🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tây Tạng và giọt hoa trong nắng Ebooks Nhóm Zalo Mục lục 1. Lời nói đầu 2. Sợi lông nách của hành tinh xanh 3. Những con ong mật Như Lai 4. Tây Tạng - Giọt hoa trong nắng 5. Bí ẩn trong đôi mắt thiên định ánh sáng 6. Phép giải thoát trên thi hài người chết 7. Vị âm công và tục điểu táng 8. Vũ công không gian trong nhà thổ Lhasa 9. Người đàn bà Tsangfu 10. Dặm đường thần chú 11. Tiếng hát bất tử trên Himalaya 12. Huyền Trân công chúa trên đất Tây Tạng 13. Tây Tạng trong con mắt thứ ba của tôi TÂYTẠNG GIỌT HOA TRONG NẮNG (Văn Cầm Hải) Lời nói đầu T ôi xin cảm ơn Hữu Thu và Seraphin Trần Đình Quyền, nếu không dành cho tôi sự tận tuỵ giúp đỡ với tấm lòng nhẹ nhàng của các anh, tôi không thể đặt chân lên Tây Tạng. Tôi gửi đến người anh em Seraphin Nguyễn Gia Long, Trần Thức, Pan Phùng Phu, Nguyễn Văn Cao, Trần Trung Hỷ, nguời hiền Nguyễn Thiên Hương, Nguyễn Trinh Sơn và những người bạn lòng biết ơn vì sự chia sẻ trong những ngày nhớ về Tây Tạng. Và dĩ nhiên, Cao Quan Hong, không đi hoang cùng anh, tôi khó lòng thấy được Tây Tạng trong con mắt thứ ba của mình. Cuối cùng, xin một lời kinh cảm tạ những vị thầy, những linh hồn gia đình mà từng chữ trong tập sách này quán tưởng đến. Văn Cầm Hải Sợi lông nách của hành tinh xanh R ằng tin, tên tuổi là nơi trú ẩn danh tính của một đời người thì kể từ lúc nhận tấm giấy thông hành đặc biệt của cơ quan an ninh Trung Quốc vào rạng sáng ngày 18 tháng 9 năm 2003, nơi chốn nương thân gần 30 năm của đời tôi đã thay đổi! Bâng khuâng. Tôi Tia nắng non ngoi lên Nét chữ khiêu vũ Từng dây lửa réo rắt tấm giấy thông hành. Tên tuổi mình mà cứ ngờ cầm một cuộc đời khác lạ nào đó vừa rơi qua tay! Đây là lần đầu tiên, tôi không thể đọc tên tuổi mình trong dòng chữ múa lượn ánh lửa mang dáng hình “văn sấm” thời Ngưỡng Thiều Trung Quốc hoà quyện với điệu “brahmi” Ấn Độ cổ xưa. Trong khói sương mịt mùng bình minh Thành Đô, tôi ngắm nhìn tấm giấy thông hành và thầm đoán, dòng chữ mềm ánh lửa, buông thả nhưng không mất vẻ bí ẩn, chuyển thức tâm trạng theo đường nét tuỳ hứng khi đang chuẩn chu bỗng nhiên sổ dài sâu thẳm rồi đột ngột móc lên cao vời khó lường, ắt hẳn phải sinh từ vùng đất giàu ánh sáng và tự do! Các vị tu sĩ đang dìu bà già gần 100 tuổi lên núi Hồng Sơn Bỏ lại Thành Đô và ngôi mộ Lưu Bị đượm màu khói súng thuở ba quân chống Tào còn hận đắm thời gian, tôi bay lên Himalaya nắng tuyết. Càng tươi bay lên cao nắng càng hưng phấn ánh mắt. Một buổi sáng chưa đầy mà tôi đã bay qua hai sắc màu thế giới sương mù Thành Đô và ánh sáng Himalaya. Quả nhiên, miền đất nằm giữa vòng tay Trung Quốc và Ấn Độ, nơi sinh ra dòng chữ lửa khiêu vũ kia thật là phì nhiêu ánh sáng, ngay cả trong giấc ngủ, những đường mơ vẫn lung linh nắng vàng. Thế giới chỉ có một miền đất diệu kỳ như vậy, đó chính là Tây Tạng! Có lẽ, sự ám ảnh sâu sắc với dòng chảy của ánh sáng lượn quanh co trên những đỉnh núi tuyết đã trở thành dòng chữ qua mười ngón tay người. Tôi nhìn tấm giấy thông hành, tên tuổi hoa mắt tôi. Chữ không còn là chữ. Chữ bây giờ là lửa thắp lên cơn say nồng nàn. Bằng tâm thế của miền mưa bụi bên bờ biển Đông, tôi bắt đầu tan chảy trong nguồn sáng Himalaya! Himalaya! Nhờ say, nhân loại vượt ra ngoài trạng thái bình thường! Tôi không có rượu để say, chỉ có ánh nắng tràn đầy huyết quản. Tôi uống ánh sáng, uống rồi lại uống, như người Tạng nói, rồi uống nữa cho đến khi ngã xuống đất, lại đứng lên, lại bắt đầu uống nữa, tôi dường như thoát khỏi vòng luân hồi. Được nuôi dưỡng trong nguồn sáng Himalaya, Tây Tạng không bao giờ thiếu vắng ánh nắng. Nắng chiêu đãi cả những gốc cây cọng cỏ, nắng trải thảm trên hàng mi, nắng hoen men môi má, nắng bao dung cử chỉ nhưng tôi không cảm thấy mệt lòng vì sự tù túng, ngược lại trong nguồn sáng bao la của nắng, lần đầu tiên tôi nhìn thấy vẻ đẹp kịch tính con người nguyên thuỷ trong một thế giới phi hình thể. Mọi khái niệm và cảm giác bỗng nhiên tan biến nhường lại cho đôi mắt tha hồ say ánh nhìn tự do! Khi đã say ánh sáng, làm sao tôi có thể nhớ nỗi mình là là một thực thể cơm gạo bao năm. Rượu say, da thịt còn tỉ tê cơn lịm ngủ. Say ánh sáng, càng say càng tỉnh táo. Cả thân hình rực rỡ với hàng tỷ tế bào lung linh mọi điểm nhìn, dẫu có dấu kín từ muôn kiếp cũng hiện về trong veo! Trời Tây Tạng vào thu nhưng không nhu mì mà tươi xanh màu mắt con gái đêm đầu tiên dậy thì. Bởi trên ngôi cao mặt trời có ngủ quên sau mây thì dãy Himalaya với những ngọn núi như bầy vú linh lang, căng đầy hàng triệu năm ánh sáng và băng tuyết đủ tiết ra nguồn sáng tràn trề không gian. Đó là lý do, vì sao người Tây Tạng kính núi. Núi không chỉ là con đường dẫn lên chốn thần thánh ngụ cư, núi còn có linh hồn! Rigonlanxi! Núi có linh hồn. Núi là người Mẹ sinh nở nguồn năng lượng hữu hình và vô hình cho tự nhiên dồi dào muôn màu số phận. Ngày thơ ấu, theo chân Mẹ qua núi. Một mình mẹ cặm cụi nhát cuốc. Một mình tôi chín tuổi thơ trong lửa muộn rừng chiều Trường Sơn. Mẹ chẳng giống núi. Mẹ gầy yếu giọt mồ hôi. Núi đồ sộ hơn chuyện cổ tích. Nhưng mẹ bảo, con hư hay ngoan cũng là con của mẹ như núi kia đêm qua sinh mầm xanh thì sáng nay nhận lá vàng. Như núi kia che chở tiếng côn trùng mưa rơi nhưng không ngần ngại tiếng gầm mãnh thú. Núi sinh ra sông nhưng chẳng buồn giận đại dương lấy hết nguồn nước bởi tất cả là con của núi! Tuổi thơ tôi không hiểu lời mẹ nhưng dần theo tháng năm, tấm tình sẻ chia với núi lớn dần lên bước chân. Mỗi khi viếng mộ tổ tiên, nhìn núi, lòng tôi bỗng phiêu linh tương lai quê nhà. Vậy thì có gì đâu mà sợ núi, có gì đâu yếu vía mong bóng núi trùm lên bóng mình mới cảm hứng được tâm thức thiêng liêng. Núi đã có linh hồn thì có sự chia sẻ và đương nhiên núi cũng đầy số phận lạ lùng! Kailâsa là một số phận lạ lùng và linh thiêng nhất trên rặng Hymalaya. Khi thế giới còn côi cút tâm linh, người ấn độ ví Kailâsa là trục vũ trụ với tên gọi Tu-di hay Meru. Tu-di là ngôi nhà của thần Shiva, và con người, một hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ nên Tu-di biểu tượng cho cột xương sống dựng nên sự sống thân thể. Rồi đến Phật ra đời, Kailâsa là một đàn tràng linh phù mandala của các vị Thiền Phật. Dòng sông Yarlung Tsangpo Trong lòng dân Tây Tạng, trung tâm của Nam thiện bộ châu - thế giới loài người nằm ở Kailâsa giống hình ảnh ngọn núi Olympe trong mắt văn minh Địa Trung Hải và ngọn núi Qaf của đạo Hồi Trung Đông dẫu Kailâsa không phải là ngọn núi cao nhất trên Himalaya. Qomolangma cao 8848,13 mét. Kailâsa cao 6.666 mét. Sau lần dịch chuyển thứ nhất làm nên cơn hồng thuỷ, bầu trời và cây cối tuyền màu đỏ ối, theo tiên đoán của Ernest Muldachev, đúng 6666 năm sau, trái đất lại lâm vào đại nạn, bầu trời và cảnh vật chuyển sang màu xanh thẩm lá cây khi trục trái đất dịch chuyển về Kailâsa! Không biết lúc ấy ai sẽ là Noeh hay tất cả nhân loại đã yên bình trên sao Hoả - nơi người Mỹ tin rằng có hoạt chất kết tinh và khoáng chất sắt thường sinh ra từ nước như bằng chứng về sự sống từng hiện hữu, có thể cho con người lưu trú trong tương lai! Không biết ngày nào sẽ diễn ra cuộc hoán chuyển kinh hoàng ấy nhưng ngay từ bây giờ, bất cứ lúc nào nếu ta có một chiếc compa khổng lồ đặt ở cực bắc trái đất, mở rộng 60 độ, đầu còn lại của compa sẽ điểm ngay vào đỉnh Kailâsa! Thôi thì tương lai hãy còn đó 4662 năm nữa cho các chà khoa học mặc sức suy đoán và chiêm nghiệm còn tôi, một bình thường trời xanh quyết liệt tin vào sự linh thiêng của tạo hoá, tôi chỉ biết bao nhiêu ngàn năm qua Kailâsa có một số phận quá đỗi linh thiêng khi được trao quyền làm Mẹ năm nguồn nước vĩ đại. Băng tuyết giao hoan cùng ánh sáng sinh ra nguồn nước chảy xuống hồ Manasarovar. Sau khi chảy bảy vòng quanh ngọn Kailâsa theo lễ pradaksina - đi vòng quanh đền thờ của người Tây Tạng, nguồn nước toả thành năm dòng sông. Trong đó có bốn dòng sông mang tên bốn loài thú thiêng Phật cưỡi trên toà sen. Sông Sutlej xuất phát từ phía Tây, Tạng ngữ gọi là Langschen - Khambad “chảy từ miệng voi” hợp lưu cùng sông Indus ở phía Bắc là Senge - Khambad “chảy từ miệng sư tử” tạo thành dòng sông Ấn cuộn về biển ả rập. Sông Karnali ra đi phía bình nguyên Gogra là Magtscha- Khambad “chảy từ miệng chim công” bay tới Patna gặp sông Hằng thiêng liêng. Phía Đông, sông Brahmaputra là Tantschog-Khambad “chảy từ hàm ngựa” phi qua 2057 km, lúc ngược lên cao 4500m, khi xoáy sâu gần 5500 m, dòng sông như vũ điệu hoành tráng của thiên nhiên ban tặng cho miền đất Tây Tạng. Sông Brahmaputra, dòng sông cao nhất thế giới, cũng có tên gọi Yarlung Tsangpo chính là dòng nước chấp chới đàn bướm ánh sáng đang rập rờn chảy qua trước mắt tôi. Dòng sông cũng như một khái niệm triết học. Nhờ sông, trẻ thơ được trở mình lớn dậy và người già lại hồn nhiên trở về những ngày tinh khiết khi tâm linh chưa hề nhám bụi trần ai. Và tôi, một tế bào nhẹ nhàng hơn hư không đứng say mình bên dòng Yarlung Tsangpo chợt thấy nơi này, trên đỉnh cao thế giới, lòng hoài nghi của ý thức, sự thê thảm đến tận cùng thân xác hay niềm hứng khởi tâm linh cũng trở nên: mờ bay từng sợi không khí. Trong ánh mắt say ánh sáng, dòng sông Yarlung Tsangpo làm tôi nhớ sợi lông nách người thiếu nữ Digan nuôi dưỡng một đời, xanh biếc, mơ màng và lao xao trên da thịt âm thầm. Đêm mùa đông Bruxelles, trong căn lều lang thang, Nilavek hồn nhiên khoe áo, xoa nước thơm lên tay, vuốt nhẹ từng sợi lông nách bằng thái độ một người nông phu tận tuỵ với cây lúa. - Em người Digan, em không có dòng sông nào nên rất yêu những sợi lông nách của mình! - Năm ngón tay búp măng màu tuyết xứ Nga trong nách Nilavek đâm chồi lên tôi - Khi nhìn những sợi lông nách là thấy những dòng sông, tuy nhỏ nhoi nhưng không ngừng vươn lên của thân xác! Yarlung Tsangpo, Trường giang, Hoàng Hà và còn biết bao dòng sông thế giới đều bắt nguồn từ trong đất đá, thoát thai từ những nơi bí hiểm nhất của núi non trên cao thượng giới, nó cũng như sợi lông được sinh thành từ nách ngực, kề bên trái tim cao quý con người. Sợi lông nách Yarlung Tsangpo không nâu đen màu đêm Bruxelles trong nách người con gái Digan. Sợi lông nách Yarlung Tsangpo là dòng ánh sáng của Tây Tạng. Núi điệp trùng dựng lên mê cung nhưng dòng sông vẫn di ảo theo đường vận hành ánh sáng trở ra với biển, không khác gì sợi chỉ người con gái của Minos trao cho Thésée ra khỏi mê hồn trận sau khi giết quái vật Minotaure. Dòng sông ánh sáng Yarlung Tsangpo Di ảo là đức tính của sông! Yarlung Tsangpo! Bốn mươi triệu năm cũng chỉ là thoáng chốc mơ hồ. Thoáng chốc mơ hồ cũng là chuỗi dài bốn mươi triệu năm cho tôi hái lượm bao nhiêu mơ ước, ý niệm và hành động, sinh tử nối tiếp nhau theo từng bước chảy. Sông chảy dưới lòng đất, sông chảy trên trời cao, sông chảy vào lòng người, sông nhắc nhớ cho tôi hay rằng, tất cả mọi hình hài vũ trụ đều thoát thai và sẽ trở về với nước, nữ chúa của những điều kỳ diệu mà không cần bất kỳ một thứ ngôn ngữ nào giải thích. Vì không giải thích nên vào năm 313 trước công nguyên, khi vượt qua dãy núi Himalaya, vị vương tử giang hồ của triều đại Chandragupta Maurya ở Ấn Độ đã chỉ tay lên trời thay cho câu trả lời từ đâu đến trước ánh mắt thăm hỏi của người dân Tây Tạng. Không ngờ, cử chỉ bất đồng ngôn ngữ ấy đã làm cho người Tây Tạng nghĩ rằng ông là người của trời nên được tôn vinh lên làm vua. Đó chính là Nyatri Tsenpo - vị vua đầu tiên xứ Tạng như ý trời mong muốn ông đưa văn minh ấn độ vào khai sáng Tây Tạng với sự khởi đầu là xây dựng kinh thành ở thung lũng Yarlung bên dòng Tsangpo có độ cao ba ngàn bảy trăm mét! Bởi chỉ đứng dưới thung lũng, nhà vua mới được tiếp nhận dòng nước trên cao đổ xuống hang sâu thiên hạ, chứa đầy cảm nhận sức mạnh siêu nghiệm lan tràn trong trung gian trời đất! Tôi nghĩ, chính kẻ giang hồ trong thiên hạ, yêu tự do như yêu cảm xúc huyền bí mới được hưởng ân sủng trời ban như vậy! Tiếc thay, dòng Yarlung Tsangpo vẫn còn chảy đó nhưng nhân loại ngày càng vơi bóng giang hồ trên mặt đất. Dù kính trọng giang hồ mà lòng sợ hãi sự đau khổ, không cảm ơn đau khổ thì làm sao trở thành giang hồ như người Tây Tạng nói Trotung tro ma tung na, Gesar ge mi sar - nếu Trotung không mưu ma quỷ quyệt thì Gesar đã không trở thành anh hùng! Cái anh hùng của Tây Tạng thể hiện ở tinh thần chiến sỹ tâm linh chứ không phải là tinh thần chiến sỹ trên sa trường! Với tinh thần chiến sỹ tâm linh nên Nyatri Tsenpo, khi chết đã theo một sợi dây lên trời, sáu đời vua hậu duệ của ngài cũng được sợi dây ấy đưa lên cõi trời. Sợi dây ấy phải chăng là Yarlung Tsangpo! Dòng sông chảy vào lòng Nyatri Tsenpo sức mạnh nghiệp đế và cho ông một khả năng siêu thoát lên cõi Nirvâna-Niết Bàn! Tsangpo vẫn mặc nhiên dòng chảy không trả lời tôi. Nyatri Tsenpo và bao nhiêu nấm mồ con cháu ngài cũng im lìm trong thung lũng Yarlung. Nhưng tôi tin, bên dòng sông, cũng như tôi bây giờ, truyền thuyết Nyatri Tsenpo không bao giờ mọc cỏ dại, linh hồn chiến sỹ tâm linh ấy đang soi mình đâu đó dưới bóng Yang vàng. Từ dòng sông này ông đã ra đi thì nhất định ông cũng sẽ trở về như mọi vật sinh ra và quay về với ân huệ trời ban. Trời ban cho Nyatri Tsenpo cao nguyên Tây Tạng hùng vĩ và trời ban cho tôi được sống với nhiều dòng sông rạt rào ký ức như tiếng đàn của người bạn Casanova hát rong lòng đất Paris, dưới dòng chảy sông Seine! Vient la nuit sonne lõheure... les jours sõen vont je demeure.... Những câu thơ Appollinaire bước say trên cầu Mirabeau đêm nào rơi rớt bay về từng giọng sóng Yarlung Tsangpo. Casanova! Đêm đến giờ đổ, ngày trôi qua, tuần trôi qua, cùng những mối tình xưa không trở lại nhưng tôi vẫn còn đây, Yarlung Tsangpo miệt mài chảy! Chảy tôi đi từ sông Seine qua sông Mass, ngắm bầy chim mòng biển bơ vơ hải cảng Rotterdam thương dáng hình Muhammad Khan và Mary lưu lạc quê hương. Palestine, quê nhà của Khan cũng có dòng sông vũ trụ, dòng Jourdain linh thiêng sao không mang lại ân huệ cho đôi vợ chồng Palestine-Israel để họ phải chia lìa, không dừng bước lưu vong đầy máu và nước mắt. Không biết bao giờ, tôi sẽ trở lại dòng sông Maas, thu lu khói thuốc trước cửa biển rộng, nghe tiếng còi tàu muôn phương ghé lại lọc rửa một âm thanh quê nhà cho tôi, cho Khan và Mery, những người bạn Trung Đông không chốn nương thân! Nhớ con sông thứ năm chảy ra từ nguồn nước ngọn núi thiêng Kailâsa! Sông Langcang - sông Lan Thương, sông dài 4220 km không chảy ra từ miệng một linh vật nào cả nhưng sức mạnh của nó không kém Yarlung Tsangpo. Trong lòng nó vẫn dồi dào sức mạnh của mẹ núi Himalaya truyền chảy qua Miến Điện, Thái Lan, Lào, Căm Pu Chia và cuối cùng biến thành chín con rồng cuốn nước ra biển Đông. Đó là dòng sông Mè Khoỏng-sông Mẹ theo tiếng Lào, người Việt đọc là Mê Kông. Chín dòng nước chảy ra biển Đông là Cửu Long giang miền Tây Nam Bộ hào sản. Chân dung VCHải bên dòng Yarlung Tsangpo Ngày đặt chân đến mũi Cà Mau, nhìn lớp phù sa mỡ màng tấm lưng trần châu thổ, cứ một đêm theo sông đẩy sóng ra đại dương cho đất nước rộng mở, tôi không hề hay có một ngày sẽ lên thăm tổ tiên của những hạt phù sa ấy và thấy rằng, trong tính cách phóng khoáng của hạt lúa miền Nam quê hương có mầm uy nguy chắt chiu hàng triệu năm ánh sáng của những đỉnh núi tuyết đang huyền thoại trước mắt tôi! Không có sức mạnh của người mẹ Himalaya, làm sao Mê Kông chuyển về Cửu Long 100 triệu tấn phù sa/năm với tốc độ 34.000 mét khối/giây! Tôi là ai trong khoảng khắc trong 34.0000 m3/giây ấy. Liệu từng sátna đời tôi có chuyển tải một hạt phù sa nào về khoả lấp vết thương do lưỡi kiếm Lửa Sadet bỏ lại dưới đáy sâu Cửu Long. Tôi nhận ra, ngoài tính cách phóng khoáng, đời sống sinh hoạt của cư dân đầu sông và cuối sông Mekong cũng bao phần giống nhau. Điệu hát của người Tạng chon von núi non, chỉ một âm tiết cũng đủ ngân dài mấy núi. Giọng ca tài tử người Nam Bộ lãng du sông nước, vài tiết điệu buồn dâng lên là biển cả thấy mênh mông. Và kiểu cách ăn ở, người Cửu Long giản đơn vài ba mái chòi, một chiếc màn rộng của mẹ là căng đủ giấc ngủ cho mấy chục cháu con say sưa giống túp lều vải đơn sơ hay mái nhà đất mộc người Tạng che chở cho núi ngủ người say. Rồi rượu! Gái trai Tây Tạng ngấm rượu Tsampa từ thuở da thịt chưa rám nắng thì miền Cửu Long, gái trai cũng chẳng nề hà hơi men! Bao nhiêu năm rồi loanh quanh bóng mình! Tiếng hát của Thảo tặng tôi đêm rượu Hậu Giang vang lên trời Tây Tạng một bóng hình quê nhà cô đơn bên dòng Nhật Lệ trong buổi sáng mai tiển đưa linh hồn chết trong làng qua sông sang núi. Chiếc bóng của những ngày rong chơi đốt nhà hàng xóm chuốc lấy tiếng khóc ngộ dại thả dọc triền sông quê chảy dưới núi Thần Đinh - ngọn núi duy nhất nước Việt chảy ngược về phía Bắc - bây giờ là tôi thả dọc tâm linh bên dòng sông Yarlung Tsangpo. Nhờ dòng sông này tôi sẽ quên chiếc bóng của mình hay lại rơi vào thế giới ma quỷ bởi dòng sông này có ẩn chứa hai nguồn nước chảy từ hồ Manasarovar hình tròn mặt trời biểu tượng cho manas - xứ sở của ánh sáng giác ngộ và Rakastal hình lưỡi liềm mặt trăng là rakas, ứng với cõi vô minh nằm dưới ngọn Kailâsa! Hai hồ nước mặt trời và mặt trăng này giống hai nguồn năng lực chảy dọc hai bên phải trái cột sống hợp thành nguồn lực trung tâm đưa con người đến cõi đại toàn thiện. Cầu mong cho tôi được thanh lọc trong nguồn nước Manasarovar như hoàng hậu Maya, đêm mơ được nhúng vào hồ, tẩy rửa mọi ô nhiễm để chào đón vị Phật tương lai bước vào trú thân trong tử cung của bà dưới dạng một con voi trắng. Người ta bảo Yarlung Tsangpo và dòng Indus là vòng tay mở rộng ôm lấy Himalaya và bán đảo Ấn Độ. Ngọn Kailâsa, đứng độc lập giữa miền cao nguyên, là đỉnh trời linh thiêng song song với ngọn tháp chín tầng Kõouen louen, nơi sinh ra Dương Tử, Hoàng Hà. Kailâsa và Kõouen Louen là hai đầu tao nôi ru cao nguyên Tây Tạng bay lên bát ngát trời xanh huyền bí bằng tiếng hát văn hoá của những dòng sông nối liền Trung Quốc và Ấn Độ. Một góc nhìn Potala và hoa Chantai Nhưng tại sao, có những đứa con sinh ra trong chiếc nôi ấy lại bỏ đi như 2.500 trước thái tử Siddhartha bỏ lại hoàng cung trong đêm vắng ra đi! Mười thế kỷ trôi qua, chưa một lần nào tổ tiên Nilavek trở về thăm cố hương miền châu thổ sông Hằng. Nilavek, hôm nay tôi ngồi đây trên đất đầu nguồn sông Hằng và nhớ bạn, chiếc lông nách lang thang. Từ kẻ có quê thành kẻ vô quê, Nilavek từng nói với tôi, nơi nào cũng là đất đai của tạo hoá thì con người làm gì có quyền sở hữu vì vậy nơi nào cũng là quê hương của người Digan. Tổ tiên Nilavek không chỉ có sợi lông nách sông Hằng mà tất cả mọi dòng sông trên thế giới đều là lông nách người Digan. Cũng giống đất, không sở hữu dòng sông nên người Digan có quyền gọi dòng sông nào cũng là của mình! Người Digan không muốn ràng buộc bất cứ điều gì! Nilavek! Sau bao ngày chia tay, hôm nay, trước dòng sông Yarlung Tsangpo, tôi hốt nhiên hiểu ra lời bạn! Chúa Trời cũng không lấy mất tự do thì hà cớ gì những huyền thoại đầu nguồn sông Hằng, trên ngọn Kailâsa và Kõouen louen lại ràng buộc người Digan! Nilavek, lời của bạn là một tantra, một công thức thần chú tuyệt diệu truyền vào tôi tiếng nói tự do đích thực! Tưởng chia lìa thực tại áo cơm, sống trong huyền thoại hoá tâm linh là được tự do nhưng thêm một lần nữa, con người lại nâng lên cấp độ nô lệ bởi chừng nào còn vướng bận giáo điều, sở hữu cả huyền thoại thì chừng đó con người vẫn chưa trở thành Thân Hư Không! Tôi không cần xin bóng mát dưới tán cây jambu trên hồ Manasarovar. Trước mắt tôi đang là thực tại dòng sông Yarlung Tsangpo cuộn chảy. Trước mắt tôi là mùa thu đang chín tới trên bóng Yang vàng rực rỡ, và đâu đó mùa hè còn sót lại bóng phong đỏ lập loè thắp sáng cồn đất nằm yên ả giữa dòng Yarlung Tsangpo. Cây Yang vàng Lhasa! Phải chăng vì không chịu nổi mùi hương kinh kệ mà trút bỏ màu áo diệp lục rời Lhasa lội ra tắm mát ánh sáng tự do giữa dòng sông! Cùng hướng về thực tại dòng sông, còn có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và nữ thần Tarâ trắng xanh trên vách núi cao sau lưng tôi. Thân ngài vàng đồ sộ, tóc ngài xanh thiên thanh, mắt ngài đượm diệp lục. Phật tạc vào đá mà không tù trong đá. Ngược lại, với màu sắc sống động tư duy mỹ thuật Mật tông, Đức Phật đã nâng khối núi thanh thoát bay theo đàn cờ phướn tưng bừng như chim mang tin lành của ngài lên cao. Ngài nhìn. Núi nhìn ra sông Yarlung Tsangpo. Cái nhìn vĩnh hằng của đá và sự sâu sắc Phật Pháp không hề bận tâm những đường dây điện của người Trung Quốc cắt ngang không gian, không hề bận nghe tiếng kêu be be những chuyến xe ngược xuôi trên đường về thủ phủ Lhasa. Đôi mắt mang đến cho dòng sông một cái nhìn thản thiên lạ lùng! Dòng sông miệt mài nhìn. Núi miệt mài tĩnh lặng. Đức Phật miệt mài trôi. Cả ba cùng chảy trong ánh sáng thanh tịnh. Sông không nói. Phật không nói. Núi không nói. Nắng không nói. Tất cả đều trong trạng thái thiền định ánh sáng. Chỉ có người đang nói trong tôi. Bao giờ tôi không nói. Bao giờ tôi được tự do. Nilavek quá xa xôi không trả lời. Cho đến một đêm về sau trong căn buồng trên gác nhà thổ Lhasa, tôi đã thấy tôi không còn nói nữa khi người kỹ nữ Tây Tạng cho tôi một bất ngờ lạ lùng. Bên thùng nước hồng cảnh thiên, như Nilavek đêm nào, kỹ nữ cởi áo chỉ vào nách dạy tôi: - Nếu ngủ với tôi, anh không được nhổ bất kỳ một sợi qiangkong nào! Lông nách không là tóc của thần Shiva. Nó là một dòng sông chảy ra từ núi ngực. Im lặng trong nách, im lặng sống với trái tim như núi nhìn dòng sông! Kẻ ở trong nhà thổ cao ba ngàn bảy trăm mét, người lang thang Âu châu thấp hơn mức nước biển. Kẻ đã ra đi mười thế kỷ, người mới có mặt trên Himalaya gần hai mươi năm. Sao lưu lạc nơi đâu, họ cũng cảm thấy chân lý bao hàm tất cả, sự sống cô lập hoàn toàn thì không thể được và có một con đường độc nhất để đạt tới chân lý là tự mình hoá thành với tất cả hiện hữu! Targore, một người đồng hương với Nilavek đã nói với nhân loại như thế. Tượng Phật thích ca mâu ni bên dòng sông Yarlung Tsangpo Tôi bàng hoàng! Sau cuộc hành trình 100 km từ sân bay Gongkhar, chưa đầy 20 km nữa là được nghỉ ngơi ở thủ phủ Lhasa, nhưng người Tây Tạng lại cho du khách dừng chân trước ngọn núi tạc tượng Đức Phật. Không phải là sự nghỉ ngơi thuần tuý mà để cùng Đức Phật ngắm nhìn dòng sông Yarlung Tsangpo miệt mài chảy trong cái nhìn tĩnh lặng ánh sáng! Như biển cả rót vào giọt sương mai. Sự tĩnh lặng là một nghi lễ lớn. Đó là lúc, Tự Do hoá thân trong khuôn mặt Chúa Trời hiện ra trong lòng ai đạt đến cõi tĩnh lặng! Bức thông điệp đầu tiên mà Yarlung Tsangpo, sợi lông nách chảy ra từ vùng đất chư thiên gửi đến cho tôi khi mới đặt chân lên mái nhà thế giới Tây Tạng! Những con ong mật Như Lai M ùa xuân năm 1967. Ngày 27 tháng Giêng. Có hai người lên rừng hái mây về chợ. Họ vốn là con nhà quan lại thất cơ. Bởi không phải là những tay sơn tràng chuyên nghiệp, gan ruột đau hơn vết cắt cứa máu lòng tay nhớ về người vợ và đàn con thiếu cơm dưới vùng quê buồn, họ đã quên mất nơi mây mọc cũng là nơi trú ẩn của loài hổ. Người em hứng khởi chặt đứt một gốc mây. Ngọn mây dài vút lên trời bỗng rụng xuống thảm khốc. Bên kia, chưa đến mười tầm tay, một tiếng gầm bùng lên nhanh hơn tia chớp. Núi rừng tắt phụt màu xanh. Im lặng! Nóng hổi máu vương vất lá cỏ. Người em cầm cây dao chém loạn xạ, chém mãi cho đến khi hoang lạnh rừng mây vẫn không nghe tiếng đau của người anh đáp trả. Người anh trở thành một sinh linh của rừng xanh từ đó Người em trở về làng mang theo âm thanh kinh khiếp của loài chúa sơn lâm. Đó là cha tôi! Tôi biết, cha có thể quên tất cả, quên mất cuộc chiến tranh đi qua đời ông, quên mất những năm tháng cơ hàn dày xé gia đình, quên luôn cả ngày sinh tháng đẻ của những đứa con nhưng cha không hề nguôi ngoai âm thanh dữ dội rừng núi đã cướp mất người anh trai của mình trong buổi sáng sắc nhọn rừng mây năm 1967. - Đang đêm, nghe tiếng muỗi bay, cha cũng lầm tưởng đó là tiếng hổ. - Cha tôi, những khi thanh bình nhất vẫn nhắc nhớ - cha mong sao, một ngày cha nghe tiếng hổ gầm cũng nhỏ bé như tiếng muỗi trong đêm vắng! Lời nguyện cầu của cha chảy vào lòng tôi và cho đến cuối đời mình, có lẽ không bao giờ tôi được nhìn thấy lời nguyện cầu ấy trở thành sự thật. Và đó là lý do, tôi rất sợ muỗi, tôi sợ nghe tiếng gầm gào phát ra từ cái thân hình bé nhỏ không ngừng nghỉ ngơi tìm kiếm mùi da thịt. Nhưng rồi một ngày. Không phải trong đêm vắng làng quê. Không phải trên rừng mây nơi hai anh em cha tôi chia ly. Không phải trong giây phút say sưa ánh đèn đô thị và càng không phải trong trạng thái siêu nhân xem nhân gian chỉ là một hạt cát lọt qua kẻ tay, tôi đã thấy tiếng muỗi kêu hay tiếng hổ gào cũng như tất cả, chỉ là âm thanh được vũ trụ sản sinh và nuôi dưỡng qua lời dạy tỏa ra từ một loài hoa nhỏ bé mà cao nhã hơn tất cả nhiều loài hoa trên thế giới. Hoa sinh ra trên độ cao hơn 4000m! Loài hoa Chantai trên cao nguyên Tây Tạng! Bầy ngạc nhiên lan tỏa khắp mặt đất. Những bông hoa Chantai dịu dàng, không nề hà khí hậu khắc nghiệt, bất chấp bão tuyết và gió lạnh từ dãy Himalaya tràn xuống, vẫn vươn lên, cười rạng rỡ trên mặt đất chói chang ánh sáng mặt trời. Trên từng cánh hoa mong manh Chantai, mỗi cm2 điềm nhiên hứng chịu độ bức xạ lên đến 195 kg calo triền miên tỏa nóng suốt 3.021 giờ ánh sáng quanh năm. Với thân pháp thâm hậu nhưng thư thái như vậy, hoa Chantai có quyền ban phước lành cho những loại hoa dưới miền bình nguyên vì ngay cả vùng đất nằm cùng vĩ độ với Lhasa là Thành Đô, Thượng Hải các loài hoa đã cảm thấy nghẹt thở dù thời gian chiếu sáng mới có gần 2000 giờ và độ bức xạ từ 88 -113kg calo. Tắm mình trong ánh sáng chói chang chưa phải là điều kỳ diệu mà chính sự vươn qua mọi trạng thái thời tiết mới là bản lĩnh của hoa Chantai. Sinh ra trên vùng đất có địa thế phức tạp đột biến, khi cao ngàn thước lúc sâu khó lường nên không đợi bốn mùa mà chỉ một ngày một đêm đi, thân hình mảnh mai của hoa Chantai đón nhận bao nhiêu loài khí hậu chuyển giao từ nhiệt đới và á nhiệt đới chuyển sang ôn đới, hàn đới, hàn ôn đới rất biến ảo “nhất sơn hữu tứ quý, thập lý bất đồng thiên” - một ngọn núi có bốn mùa, mười dặm nhưng không cùng một ngày! Tôi đã có những ngày qua Khe Sanh lặn lội làm phim với Hữu Thu, có nhiều hôm đứng trên đỉnh núi, xòe hai tay, tay phải hứng mưa rơi, tay trái sưởi ấm ánh nắng mặt trời nhưng khi đặt chân lên Tây Tạng, không chỉ đôi tay mà dường như tất cả tổng thể mọi tế bào trên thân thể đều biến hóa cùng muôn chiều thời tiết kỳ lạ. Toàn cảnh cung Potala và hoa Chantai Thân thể như tôi đã tàn tạ và ngay cả người xứ Tạng, trên đôi má thiếu nữ ánh sáng mặt trời và khí hậu thiêu cháy làn da nhưng với Chantai, trời càng nắng, đất càng lạnh, gió càng cuồng say, khí càng chuyển động, hoa càng tinh anh. Trên đường phố Lhasa, bên sườn núi đá hay dưới chân cung điện Potala hùng vĩ, nơi nào tôi cũng gặp hoa Chantai như mùa xuân an nhiên tự tại trước mọi nghiệp chướng đất trời! Nơi nào có hoa, nơi ấy có sự thăng hoa của cõi đất! Nơi chốn nào cũng có một dáng điệu thăng hoa riêng biệt. Đi qua những cánh đồng hoa Hà Lan với lòng thương yêu tinh thần phản kháng của người dân chài Bắc Âu vượt qua bão tố mang lại cho nhân loại những mỹ miều hoa cỏ. Tôi không hay trên cao bầu trời, bên mái hiên Himalaya hùng vĩ, có những loài hoa tuy giản dị lại ẩn chứa trong mình nội lực sống hết sức kỳ vĩ, không chỉ hiến dâng vẻ đẹp ngoại cảnh mà còn vượt qua khả năng thăng hoa, làm nên cõi giới bao la tỏa sáng từ 8 cánh đều đặn như bánh xe chính pháp. Với Tây Tạng, hoa là khoảnh khắc tái sinh của đất. Dưới bóng hoa Chantai, không biết bao nhiêu số phận đã tái sinh, đã khước từ đớn đau để đón nhận niềm hân hoan đời sống mới. Toàn cảnh Lhasa Mười ba thế kỷ trước, khi từ Đại Đường sang làm dâu vương triều Tùng Tán Cương Bố, nàng công chúa Văn Thành cũng như tôi hôm nay, ngắm hoa Chantai bổng nhiên tâm thế xúc động, trút bỏ mọi mặc cảm và đau khổ như một người cởi bỏ nặng nề áo xống ném xuống vực sâu rồi điềm nhiên khoác lên vai mình làn mây trắng bay qua muôn thì không gian. Rễ đâm vào đá, như cái cây tư tưởng của Nietzsche mọc lên thiên đường thì rễ nó phải vươn xuống địa ngục, hoa Chantai là một lời kinh của thiên nhiên dành cho con người. Khi lên cung Potala nằm ở phía tây bắc thành Lhasa để viếng thăm các bảo tháp của Lama, tôi choáng ngất nhành khói lạc vào vùng trời ngột ngạt mùi hương đèn, thâm u lời nguyện cầu chen kín không gian đượm nồng ánh nến mỡ trâu Yark. Lòng dạ hoang mang, đầu óc đau buốt. Đôi mắt cố vươn về phía khung cửa, nơi có ánh sáng mặt trời mong được hớp lấy vài hạt oxy. Giữa lúc cảm giác sợ hãi đang lần mò khắp từng chân tơ kẻ tóc như vậy, tôi chợt thoảng qua tai mình âm thanh dịu nhẹ như ánh nến hắt ra từ một hốc đá! Nhắm mắt để tin rằng, trước mặt tôi là một vị tu sĩ đang niệm kinh! Trên vách đá, trong hốc nhỏ vừa vặn thân thể, ánh nến nhạt hơn buổi hoàng hôn, vị tu sỹ già tay cầm que gỗ trắng lần hồi gạt từng dòng kinh thư trên trang giấy ố vàng. Theo que gỗ đưa từ trên xuống dưới, những mẫu tự Tạng ngữ hiện ra như vũ khúc của lửa âm nhu sáng lên đôi môi già nua... Cao Quan Hong, người vệ sỹ mang dòng máu Tứ Xuyên của tôi kéo tay, anh ta thầm thì bảo không được đến gần hốc đá. Nhưng có hề chi, tôi không tin những lời kinh kia chỉ dành riêng cho tu sỹ nên cứ lặng lẽ tiến tới, lắng nghe trong rã rời cảm giác cho đến khi thanh gỗ nhỏ dừng lại ở dòng cuối cùng. Vị tu sỹ hé mắt, một tia sáng tím của đá xuyên qua màn khói hương. - Thưa ngài!... - Hải à, em không được phép! - Cao Quan Hong cản bước lời tôi. Nhưng bàn tay hộ pháp của Hong đang chụp xuống vai tôi đã lìa rụng! Trong hốc đá, bất ngờ mờ ra một lời làm tôi sửng sốt xương tủy! - Anh không phải là khách lạ chốn này! - Tu sỹ từ tốn, từng âm vực rung động sâu xa, tựa hồ làn âm tự của sấm thổi vào trí não. - Không, anh ta mới từ Việt Nam đến đây. Và tôi nữa, tôi cũng mới đến từ Thành Đô! - Hong nhanh miệng trả lời. - Anh không phải là khách lạ của chốn này vì vậy những đau đớn kia sẽ qua nhanh! - Tu sỹ vẫn quét tia mắt tím vào tôi - Người đứng sau lưng anh mới là khách lạ. Anh hãy nhìn ra cửa sổ, anh sẽ thấy! Tôi không đủ sức đưa ánh mắt ra ngoài kia bầu trời. Tâm tư xao xuyến. Không ngờ, lần đầu tiên được gặp một tu sỹ Mật giáo lại diễn ra trong cung Potala có tuổi đời một ngàn ba trăm năm linh thiêng! - Hãy bình tĩnh, hãy nhìn ra bầu trời! Theo lời tu sỹ thức tỉnh, không chỉ tôi mà cả Hong cùng nhìn ra. Bầu trời pha lê. Một khoảng không gian vô nhiễm. Đôi con ngươi tôi sóng sánh ánh sáng đọng từng mảnh nhỏ trên cánh hoa Chantai rung rinh sườn núi. - Hoa Chantai! - Tôi thốt lên và chờ đợi. Vị tu sỹ mỉm cười. Nụ cười điêu khắc trên khuôn mặt đá. - Hoa Chantai hay người, có gì khác nhau không! Như thị ngã văn! Như thế tôi đã nghe thấy lời đầu tiên trong kinh Phật bay về trong lòng cung Potala! Trước bông hoa Chantai, tôi không hề là người khách lạ. Có gì đâu công phu đớn đau, loài hoa kia vẫn tươi mươi ánh sáng! Giọt máu ngơ ngác sợi lông nách Yarlung Tsangpo! Giọt sương mướt xanh cuối cọng cỏ! Giọt mưa miên man chắt từ trời! Giọt hoa đoan trang phơi màu đất đá! Có phải đâu chớp mắt thành tựu nếu không xin trời mang lấy và tự mình chiến thắng nghiệp chướng! - Xin cảm ơn ngài! - Những sợi dây thần kinh như xanh mướt trở lại trong mái đầu trùm kín len dạ, tôi thành kính cảm ơn vị tu sỹ. - Không phải ta. Chính cuộc gặp gỡ giữa anh và hoa Chantai đã mang đến cho anh điều kỳ diệu bé bỏng kia! Ta chỉ có lời khuyên, khi đau đớn, đừng trốn chạy mà hãy đối diện với nó, hãy nhìn một cách tận tụy vào nó, hãy nhìn cho đến khi anh thấy anh hiện ra! Cổng vào điện thờ Phật tương lai ở Tashilunpo có bức tranh hỗ - Tôi...? - Một nửa nó đây - Tu sỹ thủng thẳng gắp miếng dưa cải trong cái bát gỗ nâu đặt trước mặt, bất ngờ chìa vào tôi - Một nửa anh đây! Mùi vị ngái màu mỡ trâu Yark từ “một nửa tôi” làm bước chân lùi lại nhưng rất nhanh, tôi liền đưa tay bỏ vào miệng ăn ngon lành trước đôi mắt kinh ngạc của Hong. - Anh đã có đủ rồi đấy! Nhưng để thấy, anh hãy đi đi! - Tu sĩ cúi xuống thanh gỗ trang kinh. Hong dắt tay tôi bước ra cung Potala. Trên cao, thủ phủ Lhasa lọt trong vòng tay điệp màu núi. Mây ngần trắng. Trời tím xanh. Những mái nhà thẩm nghệ chiêu từng hớp hoàng hồn. Lhasa đang dìu dắt phật tử già trẻ lên cung Potala. Họ đi theo lối bậc thang phía bên phải rồi trở xuống bên trái theo đúng chiều quay của trái đất xung quanh mặt trời. Hong đùa vào tai tôi, rằng anh ta đang đi bên miếng dưa cải! Miếng dưa cải là tôi bây giờ bắt kịp nhịp gió xuôi núi Hồng Sơn mà không cần ai dìu hay gắp lên mâm bát cuộc đời. Miếng dưa cải tôi lần nữa lại xanh lên khi nhìn thấy hai vị thầy trẻ tuổi dìu một người đàn bà Tạng, từng bước, từng bước tự tin men theo sườn núi lên cao cung Potala. - Hăo le! Bà già này bao nhiêu tuổi, thưa thầy? - Hong hỏi. - Hơn 90! - Một trong hai vị sư đáp. - Anh thấy không, một người già như thế vẫn lên được Potala, huống hồ mình là thanh niên. Phải gắng lên những ngày còn lại nhé. - Anh quên tôi là một miếng dưa cải rồi sao! Tôi và Hong cả cười. Đó là lần đầu tiên chúng tôi có nụ cười môi rạn trong những ngày chao đảo thời tiết. Nụ cười ấy được nâng đỡ bởi bông hoa Chantai bên đường lên núi. Cũng mong manh như hoa Thủy Tiên trên cánh đồng hoa Lisse ở Hà Lan nhưng Chantai mỏng cánh hơn và chỉ có khiêm nhường hai màu tím phớt, mềm trắng. Hoa trắng hay tím đều có chung nhị vàng. Trông xa, hoa Chantai như bầy bướm rập rờn sườn núi tìm kiếm hương phấn trên từng đốm vàng ánh sáng! Người Tây Tạng yêu hoa Chantai. Bốn mươi triệu năm qua, bao nhiêu mùa hoa nở, bao nhiêu cuộc biến thiên thay đổi đất trời nhưng Chantai vẫn một nhị vàng với 8 cánh tím trắng không hề lai tạp bất cứ màu sắc nào khác. Nó là một linh hồn tu hành muôn kiếp để giữ cho tâm ấn trong sạch như lời của Đức Dudjom Rinpoche miêu tả, sinh tử không làm nó xấu hơn, Niết bàn không làm nó tốt hơn! Những tưởng bông hoa Chantai và lời giải của vị tu sĩ trong cung Potala đã cho tôi trở thành một miếng dưa cải thấm đẫm những nét thanh tao của mọi mùi vị hữu hình và vô hình nhưng không, tất cả vẫn chỉ là một miếng dưa cải nấu chín bằng mỡ trâu Yark! Bức tranh hỗ ở cổng tu viện Tashilhunpo Bảo tháp trên dãy núi cao 7.000 m Một hôm trôi nổi trên dãy núi Himalaya, đoàn tôi đi qua núi Najin Kangsa trong cơn sợ hãi tột cùng. Một tiếng thở dài cũng đủ làm lệch xe, ném người tôi rơi xuống vực sâu đang xộc lên từng đụn mây. Đến như Hong không chịu nổi cơn sợ hãi đã gục đổ, làm dãy ghế gãy ụp xuống sàn xe. Chiếc Toyota 12 chỗ rùng mình tưởng chết máy trước sức nặng hơn 80 kg của Hong nhưng không, nó vẫn tiến lên dưới bàn tay điều khiển thuần thục và mạnh mẽ của người lái xe Tây Tạng. Khi dừng lại ở độ cao gần 6.000 m trên đỉnh đèo Karo, tôi nhìn thấy một bảo tháp đứng cô đơn giữa dòng suối tuyết chảy bao quanh trên đỉnh núi. Hong khuyên tôi không nên leo lên vì rất nguy hiểm. Bất chấp! Bằng tinh thần hoa Chantai và lời trì vọng của miếng dưa cải, tôi gắng gượng leo lên bảo tháp. Tuyết trắng. Gió vàng. Máu đỏ. Môi tím. Khuôn mặt bầm tê của tôi biến mất trên cổ, mọi cảm giác đều bị vụn tan dưới áp suất thấp do độ cao gây ra. Không từ chối bước chân mình, máu chảy đặc cánh mũi, mặc cho từng trận gió xóc buốt qua đầu, tôi đã lên được ngôi bảo tháp. Kỳ diệu thay, qua ô cửa vần vụ khí lạnh, tôi kịp nhận ra màu đỏ đóa hồng xứ Tạng! Những đóa hồng tươi rói! Những đóa hoa đỏ rực tinh huyết mặt trời bừng cháy trong ngôi bảo tháp! Những chiếc phôi bất tử gieo mầm trong tử cung của trời! Ai đã mang đóa hoa tươi lên chốn cao 6.000 m này để thắp sáng ngôi bảo tháp chứa đựng thánh tích huyền bí của vị lama nào đó viên tịch? Vị Lama cô độc này là ai? Chưa kịp trả lời tôi đã gục vào cánh tay của Hong. Nhưng sao trong cơn mê man khủng khiếp này, tâm hồn tôi lại bừng sáng. Tôi nghe rõ tiếng hổ gầm từ vùng núi Khe Cát xa xôi trên dãy Trường Sơn, tôi nghe rõ tiếng muỗi vo ve trong đêm vắng đầy chuôm dậu làng quê nước Việt tràn đến, cùng nhau tan biến trong hư vô như lời cầu nguyện của Cha. Và đó cũng là phút giây, tôi chợt hiểu vì sao Henry Bergson gọi là độ sâu của tư duy, là cái thế giới tôi đang thấy vì tôi muốn chứ không phải thế giới đã có và đóa hoa hồng trong bảo tháp không phải là sự tái sinh. Hoa chính là khoảng khắc thiền định của vũ trụ! Những đóa hoa hồng truyền dạy cho tôi như vậy. Người Tây Tạng khi chết đều mong có một nụ cười tươi xanh lên môi bởi từ đó họ sẽ đi vào thành quốc của hương thơm hoa cỏ. Hong dìu tôi trở lại xe. Tôi nhìn thấy trên khóe môi của người vệ sỹ cao to gấp ba người mình, một vệt máu nhuộm kín từ mũi chảy ra. Máu của Hong chưa kịp đỏ đã sầm tím màu gió! Còn tôi, một dòng máu Việt rực sáng hoa hồng nở tự do trên cao nguyên bao la tuyến trắng! Tôi mang theo hình ảnh đóa hồng tươi trong những ngày còn lại ở Tây Tạng và hằng nhắc nhớ, mình đã thấy tâm mình trong một giây phút chấn động trên cao 6.000 m. Cái ý niệm ấy, thêm một lần nữa lại như cánh diều đứt gió. Trên đường trở về Lhasa từ Shigatse, tôi biết mình vẫn chưa thoát khỏi u minh khi chứng kiến một điều linh diệu giản đơn tưởng chừng là phi thực! Lần trở về này, dù không hiểm trở nhưng nguy cơ rơi xuống vực sâu sông Yarlung Tsangpo vẫn rập rình từng giây phút. Suốt một ngày, chỉ thấy núi đá và núi đá, không chút rêu phong địa y. Thi thoảng, chỉ gặp vài ba mảnh ruộng tsampa vàng rộm như mảnh áo ngực nữ thần Târa lơ lửng triền núi. Quá hư đốn tầm nhìn va vấp núi đá, tôi nhắm mắt tìm kiếm một giấc ngủ chồng chềnh trên vực Yarlung Tsangpo. Chỉ có một con đường độc đạo nên xe của chúng tôi phải dừng lại lùi vào vách núi cho xe từ hướng Lhasa đi qua vực sông. Tôi bước xuống xe hoài mong chốc lát thư giản. Cánh cửa xe mở ra. Mặt tôi chạm phải một chùm ánh sáng sắc tím lung linh rọi xuống Yarlung Tsangpo! Đó là một chùm hoa dại thiên không. Cánh chim đại bàng lẻ loi bay qua hẻm núi cao chất ngất. Chùm hoa như lời kinh kệ uyên áo của núi đá thả vào không gian muôn chiều gió cuốn. Dưới vực sâu dòng nước cuộn chảy, lác đác vài đốm dê núi và hai chấm mẹ con người Tạng chênh vênh bóng dáng tiền sử. Hỡi chùm hoa vô danh, có phải hoa là sự hoá thân của bông hoa nhỏ có hạnh nguyện từ bi trong ngôi chùa hoang trên đồi Tsaparang xứ Tholing, được Phật đặt tên là Tuyết Liên Hoa, loài sen tuyết Tây Tạng, cho những ai ngửi mùi hương đều phát tâm tấn tu hành giải thoát khỏi vòng sinh tử! Hoa Chantai dưới thềm cung Potala, đóa hoa hồng đỏ trong ngôi bảo tháp còn có tên cho tôi gọi còn chùm hoa tím trên kia đang vô danh trong mắt. Tôi không thể gọi tên nó, đơn giản hoa chỉ là hoa, mộc mạc hiện hữu giữa cõi vô thường này như lời Longchen Rabjam Trong vườn hoa đẹp bên sông Những con ong - mật - Như - Lai ngồi trên những cánh hoa Làm đẹp trọn vẹn khu vườn và phát ra âm thanh trống pháp ... Đã thâm nhập vào những sinh thể của đất này Và đại dương sinh tử đang đứt tận Cái đẹp của bông hoa vô danh hiện ra giữa cô tịch, không có tên gọi không hình thể, cứ bồng bềnh màu ánh sáng, làm mềm mại hai vực sâu thăm thẳm thương yêu và khủng khiếp. Thượng đế muốn nói với tôi rằng, bất kỳ nơi nào sự sống do Ngài tạo nên cũng hiện hữu mà không cần phải tư duy tên gọi! Cái gì không tên gọi, cái gì vô sắc vô tướng, phải chăng đó là điều mà vị lama khuyên tôi hãy đi và nhìn thấy! Bảo tháp trên cao 7.000 m - Anh hãy đi đi. - Âm thanh trong hốc tường cung Potala vang lên. Và tôi đã thấy. Tôi trở về Lhasa vào lúc chiều xuống. Theo Hong ra phố Bát giác dạo chơi, tôi lén lên cung Potala tìm đến hốc đá. Hốc đá quạnh vắng. Ngọn nến đìu hiu. Thanh gỗ im lìm. Trang kinh mơ màng. Bát gỗ chơ vơ. Thăm thẳm. Mắt núi. Bên ngoài khung cửa, hoa chantai chầm chậm nuốt hoàng hôn vào thân hình non dại. Còn tôi Một miếng dưa cải, Một con ong bé nhỏ Một hạt mật Như Lai trên cánh hoa bên vực sông Yarlung Tsangpo. Không còn nhớ, tôi không còn nghe tiếng hổ gầm gần 40 năm về trước khi bước qua cổng tu viện Tashilhunpo, nơi có bức tranh bầy hổ hộ pháp gầm lên sặc sỡ giữa rừng hoa chantai! Bức tranh ấy đã làm tôi nhớ Cha tôi, tiếng hổ gầm mùa xuân 1967 trong ký ức và bông hoa chantai rực rỡ những ngày tôi qua Tây Tạng. Và tôi sẽ mang linh ảnh những con - ong - mật - Như Lai về cho Cha nghe hương thơm âm thanh trống pháp, nghe thấy tiếng hổ gầm cũng xanh rờn thinh không như tiếng muỗi vo ve đêm vắng! Bởi người Tây Tạng nói, khi bạn ném một bông hoa vào mandala, hoa rơi vào vị thần nào thì vị ấy là của bạn! Tây Tạng - Giọt hoa trong nắng M ột hài nhi Tây Tạng ra đời. Máu chưa nhiệt nồng bừng lên tiếng khóc đầu đời. Miệng chưa ngọt sữa Mẹ. Bà nội đã mang thân hình bé bỏng dìm xuống dòng suối lạnh! Đây là một tập tục không quá đổi xa lạ với người dân tộc thiểu số trên dãy Trường Sơn Việt Nam nhưng ở Tây Tạng, trong cái lạnh nguyên thủy của miền đất cao hàng ngàn mét này, việc dìm đứa hài nhi trong nước nào khác gì đức Abraham sẵn sàng hiến dâng đứa con trai duy nhất của mình cho Chúa Trời! Ngâm mình suối lạnh, da thịt đứa hài nhi từ đỏ chuyển sang xanh tái, tiếng khóc ngặt lòng cũng theo đó mà lịm dần. Người ta vớt nó lên, lau khô và trao lại cho người Mẹ. Nếu đứa hài nhi chết, gia đình không phiền lòng! Dẫu có sống, nó cũng khó lòng chịu đựng được thời tiết khủng khiếp và những câu chuyện buồn đời sống dành cho nó. Nhưng vượt qua sự thử nghiệm hà khắc này, đứa hài nhi sẽ mạnh mẽ vươn lên bao kiếp nạn. Con nhà nghèo được đối xử tử tế, con nhà giàu phải làm lụng rất vất vả . Người Tây Tạng quan niệm anh nhi, một đứa trẻ nghèo, khó có tương lai sáng lạn nên cần được bao dung còn đứa trẻ giàu sang phải khổ luyện cho một tương lai rạng rỡ hơn. Đứa trẻ lớn lên chừng sáu bảy tuổi, gia đình sẽ mời thầy chiêm tinh đến đoán vận số. Lời của thầy là lời của Trời, không ai có đủ quyền năng để bào chữa. Lời thầy nói sao, đứa trẻ sẽ được sống như vậy suốt đời. Thầy bảo, đứa trẻ này mai sau làm kẻ chăn dê, lập tức gia đình sẽ cho đứa trẻ tập làm quen với những đàn dê cao nguyên. Thầy phán, đứa trẻ trở thành một lama, đứa trẻ được đưa ngay vào tu viện giữa lúc thơ ấu còn dở dang. Cùng các vị Lama trên tầng thượng chùa Đại Chiêu Vị Lama tôi được hạnh ngộ trên tầng thượng của chùa Đại Chiêu là một đứa trẻ được Thầy chiêm tinh phán như vậy. Trước khi đến thăm chùa Đại Chiêu, vốn quen vẻ đẹp tinh tế của một thành phố Huế nhuộm tím lời kinh kệ, hình ảnh chùa Đại Chiêu hiện ra trong tâm trí tôi rất thâm trầm và tao nhã giữa vùng mây trắng núi xanh. Tôi đã lầm! Chùa Đại Chiêu nằm giữa phố chợ! Tôi không ngờ, ngôi chùa linh thiêng có tuổi đời hơn 1350 năm, là trung tâm Phật giáo quan trọng nhất của vùng đất các chư thiên lại vùi tắt niềm vọng tưởng thành kính của tôi đến như vậy. Một lần nữa, tôi lại lầm! Bước qua phố chợ lắm lời rao hàng mua bán, khi đến gần hiên chùa, tôi nghe tiếng xào xạc như lá trút xuống từ thinh không. Ngẩng mặt. Trên cao chỉ có ánh nắng lóa trắng. Không phải tiếng xao xạc ánh sáng! Tiếng xào xạc rầm rì của đất! Trước mắt tôi, không biết bao thân hình nằm xuống đứng lên, hai cánh tay xoải rộng như cánh chim bay lan man trái đất, dưới mỗi bàn tay mang một mảnh ván nhỏ, thậm chí có bàn tay cứ để trần chà xát trên nền đá. Cao Quan Hong với các vị Lama trên tầng thượng chùa Đại chiêu Hướng vào chùa Đại Chiêu. Mắt khép. Đầu cúi. Thân thẳng. Áp mình xuống đất. Cứ thế họ cầu nguyện không biết mệt mỏi, không biết bước chân qua lại trên đầu. Chảy sâu thân thể kia, dòng máu chỉ biết đối thoại với đấng thiêng liêng, phần thế giới còn lại trở nên hư không! Trong ngôi chùa kia đang ẩn chứa điều gì huyền bí để có thể khuất phục những con người mạnh mẽ, từng vượt qua ranh giới sinh tử dưới dòng suối lạnh băng khi mới sinh ra! Sau hồi tham quan nội thất, Hong dắt tôi leo lên tầng thượng ngắm nhìn mái lầu dát vàng óng ánh của chùa Đại Chiêu. Bên kia đỉnh Hồng Sơn, cung Potala hai màu hồng trắng mềm mại như tấm thảm trải rộng chân trời Lhasa. Dưới mái hiên vàng, ba nhà sư ngồi bình lặng. Trên đầu họ, từ tấm vải màu vàng, dòng kinh bằng Tạng ngữ bay phấp phới. Tôi loanh quanh, đi lại với tâm trạng hồi hộp. Hong phát hiện ra điều tôi muốn và không để cho anh ta ngăn bước, tôi tiến tới trước mặt vị sư già nhất cất lời chào hỏi. - Thưa Lama, nếu được, xin phép Lama cho tôi được một lần gặp gỡ với Ngài! - Một kẻ từng ngủ rong với thổ dân da đỏ vùng Mischu Picchu, từng mạo hiểm lang thang lều trại Digan thì tôi làm gì mà e ngại lời chào! Vị Lama im lặng nhường chỗ cho tôi ngồi xuống bên cạnh. - Thưa, tôi từ Việt Nam đến Tây Tạng. -Việt Nam? -Vâng, Việt Nam! Từ Huế... - Ta biết! - Ngài biết Huế? Ngài biết thành phố nơi tôi sống ư? - Tôi ngạc nhiên không tin vào tai mình. - Biết một vùng đất không khó bằng biết một tấm lòng! Tôi đã thấy và tôi tin vào điều mình thấy. Và đó là lý do, ta sẵn sàng cho anh một cuộc gặp gỡ. Bằng phép luyện thần nhãn, những vị Lama cao cấp nhìn thấy ánh hào quang phát ra từ thân thể người khác để đoán thể tạng người đối diện đau ốm hay khỏe mạnh, sinh khí vượng hay sắp tàn lụi. Cổ thư Tây Tạng dạy rằng, họ chính là những bậc đại sư tu luyện đến mức tuyệt đỉnh 5 phương pháp khai mở khiếu thần thông bẩm sinh, dược chất, thần chú, tu luyện và thiền định. Vượt qua bức màn vô minh, bằng phép thần nhãn, các vị Lama thượng thừa đã nhìn thấy thể phách của con người. Thể phách không thô kệch như phần xác mà rất tinh anh, hội tụ sinh khí thanh khiết nhất của vũ trụ cho thân xác sử dụng nên khi mạnh mẽ, phần thặng dư của sinh khí sẽ toát ra ngoài một aura - một hào quang bao bọc xung quanh, khi buồn đau có màu sắc u ám, khi vui mạnh có màu tươi sáng. Trong lúc này, dưới mái hiên vàng chùa Đại Chiêu, vị Lama đã nhìn thấy aura phát ra từ đôi mắt của tôi chăng? - Anh nên bình tĩnh để cuộc gặp gỡ này được trọn vẹn - Vị Lama cắt ngang dòng suy tưởng. Có lẽ Lama thấy mồ hôi bắt đầu lấm tấm trán tôi nên ngài động viên - Ta sẽ giải đáp những gì anh muốn trong phạm vi ta có bởi ta biết anh có rất nhiều câu hỏi trong đáy mắt. - Shambhala? - Đột nhiên tôi bùng lên - Thưa ngài, có hay không thế giới Shambhala? Chủ nhân của nó là người samapatti? - ......... - Không! Không! Tôi không hay gì cả... - Vị sư trẻ bỗng đứng dậy bước ra khỏi ghế ngồi. - Con cũng thế! Con không nghe gì cả! - Đến lượt vị sư trẻ thứ hai ấp úng rời ghế. Vị Lama già im lặng! Nhưng kìa trong mắt của ngài dần dần vỡ vạc một cơn bão quết vào tôi vệt gió lạnh buốt. Nhận ra khuôn mặt của tôi chìm tê dại, những vệt gió ấy chuyển sang dịu nồng, ấm hơn mái vàng chùa Đại Chiêu - Anh có biết ta và anh đang ngồi ở đâu không? - Trên tầng thượng chùa Đại Chiêu! - Trên 1350 năm! Anh thấy mình cao lớn không, anh thấy mình đứng vững trên đỉnh cao thời gian không? - Thưa Ngài, để lên được tầng thượng này, tôi vừa đi qua 1350 năm chùa Đại Chiêu - Tôi trả lời không chút e ngại. - Kính lễ Ngài! - Vị Lama ngước lên trời cao, miệng thầm thì - Từ ngày chiếc nhẫn rơi xuống đáy hồ, đây là lần đầu, tai con nghe thấy một kẻ hậu sinh xa lạ này có lời như thế! Ngài ở đây chính là Công chúa Văn Thành nước Đại Đường, hoàng hậu vương triều Tùng Tán Cương Bố! Người dựng nghiệp ở vùng đất Lhasa bên nhánh sông Kyi Chu chảy về từ dòng sông mẹ Yarlung Tsangpo. Khi theo chân Tùng Tán Cương Bố về làm hậu Tây Tạng, biết công chúa Bhrkuti, người vợ cả Tùng Tán Cương Bố xây dựng một ngôi đèn thờ trên hồ nước vốn là nơi ẩn nấp trái tim ma nữ nên việc dựng đền không thành. Là người Hán thông tuệ thuật phong thủy, Văn Thành công chúa đã tháo nhẫn, ném xuống hồ nước trấn áp ma nữ. Mặt hồ rực sáng đón nhận chiếc nhẫn, trong làn ánh sáng chói lòa xuất hiện một ngôi tháp sáng long lanh cao 9 tầng. Theo lời thỉnh cầu của Công chúa Văn Thành, nhà vua Tùng Tán Cương Bố đã dùng một ngàn con dê núi màu trắng mang đất lấp hồ nước, dựng lên ngôi đại tự trong vòng hơn 10 năm từ năm 642 đến năm 653 mới hoàn tất bằng bàn tay của những nghệ nhân Nepal. Trong Tạng ngữ, nhạ chỉ dê núi - linh vật của thần hộ pháp Damcen, tát gọi đất đai nên tên đền chùa này được gọi là Nhạ Tát để ghi dấu công lao của những con dê núi trắng, sau chuyển tên thành Tổ lạp khang hay còn gọi là Giác khang (Jokhang) và tên đầy đủ cuối cùng là Nhạ tát cát hỉ trì nang tổ lạp khang với hàm nghĩa đền chùa do dê trắng thồ đất mà dựng nên. Tên chùa Nhạ Tát ban đầu ấy được dịch thành La Ta rồi biến thành Lhasa - tên gọi thần thánh của thủ phủ Tây Tạng với niềm tự hào là kinh thành linh thiêng và cao nhất thế giới. Vào năm 1406, theo lịch Tạng là năm Thổ Ngưu, đại danh sư Tông Ca Ba, người Hoảng Trung trên cao nguyên Thanh Hải, vị tổ sáng lập giáo phái Cách Lỗ hay còn gọi là Hoàng phái được sự bảo trợ của vua Trát Ba Kiến Tát đã triệu tập hơn 8000 tăng nhân đến chùa Nhạ Tát mở hội nghị “Đại Pháp” đê truyền chiếu, khuyếch trương thanh thế giáo phái Cách Lỗ. Từ đó, chùa Nhạ Tát được gọi là chùa Đại Chiêu như hôm nay tôi đang ngồi với vị Lama. Trên tầng thượng chùa Đại chiêu - Anh cao bao nhiêu? - Vị Lama mộc mạc hỏi tôi. - Thưa, gần 1,7m - Anh nặng bao nhiêu? - Thưa, 53kg - Cái vỏ đời anh thấp và nhẹ như vậy làm sao chứa nổi 1350 năm đây?! Anh đã nhìn thấy gì khi đi qua 1350 năm trước khi lên gặp ta? Tôi đành buông xuôi hai tay không thể trả lời. Tôi biết, một câu hỏi của vị Lama đưa ra là một tia sét, nếu không lĩnh hội được, câu trả lời của tôi sẽ gục chết! Đứng bên tôi, Hong thở dài. - Hăo le! Đã nói rồi không nghe! - Hong mở ra lối thoát. - Đi thôi! Đành thất lễ với Thầy vậy! Tôi im lặng, mình tôi đang hoang vu trên bờ vực thẳm. Trước và sau lưng tôi chỉ có gió cao nguyên bạt ngàn. Một thi thể lờ mờ thất lễ hiện ra dưới đáy sâu cõi vô minh. Cả người tôi lạnh toát một dòng sông mồ hôi thấm ra ba bốn lần vải ấm! Tôi nhìn thấy gì đây? Một con sơn dương màu trắng thồ tôi như thồ hòn đất khô đi qua khung cửa gỗ có tuổi thọ lớn nhất trong hàng vạn khung cửa mà tôi hằng đi qua. Mười ba thế kỷ đen nhánh, 13 thế kỷ bịn rịn tay người, 13 thế kỷ thấm dần vào thớ gỗ muôn lời kinh nguyện. Khung cửa gỗ đứng đó, rì rầm đón đưa hàng triệu người đi qua trước tôi, hàng triệu người đi qua sau tương lai tôi. Nếu dâng trào lòng bi mẫn, bước qua khung cửa nghĩa là bước từ cõi phàm sang cõi thiêng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, sẽ được cứu rỗi! Liệu tôi có gặp gỡ ánh sáng, có được cứu rỗi khi bước qua cánh cửa thiêng liêng như Chúa Trời rao giảng hay tôi bị những hộ pháp Palden Lhamo dữ dằn canh gác đền chùa vốn là ác thần được đạo sư Padmasambhava quy phục, trở thành những hộ pháp đặc trưng của Mật giáo Tây Tạng nghiền nát? Tôi đã nhìn thấy gì sau khung cửa siêu quá vãng này? Một khoảng sân rộng là nơi những ngày tháng giêng hàng năm, cử hành các buổi tế lễ Mặc lãng khâm mạc với sự tham dự của hàng vạn tăng ni cầu nguyện cho chúng sanh được an lạc và nghênh đón các vị chư hoạt Phật, tức Phật sống. Cái khoảng không gian vô hình này hóa ra là nơi rất ảo diệu bởi chính từ đây, Tây Tạng được hiểu thêm về công đức của Thích Ca Mâu Ni khi Người dùng trí huệ và Phật pháp vô biên thuần phục 6 kẻ ngoại đạo. Xung quanh sân đình là các bức bích họa vẻ Phật được gọi là Thiên Phật Lang với tổng diện tích lên đến 4400 m2! Tôi đã nhìn thấy gì sau sân đình này? Đi về phía tay phải, trước khi đến Giác Khang Phật điện tôi phải đi qua Dạ Thoa Điện, Long Vương Điện lung linh hàng trăm ngọn nến thắp sáng cả ngôi chùa và tiếng rầm rì như ong nhả mật của những người đàn bà Tạng, miệng cầu kinh, tay rót mỡ vào chân nến, họ nhẫn nại làm công việc này với một niềm hạnh phúc dâng trào. Giác Khang điện là công trình độc đáo nhất của Đại Chiêu, được bài trí theo kiểu Mật viện cao 4 tầng, ở chính giữa là nhà niệm kinh. Tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin rằng, Lhasa là trung tâm của thế giới thì cái nhân của vũ trụ chính là Giác khang điện. Những dòng người vô tận nối lưng nhau đi ngược chiều kim đồng hồ theo vòng quay của vũ trụ trước sự bảo vệ của những người lính Tây Tạng, họ cúi đầu chạm trán vào thềm đá nơi có vị Phật nghìn tay ngìn mắt tọa lạc. Trong ánh sáng của nến, tôi chen chân chạm trán vào chân vàng của Ngài và nhận một cái vỗ lưng cầu an của vị Lama! Xung quanh Đại kinh đường có nhiều niệm Phật đường nhỏ. Phật đường Thích ca Mâu Ni được xem là trung tâm của Đại Chiêu, là cái đích cuối cùng khi hành hương về đây. Bức tượng kỳ tuyệt này do công chúa Văn Thành đem đến Tây Tạng. Theo truyền thuyết, tượng này được vị thiên thần nghệ thuật Ân Độ là Vishvakarma tự tay tạc Phật khi ngài còn sống! Bức tượng này được A dục vương tặng cho đất nước Trung Quốc trong khi ông truyền bá đạo Phật vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên. Không hiểu nguyên do nào, Văn Thành được sở hữu bức tượng quý vô giá này để mang đến Tây Tạng. Ai chưa từng thấy Đức Phật khi còn sống hãy lên Tây Tạng, hãy đến chùa Đại Chiêu sẽ được thỏa nguyện lòng thành! Đứng trước tượng Thích Ca Mâu Ni uy nghiêm với bộ khăn quàng trên đầu do chính tay đại sư Tông Ca Ba tự tay làm và tấm áo choàng của một vị vua đời Minh cúng dường, toàn thân tôi rúng động như đứng trước niềm lạc phúc tỏa ra từ ánh mắt diệu vợi, mơ màng, sâu lắng thế giới của ngài. Nếu không phải Vishvakarma thì kẻ tạc bức tượng này chí ít cũng là bè bạn của Đức Phật, có tài nghệ vô song mới có thể làm nên! Tôi đã nhìn thấy gì đây? Lẽ nào tôi lại trình diễn tâm tư của tôi ra trong lời đáp. Tôi không có đủ sự hồn nhiên như chàng Ben, khi xưa đến chùa Đại Chiêu, cởi dày, cầm mũ nhờ đức Thích Ca Mâu Ni giữ hộ cho Ben rảnh tay ăn bánh cúng dường rồi mời Phật về quê Kongpo nghèo khó để chàng khoản đãi một con heo béo nhất trong đàn heo chàng có! Tôi không có con heo béo mập. Trong ký ức tôi bầy heo là niềm kinh hãi tuổi thơ mỗi lần chị Hằng răn doạ tiếng khóc hờn lẫy của tôi! Tôi không có niềm vô tư sâu lắng. Một mớ kinh nghiệm và những tàn dư của ký ức dệt đan thành thân thể tôi. Phải! Đời tôi như dệt đan bằng kinh nghiệm, ký ức và mơ mộng. - Thưa Lama, tôi chỉ thấy một mớ kinh nghiệm và ký ức làm ra con người tôi - Thất vọng, tôi ngước nhìn 3 trụ đá khắc những lời minh thệ giữa hai quốc gia Đường Tạng vào năm 823 trước cửa Đại Chiêu. Trong lòng xót xa như gặp phải cơn sóng gió lần thứ 3 tràn qua Đại Chiêu sau 2 lần ngôi đại tự này bị dìm ngập trong bi thương bởi các nhà quý tộc Tây Tạng tôn sùng Bát giáo nguyên thủy ở giữa thế kỷ thứ 7 và Lang Đạt Mã phát động công cuộc diệt Phật vào thế kỷ thứ 9. Lúc đó, tượng Thích Ca Mâu Ni huyền nhiệm cũng bị vùi chôn xuống đất. Tôi bây giờ cũng bị vùi chôn dưới lớp đất đai ngôn ngữ của vị Lama. Tôi thú nhận và chờ đợi nhát đất cuối cùng vùi lấp tâm hồn mình - Ngoài kinh nghiệm non kém, ký ức không mấy khi vui, mơ ước rất mỏng, hoài nghi rất dày, tôi chẳng thấy gì ở nơi tôi. Người hành hương nằm cầu nguyện trước cửa chùa Đại - Good! Nangpa! - Thay vì một nhát đất vùi chôn, vị Lama nhấc tôi lên như ngày nào người ta nhấc đứa hài nhi ra khỏi dòng suối chết! - Nangpa! - Tôi bàng hoàng! - I am a Nangpa! - Nangpa? - Mắt Hong mở to. Thân hình hộ pháp nghiêng qua người tôi. Chiếc máy ảnh rơi xuống nền đá. - Thực sự, anh chưa phải là một Nangpa! - Vị Lama nhìn tôi bằng cái nhìn của một con sơn dương mẹ nhìn con trên núi tuyết - Anh chỉ bắt đầu đứng trước cửa nhà một Nangpa mà thôi. Ta hỏi anh, khi ngủ anh có thấy kinh nghiệm, ký ức và những mơ ước, hoài nghi dày mỏng không? - Thưa, tôi vẫn thấy qua những giấc mơ. Có những khi tỉnh dậy, giấc mơ quá đẹp làm tôi rất tiếc cũng có lúc kinh hoàng vì những sự việc diễn ra quá đau đớn. - Ta hỏi anh, điều gì đã làm cho anh có kinh nghiệm, mơ ước, hoài nghi và ký ức? - Thế giới này! - Thế giới nào? - Thế giới tôi đã thấy! - Thấy ra sao? - Thấy như tôi đã thấy bằng mắt. - Anh hãy đi một vòng quanh mái chùa này. Trước khi trở lại gặp ta, anh phải có câu trả lời anh đang thấy gì nhé! - Sau khi tung ra một loạt câu hỏi dồn dập, vị Lama khẻ khàng nhắm mắt. Tôi đứng dậy đi quanh dưới mái vàng Đại Chiêu. Nắng trưa. Mùi kim loại vàng hanh khô tó xanh. Lhasa nhấp nhô những mái nhà bằng phẳng ánh sáng. Dưới kia, dòng người trên phố Bát giác đang đổ về Đại Chiêu. Đây không phải là con phố bình thường mà Bát giác chính là 1 trong 3 con đường chuyển kinh truyền thống của người Tạng. Lấy tượng Thích ca Mâu Ni làm trung tâm Bát giác là đường “nội quyển” - vòng trong men theo chùa Đại Chiêu, hai vòng “trung quyển” và “ngoại quyển” còn lại bao bọc Đại Chiêu Tự, Dược Vương Sơn, Cung Potala... chạy bao vòng gần một nửa Lhasa. Một ngàn ba trăm năm qua, biết bao đứa bé khắp nơi trên xứ Tạng, sinh ra và lớn lên từ cuộc thử thách dưới dòng suối lạnh hành hương về Đại Chiêu. Họ là người Tạng sống ở vùng Bác sinh ra từ cuộc giao hoan của loài Khỉ và Quán Thế Âm Bồ Tát. Đàn ông khoác áo rộng, đàn bà khoác áo không ống tay. Con gái kết hôn mang bên hông tạp dề sặc sỡ. Đàn ông lẫn đàn bà đều tết bím tóc, lấp lánh trang sức xanh đỏ trên đầu. Họ là người Môn Ngung đến từ phía Nam Tây Tạng mặc áo dài len màu hồng, đầu đội khăn vàng. Sống đôi khi với nhiều vợ nhiều chồng trong những ngôi nhà bằng đá mái nhọn. Không có văn tự nhưng biết niệm kinh Hán-Tạng. Họ là người Lạc Ba ở vùng Đông Nam. Sống không đếm tuổi, khi nhớ thì khắc vào gỗ, khi nói thì kết dây thắt nút thay lời. Đàn ông mặc áo dài đến bụng làm bằng lông dê đầu đội mũ da gấu. Đàn bà mặc áo cổ tròn, ống tay chật, thân ngắn, mặc quần ngàng đầu gối, chân trần bó vải. Lúc ăn dùng tay thay đũa vì quen tay săn bắn tự do. Họ là người Đăng ở vùng Sát Ngung. Đàn bà mặc áo có tay ngắn đủ che đôi vú nhọn hơn mỏ chim kền kền, đàn ông mặc áo dài quá mông không ống tay. Cả hai đều thích áo khoác lớn dài từ hai đến ba mét, đêm lạnh trở thành chăn ấm. Người Tạng dẫn con về Lhasa viếng Phật Xướng nhạc tù và trên tầng thượng cùa Đại Chiêu Họ là người Hạ Nhĩ Ba sống gần Nepal. Thích ăn Tết sớm nhất thiên hạ vào ngày 1 tháng 11 là đã mừng Xuân. Đàn ông Hạ Nhĩ Ba mặc áo ngắn lông dê trắng nạm viền đen, lưng đeo dao dài mười cm. Đàn bà Hạ Nhĩ Ba mặc áo lông cừu màu đen, áo lót che vú nhiều màu. Quá khứ và tương lai không hề thay đổi bước chân của họ. Đối với cư dân Tây Tạng, nếu cơn đại hồng thuỷ có xảy ra, họ cũng bơi về Lhasa viếng Phật. Thân xác như áo quần dùng lâu ngày vứt bỏ nên suốt cuộc đời họ chỉ lo nuôi dưỡng tâm linh mong ngày giải thoát bởi tin rằng không cứ là tu sỹ hay cư sỹ, một tay chăn bò trên Himalaya mà có nguyện hạnh thì cũng được Phật chăm sóc đến! Họ đến viếng Phật ở cung Potala, chùa Đại Chiêu, Dương Vương Sơn, Tiểu chiêu tự của Văn Thành Công Chúa. Trên đường đi, họ có thể mua một pho tượng phật, không phải mang về nhà mà sẽ đặt trên vách đá Núi Thần, nơi có hàng vạn tượng Phật đứng rêu phong hàng thế kỷ. Ngày lễ hay ngày thường, tín đồ Phật giáo mọi miền không kể Lạc Ba hay Hạ Nhĩ Ba, Tạng hay Đăng, trên tay mỗi người đều xoay chuông chuyển kinh, mang theo phẩm vật cung kính dâng lên Phật. Kẻ có của cải dâng của cải, người nghèo khó thì ngày đêm tự nguyện lao công châm nến chêm mỡ trong đền chùa. Vốn coi nhẹ kiếp sống sinh nhai nên cung cách kiếm sống giống cuộc rong chơi. Trên những cánh đồng tsampa mượt vàng chân núi tuyết, họ hái lúa như hái ánh sáng. Khi mùa qua, họ rong thả bước chân lang thang theo bầy dê lên núi, vai mang cung tên cùng cánh chim đại bàng săn thú. Thịt thú phơi khô ăn vào mùa đông. Sừng thú treo lên trước cổng nhà cùng cột cờ phướn đầy màu sắc. Ngày cứ đi tháng cứ đến, họ chỉ biết bầu trời, ánh sáng, núi và tuyết cùng họ vui đùa trong bao nhiêu lễ hội, ca hát. Đêm đêm trong ngôi nhà hình lập phương đắp đất đá có ô cửa sổ nhỏ như con mắt dê, dưới mái nhà bằng phẳng chất đầy phân trâu Yak khô, quây quần bên bếp lửa, không gian sinh hoạt chính của gia đình, họ uống trà bơ và rượu tsampa. Mùi rượu chín vào trong giấc ngủ, nồng nàn men yêu đương trên những tấm nệm “ca điện” làm bằng cỏ và lông dê. Từ những cuộc ái ân đẩm rượu, con cái họ ra đời mang theo gen di truyền của rượu và tự do. Khi họ già, con cái lại thay họ trở về viếng Phật theo những con đường chuyển kinh. Quần áo đa màu, một người dân Tây Tạng là một bông hoa. Trước mắt tôi những dòng hoa đang trôi qua phố Bát Giác. Dòng hoa ấy phải có nguồn nhựa sống tràn trề nuôi dưỡng. Chảy liên tục từ đời này qua đời nọ. Chảy từ khiếp này sang kiếp khác. Không thế lực nào ngăn cản được dòng chảy. Bao nhiêu kinh nghiệm, ký ức, mơ ước, hoài nghi tạp niệm trở thành rác bụi cuốn phăng trong dòng chảy miên viễn ấy. Đàn ông Tây Tạng Trang sức trên tóc một người đàn bà đã có chồng Tôi trở lại mái hiên vàng. Vị Lama vẫn nhắm mắt. Hong ngồi bên cũng nhắm mắt nhưng tôi nghe tiếng ngáy vang lên từ đôi mắt Hong. Còn bên này Lama, là một sự im lặng chờ đợi! - Thưa... - Tôi rụt rè - thưa Lama, tôi đang thấy một dòng sống chảy vô tận qua mọi kiếp người hành hương trên những con đường chuyển kinh! - Chỉ vũ trụ mới có dòng chảy tuyệt luân như vậy thôi - Vị Lama khe khẻ sóng âm rồi chuyển hướng dồn dập - Vũ trụ có kinh nghiệm không? - Không! - Vũ trụ có ký ức không? - Không! - Vũ trụ có mơ ước không? - Không! - Vũ trụ có hoài nghi không? - Không! - Tại sao anh lại có những điều ấy? - Tôi là một con người bình thường! - Vũ trụ có con người không? - Có! Là một thực thể cấu thành vũ trụ! Nên... nên - Nên gì? - Nên tôi cũng là đứa con của vũ trụ! - Ta hỏi. Anh trả lời không. Không có cái gì sao vũ trụ lại sinh ra được con người! - .......! - Anh có im lặng thật không? - Không! - Vậy chừng nào anh thật sự thấy mình là một im lặng. Anh sẽ hiểu lời ta. Anh sẽ hiểu vũ trụ từ đầu mà đến, từ đâu mà đi, lúc nào có lúc nào không! - Nangpa! - Lần này là âm thanh thảng thốt của tôi - Emaho! Kỳ diệu thay! Nangpa! Trời cao rạng rỡ nguồn ánh sáng chư thiên. Nangpa! Tiếng Tạng gọi người Phật tử là Nangpa, nghĩa là “người ở trong”, người kiếm tìm chân lý trong bản chất của tâm, không lưu lạc tìm kiếm bên ngoài. Tất cả những con đường chuyển kinh giáo lý và hành động trong Phật giáo đều hướng về tâm, nhìn về tâm và sống trong ánh sáng chân lý hư không bản nhiên mới tạo nên cuộc giải thoát toàn thiện. Vũ hội tôn giáo của các Lama Bản làng Tây Tạng Vì tâm không được hiểu đúng như nó là, trong bản chất của nó - Đạo sư Padmasambhava dạy - Cho nên có nhiều tư tưởng triết học và lý thuyết ra đời. Lại vì người thường không hiểu được tâm. Nên họ không nhận ra bản lai diện mục họ. Và tiếp tục lang thang trong sáu nẻo luân hồi và ba cõi hữu mà kinh quá khổ đau. Bởi thế không hiểu được bản tâm của bạn là một lỗi rất đáng buồn! Tôi không có được ba chân xác, sự làm phép của một bậc Thầy chân xác; lòng sùng tín của một đệ tử chân xác; tính chính thống trong phương pháp khải thị nhưng trên tầng thượng mái chùa vàng Đại Chiêu, tôi chợt nhận ra tôi là ai trong thế giới này. Một thân phận nhỏ bé, giản dị như bụi cát nhưng có quyền can đảm nhìn vào trong bản tâm, nhìn thấy cuộc giao hoan những tiết điệu huyền bí của vũ trụ lan chảy trong bản tâm mình. - Đừng cắt đứt mối quan hệ với bản thể sâu xa của mình. Anh sẽ thấy, trước khi anh lớn lên và sau khi anh mất đi, kinh nghiệm hay hoài nghi, tất cả chỉ là ảo ảnh. Cái anh có là anh đang sống chân thành nhất - Vị Lama trầm ấm dạy tôi - Anh sẽ dạy cho anh biết rằng anh đang ở đâu trong sự im lặng tiềm tàng của vũ trụ. Và lúc đó anh thấy... - Là lúc tôi không sinh không tử! - Tôi rạo rực tiếp lời. - Cẩn thận diều đứt dây khi gió chưa đến! - Vị Lama đứng dậy trao cho tôi nụ cười trìu mến. Ông lấy tấm vải chép kinh màu vàng đưa cho tôi. - Chúc cho anh được thành một người bình thường! - Cảm ơn Lama - Tôi thỉnh cầu - Xin ngài lưu lại một dòng đôi tay trong sáng của một người Thầy! - Anh đúng là con diều chưa gió! - Lama chỉ tay xuống vệt nắng xuyên sang qua mái chùa Đại Chiêu - Anh có mang được ánh nắng kia về Việt Nam không? - Không! Nhưng bất cứ nơi nào bất cứ lúc nào tôi có ánh nắng này! - Anh nói bằng niềm tin xác thực? Anh có tin ta và cả vệt nắng kia không ai có thể nắm bắt, không ai phá tan trừ phi nó tự tắt, tự tàn lụi, tự tái sinh cho đêm qua ngày đến như một hoa mọc vào cõi giới không có sinh tử, không có luân hồi, vì nó là nguồn năng lượng vĩ đại của tự nhiên, không ai đo lường được. - Đúng vậy! Thưa Lama, không ai có thể đo lường được vệt nắng, bởi cùng lúc nó chứa hữu hình lẫn vô hình! - Đó cũng là điều anh đã tự trả lời: Shambhala là nơi lưu trữ ánh Sáng Cuộc Sống, nó có mặt khắp nơi trên vùng đất không thiếu vắng ánh sáng kể cả ban khuya và nó ở trong con mắt thứ ba của nhân loại, nó đang nhìn anh từ tấm vải kinh vàng kia! Vị Lama cùng hai sư trẻ bước xuống cầu thang. Sau lưng ngài. Một con ếch ngồi dưới đáy giếng nổ tung thân xác bao la. Bí ẩn trong đôi mắt thiên định ánh sáng N hư con ếch nỗ lực gom nhặt những mảnh xác thân hoang tàn, cố dựng lại hình hài cho linh hồn nương náu nhưng dường như tất cả đã biến thể trong nguồn năng lượng vô hình toả ra từ tấm vải kinh vàng. Tôi không còn biết chiều kích, không còn nhận ra dạng thức tồn tại của mình. Tôi bây giờ, là cõi nhìn trong đôi mắt Phật. Ngài ngồi đó, đôi mắt huyền ảo sông núi và bầu trời thơm tho hoa quả chứa trong những chiếc vỏ ốc trắng. Đôi mắt không giống ánh chiều rét ngọt mà tôi từng gặp. Ngài tượng ẩn trong ngôi vườn xinh tươi hoa cỏ làng Marken có hơn 1.000 năm tuổi Thiên Chúa bên bờ biển Amsterdam. Đôi mắt cũng không cồn lên cơn cuồng phong lòng dạ bằng nhịp màu cào dữ dội tuôn trào từ đôi mắt Van Gogh tự hoạ, không trầm hùng tiếng hát Zarathustra vang động hố thẳm đôi mắt Nietszche giữa ngôi làng Rosken xanh màu củ cải rong rã tia nhìn của tôi bên kia miền Đông nước Đức xa ngái. Đôi mắt Phật trên tấm vải kinh vàng, chỉ vài nét bút xạ chấm phá nhưng sao lại dội vào hồn tôi tiếng sấm âm thầm lớn dậy. Tiếng sấm dịu dàng. Tiếng sấm ngọt ngào. Tiếng sấm hiền minh. Bùng nổ rồi cũng tràn đầy bao dung lên tôi. Ngày xưa huyền thoại 72 phép thần thông, con khỉ Ngộ Không chẳng thoát khỏi 5 ngón tay Phật còn lúc này dẫu có siêu việt cả ngàn phép lạ, tôi cũng không thể nào vượt ra đôi mắt của Phật. Này Hải, mi có bay lên chín tầng thiên đường, mi có lặn xuống 18 cửa địa ngục, nơi nào mi đặt chân đến nơi ấy mi gặp ánh mắt ta, nơi nào mi hiện hữu nơi đó vốn là cái nhìn của ta mà có. Quá khứ, hiện tại, tương lai và cả tiểu sử không gian xung quanh mi nữa, tất cả do ta nuôi dưỡng, tất cả do ta sinh thành, tất cả do ta huỷ diệt nếu muốn. Phải rồi! Tôi đã nhìn thấy, đã nghe thấy tiếng nói huyền bí kia vang lên hơn 1.000 năm nay của Đức Văn Thù trong ngôi chùa cùng tên ở Thành Đô, kinh đô của nước Thục, Lưu Bị Khổng Minh dựng lên thời Tam quốc nay là tỉnh Tứ Xuyên! Bởi niềm tin đất thiêng, Chu Ân Lai đã chở che cho chùa Văn Thù không bị hồng vệ binh tàn phá trong cuộc cách mạng văn hoá. Kiến trúc mái đao vút cong của những góc điện thờ làm tôi nhớ mái đao Tây Đằng, Chu Quyến trên đất Sơn Tây Việt Nam. Dưới mái đao cuối cùng, sâu kín tượng Văn Thù to lớn trắng ngà toạ lạc giữa khói hương muôn phương cúng viếng. Đôi mắt bí ẩn của Đức Phật Tương Lai ở Tu viện Tashilhunpo Cái làm cho tôi rùng mình là ánh mắt của Văn Thù. Không vòm cung hai mí khuôn mắt người thường. Không hoàn toàn hai mí song song khép xuống cái nhìn từ bi giống bao mắt Phật quen thấy. Đôi mắt Văn Thù vẫn như mở nhưng đặc biệt là ở giữa đường chạy của mí trên lại lõm xuống che kín hơn một phần ba giác mạc và đôi con ngươi. Chính phần lõm này đã căng kéo toàn bộ phần da dưới đôi lông mày giống một bức rèm buông hờ khung cửa, tạo cho con người ta cảm giác ánh mắt Văn Thù ban xuống cõi luân hồi cái nhìn bí ẩn nhưng minh triết, tự tin, hài ước và trầm thiêng đến cao nhã! Mặc dù đã tìm đủ mọi góc máy, sau cùng tôi vẫn không thể có tấm ảnh của Văn Thù. Nhập vào trong điện thờ thì không được phép. Lùi bước ra thềm sân thì khung cửa vừa vặn che kín ngang mí mắt dưới của đôi mắt. Ngoài việc đặt tượng Văn Thù sâu kín trong ngôi điện cuối cùng phía sau điện thờ 500 vị La Hán, có phải người xưa muốn bảo vệ đôi mắt kỳ lạ của Văn Thù bằng đường nét kiến trúc! Tưởng rằng chỉ có Thành Đô mới có đôi mắt Phật độc nhất vô nhị Văn Thù nhưng rời Thành Đô, bước lên Tây Tạng bằng đường bay mây gió Himalaya, giờ đây tôi lại gặp ánh mắt kỳ bí này trên tấm kinh vàng của Lama chùa Đại Chiêu trao tặng. Và trong những ngày lang thang núi tuyết, tôi đều bị hút hồn trong cái nhìn sâu sắc quét ra từ đôi mắt Phật khác thường xuất hiện khắp nơi trên xứ Tạng. Tôi hiểu, đây là mới là quê hương của đôi mắt Văn Thù! Đối diện với đôi mắt ấy như đối diện với cánh cung hướng thẳng vào trái tim con người. Hai bờ mi uốn cong cánh cung trên đà giương nỏ. Đôi con ngươi láy đen hình đồng tâm nằm giữa giác mạc xanh buốt óc là điểm đầu mũi tên. Ai đã giương cung tên bắn vào trái tim tôi. Nội lực hàng triệu năm hay chỉ dồn sức trong chớp mắt. Là người hay thiên thần mới có đôi cung tên bí ẩn, không làm cho tôi đau đớn gục chết, ngược lại khi nhận mũi tên này, tôi được tiếp thêm nguồn sống mãnh liệt để bước những bước chân tuyết nắng trên mái nhà thế giới! Chỉ một đường nét giản đơn của đôi mắt, Tây Tạng đã làm nên một sự khác biệt vĩ đại với thế giới. Người nhạc sỹ có thể tìm thấy trong đôi mắt tinh lực của khí nhạc không lời. Người hoạ sỹ có thể phong phú màu sắc đời mình với gam màu và hoạ tiết mỹ thuật rất ấn tượng trong đôi mắt. Người Phật tử, kể cả triết gia hay nhà huyền học, đương nhiên sẽ cảm khái bao lời nguyện cầu dâng lên đôi mắt. Còn tôi, tôi đã thấy gì trong nguồn sức mạnh ấy. Tôi chỉ là kẻ tầm thường ưa rày đây mai đó. Ngắm chùa Tây Tạng nhớ chùa Huế. Bên dòng sông Hương lại sóng vọng sông Seine. Trong lều con gái Digan vẫn không chịu phôi pha căn buồng bạn gái Afghanistan. Chăm sóc con mình mà khôn nguôi day dứt với tuổi thơ nghèo khó. Cuối cùng, tôi rồi cũng hạt bụi nhỏ có thể tan biến lúc nào không hay trong cái ngáp tình cờ của vũ trụ! Tôi biết tìm gì đây trong mảnh vải kinh vàng chưa đủ to để lượm trọn vẹn hình hài một con ếch nổ tung sau lưng vị Lama chùa Đại Chiêu. Bảo tháp chứa di hài Dalai Lam thứ 5 Sức mạnh Tây Tạng biểu hiện qua đôi mắt Phật! Ai là vị chủ nhân của nguồn sức mạnh thiêng liêng ấy. Và thế giới nuôi dưỡng những vị chủ nhân ấy nơi đâu. Phải chăng, đó là người samapatti sống ở cõi Shambhala hiện hữu trong lòng Tây Tạng - thân thể được bảo lưu bất động như đá, linh hồn có thể dạo chơi hàng triệu năm hay trăm năm tuỳ ý, khi nào muốn có thể trở về qua “sợi chỉ bạc” liên lạc giữa shambhala và cõi sống tế vi tồn tại dưới hình thái năng lượng dạng sóng nằm ngoài thời gian và không gian của trái đất. Những người samapatti, tạo lập và có bổn phận cao quý là lưu giữ quỹ gen nhân loại trong cõi Shambhala như kết quả nghiên cứu của bác sỹ nhãn khoa người Nga Muldachev sau những cuộc thám hiểm ở Hyamalaya. Họ chính là giống người Lêmuri hậu kỳ hình thành sau giai đoạn người giống thiên thần và ma, thân thể đã cô đặc cao 10 mét có hai tay và ba con mắt biết sử dụng năng lượng theo quy luật của thế giới vi tế. Họ còn là giống người Atlan sinh ra sau khi văn minh Lêmuri tiêu vong, dù không thông minh siêu việt như người anh Lêmuri nhưng họ cũng được truyền thụ và thông thạo sử dụng mọi thứ năng lượng siêu nhiên của thế giới tế vi. Trong quá trình bị tiêu vong do dục vọng của chính họ gây ra, người Lêmuri và Atlan đã đi vào hang động ẩn mình trong trạng thái Samapatti-Định, lập nên cõi Shambhala để lưu giữ quỹ gen cho dòng giống mình và cho văn minh nhân loại mai sau! Lêmuri đã huyền thoại còn Atlantide, tuy bị nhấn chìm dưới đáy đại dương nhưng Atlantide vẫn nổi trôi đâu đó trong trí nhớ của loài người. Cư dân Atlantide là con cái của thần biển Poséidon và một người phụ nữ trần gian. Những cư dân nơi đây đã đạt được sự giàu sang thừa thãi của cải như có thể trước đấy không một dòng họ vương giả nào có được và sau cùng cũng chẳng ai dễ có được như thế. Mỗi năm hai lần họ thu hoạch những sản phẩm của đất: mùa đông, họ sử dụng nước trời; mùa hè, họ dùng nước mà đất cung cấp dẫn vào các kênh mương - Dẫu cho đấy là ký ức về một giấc mộng cổ nhưng Platon vẫn không ngừng thao thức mơ ước qua những trang sách Critias - Khi màn đêm rủ xuống và lửa các lễ hiến sinh đã nguội lạnh, tất cả mọi người đều mặc quần áo đẹp màu lam sẫm và ngồi xuống đất, giữa những đóng tro tàn còn lại sau lễ hiến tế thần thánh. Khi ấy, trong đêm, sau khi đã tắt hết ánh sáng xung quanh giáo đường, họ xét xử và chịu sự xét xử, nếu có ai buộc tội người khác về một sự vi phạm nào đó. Khi công lý đã được phục hồi, ngày hôm sau họ khắc những bản án lên tấm biển bằng vàng. Khi yếu tố thánh thần đã suy giảm trong họ và chất người đã thống ngự, họ đã bị Zeus trừng phạt bằng trận đại hồng thuỷ xảy ra cách đây 850.000 năm! Dãy Hyamalaya, Tây Tạng và sa mạc Gôbi là nơi một số người Lêmuri và Atlan lánh nạn, sinh cơ lập nghiệp với hậu duệ của mình là người Aryen. Xuất hiện từ trong lòng văn minh Atlantich, người Aryen đấu tranh với người Atlan để tạo lập cuộc sống của mình nhưng rồi cũng bị thoái hoá theo thời gian. Nhưng cõi Shambhala quyết định để người Aryen gánh vác sứ mệnh tiên tri, dựng xây con đường phát triển văn minh nhân loại. Đó là lý do 18.013 năm trước, trên vùng đất Tây Tạng xuất hiện bậc tiên tri mới có tên gọi là Manu hay là Rama hoặc Phật Bonpo. Ngài tuyển chọn những nam nữ Aryen tốt nhất để nhân giống ra loài người hôm nay của chúng ta. Những đôi nam nữ này chính là chủng tộc Tây Tạng, nói theo lý thuyết “đôi mắt thống kê trung bình” bằng phương pháp ứng dụng hình học nhãn khoa của bác sỹ Muldachev, họ là tổ tiên loài người chúng ta! Từ Tây Tạng, con người bắt đầu toả ra khắp trái đất theo 4 lộ trình di cư, trong đó có lộ trình đi sang Thailand, Indonesia, nam Trung Quốc, Việt Nam, Australia tạo nên chủng tộc Nam á. Khi sang Nam Ninh, trên chuyến tàu chợ hay dạo trên phố, nếu không nghe tiếng nói khác lời ngôn ngữ, thật sự tôi khó phân biệt đâu là Choang, đâu là Việt bởi hai dân tộc có những nét rất giống nhau. - Anh không phải là khách lạ chốn này! Tôi nhớ lại lời của vị tu sỹ trên hốc tường cung điện Potala. Chẳng lẽ, tôi đã có một tiền kiếp trước từng sống ở Tây Tạng! Ai đã mách bảo cho tôi điều ấy nếu không phải là lòng thành của một đứa con hoang không lúc nào ngơi nghĩ về miền quê tâm linh tồn tại đâu đó trong vũ trụ như có lần tôi đọc được câu nói của Goethe trên bức tường một lâu đài cổ ở ngoại ô Waimar “Giữa trời và đất hẳn phải có cái gì khác nữa”. Tôi tin, không chỉ có Goethe mà người hàng xóm nằm bên kia cánh đồng Halle, Nietzsche cũng đang tìm kiếm trong thiên thu! Và nếu vậy thì thật là hạnh phúc khi được trở về Tây Tạng, không phải là chuyến du ngoạn mà là sự trở về như đứa con hoang về với Mẹ. Nhưng đôi mắt nam nữ tổ tiên Aryen được lựa chọn truyền giống, đôi mắt tôi và nhiều chủng tộc anh em khác trên thế giới không giống như đôi mắt Phật ngự trị Tây Tạng. -Vậy nó là của ai? Tây Tạng trả lời: - Đôi mắt huyền bí kia chính là đôi mắt của vị Phật Bonpo - Vị Phật đầu tiên, đứa con trác việt của nền văn minh Lêmuri cổ xưa! Bởi đôi mắt ấy chỉ có ở người Lêmuri sống nửa trên cạn nửa dưới nước. Nhờ mí trên có cấu tạo đặc biệt ở đoạn cong buông xuống nên giác mạc đôi mắt của họ mới không bị tổn thương khi hoạt động dưới nước. Ngoài đôi mắt, toàn thân Phật cũng giống người Lêmuri hậu kỳ vì hai chân giống chân nhái, hai tay có màng, lồng ngực nở nang, da mịn vàng, chiều cao to lớn, ngón tay dài có màng giống màng chân vịt. Trên trán Phật, giữa hai đỉnh lông mày có nốt chấm, đó là biểu hiện của con mắt thứ ba, con mắt siêu cảm thức của người Lêmuri hậu kỳ! Vị Phật Bonpo này là cư dân của thế giới Shambhala bởi trận đại hồng thuỷ xảy ra gần 1 triệu năm trong điều kiện trục trái đất dịch chuyển làm cho bầu trời tuyền màu đỏ ối nhưng khi ngài đến thuyết giảng giáo lý ở Olmo Lung Ring thì mới cách đây gần 20.000 năm lúc bầu trời đã chuyển qua màu xanh! Do vậy Ngài chỉ có cách xuất hiện từ thế giới shambhala, sống trong trạng thái samapatti hàng ngàn năm tuổi. Còn Đức Phật cuối cùng, người được mệnh danh là Thích Ca Mâu Ni chính là người Atlan đến với loài người cách đây hơn 2.500 năm! Có phải mang trong mình mệnh hệ siêu việt của lịch sử văn minh tâm linh nhân loại như vậy nên từ trong đôi mắt Phật trên các đền chùa Tây Tạng đã tạo nên sức mạnh vô hình có thể điều khiển mọi hoạt động tâm năng của người đối diện. Nhưng Shambhala là thế giới được bảo mật tối thượng không phải ai cũng được bước vào. Cùng với năng lượng vô hình canh giữ, họ còn được người dân sống heo hút trong các bản làng heo hút trên cao nguyên tuyết trắng canh giữ. Nếu không thì Trung Quốc, một dân tộc từng huy động cả nước tiêu diệt toàn bộ chim sẻ đã chiếm giữ! Có hay không cõi Shambhala. Có hay không quỹ gen loài người với những con người Lêmiru và Atlan có khả năng bất tử hàng triệu năm nay?! Tôi đã tìm câu trả lời trong một cổ thư Tây Tạng và qua những hình ảnh sống động trong cung Potala! Tượng Phật Maitriya Họ là người đang trong trạng thái thiền định bậc cao theo giáo lý Dzogchen-Đại Toàn Thiện truyền dạy từ thời đại Triwer Sergyi Jyanruchan, vua xứ Zhangzhung sống cách ngày tôi có mặt trên Tây Tạng hơn ba ngàn sáu trăm năm! Câu chuyện giữa bác sỹ nhãn khoa người Nga Muldachev với một vị Lama dòng Bonpo ở Nepal cho hay, nơi Đức Phật đầu tiên xuất hiện và rao giảng giáo lý rằng cái chết thể chất của Ngài không có ý nghĩa gì, chỉ có sự bất tử của hồn Ngài là tại Olmo Lung Ring, xứ Shambhala vùng Tây Tạng. Vị bác sỹ nhãn khoa người Nga này, có lẽ vì quên hoặc không quan tâm nên đã bỏ qua một việc quan trọng, vị Phật Bonpo đầu tiên âý chính là thầy Shenrab Miwoche và giáo lý Thầy dạy là bộ kinh thư có tên Dzogchen - giáo pháp tinh tuý nhất của phái Nyingma do đại sư Padmasambhava sáng lập. Từ Olmo Lung ring miền Tazig rồi sau đó giáo lý Dzogchen đến Zhang Zhung miền tây Tây Tạng. Và sau đó đến thời vua Tùng Tán Cương Bố đã mời một hành giả đạo Bon tên là Gyerpung Nangzher Lodpo đến dạy Dzogchen đầu tiên trên cho Tây Tạng. Đến thế kỷ thứ 8 đại đạo sư - niềm tự hào bất tử của tâm linh Tây Tạng là Padmasambhava diễn bày mười bảy Tantra bí mật tối thượng của Dzogchen cho công chúa Tây Tạng dòng Kharchen và Yes Tsogyal-vũ công trên không gian! Theo truyền thống Nyingma, đại sư Garab Dorje, người xứ Uddiyana là vị thầy con người đầu tiên của giáo pháp Dzogchen vì trước đó nó vốn được dạy cho cư dân của những nền văn minh kỳ diệu khác mà theo tôi là nền văn minh của người Lêmuri và Atlan chăng! Và người dạy họ chính là vị thầy sớm nhất xuất hiện trước cả thầy Shenrab Miwoche trong số 12 vị thầy theo giáo lý Dzogchen! Garab Dorje thụ giáo trực tiếp từ Vajrasattava - đệ tử của Phật nguyên thuỷ Samantabhadra sau đó Garab Dorje truyền lại cho học giả Manjushrimitra. Vị này tiếp tục truyền thụ cho Shrihimsa và Shrihimsa trao truyền cho Jnanasutra, Vimlamitra, Padmasambhava và nhà dịch giả Tây Tạng Vairochana. Tiến trình truyền thụ này biểu hiện dưới ba hình thức trao truyền trực tiếp, biểu trưng và truyền miệng. Giáo pháp Dzogchen có ba bộ. Bộ Tâm-Semde. Bộ Hư Không-Longde. Bộ giáo huấn bí mật-Upadesha. Những giáo lý trong bộ thứ 3 được biết đến với cái tên Nying-thig tức là sự tinh tuý của tâm. Và chính Padmasambhava và Vimalamitra truyền vào Tây Tạng, hình thành cổ phái Nyingma! Cổ thư Tây Tạng thường được viết rất ngắn gọn, thậm chí không thể nắm bắt qua hình tượng ngôn ngữ thông thường mà phải cần đến nhiều cấp độ suy nghiệm siêu việt của tâm linh mới giải mã được những ẩn ngữ. Chỉ một dòng kinh, thậm chí là vài âm ngữ nhưng theo sau nó là hàng trăm pho sách thuyết giảng, hàng ngàn cuộc tranh luận kéo dài từ thế kỷ này sang thế kỷ khác chưa nguôi. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân tại sao trong tôn giáo hay bất cứ triết thuyết nào cũng nảy sinh ra nhiều trường phái, nhiều quan niệm khác nhau. Có một bản văn Dzogchen cổ nhất mà hàng ngàn năm qua Tây Tạng ngưỡng vọng chỉ vỏn vẹn có 6 dòng ngắn ngủi với cái đầu đề rất đồng dao: Chim Cu Cu của tính Giác - Rigpaõi Khubyug. Chim cu cu là chim thiêng Tây Tạng vì cu cu là vua của các loài chim, từ giọng hót của chim, mùa nắng vàng sẽ đến như một sự thúc đẩy đất trời cỏ cây và con người sanh trưởng cuộc sống! Cổng lớn vào tòa bạch cung Potala Dòng một: Dù bản tính của sự khác biệt là bất nhị. Dòng hai: Về tính cá thể của bản thân những sự vật, chúng thoát khỏi bất kỳ tạo tác ý niệm nào. Dòng ba: Dù không có tư tưởng hay ý niệm nào về cái được gọi là trạng thái hiện thể đúng như nó là. Dòng ba: Những hình tướng xuất hiện khác nhau này sẽ được tạo ra chỉ là những biểu lộ của Samantabhadra - Trạng thái bổn nguyên. Dòng năm: Bởi vì mọi sự thì trọn vẹn trong chính nó, người ta đến chỗ từ bỏ căn bệnh nỗ lực. Dòng sáu: Và như thế người ta tương tục tự nhiên trong trạng thái an nhiên của tham thiền. Sáu dòng trên đây là hành trình từ cái semde-nền tảng-cái thấy hiểu đến longde-con đường-thiền định và cuối cùng là upadesha- quả-hạnh. Hãy bình tâm cùng tôi, bạn sẽ thấy sự ảo diệu của của những dòng mật truyền kia. Hiểu và ứng dụng thành công những lời dạy đó, con người sẽ được giải thoát - một thứ giải thoát đại toàn thiện vượt khỏi mọi tạp niệm luân hồi, kể cả cõi niết bàn! Sáu dòng giáo huấn - sáu câu kệ kim cương của Chim Cu Cu Tính Giác, dịch ra Tạng ngữ là rDzogs-pa chen-po sa grig-pa “Địa Độc Nhất của Đại toàn thiện”. Trạng thái tham thiền (rig-pa) là địa độc nhất của Đại Toàn Thiện (rDzogs-pa chen-po), tiêu biểu cho con đường đốn ngộ, không qua bất kỳ một trạng thái trung gian nào. Tư tưởng khởi phát từ bên trong và hình tướng lộ diện bên ngoài đều nằm trong năng lực sáng tạo của tính giác. Tiếng hát của loài chim cu cu hay giáo lý Dzogchen luôn luôn đánh thức tính giác Rigpa vốn sẵn có trong tâm thức của con người bằng các phương pháp mà Garab Dorje để lại cho hậu thế là người thiền phải đưa trực tiếp vào bản tánh của chính mình, quyến định dứt khoát ở trong trạng thái đơn độc và liên tục trực tiếp tin vào giải thoát. Đây chính là chìa khoá vàng cho tôi mở cánh cửa bước vào thế giới Samapatti trong cõi Shambhala, cái cõi không ít người cho Shambhala tương đồng với Samsara. Tôi nghĩ, nếu người Lêmuri và Atlan lập nên cõi Shambhala để tàng trữ “bộ luật luân hồi”-samsara - chu trình sinh tử của con người thì quá ư là bình thường, không đến mức phải làm nhà bác học như Muldachev phải hao hơi tìm kiếm làm gì. Và nhất là các chính trị gia, tiêu biểu là Hitler, trước khi khởi phát cuộc chiến thế giới thứ II, Hitler quan hệ rất mật thiết với một vị Lama - “người đeo găng tay xanh” để có tìm cho được thế giới siêu nhiên ấy! Trên cơ sở giáo pháp Dzogchen, đạo sư Padmasambhava biên soạn Phương pháp biết tâm và thấy sự thật để tự giải thoát, theo “giáo lý sâu xa về tự giải thoát bằng thiền quán các vị thần hiền hoà và phẫn nộ” do. Luận thư dạy rằng, chỉ cần nhìn vào nội tâm của mình để tìm chân lý. Từ cái Tâm độc nhất này, các tâm tiểu vũ trụ được phóng chiếu ra khắp đại vũ trụ. Vạn vật trong vũ trụ là hình ảnh của tư tưởng, ý nghĩa và do đó là sản phẩm của Tâm. Hình ảnh các vị thần hiền hoà và giận dữ có nguồn gốc từ giáo lý quan trọng nhất trong bộ kinh sách Kanjur do các đạo sư dòng Panchen Lama truyền lại: Giáo lý Kalachakra - Vòng thời gian, giới thiệu Phật nguyên thuỷ, giống như tín ngưỡng Shiva và thần trí huệ Ganesha. Kalachkra đề cập đến các lực lượng bí ẩn trong thiên nhiên, tạo lập vũ trụ rồi giải tán chúng, làm cho con người sống và chết không chỉ được nhân cách hoá qua hai hình ảnh Shakta - tinh lực nam và Shakti - tinh lực nữ mà còn thể hiện ở hai chức năng bảo tồn và huỷ diệt. Lực lượng huỷ diệt được giới thiệu như những vị thần giận dữ và lượng lượng bảo tồn là các vị thần hiền hoà trong Mật giáo! Nơi sinh ra giáo lý Kalachakra chính là xứ sở huyền bí Shambhala. Đó là một vùng đất, theo học giả Sarat Chandra Das, nằm bên sông Oxus miền Trung á của vua Bậc Thượng Thủ Tập Hội Các Điểm Đạo Đồ Huyền Bí Tây Tạng sẽ cai trị loài người khi thời hoàng kim xuất hiện và trí tuệ thiêng liêng lên ngôi! Vậy thì, xin hỏi Padmasambhava, phải chăng những vị thần hiền hoà và giận dữ, những con người nắm quyền bảo tồn và huỷ diệt mà Ngài nói, là giống người Lêmuri-Atlan đang tồn tại trong lòng Tây Tạng! Tại hang động Pháp Vương nằm giữa hai toà Hồng Cung và Bạch Cung, phía sau lưng tượng Tùng Tán Cương Bố, Văn Thành Công Chúa, Xích Tôn Công Chúa và Lộc Đông Tán, trên vách đá hiện ra hàng trăm hang động nhỏ, trong mỗi hang động là một thân người đang ngồi trong trạng thái tham thiền nhập định! Chúng ta nên nhớ, bộ Upadesha trong giáo lý Dzogchen do Padmasambhava truyền vào Tây Tạng dạy rằng, nhờ tính giác Rigpa, con người được biết cách tham thiền nhập định để đạt đến mức độ giải thoát cao nhất. Hình ảnh con người thiền định trên vách động là một bằng chứng sống động về việc thực hành giáo lý Dzogchen. Tây Tạng và Himalaya, những ngày lang thang núi không có rừng, tôi có cảm giác từ trong các hạng động trên vách đá đều có một đôi mắt nào đó dõi theo bước chân mình! Cùng với màu sắc của dây cờ phướn và mạch nước tự nhiên hằn in lên núi, những hang động đã làm cho cao nguyên Tây Tạng không cô quạnh. Bằng tinh thần chiến sỹ tâm linh, người sống trong hang động sẵn sàng vượt qua giá rét khắc nghiệt để miệt mài tu tập. Thậm chí, người dân bình thường cũng có thể làm cho ta kinh hãi trước sức chịu đựng của họ. Hôm từ Shigatse về Lhasa, dọc con sông Yarlung Tsangpo quyện đặc bùn đất, phải xoè tay đếm đủ năm ngón tôi mới tôi tin vào mắt mình khi nhìn thấy, bên vũng nước xanh trong hiếm hoi, có hai thân thể người Tạng khoả thân nằm phơi mình mặc làn gió tuyết lạnh giá. Da thịt hồng đỏ nguồn nhiệt lượng ánh sáng mặt trời. Họ nằm dưới vực sông xa nhưng nhờ không gian trong sáng, vành mông, tấm lưng, cánh tay của họ vẫn cuồn cuộn da thịt ngay trước mắt. Tôi muốn nhìn cận cảnh hình ảnh tự do hồng hoang nhưng kính xe vừa hé mở, tôi phải đóng ngay lập tức vì không chịu nổi giá lạnh và nguồn sáng chói chang đột ngột ùa vào thân thể bọc kín len dạ của mình! Nếu không tu luyện, chỉ với kiểu cách tắm nắng như thế, hai người Tạng khoả thân bên dòng Yarlung Tsangpo đáng được tôi bái phục tận gót chân đỉnh đầu! Hai thân thể ấy khác gì hình hài bản nguyên vũ trụ hiện hữu. Trong tấm thân họ, những vì sao sẽ nảy nở, những cơn gió sẽ ào ạt trú ngụ với bầu trời chia sẻ bao nhiêu đường bay ánh sáng và bóng tối. Sự ức chế về kiếp người đã vỡ tan hoang khi người và trời đất cùng lớn dậy! Tôi muốn bay xuống vực sông Yarlung Tsangpo, biến thành hạt máu chảy trong da thịt trần nắng tuyết để cùng chuyển lưu nhịp sống nguyên thuỷ tươi đẹp mặc kệ trái đất này còn hay mất lịch sử! Lịch sử chỉ cho tôi nhận dạng không gian mình nhưng lịch sử không thể cho tôi nhận dạng vũ trụ! Hệ thống hang động trên vách đá sau lưng tượng Tùng Tán Cương Bố chắc chắn không phải là sản phẩm của một trí tưởng tượng đơn thuần. Nến mờ, khói hương toả, động nhỏ nhưng mỗi thân tượng đều hiện ra rất sống, ánh mắt, thế ngồi, đôi tay, cặp chân đều được chạm khắc từ hàng trăm nguyên mẫu nào đó ngoài đời. Là một đất nước có đời sống nuôi dưỡng trong những biểu tượng, thì việc di chuyển hình ảnh hang động tự nhiên vào lòng cung Potala phải có lý do hay kinh nghiệm tâm linh nằm ngoài lịch sử! Linh phù Mandala của Chakra Samvara Khó khăn lắm tôi mới chen chân vào động Pháp Vương nồng nực mùi mồ hôi, hương nến và cả mùi da khắp nơi thế giới vào đây chiêm bái gia đình Tùng Tán Cương Bố. Mở sẵn cuốn sổ tay có hình vẽ đôi mắt Phật, tôi hỏi vị tu sỹ ngồi canh nến trước tượng vua: - Thưa ngài... - Anh đọc bảng chỉ dẫn, đây là đức vua.... - Không! Tôi đã biết họ là ai. Tôi muốn ngài giải thích thế giới hang động trên vách đá sau lưng đức vua và hoàng hậu. - Đó là những hang động trong đất, trên núi! - Trong cõi Shambhala! - Tôi tiếp lời Người tu sỹ thong thả nghiêng bát mỡ trâu rót vào nến. Ngọn nến phực sáng đốt cháy lời tôi. Tu sỹ im lặng. Không nhìn tôi và nói với ngọn nến. - Làm sao ngọn nến này được sáng mà không cần mỡ trâu? - Chỉ có cách lưu giữ ngọn nến trong tâm hồn ngài để ngài lại thắp lên trong tâm hồn người khác. - Tâm hồn có như mỡ trâu, làm sao thắp được! - Vật chất hoá mọi ý niệm, phi vật chất hoá thân xác ngài và tôi sẽ... - Samapatti! - Âm thanh vị tu sỹ bùng sáng ngọn nến. - Samantabhadra! - Shambhala! - Shambhala!? - Tôi không tin vào tai mình. - Một đời người chỉ có được một lần nghe thôi! Nghe thôi đã khó huống hồ thấy! Một lần trong đời tôi mới chỉ thấy với gương mặt cương nghị, đôi mắt mở to không trạng thái lừng chừng thức ngủ như mắt Phật, lông mày xanh, trên đầu đội khăn xếp có tượng Phật nhỏ như kiếp trước của Ngài, Tùng Tán Cương Bố không phải là người đang trong trạng thái samapatti! Đúng hơn, ông là người bảo vệ tối cao cho thế giới hang động huyền bí với hơn 1000 bảo tháp chứa đựng thánh tích và di hài của các Lama nằm trong lòng cung điện Potala. Bảo tháp vĩ đại nhất trên cung Potala là bảo tháp của vị Dalai Lama thứ 5 là to lớn nhất. Đế và thân tháp được nạm bằng 110.000 lượng vàng ròng, 1.500 hạt ngọc trai quí báu, xứng danh là Trác lâm hiền gia - nơi trang nghiêm nhất thế giới. Tại sao lại là nơi trang nghiêm nhất thế giới khi mà trên cao tầng thượng Potala còn có điện Thù Thắng Tam Giới thờ Đức Quán Âm 11 mặt đúc bằng bạc cực kỳ quý hiếm? Phải chăng, trong ngôi bảo tháp vàng ngọc choàng kín áo vải này, vị Lama thứ 5 đang còn sống trong trạng thái samapatti! Tất cả các bảo tháp và tượng Phật ở Tây Tạng đều được choàng khăn hata và quấn vải, gợi cho tôi cảm giác, bảo tháp là nơi nuôi dưỡng những mầm sống - biju được biểu trưng bằng thánh tích sẵn sàng tái sinh khi có cơ duyên hơn là chôn dấu một nhục thể! Đối diện trước bảo tháp vĩ đại trong cung Potala hay ở tu viện Tashilhunpo, du khách bất giác phải cúi mặt vì vẻ đẹp thâm nghiêm sống động của nó. Đối với người Tây Tạng, hàng ngàn năm nay, việc mỗi năm, đến giờ lành ngày tốt tháng hợp, vị Lama cao cấp nhất sẽ mở cửa tháp để cắt tóc và móng tay cho những di thể là chuyện đương nhiên không ai bàn cãi! So với nghệ thuật ướp xác của Ai Cập, Tây Tạng cao siêu hơn nhiều. Những xác ướp Ai cập tôi từng thấy vẫn chỉ là xác chết bất động! Thân người bọc cứng trong lớp vàng vô cảm trong cổ quan tài hay trên chiếc thuyền chở linh hồn qua sông. Xác chết ở Mycênes miền Nam Hy Lạp lại càng vô cảm hơn khi trên gương mặt người chết có mặt nạ vàng phủ kín. Đứng trước một xác ướp Tây Tạng, tôi cảm thấy thi thể con người đó vẫn nguyên tươi 21 nhiễm sắc thể vì vậy nếu không mở miệng chào họ, tôi như có lỗi! Khi một người chết, người ta dầm vào bình đựng đầy muối để rút hết các chất lỏng ra khỏi thân xác rồi trút vào đó một dòng thủy ngân rửa sạch lục phủ ngũ tạng và các loại thuốc đặc biệt để giữ cho thân hình người chết ngồi tự nhiên như lúc sống. Người chết để khô trong tư thế thiền định cho đến lúc được quấn vải sau khi được nhồi vào lòng những hương liệu tẩm trong lụa rồi được đặt trên sàn phủ lớp bột dày trong phòng sấy có nhiều lỗ thông hơi điều hoà nhiệt độ quanh bốn bức tường. Sau bảy ngày hiu lửa, đợi cho nhiệt độ trong phòng hạ xuống, người ta mới đưa xác chết ra ngoài, cạo sạch lớp vải và bột bám quanh , cuối cùng xác chết được phủ lên lớp nhuyễn vàng cuối cùng. Tượng táng ấy không hề phân hủy, chịu đựng mọi trạng thái thời tiết và gần như trường cữu. Để hoàn thành một tượng táng, phải có nhiều bộ phận nhân sự thực hiện theo từng quy trình rất chuyên nghiệp. Họ làm với tất cả lòng sùng kính và cẩn trọng bởi đối tượng được ướp chủ yếu là các vị Dalai Lama hay Panchen Lama. Hơn nữa, là thi thể sống thực sự, không phải gỗ đá nên mỗi hành động phải thực hiện cực kỳ chu đáo và bí truyền. Cung Potala và cung điện Hoàng hậu Văn Thành Công chúa ở thế kỷ thứ 7 Trong các tu viện và hang động ở Tây Tạng, không biết bao nhiêu tượng táng “đang sống” như vậy chứ không phải chỉ có hai tượng như ở chùa Đậu Việt Nam! Không gian huyền bí trong cung Potala là một không gian sống thân thuộc của người Tạng nên họ rất tự nhiên, kẻ dọn cơm ngay giữa sảnh đường ngồi ăn bên cổ quan tài vàng, người bế con đi châm mỡ trâu vào bát nến đặt quanh bảo tháp. Khác với chùa Việt ít bóng dáng phụ nữ, đền chùa Tây Tạng không vắng bàn tay phụ nữ quét dọn, châm nến. Nằm trên lưng những người đàn bà, đôi mắt ngây thơ của con cái cũng bắt đầu nhuốm màu hương khói tâm linh. Một tâm hồn khi nằm trong bào thai đã nghe lời kinh nguyện của Mẹ Cha, vừa ra đời cũng sống trong không khí linh thiêng thì khi lớn lên làm sao không trở thành những chiến sỹ tâm linh! Nhưng câu chuyện bí mật nhất không nằm trên hai toà hồng cung và bạch cung mà nó lại nằm sâu dưới đáy sâu cung điện này. Theo lời kể tận tâm của Lama Lobsang Rampa, khi còn ở Tây Tạng, ông đã được vị Lama Trưởng lão dắt xuống đáy cung Potala nơi có những dòng nước mênh mông như biển cả tuôn chảy ra dòng sông Yarlung Tsangpo, để gặp gỡ ba pho tượng người, hai nam khổng lồ nằm trong mật thất đục trong đá! Nguồn năng lượng tâm thần phóng ra từ ba bức tượng, quật ngã Rampa vào cơn bất tỉnh ba ngày ba đêm. Trong trạng thái dữ dội hoả hầu đó, Rampa được các vị thần dẫn dắt trở lại quá khứ xa xưa của tổ tiên loài người và chứng kiến cuộc va đập dữ dội sao chổi vào trái đất 40 triệu năm trước, tạo nên cơn hồng thuỷ, sinh ra Himalaya và xứ Tạng hôm nay. 40 triệu năm, Tây Tạng vẫn mặn nồng lời cảm ơn với biển. Nếu khi nhận tấm giấy thông hành trong màn sương khói Chengdu, người ta bịt mắt tôi đưa lên máy bay rồi thả xuống bất kỳ một thung lũng cát trắng nào, tôi sẽ nói rằng mình đang đứng dưới đáy biển! Những hồ nước mặn hay vài ba bãi cát trắng phơi tràn trong mấy thung lũng dọc theo sông Yarlung Tsangpo đã nhắc cho tôi hay Tây Tạng và dãy núi Himalaya vốn xưa là biển cả. Xin cảm ơn cơn giận dữ của biển, không có cuộc chấn động va đạp giữa hai lục địa Á - Ấn vào kỷ thứ 3 Tertiary trong sự hình thành của đá, đáy biển đã không dựng lên thành Himalaya như hôm nay. Từ đáy đại dương sóng nước, Himalaya và Tây Tạng trở thành đáy biển ánh sáng trong mắt tôi. Liệu cơn chấn động ấy đã sinh ra từ cú va chạm giữa sao chổi vào trái đất hay như bào thai trở dạ, trái đất có lúc thức lên cơn giận hờn của mình cho nhân loại biết thế nào là sức mạnh của thiên nhiên. Ngày hôm nay, tôi chan hoà ánh sáng mặt trời nhưng gió lạnh vần rườn rượt da thịt như thể làn sóng biển trào lên dội xuống trong khoảnh khắc khủng khiếp đất đá dựng lên 40 triệu năm trước! Tôi không có cơ hội nào để thám hiểm dưới sâu cung Potala. Nếu được, có lẽ tôi không mang nổi xác mình ra khỏi động đá! Ám ảnh ba bức tượng khổng lồ của Lama Lobsang Rampa đã làm cho đôi chân tôi, từng bước rất nhẹ trên nền đá ẩm ướt mùi mỡ trâu trong cung Potala. Ba bức tượng khổng lồ phủ nhuyễn vàng và hình ảnh những con người trong hang động Pháp Vương có phải là người Lêmuri, Atlan và Aryen sống trong cõi Shambhala huyền diệu nhờ thực hành giáo pháp Dzogchen để gìn giữ quỹ gen nhân loại và nền văn minh kỹ thuật gen dưới lòng đất mà vị bác sỹ nhãn khoa Muldachev đề cập trong chuyến khảo cứu Tây Tạng. Có phải không, chính họ là những người quyết định dứt khoát trong tráng thái độc nhất và liên tục trực tiếp tin vào giải thoát trên con đường phát triển Sơ thiền, đạt được đạo lý sâu sắc chuyển qua Đại Định - samapatti, hồn lìa khỏi xác chuyển sang trạng thái bất động, rắn như đá và vươn đến Bát nhã, lĩnh hội được sự anh minh chân chính trong ý thức về sự sống vũ trụ trong cái gọi là nền tảng phổ quát tối hậu của sự hợp nhất ba thân, pháp thân, báo thân và hoá thân trong lời kinh Dohakosa-nama-caryagiti: Bị gió thổi và kích động Dù nước mềm mại trở thành cứng như đá Bị kích động bởi những tư tưởng, những hình tướng không hiện hữu, như nhuyễn mộng. Trở thành rất cứng đặc và kiên cố! Cứng như đá trong trạng thái samapatti ở môi trường +4 độ C, những con người siêu việt đó có khả năng phi vật chất hoá và vật chất hoá thân thể linh hồn có thể nhẹ bay rong chơi ba cõi khi vui thì đi khi mệt thì về trú ngụ trong thân xác bằng con đường “sợi chỉ bạc” - sợi chỉ dẫn dắt linh hồn bằng nguồn năng lượng dạng sóng vi tế! Cõi sống của samapatti, trong giáo huấn Dzogchen gọi là Vô sắc giới, nằm trên những cõi Phạm thiên và Sắc giới, bao gồm 4 xứ Akashanatya - Không vô biên xứ, Vijnananatya -Thức vô biên xứ và Naivasanjnanasaja - phi tưởng phi xứ. Nhưng thế giới Vô sắc giới kia vẫn là cõi vô thường, không vĩnh hằng vì các Samapatti chỉ là những trạng thái bị quy định bởi thức, nó chưa phải là tính giác Rigpa - sự giải thoát tức thời từ bổn nguyên. Điều này giống với sự miêu tả cuộc sống của người Lêmuri và Atlan, một cuộc sống có thể kéo dài bằng cách trường định theo giáo pháp Dzogchen do Đức Phật Bonp truyền dạy, nhưng không phải là sự vĩnh cửu. Khả năng vĩnh cửu, có thể ở chỗ họ biết cách thức tái sinh thông qua quỹ gen. Vậy Shambhala có thể chỉ là một địa danh, một môi trường sống của người Samapatti. Shambhala không phải là cảnh giới giải thoát đại toàn thiện! Và bản thân người Samapatti cũng phải không ngừng nỗ lực tu tập để vươn đến sự giải thoát từ vô thuỷ, giải thoát một cách bổn nguyên bằng tính giác Rigpa. Tôi nhớ lại người tu sỹ trong động Pháp Vương. Shambhala chứ không phải là Samantabhadra! Nhưng lúc này, khi chưa biết Shambhala ở đâu thì làm sao tôi có thể mơ đến Samantabhadra! Shambhala đang tồn tại nơi đâu? Cung Potala là một hang động lớn còn thế giới Shambhala phải rộng lớn hơn nhiều. Shambhala chỉ là huyền thoại hay nó là hiện thực như sự khẳng định của người tu sỹ! Tôi chăm chú vào ba đồ hình Mandala Guhya Samaja, Mandala Chakra Samvara, Mandala Yamantaka do vị Dalai Lama thứ 7 thiết kế và đồ hình Mandala của Kala Chakra làm bằng bạc được Desi Sangye Gyatso mang đến từ Puntsockling năm 1680. Ngoài 734 bức tượng chạy vòng quanh cùng với hằng ha sa số tượng người dân Tây Tạng vây quanh tượng Phật, tôi chẳng thấy gì cả! Mandala vẫn là biểu tượng thâu tóm không gian và thời gian, thể hiện và thực tại hóa sức mạnh thánh thần, hình ảnh tâm pháp. Mandala hướng dẫn tâm linh quán tưởng giác ngộ trong những hình vòng tròn, hình vuông, hình bông sen được bao quanh nhiều cửa tương ứng với từng giai đoạn tinh tấn của tinh thần hướng về trung tâm Phật trong trạng thái bất phân định. Mandala nhất định không phải là biểu tượng của Shambala! Hơn 1000 bảo tháp im lặng chỉ có một người trả lời tôi. Đó là vị Dalai Lama thứ 13. Tôi không còn nhớ làm thế nào mà tôi đến được Căn Phòng ánh Sáng Phương Đông trong tình trạng sức khỏe bị hao mòn giữa mùi hương khói. Căn phòng này được vị Dalai Lama thứ 13 nâng cấp thành một phòng học tập cho con cháu dòng dõi các vị giáo chủ, đây cũng là phòng làm việc đặc biệt của các vị chức sắc cao cấp Mật giáo. Chẳng đáng nói nếu trên bức tường, phía tay trái không hiện ra một bức tranh rất lạ mắt. Bức tranh không lấy làm dễ hiểu như bức tranh phía bên phải vẽ 5 ngọn núi Trung Hoa nổi tiếng. Cảnh trí huyền ảo chưa bao giờ thấy trong bức tranh lạ mắt kia Đôi mắt tôi như mỡ trâu Yak rịn cháy lên tường! Bức tranh càng nhiệm màu hơn trong ánh mắt sâu thẳm của vị Dalai Lama và Phật Varjapani. Thời gian nhảy múa trên từng nét vẽ, màu sắc hư thực ánh nến làm tôi quên mình là một trần gian. Rồi trần gian trở lại, đông đặc từng hạt chữ chỉ dẫn: Shambhala! Tôi khản cứng đôi môi sau mấy lần đọc mới biết là mình đang đứng trước bức tranh miêu tả nguồn gốc miền đất Shambhala! Các Phật tử cúng Phật Vậy là sau cùng, tôi cũng đã thấy thế giới Shambala hiện ra trong Cung Potala - trung tâm Phật giáo Tây Tạng, trong căn phòng có cái tên rất ý nghĩa: Căn Phòng ánh Sáng Phương Đông! Ánh Sáng Phương Đông! Ánh Sáng Cuộc Sống! Tôi nhớ lời vị Lama chùa Đại Chiêu. Hóa ra lúc ấy Ngài đã chỉ cho tôi đến nơi này sẽ gặp Shambala! Ánh Sáng Phương Đông ra đời từ đây: Tây Tạng! Người Lêmuri chọn Tây Tạng, Himalaya để thiết lập thế giới Shambhala mà không phải vùng đất nào khác trên thế giới bởi địa lý tự nhiên của nơi này rất thích hợp cho việc tham thiền nhập định. Khi đã vượt qua những trạng thái thời tiết điên đảo, đứng duới một lùm mây che núi tuyết thì toàn thân tái xám âm duới độ O nhưng thò tay ra nắng thì máu cảm sôi dương mấy chục độ, thử hỏi làm sao thân xác không tôi luyện thành đá! Toàn cảnh tu viện Tashilhunpo Lỡ có chết trong động tuyết, hay không rơi xuống vực, nếu không làm mồi cho chim ưng, tôi nghĩ mình vẫn được im lìm trạng thái cứng như đá trong môi trường cực lạnh nhưng không ẩm ướt mà cực khô đến cháy da thịt bản xứ! Tây Tạng có nhiều địa danh làm các nhà địa chất khí tượng thành đứa trẻ ngu ngơ trước nhịp chuyển bất khả tri của vũ trụ. Ví như hồ nước nóng có chu vi 7000 km Dương Bát Tịnh ở huyện Dương Hùng phía Tây Bắc thành Lhasa. Cả một biển hồ nước khói bốc nghi ngút có nhiệt độ trung bình 47 độ C là sự tập hợp của nhiều dòng nước sôi sùng sục, nước ấm hẩm thịt da, nước nóng ran người, lúc phun lên ào ạt khi nằm im hiền hoà. Toàn thể vùng nước nóng mênh mông ấy lại nằm giữa rặng núi lạnh băng tuyết Đường Cổ La. Thành thử trên cao xanh, đàn chim bay qua hồ Dương Bát Tịnh như thể bay qua nắng nóng sa mạc Sahara rồi lại rơi vào cảm giác Bắc Cực ngay tức thì khi hạ cánh trên núi Đường Cổ La. Chim chóc còn không rã cánh, nghĩa là một người thường tầm vóc như tôi khó lòng thối rữa huống hồ những người, dù không phải là bậc du già hành giả, nếu chú tâm tu tập e chăng cũng có thể đạt đến cảnh giới samapatti! Cũng từ chuyến thăm Dương Bát Tịnh, lúc trên đường trở về Lhasa tôi đã gặp một người nông phu, có thể như vậy qua cách trang phục, đang ngồi trong lòng một đụn lúa tsampa chụm lại hình bảo tháp giữa cánh đồng tsampa đang vào mùa gặt. Tôi định lùi bước tế nhị thì đôi chân khựng đứng. Trước mắt tôi, người nông phu không ngủ! Ông đang thiền định trên đôi chân khoanh bình thường. Xem ra đôi chân của người nông phu chẳng có hình tướng nhất thể giữa cái chết và sự sống, ác và thiện, âm và dương như thế ngồi hoa sen. Nhưng lưng thẳng đứng. Đầu vững vàng. Mắt nhìn xuống đống rạ. Miệng lầm rầm niệm chú. Người nông phu thanh thản một bụi lúa tsampa mọc lên giữa trời chiều. Có lẽ, sắc vàng lúa chín, sắc xanh thẩm núi, sắc trắng nhành mây, sắc đỏ ráng chiều, sắc lam không khí cùng nhau tạo nguồn cảm hứng, lạc hỉ, uý phục, thanh tịnh như một dòng năng lượng ân sủng của tự nhiên hoà quyện vào lời cầu nguyện giúp cho người nông phu giải thoát qua một trong 4 cách thức giải thoát, giải thoát qua chú ý thuần tuý - gcer-grol, giải thoát ngay khi nó sanh khởi - shar-grol, tự giải thoát - rang-grol, giải thoát bổn nguyên - ye-grol! Tôi biết ơn người nông phu, nhờ niềm thanh tịnh lan toả từ ông, tôi mới nhận ra những sắc màu diệu vợi của tự nhiên đang thấm dần vào tư tưởng của tôi. Cầu chúc cho người nông phu dịu dàng, khiêm nhẫn phá tan mọi kinh nghiệm, như dòng sông liên tục hợp lưu tịnh mẹ và con, nền tảng bao la và cá thể, chuyển thức qua những trạng thái trung gian trước khi giải thoát ra khỏi sinh tử, giải thoát luôn ra ngoài cõi Niết bàn để trở thành một tự nhiên sống động Rigpa! Tôi yêu trạng thái tự nhiên sống động trong đôi mắt Phật. Nó tịnh màu sắc con người hành động và con người yên tĩnh, nó nói cho ta biêt rằng đôi mắt ấy sinh ra cùng thời với ánh sáng, xem số phận mình như số phận ánh sáng, sinh ra để nuôi dưỡng mối quan hệ về bản thể giữa thượng giới và trần gian. Để nuôi dưỡng mối quan hệ siêu linh ấy, cần phải có một sự nhận biết tinh hoa của tâm trí, thấu suốt nhu cầu của mọi chúng sinh bằng đôi mắt Chenrezig hàm chứa bao nhiêu lời cảnh báo khốc liệt về đời sống, phương thức giải phóng con người thoát khỏi mê lầm bằng tình yêu và cái đẹp thiện tâm đại hoàn thiện. Chenrezig là vị Phật của lòng từ bi được tạo nên bằng phương pháp Thiền quán đôi mắt, tập trung toàn thể nguồn lực của chen-con mắt, của re-khoé mắt và của zig - là nhìn vào sự bi mẫn cho đến lúc toàn thể cặp mắt trở thành một cái nhìn sâu sắc trí tuệ tràn đầy năng lực phân tích và quan sát, hiểu biết thấm nhuần ý nghĩa tối cao của chân lý là hư không như người Tạng nói ces -rab gyi phar rol tou Phyiu Pa! Bức tranh hỗ ở cổng tu viện Tashilhunpo >Bảo tháp ở một ngôi làng vùng hồ Dương bát tịnh Đó chính là sức mạnh bí ẩn trong đôi mắt Phật trên các đền chùa Tây Tạng! Đôi mắt của Phật Bonpo không nhìn hiện hữu mà ngược lại đó là hiện hữu thấu suốt đời sống. Trong cái mênh mông hiện hữu ấy, tôi đã thấy một bầu trời vô nhiễm không xác chết hữu hình và vô hình vương đọng. Đó là đôi mắt Samapatti bừng tỉnh vầng dương tính giác Rigpa! Những đôi mắt Thiền định ánh sáng! Đứng trước đôi mắt Thiền định ánh sáng, không nên sợ hãi trốn chạy mà hãy xem nó là đối tượng để cảm nhận hết tinh hoa như giọt nước rơi vào giọt nước! Cho đến ngày hôm nay, đêm thức giấc bên bờ biển Đông, tôi vẫn xanh trong suốt bầu trời Tây Tạng. Chúng tôi chẳng có gì cách biệt, chúng tôi là một cõi quê chung bởi màu xanh ngọc trong đôi mắt khác thường của Phật và những chiếc vỏ sò, biểu tượng liên hệ mật thiết với biển và âm nhạc, được trang trí khắp nơi trong mỹ thuật Mật giáo Tây Tạng, thậm chí còn được vẽ cho người chết xem hoặc được dân chúng gom nhặt trên dãy Himalaya đem bày bán trên phố Bát Giác đã nói lên một điều: Tây Tạng quả thực 40 triệu năm trước là đáy biển. Cư dân của vùng đất ấy không ai khác chính là Lêmuri và Atlan! Họ đã dạy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Jesus và Mohamet, thay mặt mình hướng dẫn tâm linh nhân loại trong suốt mấy ngàn năm qua! Nữ thần Tarâ dâng vỏ sò chứa nước thơm Đôi mắt, chiếc vỏ sò, những kỷ vật của biển là ngôn ngữ trong bức thông điệp của những nền văn minh siêu việt gửi đến và nhắn nhũ với loài người rằng, hãy hướng đến cõi thiện, đừng vượt qua uy quyền của Chúa Trời, con người sẽ được giải thoát! Một người có thể nói dối Một triều đại có thể nói dối Nhưng một nền văn minh thì không thể nói dối Mà Tây Tạng là một nền văn minh. Dẫu tôi biết Không có sự minh chứng khoa học cụ thể, con người sẽ mất lòng tin. Nhưng không có trí tưởng tượng, con người sẽ chết! Phép giải thoát trên thi hài người chết N gày xưa, khi Phật còn tại thế Có nàng Krisha Gotami rất đau đớn lúc đứa con mình bị chết. Nàng bồng xác con lang thang khắp nơi tìm thầy cứu chữa cho con nàng được sống lại nhưng tất cả đều bó tay. Cuối cùng Gotami gặp được Phật. Nghe chuyện buồn của Gotami, Phật dịu dàng nói: - Chỉ có một cách duy nhất hàn gắn nỗi đau buồn của con. Con hãy xuống phố, xin về cho ta hạt cải từ một nhà nào chưa hề có người chết! Gotami vui mừng xuống phố nhưng nàng không thể kiếm được một hạt cải nào cả bởi trong thành phố không có ngôi nhà nào là không có người chết! Bồng xác con trên tay, Gotami chợt hiểu ra lời của Phật. Nàng không buồn đau nữa và trở lại xin Phật dạy cho chân lý về cái chết, cái gì ở đằng sau và bên kia sự chết, và có cái gì trong nàng không chết hay không! Tôi bây giờ Một đêm Shigatse Đêm Tây Tạng rất mỏng. Như nàng Gotami đứng trước Phật muốn hỏi về cái chết. Cô đơn, tôi đành bồng xác thân mình vậy. Dưới xa miền bình nguyên, bùn đất và nước mặn dìm chết nắng qua ngày nên đêm rất dày bóng tối còn trên xứ trời này, khi mặt trời ra đi lại có một loài ánh sáng khác, được dự trữ từ trong đất đá toả lên màn đêm dịu dàng cho tôi thấy những hạt không khí như muôn vàn hạt xá lị từ Himalaya theo gió bay về bám đầy thân thể mỏng hơn đêm Shigatse. Linh hồn tôi rất nhạt trong thân xác. Ngày bước qua đêm mỏi chân đến. Linh hồn dần bỏ thân xác mà đi lang thang như nàng Gotami. Thà đi lang thang còn hơn ẩn cư trong căn lều máu xương rệu rã. Đôi chân khô cảm giác. Đôi tay không nhặt nổi hơi thở. Mọi huyệt đạo phập phồng cơn đau buốt luồn lách ác liệt vào từng múi nơ ron. Người đồng hành, sợ chết đột ngột, đã cẩn thận viết lời di chúc đặt sẵn dưới gối. Khuôn mặt ông tím đen. Tóc trên đầu khô cứng. Đôi mắt phồng căng. Cả thân hình tàn tạ mọi cử chỉ. Là người biết võ công nhưng ngay cả một nhát dao nhỏ xẻ dưa hấu ông cũng đành buông tay. Bởi ai sinh ra mà không sợ chết! Cái chết trở thành một đối trọng dữ dội nhất trong cuộc đời con người. Tôi tin rằng, tiếng nói đầu tiên mà loài người nghe thấy từ Thượng Đế là tiếng nói của cái chết - một lời báo hiệu về trật tự hữu hạn. Từ chỗ báo hiệu, Thượng Đế muốn răn dạy và đưa ra hình phạt tuyệt đối, thể hiện uy quyền của Ngài đối với những sinh linh do Ngài tạo ra! Với ý nghĩa đó, tất cả mọi nền văn hoá trên thế giới đều có quan niệm nhuốm màu kinh nghiệm hãi hùng về cái chết. Nhân loại đi qua bao nền văn minh nhưng cái chết vẫn được cảm thụ như là nỗi kinh hoàng, biểu thị bằng hình tượng khiếp đảm về một thế giới dữ tợn, vô cảm, không biết đến tình yêu thương. Một ngọn lá héo tàn. Chết! Một tiếng bom rơi. Chết! Chết nhẹ như ngọn gió lùa, chết nặng như nỗi buồn gánh núi. Ai rồi không một lần sinh một lần tử. Đức Phật hay Đức Chúa, rồi cũng chết đi mà thành tựu. Nhưng, con kiến già Rigpaba của tôi, có mấy ai biết được chết là gì, hay nói đúng hơn thế giới chết sẽ sống như thế nào đây? Không ai từ cõi chết trở về kể cho tôi nghe cả! Vậy, dù cái chết là cánh cửa của sự sống mới, chết là một sự giải thoát khỏi phiền muộn, giúp con người chuyển sang đời sống siêu nhiên thì cái chết vẫn là một điều bất khả tri, đe doạ từ mọi nơi, từ mọi phương, từ những chi tiết nhỏ nhặt nhất! Đứng trước ngõ cụt này, cánh mũi tôi kiên quyết không thở nhờ khí ô xy bán trên đường phố Shigatse. Tôi chỉ sống nhờ vào linh ảnh chính bản thân tôi, một đứa trẻ vượt qua cái chết hơn 20 năm trước! Mùa hè năm 1982, gia đình tôi nhờ người tìm cuộc đất, ván gỗ đã chuẩn bị đặt lên cưa xẻ để mang hình hài tôi cùng cơn co giật uốn ván vùi sâu xuống mộ. Người ta đã khuyên cha đưa tôi về nhà để chết nhưng cha chối từ. Bằng niềm tin còn nước còn tát đến giọt cuối cùng, cha đưa tôi lên thuyền xuôi dòng Nhật Lệ về bệnh viện Cu Ba Đồng Hới. Trên dòng sông ấy, cũng vào một tinh mơ hơn 30 năm trước, người chị đầu của tôi - chị Sanh Si ra đi trong lòng tay mẹ lúc chị vừa mấy tháng tuổi. Mẹ kể, trước khi chị tắt thở, cái linh hồn nhỏ ấy biết mình không thể lớn dậy thành hình hài thiếu nữ nên nước mắt bổng tràn ra ướt đẫm bầu má thơm mùi sữa làm ông ngoại tôi, vốn là một thị trưởng cảnh sát không thể ngăn nổi tiếng khóc lá non! Đêm hôm ấy, cuối tháng 3 đầy sao. Qua mái thuyền chồng chềnh, tôi nghe thấy tiếng khóc oa oa của chị vọng về giữa sông nước. Tiếng khóc ấy bơi theo tôi cho đến lúc mặt trời hồng lên cửa bể Nhật Lệ. Căn bệnh uốn ván rất kỳ lạ, trước và sau khi co giật, bệnh nhân rất tỉnh táo. Vài giây trước khi lên cơn, tôi có thể bình tĩnh nhận ra từng đợt bão tố chết chóc tràn lên từ dưới chân, dần dần phủ kín toàn thân rồi đột ngột bùng lên cơn co giật khủng khiếp. Sau mỗi lần qua cơn, tôi lại nhìn thấy cha tôi khóc. Ông khóc vì thương con, ông khóc vì mừng con đã thoát chết, ông khóc vì con lại tiếp tục chờ đợi một cái chết tiếp tục tràn đến triền miên hơn 3 tháng cho đến lúc nghe người bác sỹ Cu Ba tuyên bố chính thức rằng con mình có khả năng sống! Cha tôi quỳ xuống nền đá trong căn phòng nhỏ bé trên tầng năm cảm tạ trời đất, cảm tạ linh hồn của bà cô - cũng từng ra đi theo cơn lũ trên dòng sông Nhật Lệ vào lúc mới lên sáu bảy tuổi - hiện về phù trợ cho tôi được sống! Hoá ra khi trùm chăn ngồi trong phòng đợi bệnh viện lúc mới đưa tôi vào nhập viện, giữa lúc mê buồn ấy, cha tôi đã thấy hình bóng bà cô của mình hiện ra và nói đứa con trai út của ông nhất định sống! Cha tôi cũng không hay biết, mỗi lần cơn đau tràn tới, tôi lại nghe tiếng khóc oa oa của chị tôi nâng tôi dậy. Tiếng khóc non nớt đã cưu mang thân xác đứa em nát tan bạo bệnh. Hơn ba tháng trắng đêm, cha con tôi bấu víu vào lời tiên tri của bà cô, bấu víu vào tiếng khóc của chị để vượt qua cái chết! Phải chăng, cha và tôi đã có một cái nhìn sâu sắc về những linh ảnh mà mình đã nhìn thấy! Bây giờ mỗi khi về làng, sang núi thăm mộ tổ tiên, bao giờ tôi cũng thấy giữa rừng núi xanh kia có một ngôi mộ vùi chôn tôi 20 năm về trước. Dân làng bảo, tôi chỉ làm con cha mẹ từ khi sinh ra cho đến ngày tôi bị bệnh, còn lại 20 năm kể từ lúc được cứu sống trở về sau, tôi là đứa con sinh ra từ một thế giới khác! Tôi không biết thế giới đó là nơi đâu nhưng từ khi khỏi bệnh, cùng với tính khí đổi thay, tôi trở thành một con người lễ độ với thế giới siêu hình! Đây chính là lý do, hôm nay bất chấp mạng sống của mình, tôi đã có mặt trên vùng đất Himalaya, nơi có miền Tây Tạng huyền bí trong từng âm tiết siêu hình. Màn đêm dịu sáng Shigatse, hình bóng đứa bé 10 tuổi và linh ảnh tiếng khóc thơ dại tự tin vượt qua những cơn co thắt giật đứt cuống tim lại hiện ra trong sáng như đoá hoa hồng dưới sân khách san Namsel ở Lhasa. Đoá hoa hồng màu trắng, từng cánh xoè rộng, kết thành linh phù mandala vươn lên từ đất. Cánh hoa ngát to và dày hơn một li tràn trề sương đêm, đoá hoa hồng chào tôi buổi sáng! Tôi có thể bỏ cơm, mỗi sáng dậy dè sẻn lưng cháo trắng nhưng không thể nào khi bước chân đi khi bước chân về, tôi lại ném ánh mắt của mình ra ngoài đoá hồng ấy. Ký ức độc tố nhưng hào hoa ấy tươi tỉnh những ngày tôi sống Tây Tạng. Chính niềm tin, sự trải nghiệm một lần trở về từ cõi chết đã trở thành mảnh đất cho linh hồn náu thân chứ không phải bình khí ô xy người ta bày bán cho du khách trên đường phố Lhasa hay Shigatse! Không phải chỉ đêm nay Shigatse. Rất nhiều lần chênh vênh phút giây chết chóc, tôi lại vịn vào quá khứ để đứng dậy. Tôi luôn ý niệm rằng, đáng lẽ mình đã không còn nữa hơn 20 năm trước nên bây giờ một ngày trôi qua là thêm một tuổi trời cho nên mình phải sống trọn với lòng thành công ơn ấy. Nếu có ra đi thì cũng chẳng hề hối hận. Sợ gì nào khi tôi lòng thành như vậy! Linh hồn lại thong dong với gương mặt dịu ấm của Cha, có nét buồn bản lĩnh của Mẹ đã nuôi tôi lớn dậy tháng ngày. Tôi bình yên như con cá nằm trong tuyết triệu năm nay trên dãy Himalaya sau trận đại hồng thuỷ! Tôi không viết di chúc! Tôi không thể chết vì trong tôi những gương mặt kia đang mỉm cười che chở! Và tôi kiên nhẫn chờ qua đêm, mặc kệ giấc ngủ tàn dưới chân, đứng bồng xác mình chờ Phật trả lời. Rằng bao giờ tôi chết. Và nếu như vậy, ngài có thể dạy cho tôi cách chết nào hay nhất! Nhưng có lẽ, quá bận bịu công việc ở đâu đó nên Ngài không về Shigatse mà giải đáp cho linh hồn bé bỏng này! Ngài không về thì tôi đến nơi chỗ Ngài chơi. Và, với cái ý niệm giang hồ ấy, tôi lên đường đến thăm tu viện Tashilhunpo - nơi ở của những Phật tái sinh mà người Tạng cung kính gọi là Panchen Lama - hiện thân của Phật Adiđà! Tu viện Tashilhunpo tuy không cao như cung Potala nhưng cũng đủ thử thách sức khoẻ và tinh thần của những ai đến chiêm ngưỡng. Từng bước chân hứng khởi vượt qua mấy dãy nhà nằm chênh vênh sườn núi, tôi bước vào viếng điện thờ Phật Tương Lai. Ngôi miếu dưới chân tu viện Tashilhunpo Ngài ở đây, rất gần khách sạn, sao đêm qua lại bỏ mặc tôi! Chưa kịp buông lời thì tôi đành ngậm kín lời thưa chào! Nếu trời đất và cha mẹ cho tôi được nếm trải bao nhiêu cảm giác trong đời thì trong giây phút đứng trước bức tượng Phật Tương Lai, bao nhiêu cảm giác ấy chợt thoát bay theo ngàn vạn lổ chân lông để lại thân xác tôi tràn ngập niềm bâng khuâng thiêng kính. Không choáng ngợp chiều cao vĩ đại 27m của khối tượng đúc vàng đồng quấn mình trong những tấm khăn choàng huyền ảo, tôi choáng động toàn thân vì khuôn mặt của ngài. Khuôn mặt ẩn chứa một nụ cười bi mẫn, động viên dương gian thống khổ, trong đó có tôi, một đứa trẻ sinh vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 nóng bỏng lửa đạn. Ngoài cánh mũi thẳng sườn núi, khuôn miệng chực nở nụ cười, đôi mắt xanh ngọc khác thường, trên trán ngài còn có con mắt thứ ba chạm bằng đá quý chọi lọi ánh nắng. Khuôn mặt Ngài muốn nói, tất cả những ai bước vào đây, lý lịch kiếp trước khiếp sau ra sao, ngài đều thấu suốt! Đi một vòng, từ phải sang trái đảnh lễ Phật Tương Lai, lần theo tiếng âm thanh cầu nguyện, tôi bước đến trước mặt ba ông lão hành khất đang lẫm bẩm đọc kinh bên bát nước nước vàng nhạt. Hong thả xuống trước mặt họ tờ 5 tệ. Một trong ba người nghiêng bình rót nước ra bát trà nhỏ. Mắt nhấm, miệng lầm rầm nhưng cánh tay đưa bát rất chuẩn xác, gọn gàng không một giọt nước trào. Hong lắc đầu từ chối. - Còn anh, anh có uống không? - Một trong ba cửa miệng dừng lời cầu nguyện khẻ khàng hướng vào tôi. - .... - Tôi ngước nhìn Hong. Hong lại lắc đầu. Nhưng dưới đáy sâu của bát gỗ, đôi mắt của Phật Tương Lai hiện ra xanh rờn sau làn nước vàng xỉn. Tôi đưa hai tay đón bát nước. - Anh ta đúng là người Trung Quốc! - Người mời nước lạnh lùng phán. - Tôi là người Việt. Việt Nam! - Tôi cười. -Vì có niềm tin, anh đã uống nước thiêng này - Nước thiêng! - Tôi có nghe nhầm không đây hỡi người hành khất dưới tượng Phật Tương Lai! Ai đã cất lên tiếng nói kia trong bộ áo quần nhàu nát đường may vá! Nếm nước thiêng là một trong 5 phương pháp đạt giác ngộ mà không cần thiền là thấy một vật thiêng liêng, mặc những đồ hình Mật tông, nhớ sự di chuyển tâm thức vào lúc chết và nghe giáo lý sâu xa. Cầu mong cho nước thiêng này được nguyện chú bởi một vị thầy nào đó sẽ giúp tôi thoát khỏi cơn đau thể xác. - Anh chàng Trung Quốc kia là một cái túi thịt chứa đầy nghi ngờ. Anh ta sợ chết nhưng ở Tây Tạng, chúng ta đâu có cái chết mà hắn sợ! - Người hành khất già cầm trên tay cuốn sách vàng ố chữ - Còn anh, anh là con chó con trước Đức Ngài! Anh còn phải học mới bước đến con đường Bardo Thodol đang nằm trên tay ta - Người khất thực chỉ tay ra cửa điện - Người ta sẽ cho anh biết điều ta nói là cái gì. Tôi nhìn ra cửa. Không biết từ bao giờ, một khuôn mặt hiền hoà vị sư già đã ở bên cửa lắng nghe cuộc đối thoại ngẫu hứng của chúng tôi. Tôi nhớ lại lúc ban đầu bước vào cổng tu viện, được ông lão Tây Tạng hướng dẫn cho cách quay chuông và đọc câu thần chú, tôi đã bắt gặp khuôn mặt vị sư đứng dưới gốc cây liễu xanh. Hoá ra ông ta đã theo tôi từng cử chỉ, từng hành động từ lúc tôi xuất hiện cho đến khi vào đảnh lễ Phật Tương Lai. Có lẽ, ông ta đã nhìn thấy cảm giác bâng khuâng của tôi khi đứng trước bước tượng vĩ đại này. Và...! Thôi chết rồi! Hải ơi! Tôi lạnh sống lưng! Lần này thì mi không thể vịn lấy cái lý do ưa lang bạt, kỳ hồ tò mò để trốn chạy! Chắc chắn ông ta thấy tôi đưa máy ảnh chụp lén bảo tháp lưu giữ mấy trăm năm di hài sống của vị Panchen Lama thứ 5 trong điện thờ mất rồi! Kệ, tôi là con chó con trước Phật Tương Lai thì hà cớ gì lại bị trừng phạt bởi hành động cấm kỵ này. Vả lại, cũng không biết chết sống ra sao đây nữa nên tôi, bước từng bước ra cửa bằng tinh thần của một con chó con. - Bức ảnh ấy không bao giờ có được! (1) - Vị sư già làm tôi rúng động - Nhưng ta không nói chuyện về việc ấy. Ta nói cho con biết điều mà người kia vừa nói bởi trong con, cái chết đã xuất hiện! Do vậy điều mà con đang nghĩ đến thì hãy hướng đến nó thật tận tâm, hướng đến với cái nhìn sâu sắc nhất, cái chết sẽ rời bỏ con! Đó là lời dạy của Bardo Thodol! Cái chết đang đến với tôi! Cái niềm sợ hãi sâu xa nhất, Rainer Maria Rilke miêu tả, như con rồng lưu giữ cái kho tàng sâu kín nhất hút chặt tôi vào con đường tối tăm bi phẫn! Tôi quay lại cầu cứu Đức Phật. Con mắt thứ ba của ngài vẫn rực sáng ánh nắng. Người kiến trúc sư nào dựng ngôi điện này thật tài ba bởi dù mặt trời có di chuyển nhưng xuyên qua lỗ nhỏ trên trần điện, ánh nắng trên trán ngài không tắt! Vị sư già dứt lời cũng là lúc cánh cửa sau lưng mở ra đón ông vào trong gian điện thờ. Cánh cửa khép lại bí ẩn như trang sách mà người hành khất kia đang cầm trên tay. Những lời nói của vị sư già như nhát cuốc năm nào mẹ cắm vào đất rừng chôn kín từng bước chân tôi lưng núi tu viện Tashilhunpo. Thành phố Shigatse với những mái nhà đất phẳng hiện ra dưới đồi hoa chantai hoà tan nắng biếc. Không biết cánh hoa mong manh hay màu nắng xanh da trời nên nhìn nắng trên hoa chantai tôi cảm thấy nắng rất mềm mại, không rát bỏng mắt môi. Lẽ nào tôi lại chết ở nơi đây! Con hãy nhìn bằng cái nhìn sâu sắc về cái con hướng đến! Shigatse đêm thì mỏng, ngày trước mắt tôi càng mong manh hơn trong nắng xanh phất phơ dây cờ phướn giăng mờ trên đỉnh núi. Tôi nhìn thấy gì đây ngoài những mảnh vụn ký ức rong ruổi, ngoài những bông hoa chantai lấm tấm nắng chân đồi! Vừa khi cơn đau lại buốt lên đầu. Hình như có một ngọn gió độc nào đó trong không gian xốc thẳng vào xương cốt. Tôi cắn răng đứng lên. Tôi lại vang vọng lời khích lệ của bà cô Cha tôi năm nào bay về! Tôi lại nghe tiếng khóc oa oa chao động trên cánh hoa theo những cơn đau cồn cào cuộn lên tim óc cho đến khi nằm im lặng trong màu xanh của ánh mắt Phật Tương Lai. Ôi quá khứ đớn đau và huy hoàng của tôi đang lấp lánh màu xanh của đôi mắt Phật Tương Lai! Thôi, chỉ có cách hớn hở với ảo ảnh tuyệt đẹp ấy để đi xuống núi còn hơn là chết bên thềm tu viện. Một ngôi miếu nhỏ nằm giữa ngã ba đường làm bước chân tôi dừng lại. Kiến trúc ngôi miếu rất kỳ lạ giống cỗ linh xa chứa quan tài người chết. Thân miếu dài kê đầu về lò hương ám khói. Trên nóc miếu có cột vải vàng. Bên hiên miếu là hàng chuông đồng. Ngôi miếu xây bằng đá nhưng rất nhẹ nhàng nhờ khung cửa gỗ có riềm vải mềm trắng rủ che xung quanh. Một vị sư già chừng hơn trăm tuổi chống gậy dẫn theo vị sư trẻ bước quanh ngôi miếu. Bước chân run run nhưng thân thể vẫn vững chải, vị sư già cùng người sư trẻ xoay chuông cầu nguyện. Mũ hồng tía. Quần áo hồng tía. Dày hồng tía. Hai người tựa như hai khối hồng tía biết nói với ngôi miếu. Có một ai đó đang nằm lắng nghe trong miếu! Tôi rùng mình! Không lẽ ... - Một linh hồn vừa rời bỏ thân xác được 5 ngày - Vị sư già có khuôn mặt dịu dàng bỗng xuất hiện, rành rọt nó i- Lama kia đang truyền dạy cho đệ tử cách thức hướng dẫn linh hồn kia giải thoát ra khỏi trạng thái trung gian sau khi rời bỏ thân xác bởi tính nghe vĩ đại. Đó chính là Bardo Thodol! Tôi nép mình vào người vị sư già. Lần này đích thị tôi là một con chó con run rẫy trước tiếng gầm sư tử! - Đừng sợ hãi. Rồi ta và con, một ngày nào đó cũng sẽ đi vào trạng thái trung gian này. Đừng nhìn nó với con mắt kinh hãi hoặc huyền bí. Nó rất đơn giản như hàng ngàn năm nay xứ Tạng đã thấy, đã biết và đã làm. Bất kỳ người bình thường nào cũng có thể làm được thông qua Bardo Thodol. Cái điều con đang hướng đến, có thể nhỏ như bông hoa chantai nhưng con hướng đến bằng tình yêu thương, con sẽ thấy bông hoa nhỏ đó vĩ đại không gì sánh được! Cô Vang tôi, sau nhiều năm vật vã với bệnh khớp, đã đến giờ phải chia tay cuộc đời vào một buổi sớm mùa thu chưa kịp vàng lên hàng rào hoa dâm bụt trước ngõ nhà. Việc cô tôi ra đi là điều mà mọi người trong làng và gia đình đã tiên liệu từ lâu nhưng không ai có thể hay rằng, ngay trước lúc nhắm mắt, từ cái thân thể vôi hóa các khớp xương ấy hồng hào hẵn dậy lời thỉnh cầu: - Hãy gọi cháu tôi vào đây! Đứa con út của em! - Bà đột nhiên nhìn vào đôi mắt đẫm lệ của Cha tôi. Đứa cháu ấy là tôi, một đứa trẻ mới bước qua tuổi 13 đang run rẩy trùm kín nỗi sợ hãi cái chết. Người ta kéo tôi khỏi giường, mang tôi ra khỏi nhà, đến trước mặt người sắp chết. Cô tôi nằm đó, tóc bạc trắng, khuôn mặt bà ửng hồng bông hoa mẫu đơn đỏ hơi sương tỏa ra như ngọn đèn đầu giường. - Cháu đừng sợ! Hãy nhìn thẳng vào mặt cô! - Cô tôi tỉnh táo từng lời nói - Khi đưa tang, cháu là người cô muốn đi sau linh xa của cô.... Lời cô tôi chưa tàn, cả nhà đã thắp lên những nghẹn ngào tiếng khóc. Không ai ngờ, trước khi chết, cô tôi lại nhớ đến điều buồn thương nhất của đời mình. Theo tục lệ quê tôi, trong đám tang, hai người con trai hoặc con cả hay cháu đích tôn phải đi sau linh cữu và cỗ kiệu linh xa dẫn linh hồn người chết về bên kia thế giới. Nhưng cô tôi chỉ có một người con trai độc nhất! Và cô không muốn đám tang mình chênh vênh, thiếu vắng người dẫn đường cho linh hồn mình nên đã chọn tôi thay cho đứa con trai thứ hai không bao giờ cô có! - Cháu hứa với cô đi! Cháu đi linh xa cho cô nghe! - Cô đưa ánh mắt mờ dịu sang cha tôi - Em để cháu đi linh xa... Em có nhiều con trai.... Em nhường cho chị một đứa! - Cô tôi lại tiếp lời với tôi - Cháu hứa đi! Hứa đi! - Dạ...! - Tôi nấc lên. Ngay lập tức, cô tôi cười rạng rỡ. Đó là lần đầu tiên sau bao ngày đau ốm, cô tôi cười. Đó cũng là lần cuối cùng cô tôi cười với dương gian. Khuôn mặt cô phai dần nhưng nụ cười vẫn vương đọng. Tôi chợt nhìn thấy, trong hình hài già nua ấy, linh hồn rất xanh của đứa hài nhi ra đời hơn 60 năm về trước, một lần nữa lại tái sinh bay lên không gian mong manh buổi sáng sớm. Ngày đưa tang, tôi vịn cỗ kiệu linh xa, đi giật lùi từng bước, qua sông sang núi, đưa cô tôi về với tổ tiên nhưng không hiểu sao trong ngày hôm ấy và nhiều năm sau lớn dậy, tôi vẫn nghĩ, linh hồn của cô tôi không vùi dưới đất sâu, nó như bông hoa mẫu đơn đỏ vẫn mọc lên đâu đó trong làng quê. Bông hoa mẫu đơn đỏ. Lời hứa của tôi. Tình yêu thương cô đã đón nhận nên ra đi thật bình an. Có bình an không cô? Tôi chưa nhận câu trả lời từ bên kia thế giới, vị sư già đã kéo tôi đến trước cổng một bức tường thành chạy dài trước mặt tu viện Tashilhunpo. Cánh cổng mở ra. Tiếng tù và vang lên trầm hùng. Trên sân rộng ánh sáng. Các vị lama đang say sưa trong điệu vũ “khiêu thần”. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi được chiêm ngưỡng những vũ điệu do các nhà sư trình diễn! - Âm nhạc cũng là một cách thức cho họ thực hành sự giải thoát bằng tính nghe vĩ đại! Tính nghe không ràng buộc vào một thể thức nào, tất cả là tuỳ tâm lĩnh hội. Con nhớ điều ta nói. Hãy hướng đến những gì con nghĩ bằng một cái nhìn sâu sắc của tính nghe. Con sẽ không có cái chết! - Trong tiếng tù và nôn nao, vị sư già giải thích trước khi quay lưng trở lại tu viên Tashilhunpo. Tôi chưa kịp nghe điều gì đã nghe Hong gọi tên mình. Bên Hong là một nhà sư trạc chừng 30 tuổi. Tiếng Anh rất mượt hỏi tôi. - Các anh về Lhasa? Có thể cho tôi đi cùng được không? - Tôi không biết bởi tôi chỉ là một du khách trên xe. - Thế à? Vậy anh có biết người vừa nói chuyện với anh là ai không? - Không! - Người bảo vệ của các Panchen Lama ở tu viện Tashilhuno! - Người bảo vệ? - Phải rồi! Chúc cho anh được phúc lạc trong lời của người đó. - Tôi là một kẻ bình thường. Tôi không hiểu tại sao, thực sự là tôi không hiểu lý do nào tôi lại được ông ta chia sẽ... - Mục đích của chúng tôi - Vị sư trẻ dang rộng đôi tay - là học và thực hành giáo lý không phải để trở thành thành thần thánh mà để nhận biết cái sống cái chết như hai vị Lama đang dạy người học trò ở ngôi miếu kia. Tôi muốn tiếp tục cuộc đối thoại nhưng Hong đã kéo tay. Vị sư trẻ cười tươi chào tôi. Cánh tay trần đưa lên trong nắng sáng như cây tích trượng vươn ra từ tấm áo hồng tía Mật tông. Bardo Thodol là gì? Một cuốn sách về người chết như của người Ai Cập? Tôi thật tiếc là không được ngồi cùng xe về lại Lhasa với vị sư trẻ để thoả mãn trí tò mò. Mãi khi trở lại Lhasa, gặp Rigpaba, tôi mới được sáng tỏ. Bardo Thodol, mà người phương Tây gọi là Sách Tây Tạng Về Người Chết, là một bộ kinh thư cổ xưa của người Tây Tạng do đại sư Padmasambhava viết ra vào thế kỷ thứ 8, được Karmalingpa tìm thấy trên núi Gampodar vào thế kỷ thứ 14. Bên đồi hoa tu viện Tashilhunpo Riêng việc tìm thấy bộ kinh này, Karmalingpa đã được gọi là Terton, người phát hiện kho tàng cao quý theo nghĩa Bardo Thodol là germa texte - kho tàng văn hoá, văn bản quý báu bậc nhất nhân loại, có thể so sánh với Kinh Thánh hay Đạo Đức Kinh! Bardo Thodol được thế giới biết đến qua bản dịch của Lama Kazi Dawa Samdup và sự biên tập của tiến sỹ Evans Wentz với tựa đề Sách Tây Tạng Về Người Chết. Thực ra chữ “chết” không hề có trong Bardo Thodol vì Bardo Thodol là giải thoát khỏi trạng thái trung gian bằng tính nghe! Bardo - trạng thái trung gian này người Việt gọi là Cõi Trung ấm. Dòng hiện hữu của con người đi qua 6 bardo: sống, chiêm mộng, thiền định, cái chết, chân lý tự nó, cái trở thành hay tái sinh. Cái chết không đến tức thì. Một chiếc lá rơi. Một quả bom dội. Chết! Vì quá nhanh nên chúng ta thường nghĩ cái chết xảy ra lập tức nhưng giữa lúc sống và chết đó, còn có trạng thái trung gian chuyển tiếp. Hơn ai hết, liệu người chủ động chết, có lĩnh hội trạng thái trung gian chuyển tiếp này rất rõ ràng hay không?! Dân làng tôi cũng đã đi qua bao ngày tháng u ám với những vong linh, phẫn uất và tự kết liễu cuộc đời. Đôi khi trong vài ba ngày, thôn trên xóm dưới đều xôn xao người tự tử. Giận chồng. Tự tử Buồn con. Tự tử Ngoại tình. Tự tử. Hạnh phúc. Tự tử. Giận không ra giận. Buồn không ra buồn. Ngoại tình không ra ngoại tình. Hạnh phúc không ra hạnh phúc. Tự tử. Cùng với những kinh nghiệm về cái chết của bản thân, tôi thường thâm nhập vào thế giới của những kẻ tự tử. Tôi muốn biết, tâm trạng và cuộc sống của những con người tự quyết về cái chết của mình sẽ khác gì so với những người chết thụ động. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn ám ảnh gương mặt của Dung, người con gái hàng xóm tự tử đến hơn ba lần mới thành! Cha quở trách. Dung nhảy giếng. Túng quẩn cơm gạo với chồng con. Dung uống thuốc. Cả hai lần đều được cứu. Lần cuối cùng, chỉ vì quả cà nhỏ chưa bằng nắm tay đứa con hái trộm nhà nội bị người em dâu la mắng. Dung đã tự tử! Một cuộc tử tử kinh hoàng nhất nhân thế! Dung bình thản ngồi đun nồi nước sôi. Đợi nước chín nóng. Dung ngã cổ uống! Nước bỏng làm Dung gục xuống nền nhà. Ngay lúc ấy Dung cầm lấy chiếc liềm cắt cỏ. Từng nhát. Từng nhát. Như từng hớp trà bơ. Dung cứa vào cổ! Nếu hôm nay, biết tôi đang viết những dòng này thì cũng xin linh hồn Dung lượng thứ, đừng giận mà tự tử thêm lần nữa! Thông thường trong cơn quẩn trí tột cùng, người ta mới tự tử còn Dung có thời gian lượm củi, nhen lửa, thổi bếp, múc nước vào nồi, chầm chậm chờ nước sôi, chầm chậm đưa mình vào cái chết! Trong quá trình đó, chắc Dung nhận dạng được trạng thái trung gian sống chết ra sao. Khi có ai tự tử, tôi thường lân la hỏi chuyện và nhận thấy hầu hết họ đều có một tuổi thơ cô độc, thiếu tình thương chăm sóc của gia đình. Họ hoàn toàn bàng quang trước cái chết, xem nó như một sự kết thúc tuyệt đối lúc già nua. Không thể chờ đợi lâu như vậy, họ đã tự xử bản thân với mong ước sớm được giải thoát khổ đau. Đó là sai lầm lớn nhất của người tự tử. Người tự tử thực ra không phải chủ động mà họ chính là người thụ động chết! Cái chết đối với người tự tử là sự bất lực, là kết cục một chuỗi xung đột ngoại cảnh, là sự khởi đầu một bại vong nội tâm. Padmasambhava cho rằng con người có hai loại chết, chết phi thời và chết do mạng thọ chấm dứt. Chết phi thời nghĩa là chết bất đắc kỳ, có thể tránh được do con người biết trước thông qua nhiều dấu hiệu như chiêm mộng, hoặc quan sát bóng mình lúc bình minh hay đêm trăng non! Chết thọ mạng tựa hồ ngọn đèn đến lúc cạn dầu đã vào lúc con người phải ra đi. Tuy nhiên, nhờ công đức tu luyện hay với một tinh thần tuyệt đỉnh anh minh, người chết thọ mạng có thể an bình lựa chọn ngày giờ để chết hay kéo dài thêm sự sống của mình. Tôi nhớ đến cái chết của ông Mai, người trưởng họ Nguyễn Mậu hiền từ, hơn 3 tháng trời đội hương trên đầu đứng cầu nguyện tổ tiên trước bàn thờ cứu vớt tuổi thơ tôi qua cơn bạo bệnh. Đêm hôm ấy mùa hạ tháng 6, qua những ngày im lìm trên giường, ông tỉnh dậy bảo con cháu ông sẽ ra đi vào rạng sáng, lúc 12 giờ 30 phút ngày hôm sau. Quả nhiên vào thời khắc ấy, ông Mai bình an trút hơi thở cuối cùng. Mấy năm sau, đêm mùa đông lạnh giá, ông Ngoại tôi, vị trưởng tộc Nguyễn Đức cũng báo trước cho Mẹ và các cậu tôi thời điểm ông từ biệt cuộc đời sau khi ghi âm xong lời trăng trối. Không có tấm lòng của hai người này, tôi không có tuổi thơ. Không có cuộc đời của hai người này, làng tôi khó lòng tìm ra người đáng kính! Họ mới là người an nhiên chấp nhận sinh tử, chủ động đón nhận cái chết như một thứ tự do tất yếu. Đối với người Tạng, cái chết định trước không có gì lạ. Thầy của ngài Dilgo Khyentse Rinpoche thiền định 3 ngày, nín thở đến ngày thứ ba mới chết khi nghe đệ tự báo đó là ngày tốt! Nhưng cái chết nào đâu chỉ là hiện tượng chỉ xảy ra một lần duy nhất trong cuộc đời. Bởi con người hay bất cứ loài tự nhiên nào đều tồn tại cái chết và sự sống trong mọi cấp độ sinh tồn. Vấn đề là làm sao con người có thể thoát khỏi những cấp độ sinh tồn hàm chứa cái chết và sự sống ấy. Bài toán nan giải và bí hiểm này được người Tây Tạng trả lời qua Bardo Thodol! Hành trình của cái chết trải qua các giai đoạn chủ yếu bắt đầu từ chổ thân xác, cảm giác bên trong lẫn bên ngoài và tư tưởng lụi tàn cho cái bản chất cái tâm - ánh sáng cơ bản xuất hiện; tiếp đến ánh sáng bản tâm ấy sẽ phóng chiếu ra nhiều dạng âm thanh, màu sắc khác nhau; cuối cùng là tâm thức người chết tỉnh dậy đi vào hay thoát ra cõi tái sinh. Bậc thượng thừa tu luyện thành công giáo lý Dzogchen chết nhẹ “như một hài nhi mới sinh, kẻ tu hành sơ đẳng chết không vương vấn giống “hành khất trên đường”. Đối với người bình thường cần có phép di chuyển tâm nhờ sự độ trì của Đức Phật Adidà, Tạng ngữ gọi là phowa, mới giải thoát thấu đáo. Ngay khi hấp hối, người chết bắt đầu được chuyển di tâm thức theo lời thơ của Padmasambhava vang lên trên môi vị Lama hướng dẫn mình chết. Bây giờ, khi giai đoạn trung ấm chết bắt đầu xuất hiện cho tôi Tôi sẽ từ bỏ mọi bám víu, khát khao và quyến luyến Thể nhập không tán loạn vào ý thức sáng suốt về giáo lý Và chiếu tâm thức tôi vào khoảng không gian cử tự tính vô sanh Khi tôi từ bỏ hợp thể máu thịt này Tôi biết nó chỉ là một ảo ảnh phù du! Con người cảm nhận trọng lượng cơ thể của mình nặng hơn bình thường, môi và miệng khô, nhiệt lượng sống rời bỏ thân thể, tâm trí tối sầm cho đến lúc bất tỉnh đó cũng là lúc cái chết đến gần. Cái chết không phải là một lưỡi dao cắt đứt tức thì cuộc sống mà nó diễn ra chậm rãi trôi qua những trạng thái trung gian khác nhau. Khi lực sống lìa tan thân xác, tâm trí người chết sẽ đi vào vùng ánh sáng mờ trắng, ánh sáng mờ ảo này chuyển sang màu phớt đỏ, tâm trí bao bọc trong cõi tăm tối và con người bất tỉnh. Bardo Thodol gọi trạng thái tâm thức ấy là “lúc hơi thở bên ngoài đã ngừng nhưng hơi thở bên trong chưa chấm dứt”. Đi qua trạng thái bất tỉnh, tâm trí sẽ rơi vào vùng ánh sáng nguyên thuỷ rực rỡ như bầu trời trong suốt trên dãy Himalaya. Nếu ai nhận biết ánh sáng này sẽ được giải thoát, còn không sẽ tồn tại trong trạng thái trung gian. Đứng ở đầu giường người bệnh hay người hấp hối, vị Lama bắt đầu đọc Bardo Thodol liên tục trong 7 ngày hoặc nhanh hơn thế để giúp người chết thăng tiến đến cõi trung gian giải thoát. Phương pháp ấy gọi là giải thoát khỏi trạng thái trung gian bằng tính Nghe! “Hỡi người con cao quý- Vị lama đọc tên người chết ngay khi sự hô hấp gần chấm dứt về mặt sinh học - giờ đây hơi thở anh sắp ngừng, đây chính là lúc anh phải tìm một con đường vì ánh sáng cơ bản của trạng thái trung gian đầu tiên sắp xuất hiện. Vị Lama của anh đã chỉ cho anh ánh sáng ấy, đó là Chân Lý tự nó trống rỗng và trần trụi như Hư không vô biên và không có tâm điểm, trong sáng. Đó là trí tuệ tinh nguyên không tỳ vết. Đây là lúc phải nhận biết nó. Vậy anh hãy ở trong đó. Tôi cũng sẽ giúp anh phát hiện nó! Người chết, trong giây phút ấy, phải nhớ lại những việc làm tốt đẹp của đời mình để có thể đón nhận cái chết một cách thanh thản nhẹ nhàng với nụ cười dịu nở trên môi. Do đó khi trong nhà có người chết, thân nhân nên rời khỏi phòng để nhường lại sự tĩnh lặng cho người chết chuyển tiếp sang thế giới bên kia được thuận lợi. Một cái chết an bài là khi nhiệt độ giảm dần từ chân lên, đọng lại ở vùng ngực. Ngược lại, người chết vô cùng đau khổ, chồm lên hoặc ngã ra là do nhiệt độ mất dần từ phần đầu toả xuống ngực! Quan sát trạng thái chết như vậy, vị Lama sẽ biết được mình phải hướng dẫn người chết giải thoát theo con đường nào! Chờ cho sự hô hấp ngừng hẳn, người ta lật người chết nằm nghiêng về phía tay phải trong tư thế một con sư tử nhằm ngăn cản hơi thở của đời sống đi vào đường kinh mạch, gây rối loạn tâm trí. Bị nén chặt hai động mạch cho đến lúc nó ngừng đập và người chết sẽ xuất hiện trong trạng thái như ngủ. Khi hơi thở đời sống đi vào hai đường kinh trung tâm màu phơn phớt đỏ ở trong và nhờ trắng ở ngoài chạy dọc từ vị trí phần dưới cách rốn ba ngón tay lên tới đỉnh sọ và không thể quay lại hai đường kinh ở hai bên, lúc ấy nó phải đi qua cửa Brahma - huyệt đạo đỉnh sọ - cửa tới cõi giải thoát. Đó là lúc vị Lama kề miệng sát người chết hướng dẫn cho người chết biết giai đoạn trung gian thứ nhất xuất hiện gọi là sự chiếu sáng chân lý tự nó, sự nhận biết Thân Hư Không xuất hiện tinh anh trong tâm trí của người chết. Giai đoạn hô hấp bên ngoài chấm dứt đến sự hô hấp bên trong chấm dứt, hơi thở đời sống đi vào đường kinh trung tâm, đó là lúc vía hay ý thức người chết bay đi! “Hỡi người con cao quý, hãy nghe đây! Giờ nguồn sáng, ánh sáng thanh khiết của chân lý tự nó, hoàn toàn thanh tịnh sẽ xuất hiện cho anh. Anh phải nhận biết nó. Hỡi người con cao quý, sự nhận biết hiện tại của anh về tinh hoa của nó chính là cái Hư không - (sự mở rộng hoàn toàn tâm trí - TG) chói sáng ấy. Nó không có đặc trưng nào để làm điểm tựa. Nó hoàn toàn Hư không, thuần khiết. đây chính là chân lý tự nó, đây là khía cảnh nữ (âm) của Đức Phật nguyên thủy Samantabhadhri. Tâm trí anh không chỉ là rỗng không, nó còn là sự hiểu biết vô hạn, rực rỡ, sáng chói. Và sự hiểu biết ấy là khía cạnh nam (dương)của Đức Phật nguyên thủy Samantabhadra. Tâm trí anh không chứa đựng một cái gì, vậy một mặt nó là cái rỗng không và mặt khác do nó biết tất cả, chính nó là sự hiểu biết. Sự hợp nhất của cái rỗng không với sự sáng suốt chính là Thân Hư Không, là Pháp Thân của các Đức Phật!” Giai đoạn này sẽ kéo dài với những người có trình độ tâm linh cao. Người thấp kém, khoảnh khắc tuyệt vời kia chỉ diễn ra chưa bằng thời gian một sợi tóc rụng dưới lưỡi kéo! Các mật chú dạy rằng, người ta thường chìm vào cơn mê trong khoảng ba ngày nên cần phải hướng dẫn người chết nhận biết được ánh sáng thuần khiết của tâm trí. Nếu không nhận biết ánh sáng cơ bản ấy, người chết sẽ rơi vào trạng thái thứ hai gọi là thân nhuyễn thanh tịnh, tâm trí phân vân không biết mình chết hay sống. Khi nhận được lời chỉ dạy, người chết sẽ được giải thoát trong khi những ảo tưởng về nghiệp chưa kịp xuất hiện. Trong trường hợp thất bại, trạng thái trung gian khác sẽ đến với sự xuất hiện của Chân lý tự nó gắn liền với những ảo ảnh do nghiệp sinh ra. Hỡi người con cao quý, giờ đây anh sắp trải qua ba trạng thái trung gian của cái chết, của Chân lý tự nói và của cái trở thành. Cho đến ngày hôm qua anh vẫn còn ở trong Bardo của cái chết và mặc dù nguồn sáng của chân lý tự nó đã xuất hiện mà anh đã không nhận biết. Vì vậy anh phải lang thang nơi đây. Nhưng bây giờ anh sắp trải qua trạng thái trung gian của Chân lý tự nó và của cái trở thành. Đứng phân tán tư tưởng, hãy nhận biết tất cả những gì tôi chỉ cho anh. Hỡi người con cao quý, cái được gọi là cái chết đã đến với anh. Anh phải đi khỏi thế giới này. Nhưng điều này không chỉ đến với riêng anh. Đó là số phận của tất cả. Đừng bám víu vào cuộc sống này. Thậm chí nếu anh muốn bám víu anh cũng không có khả năng để ở lại đây. Vì không có khả năng ở lại đây, nơi mặt đất đã sinh ra và mòn vẹt bóng đời nên từ thời nguyên thuỷ, khi có ai chết, người Trung Quốc đục thủng mái nhà cho linh hồn thoát ra khi chết và cho đến hôm nay, trong những ngôi làng châu Âu, ở các nước có nền kinh tế và khoa học kỷ thuật phát triển như Pháp, Đức, Anh, người ta còn tục mở cửa sổ cho linh hồn ra đi. Dù không có khả năng ở lại nhưng linh hồn có thể trở về thăm lại xác xưa của mình. Bởi vậy, người Iroquai từ xa xưa đã đục cái lỗ trên xác chết và ngày nay người ta vẫn đục lỗ trên quan tài cho linh hồn buồn bã ghé thăm. Người Algonquin ở Bắc Mỹ cũng giống như dân tộc Katu trên dãy Trường Sơn, cho rằng linh hồn như con dế, khi chết hay ngủ bay lang thang khắp nơi gom nhặt những câu chuyện mang về kể lại cho xác thân nghe! Trong những đêm giá lạnh Bussum Zuid, từ căn phòng khách sạn Bastion, qua cửa sổ tôi nhìn thấy đèn nến mờ sáng mưa tuyết trước nhiều ngôi mộ nằm bên kia vườn nghĩa địa. Có ánh sáng ấy soi đường soi tên tuổi, linh hồn người chết, dù có lưu lạc khuya khoắt cũng được trở về bình yên! Như núi đồi chăm nom hướng chảy dòng sông, như người mẹ lìa đời vẫn dõi theo chân con, Tây Tạng không bỏ mặc linh hồn ra đi cô quạnh, đôi khi lại sa ngã trên bước đường lang thang nên người sống phải có bổn phận hướng dẫn cho linh hồn đi đến nơi về đến chốn bằng phương pháp thiền định. Theo Bardo Thodol, tâm linh người chết nhạy cảm gấp bảy lần người sống nên vị Lama không chỉ bày cách cho người chết tham thiền mà còn nhập vào cuộc thiền định, liên lạc với linh hồn người chết qua việc đọc cho người chết nghe những lời giáo huấn. Đây là lúc người chết được nghe dạy về “cái nhìn sâu sắc vĩ đại trong trạng thái trung gian của Chân lý tự nó”. Người chết ra đi trong tiếng khóc than của người thân với bao nhiêu nỗi lo sợ nên vị lama phải dẫn dắt họ gặp 7 linh ảnh các vị thần yên tĩnh, đầu tiên là linh ảnh của Vairocana. “Hỡi người con cao quý, đã ba ngày rưỡi anh ở trong trạng thái vô thức. Giờ đây nhả ra khỏi trạng thái ấy là những suy nghĩ của anh: Cái gì đã xảy ra với tôi?. Vì vậy anh phải nhận biết rằng, anh đang ở trong trạng thái trung gian. Lúc ấy vòng luân hồi bị đảo ngược và mọi vật xuất hiện dưới dạng ánh sáng và thân của các thần linh. Đối với anh các bầu trời đều có màu lam nhạt. Linh ảnh của Vairocana, vị Phật Tối cao, giờ đây xuất hiện trước anh. ở cõi trời trung tâm gọi là nơi phân bố các hạt ánh sáng. Người ngự trên ngai sư tử, màu trắng, tay cầm bánh xe và ôm Phật mẫu Akasadhatesvari - nữ chúa tể cõi trời. Miệng họ gắn liền nhau. Từ tim của Đức Vairocana và Phật mẫu phát ra ánh sáng, ánh sáng ấy đập vào anh một cách đột ngột khiến mắt anh không thể chịu đựng sự chói lọi của nó. Đi với ánh sáng này là một ánh sáng của thế giới các vị thần, trắng mờ đập vào anh... Đừng đi theo ánh sáng mờ của thế giới các vị thần mầu trắng đục, đừng ham muốn nó, đừng bám víu lấy nó! Nếu anh bám víu lấy nó, anh sẽ lang thang trong những trạng thái thần linh, xoay vòng trong 6 cõi ! Toàn cảnh tu viện Tashilhunpo Lễ cúng sáng trong điện thờ một vị Lama Sau Vairocana, người chết được vị Lama dẫn gặp linh ảnh của Vajrasava Aksobhya, Ratnasambhava, Đức Amitabha (A-di-đà), Đức Amoghasiddhi, năm gia đình của chư Phật, các vị thần trí tuệ. Họ những vị thần hiền hòa có thể mang lại sự giải thoát tức khắc cho người chết trong ánh sáng trí tuệ và linh ảnh về niềm tin tình thương. Hỡi người con cao quý, hãy chú ý lắng nghe! - Vị Lama đọc tiếp lời dẫn khi các linh ảnh thần hiền hòa chấm dứt mà người chết vẫn chưa được giải thoát - Vừa qua anh đã không đạt được cái nhìn sâu sắc trong khi xuất hiện trạng thái trung gian của những vị thần yên tĩnh và anh phải lang thang. Giờ đây là ngày thứ tám, sẽ xuất hiện những đoàn thần linh uống máu như Phật Heruka, Vajra-Heruka, Ratna-Heruka, Padma Heruka, Karma-Hekura và linh ảnh 8 vị mamo cùng các nữ thần khác. Các vị thần giận dữ được miêu tả vô cùng khủng khiếp còn hơn cả tranh siêu thực Dali!. “Hỡi người con cao quý! Đức Phật Heruka vinh quang sẽ xuất hiện trước anh, thân mầu nâu sẫm, có ba đầu, sáu tay và bốn chân. Gương mặt của bên phải màu trắng, bên trái màu đỏ và ở giữa màu nâu sẫm. Thân ngài được trang sức bằng những con rắn quấn quanh và những cái đầu lâu mới bị chặt lìa cổ. Phật mẫu Krodhesvari ôm lấy thân ngài, bàn tay phải của bà ôm vòng sau gáy ngài, bàn tay trái dâng lên miệng ngài chiếc sọ người đựng đầy máu!" Do lo lắng và sợ hãi, người chết còn phải lang thang trong các linh ảnh nên vị Lama sẽ tiếp tục đọc giáo huấn thêm 10 ngày nữa đối với những ai chưa đạt đến cái nhìn sâu sắc chân lý. “Hỡi người con cao quý, hãy chú ý lắng nghe và ghi nhớ điều này! Những thân của các sinh linh trong địa ngục, của các vị thần và tất cả chúng sinh trong trạng thái trung gian đều phát sinh tự nhiên. Hơn nữa, vì anh không nhận biết trong trạng thái trung gian của chân lý tự nó bản chất thật của các linh ảnh khủng khiếp, nên đã 24 ngày rưỡi trôi qua mà anh vẫn sợ hãi và ngất đi”. Trong giai đoạn trung gian của cái trở thành này, người chết được hướng dẫn nhập linh hồn mình vào những thế giới cao quý bằng con mắt thanh tịnh thiêng liêng Đã đi qua các trạng thái trung gian mà vẫn không được giải thoát, người chết hãy bình tâm bởi các vị Lama không bỏ mặc họ. Người chết vẫn được giải thích cặn kẻ về cách thiền định ánh sáng theo linh ảnh các vị thần để giải thoát ra khỏi kiếp luân hồi. Linh hồn người chết sẽ được giải thoát hay không tuỳ thuộc vào nghiệp của họ khi còn tại thế! Thậm chí nếu chưa đến lúc phải chết, linh hồn người chết sẽ nhập xác trở về dương thế nói theo kinh nghiệm cận tử của người thoát chết. Ánh sáng. Sương mù. Cây cầu. Dòng sông. Bóng người bay liệng . Gặp gỡ người thân. Thấy địa ngục vật vờ tuyệt vọng. Đắm mình trong thanh tịnh trong suốt. Đó là những cảnh vật mà người có kinh nghiệm cận tử - thoát khỏi cái chết trở về cuộc sống kể lại. Tôi không hiểu sao, nội dung chuyện kể của người thoát chết ở cái làng nghèo xa xôi của tôi lại giống người phương Tây kể trong tác phẩm Trở về cõi chết đến vậy. Phải chăng, kinh nghiệm cận tử qua những câu chuyện kể hư ảo chính là những hình ảnh về “một cõi sống thật” Padmasambhava trình thuật trong Bardo Thodol! Nghiệp sáng tạo như một nghệ sỹ. Nghiệp tạo hình như một vũ sư! Nhưng dù ác hay thiện, hãy yên tâm, lúc thực sự không thể trở về cõi dương, các vị Lama sẽ đóng cánh cửa tái sinh lại để tiếp dẫn dắt linh hồn họ đến tận cõi sáng niết bàn. Khi đã làm hết mình nhưng do người chết là đẳng cấp quá thấp hèn, vị lama, một lần nữa không bỏ mặc mà kiên nhẫn hướng dẫn tâm trí người chết chọn lựa cửa sinh để đầu thai”. Hỡi người con cao quý, nếu nghiệp quả của anh bắt buộc anh phải đi vào bụng me, ta sẽ cho anh một hướng dẫn khác để chọn cửa đầu thai. Hãy nghe đây! Dù anh thấy xuất hiện bất kỳ cửa đầu thai nào, cũng đừng vào. Do anh có được một quyền năng sáng suốt nào đó, anh sẽ lần lượt nhận biết tất cả những nơi tái sinh. Vậy anh hãy lựa chọn cẩn thận nơi anh sẽ đến... Vì lý do nghiệp quả của anh, anh có thể nhầm lẫn, khi thấy một bụng mẹ thanh tịnh, anh lại cho là bất tịnh và ngược lại. Vậy do có nguy cơ nhầm lẫn nên lúc ấy có một lời khuyên rất quan trọng. Hãy hành động theo cách sau đây! Ngay khi anh thấy mở ra một cánh cửa đầu thai thanh tịnh, đừng cảm nhận một sự gắn bó nào, và khi thấy một cửa đầu thai bất tịnh cũng đừng cảm nhận chán ghét, anh phải ở trong trạng thái của tâm Đại bình đẵng”! Ôi! Mạnh Tử! Khi còn sống ngài từng đọc Bardo Thodol nên mới hay nhân nghĩa lễ trí tín, phi do ngoại thược ngã dã, ngã cố hữu chi giả! Những gốc của tính thiện ấy quả không phải từ bên ngoài hun đúc cho ta, ta vốn đã có rồi vậy nhờ trước khi đi vào lòng mẹ, linh hồn đã nghe lời giáo huấn kia! Giai đoạn trung gian tái sinh vô cùng phức tạp. Đến đây là ngã rẽ giữa Phật và hữu tình. Trong một giây, phân cách, trong một giây, toàn giác. Chỉ một giây phân cách nhưng người ta có thể phải giúp đỡ người chết tái sinh trong vòng 49 ngày, thậm chí là 100 năm sau khi chết! Bardo Thodol đã chỉ ra 4 cửa sinh ra con người. Noãn sinh-sinh bằng trứng. Thai sinh-sinh bằng bào thai. Hoá sinh-sinh bằng phép lạ. Thấp sinh-sinh ở nơi ẩm thấp tối tăm. Bốn cửa sinh ra loài người trong Bardo Thodol có khác gì “lịch sử tiến hoá của bào thai người trong bụng mẹ là sự lặp lại bằng thu ngắn lịch sử hàng triệu năm tiến hoá vật chất của các tổ tiên động vật chúng ta, bắt đầu bằng côn trùng”. Không dừng lại ở đó, Engel còn nói tiếp “con vật có xương sống mà trong nó cõi tự nhiên đi đến chỗ ý thức được mình”. Khi linh hồn bước vào cõi giao hợp của mẹ cha và đi ra cuộc đời theo một trong bốn cửa sinh dưới dạng hình tướng con người hoặc các loài thú. Nếu là người nam sẽ cảm nhận sự thù hận đối với người cha và một sự hấp dẫn mang tính ghen tuông với người mẹ. Nếu là người nữ sẽ có một sự cuốn hút ham muốn đối với người cha và xuất hiện tình cảm ghen thù với người mẹ. Trong quán trà bơ của Rigpaba, không chỉ có tôi mà hình như còn có một linh hồn phương Tây cũng đang lắng nghe lời giảng huyền học của Rigpaba. Người đó chính là nhà Phân tâm học Sigmund Freud. Bởi, hoá ra lý thuyết tình dục gắn liền với mặc cảm Oedipe làm chấn động dư luận, được xem là một phát hiện vĩ đại của các nhà Phân tâm học trong thế kỷ 20 đã sống trong tư duy xứ Tạng hàng ngàn năm qua dưới dạng một en-sof, một thứ tư duy không quan niệm được do đại sư Padmasambhava thu gom vào trong văn bản quý báu Bardo Thodol. Sách dạy về cái chết lại nghe như dạy người sống. Tôi cảm thấy giữa cuốn sách của Tây Tạng và của người Ai cập khác nhau hoàn toàn. Sách về người chết của Ai cập là ghi chép những lời khấn thiêng được chôn theo người chết trong mộ để bào chữa cho kẻ chết vào ngày phán xử và cầu xin các thần linh giúp họ vượt qua địa ngục, đến được cõi ánh sáng của Mặt trời vĩnh hằng: Lời khấn để đi ra ánh sáng. Cả hai đều hướng dẫn con người đi ra ánh sáng nhưng... Tôi chợt giật mình như người học trò trong Nghi lễ huyền bí của Hy lạp, sau khi được dẫn qua hành lang tối tăm hơn mê cung được bao vây giữa những âm thanh khủng khiếp bước vào căn phòng tế lễ, mắt chợt bùng lên ánh sáng cùng với lời kêu gọi của người thầy giáo sĩ “Hãy nhìn ánh sáng, con ta! Nó chính là bản tính và đời sống của con!” Epoteria! Tôi đã nhận ra một sự sáng rõ bất thình lình từ những lời mật điển Bardo Thodol! Bằng ánh mắt thanh tịnh, xin hãy trở lại con đường mà các vị Lama hướng dẫn người chết sau khi tắt thở, bạn sẽ thấy đây là những dòng giáo huấn siêu việt về cuộc sống và sự tu luyện thiền định bởi tính Nghe! Cái nhìn sâu sắc chính là sự nhận biết không qua một trạng thái trung gian nào cả, nó là cảm nhận trực giác ánh sáng tâm trí. Có hai phương pháp để đạt đến điều đó là khi ánh sáng được cảm nhận như là đức Phật A di đà và ánh sáng được sống với tư cách là thần Yi dam. Cái quan trọng của Dzogchen là sự hiểu. Hiểu còn quan trọng hơn thiền định. Nếu không thấy cái hiểu không thanh tịnh và đúng thì thiền định hay hạnh cũng không công. Nên là một hành giả, ngay từ đầu phải dùng thời gian khảo sát cái thấy hiểu của mình, hiểu cho được cái thấy hiểu theo kinh nghiệm trực tiếp. Chính vì vậy Thân Hư Không - theo lời giáo huấn trong trạng thái trung gian ban đầu - chính là tâm trí - nguồn ánh sáng cơ bản mà nếu ai lĩnh hội được sẽ giải thoát. “ Hãy nhận biết tinh hoa của trí tuệ, cái tinh hoa thanh khiết như Đức Phật. Anh phải nhìn tâm trí của mình như vậy”. Sự nhận biết ánh sáng cơ bản ấy chính là ánh sáng của tâm bản nhiên gọi là tính giác Rigpa trong bản thân chúng ta. Rigpa là “tự tính vô vi hiện diện suốt trong quá trình sinh tử và Niết bàn” nhưng con người không nhận ra như Padmasambhava khẳng định”. Tất cả hữu tình đã sống và chết vô số lần. Chúng đã nhiều lần kinh nghiệm ánh sáng khôn tả này. Nhưng vì bị bóng tối vô minh làm mờ mịt, chúng vẫn lang thang bất tận trong sinh tử”. Giây phút đốn ngộ ánh sáng cơ bản đó khác gì Blake “thấy vũ trụ trong một hạt cát, thấy thiên đường trong một đoá hoa, nắm vô biên trong lòng tay bạn, và vĩnh cửu rút lại trong một giờ”! Đối với những kẻ tâm linh chưa thấu đạt chân lý do trí tuệ mang lại, nhất định sẽ rơi vào chốn mê lầm thiện ác được biểu hiện qua các linh ảnh những vị thần hiền hòa và giận dữ. Thiện ác là hai mặt đối lập một thể thống nhất, là bản chất của đời sống, không có cái xấu thì thế giới này không thể tốt đẹp vì vậy đây là chân lý tự nó vốn có trong cõi ta bà khách quan, nó ngụ cư trong đời sống của mỗi cá nhân. Vũ điệu của các Lama ở tu viện Tashilhunpo Không giải thoát vào thế giới Stongpanyid - Hư không ở giai đoạn trung gian đầu tiên, người chết phải đi từ sự yên tĩnh dịu dàng, vượt qua những hiểm nguy, niềm kinh hãi hoảng loạn tâm trí bằng cái nhìn sâu sắc mà Tạng ngữ gọi là “ngosporod” - “mặt đối mặt” nhận biết linh ảnh các vị thần hiền hoà và giận giữ ấy chính là quá trình người chết “nhìn tận mặt” bản thể của mình được biểu hiện qua hình tượng thần Yidam có hình dạng hung dữ nhưng trong lòng ẩn chứa từ bi bao trùm giống bản chất hai mặt thiện ác trong một con người! “Hỡi người con cao quý, hãy thiền định về Yidam của anh, với một khát vọng mạnh mẽ, hãy hoàn toàn tin tưởng vào Yidam của mình. Vị này xuất hiện nhưng không có một tính chất riêng biệt nào. Hãy nhìn nhận rằng vị thần này hoàn toàn không có tính vật chất”. “Hỡi người con cao quý, vậy chớ nên sợ hãi những vị thần cao lớn Yên tĩnh và Giận dữ, dù cho họ có to lớn như bầu trời. Đừng sợ hãi chút nào những vị thần trung bình to như núi Merou, đừng sợ các vị thần nhỏ cao hơn anh 18 lần. Tất cả những hiện tượng và những khả năng biểu lộ đều xuất hiện trước anh dưới dạng thân các vị thần và của ánh sáng. Hãy nhận biết họ như là sự phóng chiếu của anh đều hòa nhập thành Cái Một” Trước khi giả biệt cuộc đời, thánh thi Tây Tạng là Milarepa cũng để lại lời di chúc cho đệ tử, rằng hiện tại, quá khứ và tương lai, tất cả chỉ là Cái Một. Ý thức nhất nguyên này là sự thấu suốt cơ bản nguồn gốc và sự vận động phát triển của thế giới, trong âm có dương trong dương có âm, thế giới ra đời theo con đường lưỡng nghi sinh tứ tượng tứ tượng sinh bát quái như Dịch dạy. Sự hợp nhất này sẽ giúp cho người tu hành và kẻ ngoại đạo nhìn rõ bản lai diện mục, nắm bắt hình bóng tha nhân của mình để nhìn hiện hữu một cách tự do và khoa học. “Hỡi người con cao quý, hãy nhận biết rằng tất cả những hiện tượng mà anh cảm nhận, tất cả những dáng vẽ khủng khiếp, đều là sự phóng chiếu của chính anh. Hãy nhận biết rằng, ánh sáng trong trẻo là sự hiểu biết của anh, là sự tỏa sáng của chính anh” con người sẽ đi lại không ngần ngại “qua núi Merou, qua những ngôi nhà, những cánh đồng, những mõm đá, những núi đồi mà không hề bị cản trở”. Đi lại không ngần ngại vượt qua những bến bờ thực ảo, phải trái, ác thiện, sinh tử, kể cả niết bàn cũng là hạt bụi trống rỗng. Sự vượt qua này đồng nghĩa với sự giải thoát triệt để. Đóng lại cánh cửa đầu thai. Chặn đứng ý thức luân hồi. Chặt đứt mọi cám dỗ. Phá tan mọi u mê lầm lạc. Đạp đổ những biểu tượng. Con người chỉ thực sự được giải phóng khi đặt bước chân mình vào con đường dẫn đến những lâu đài bằng đá quý và những vườn địa đàng của trí tuệ bằng cách nhận thức đúng đắn và gạt bỏ “nỗi sợ hãi trong trạng thái trung gian, những lời nói cơ bản đối với trạng thái trung gian, giải thoát khỏi con đường hiểm trở của trạng thái trung gian, giải thoát bằng cách áp dụng những Mật chú trên Thi hài, giải thoát khỏi ngũ uẩn và nghi thức để giải thoát khỏi những xu hướng vô ý thức”. Những lời lẽ này cuối cùng của Bardo Thodol không những mang lại bản sắc riêng biệt của dòng Mật giáo mà nó còn mở ra một chân trời mới lạ trong thế giới Phật giáo và triết học cách đây hơn 12 thế kỷ và cho đến hôm nay, nhân loại vẫn hằng tận tụy vươn đến. Bardo Thodol không chôn theo người chết mà đọc cho người chết nghe. Vậy khi đọc lên như vậy, chắc rằng bản thân người sống cũng phải lĩnh hội những bí ẩn mật khải sâu xa trong cuốn sách ấy. Bardo Thodol thực sự không đơn thuần là cuốn sách dạy chết hay dành cho người chết mà nó là sự trình diễn các phương pháp, giúp cho con người, có đạo hay không có đạo biết lựa chọn phương cách sống trong các giai đoạn của đời người, trong từng satna dịch biến trôi qua. Bởi các thời chuyển tiếp khác nhau, các trạng thái chuyển tiếp kia có khác gì tâm trạng khác nhau trong cuộc sống, lúc thức tỉnh, khi chiêm bao, lúc nhập sâu vào thiền định, khi mang kinh nghiệm về cái chết, nhìn vào kinh nghiệm bản thân thực tại cuộc sống. Đó phải chăng là sự bí mật của đời sống được miêu tả dưới khuôn mặt cái chết trong Bardo Thodol. Khi Bardo đời này xuất hiện Tôi sẽ từ bỏ lười biếng vì cuộc đời ngăn ngủi Đi vào con đường thấy-nghe-nghĩ-quán tưởng không xao lãng Lấy tâm và nhận thức làm con đường, để thực hiện ba thân: Tâm giác ngộ Bây giờ một khi tôi đã được thân người Không có thì giờ cho tâm lang thang trên đường Padmasambhava! Tâm tôi chỉ là miếng dưa cải ngái mùi mỡ trâu. Làm sao đây cho tiếng khóc oa oa hồn nhiên của chị tôi và thân xác đớn đau này hòa tan làm một cho tôi không có thì giờ cho tâm lang thang trên đường rải đầy chiêm mộng và hiện thực sinh tử! Ngoài tôi ra, còn không biết bao nhiêu người cùng kêu lên với Ngài. Thấu hiểu, Padmasambhava dành một phần cho những ai không biết thiền định, dạy họ cách giải thoát bằng ý nghĩ đến Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Thiền định về Tình Thương! Tôi không là người Tây Tạng dành từng satna cầm lấy tràng hạt và niệm chú bằng cách quán tưởng vị Bồ Tát đầy quyền năng. Tôi chỉ thiền định về tình thương. Tình thương là một thực tại sống động. Người chết nghe, cũng bình an ra đi. Người sống nghe lấy đó mà tu tập! Chết không còn là điều tuyệt vọng. Sống không còn là giới hạn. Trí tuệ và Tình yêu thương là con đường giải thoát tối thượng, đồng nghĩa với sự bất tử. Có giáo lý nào, có cuốn sách nào vừa hữu ích cho người chết lẫn người sống như vậy không. Chỉ một cuốn sách, Tây Tạng vượt qua rào cản của ý thức, đi vào những vết thẳm tâm linh bằng phương pháp tâm lý tinh tế mà ngày nay nhân loại quen gọi là “tâm lý học chiều sâu”. Vậy thì hỡi người con cao quý! Dù bạn đang ngồi trước ngọn lửa hong tóc khô hay nằm nghe nắng tàn phai mái nhà, nhìn lá vàng bay qua trời bom đạn, buồn thăm dưới vực thẳm, vinh quang trên đỉnh hạnh phúc, bạn hãy đọc tên mình và đồng loại trong tình yêu thương! Vị âm công và tục điểu táng K hi bước vào quán trà bơ bên cổng chùa Đại Chiêu, tôi không hề biết mình sẽ được gặp một vị âm công, người có cái nghề bình thường trong mắt Tây Tạng nhưng đối với thế giới là cả một sự kinh hoàng: Nghề xẻ xác người! Xẻ xác người cho chim ăn theo tục điểu táng! Quán trà ở Lhasa không có nhạc. Tất cả mọi cảm giác lắng lại trong thứ nước ngái ngất màu bơ. Trên những chiếc ghế gỗ lót nệm tím, khách hàng nhẩn nha uống trà. Thế giới này cũng mộc mạc như cái bàn gỗ thấp và đời họ là những bát trà bơ, họ uống trà bơ như mỗi ngày uống cạn đời mình. Tôi muốn đi nhà vệ sinh nhưng bát trà chưa cạn. Nhớ đến căn nhà vệ sinh uớt luớt thướt vải che thay cửa ngoài phố lạnh, tôi ớn ang không dám trở lại. Tất cả mọi khung cửa ở Tây Tạng đều che rèm vải thay gỗ. Vải mềm che gió lạnh và trang trí dễ dàng các màu sắc mỹ thuật. Mạnh dạn tôi hỏi và được ông lão chủ quán hướng dẫn ra phía sau nhà. Đi ngang qua căn phòng nhỏ, bước chân tê lạnh của tôi cắm chặt xuống nền đá. Trên tường, ánh sáng từ những gam màu sống động của một bức tranh thanka làm tôi rùng mình. Bức tranh miêu tả một người đàn ông cầm dao múa trên một xác chết. Lạ lùng! Khuôn mặt người đao phủ rất nhẫn nại và chăm chú đường dao nhưng khuôn mặt xác chết lại mỉm cười! Phía sau lưng người ấy là bầy chim mỏ dài tung toé máu tươi! Đường dao trong tranh sà xuống chém ngang đôi chân và tôi không thể nào cất bước đi tiếp. Phía sau lưng mình, ông lão chủ quán cũng đang đứng nhìn tôi và bức tranh. - Đó là ta - Ông lão thầm thì. Giọng khuya khoắt tuổi già nhưng vẫn ánh lên bao niềm vui kỳ dị - Người đàn ông múa dao ấy là ta đấy! - Ông yêu nghề đào phủ đến mức phải vẽ tranh... - Không! Ta không phải là đao phủ. Ta là một âm công còn sót lại ở thành Lhasa này! - Âm công! Ông là một âm công! - Tôi rú lên trong căn phòng mờ tối - Thật sao? Ông là một âm công! Không trả lời, ông lão bước đến đưa đôi bàn tay sờ lên bức tranh với dáng vẻ đầy nuối tiếc. Từ trong khóe mắt, nước mắt bịn rịn dâng lên tràn đầy. Không nghi ngờ gì nữa, trước mắt tôi chính là một vị âm công, người tạo nên những cuộc tang điểu táng hoành tráng và kinh hoàng nhất trong mắt thế giới! Trên đường lên Tây Tạng, tôi có bao nhiêu mơ ước nhưng không bao giờ tôi dám mơ rằng mình sẽ gặp được một vị âm binh mà trong ký ức của tôi, họ là truyền thuyết sống. Tôi lập cập trở lại bàn trà và gọi thêm hai bát đầy. Ông lão bước đến theo lời mời nhiệt nồng của tôi. Trong ánh mắt lão, từng đường dao hiện ra và tôi là một tử thi cho lão múa như hôm nào xa xưa vậy! Tôi im lặng ngắm nhìn mười ngón tay sần sùi màu thời gian của ông lão bưng lấy bát trà. Đôi tay này, dòng máu kia, đã một thời điệu nghệ đường dao xẻ xác người! - Trong bức tranh, ta sống không? - Ông lão nhướng mày hỏi. - Sống! Rất sống! - Điểu táng là một tập tục lâu đời của người Tạng. Người nước ngoài như con cho là mọi rợ nhưng với người Tạng, nó còn cao hơn cả nghệ thuật! - Vâng! Nghệ thuật của tự do! - Tôi tiếp lời với mong ước không thể bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này - Ông có thể, nếu được, ông có thể kể cho con nghe! - Không chỉ kể, ta sẽ cho con thấy! - Ông lão đứng dậy bước vào trong rồi quay trở lại bàn. Ngoài kia phố nắng trắng nhưng toàn thân tôi là khối băng tuyết từ Himalaya lăn về quán trà bơ. Trên đôi tay ông lão, một cây dạo nhọn, lưỡi cong vút, rực sáng lạnh lùng! Chưa khủng khiếp như con dao ba cạnh dùng trong các nghi lễ Mật tông có hình tam giác gắn lưỡi tầm sét vajra, miệng con thuỷ quái Makara, đầu của vị thần Yi dam giận dữ nuốt chửng tất cả tà ma chúng xuyên qua nhưng con dao của ông lão chủ quán cũng đủ sức làm tôi tự nhiên mà rưới máu trong tim vì cái dáng hình sát thủ đỉnh cao của nó! - Con đừng chê ta già - Cánh tay già múa vào không gian một đường ánh sáng không thèm nhìn dám khách lục tục bỏ ghế đứng dậy - Nói thật, ta có nhắm mắt hay đui mù, ta cũng có thể xẻ từng nhát thịt trên thân thể anh ra theo đúng từng mảnh như ý! Như ý tựa cuộc đời của đứa trẻ thơ Rigpaba sinh ra tại vùng Môn Ngung hơn 90 năm trước. Sau khi ra đời, bố mẹ Rigpaba vui mừng được thầy chiêm tinh bói ràng, Rigpaba sẽ trở thành một lama thầy thuốc của bộ tộc Môn Ba theo cách gọi của người Tạng gọi tộc người sinh ra ở vùng Môn Ngung sống rải rác ở các huyện Mặc Thoát, Lâm Chi, Thố Na miền Nam Tây Tạng. Trong căn nhà nghèo, cũng như bao nhiêu người Môn Ngung khác, chỉ biết sinh sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi và săn bắn thì việc đứa con mình sẽ trở thành lama thầy thuốc là diễm phúc của gia đình Rigpaba! Rigpaba được gửi vào tu viện năm lên 6 tuổi. Từ ngày cha mẹ nhận lọn tóc của đứa con trai mình do tu viện gửi về như một lời chứng chấp nhận Rigpaba được nuôi dạy để trở thành một vị lama, suốt 26 sau ròng rã, gia đình, bè bạn và quảng đời thơ ấu không bao giờ gặp lại Rigpaba nữa. Vượt qua nhiều gian nan thử thách, Rigpaba đã trải qua 5 bậc, từ một cư sỹ phụng sự trong tu viện, trở thành một sa-di thụ giới 36 điều luật lên đến cấp tỉ-kheo có mức thụ giới 150 giới luật rồi đến Gheshe - tiến sỹ Phật học nắm vững Luật tạng, Thắng pháp tập yếu luận (Abhidharma), kinh Bát nhã ba la mật, Trung quán luận, triết học Tính Không và Nhân Minh Luận. Bước qua ngưởng cửa của tiểu thừa và đại thừa ấy,Rigpaba được đào tạo các phép trong Mật tông, trở thành một Gyupav-vquán đỉnh được truyền dạy bằng phép truyền tâm. Lúc này, Rigpaba mới được gọi là Lama - một đạo sư. Cùng với giáo lý và những ngày luyện phép truyền tâm thực nghiệm, Rigpaba còn phải theo thầy học các cách thức chữa bệnh, hướng dẫn vong linh người chết về cõi giới bên kia. - Linh hồn người chị gái của cha con đã ra đi nhẹ nhàng từ tiếng dạ của con! Tiếng dạ ấy là một âm thanh an ủi cuối cùng, là lời cầu nguyện vô tình mang đến cho bà một niềm tin mãnh liệt trước khi bà ra đi - Một Lama Rigpaba ngày xưa ẩn mình trong thân ông lão chủ quán giải thích - Con nên nhớ, con được cấu thành bởi xác thể xương thịt, dục thể với những ham muốn và linh thể là nơi hiển hữu của tâm linh. Xác thể, dục thể sẽ tan thành cát bụi nhưng linh thể, nếu được giải thoát, sẽ được siêu thoát và đầu thai vào một khiếp sống mới! Rất tiếc vì ta hèn kém nên ta chỉ là một thợ mổ xác! Chưa lần nào trở lại quê nhà nhưng bàn chân của Lama Rigpaba đã xuất hành khắp miền cao núi thẳm để tìm những loại biệt dược mà người thường không bao giờ biết được nhưng với Lama Rigpaba, những buổi ban mai theo đội âm công mang tử thi ra đầu núi xẻ xác đã làm chuyển thay cuộc đời tu hành của ông. Tiếng hổ gào của cha tôi và những bông hoa vô danh trên vực thẳm Yarlung Tsangpo lại lả tả rơi theo đường dao xoè sáng ký ức Rigpaba. Lần đầu tiên tôi ý thức nỗi buồn của thân xác là vào một buổi chiều cô đơn trước bầy kiến. Là con út, trông nhà một mình, tôi rất thích chơi với lũ kiến. Kiến đen, kiến đỏ, kiến nâu ngược xuôi tha mồi không nghỉ, chúng như sợi dây đời sống nối dài từ hạt cơm đến tổ. Nhưng chỉ cần giết một con kiến là đường dây ấy có nguy cơ tan vỡ. Lũ kiến rối loạn rồi chúng lại xúm lại đưa xác chết đồng loại về tổ. Tôi bắt đầu ý thức về cái chết từ những hôm cô đơn chơi với kiến nhưng để tường tận cách thức xử lý cái chết ra sao thì cho đến hôm nay mới biết! Tôi không biết, con kiến sẽ xử lý xác chết đồng loại ra sao vì mọi chuyện diễn ra trong hang tối. Nó sẽ ăn hay chôn lấp như con người. Nếu chôn, nó có tìm núi mà chôn hay chôn nơi thấp ẩm. Bà ngoại tôi mất vào mùa đông giá rét năm 1981. Chưa bao giờ trước đó và sau này, tôi thấy Mẹ khóc nhiều như vậy. Mẹ khóc thương bà không có con trai chỉ hai mụn con gái cô quạnh. Mẹ khóc nhiều hơn vì bão lũ, không được đưa bà qua sông sang chôn bên kia núi mà phải chôn cồn đất thấp cuối làng. Tuổi thơ của tôi, cùng với những ngày nắng lon ton là những buổi sáng ra đứng dưới gốc đa tiễn đưa người làng chết qua sông Nhật Lệ. Gặp nhà nào nằm ở ven sông thì cũng phải khiêng quan tài đi tạm biệt khắp làng rồi mới xuống lại bến sông như lần ông Ngoại tôi mất, quan tài ông được khiêng đi từ xóm trên xuống xóm dưới sau đó về bến nước ngay trước cửa nhà để qua núi. Con sông trở thành nơi trình diễn của đám tang. Người ta kết nhiều con thuyền lại thành bè lớn, trên đó chở quan tài, cỗ linh xa và đông đảo người thân xa gần. Trước khi chèo ra giữa dòng, dù sóng to gió lớn, thuyền phải đi vài vòng ven bờ để người con trai cả lạy tạ dân làng đứng tiễn đưa trên bến nước. Người Tạng có sông nhưng không thể chèo được. Gỗ có đâu mà làm thuyền. Thuyền bọc da trâu có ai dám đi lại trên những vực nước sâu hiểm trở. Bởi vậy chỉ có cách chôn tại chỗ nhưng lại gặp đá và đá nên người Tây Tạng dần bỏ tập tục thổ táng, thịnh hành tục điểu táng, hỏa táng và thủy táng. Nhưng không phải bộ tộc nào cũng giống nhau về cách an táng người chết. Trong khi Môn Ba, Lạc Ba có thể dùng cả 3 tục táng kia thì người Đăng cấm kỵ việc thủy táng. Người Đăng cho rằng dìm xác chết xuống nước sẽ mang lại tai họa cho cả nhà. Toàn cảnh phố Bát giác Tạng ngữ chỉ thân xác là tu - một cái gì ta để lại sau lưng! Con người chỉ là một lữ khách ngụ cư chốc lát trong thân xác. Người Tạng không để tâm vào việc làm cho đời sống có thêm nhiều tiện nghi, với họ chỉ cần một mái nhà, một ít bột tsampa, một ít phân dê khô đốt lửa qua mùa đông gía lạnh là đủ. Đi qua những đèo cao mấy ngàn mét, thấp thoáng vài ba những ngôi nhà trên tuyết, tôi không biết là họ tách rời với thế giới hay họ không màng đến thế giới. Thể xác chỉ là một túi vật chất nuôi nấng linh hồn nên một xác chết chẳng còn giá trị. Và sống trên vùng cao nguyên khô lạnh, nhìn đâu cũng thấy trời xanh, ánh sáng chói lọi thì không có gì tuyệt vời hơn là chôn người vào cõi ánh sáng! Từ ý niệm huy hoàng ấy, tục điểu táng ra đời! Còn gì vui hơn khi cái thân xác đáng quăng bỏ cũng được ánh sáng bốc liệm! Chôn vào cõi ánh sáng phải nhờ những con cánh chim mang lên trời cao. Bụng chim trở thành cỗ quan tài sống bay giữa không gian bao la. Để đưa xác thân vào những cỗ quan tài nhỏ bé ấy, người ta phải xẻ ra từng mảnh nhỏ. Việc làm này chỉ dành cho những ai tràn đầy bản lĩnh! Người mổ xác được gọi là âm công. Họ sống và làm việc một cách cô lập. Họ là một thế giới nằm ngoài thế giới. Họ chỉ đối thoại với cõi âm. Từ người họ, âm khí lảng vảng bay ra khắp nơi. Họ không giống người âm công nước Việt, khi đưa tang người chết, đơn thuần là người khiêng quan tài. Sau 3 ngày 3 đêm, khi thể xác thực sự chết hẳn và linh hồn đã ra đi theo giáo huấn Bardo Thodol, đội âm công bó xác chết trong tấm vải mang ra vùng đất cách xa làng xóm ít ai dám đến gần. Tử thi được buộc chặt vào bốn cây cọc và các âm công bắt đầu thi hành việc mổ xác. Từng nhát dao vung lên có trật tự. Rất chuẩn xác từng vết cắt nhát xả cho đến khi tử thi chỉ còn lại một bộ xương! Những mảnh thịt vừa lìa khỏi dao, bầy chim kền kền đã đón lấy không rơi một hạt máu! Con đầu đàn được hưởng quả tim, lần lượt cả đàn hưởng thụ cho đến mảnh thịt cuối cùng. Hết phần da thịt, bộ xương cũng được nghiền nát cho bầy chim mang lên thinh không! Người âm công phải xẻ nhát dao cẩn trọng như vậy là bởi trong màn trình diễn man nhiên ấy, họ muốn tìm hiểu cặn kẻ nguyên nhân dẫn đến cái chết của tử thi! Nên nhớ, do luật lệ khắt khe của giáo hội, ở phương Tây việc mổ tử thi mới được tiến hành sau này còn Tây Tạng, ngàn năm qua đây là chuyện thường ngày. Cơ thể học là một phương pháp học bí truyền của người âm công nhằm mục đích tìm hiểu nguyên do của cái chết, nó đã trở thành một thói quen nghề nghiệp không cần ai bắt buộc. Rigpaba theo đội âm công hơn một năm. Rigpaba cũng trở thành một tay dao lão luyện. Từng nhát xẻ của Rigpaba nhanh hơn tia chớp, chính xác hơn thước đo và tinh xảo hơn một đao phủ. Phía sau những nhát xẻ của Rigpaba, tất cả căn nguyên dẫn đến cái chết đều được phơi bày. Không phải lâu ngày quen tay thành nghiệp bởi với một tu sỹ đã tu luyện lên bậc lama như Rigpaba không thể nào bị ám muội thế giới ngoại cảnh nhưng rồi một ngày Rigpaba đột nhiên từ giã chiếc áo hồng tía tu sỹ Mật tông để trở thành một âm công! - Một buổi sáng sớm, ta theo đội âm công xẻ xác người bình thường như bao buổi sáng khác - Ông lão Rigpaba le lói tia mắt nhìn vào quá khứ - Nhưng sao ta bần thần với nhát dao đầu tiên. Quả đúng vậy, khi nhát dao của ta vừa xả xuống thì cái thi thể kia chợt bắn ra một lời thỉnh nguyện, khuyên ta hãy xả thịt với sự thanh thản, đừng run rẩy, đừng bần thần, càng xả đẹp người đó càng nhanh lên thiên không! Bisaso! Trời ơi, hóa ra kẻ đó chưa chết! Có lẽ nhát dao chặt vào da thịt đã thức tỉnh hắn dậy! Cả đội âm công lao đến định gỡ xác chết xuống nhưng thi thể kia lại ngăn cản. Hắn rực lên từng lời vào tai ta. Hắn biết đã đến lúc hắn ra đi và khuyên ta hãy tận tâm mà xẻ xác, xẻ cho đến lúc ta không nhìn thấy được hắn, ta chỉ nhìn thấy hư không thì thôi!... Ông lão đổ gục xuống bàn như ngày nào ông sụp lạy trước xác chết bởi ông biết kẻ sắp chết chính là một bậc tu hành vô danh thượng thừa! Những lời nói đó chẳng khác gì sự điểm đạo mà không có giáo lý và sự thực hành nào chứng nghiệm được trong tâm linh Rigpaba! 26 năm khổ công tan thành hư không! 26 năm tu luyện không bằng một lời nói của một xác chết! Sau buổi sáng kinh hoàng đó, hơn 500 xác chết bay lên trời xanh từ tay dao Rigpaba. Ông trở thành một vũ công trên xác chết. Đường dao tinh luyện, thanh thoát, xẻ người như xẻ vào hư không của ông trở thành những vũ điệu làm mê hồn bất cứ kẻ nào chứng kiến thậm chí bầy chim kền kền cũng không đủ nhanh để lượm từng mảnh thịt bay ra như hoa anh đào sa gió xuân! Rigpaba ngồi đó. Trầm lặng. Bát trà bờ trơ đáy gỗ. Đôi mắt tung ra những đường dao vô hình bay lượn trên thân thể tôi. Này đây tim gan, này đây những suy tư, này đây những đau đớn hành hạ trong tôi và của cả Rigpaba rụng rơi giữa quán trà bơ ngai ngái mùi mỡ trâu Yak! Không chỉ Rigpaba, giờ đây tôi là một tay dao, một âm công trẻ tuổi đang dò thăm thân thể Rigpaba để buông những nhát dao sắc ngọt. Trước mắt tôi, Rigpaba là một xác chết và có lẽ từ đây, trong mắt tôi ai rồi cũng như xác chết cho tôi, được huyền học tung dao khai phá tâm linh! Tôi không còn ghê sợ con dao trong tay Rigpaba. Nó nằm đấy. Vệt nắng trên bàn gỗ thô kệch. Tôi biết, không phải Rigpaba yêu nghề mổ xác người vứt bỏ kinh kệ mà đối với Rigpaba, hành động xẻ xác trở thành một tuyệt pháp hành thiền chỉ riêng ông có, chỉ riêng ông biết và thành tựu! Với người Tây Tạng, mọi cử chỉ diễn ra đều ứng với nhịp chuyển lưu của vũ trụ. Tất cả những hành động nhỏ nhặt nhất cũng đều được khiểm soát chặt chẽ bởi ý thức hòa mình cùng vũ trụ chứ không phải tự muốn mà có, tự làm mà hay. Nâng một bát trà, không phải đi liền một hớp. Người Tạng uống trà theo quy cách vừa uống vừa cho thêm vào, uống dần từng ngụm, từng ngụm cho đến cạn bát. Tấm lòng rất hiếu khách của người Tạng sẽ bị xúc phạm nếu khách được mời rượu mà không “tam khẩu nhất bôi”- ba lần cạn chén rượu! Rượu Tsampa, người Tạng gọi là “thương” làm từ bột tsampa có mặt khắp nơi, sưởi ấm mọi lứa tuổi cao nguyên. Uống một bát rượu, đầu tiên là một hớp, đợi chủ thêm rượu vào mới uống hớp thứ hai, lại đợi rượu và uống cạn lần cuối. Ba lần nhấc môi là 3 lần sâu lắng tâm tư với rượu, với tấm lòng của chủ nhà! Ngày nọ có thiếu phụ đến hỏi Phật làm thế nào để Thiền. Phật chẳng dạy điều gì cao xa cả. Ngài ngắm nhìn đôi tay quen kéo nước từ giếng lên của người thiếu phụ mà dạy rằng: - Con hãy chú tâm vào việc kéo nước giếng. Từng động tác phải được thuần thục trong một ý niệm rõ ràng con sẽ thấy tự con trong tâm trạng an lành, nhạy cảm và sáng suốt. Đó chính là Thiền! Người thiếu phụ ấy tỉnh giấc. Nàng trở về nhà làm theo lời Phật dạy và được giải thoát! Rigpaba không quay kéo nước giếng như người thiếu phụ. Rigpaba dùng dao xẻ xác để tạo nên một chiêu thức khai ngộ tính Không trong tâm linh ông. Ông bảo, khi xẻ xác là khi xẻ tung sự chết, sự sống ấn chứa trong bản thể, ngay cả bộ xương cũng vào bụng chim về trời, tất cả rồi sẽ thanh tịnh và tự nhiên hoàn thiện bằng những nhát dao thekchod buông xả tự nhiên! Thekchod là một trong hai phần thực hành của giáo lý Nyingma! Thekchod là hành động dứt khoát cắt bỏ mọi ràng buộc của lý trí và tình cảm, phá tan hàng rào ngăn cách con người không vươn đến sự tự do vốn sẵn có trong tâm. Khi Rigpaba vung dao, ông như chặt đứt sợi dây ràng buộc do thân, ngữ, tâm ngăn chướng Phật tính trong người bởi bất cứ cái gì được sinh trong tâm đều không chướng ngại như những đám mây trong bầu trời. Đã hiểu nghĩa đồng nhất trọn vẹn của tất cả hiện tượng, tức là tinh túy của tính Không, bây giờ người ta đi vào trạng thái tham thiền mà không theo những hiện tượng, đây là chân thiền định! Lời dạy của đạo sư Garab Dorje chứng nghiệm qua hành động xẻ xác của Rigpaba! Những con chim kền kền trong tục điểu táng - Từ năm 1950 đến nay, ta không còn được vung dao. Những đàn chim xứ Tạng không còn tươi xanh. Bầu trời cũng không còn âm vang sự chuyển hóa tự do của xác thịt con người nữa! - Rigpaba buông xuôi đôi mắt, ông uống một hớp trà bơ, uống một thời say nồng nhát dao. Và tôi, trong một đêm tuyết khuya xứ Bắc Âu, khi xem một phim về cuộc đời lưu vong của đức Dailai Lama, tôi không ngờ có ngày mình lại ngồi trên phố Bát Giác, con phố ngập máu và khói súng. Những bước chân tu sĩ sột soạt lội trong máu người dân Tây Tạng ngã xuống trên đường phố này lại hiện về trong mắt. Hàng ngàn tu viện tan hoang dưới bước chân hồng vệ binh. Ngày hôm nay Tây Tạng đã im lặng tiếng súng nhưng trước cung Potala, dưới chân đài tưởng niệm hòa bình Tây Tạng, tôi đã nhìn thấy một người lính Trung Quốc phải bồng súng AK đứng canh gác! Điệu múa của ma và linh hồn cầu nguyện hòa bình - Họ đã cấm tục điểu táng! Đội âm công tan rã. Tất cả đều đã chết. Còn lại mình ta với những nhát dao thèm thuồng - Rigpaba khô khốc nuối tiếc. - Và ông không còn những phút giây thiền hành nữa phải không? - Tôi chia sẻ. - Không! Ta vẫn còn! - Mắt Rigpaba vụt sáng - Mà sao con biết đó là phương thức thiền hành, một bí mật của đời ta? Ai đã chỉ giáo cho con? - Thekchod! - Tôi bí hiểm - Thekchod? - Rigpaba vung dao. Chiều Lhasa trong suốt. Quán trà bơ vắng khách. Tôi nghe rõ tiếng thở toát lên khắp thân thể già nua Rigpaba. - Con xứng đáng là người ta cho xem điều này - Rigpaba đứng dậy trở lại căn phòng. Tôi bước theo sau. Một loạt đèn nến thắp lên. Cả căn phòng nhảy múa hàng trăm bức tranh thanka! Cuồng say vô vàn vũ điệu múa dao điểu táng với những gam màu lúc thư thái nhẹ nhàng lúc dữ dội quỷ khốc thần sầu! Tôi đã trải qua những giờ phút đắm mình trong gam màu lập thể của tranh Picasso dưới hầm viện bảo tàng La Haye, đã từng cuồng say không gian với tranh Van Gohg ở bảo tàng Amsterdam, đã từng bước lang thang trong thế giới đa sắc màu trong bảo tàng Luvre ở Paris nhưng chưa có lúc nào, tâm tư tôi lại bị chao đảo, như con thuyền nát sóng trong buồng tranh thanka! Tôi nhìn thấy đây hình ảnh thần Yidam Yamankata tay cầm sọ người đầy máu, vị thần chết ghê gớm đến nổi người Tạng phải lấy vải che mặt vì không thể nhìn thẳng vào hung thần đầu trâu mặt ngựa dữ dằn này. Nhưng tôi lại hoang mang vẻ đẹp hồn nhiên của một thiếu nữ Tạng khỏa thân, nơi sâu kín nhất của nàng là khuôn mặt của chính vị thần kia che chở! Tôi cũng chan chứa niềm kính trọng thiêng liêng trước những khuôn mặt bi mẫn của các vị Phật được thể hiện bằng nhiều sắc màu trắng, đỏ, xanh, vàng sặc sỡ. Tất cả đều hướng về người đàn ông khi vung dao tuôn máu, khi bay lượn cùng đàn chim kền kền giữa trời xanh! Đó là Rigpaba! Rigpaba vẫn thiền hành trong những bức thanka. Trong các tu viện Tây Tạng còn để lại nhiều công trình hội họa đặc sắc. Một tác phẩm hội họa là sản phẩm của một tập thể Lama cao cấp! Dưới sự hướng dẫn của vị Lama trưởng lão, các Lama sẽ tập trung tư tưởng hoàn tất phần tranh của mình, sau đó ráp nối thành một công trình hoàn mỹ. Khi vẽ, các lama đều ở trong trạng thái samadhi - thiền định, trì tụng thần chú, đường nét gam màu của họ biểu hiện những ấn quyết nên nét vẽ tập hợp từ nhiều người mà cứ ngỡ là xuất phát từ một đôi tay, một đôi mắt duy nhất! Rigpaba, vị lama thầy thuốc, vị âm công, vị lama họa sỹ của tôi vẽ một mình hay với những ai mà tạo ra những bức tranh dữ dội, thôi miên toàn thể tâm tư tôi đến thế! - Chỉ một mình ta vẽ - Rigpaba nhìn thấy ý nghĩ của tôi - Ta buông dao thì cầm ngay bút vẽ. Ta vẽ quá khứ lạc phúc của ta mà thôi! Hơn 40 năm nay, ta chỉ có ngần từng ấy. Ngần ấy nhưng đã đủ thôi miên một đời tôi! Tôi chăm chú từng bức tranh và nhận thấy, dù cũ hay mới, nét vẽ và màu sắc vẫn tinh anh giống nhau, không phải tuổi già mắt kém mà có nét vẽ hư, ngược lại càng ngắm những bức tranh mới, tôi càng thấy màu sắc sống động hơn. Người đàn ông múa dao trong tranh cũng nhanh nhẹn và phiêu linh hơn người đàn ông trong bức vẽ cách đây 40 năm! - Thodgal! - Lời tự tin của tôi như ánh nến quét vàng khuôn mặt của Rigpaba. - Thodgal! - Tiếng chưa dứt, đường dao của Rigpaba đã lượn vòng sau lưng tôi. Không đủ sức để nhấc một bát cơm, làm sao tôi có thể tránh được đường dao kia! Nhưng không! Thay vì lãnh trọn nhát dao của vị âm công, cả thân hình tôi rung lên trong vòng tay Rigpaba! - Thod-gal! tho..d g...al - Rigpaba chìm dần âm thanh vào huyết quản mình. Một bức tranh Thanka Những ngày tháng múa dao điểu táng đối với Rigpaba là giai đoạn ông thực hành Thekchod còn lại những tháng năm vẽ tranh là chuyển qua Thodgal, phần thực hành thứ hai trong giáo lý Nyingma! Thodgal nghĩa là “trực tiếp” trong một chuyển dịch tức thời và khoảnh khắc biến đổi từ nơi này sang nơi khác, không có sự can thiệp của thời gian. Thodgal còn siêu việt hơn ý nghĩa nhảy qua mà đây chính là sang-pa, cái nhìn thấy vượt khỏi kích thước tâm thức quán tưởng. Thodgal là sự hòa nhập vào cái nhìn thấy, là sự tự nhiên hoàn thiện trên cơ sở thanh tịnh của bổn nguyên trong mọi sự Thekchod! Tiến trình từ Thekchod đến Thodgal cũng là những phương tiện cơ bản chứng ngộ giáo lý Dzogchen - Đại Toàn Thiện mà đại đạo sư Palmasambhava để lại cho Mật giáo Tây Tạng. - Con hãy ở lại đây! Nơi Tây Tạng này! - Rigpaba tay vẫn chưa rời dao - Ta sẽ dạy con múa dao, ta sẽ dạy con vẽ thanka, ta sẽ cho con uống 3 bát trà mỗi ngày với bánh tsampa nếu con không chê! Và khi ta ra đi, con sẽ là người tặng cho ta những nhát dao cho thân xác ta bay lên trời cao trong bụng lũ chim đáng yêu! Tôi im lặng đón lời của Rigpaba như đứa cháu nhỏ bé nhận đón lời người ông. - Ta biết, con không thể ở lại! Nhưng ta tặng con, cây dao quý này. Con hãy cầm về quê hương, không phải để xẻ xác chết mà bất kỳ nơi nào cuộc sống bình thường của con, con hãy nhớ, dù có ở trong xó bếp cũng có thể Thekchod và Thodgal nếu con có tâm trì! Tôi xúc động. Tay run. Những ngón tay xanh tái vì thiếu máu. Cầm lấy cây dao. Cầm lấy cánh chim tự do! Cầm lấy một quảng đời kinh hãi nhưng siêu thoát của người âm công! Cầm lấy một đại ấn Mật tông! Tôi bước ra quán trà. Lhasa chiều quá độ. Nắng thênh thang. Người vẫn tấp nập trên phố Bát Giác. Không ai biết, giữa thành Lhasa này có một người âm công đang ẩn tu với những bức thanka mầu nhiệm. Khi rời Tây Tạng, hải quan ở sân bay Lhasa không cho tôi mang theo cây dao trở về nước Việt. Tôi phải nhờ Hong chuộc tiền để họ gửi cho tôi bằng đường đặc biệt. Hơn 30 ngày sau, tôi đã nhận được cây dao. Suốt chặng đường đi qua bao bưu cục, không ai hay biết, đó là cây dao của một người âm công Tây Tạng, chủ thể của tục điểu táng nổi tiếng trên thế giới. Con kiến già Rigpaba! Tôi đã biết trong tổ của mình, những con kiến sẽ thản nhiên chết vì khi sống chúng đã có cuộc sống tận tuỵ, gắn bó và khéo léo hết mực với những gì chúng có được trên mặt đất. Trong góc phố Lhasa, rồi Rigpaba sẽ ra đi mà không cần ai xẻ xác. Vì tận tâm tu luyện, thân thể thô tháp hơn 90 năm của ông sẽ được co rút nhỏ lại để tan biến vào ánh sáng bất tử mà người Tây Tạng gọi là Sự Tan Biến Vào Thân Thể Cầu Vồng. Không biết trong buồng tranh Thanka, ai có diễm phúc nhặt được tóc và móng tay của Rigpaba để lại như những di vật linh thiêng hay nó sẽ tan biến dưới một nhát chổi của người lính nào đó! Vũ công không gian trong nhà thổ Lhasa B ên dòng sông Yarlung Tsangpo - sợi lông nách của Ngân Hà buông xuống mái nhà Tây Tạng, tôi còn gặp một dòng sông khác, tuy mới chảy qua 17 mùa xuân nhưng khó lòng ước đoán chiều kích rộng dài bởi đây là dòng sông tâm linh trong tấm lòng một người con gái xứ Tạng. Vì linh thiêng, người cha lấy tên sông gọi tên nàng. Tôi đã gặp Yarlung Tsangshe, không phải dưới đồi hoa Chantai mềm dịu, không phải trên đường phố Lhasa rì rầm lời chuyển kinh, không phải bên thềm điện Potala hùng vĩ mà trong đêm giá lạnh ở một nhà thổ! Từng bước chân tê buốt mang thân xác chứa chan những cơn gió khô lạnh khắc nghiệt miền cao nguyên, tôi bước vào nhà thổ trên đường Damra với mong ước được tẩy rửa mọi đớn đau vào thùng gỗ nhả đầy hương hoa Hồng cảnh thiên, loại thuốc quý đứng vào hàng thứ 4 trong số các biệt dược xứ Tạng. Đông trùng hạ thảo vốn là loài nấm đơn sinh, uống vào bổ phổi lợi thận. Tuyết liên hoa có tác dụng tráng dương bổ huyết, làm ấm tử cung, chống mỏi mệt. Tạng hồng hoa có vị đắng, giúp máu lưu thông thuận lợi. Hồng cảnh thiên và xạ hương lấy trên núi Himalaya là loại thuốc thanh nhiệt, trừ viêm, có vị ngọt chát, tác dụng điều tiết hệ thần kinh, chống mỏi mệt, nâng cao thể lực, trí lực, chống hôn mê bất tỉnh. Tôi không biết bằng cách nào Hong lại tìm ra nhà thổ có thứ thuốc quý không chỉ dành uống mà còn tắm. Lễ cưới của người Tạng - Anh tắm khô hay tắm ướt! - Giọng Tứ Xuyên, bà chủ nhà thổ chào tôi. - Tắm ướt! Người đàn bà Tứ Xuyên mỉm cười đầy ẩn ý, dắt tôi vào phòng tắm trên căn gác. Một cô gái Tạng chờ sẵn. Những luồng hoa hồng nhạt cùng bụi thuốc xạ hương màu hoàng thổ tung ra từ mười ngón tay. Phút chốc, thùng nước tỏa ra mùi hương xao xuyến đánh thức từng sợi thần kinh thanh mãnh của tôi tỉnh lại sau những ngày chống chọi quyết liệt với khí hậu cao nguyên. Lễ cầu nguyện đón mừng năm mới do các Lama cử hành - Bà chủ nói với tôi rằng, anh muốn tắm ướt! - Người con gái Tạng điềm nhiên cởi áo. Tôi hốt hoảng. Bisaso! Trời ơi! Cái thân xác rã rời của tôi làm sao chịu đựng, dù là một nụ hôn huyền nhiệm Tarâ! Tôi chợt hiểu nụ cười bí ẩn của người đàn bà Tứ Xuyên. Hóa ra tắm khô là tắm cô đơn còn tắm ướt là phải có kỹ nữ. Điệu tắm này, tôi chưa hề gặp ngay cả những ngày lang thang dọc ngang kỷ nữ Amsterdam. - Tôi muốn gọi tên cô? - Yarlung! Anh có thể tắm trong dòng sông của thân thể tôi! - Tu qi qí! Cảm ơn - Tôi tập tểnh cảm ơn bằng ngôn ngữ Tạng - Tôi sẽ chết đuối dưới đáy sâu 5.000 m của con sông Yarlung Tsangpo. Tu qi qí, tôi chỉ xin đứng bên sông! Một nụ cười hồn nhiên đáp lời tôi. Một mảnh ớt thoáng đỏ kẻ răng. Tôi thoáng rùng mình. Người con gái trước mặt tôi không phải là kỷ nữ chuyên nghiệp! Có lẽ, từ một bữa ăn quê mùa nào đó ở Lhasa, Yarlung đã đến đây. Tôi nhúng thân hình nhức nhối theo những ý niệm buồn bã vào nước ấm. Lạ thay, lần đầu tiên, sau những ngày căng thẳng, thân thể tôi bổng nhẹ như giấc mơ tan vào bọt nước thơm tho. Tuyệt diệu! Hồng cảnh thiên! Cảm ơn Hong, tôi không cần biết đây có phải là Hồng cảnh thiên hay không nhưng thùng nước thơm này đích thực là một Manasanovar dưới chân Kalâsa đối với tôi! Đợi cho mọi tế bào râm ran nước thuốc, tôi bắt đầu mở mắt và hiểu rằng người con gái kia đang chờ đợi điều gì. Tôi nói với Yarlung, tôi không muốn mình như mọi du khách, chỉ xin nàng hãy tặng kẻ lạ này vài điệu múa Tạng. - Múa ư?! Múa ở đâu? - Phải! Múa tại đây! Múa những điệu múa em thích - Vậy em sẽ múa cho anh xem điệu tình của người Tạng! Và trên sàn gỗ căn buồng chật hẹp của nhà thổ. Tôi bắt đầu nhìn thấy linh hồn nữ thần Tarâ lớn dậy từ đôi chân hồng đỏ của người kỹ nữ Tạng. Yarlung trút bỏ áo khoác ngoài, cánh tay trần để lộ những vết roi còn mưng máu. Từ thân thể cô, cũng như những cô gái Tạng khác nồng bay mùi rượu Tsampa. Mùi rượu truyền thống xứ Tạng lên men không gian và rơi xuống thời gian đêm lạnh theo bước chân di ảo. Người Tạng biết ca vũ từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Bầu trời trong xanh, núi đồi bao la tuyết, thảo nguyên mênh mông là sân khấu tự nhiên cho người Tạng múa hát. Một người không biết múa hát không phải là người Tạng. Một vùng đất quanh năm rộn ràng lễ hội, có tháng diễn ra mấy như Tây Tạng thì múa hát có vai trò hết sức quanh trọng. Tháng hai theo lịch Tạng có lễ hoa đăng, lễ hội như lễ đuổi quỷ, lễ Tết năm mới, lễ truyền triệu đại pháp. Tháng 4 đến 6 lễ triển lãm tranh Phật. Tháng 6 lễ Giang tư thi ngựa. Tháng 8 lễ thi ngựa Khương Đường và lễ Tuyết đốn, lễ Triều sơn leo núi. Tháng 9 lễ Mộc dung - tắm gội, tháng 11 lễ cầu khấn thần chiến tranh. Tháng 12 lễ Nha lung văn hoá - Văn hoá cối xay thóc, lễ đốt đèn. Tây Tạng yêu ca vũ đến nổi, có những lễ hội ban đầu mang tính tôn giáo nhưng sau đó chuyển thành lễ hội văn nghệ ví như lễ Tuyết đốn. Tương truyền Tông Ca Ba khi thành lập giáo phái Cách Lỗ đã có giới luật nghiêm khắc từ tháng 4 đến tháng 6, các tăng lữ phải đóng cửa niệm kinh. Do đó người dân đợi ngày mở cửa chùa là đem dâng sữa chua, tổ chức yến tiệc linh đình đón tiếp tăng sư. Vui say với tăng sư, người ta tổ chức các buổi diễn kịch nên sau này, lễ Tuyết đốn trở thành “Tạng hí tiết”. Vào ngày này, các đoàn kịch khắp nơi kéo về Lhasa để diễn kịch rất tưng bừng. Khi ở Shigatse, tôi đã xem một vở kịch Tạng. Mở màn là đoàn người mang mặt nạ biểu hiện hai phe thiện ác, dữ dằn ma quỷ và hiền hoà bồ tát. Các diễn viên mang cung tên cùng vật dụng lao động ca múa trên sân khấu để ngợi ca sự chiến thắng của những người anh hùng sau màn chiến đấu với bọn ác tà. Tiếng hát của người Tạng miên man, buồn xé lòng vui cũng bát ngát cao nguyên nhưng dù vui hay buồn, giọng hát phải thê lương ngây ngất nhưng phóng khoáng, tự do và linh thiêng đất trời. Thiếu nữ Tạng trong lễ hội Nhờ múa hát, người Tạng được sang trọng trạng thái thăng hoa và họ tự hào biết bao nhiêu về miền quê hương cao nhất thế giới! Tại các bản làng xa xôi, khi kết thúc một điệu múa Guoxie, vị xiege-nhạc trưởng sẽ hát "Ah, jia, hei! Không có nơi nào trên trái đất đẹp như quê hương chúng ta! Không có ngôi nhà nào đủ đầy tiện nghi như ngôi nhà chúng ta! Không có cô gái chàng trai nào trên thế giới vui tươi như chúng ta, không có ai may mắn như chúng ta đang có mặt nơi đây!”. Không có ai may mắn như tôi trong căn buồng nhà thổ Lhasa! Thân hình Yarlung Tsangshe mềm và ấm hơn ngọn lửa trong hoả lò sấy xác chết. Không gian uốn lượn theo cánh tay, mảnh sườn nhấp nhô trên đôi chân mướt dài. Điệu múa của Yarlung không cuốn xoáy theo vòng quay bất tận như điệu múa Melana Dõjellal edõdin Rùmi của người Hồi giáo, Nazifa- người bạn gái Afghanistan đã múa cho tôi xem trong căn buồng gác hai trên con lộ Abel Tasman chạy dọc hải cảng Amsterdam rét mướt mưa bão biển Bắc. Và cũng không theo nhịp 2/4 như vũ khúc Guoxie trong các bản làng Tạng, ngọn lửa Yarlung lúc réo cháy, lúc ngậm ngùi đam mê, khi hoang hoải ngã xuống huyền bí. Khác với mọi dân tộc trên thế giới, nhạc vũ diễn tả tình cảm con người hoặc ngợi ca Thượng đế, với người Tạng, không diễn tả niềm vui hay nỗi buồn cá thể, nhạc vũ là sự hòa âm linh thiêng của những mantra - Thần chú. Bài vũ nhạc nào, nhất của tôn giáo cũng có âm thanh trầm, sâu, tĩnh rộng gợi nhớ chủng âm OM xướng lên từ tiếng kèn tù và dài tới cả mét, tiếng ốc sò buông lơi sống động, tiếng trống hùng hậu điểm từng giọt âm thanh, vừa rời rạc vừa hoà quyện chuyển điệu quyền năng huyền bí chạm đến cõi giới xa xăm không có trong tương lai và cũng vắng mặt trong dĩ vãng. Đó là dòng chuyển hóa nội tâm và giải thoát trong vẻ đẹp nhiệm màu dzogchen - vẻ đẹp đại toàn thiện cõi giới bao la vĩ đại vô hạn như lời cổ mật của đức Garab Dorje! Lễ hội đua ngựa ở Nakhúc Chiêm ngưỡng điệu vũ do các lama trình diễn trong khuôn viên tu viện Tashilhunpo thành Shigatse, tôi mới thấy thế nào là sức mạnh thần khí âm nhạc Tây Tạng. Trên độ cao gần 4000m, mặt trời sà xuống Shigatse, soi sáng tiếng tù và trầm hùng, ngân nga như biển dâng lên trời xanh tiết điệu nhiệm mầu những bước chân luân chuyển của hàng trăm chiếc áo hồng tía. Emaho! Kỳ diệu thay! Tuyết trắng xanh. Nắng hanh vàng. Núi đượm nâu. Áo hồng tía. Tù và mênh mang cõi trời. Một chấm tôi như hạt điện tử rạng rỡ cảm thức, linh thiêng theo gió lãng du về kiếp trước dĩ vãng, kiếp sau tương lai! Bây giờ, hạt điện tử hôm ấy lại lần nữa bừng lên cùng điệu múa tình của người con gái Tạng. Không nhạc nền, không âm thanh, nhưng không gian lặng im cùng những cánh hoa dập dìu thùng nước và tiếng vòng xuyến, khuyên đá xào xạc đôi tay đã nôn nao thành một thứ âm thanh vô ngôn, dịu dàng thả rong những khối cơ trôi vào thinh không. Đó là điệu vũ miêu tả cuộc giao hoan diễm lệ diễn ra sau con đại hồng thủy giữa Avalokitecvara (Quán Thế Âm Bồ Tát) hiện thân trong lốt Khỉ và nữ thần Tarâ - con Quỷ-cái-của-các-núi đá. Từ cuộc giao hoan của họ đã sinh ra sáu con vật nửa người nửa khỉ. Theo thời gian biến thiên, lông lá rụng theo gió, chiếc đuôi mờ dần và chúng trở thành con người! Từ cánh tay, từ đôi chân, từ những con sóng mê hoặc linh hồn của Yaslung, khúc ca nguyên thủy lần hồi vang về Lhasa.. Bằng sức mạnh của những nỗi thèm khát, tôi yêu chàng tôi cháy lòng về chàng; bằng sức mạnh của tình yêu ấy, tôi theo đuổi và cầu xin chàng nếu chúng ta không cùng chung sống, tôi và chàng, tôi sẽ làm vợ những con quỷ đực vô số quỷ con sẽ sinh ra và mỗi sáng chúng sẽ nghiến ngấu nghìn lần ngìn sinh vật còn tôi, khi mà quyền phép của những hành vi tiền kiếp bắt tôi chết tôi sẽ rơi xuống hỏa ngục của những sinh linh... Ngọn lửa Yarlung soi sáng một sinh thể có tên là Văn Cầm Hải lang thang qua núi đồi Tây Tạng, tay cầm nhành hoa Chantai ca hát như hành giả mặc áo rách Milarepa ngày xưa ca hát dưới bóng cây tầm ma trên đỉnh tuyết sơn. Rằng tôi cũng có tình yêu thương tha thiết giữa khỉ và quỷ, tôi xin nhận mười đức tính của loài người và xin các thần các loại hạt, vàng và đá quý làm nên những nhát kiếm kim cương mở lối vào cõi giải thoát! Tôi nhìn thấy một sự hòa điệu giữa đức tính hiền dịu của khỉ và sự lì lợm ma quái trong ánh mắt của người con gái Tây Tạng. Đôi mắt nằm cách xa cánh mũi ấy vút lên tột đỉnh bao nổi niềm hạnh phúc hoang dã nghịch cảm lên núi như dao xuống biển như lửa sưởi ấm bốn mùa. Mùa đông che kín riềm mi, mùa hạ vàng sáng con ngươi, mùa xuân xanh kín màu mắt và mùa thu phơi tía điểm nhìn. Từng khoảnh khắc trôi qua như ngàn năm hồng đỏ một lóng tay. Mùi rượu Tsampa bay lên, len lỏi qua lần vải lót rộng lưng, vạt dài truyền thống, tỏa kín thân thể nàng làm tôi gợi nhớ mùi thiên đường đã đánh rơi đâu đó trong quá trình chuyển sinh của cuộc đời! Để lại những điệu múa vào không gian, Yarlung lặng lẽ chia tay nhưng tôi lại muốn cùng Yarlung dạo phố đêm cao nguyên. Thiếu nữ Tạng trong lễ hội Người đàn ông, chồng bà chủ nhà thổ cầm cái móc sắt dài gần một mét chạy lên gác. Y trở lại, hai tay huơ huơ ngọn móc sắt đen, ướt và dài thượt vào mặt tôi. Giọng Tứ Xuyên mặn chát, tôi không thể hiểu y muốn gì. Người đàn ông quay sang Yarlung dò hỏi. Nhận được câu trả lời của Yarlung, hắn nhìn tôi và phá lên cười như vượn kêu rừng già! Thì ra, cái móc sắt ấy là công cụ lượm bao cao su của khách làng chơi và lúc cần có thể trừng phạt kẻ phạm lỗi. Những vết sẹo tươi máu trên cánh tay Yarlung là hậu quả những trận đòn của cái roi sắt người đàn ông đang cầm trên tay. Bao cao su đã có mặt trên mái nhà thế giới! Nhưng người đàn ông không tìm thấy trong căn buồng của tôi. Tôi muốn nói, ở trong ấy chỉ có điệu vũ mà gã, một người chủ nhà thổ Trung Quốc sẽ không bao giờ nhìn thấy. Người đàn bà Tứ Xuyên xòe tay đón nhận 100 tệ. Cánh cửa nhà thổ khép lại. Yarlung và tôi mờ vào bóng đêm. Chúng tôi lang thang qua phố Bát Giác, con phố hiu hắt ánh đèn tạp hoá. Ban ngày phố chộn rộn chân người viếng chùa Đại Chiêu, ban đêm chỉ có mấy quán hàng bán đồ lưu niệm. Gió đêm Himalaya khâu lạnh bước chân chúng tôi. Hồng cảnh tiên và thùng nước ấm đã nguội vào đêm buốt. Tôi bắt đầu cảm nhận vị mặn nhạt của dòng máu mũi chảy xuống đôi môi bầm. Tôi mời Yarlung vào quán trà bơ, thứ trà đặc sản của người Tạng. Để có một chén trà bơ, người ta đem bánh trà chưng thành một loại nước đặc, lấy ít bơ bỏ vào ống gỗ dài 1 m, có đường kính chừng 10cm, cho thêm muối, dùng que khuấy đều làm sao cho trà và nước trộn lẫn. Lấy nước đó đổ vào bình gốm, đun nhẹ để dùng( dẫu có muốn đun sôi cũng không vì trên cao nguyên áp suất không khí thấp này, nước chỉ sôi đến 60 độ). Mỗi ngày, người Tạng uống từ 3-4 bát trà bơ. Nếu được mời, không được uống một hơi mà phải nhấp từng ngụm. Mỗi cái nhấp môi của Yarlung đều gợi lên một cử chỉ lạ lẫm với tôi. Đôi môi cách điệu, ngậm hờ vành bát, thấm dần từng ngụm trà nhỏ nhoi thân phận. Hồ Yamzho Yumco - Cha em nấu trà bơ ngon nhất vùng Nimộc ở Na Khúc! - Yarlung ràn rụa nước mắt tự hào - Ông ấy là một tay săn bắn có hạng. Cuộc thi ngựa nào trong lễ Giang Tư hay Khương Đường, cha em đều có giải thưởng. Không biết cưỡi ngựa bắn cung là một điều sĩ nhục đối với đàn ông Tây Tạng! Vùng Na khúc miền Bắc Tạng của Yarlung hàng năm vào tháng 8 đều tổ chức lễ thi ngựa Khương Đường. Tháng 8 là tháng tiết trời đẹp nhất trong năm trên vùng thảo nguyên Bắc Tạng. Hàng vạn dân cư chăn nuôi cưỡi ngựa mang cung đổ xô về Na khúc tham dự cuộc thi. Thị trấn Na khúc trở thành rừng lều bạt náo nhiệt với những cuộc thi tài thể hiện tích cách phóng khoáng của người thảo nguyên. Ca hát. Phi ngựa. Bắn tên. Cha của Yarlung có thể nằm ngã trên lưng ngựa phi, mắt bịt khăn, mười phát tên trúng đính như một! Rồi đến ngày, cha của Yarlung cũng phải lên lưng trâu ra sông Yarlung Tsangpo để trôi xác theo tục Thuỷ táng! Dòng Yarlung Tsangshe! Làm sao tôi dám nhổ sợi lông nách của em bởi tôi đã hiểu, sợi lông nách Yarlung Tsangpo đâu chỉ có nguồn nước Manasanovar dưới ngọn Kalâsa còn có linh hồn của cha em, của bao nhiêu linh hồn Tây Tạng! Yalung mồ côi năm lên mười hai tuổi ba tháng. Ban ngày Yarlung đi bán hàng dạo trên phố Bát giác ban đêm nàng tắm ướt ở nhà thổ. - Cha em được tắm mát trong dòng nước chảy ra từ núi Kalâsa - Yarlung chuyển vào tôi những ý niệm tự do - Có thể bây giờ ông đang dạo chơi ngoài biển hay trong một vực núi nào đó. Nhưng Cha em không bao giờ quên em, một dòng sông cha sinh ra, sống với nó trước và sau khi chết! - Tại sao em không đi làm một việc khác! Cha em sẽ buồn... - Ngay khi em ra đời, ngay sau khi được ném xuống suối lạnh, thầy chiêm tinh đã cho hay số phận em là vậy. Nhưng có hề chi, em là một kiếp nạn của một vị sư nữ tái sinh trong em! Rồi mai đây em cũng sẽ trở thành vũ công trên không gian! Thầy chiêm tinh phán như thế! Vũ công trên không gian! Đó chính là hình ảnh của nữ huyền thoại Yeshe Tsogyel. Yeshe đi vào vực sâu núi thẳm, sống một đời mưa nắng, ăn hết hoa cỏ nàng chuyển sang ăn không khí cho đến khi xương trán nhô ra trên đỉnh mày nhưng nàng vẫn nhẫn nại đợi ngày hóa thành Phật nữ. - Yeshe và tinh thần mãnh liệt của Người còn cao hơn núi. Huống chi đời em rồi cũng tan thành nắng, biến thành hoa, trôi chảy cùng cha em trên miền đất tràn đầy vũ điệu này. Trong quán trà phố Bát Giác, từ tấm lòng của Yarlung, tôi chợt nhìn thấy ánh sáng của những vì sao thầm thì vang lên đôi môi thơm ngọt trà bơ. Và trong tiếng thì thào của âm ba thoát lên nhẹ nhàng từ thanh quản của Yarlung, tôi đã thấy chân lý tâm linh vượt qua lịch sử. Như Yarlung Tsangshe, một kỹ nữ nhưng linh hồn nàng là một đoá sen nở những cánh vàng vươn ra ngoài cõi sinh tử để trở thành một thiên sứ trong đoàn tùy tùng của đấng Đại Toàn Thiện mà nhân loại, hàng ngàn năm qua tôn kính gọi là Đức Phật! Người đàn bà Tsangfu T ừ rất xanh. Không vì vời xa trên núi Nojin Kangsa. Không thấp thoáng. Rất xanh và rõ ràng. Từ những ngọn rau ngủ chín màu mỡ trâu Yak. Như có ai gọi tên mình tỉnh dậy giữa bữa cơm trưa cao nhất tôi có trong đời mình! Bát cơm rệu rã! Hạt cơm im bặt. Hoang tàn từng mảnh nơ ron hoa trắng quán Tsangfu. Cái quán cơm nhỏ như chiếc túi vải của người đàn bà xứ Tạng mang bên hông thị trấn Langkhatzi. Dọc hai bên con đường đi qua thị trấn, những liếp nhà đắp bằng đất nằm kề bên nhau như bầy dê núi ngủ trưa dưới hiên nhà Himalaya. Phố huyện Langkhatzi nơi có quán cơm Tsangfu Mây khước từ mặt trời. Con đường vẫn trong suốt ánh sáng hắt ra từ những ngọn núi tuyết. Tôi như chuỗi tràng hạt đứt tung trên con đường đất mềm và sáng hơn cổ tay người con gái Tây Tạng buông dọc thị trấn Langkhatzi. Hơn nửa ngày trời lênh đênh giữa không gian cao hơn 5.000m, khi sa sả vực mây, lúc ngược ngàn núi tuyết tôi theo đó mà hư hao cho đến khi đổ gục trong quán Tsangfu. Máu tê dại khuôn mặt. Tôi không còn nhận ra cảm giác trên mười đầu ngón tay. Bát cơm nặng trĩu. Bất lực và vô cảm rơi xuống mặt bàn. Nơi này không có hoa Chantai cho tôi vịn đứng lên. Nơi này không có một vị Lama nào điểm đạo cho tôi vượt qua mê lộ đau đớn. Nơi này không có một dòng khí ô xy sung mãn cho máu tôi được tươi mươi giây lát. Miệng khô hơn ngậm mặt trời tìm nước. Tất cả chai nước trong quán Tsangfu đều quá hạn sử dụng hơn một năm! Tôi muốn ngã lưng đâu đó trong nhà dân vậy mà cả thị trấn Langkhatzi đều không hiểu tôi muốn gì vì không ai biết tiếng phổ thông. Tôi trở thành con cá nhỏ, từ đáy sâu đại dương, đang khô dần trên cao nguyên Tây Tạng. Nhưng người đàn bà chủ quán Tsangfu lại không ngừng nghỉ ngơi nụ cười. Tay chuyền thức ăn, mắt nâu rói, miệng rộng mở, bước chân nhanh nhẹn từ bếp ra bàn, từ bàn ra bếp um khói, người đàn bà dọn thức ăn không khác gì con dê cái cho bầy dê con bú! Những món ăn lầy lụa mỡ. Ngọn rau cải xào trên dĩa như được lớn lên từ vùng đất dày mỡ hoặc khi đương là hạt,người ta đã dầm nó vào mỡ rồi! Tôi không thoát khỏi ánh mắt mỡ trong những bữa cơm Namninh, Thành Đô và bây giờ là Tây Tạng. Buổi sáng, cháo trắng và trứng. Không biết một buổi sáng, trên đất nước Trung Quốc có mấy tỷ quả trứng bị đập vỡ! Trưa đến, chiều đi là những bữa cơm mỡ! Có cảm tưởng, bát chè ngọt người Trung quốc cũng nấu bằng mỡ! Bữa cơm trưa cao nhất đời tôi vẫn có thịt, rau cải, gà xào, canh ngọt và có cả cá nữa! Tôi đói cơm nhưng không dám ngước mặt nhìn cơm. Tôi ước sao có một mâm cơm mặn cay xứ Huế, hoặc cơm người Tạng cũng được. Chỉ cần ít bột mì và rau quả, cốc rượu tsampa hay trà mặn là đủ no miễn sao đừng mỡ! Sau cùng, con dê cái Tsangfu cũng dừng lại trước khuôn mặt tím đen của tôi. Chị ta hát ra một thứ âm thanh xa lạ. Tôi ụp mặt xuống bàn gỗ. Mùi mỡ ngấm cả ngàn năm trong từng thớ gỗ bốc lên, xuyên qua lớp da đông cứng máu, phả vào huyết quản tôi những cơn ói chực chờ. Thiếu nữ Tạng trong lễ hội Người đàn bà nói như hát. Tôi vẫn ụp mặt. Dốc mọi sức tàn còn lại chống chọi từng đợt sóng trào lên mắt môi. Người đàn bà nói như hát. Thổ ngữ chảy ra ào ạt như một dòng suối trên đỉnh núi Nojin Kangsa chảy xuống quán Tsangfu. Trên dòng suối âm thanh ấy, tôi nhìn tôi, con cá nhỏ vi vảy vào đại dương vô tận, ở nơi đó tôi cảm nhận được vị ngọt ngào của nước, vị sáng thanh tao của ánh binh minh bơi sâu vào lòng biển rộng! Không đẹp nhưng đôi mắt phi thời gian cứ thản nhiên không có tuổi trên đôi gò má cao rám nắng nhìn sâu vào đuôi tim tôi. Người đàn bà vẫn nói như hát. Người đàn bà này là ai? Từ nơi nào, từ bộ tộc nào người đàn bà đã đến đây dựng quán bán cơm cho những lữ khách mạo hiểm như tôi? Lạc Ba hay Môn Ba, Hạ Nhỉ Ba hay Bác Ba, hay Đăng? Tôi chỉ biết đây là một người sinh ra trong một bộ tộc làm nghề chăn nuôi trên cao nguyên Tây Tạng. Thân hình mạnh mẽ trong lớp áo lót đủ màu sắc hoa văn và chiếc áo lông dê viền đen khoác ngoài, dây thắt lưng buông thả xuống đất, người đàn bà như bình gốm cổ kính dốc rượu tsampa vào tai tôi. Thi thoảng, cái “bang thế” - tạp dề đeo bên hông cọ vào người tôi. Thi thoảng hai bím tóc và nhúm tóc dài quấn trong lớp vãi bố thành khung hình ba cạnh đeo đá tùng nhỉ khẻ chạm lên vai. Nghiêng nghiêng trên sườn vú, trong chiếc “ca ô”, bức tượng Phật và cũng có thể là một di vật lama nào đang kêu lên khe khẻ theo nhịp rung chuyển của ngữ điệu nói như hát! Đôi mắt người đàn bà chủ quán Tsangfu, dường như tôi đã gặp trên một chuyến tàu từ miền Tây sang miền Đông nước Đức. Đó là đôi mắt của Marina, một người đàn bà phù thủy phương Tây. Suốt hành trình, từ buổi ban mai cho đến khi chiều hôm buông xuống trên thảo nguyên xanh miền Đông nước Đức, Marina không buông bàn tay áp trên ngực tôi cùng với những lời cầu nguyện rầm rì. Marina, đôi mắt sâu thẳm, nói với tôi rằng, Chúa Trời đã nghe và Ngài đang đến trong lời cầu nguyện cầu nguyện của bà. Marina nhắc nhở, nếu tôi mong ước gì hãy nói ngay trong lúc này. Tạ ơn Marina, mong sao bàn tay bà hãy buông ra khỏi ngực tôi! Phúc cho những ai không thấy mà tin! Ngay sau lời mong cầu âm thầm, Marina liền buông tay! Có lẽ, tay mỏi hoặc Marina đã đọc được ý nghĩ trong mắt tôi. Cho đến lúc chia tay ở nhà ga Halle, người đàn bà phù thủy Do Thái ấy mới cho tôi hay: Chúa nói với tôi rằng, anh là người không thích ai nguyện cầu thay cho mình! Bây giờ đây, người đàn bà xứ Tạng nguyện cầu cho tôi chăng? Trong thân hình đang đứng trước mặt tôi, ngày xưa có ẩn chứa một thời thanh xuân cao nguyên buông lơi điệu múa Guoxie trong ánh sáng tinh khiết và nồng ấm của mặt trời và tuyết hòa quyện trên những bản làng xa xôi hay là một thời thanh xuân kinh kệ trong các hang động trên dãy tuyết sơn! Cái thuở chưa chồng, tóc mới một bím, bên hông chưa đeo “bang thế”, chân mềm dày “tùng ba”, người con gái Tây Tạng trước mặt tôi đã sống ra sao khi đêm và ngày chỉ có trăng sao, gió núi và tuyết sáng! Đời người như một nhát gõ enter trên bàn phím vi tính, lỡ tay là xóa hết dữ liệu nhưng đôi khi, cũng vì lỡ tay mà mọc lên một hàng chữ thiên thần! Liệu trên vùng đất sông sâu ngàn mét, núi cao ngửa mặt này, có ô đất nào thăng bằng đôi chân cho nàng nhảy dây, cho bàn tay nàng chơi trò ô ăn quan như dưới kia đồng bằng phì nhiêu nước Việt? Cho đến hôm nay, khi nhân loại đã chăm sóc bầu trời bằng sóng điện tử thì trên những vùng núi Tây Tạng, tôi lang thang nhìn những đứa trẻ Tạng chăn dê bằng đá! Trên cổ chúng quấn một sợi dây bện bằng lông dê tưởng là khăn quàng lạnh nhưng hóa ra đó là thứ chúng buộc đá để chăn dê, muốn bầy dê đi về phía phải thì ném bên trái và ngược lại! Cùng với sợi dây len, người Tạng còn dựa vào màu sắc ánh sáng để dạy cho dê biết nơi nào có cỏ nơi nào không! Giả bột tsampa - món ăn truyền thống xứ Tạng Dải thắt lưng của người đàn bà trước mặt tôi, có lẽ khi cần cũng trở thành một dụng cụ buộc đá chăn dê không chừng! Người đàn vẫn nói như hát! Hay bà đã đang chữa bệnh cho tôi? Khi người cùng chung với phòng của tôi bị ốm. Một bác sỹ quân y đến khám. Sau một hồi rà soát thân thể, người bác sỹ kia phán rằng, muốn lành bệnh ông ta phải làm tình! Phải đến hơn ba lần hỏi , tôi mới xác định ông bác sỹ không đùa! Còn người bệnh, một ông già hơn sáu mươi sức đang tàn hơi đang kiệt lo vỡ mạch máu ấy gần như đổ xuống giường bất lực! Tôi bây giờ chẳng ai khuyên làm tình! Tôi bây giờ chỉ nghe người đàn bàn nói như hát! Ngoài kia con đường vẫn sáng mặc kệ mây lạnh phủ kín. Xa xa những cánh đồng tsampa vào mùa gặt, vàng mơ từng hạt tuyết lấm tấm. Trời mây khói. Núi tuyết. Lúa Tsampa. Và bộ áo quần hoa văn của người đàn bà đã làm nên một lễ hội màu sắc trong mắt tôi. Thiếu nữ Tạng Tôi vẫn bình tĩnh để biết, chắc rằng bà không phải là một vị Bồ Tát, một nữ thần Tara hiện ra giữa thị trấn xa xôi này để cứu tôi. Và bà cũng không phải Vũ công trên không gian - Yeshe Tsogyel, người đã biến hóa tan hòa vào khối tinh thể của vũ trụ để thấm nhuần đặc tính linh huyền của chân Không Diệu Hữu, đạt được khả năng tuyệt đối ứng xử mọi diệu dụng của chư Phật. Sinh 757 sau Công Nguyên, Yeshe Tsogyel là người phủ nữ huyền thoại của xứ Tạng. Chối từ mọi lời cầu hôn để yêu với một tình yêu tối thượng tâm linh với Padmasambhava, người đầu tiên truyền Phật giáo vào Tây Tạng. Sau khi được Padmasambhava chỉ lý nhân quả, vượt qua bao thăng trầm thử thách, Yeshe Tsogyel đã trở thành Phật, nàng hóa thân và hiện hữu khắp nơi, che chở xứ Tây Tạng bằng tấm lòng từ bi, trí tuệ và quyền năng vô lượng chiến đấu với các pháp sư đạo Bon trong tư thế ngồi kiết già trên hoa sen bay giữa không gian, lửa phun ra từ mười ngón tay, vẽ nên những sợi mềm như bơ và sau cùng phóng thành tia sét tiêu diệt đám phù thủy. Nàng mang lòng cảm hóa kẻ xấu thành người tốt và nàng cũng như đức Phật bị ma nữ quấy rỗi khi Ngài ngồi dưới bóng cây Bồ đê, nàng thú nhận nàng cũng bị hình ảnh những chàng trai tuấn tú và cường tráng cám dỗ. Thiếu nữ Tạng Tôi bây giờ chỉ là một xác tàn hoang dại, nhẹ hơn kiếp lá có gì đâu mà cám dỗ? Hay người đàn bà Tây Tạng này là một tín đồ của nữ anh hùng Machig Lapdron sống từ 1055 đến 1145 sau công nguyên, người đã khai sinh ra một trong những pháp môn quan trọng nhất của Phật giáo Tây Tạng và còn được lưu truyền cho đến những ngày hôm nay. Đó là Chod - pháp quán máu trong tử thi đông đặc lại! Những người tu theo pháp môn Chod, đêm đêm đi tìm kiếm xác chết để quán chiếu từng bộ phận của xác thân con người bị xẻ ra, nhưng không phải cho chim ăn mà họ lại bỏ vào nồi ninh nhừ rồi đem cho loài thú hoang ăn! Phía sau câu chuyện rùng rợn kia là một tâm linh huyền bí với ý nghĩa khi hành động như vậy, vị hành giả sẽ từ bỏ được những tham chấp bấu víu nơi thân xác, không còn bị thân xác sai khiến, con người không trở thành nô lệ của chính xác thân. Một hành động Xả Kỷ, Phá Chấp triệt để, từ bỏ thân xác để bước lên tầng tu thượng thừa hơn nữa! Thiếu nữ với gò má rám nắng Người đàn bà nói như hát! Tôi vẫn ngồi im lặng. Tôi chưa chết cho bà xẻ xác nấu chín cho thú hoang. Ngược lại, tùy theo tiết điệu lúc nhanh lúc chậm, khi cứng khi mềm, len lỏi vào thân thể làm những sợi dây thần kinh tím ngắt lần hồi chuyển màu. Lẽ nào người đàn bà là một nữ phù thủy của đạo Bon đang trình diễn huyền thuật trong quán Tsangfu Mặc dù xứ Tạng là xứ Mẫu hệ, một người đàn bà có thể lấy nhiều chồng, một người đàn bà có thể lấy hai anh em nhưng tôi biết trong mắt tăng lữ, các nữ tu bị xem thường. Theo quan niệm, phụ nữ “thân bất tịnh” bởi thời kỳ kinh nguyệt nên người phụ nữ không được bước vào chốn thiêng liêng. Ngay cả một người tư bi vô lượng như Phật cũng không cho phụ nữ làm Chuyển Luân Thánh Vương, thậm chí là Ma vương, làm ma cũng không được! “Khi người phụ nữ có kinh nguyệt thì bị đau đớn, dơ bẩn, hôi hám và những triệu chứng đó gây ra những trạng thái bất thường hay bất ổn tâm lý cho người nữ. Vì thế người nữ không tập trung thiền định, hay mất cân bằng tâm trí. Đó là một trong nhiều trở ngại lớn của người nữ trong công cuộc thăng hoa tâm linh! Như con sóng đầu nguồn suối theo âm thanh kia về với biển cả. Tôi đã tỉnh dậy. Dòng máu trên khuôn mặt tan chảy. Sự thê thảm trong ánh nhìn đã xanh hơn. Và tôi tiếp tục bưng bát cơm lên ăn hết phần còn lại. Tôi nhớ tiếng hát cô Yêm, người y tá săn sóc tôi. Hai mươi năm đã qua, nhưng tôi vẫn nhớ lời những bài hát, giai điệu âm thanh, tiếng thở lấy giọng của người nữ y sỹ đã dùng tiếng hát băng bó tâm hồn đau đớn của tôi. Nhưng người đàn bà không hát, chỉ nói như hát! Người đàn bà bước vào bếp. Trên tay bưng một cốc sữa. Sữa không khói nhưng sao ấm bàn tay. Cái cốc sữa làm tôi nhớ một đêm xưa bên bờ sông Hương, trong cơn sốt quằn quại, Thanh - một kỷ nữ vĩa hè đã trao cho tôi. Thanh bây giờ đã chết. Chồng Thanh bắt Thanh phải đi đêm. Thanh nhục. Thanh tự tử. Mộ Thanh xanh từ lâu trên núi Ngự Bình. Tôi nâng ly sữa nhấp môi lần thứ nhất. Bisaso! Trời ơi! Mùi sữa thơm da thịt người! Nhưng không thể dừng tay! Tôi lại nhấp lần thứ hai theo đúng lễ nghi trước khi uống cạn. Sữa chảy đến đâu tâm thế tôi tươi xanh tới đó. Tựa cây khô thay hoa ra lá khi mùa xuân đến. Tôi ngước mắt nhìn cảm ơn người đàn bà Tây Tạng. Người đàn bà mỉm cười. Trước khi chị quay vào bếp tôi vừa kịp nhìn thấy, trên ngực áo khoác lông dê đẩm ướt bầu vú cao! Sữa, thức ăn đầu tiên của một đời người, theo ngôn ngữ Mật tông, sữa là là boddhicita, là ý nghĩ vừa là tinh khí vươn đến tâm điểm rốn. Tôi đã đọc được ý nghĩ của sữa, dòng tinh khí tuôn chảy vào lòng tôi! Và tôi đi tìm cội nguồn sinh ra dòng sữa tươi đang miên mãn máu xương tôi. Nồng nàn khói phân dê. Đôi vú người đàn bà Tây Tạng nhô cao bầu trời! Một bầu trời đầy đặn ánh sáng soi sáng góc bếp. Những giọt sữa trắng như hoa tuyết trên cánh đồng tsampa vương đọng trên môi đứa bé vài ba tháng tuổi. Vú là tiếng nói của tình yêu thương. Nhìn vào vú, người ta có thể biết tính cách một dân tộc Vú có quan hệ với bản nguyên nữ, có sự chừng mực trong giới hạn, vú phải tượng trưng cho mặt trời vú trái tượng trưng cho mặt trăng. Là nơi cho thân phận ẩn náu ngay khi vừa ra đời, là sự hứa hẹn tái sinh của nhân loại. Tôi đã đi qua bao nền văn minh vú. Vú Trung Đông huyền bí, hai nhũ hoa cô đơn như hai con mắt sa mạc xa xăm. Vú Nam Âu nồng ấm, không sáng lạnh như vú Bắc Âu, rất mềm mại nhưng khó nâng trên tay vì tính buông thả. Vú Trung Mỹ hồn nhiên, biến tất cả trở thành con trẻ trước khuôn ngực mênh mông. Vú Digan nồng nàn mà u sầu, từng đường cơ khi nằm hay lúc ngồi, vú đều cong lên chờ đợi. Vú châu Phi, dù đến kiếp sau vẫn không chừa tính khiêu khích, nó ngược lại với sự khiêm tốn, hai bầu vú ẩn kín nội lực sung mãn trong tư thế thiền định trên ngực con gái châu Á. Bao nhiêu miền vú bao nhiêu miền tính cách nhưng không thể, không bao giờ có một đôi vú kỳ diệu và lạ lùng như vú Himalaya. Rất tự do, như người đàn bà Tạng vào mùa nóng hồn nhiên tụt áo xuống mông, lộ mình trần mà đi chăn dê, đôi vú không hề ưu tư trước mắt kẻ lạ! Nó mang đến một trạng thái hồn nhiên bao la cho thế giới. Nó làm cho trái đất lịm tắt tiếng súng. Nó gội sạch mùi bom đạn vốn hòa tan trong dòng sữa Mẹ năm xưa tựa vào vách hầm chữ A nuôi nấng tiếng khóc đầu tiên của tôi vươn qua từng đêm chiến tranh. Lần đầu tiên tôi thấy Qomolangma hoang mang. Trước bầu vú, nó không còn là những đỉnh cao nhất trên trái đất này. Như biết tôi đang say sưa. Người đàn bà kéo rộng vạt áo lông dê. Cả khuôn ngực hiện ra vời vợi. Hai bầu vú sung mãn, nguồn sữa nhân loại dường như xuất lộ từ đây. Sữa đầy nhưng bầu vú không ngã nhoài mà tự tin đến ngạo nghễ vươn lên. Uống dòng sữa này, trong giống người hiện đại - Homo sapiens, ngoài đức tính khôn ngoan còn có ngây thơ! Tôi muốn làm con trâu Yak ngây thơ cọ quàng nhặt sữa dưới bóng trời Tsangfu! Bởi trước khi thành Phật, đôi môi Milarepa, cũng như tôi và nhân loại đã bay lên từ loài trời vời vợi tình yêu thương này! Âm thanh từ đôi vú màu mật ong lại ngân dài qua da thịt như hát trong vòm bếp ám khói. Những nồi chảo úp lên tường đất giống đám vú bám lên vách đá. Người đàn bà có giống vị lama đầu bếp giác ngộ, truyền sức mạnh tâm linh vào từng hạt cơm miếng canh tôi ăn. Chảy trong mình dòng sữa thơm của người đàn bà Tây Tạng, tôi chợt hiểu Phật đã nhầm vì trong mắt tôi người đàn bà chủ quán Tsangfu đã thành Phật trong hình tướng một người nữ! Nếu không, bà sẽ không bao giờ luyện được phép trị bệnh bằng âm thanh câu thần chú linh thiêng nhất xứ sở Tây Tạng mà tôi đã nghe thấy hơn một năm về trước trong buổi hoàng hôn cuối cùng Hilversum, trước khi chia tay Hà Lan!