năng lƣợng
Năng lƣợng đƣợc cung cấp cho động vật chủ yếu dƣới dạng hydratcacbon. Hydratcacbon là tên gọi của một nhóm dinh dƣỡng gồm các loại đƣờng tan, tinh bột, cellulose, keo thực vật và các hợp chất có liên quan. Một phần nhỏ hydratcacbon tìm thấy trong mô của động vật nhƣ glucose và glycogen, còn phần lớn có mặt trong thức ăn của vật nuôi. Hydratcacbon chiếm khoảng 75% khối lƣợng vật chất khô của cây trồng và là nguồn thức ăn năng lƣợng chủ yếu của vật nuôi.
Bằng cách quang hợp, cây trồng đã tích lũy năng lƣợng mặt trời trong sản phẩm của cây trồng ở dạng hóa năng. Đây là nguồn năng lƣợng chủ yếu mà con vật sẽ sử dụng trong quá trình sống của nó thông qua việc tiêu thụ các nguồn thức ăn này. Hydratcacbon có vai trò cung cấp năng lƣợng gồm 2 nhóm chính là nhóm saccarit (Các loại đƣờng có chứa 24 nguyên tử cacbon trở xuống) và nhóm polysaccarit (Các hydratcacbon còn lại).
Nhóm saccarit với các đại diện: Đƣờng đơn chủ yếu là D - glucoza có nhiều trong quả ngọt, thực vật, mật ong, đặc biệt chiếm tới 20% trong quả nho chín, trong máu động vật có 0,1 - 0,2%. Glucoza cũng cấp tới 50% năng lƣợng cho cơ thể. D - frutoza có trong quả ngọt, mật ong, có ít trong thực vật xanh. Đƣờng đôi với các đại diện chủ yếu là sacaroza: Có nhiều trong nƣớc mía (15 - 20%), củ cải đƣờng (20 - 22%), maltoza đƣợc sinh ra khi thủy phân tinh bột hoặc glycogen và lactoza có trong sữa của lớp động vật có vú (Mammalia).
Polysaccarit: Đại diện là tinh bột, đây là chất dự trữ năng lƣợng của thực vật. Nó có nhiều trong hạt, củ và rễ (chiếm từ 70 - 80% vật chất khô). Trong hệ thống tiêu hóa của động vật, dƣới tác động của các men amylaza và men mantaza, tinh bột bị thủy phân thành glucoza. Glucoza sẽ trực tiếp đƣợc hấp thụ vào trong cơ thể để tham gia các phản ứng hóa học giải phóng ra năng lƣợng.
Đƣờng trong thức ăn có ảnh hƣởng lớn đến tính ngon miệng của khẩu phần. Tuy nhiên, tỷ lệ đƣờng quá cao sẽ làm giảm tỷ lệ tiêu hóa của các chất dinh dƣỡng khác, đặc biệt là tiêu hóa xơ ở động vật nhai lại. Trong khẩu phần gia súc trƣởng thành tỷ lệ đƣờng chiếm 2 - 4% vật chất khô là thích hợp. Đối với động vật non đòi hỏi tỷ lệ đƣờng 20 - 25% vật chất khô khẩu phần.
Tinh bột chiếm một tỷ lệ lớn trong khẩu phần ăn của gia súc. Nó có tỷ lệ tiêu hóa cao hơn 95%. Gia súc có thể ăn một lƣợng khá lớn tinh bột mà không gây các rối loạn chức năng. Tuy nhiên, trong khẩu phần ăn của động vật nhai lại vẫn cần có tỷ lệ tinh bột
70
từ 10 - 40% cho gia súc vỗ béo, 10 - 25% cho gia súc tiết sữa (Vũ Duy Giảng, 2001) để đảm bảo quá trình lên men bình thƣờng trong dạ cỏ và đảm bảo cung cấp đủ năng lƣợng cho gia súc.
3.1.5. Vai trò của chất khoáng
Chất khoáng đƣợc chia ra làm 2 nhóm: Khoáng đa vi lƣợng gồm: Canxi (Ca), photpho (P), magie (Mg), natri (Na), clo (Cl), lƣu huỳnh (S). Khoáng vi lƣợng gồm: Sắt (Fe), đồng (Cu), kẽm (Zn), mangan (Mn), coban (Co), iod (I), selen (Se), flo (F) và các nguyên tố khác.
Trong nhóm khoáng đa lƣợng, canxi và phốtpho có hàm lƣợng cao nhất trong cơ thể vật nuôi cũng nhƣ trong cây cỏ làm thức ăn cho gia súc. Nếu tính 1kg khối lƣợng sống của gia súc, gia cầm thì hàm lƣợng canxi biến động từ 12 - 18g, phốtpho dao động từ 8 - 10g. Magie có hàm lƣợng thấp nhất trong nhóm này cũng biến động trong khoảng 0,4 - 0,5g. Cả 2 nhóm khoáng đều có vai trò quan trọng cho quá trình trao đổi chất nhƣng khoáng vi lƣợng có hàm lƣợng thấp hơn nhiều so với khoáng đa lƣợng. Khoáng vi lƣợng có hàm lƣợng thấp hơn 50mg trong 1kg khối lƣợng cơ thể sống và nhu cầu hàng ngày của vật nuôi cũng thấp hơn 100mg trong 1kg vật chất khô thức ăn.
Mỗi nguyên tố khoáng giữ vai trò sinh lý khác nhau trong cơ thể vật nuôi. Khoáng đa lƣợng (Ca, P) tham gia chủ yếu vào cấu trúc bộ xƣơng của cơ thể động vật. Khoáng vi lƣợng chủ yếu là thành phần cấu tạo trung tâm hoạt động của enzym, xúc tác cho các phản ứng sinh hóa trong tế bào. Chất khoáng có vai trò cân bằng điện giải, giữ ổn định pH của máu và dịch tế bào, duy trì áp suất thẩm thấu cũng nhƣ tham gia các hoạt động thần kinh thể dịch. Chất khoáng còn tham gia vào cấu trúc đại phân tử trong tế bào sống cũng nhƣ các mô bào. Ví dụ nhƣ nguyên tố Fe trong nhân của hemoglobin, Iod trong hormon thyroxyn của tuyến giáp trạng, Photpho trong hợp chất mang năng lƣợng cao phân tử ATP, canxi, phốtpho tham gia cấu trúc xƣơng...
Trong khi cân đối khẩu phần vật nuôi ngƣời ta chú ý nhất tới 2 nguyên tố khoáng đa lƣợng là canxi và phốtpho, các nguyên tố khác ít thiếu hoặc đƣợc đáp ứng đủ nhu cầu của vật nuôi.
Canxi (Ca): Trong cơ thể vật nuôi canxi là chất khoáng có hàm lƣợng cao nhất. Tỷ lệ canxi trong cơ thể động vật non khoảng 0,7 - 1,1%, trong cơ thể động vật trƣởng thành khoảng 1,2 - 1,8% (Từ Quang Hiển và cộng sự, 2000). Có tới 99% canxi tập trung trong bộ xƣơng và răng, chỉ 1% tồn tại trong tế bào và dịch mô. Trong 1 lít huyết thanh của động vật có vú, nồng độ canxi biến động từ 80 - 120mg, nồng độ này ở gia cầm đẻ trứng đạt tới 300 - 400 mg. Canxi và phốtpho là hai chất chính trong xƣơng. Canxi chiếm 36% tổng chất khoáng của xƣơng, phốtpho chiếm 17% còn magie chỉ chiếm 1%.
71
Trong tế bào xƣơng, canxi và phốtpho liên kết với nhau ở dạng tinh thể hydroxyapatit 3[Ca3(PO4)2.Ca(OH)2]. Các tinh thể này nằm lắng đọng trong khuôn protein có cấu trúc sợi colagen của tế bào xƣơng, tạo cho xƣơng bền vững, cứng cáp. Ở các mô mềm và dịch tổ chức có tới 50% canxi ở dạng ion. Các ion canxi duy trì hƣng phấn bình thƣờng của hệ thống thần kinh, tham gia điều hòa hoạt động của tim, liên quan tới quá trình đông máu, tăng hoạt động của cơ vân, cơ tim, cơ trơn, duy trì hoạt động của tế bào, tạo điện thế sinh học trên mặt bằng tế bào và xúc tác men trypxin trong quá trình tiêu hóa protein của thức ăn.
Photpho: Là nguyên tố khoáng đa lƣợng thứ hai sau canxi. Tỷ lệ phốtpho trong động vật non là 0,4 - 0,6%, trong động vật trƣởng thành là 0,7 - 0,9% khối lƣợng cơ thể. Hàm lƣợng phốtpho trong thực vật thƣờng dao động từ 1,5 - 4g/kg vật chất khô. Đại bộ phận phốtpho trong thực vật ở dạng phốtpholipit, phốtphoprotein, axitnucleic và 8 - 12% ở dạng khoáng phốtpho. Về chức năng sinh học: Photpho cùng với canxi là chất tạo xƣơng, tham gia trong hàng loạt chất hữu cơ quan trọng nhƣ: Axitnucleic (là chất mang thông tin di truyền), phốtpholipit, phốtphoprotein và trong thành phần nhiều enzym nhƣ hệ thống enzym tiêu hóa tinh bột và mỡ. Photpho còn có nhiều trong hệ đệm của máu và là trung gian cho điều hòa hormon (3’, 5’ - AMP) (3,5 adenozin monophotphat) với tác dụng tổng hợp protein, phân giải lipit, hoạt hóa các enzym khác nhau và tổng hợp steroit. Photpho còn giữ vai trò trong chuyển hóa năng lƣợng, trong dẫn truyền thần kinh, ảnh hƣởng đến sức sản xuất và tăng trọng của lợn.
Thiếu phốtpho sẽ làm cho gia súc giảm sản phẩm rất nhanh và giảm số lƣợng thức ăn ăn đƣợc. Động vật non thiếu phopho lâu dài sẽ bị mềm xƣơng. Nhƣng chỉ thiếu phốtpho thì bệnh này xảy ra không nghiêm trọng, chỉ nghiêm trọng khi thiếu cả Canxi và vitamin D.
Nguồn phốtpho bổ sung cho động vật dạ dày đơn và gia cầm tốt nhất là monocanxiphotphat, dicanxiphotphat, tricanxiphotphat, cho động vật nhai lại là monocanxiphotphat, và tricanxiphotphat.
Các nguyên tố khoáng vi lƣợng tuy có hàm lƣợng thấp nhƣng cùng với các nguyên tố khoáng đa lƣợng chúng có những chức năng quan trọng đối với gia súc, gia cầm. Nguyên tố sắt (Fe) tham gia cấu tạo hemoglobin trong hồng cầu máu, trong các enzym oxy hóa hoàn nguyên sinh học... Thiếu Fe dẫn đến thiếu máu, gia súc sinh trƣởng và phát triển chậm, cho sản lƣợng thấp. Nguyên tố đồng (Cu) có vai trò quan trọng trong việc tạo máu, duy trì sắc tố lông, da... Không đáp ứng nhu cầu Cu trong khẩu phần ăn làm rối loạn sắc tố lông, da, rụng lông, sừng hóa da... Nguyên tố Iod (I2) tập trung phần lớn ở trong tuyến giáp trạng, là thành phần cấu tạo hormon thyroxyn, I2 trong tuyến giáp chiếm 80% tổng lƣợng iod trong cơ thể. Thiếu I2 là nguyên nhân sinh bệnh bƣớu cổ và nói đến rối loạn nhiều chức năng của vật nuôi...
72
Hình 25. Thiết bị quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) - Phân tích thành phần khoáng đa vi lượng
Hình 26. Thiết bị cực phổ VAC 797 - Phân tích các nguyên tố vi lượng
3.2. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA THỨC ĂN
Các phƣơng pháp phân tích thức ăn trình bày sau đây là các phƣơng pháp đã đƣợc tiêu chuẩn hóa theo các TCVN, mỗi một chất dinh dƣỡng đều có phƣơng pháp riêng theo các TCVN tƣơng ứng. Việc phân tích hiện nay đƣợc tiến hành hầu nhƣ tự động trên các thiết bị hiện đại vì thế nó hạn chế đến mức thấp nhất các sai số không mong muốn và tác hại tới sức khỏe của kỹ thuật viên.
3.2.1. Phƣơng pháp lấy mẫu phân tích
Mẫu đƣợc lấy theo TCVN 4325: 2007 (ISO 6497: 2002).
Khi lấy mẫu cần xác định số lƣợng mẫu ban đầu. Lấy mẫu ban đầu ngẫu nhiên từ đầu đến cuối của nơi chứa và đảm bảo rằng tất cả các lớp đều có mẫu đại diện nhƣ nhau. * Xử lý mẫu: Mẫu đƣợc xử lý và chuẩn bị theo TCVN 6952: 2001 (ISO 6498: 2002).
* Nghiền mẫu: Khi nghiền mẫu có thể dẫn đến làm giảm hoặc tăng độ ẩm của mẫu vì vậy cần nghiền càng nhanh càng tốt và giảm sự tiếp xúc mẫu với không khí. Nếu cần
thiết, đập vỡ hoặc tán nhỏ trƣớc khi nghiền.
* Bảo quản: Mẫu sau khi lấy, đƣợc nghiền nhỏ, trộn đều và đựng trong túi nilon có nhãn ghi ký hiệu mẫu và các thông tin cần thiết. Mẫu đƣợc bảo quản để sử dụng cho phân tích các chỉ tiêu. Mỗi mẫu đều đƣợc phân tích 2 lần, tính số trung bình giữa 2 lần phân tích.
3.2.2. Phƣơng pháp xác định vật chất khô
Việc xác định độ ẩm của thức ăn gia súc đƣợc tiến hành theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 4326: 2001) (ISO 6496: 1999).
73
* Nguyên lý: Sấy mẫu khô tuyệt đối ở nhiệt độ 105oC cho tới khi có khối lƣợng không đổi và xác định sự thay đổi khối lƣợng của mẫu trong quá trình sấy.
3.2.3. Phƣơng pháp phân tích protein thô trên thiết bị Kjeldhal Xác định hàm lƣợng protein thô trong các loại thức ăn đƣợc tiến hành theo TCVN 4328 - 1: 2007 (ISO 5983 - 1: 2005).
* Nguyên lý: Trong phƣơng pháp Kjeldahl ngƣời ta vô cơ hóa mẫu bằng H2SO4 98%, kết hợp với chất xúc tác để chuyển nitơ hữu cơ ra dạng (NH4)2SO4, rồi dùng NaOH để đẩy NH3 ra khỏi muối amoni, NH3 sau khi đƣợc giải phóng ra sẽ đƣợc cuốn đi bằng dòng hơi nƣớc nóng. Sau khi đƣợc làm nguội sẽ đƣợc hấp thụ vào dung dịch H3BO3 ở trong bình hứng tạo ra muối Borat amon có màu xanh trong.
R - CH(NH2) - COOH + H2SO4 → (NH4)2SO4 + CO2 + SO2 + H2O (NH4)2SO4 + NaOH → NH3 + Na2SO4 + 2H2O
NH3 + H3BO3 → (NH4)3BO3
Để xác định lƣợng muối amoniac giải phóng ra trong quá trình chƣng cất ta đem đi chuẩn độ bằng dung dịch H2SO4 0,1N đến khi nào dung dịch chuyển sang màu tím nhạt là đƣợc.
(NH4)3BO3 + 3H2SO4 → 3(NH4)2SO4 + 2H3BO3
Từ lƣợng axit H2SO4 0,1N tiêu tốn trong quá trình chuẩn độ sẽ tính đƣợc lƣợng đạm có trong mẫu.
Hình 27. GERHARDT - Thiết bị phân tích nitơ theo phương pháp Kjeldahl
Hình 28. LECO CNS - Thiết bị phân tích nitơ theo phương pháp Dumas
3.2.4. Phƣơng pháp xác định hàm lƣợng chất béo thô
Hàm lƣợng lipit trong thức ăn đƣợc tiến hành theo tiêu chuẩn việt Nam (TCVN 4331: 2001) (ISO 6492: 1999).
* Nguyên lý tiến hành: Trong tế bào lipit ở dạng tự do và liên kết. Lipit tự do chủ yếu tập trung ở một số cơ quan nhƣ hạt, quả (ở thực vật) và mô mỡ động vật. Trong
74
thực tế việc xác định lipit dựa vào hàm lƣợng lipit đƣợc rút ra khỏi nguyên liệu bằng các dung môi hữu cơ. Có hai phƣơng pháp xác định:
Phƣơng pháp trực tiếp: Chiết xuất lipit ra khỏi nguyên liệu và cân trực tiếp lƣợng lipit chiết xuất đƣợc.
Phƣơng pháp gián tiếp: Chiết xuất lipit ra khỏi nguyên liệu và cân nguyên liệu còn
lại sau khi chiết.
Các dung môi chiết xuất lipit thƣờng dùng là Ether petroleum. Vì nó có độ bay hơi cao và nhiệt độ sôi thấp. Tốc độ quá trình chiết phụ thuộc mức độ nghiền nhỏ của nguyên liệu. Ngoài lipit ra còn có một số hợp chất khác nhƣ vitamin hòa tan trong lipit, phosphatit, steroit, các sắc tố... cũng đƣợc chiết ra. tuy nhiên, trong nhiều trƣờng hợp các chất này rất ít nên các lipit xác định đƣợc bằng một trong hai phƣơng pháp trên đƣợc gọi là “lipit thô”.
Hình 29. Shoxlet - Thiết bị phân tích chất béo tự động
3.2.5. Phân tích chất xơ (xơ thô, NDF, ADF)
Hàm lƣợng xơ tổng số đƣợc tiến hành theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 4329: 2007) (ISO 6865:2000) trên máy phân tích xơ ANKOM - 200/220.
* Nguyên lý phân tích xơ thô:
Việc phân tích xơ thô trong hệ thống này là đun sôi mẫu thức ăn trong dung dịch 0,15M hoặc 0,3N axit H2SO4 trong 30 phút để thủy phân các chất hòa tan trong axit và sau đó cho thêm dung dịch 1,5M NaOH và đun sôi trong 30 phút nữa để thủy phân các chất hòa tan trong bazơ, cuối cùng dùng hỗn hợp ete - cồn để hòa tan với các chất hữu cơ trong dung môi hữu cơ và xác định phần còn lại.
* Nguyên lý phân tích xơ NDF:
NDF (Neutral Detergent Fibre) bao gồm tổng lƣợng các thành phần cenlulose, hemicenlulose và lignin. Nhƣ vậy hàm lƣợng NDF lớn hơn hàm lƣợng xơ thô trong cùng một mẫu thức ăn: NDF đƣợc phân tích bằng cách đun sôi mẫu thức ăn trong 1 giờ với dung dịch rửa trung tính (Neutral Detergent Reagent = sodium lauryl sulfate, dodecyl sodium sulfate, C12H25NaO4S + disodium tetraborate decahydrate, Na2HPO4.2H2O + Na2EDTA.2H2O + monoethylene glycol monoethylether (= 2 - ethoxy ethanol) + nƣớc ấm đã khử khoáng, pH của dung dịch là 6,9 - 7,1).
75
* Nguyên lý phân tích xơ ADF:
ADF (Acid Detergent Fibre) bao gồm tổng lƣợng cellulose và lignin. ADF cũng đƣợc phân tích bằng cách đun sôi mẫu thức ăn trong 1 giờ nhƣng với dung dịch rửa axit (acid Detergent Reagent = axit sulfuric đậm đặc + nƣớc đã khử khoáng + N - hexadecyl N,N,N -
trimethyl ammonium bromide, N - cetyl N, N, N - trimethyl ammonium bromide, C19H42BrN).
3.2.6. Phân tích khoáng
Hàm lƣợng khoáng tổng số đƣợc tiến hành theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 4327 - 1:2007) (ISO 5984: 2002)
* Nguyên lý:
Đốt cháy mẫu ở nhiệt độ 550 - 600oC. Khi mẫu cháy hoàn toàn chất hữu cơ chỉ còn lại phần tro màu xám có khối lƣợng không đổi, đem cân và tính ra phần trăm lƣợng tro có trong mẫu.
3.2.7. Phƣơng pháp xác định dẫn xuất không đạm (NFE)
Dẫn suất không đạm là phần dinh dƣỡng còn lại trong vật chất khô thức ăn sau khi trừ đi các thành phần protein thô, lipit thô, xơ thô và khoáng tổng số.
Dẫn suất không đạm thô (NFE) đƣợc tính theo công thức:
NFE = DM - (CP + EE + TA + CF)
Trong đó: DM: Vật chất khô (g/kg)
CP: Protein (g/kg)
EE: lipit thô
TA: Khoáng tổng số
CF: Xơ thô
Hình 30. Thiết bị phân tích chất xơ
Hình 31. Lò nung điện - Thiết bị phân tích khoáng tổng số
76
3.2.8. Phân tích axit amin
Xác định hàm lƣợng axit amin trên máy phân tích axit amin tự động BIOCHROM 20 của Thụy Điển và trên HPLC 1200 Agilent Technologies.
* Nguyên lý:
Hoạt động phân tích axit amin tự động là các bƣớc của phép sắc ký lỏng liên tiếp dựa trên nguyên lý của Spackman, Moore và Stein, 1958. Trên hệ thống Biochrom 20, nguyên lý này đƣợc cải tiến thành một quy trình hoàn toàn tự động đƣợc điều khiển bằng các phần mềm có tốc độ cao và chính xác.
Mẫu phân tích sau khi chuẩn bị xong đƣợc bơm vào cột trao đổi cation đồng thời
với các dung dịch đệm (buffer) có pH khác nhau, dƣới tác động của nhiệt độ các cột sắc ký đƣợc điều khiển với các chế độ nhiệt riêng biệt để tách từng axit amin.
Trong bộ phận quang điện, cƣờng độ màu của hỗn hợp màu (do axit amin tách ra từ các cột kết hợp với nihydrin) đƣợc xác định bằng việc đo độ hấp thụ ánh sáng ở bƣớc sóng 570 nm và 440 nm. Bằng việc so sánh với các đƣờng chuẩn axit amin đã đƣợc lập, hàm lƣợng axit amin trong mẫu sẽ đƣợc xác định.
3.2.9. Phân tích giá trị năng lƣợng thô
Hình 32. Thiết bị Biochrom 20 - phân tích axit amin tự động
Xác định năng lƣợng thô trong các loại thức ăn đƣợc tiến hành trên hệ thống phân tích CALORIMETER CAL2K của Nam Phi.
* Nguyên lý:
Bộ phận chính của một Calorimeter là một bình kín (Vesel), bình này đƣợc đặt trong 1 “áo nƣớc”. Khi đốt nguyên liệu, nhiệt sinh ra sẽ làm nóng bình kín này và làm tăng nhiệt độ của “áo nƣớc”. Đo nhiệt độ tăng lên của bình và áo nƣớc ta thu đƣợc tổng năng lƣợng sinh ra sau phản ứng cháy. Lấy kết quả này chia cho khối lƣợng mẫu đốt ta thu đƣợc suất tỏa nhiệt của chất đó (Năng lƣợng chứa trong 1 đơn vị khối lƣợng VD: MJ/Kg).
Hình 33. Calorimetter - Thiết bị phân tích năng lượng thô của thức ăn
77
Máy phân tích năng lƣợng CAL2K - 1 Calorimeter có nguyên lý hoàn toàn nhƣ trên, tuy nhiên do dùng công nghệ mới nên không có “áo nƣớc”, nhiệt tăng lên đƣợc hiển thị trên màn điện tử của bộ phần điều khiển. Nhiệt tỏa ra từ mẫu đốt đƣợc nhận biết bằng hệ thống sensor nhiệt (heat sensors) gồm 8 chiếc phân bố đều trên vỏ bom cấu tạo bằng nhôm là kim loại dẫn nhiệt gần nhƣ tốt nhất.
Nhôm có nhiệt dung riêng rất nhỏ nên với nhiệt lƣợng tỏa ra khi đốt một mẫu nhỏ sẽ đƣợc các sensor nhiệt sẽ ghi lại hầu nhƣ toàn bộ giá trị nhiệt lƣợng tỏa ra từ mẫu đốt và chuyển tín hiệu về bộ vi xử lý trung tâm để trả lời kết quả là số Kcal/1 gam khối lƣợng mẫu đốt bằng phiếu in sẵn.
3.3. PHƢƠNG PHÁP ƢỚC TÍNH GIÁ TRỊ DINH DƢỠNG DỰA VÀO THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA THỨC ĂN
3.3.1. Phƣơng pháp ƣớc tính giá trị năng lƣợng
Năng lƣợng hóa học giải phóng ra khi đốt thức ăn trong Calorimetter đƣợc gọi là năng lƣợng thô (GE: Gross energy), khi vào cơ thể sẽ chuyển hóa thành các dạng năng lƣợng khác nhau bao gồm: Năng lƣợng tiêu hóa (DE: Digestible energy) là hiệu số năng lƣợng thô trong thức ăn và phần năng lƣợng còn chứa trong phân; Năng lƣợng trao đổi (ME: Metabolisable energy) là hiệu số giữa năng lƣợng thô và năng lƣợng còn chứa trong phân + năng lƣợng trong nƣớc tiểu; Năng lƣợng thuần (NE: Net energy) là hiệu số giữa năng lƣợng trao đổi và năng lƣợng hóa nhiệt (HI).
Đơn vị đo năng lƣợng thƣờng đƣợc dùng là calorie (cal) và Joul (J), trong đó: 1Kcal = 1 calorie lớn (Cal) = 1000 calorie thƣờng
1Mcal = 1000 Kcal
1Kcal = 4,184 KJ
1KJ = 0,239 Kcal
Ở mỗi loài vật nuôi khi xác định nhu cầu năng lƣợng để cân đối khẩu phần ngƣời ta căn cứ vào các đặc trƣng sinh lý tiêu hóa, trao đổi chất và bài tiết để xác định dạng năng lƣợng thích hợp.
Các dạng năng lƣợng sau đây đã đƣợc sử dụng để biểu thị giá trị năng lƣợng của thức ăn:
- Thức ăn của gia cầm: Năng lƣợng trao đổi (ME). - Thức ăn của lợn: Năng lƣợng tiêu hóa (DE), Năng lƣợng trao đổi (ME).
- Thức ăn của trâu, bò, dê và cừu: Năng lƣợng tiêu hóa (DE); Năng lƣợng trao đổi (ME),
Năng lƣợng thuần (NE).
78
Để xác định mỗi dạng năng lƣợng này ngƣời ta phải bố trí rất nhiều các thí nghiệm cân bằng năng lƣợng phức tạp và tốn kém với các thiết bị đôi khi khá cồng kềnh và cả các máy móc để đo lƣờng. Điều này không phải cơ sở nghiên cứu nào cũng có thể làm đƣợc. Để giản tiện hơn, ngƣời ta làm các thí nghiệm thử mức tiêu hóa xác định tỷ lệ tiêu hóa từng chất dinh dƣỡng trên từng loài vật nuôi. Từ các kết quả nghiên cứu này có thể xây dựng các công thức tính các dạng năng lƣợng khác nhau cho mỗi loài vật nuôi. Tuy nhiên, với kết quả phân tích thành phần hóa học thức ăn đã thực hiện trong phòng thí nghiệm, ngƣời thực hành chƣa thể xây đƣợc khẩu phần nếu không có các bảng tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dƣỡng cho từng loài vật nuôi đi kèm.
Đến nay, khoa học về dinh dƣỡng thức ăn vật nuôi đã có rất nhiều tiến bộ, đặc biệt là trong các vấn đề ứng dụng. Ngƣời ta xây dựng nhiều công thức ƣớc tính giá trị các dạng năng lƣợng phù hợp trong nguyên liệu thức ăn cho từng đối tƣợng vật nuôi bằng phƣơng pháp hồi quy dựa vào số liệu phân tích về thành phần hóa học mà bất kỳ phòng thí nghiệm phân tích thức ăn nào cũng có thể làm đƣợc. Trong tài liệu này, các số liệu về mức năng lƣợng trong mỗi dạng năng lƣợng, của từng đối tƣợng vật nuôi (gia cầm, lợn, gia súc nhai lại), đƣợc tính bằng các công thức mà thế giới đang áp dụng phổ biến.
Tài liệu cũng giới thiệu các công thức khác tính ME cho gia cầm của Hill và Anderson (1958) và Nehring (1973); Các công thức tính DE và ME trong thức ăn cho lợn của Bo Gohl (1992) cùng các công thức tính năng lƣợng trong thức ăn của loài nhai lại đƣợc các tác giả Campton (1957), ARC (1965), NRC (1976), Garrett (1980), Moe và Tyrrell (1976) đƣa ra cũng nhƣ công thức tính TDN của theo Bo Golh (1992). Wardeh (1981) đƣa ra.
3.3.1.1. Thức ăn cho gia cầm
Những giá trị năng lƣợng của thức ăn trong cuốn sách này là năng lƣợng trao đổi đã hiệu chỉnh theo với lƣợng N tích lũy trong cơ thể gia cầm (viết tắt MEc). Công thức tính của Hill và Anderson (1958):
MEc = Me - Ng tích lũy trong cơ thể × 8,22 Kcal/g
Để xác định Me (năng lƣợng trao đổi chƣa hiệu chỉnh) dùng công thức của Nehring (1973):
ME (kcal/kg) = 4,26X1 + 9,5X2 + 4,23X3 + 4,23X4
X1 ... X4 lần lƣợt là protein tiêu hóa, chất béo tiêu hóa, xơ tiêu hóa và dẫn xuất không đạm tiêu hóa tính bằng g/kg thức ăn.
Để tìm lƣợng nitơ của thức ăn tích lũy trong cơ thể gà dùng số liệu (theo BLUM,1988):
Gà trƣởng thành: N tích lũy = 0
Gà mái đẻ và gà sinh trƣởng cuối kỳ: N tích lũy = 30% N thức ăn Gà sinh trƣởng đầu kỳ: N tích lũy = 40% N thức ăn
79
Để thuận tiện, con số 35% đã đƣợc chọn để tính toán cho tất cả các loại thức ăn gia cầm trong cuốn sách này.
Một số công thức tính giá trị năng lƣợng trao đổi của các loại thức ăn khác nhau theo Lã Văn Kính:
(a) Thức ăn thân lá tƣơi:
ME (kcal/kg) = - 4,19 + 42,4 CP + 21,4 EE + 19,4 CF + 19,6 NFE
S = 27,92; R2= 99,4%
(b) Thức ăn quả tƣơi:
ME (kcal/kg) = 13,1 + 35,7 CP + 47,7 EE + 9,1 CF + 36,8 NFE
S = 18,27; R2= 99,7%
(c) Thức ăn củ tƣơi
ME (kcal/kg) = - 12,4 + 36,6 CP + 80,9 EE + 17,3 CF + 35,4 NFE
S = 5,266; R2= 100,0%
(d) Thức ăn củ khô
ME (kcal/kg) = - 839 + 14,8 CP + 82,0 EE + 30,6 CF + 48,7 NFE
S = 25,61; R2= 95,1%
(e) Thức ăn phụ phẩm chế biến tinh bột
ME (kcal/kg) = - 13,3 + 30,4 CP + 48,7 EE + 14,2 CF + 31,7 NFE
S = 8,887; R2= 100,0%
(f) Ngô hạt
ME (kcal/kg) = 19,0 + 37,5 CP + 78,5 EE + 11,2 CF + 37,7 NFE
S = 2,156; R2= 99,9%
(g) Gạo, thóc
ME (kcal/kg) = - 6,5 + 37,9 CP + 86,1 EE - 9,48 CF + 38,3 NFE
S = 16,91; R2= 99,3%
(h) Cám gạo
ME (kcal/kg) = - 77 + 49,6 CP + 71,8 EE - 20,4 CF + 28,1 NFE
S = 111,4; R2= 93,4%
(i) Cám mì:
ME (kcal/kg) = 7,96 + 31,0 CP + 61,7 EE + 4,17 CF + 32,9 NFE
S = 0,3412; R2= 100,0%
(k) Hạt họ Đậu
ME (kcal/kg) = 792 + 24,6 CP + 70,6 EE - 4,4 CF + 27,5 NFE
S = 103,6; R2= 95,7%
80
"""