🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tam Tạng Pháp Số
Ebooks
Nhóm Zalo
Tam Tạng Pháp Số
Mục Lục
Lời người dịch
Lời nhận xét
Lời giới thiệu
Nhất
Nhị
Tam
Tứ
Ngũ
Lục
Thất
Bát
Cửu
Thập
Thập nhất - bát bạn tứ thiên
Phụ lục I: Bảng đối chiếu tù dịch âm Việt - Hán - Phạn
Phụ lục II: Danh mục kinh luận làm căn cứ trong tam trạng pháp số
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach
LỜI NGƯỜI DỊCH
VỀ ĐẠI MINH TAM TẠNG PHÁP SỐ
Thời Minh ở Trung Quốc là thời kì cực thịnh của việc dùng từ Pháp Số làm tên sách, trong đó, pháp sư Hành Thâm 行深法師 là người đầu tiên biên soạn sách lấy tên Pháp Số, thành sách vào năm 1387. Ban đầu đặt tên là Chư Thừa Pháp Số 諸乗法數, do sách này lấy kinh điển, giáo nghĩa tông phái Hiền Thủ 賢首宗 làm ngữ liệu chính trong quá trình biên soạn nên thường được gọi với tên Hiền Thủ Pháp Số 賢首法數, có hơn 2100 mục từ. Khoảng 25 năm sau, tức năm 1419, pháp sư Nhất Như 一如法師cùng các vị cao tăng khác phụng theo chiếu chỉ hoàng đế Vĩnh Lạc 永樂皇帝 biên soạn bộ Tam Tạng Pháp Số 三藏法數, thành sách vào quãng năm 1424, do sách này lấy ba kho tàng Kinh, Luật, Luận làmngữ liệu trong quá trình biên soạn nên thường được gọi là Tam Tạng Pháp Số, có 1555 mục từ. Nămnăm sau, tức vào quãng niên hiệu Tuyên Đức 宣德, pháp sư Viên Tĩnh 圓瀞 法師 soạn bộ Giáo Thừa Pháp Số 教乘法數, sách này chủ yếu lấy kinh điển, giáo nghĩa tông Thiên Thai 天臺宗 làm căn cứ, có gần 3200 mục từ. Sau cùng, pháp sư Tịch Chiếu 寂照 dựa vào quy cách của bộ Pháp Số của pháp sư Nhất Như soạn bộ Đại Tạng Pháp Số 大藏法 數, gần 4700 mục từ.
Xét về mặt thời gian, bộ Tam Tạng Pháp Số do pháp sư Nhất Như chủ biên được xếp vị trí thứ hai, xét về số lượng đây là bộ Pháp Số có mục từ ít nhất. Tuy nhiên, xét về số lượng thuật ngữ Phật học được giải thích cụ thể thì sách này lại nhiều nhất, tổng cộng có hơn 10.000 từ. Xét về quy tắc biên soạn, về tính rõ ràng chuẩn xác thì bộ Tam Tạng Pháp Số ưu việt hơn hẳn, thậm chí pháp sư Tịch Chiếu còn xem đây là mẫu mực để soạn bộ Đại Tạng Pháp Số của mình. Đặc điểm chung của các bộ sách Pháp Số là đều nói rõ xuất xứ của mỗi mục từ được nêu, đây được xem là tính ưu việt chung của sách nghiên cứu Phật học thời bấy giờ. Tuy nhiên, hai bộ của pháp sư Hành Thâm và Viên Tĩnh thì quá đơn giản, vắn tắt đến nỗi các nhà Phật học nhận xét là “sơ lậu 疏漏” do đơn giản quá mức đến nỗi bỏ sót nhiều chỗ, tất cả các mục từ chỉ nêu tên mà không giải thích nghĩa cụ thể. Ngược lại, bộ Pháp Số của pháp sư Tịch Chiếu thì cách giải thích từ quá cặn kẽ đến mức rườm rà, phức tạp, khó hiểu. Bộ Pháp Số của pháp sư Nhất Như đã tránh được hai điểm thiếu sót vừa nêu, tính ưu việt đó thể hiện qua mấy điểm sau:
1. Mỗi mục từ đều được giải thích cụ thể theo cách “dĩ kinh chứng kinh” tức lấy kinh điển làm căn cứ giải thích kinh điển.
2. Phân biệt rõ ràng những thuật ngữ đồng âm nhưng dị nghĩa theo quan điểm khác nhau của các tông phái khác nhau trong đạo Phật.
3. Chú thích rõ ràng toàn bộ các từ dịch âm gốc Phạn.
4. Chú thích rõ tất cả những từ ngữ dễ bị hiểu nhầm trong các mục từ, nếu có.
5. Nêu dẫn chứng cụ thể, chính xác theo mạch ý nghĩa của từ đặt trong nguồn được trích dẫn.
Đây chính là nguyên nhân khiến bộ Pháp Số do nhóm pháp sư Nhất Như biên soạn là bộ duy nhất được đưa vào đại tạng kinh điển Phật giáo như Vĩnh Lạc Bắc tạng 永樂北藏, Tần Già tạng 頻伽 藏, Càn Long tạng 乾隆藏 … đồng thời đây cũng là bộ Pháp Số duy nhất mang tên đại diện cho thời vàng son
của các bộ Pháp Số mà người đời trân trọng đặt cho là Đại Minh Tam Tạng Pháp Số.
Từ Pháp Số do hai thành tố là: từ ngữ chuyên dụng chỉ giáo lí Phật giáo (Pháp) và số từ làm biên mục (Số) kết hợp lại mà thành; do không thiên về một tông phái nào trong Phật giáo như các bộ Pháp Số khác, các mục từ trong sách này đã căn cứ vào hơn 270 bộ Kinh, Luật, Luận trong Tam Tạng kinh điển làm nguồn ngữ liệu, do vậy được gọi là Tam Tạng; trong các bộ pháp số thời Minh, đây là bộ sách thích nghĩa súc tích, dễ hiểu và có nhiều điểm ưu việt nhất trong các sách cùng loại, xứng đáng là bộ mang tính tiêu biểu của Pháp Số thời Minh, do vậy gọi là Đại Minh; kết hợp ba điều vừa nêu thành nhan đề của sách là Đại Minh Tam Tạng Pháp Số vậy. Từ ngữ chỉ giáo pháp trong sách được biên mục theo thứ tự từ nhất đến bát vạn tứ thiên cụ thể là từ nhất tâmđến bát vạn tứ thiên pháp môn, tổng cộng có 50 quyển. Đầu tiên sách này được Thượng Hải Y Thư Cục 上海 醫書局 in riêng thành sách và phát hành vào năm 1923, trong đó Đinh Phúc Bảo 丁福寶 là người chịu trách nhiệm trùng giảo, Hoàng Trung 黃忠 soạn mục thông kiểm tức soạn phần về các tra cứu. Trong lần in này, Đinh Phúc Bảo đã không in phần bài tựa đầu sách của nhóm soạn giả mà thay vào đó ông thêm vào bài tựa trùng khắc và lời bạt.
VỀ SOẠN GIẢ NHẤT NHƯ
Pháp sư Thích Nhất Như 釋一如, người Cối Kê 會稽, trú trì chùa Thiên Trúc Giảng thượng 上天 竺講寺, do ba chùa cùng tên, cùng núi nên đặt chùa Thiên Trúc Giảng thượng, chùa Thiên Trúc Giảng trung và chùa Thiên Trúc Giảng hạ, Hàng Châu 杭州 nay là phố Hàng Châu, Triết Giang, Trung Quốc. Theo sách Thích Giám Kê Cổ Lược Tục Tập 釋鑑稽古略續集 của tỉ khâu Đại Văn Huyễn Luân 大聞幻輪 và sách Hàng Châu Thượng Thiên Trúc Giảng Tự Chí 杭州上天竺講寺志 của Thích Quảng Tân 釋廣賓 ghi thì vào năm 1419 có tám vị pháp sư, trong đó có Nhất Như, Thiện Thế… phụng chiếu vua Vĩnh Lạc giảo khám Đại tạng, đối chiếu bản cũ mới để hoàn thành bộ Vĩnh Lạc Bắc tạng. Thích GiámKê Cổ Lược Tục Tập, cuốn 2 ghi “ngày mùng 3 tháng 3, ban mệnh cho tám người như Đạo Thành, Nhất Như giảo khám tạng kinh, đối chiếu mới cũ, tụ tăng ghi chép” 三 月初三,命道成一如等八人,校勘藏经。新舊比對。聚僧寫錄 Tam nguyệt sơ tam, mệnh Đạo Thành, Nhất Như đẳng bát nhân, giảo khám tạng kinh, tân cựu tỉ đối, tụ tăng tả lục. Đoạn nói về sách Pháp Số ghi rằng “cuốn Đại Minh Pháp Số, pháp sư Nhất Như, phụng sắc nghiên cứu kinh điển trong Đại tạng, chọn lựa tập hợp lại để biên soạn các mục từ có cùng chủng loại. 大明法數一如法 師,奉敕探討大藏群經,採集類編. Đại Minh Pháp Số, Nhất Như pháp sư, phụng sắc thám thảo Đại tạng quần kinh, thái tập loại biên. Ngoài đoạn ghi tả về soạn giả Nhất Như trong hai sách vừa nêu chỉ nói về sách Pháp Số và soạn giả như vậy, ngoài ra, có đoạn ghi rời về chức năng, nhiệm vụ của pháp sư được nhà vua giao chứ không thấy nói gì thêm về năm sinh, năm mất. Nhưng theo bài tựa của Đinh Phúc Bảo ghi trong lần ấn hành đầu tiên, ông nói sư Nhất Như “là người có tư chất thông minh bẩm sinh lại tinh cần học hỏi, khả năng ghi nhớ tốt. Kinh điển Đại thừa, Tiểu thừa hễ lướt mắt qua là thuộc nằm lòng dường như đã gieo duyên từ tiền kiếp. Xuất gia tại chùa Thiên Trúc Giảng thượng ở Hàng Châu, là đệ tử của pháp sư Cụ Am 具
菴, được truyền thừa chân chính từ thầy. Rộng thông giáo nghĩa, giảng thuyết hùng biện, sở trường về kinh Pháp Hoa, có trước tác bộ Pháp Hoa Kinh Khoa Chú 法華經科注. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc, sắc mệnh biên tu Đại tạng, trong đó sư giữ chức tổng quản công trình, sau thăng giữ chức quản lí tăng đoàn tăng lục ti của Xiển giáo, thị tịch vào tháng 3 năm thứ nhất niên hiệu Hồng Hy 1425, được vua Nhân Tông ban lễ tế tang”. (Theo Trùng khắc Đại Minh Tam Tạng Pháp Số tự). Như vậy, các vị soạn giả của sách đều là những vị cao tăng thời đó, tuy nhiên tiểu sử các ngài không được ghi rõ, thậm chí sách Đại
Minh Cao Tăng truyện còn không tìm thấy đến tên các ngài, đây quả là một thiếu sót.
Qua thông tin về tác giả và tác phẩm vừa nêu, chúng ta thấy rằng, Tam Tạng Pháp Số là công trình biên soạn tập thể, là kết tinh của trí tuệ tập thể đồng thời cũng là sách công cụ nghiên cứu Phật học đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc được một tập thể biên soạn theo cách không phân chương mục cụ thể cho từng soạn giả. Soạn giả là những người ưu việt hiển nhiên sẽ cho chúng ta tác phẩm ưu việt như lời của học giả Đinh Phúc Bảo nhận xét “các tác giả đều là những bậc kiệt xuất nhất của một thời” vậy. So với các bộ từ điển hiện đại, các mục từ trong Tam Tạng Pháp Số này vẫn thể hiện tính ưu việt của mình ở điểm giải thích từ vắn gọn, súc tính chiết trung; cung cấp đúng thông tin mà người học Phật cần đến không quá mức phức tạp cũng không quá đơn giản, rất đáng được soạn dịch để giới thiệu đến người nghiên cứu, tìm hiểu Phật học. Có thể nói, đây là sách công cụ thuần Phật học nhất trong các sách công cụ Phật học hiện có, đấy chính là lí do mà sách này có trong tay độc giả.
PHAN TRƯƠNG QUỐC TRUNG
THÍCH QUANG ĐỊNH
LỜI NHẬN XÉT
Dịch thuật kinh điển Phật giáo là công việc rất quan trọng và rất cần thiết trong việc hoằng dương giáo lý. Ở Việt Nam, việc chuyển dịch Phật điển không những góp phần vào việc kiện toàn Pháp tạng bằng tiếng Việt mà còn có tác dụng làm phong phú thêm kho từ vựng tiếng Việt. Bởi, trong kho từ vựng tiếng Việt đã có một lượng từ ngữ có nguồn gốc từ Phật học khá nhiều như kiếp, nghiệp, duyên, thế giới, Dạ xoa, La sát, sám hối... Tuy nhiên, dịch thuật Phật điển là công việc đòi hỏi người dịch phải nắm vững nhiều kiến thức tổng hợp, trong đó, trước hết là kiến thức Phật học, tiếp theo là kiến thức về tiếng Hán cổ, thứ ba là kiến thức về tiếng Việt. Ba mảng kiến thức này bắt buộc một người làm công tác dịch thuật Phật điển phải kiện toàn, không thể thiếu mảng nào. Nếu không có kiến thức Phật học tất nhiên sẽ không thể dịch kinh Phật; có kiến thức Phật học nhưng không biết tiếng Hán, nhất là tiếng Hán cổ thì cũng không thể đọc hiểu và phiên dịch kinh Phật. Song, nếu chỉ có kiến thức Phật học, biết tiếng Hán cổ nhưng không biết tiếng Việt cũng sẽ khó có được bản dịch đúng, bản dịch hay bằng tiếng Việt chuẩn mực.
Bản Tam Tạng Pháp Số bằng tiếng Việt được chuyển dịch từ nguyên tác cùng tên trong tiếng Hán của đại đức Thích Quang Định, chúng tôi nhận thấy vài ưu điểm, trong đó, nổi bật nhất là dịch giả đã dịch đúng ý nguyên tác; thứ đến là đã diễn đạt bằng tiếng Việt rõ ràng, dễ hiểu. Ngoài ra, dịch giả đã không lạm dụng âm Hán – Việt trong quá trình chuyển dịch; những đơn vị từ, ngữ trong nguyên tác đã được phiên chuyển thành những từ, ngữ đúng với cấu trúc ngôn ngữ Việt, nhờ vậy dịch giả đã mang lại cho người đọc một bản dịch khá hay. Chúng tôi hoan hỷ tán thán việc làm này của đại đức, thông qua đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bản dịch Tam Tạng Pháp Số này đến với những người yêu quý giáo lý Phật giáo nói chung và những người con Phật nói riêng.
Huế, ngày đức Bổn Sư Thích Ca xuất gia, Phật lịch 2560
Phó trưởng ban Hoằng Pháp Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phó trưởng ban trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng Pháp Phật Giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế
LỜI GIỚI THIỆU
Pháp Số là những thuật ngữ, những quán ngữ Phật học được sử dụng với tần suất cao nhất trong kinh văn Phật giáo; nó có cấu trúc ổn định về mặt từ pháp: do từ ngữ chỉ con số kết hợp với từ chỉ giáo lý đạo Phật kết hợp lại mà thành, cụ thể là, chữ “Pháp” chỉ chung cho những từ ngữ chuyển tải giáo pháp Phật giáo, chữ “Số” là cách phân chia theo số lượng, tầng bậc, trật tự, cách thức…của giáo Pháp đó. Ví dụ trong từ “Bát chính đạo”, chữ “bát” ở đây muốn nói rằng “chính đạo” trong Phật học gồm có “tám” phần; còn các phần từ một đến tám nói lên trật tự trước sau được sắp xếp theo logic của tiến trình đi đến giải thoát của con đường đó. Thực tế cho thấy, việc học tập nghiên cứu giáo lý Phật giáo của mọi đối tượng từ sơ cơ cho đến các nhà nghiên cứu Phật học đều bắt buộc phải nắm vững và ghi nhớ các Pháp Số, vì nếu các Pháp Số cơ bản như Tam bảo, Tứ đế, Ngũ uẩn, Lục đạo, Thất giác chi, Bát chính đạo, Thập nhị nhân duyên…mà vẫn chưa nắm vững thì chắc chắn sẽ không thể tiếp tục tiến xa hơn trên con đường nghiên cứu Phật học. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy Pháp Số còn là một cách “số hóa” giáo pháp, giúp người học, dễ nhớ nội dung của các bản kinh, luận nhà Phật.
Cuốn Tam Tạng Pháp Số của sa môn Thích Nhất Như chúng tôi thấy có mấy điểm nổi bật: 1. Cung cấp cho người đọc biết nguồn gốc xuất xứ và sự khác biệt về nội dung của Pháp Số giữa các bản kinh, giữa các trường phái khác nhau trong đạo Phật. 2. Giải thích nội dung của các Pháp Số bằng tài liệu tham khảo cấp 1, tức hình thức “lấy lời kinh Phật để chú giải cho nội dung kinh Phật”. 3. Các mục từ trong sách này đều là những từ được sử dụng rộng rãi và tần suất sử dụng cao. Đây là một bộ sách rất hay, rất hữu ích cho những người nghiên cứu Phật học, đặc biệt là quý vị tăng, ni sinh, nay đã được đại đức Thích Quang Định chuyển dịch thành tiếng Việt, chúng tôi thấy bản dịch có mấy ưu điểm: 1. Bản dịch sử dụng tiếng Việt đúng quy phạm, thể hiện qua cách dùng từ, câu theo chuẩn từ pháp và cú pháp tiếng Việt hiện đại. 2. Không lạm dụng âm Hán – Việt trong quá trình chuyển dịch, do vậy bản dịch sáng, rõ, dễ hiểu. 3. Biết vận dụng lí thuyết phiên dịch học hiện đại kết hợp vận dụng uyển chuyển lí luận phiên dịch “ngũ chủng bất phiên” của Huyền Trang vào trong việc dịch thuật sách Phật từ tiếng Hán sang tiếng Việt. Do vậy, chúng tôi đánh giá cao bản dịch này của đại đức. Nay, chúng tôi hoan hỉ giới thiệu bản dịch này với quý vị độc giả.
Từ Đàm, Phật lịch 2560
Phó trưởng ban Văn Hóa Trung Ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Trưởng ban Văn Hóa Phật Giáo tỉnh Thừa Thiên – Huế
NHẤT
Đệ nhất nghĩa 第一義 Đệ nhất nghĩa
Xuất xứ: Đại Tập Kinh 大集經
Đệ nhất nghĩa tức diệu lí thậm thâm vô thượng: thể tính nó tịch lặng, tính nó rỗng rang dung chứa, không tên gọi không hình tướng, dứt hẳn sự luận bàn, chặt đứt sự tư duy về tướng trạng ấy. Kinh Đại Tập nói: “Lí thậm thân không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt, chân lí đệ nhất nghĩa không vướng vào âmthanh, văn tự 甚深之理不 可說,第一義諦無聲字 Thậm thâm chi lí bất khả thuyết, Đệ nhất nghĩa đế vô thanh tự.” tức chỉ cho ý này.
Không vướng vào âm thanh, văn tự ý nói đã lìa khỏi sự ràng buộc của hình thức âm thanh, văn tự. Nhất âm 一音 Một âm thanh; Tiếng nói duy nhất
Xuất xứ: Duy Ma Kinh 維摩經
Nhất âm, chỉ một âm thanh của Phật. Căn cơ chúng sinh có cạn, sâu, có lanh lợi có chậm lụt nên trong cùng một âm thanh mà họ nghe thành khác nhau. Nếu chúng sinh thuộc căn cơ khí chất của người, trời ắt nghe Phật nói về pháp năm giới cấm, mười điều thiện; nếu căn cơ của hàng Thanh văn ắt nghe âmthanh đó thành pháp Tứ đế; nếu căn cơ hàng Duyên giác ắt nghe thành pháp mười hai nhân duyên; nếu căn cơ Bồ tát ắt nghe lời đó của Phật thành các pháp Lục độ…. cuối cùng ai cũng hiểu lời Phật theo căn tính của mình, thế nên kinh nói “Phật dùng một âm thanh để diễn thuyết chính pháp, chúng sinh được thấu tỏ tùy theo chủng loại căn tính của mình 佛以一音演說法,眾生隨類各 得解 Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh tùy loại các đắc giải.” tức chỉ cho ý nghĩa của từ Một âm thanh này.
Nhất âm giáo 一音教 Giáo pháp dưới một âm thanh duy nhất; Giáo pháp bằng một ngôn ngữ duy nhất
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Nhất âm giáo, chỉ giáo pháp mà một đời Như Lai diễn thuyết, giáo pháp ấy có đốn, tiệm khác nhau nhưng đều được diễn thuyết dưới một âm thanh của Phật. Thế nên pháp sư La Thập 羅 什 nói “Một âmthanh viên mãn của Phật, bình đẳng chẳng hai, ứng khớp một cách công bằng nhưng đối tượng nghe có căn cơ khác nhau nên có sự sai khác 佛一圓音平等無二無思普應機 聞自殊 Phật nhất viên âm, bình đẳng vô nhị, vô tư phổ ứng, cơ văn tự thù.”.
La Thập, xem thêm từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất âu 一漚 Một cái bọt nước; Một bong bóng nước
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
Bọt nước tức bong bóng nước. Biển vốn trong lặng, do gió bão thổi vỗ dấy lên thành bọt nước, ví như thể tính đại giác vốn chân thật thanh tịnh, trong sáng vi diệu nhưng do tâm vọng động mà thế giới hư không dấy lên. Thế giới hư không trong thể tính đại giác cũng giống như một chiếc bọt nước trong đại
dương vậy. Kinh nói: “Hư không sinh khởi trong đại giác, như một chiếc bọt nước nổi lên trong biển lớn 空生大覺 中, 如海一漚發 Không sinh đại giác trung, như hải nhất âu phát” là chỉ cho ý này.
Nhất cái 一蓋Một chiếc lọng; Một cái lọng
Xuất xứ: Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh 維摩詰 所說經
Kinh nói: ở thành Tì da li có thanh niên tên Bảo Tích, con của vị trưởng giả cùng với năm trăm thanh niên con của các trưởng giả khác đều cầm chiếc lọng thất bảo đến cúng dường Phật. Uy thần của Phật khiến các lọng báu hợp thành một chiếc lọng che khắp thế giới đại thiên. Tướng trạng dài rộng của thế giới ấy đều hiện trong chiếc lọng ấy. Năm trăm chiếc lọng tượng trưng cho năm ấm, hợp thành một chiếc lọng tượng trưng cho nhất tâm. Hình ảnh này nhằm mục đích hiển bày các pháp năm ấm đều do một tâm này thôi vậy.
Tì da li, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất căn 一根 Một giác quan; Một căn; Nhất căn
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
Một giác quan ở đây chỉ nhĩ căn (tai). Bởi người trong cõi này có nhĩ căn nhanh nhạy nhất, nghe pháp dễ vào nên khi Văn Thù chọn cửa viên thông thì lấy nhĩ căn làm đầu. Sở dĩ lấy nhĩ căn làm cửa viên thông vì chỉ có nhờ vào nhĩ căn mới đi vào cửa viên thông, sau đó nó thoát li khỏi âm thanh bên ngoài để đi ngược lại lắng nghe tự tính thế rồi mới đi đến cùng cực của việc trở về nguồn cội. Một căn đã như thế (tức nhĩ căn đã trở về điểm cùng cực của cội nguồn), thì các căn còn lại cũng sẽ như thế (tức cũng sẽ tự nhiên đi về điểm cùng cực của cội nguồn). Kinh nói: “Một căn đã trở về cội nguồn ắt sáu căn cũng sẽ giải thoát 一根既返源,六根成解脫 nhất căn kí phản nguyên, lục căn thành giải thoát.”.
Nhất châm 一針 Một cây kim
Xuất xứ: Phạm Võng Kinh 梵網經
Kinh nói “một cây kim, một ngọn cỏ không được cố ý lấy cắp 一針一草不得故盜 nhất châm nhất thảo, bất đắc cố đạo” ý nói người trì giới thì vật tuy bé nhỏ cũng chẳng được cố ý lấy cắp.
Nhất chân pháp giới 一真法界 Pháp giới chân thật thuần nhất
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Pháp giới chân thật thuần nhất với hàm nghĩa: không phải hai nên gọi là thuần nhất, không hư vọng nên gọi là chân thật, chúng giao hòa dung chứa trong nhau nên gọi là pháp giới. Do vậy pháp giới chân thật thuần nhất chính là pháp thân bình đẳng của chư Phật, từ xưa đến nay không sinh không diệt, chẳng phải rỗng không cũng chẳng phải hiện hữu; tách biệt với tên gọi và hình tướng, không có trong hay ngoài mà chỉ có một trạng thái thuần nhất chân thực không thể nghĩ bàn nên gọi là pháp giới chân thật thuần nhất.
Nhất chỉ 一指 Một ngón tay
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
Một ngón tay, kinh nói: “sau khi ta diệt độ, nếu có tỉ khâu phát tâm quyết định tu Tam ma đề, đứng trước hình tượng Như Lai đốt thân thành đèn hoặc đốt một ngón tay hoặc thắp một nén hương trên mình, ta nói người ấy đã trả hết oan trái vô lượng kiếp trước trong giây phút ấy. Vị ấy đã vĩnh viễn thoát khỏi thế gian, cởi hết lậu hoặc 若我滅後其有比丘發心决定脩三摩提 能於如來形像之前身
然一燈燒一指節及於 身上爇一香炷我說是人無始宿債一時酬畢 長揖世間永脫諸漏 nhược ngã diệt hậu, kì hữu tỉ khâu phát tâm quyết định tu Tam ma đề, năng ư Như Lai hình tượng chi tiền, thân nhiên nhất đăng, thiêu nhất chỉ tiết cập ư thân thượng nhiệt nhất hương chú, ngã thuyết thị nhân vô thủy túc trái nhất thời thù tất, trường ấp thế gian, vĩnh thoát chư lậu.”.
Tam ma đề, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất chứng nhất thiết chứng 一證一切證 Một chứng tất cả chứng; Tỏ ngộ một điều ắt tỏ ngộ tất cả; Chứng ngộ một điều ắt chứng ngộ tất cả
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Một chứng tất cả chứng, ý nói hàng thượng căn vận dụng trí tuệ vi diệu viên mãn, soi tỏ tính cảnh viên dung, vô thủy vô chung, không cạn không sâu, không có không không, trọn vẹn mọi pháp, thông suốt mọi cõi thế nên nói chứng nhập một điều ắt mọi điều khác cũng được chứng nhập.
Nhất chướng nhất thiết chướng 一障一切障 Một chướng tất cả chướng; Chướng ngại một việc tức tất cả đều chướng ngại
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Một chướng tất cả chướng, ý nói chúng sinh tạo ác, một ý niệm sân khởi lên sẽ mở ra trăm vạn lối chướng ngại, tiêu mất tất cả gốc rễ điều thiện, tất nghiệp chướng đồng loạt tăng trưởng, thế nên nói một chướng tất cả chướng.
Nhất cơ 一機 Một cơ quan; Nhất cơ
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
Cơ với nghĩa là cơ quan, tức then chốt của việc phát ra động lực. Một cơ quan ở đây dùng để ví cho nhĩ căn. Khi một căn phản nguyên, các căn khác sẽ được giải thoát. Kinh nói “tuy thấy các căn động, then chốt chỉ tại một cơ quan nẩy ra 雖見諸根動要在一機抽 tuy kiến chư căn động, yếu tại nhất cơ trừu” tức chỉ cho ý này.
Nhất cú 一句 Một câu
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Một câu, ý nói công đức của một câu trong pháp môn Phổ nhãn普眼 cũng chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm nói “Giả sử có người dùng lượng mực bằng biển lớn, dùng bút chất lớn như núi Tu di để ghi chép pháp môn Phổ nhãn này, một môn trong một phẩm này, một pháp trong một môn này, một nghĩa trong một pháp này, một câu trong một nghĩa ấy cũng chẳng được phần nhỏ huống gì là ghi hết được? 假使有人以大海量墨須彌聚筆書寫此普眼 法門一品中一門一門中一法一法中一義一義中一句不得少分何况能盡 giả sử hữu nhân, dĩ đại hải lượng mặc, Tu di tụ bút, thư tả thử Phổ nhãn
pháp môn, nhất phẩm trung nhất môn, nhất môn trong nhất pháp, nhất pháp trung nhất nghĩa, nhất nghĩa trung nhất cú bất đắc thiểu phần, hà huống năng tận?”.
Nhất cực 一極 Tột cùng duy nhất; Cứu cánh duy nhất; Nhất cực
Xuất xứ: Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ 普 賢行願品疏
Nhất cực tức một điểm tột cùng, ý nói tông chỉ của pháp giới mà kinh Hoa Nghiêm đã bàn rộng ra tột cùng vi diệu, thuần nhất không hai. Thế nên Như Lai ra đời đầu tiên diễn thuyết cảnh giới chân thật của Phật và Bồ tát cho hàng đại Bồ tát nghe chứ không nói đến pháp phương tiện của hàng nhị thừa. Do vậy bậc Thanh văn, Duyên giác tuy nghe nhưng như người điếc, chẳng tiếp thu được gì. Sớ Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói “diễn xướng pháp cao tột duy nhất, hàng nhị thừa không thể nghe hiểu 一極唱高 二
乘絕聽 nhất cực xướng cao, nhị thừa tuyệt thính” là chỉ cho nghĩa này.
Nhất danh 一名 Một tên gọi; Nhất danh
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Danh tức tên gọi, ý nói chân lí phải nhờ vào ngôn ngữ để diễn đạt, do vậy có vô vàn sự sai khác. Như trong kinh chỉ có một tên gọi là Niết Bàn nhưng Như Lai đã tùy theo căn cơ, trường hợp mà diễn thuyết, khai triển với các tên gọi khác như Vô sinh, Vô tác, Vô vi, Giải thoát, Bỉ ngạn, Vô thối, An xứ, Tịch tĩnh, Vô tướng, Vô nhị, Nhất hạnh, Thanh lương, Vô tránh, Cát tường… tuy lập nên nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cũng chỉ mang một ý nghĩa là Niết Bàn như thế gọi là Một tên gọi.
Nhất đại sự nhân duyên 一大事因緣 Một đại sự nhân duyên; Một nhân duyên lớn Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Nhất ở đây chỉ tướng chân thật duy nhất, do thể tính của tướng ấy rộng lớn nên gọi là Đại, nghi thức xuất thế độ sinh của Như Lai nên gọi là Sự, chúng sinh có đủ thực tướng ấy mới tạo nên sự cảm ứng của Phật nên gọi là Nhân, Như Lai chứng đắc thực tướng này mới khởi tác dụng độ sinh nên gọi là Duyên. Các đức Như Lai xuất hiện trong đời đều vì mục đích khai thị thực tướng vốn sẵn trong mọi chúng sinh, giúp chúng sinh đều ngộ nhập tri kiến Phật. Bỏ điều này ắt chẳng phải tâm nguyện căn bản của việc ra đời của Như Lai. Kinh nói “Như Lai do một nhân duyên đại sự mà xuất hiện trong đời 如
來 惟以一大事因緣故出現於世 Như Lai duy dĩ nhất đại sự nhân duyên cố xuất hiện ư thế.” tức chỉ cho ý này.
Nhất đạo 一道 Một con đường; Nhất đạo
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Nhất đạo tức một con đường chân thật thuần nhất, cũng chính là pháp tối thượng thừa mà đức Phật đã diễn thuyết. Nếu tu theo đường này ắt có thể lập tức đoạn trừ lậu hoặc, vượt biển sinh tử, không phải trải qua các tầng bậc trước sau như hàng nhị thừa. Kinh nói: “Tất cả đều không ngại, chỉ một con đường vượt thoát sinh tử 一切無礙人一道出生死 nhất thiết vô ngại nhân, nhất đạo xuất sinh tử” là chỉ cho ý này.
Nhất đăng 一燈 Một ngọn đèn
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Đèn có công năng xua tan bóng tối, dùng hình ảnh này để ví cho khả năng xua tan bóng tối phiền não của tâm Bồ đề. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ví như một ngọn đèn trong nhà tối, bóng tối trăm nghìn nămđều bị xua sạch, ngọn đèn tâm Bồ đề cũng giống như vậy: vào ngôi nhà tâm chúng sinh, lớp lớp bóng đêm bủa vây của phiền não nghiệp chướng trong trăm nghìn vạn ức vô số kiếp đều được xua sạch 譬
如一燈,入於暗室,百千年暗,悉能破盡。菩提心 燈,亦復如是。入於眾生心室之內,百千 萬億不可說刦諸業煩惱種種暗障,悉能除 盡 thí như nhất đăng, nhập ư ám thất, bách thiên niên ám, tất năng phá tận. Bồ đề tăm đăng, diệc phục như thị. Nhập ư chúng sinh tâm thất chi nội, bách thiên vạn ức bất khả thuyết kiếp chư nghiệp phiền não, chủng chủng ám chướng, tất năng trừ tận.” vì vậy gọi là một ngọn đèn.
Nhất địa 一地 Nhất địa
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Nhất địa, chỉ nhất thực tướng địa. Địa ở đây với nghĩa là khả năng sinh trưởng, ý nói hạt giống mọi loài cây cỏ đều nương vào đất để sinh trưởng phát triển. Dùng hình ảnh này để ví tất cả chủng tử của người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều phải nương vào thân năm ấm mới được tăng trưởng, chín muồi. Đến hội Pháp Hoa nghe Phật nói pháp nhất thừa đều thành pháp tính của Bồ tát, thân nămấm chính là nhất thực tướng địa. Kinh nói “Từ một mặt đất sinh ra一地所生 nhất địa sở sinh” tức chỉ cho ý này.
Nhất đoạn nhất thiết đoạn 一斷一切斷 Đoạn trừ một ắt đoạn trừ tất cả
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Đoạn trừ một ắt đoạn trừ tất cả, ý nói hàng thượng căn đoạn trừ hoặc nghiệp không cần phải theo thứ tự lần lượt. Hàng căn cơ hạng trung, hạng thấp không thấu đạt vọng hoặc chính là chân trí thế nên đoạn hoặc cần theo thứ tự trước sau. Hàng thượng căn thấu tỏ hoặc tức trí tuệ, tỏ tường vọng tức là chân, không có trí tuệ tồn tại ngoài mê hoặc, không có sự chân thật nào hiện hữu ngoài hư vọng, thế nên hễ đoạn trừ một ắt đoạn trừ tất cả.
Nhất giác 一覺 Nhất giác; Tính giác ngộ thống nhất; Tính giác ngộ duy nhất; Tính giác ngộ thuần nhất
Xuất xứ: Khởi Tín Luận 起信論
Giác trong từ Nhất giác chỉ bản tính chúng sinh khắp mười cõi, trong đó chúng sinh ở sáu đường bị nghiệp hoặc che khuất không tỉnh thức để thấu tỏ nên gọi là Bất giác. Hàng nhị thừa đoạn trừ mê hoặc chứng nhập lí tính nhưng chưa rốt ráo nên gọi Tùy phần giác tức giác ngộ từng phần tùy vào khả năng đoạn trừ mê hoặc. Chỉ có Phật là người duy nhất đã đoạn sạch các hoặc, thấu triệt bản tính nên gọi là cứu cánh giác tức sự giác ngộ rốt ráo. Từ đó thấy rằng, mê ngộ khác nhau nhưng thể tính của giác vẫn là một. Luận Khởi Tín nói: “(Phật và chúng sinh) vốn bình đẳng, bởi đều chung một thể tính giác ngộ 本來平等同一覺故 bản lai bình đẳng, đồng nhất giác cố” là chỉ cho ý này.
Phật cũng gọi là chúng sinh với ý nghĩa Phật là một vị chúng sinh cao tột (vô thượng chúng sinh).
Nhất giải thoát 一解脫 Giải thoát đồng nhất; Tính giải thoát thuần nhất
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Giải thoát với nghĩa là tự tại, không vướng mắc, không chướng ngại. Tất cả chúng sinh đều có tính Phật, vốn giải thoát từ cội nguồn nhưng do tâm sinh khởi vọng chấp, mê mờ điên đảo bản tâm, chịu mọi trói buộc. Nếu trong một niệm có thể xả bỏ hư dối, quay về chân tâm, thấu tỏ sự trói buộc vốn chẳng phải là trói buộc thì sẽ thành tựu giải thoát giống như chư Phật Như Lai, chẳng chút khác biệt, kinh nói: “Một sự giải thoát thuần nhất như nhau 同一解脫 đồng nhất giải thoát” tức chỉ cho ý này.
Nhất hạnh 一行 Nhất hạnh; Một công hạnh
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Nhất hạnh, chỉ công hạnh mà Như Lai đã hành trì. Hành với nghĩa là tiến lên, ý nói có năng lực thực hành công hạnh này nhất định có thể hướng đến quả vị Phật. Tuy gọi là một công hạnh nhưng vẫn có đủ cả năm công hạnh khác. Do vậy, trong kinh Niết Bàn, sau khi nói rõ năm hạnh lại nói tiếp rằng còn có một công hạnh nữa, công hạnh ấy gọi là hạnh Như Lai. Ngầm chỉ, nếu thực hành năm công hạnh kia trong một trạng thái tâm thuần nhất không tạp ắt sẽ trọn vẹn các hạnh khác.
Nhất hạnh nhất thiết hạnh 一行一切行 Một công hạnh tức tất cả công hạnh; Một hạnh tức mọi hạnh
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Một hạnh tức tất cả công hạnh, ý nói hàng thượng căn nương vào giáo pháp nhất thừa viên dung, kiến lập công hạnh viên đốn; công hạnh viên đốn đã lập, khế hợp lí nhất thừa nên có thể trọn vẹn viên mãn tất cả công hạnh khác trong một công hạnh.
Nhất hạnh tam muội 一行三昧 Nhất hạnh tam muội
Xuất xứ: Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát nhã Ba La Mật Kinh 文殊師利所說摩訶般若 波羅蜜經
Nhất hạnh tam muội, chỉ việc chuyên ròng một công hạnh tu chính định. Ý nói người tu hành nên ở nơi thanh vắng, xả bỏ tâm phồn tạp, ý tán loạn, tưởng niệm đến tôn hiệu một đức Phật: niệm đến đức Phật nào phải ngay thẳng thân mình hướng về phía đó, duy trì việc niệm Phật liên tục không dứt trước một đức Phật, không chút lười biếng, được thế thì trong một niệm có thể thấy được mười phương chư Phật, thành tựu đại biện tài.
Nhất hào 一毫 Một sợi lông tơ; Một chút ít
Xuất xứ: Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ 普 賢行願品疏
Sớ nói: “Dùng hết lượng mực nhiều như nước biển cũng không ghi hết một chữ trong pháp môn (Phổ Hiền); cõi hư không có thể tận cùng nhưng một chút điều thiện nhỏ như sợi lông tơ vẫn không cùng一字法門海墨書而不盡一毫 之善空界盡而無窮 nhất tự pháp môn môn, hải mặc thư nhi bất tận; nhất hào chi thiện, không giới tận như vô cùng.”. Điều này muốn nhấn mạnh công đức rộng lớn không thể đo lường, không thể nói hết của kinh Hoa Nghiêm.
Nhất hoa 一花 Một đóa hoa; Một bông hoa
Xuất xứ: Phạm Võng Kinh 梵網經
Kinh nói: “Ta nay Lô Xá Na, ngự lên đài sen, nghìn cánh hoa vây quanh, lại hiện nghìn Thích Ca, mỗi cánh hóa hiện trăm ức quốc độ, mỗi quốc độ hiện một Thích Ca我今盧舍那,方 坐蓮華臺,周帀千花上,復現千釋迦,一 花百億國,一國一釋迦 ngã kim Lô Xá Na, phương tọa liên hoa đài, châu táp thiên hoa thượng, phục hiện thiên Thích Ca, nhất hoa bách ức quốc, nhất quốc nhất Thích Ca”.
Ta, ở đây chỉ cho đức Phật Thích Ca tự trỏ bản thân.
Lô Xá Na, xem từ tương ứng trong phụ lục I. Đoan nghiêm, dịch từ chữ Phương tọa 方坐. Phương tọa tức ngay thẳng, ngầm chỉ đã an trú trong chính pháp.
Hoa sen ở đây chỉ thế giới Hoa tạng. Do thế giới ấy có hình dáng giống hoa sen gọi cả thế giới ấy là hoa sen.
Đài sen, ở đây chỉ vùng trung ương của thế giới Hoa tạng. Kinh Hoa Nghiêm nói “phong luân nâng giữ biển Hương Thủy, trong biển Hương Thủy có hoa sen, hoa sen nâng giữ thế giới 風 輪持香海香海出蓮花蓮花持世界 phong luân trì Hương hải, Hương hải xuất liên hoa, liên hoa trì thế giới”.
Nghìn cánh hoa, do hoa sen có nghìn cánh nên khi nói 千花tức chỉ hoa sen.
Trên một cánh sen lại hiện trăm ức quốc độ, mỗi quốc độ lại hiện một đức Thích Ca. Như vậy sẽ có một nghìn trăm ức (1500000000) quốc độ và một nghìn trăm ức (150000000) Thích Ca. Nghìn năm trăm ức (150000000) Thích Ca này được hiện ra từ một nghìn Phật Thích Ca trên hoa sen nghìn cánh. Nói dễ hiểu hơn đức Phật Tì Lô Giá Na hiện ra một nghìn Phật Thích Ca, trên một nghìn Phật Thích Ca do Tì Lô Giá Na hiện ra ấy lại hiện ra nghìn trăm ức (150000000) Thích Ca. Bốn châu thiên hạ này chính là một quốc độ trong nghìn trăm ức (150000000) quốc độ ấy và Phật Thích Ca Mâu Ni chính là một vị Phật trong nghìn trăm ức vị Thích Ca kia.
Nhất hội 一會 Một hội
Xuất xứ: Pháp Hoa Yếu Nghĩa 法華要義
Một hội, ngụ chỉ thời gian Như Lai diễn thuyết cho đại chúng nghe kinh Pháp Hoa trong hội Linh Sơn. Đại sư Trí Giả 智者大師 tông Thiên Thai天臺 thời Tùy 隋tu Pháp Hoa tam muội tại núi Đại Tô 大蘇山 ở Quang Châu 光州 tụng kinh Pháp Hoa đến câu “đó là tinh tiến chân thật, là pháp cúng dường Như Lai chân chính 是 真精進,是名真法供養如來 thị chân tinh tiến, thị danh chân pháp cúng dường Như Lai” trong phẩm Dược Vương Bồ tát 藥王菩薩品 thì ngài thấy thân tâm hoát nhiên khai ngộ, chứng nhập định Pháp hoa tam muội. Thấy hội Linh Sơn nghiễm nhiên còn đó chưa tan.
Nhất hợp tướng 一合相 Tướng hòa nhập thành một; Tướng hòa lại thành một. Xuất xứ: Kim Cương Kinh 金剛經
Tướng hòa hợp lại thành một, ý nói thế giới do các trần hòa hợp mà thành. Thế giới vốn không, vi trần chẳng có, do chúng sinh không hiểu rõ nên cho đó là thật. Nếu Có thật ắt thế giới này không thể chia
nhỏ thành vi trần. Nếu Không thật, ắt sẽ không có thế giới mà do vi trần hợp thành. Từ đó cho thấy, việc chấp có chấp không đều không đúng với chân lí. Kinh nói “Như Lai nói tướng hòa nhập thành một, tức không phải tướng hòa nhập thành một, ấy mới gọi là tướng hòa nhập thành một 如來說一合相即非 一合相是名一合相 Như Lai thuyết nhất hợp tướng tức phi nhất hợp tướng thị danh nhất hợp tướng.” tức chỉ cho ý này.
Nhất hư 一虛 Nhất hư; Trạng thái hư rỗng thuần nhất
Xuất xứ: Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Sớ 普 賢行願品疏
Chỉ chân thân Như Lai không hình không tướng, hệt như hư không; tuy giống như không nhưng muôn hình vạn tượng hiển hiện, tuy bao hàm muôn hình muôn tượng nhưng không vướng vào một tướng nào. Sớ nói “tịch lặng trong cõi có muôn vàn sự hóa hiện, ứng hiện khởi tác dụng trong trạng thái thuần nhất hư rỗng 寂寥 於萬化之域動用於一虛之中 tịch liêu ư vạn hóa chi vức, động dụng ư nhất hư chi trung” tức chỉ cho ý Nhất hư này.
Nhất kệ 一偈 Một bài kệ
Xuất xứ: Phiên Dịch Danh Nghĩa 翻譯名義
Một bài kệ, sách Tây Vức Kí 西域記 nói “Kệ hoặc Kệ tha 偈他 đều là cách nói cũ do đọc sai âmtiếng Phạn mà thành. Nay dịch âm đúng là già đà 伽陀, nghĩa tiếng Hoa là Tụng. Trong kinh có câu năm chữ, câu bảy chữ khác nhau nhưng cứ xem mỗi bốn câu như thế là một bài kệ vậy.
Kệ, Kệ tha, Già đà, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất khí 一氣 Nhất khí
Xuất xứ: Viên Giác Kinh Lược Sao 圓覺經畧鈔
Nhất khí tức cội nguồn của đạo, căn bản của thiên địa âm dương. Dùng nhất khí để ví tâm thanh tịnh từ tự tính, trước khi nhiễm ô dấy khởi, chư Phật và chúng sinh bình đẳng chẳng phải hai, tất cả các pháp đều sinh ra từ tâm này. Vì vậy dùng “nhất khí” để ví cho nhất tâm vậy.
Nhất không 一空 Nhất không; Sự trống không thuần túy; Sự trống không duy nhất Xuất xứ: Tịch Điều Âm Sở Vấn Kinh 寂調音 所問經
Nhất không ở đây ngụ chỉ tất cả các pháp đều không có tính chất độc lập của tự thân. Các pháp hoặc sắc hoặc tâm hoặc y báo hoặc chính báo cho đến pháp nhân quả của phàm, thánh tuy có muôn vàn sự khác biệt nhưng nếu tìm đến tận cùng thể tính nó ắt sẽ thấy cái không rốt ráo của chúng. Kinh nói “như cái không trong đồ ngói gạch, hay cái không trong cái khí cụ quý giá cũng đều gọi là không cả, chẳng có sự khác biệt gì (giữa hai cái không ấy)如瓦器中 空寶器中空俱同一空無二無別 như ngõa khí trung không, bảo khí trung không, câu đồng nhất không vô nhị vô biệt.” tức chỉ cho ý nghĩa của từ nhất không này.
Nhất lai 一來 Một lần trở lại; Trở lại một lần; Nhất lai; Quả Nhất lai
Xuất xứ: Tứ Giáo Nghi 四教儀
Nhất lai tức trở lại một lần, chỉ quả vị thứ hai trong bốn quả vị của hàng Thanh văn. Quả vị này còn gọi là quả Tư đà hàm, họ đã đoạn trừ được sáu phẩm đầu của chín phẩm tư hoặc trong cõi Dục. Do vẫn còn ba phẩm sau chưa đoạn trừ nên phải trở lại cõi Dục thêm một lần nữa, do vậy gọi là nhất lai vậy.
Tư đà hàm, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất lí 一理 Một Lí; Một chân lí; Lí thuần nhất
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa 法華經 玄義
Một Lí, chỉ bản thể các pháp. Lí tính ấy dung chứa gom thu tất cả; lớn không gì nằm ngoài nó. Các pháp thiên hình vạn trạng nhưng chỉ có một lí ban sơ này, tuy chỉ một nhưng có năng lực quán xuyến thống nhất mọi pháp, các pháp khác nhau nhưng chẳng pháp nào không nương vào một Lí ấy để làmgốc. Sự Lí dung thông, pháp pháp vô ngại. Pháp thế gian, xuất thế gian đều không thể vượt ra ngoài Lí này.
Nhất lộ 一路 Một con đường; Một đường
Xuất xứ: Thủ Lăng Nghiêm Kinh 首楞嚴經
Lộ, giống như đạo道, nghĩa là con đường. Đường với hàm nghĩa thông thoát, ý nói chư Như Lai lìa sinh tử, nhập đại Niết Bàn đều lấy đại định Thủ Lăng Nghiêm làm con đường chính. Lìa bỏ đường này ắt không biết lối vào Niết Bàn. Kinh nói: “Bạc già phạm trong mười phương, đều lấy một đường vào cửa Niết Bàn 十方薄伽梵,一路涅槃門 thập phương Bạc già phạm, nhất lộ Niết Bàn môn.” là chỉ cho ý này.
Niết Bàn, Thủ lăng nghiêm, Bạc già phạm xem từ tương ứng trong phụ lục I. Nhất mao 一毛 Một sợi lông
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
Kinh nói: “Trên đầu sợi lông hiện quốc độ Bảo vương 於一毛端現寶王剎ư nhất mao đoan, hiện bảo vương sát”. Đây tức hiện y báo trong chính báo. Phật đầy đủ sức thần thông không thể nghĩ bàn nên có thể hiện chính báo trong y báo, hiện y báo trong chính báo. Y báo chính báo dung thông, sự lí vô ngại, lớn nhỏ hàm chứa lẫn nhau, một nhiều bình đẳng thế nên trên đầu một cọng lông có thể hiện quốc độ Bảo vương vậy.
Nhất mặc 一默 Im lặng; Một sự im lặng
Xuất xứ: Duy Ma Kinh 維摩經
Mặc tức im lặng không nói. Im lặng đối ngược với phát ngôn. Chư Phật, Bồ tát nói hoặc im lặng đều hiển bày chân lí nhiệm mầu, thế nên kinh nói về 32 vị Bồ tát đều bàn về pháp môn bất nhị xong, Văn Thù Sư Lợi hỏi Duy Ma Cật rằng “đấng nhân từ (chỉ Duy ma cật) nên nói thế nào là Bồ tát nhập vào pháp môn bất nhị?”. Bấy giờ Duy Ma Cật im lặng không nói. Văn Thù tán dương rằng: “Lành thay! Lành thay! Đến mức không có ngôn ngữ văn tự mới đi vào pháp môn bất nhị đích thực. Đấy mới chính là im lặng mà nói; nói mà im lặng vậy 善哉善哉 乃至無有文字語言是真入不二法門此即默 而說
即說而默也 Thiện tai! Thiện tai! Nãi chí vô hữu văn tự ngữ ngôn, thị chân nhập bất nhị pháp môn. Thử tức mặc nhi thuyết; thuyết nhị mặc dã.”.
Văn thù, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất môn 一門 Một cửa; Một pháp môn
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Cửa với nghĩa là sự thông thoáng không ngại. Khi ngụ chỉ lí duy nhất, bấy giờ cửa có hàm nghĩa là đối tượng của sự thông thoáng không ngại; khi ngụ chỉ chính giáo, khi đó cửa có hàm nghĩa là chủ thể của sự thông thoáng đó. Ví như khi Phật diễn thuyết giáo pháp nhất thừa, giáo lí ấy sẽ có năng lực thông thoáng không ngại với lí thực tướng. Kinh nói “chỉ một pháp môn duy nhất 惟有一門” tức chỉ cho hàmnghĩa này.
Nhất nghĩa 一義 Một nghĩa
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Nghĩa tức nghĩa lí, chỉ ý nghĩa trong một pháp hoặc trong một câu vậy.
Nhất ngôn 一言 Một lời; Một câu
Xuất xứ: Viên Giác Kinh Lược Sớ 圓覺經畧疏
Một lời, chỉ một câu trong kinh Viên giác đã khiến thiền sư Khuê Phong Tông Mật 圭峯宗 密 hoát nhiên khai ngộ, biết rõ tâm mình là Phật, nhất định sẽ làm Phật, dù lúc đó ngài chưa đọc xong hết kinh này. Thế nên trong Lược sớ kinh Viên Giác có đoạn nói “dưới một câu kinh, tâm địa khai thông 一言之下心地開通 nhất ngôn chi hạ, tâm địa khai thông”tức chỉ cho ý này.
Nhất ngữ 一語 Một lời
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Một lời ở đây chỉ lời nói của Như Lai. Kinh nói “trong hai ngôn ngữ của Như Lai, diễn thuyết biển khế kinh vô biên 如來於二語言中演說無 邊契經海 Như Lai ư nhị ngữ ngôn trung, diễn thuyết vô biên khế kinh hải”. Ý nói trong một câu nói, hàm chứa vô lượng vô biên diệu pháp, ví như suối vừa tuôn ra, nhỏ như dòng suối nhưng chảy mãi không hết, thành sông thành biển chẳng thể tận cùng.
Nhất nguyên 一源Nhất nguyên; Một nguồn
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Nhất nguyên, chỉ thể pháp giới thậm thâm, thể ấy không thay đổi không di dời, không phải chân không phải vọng. Chỉ do nhân duyên mới có chân vọng. Nếu thuận theo duyên thanh tịnh của pháp tính ắt có thể sinh ra các pháp của chư Phật; nếu thuận theo duyên vô minh ô nhiễm ắt có thể sinh pháp của chúng sinh. Từ đó thấy rằng, duyên nhiễm ô hay thanh tịnh có khác biệt nhau nhưng thể của pháp giới không khác nhau. Ví như nước tuy có trong có đục nhưng đều cùng một nguồn chảy ra, do vậy gọi là một nguồn.
Nhất nguyệt dụ tam thân 一月喻三身 Một mặt trăng ví ba thân
Xuất xứ: Bảo Vương Luận 寶王論
Một mặt trăng ví ba thân, chỉ việc lấy mặt trăng làm thể để ví Pháp thân 法身, ánh trăng ví Báo thân 報身, bóng râm mặt trăng ví Ứng thân 應 身. Sở dĩ thế vì Pháp thân tức lí thường trú, thể tính của lí duy nhất, không di dời không thay đổi song có thể sinh ra các pháp, thu nhiếp muôn việc giống như mặt trăng: một vầng trăng trên trời, ánh trăng chiếu soi khắp muôn nghìn sông nước, đấy là trí chiếu soi trong trạng thái tĩnh lặng. Trí không có tự thể mà phải nương vào lí mới phát khởi tác dụng, thấu tỏ thông đạt tất cả không chút sai lệch, hệt như ánh trăng chiếu xuống muôn vật cùng vô vàn sông nước, không ẩn mất đi. Ứng thân tức công dụng của sự biến hóa, công dụng đó không có tính chất độc lập của tự thân, khởi lên từ thể tính, do vậy, hễ có cảm tất thông, không cảm tất không ứng. Giống như ánh trăng, có nước mới soi chiếu, không nước ắt không hiện rõ. Ba thân này vốn cùng một thể đồng nhất, song dựa vào công năng khác nhau mà có các tên khác nhau. Luận nói: “Pháp thân như mặt trăng, báo thân như ánh trăng, ứng thân như bóng trăng 法身如月之體報身如月之 光應身如月之影 pháp thân như nguyệt chi thể, báo thân như nguyệt chi quang, ứng thân như nguyệt chi ảnh.” tức chỉ cho ý này vậy.
Nhất nguyệt tam chu dụ 一月三舟喻 Ví dụ về một trăng ba thuyền
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Ba chiếc thuyền cùng nhìn thấy mặt trăng trên dòng sông trong lặng. Chiếc thứ nhất đứng yên, chiếc thứ hai đi về phía nam, chiếc thứ ba đi về phía bắc. Chiếc đi về phía nam thấy trăng theo thuyền đi về phía nam, chiếc đi về phía bắc thấy trăng theo thuyền đi về phía bắc, chiếc đứng yên thấy trăng đứng yên. Dùng hình ảnh này để ví cho trí tuệ Như Lai cùng khắp trọn vẹn, không nương trú vào đâu, không đi không đến. Sở dĩ có đi có đến bởi chúng sinh nhiễm trước nhiều đời về sự so sánh nên thấy có tướng trạng đi, đến chứ thể của pháp thân vốn không có tướng đi tướng đến. Trong ví dụ này, mặt trăng được ví cho Phật, ba chiếc thuyền được ví cho kiến giải khác nhau của chúng sinh trong thế gian về Phật, đây gọi là ví dụ về một trăng ba thuyền.
Nhất nhân 一人 Một người
Xuất xứ: Nhân Vương Hộ Quốc Kinh 仁王護 國經
Một người ở đây chỉ đức Phật. Phật vốn thành đạo trong loài người nên cũng gọi là bậc tôn quý nhất, siêu việt nhất trong hàng thế gian, xuất thế gian do vậy gọi Phật là Một người. Kinh Nhân Vương Hộ Quốc có câu: “Hàng tam hiền, thập thánh còn ở trong cõi quả báo (tức cõi Thật báo 實報), duy chỉ có Phật là một người an trú tịnh độ (tức Cõi thường tịch quang 常寂光淨土) 三 賢十聖住果報惟佛一
人居淨土 tam hiền thập thánh trú quả báo, duy Phật nhất nhân cư tịnh độ.” chính là chỉ cho ý này. Nhất nhân 一因 Một nhân
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Một nhân, chỉ thể tính của Lí bình đẳng giữa thánh phàm. Lí ấy chư Phật, chúng sinh đều đủ sẵn từ bản tính, có từ ban sơ, không tăng không giảm. Song chư Phật nhờ ngộ nó mà thành tựu quả vị vi diệu; chúng sinh vì mê nó mà lưu chuyển trong các nẻo. Nếu nương vào Nhân này để tu hành viên đốn, ắt có
thể siêu việt nhân tu tập của hàng tam thừa mà chứng ngộ quả vị nhất thừa vậy. Nhất như 一如 Nhất như
Xuất xứ: Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Kinh 首 楞嚴三昧經
Không hai, không khác gọi là Nhất; Như tức lí chân như. Trong cõi chân như, dứt hẳn sự giả danh của chúng sinh và Phật, trong tính chất bình đẳng ấy không có tướng trạng tự tha, tức tướng của tự thân và người hoặc vật khác. Kinh nói “cõi ma như cõi Phật, như nhất như, không nhị như 魔界如佛界如一如無二如 ma giới như Phật giới, như nhất như, vô nhị như.” tức chỉ cho ý này.
Ma, Phật đều gọi là Như do Ma là đối tượng tu tập tận cùng cái ác; Phật là người tu tập cùng cực điều thiện. Thiện ác tuy chia tách khác nhau nhưng tính vốn là một thế nên nói “nhất như, không nhị như 一如無二如”.
Nhất niệm 一念 Một tâm niệm; Một ý nghĩ; Một ý niệm; Một niệm; Nhất niệm Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Niệm tức tâm niệm, tâm niệm có chân thật có giả dối. Ý niệm khởi lên khi sáu căn tiếp xúc sáu trần của phàm phu, sinh diệt vô thường, đấy chính là vọng niệm. Ý niệm chân thực thanh tịnh, sáng suốt nhiệm mầu, thoáng rỗng thông suốt, thoát khỏi sự đối ứng của căn - trần ấy tức chính niệm của Như Lai. Đây là tâm niệm chính trí, không sinh không diệt, không thường không đoạn, gom trong một sát na nhưng không phải ngắn, trải vô lượng kiếp mà chẳng phải dài, kinh Hoa Nghiêm nói: “một ý niệm quán sát cùng khắp vô lượng kiếp 一念普 觀無量刼 nhất niệm phổ quán vô lượng kiếp” là chỉ cho ý này.
Sát na, kiếp xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất pháp 一法 Một pháp
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Pháp với nghĩa quy tắc, khuôn phép. Chỉ pháp chân như mà chư Phật, Bồ tát phải giữ đúng theo mới thành tựu chính giác, thế nên trong kinh Hoa Nghiêm có đoạn nói: “chỉ một pháp duy nhất mà được xuất li (khỏi ba cõi), thành tựu A nậu đa la tam miệu bồ đề 惟以一法而 得出離,成阿耨多羅三藐三菩提 duy dĩ nhất pháp nhi đắc xuất li, thành A nậu đa la tam miệu ta bồ đề.”chính là chỉ cho pháp này.
A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất pháp ấn 一法印 Một pháp ấn; Nhất pháp ấn
Xuất xứ: Tông Kính Lục 宗鏡錄
Một pháp ấn, ý nói khi tâm thuần nhất một ý niệm ắt có thể bao hàm dung chứa các pháp thế gian và xuất thế gian. Các pháp ấy hiện rõ trong trạng thái tâm thuần nhất hệt như chiếc ấn in vào mặt khuôn ấn, chẳng phân chia thành mặt trước mặt sau, thế nên Tông Kính Lục nói “bao la muôn tượng, do một pháp ấn chứng mà nên 森羅及萬像一法之所印 sâm la cập vạn tượng, nhất pháp chi sở ấn” tức chỉ cho ý nghĩa này.
Nhất pháp giới 一法界 Một pháp giới
Xuất xứ: Khởi Tín Luận 起信論
Một pháp giới tức Lí của chân như, thể tính ấy thoáng rỗng dung chứa tất cả một cách bình đẳng, trong trạng thái đó không có sự phân biệt nên gọi là bất nhị.
Nhất phát 一髮 Một sợi tóc; Một cọng tóc
Xuất xứ: Ma Ha Tăng Kì Luật 摩訶僧祇律
Một sợi tóc ở đây chỉ mặt trời đã chệch giờ ngọ bằng khoảng rộng của một sợi tóc, ý nói phép gìn giữ trai giới của người tu hành chỉ ăn đúng giờ ngọ. Nếu mặt trời đã lệch qua bằng khoảng cách của độ rộng một sợi tóc cũng không được phép ăn.
Nhất sát 一剎 Một quốc độ; Một cõi
Xuất xứ: Phiên Dịch Danh Nghĩa 翻譯名義
Ở đây dùng chữ Nhất sát tức một quốc độ để chỉ quốc độ mà đức Phật giáo hóa, sở dĩ gọi thế vì đấy là một cõi trong thế giới đại thiên vậy.
Sát, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhất sát na 一剎那 Một sát na
Xuất xứ: Nhân Vương Hộ Quốc Kinh 仁王護 國經
Sát na, từ dịch âm từ chữ Kṣaṇa trong tiếng Phạn, nghĩa trong tiếng Hoa là nhất niệm 一 念. Kinh nói: “trong một niệm có chín mươi sát na, trong mỗi sát na có chín trăm lần sinh diệt 一念中有九十剎那一剎那中有九百生滅 nhất niệm trung hữu cửu thập sát na, nhất sát na trung hữu cửu bách sinh diệt”. Luận Câu xá 俱 舍論 nói: “đơn vị thời gian cực ngắn gọi là sát na 時之極少者名剎那 thời chi cực thiểu giả danh sát na”.
Niệm chia thành niệm lớn, niệm nhỏ. Nhất niệm ở đây chỉ niệm lớn, sát na chỉ niệm nhỏ. Nhất sắc 一色 Một màu
Xuất xứ: Nhân Vương Kinh Sớ 仁王經疏
Sắc chỉ mọi đối tượng mà mắt có thể trông thấy. Sắc chính là pháp giới, nó vẹn đủ tam đế, vì thể tính của mọi pháp dung thông hiện hữu trong nhau vô ngại: nếu tất cả sắc là một sắc, thì đấy là Chân đế, vì mọi pháp đã lặng diệt; nếu một sắc là tất cả sắc, thì đấy là Tục đế, vì mọi pháp nhờ vào đó mà kiến lập; nếu không phải một cũng chẳng phải tất cả nhưng cũng là một và cũng là tất cả, thì đó chính là Trung đế: vừa song song ngăn ngại nhau lại vừa song song chiếu tỏ lẫn nhau, đấy là Trung đạo vậy. Xét về mặt Lí, không chỉ có mỗi sắc trần trọn vẹn Tam đế, mà cả các trần còn lại như thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần cũng đều giống hệt như vậy. Khi nêu sắc làm chuẩn thì mọi pháp đều nằm trong sắc, ngoài sắc chẳng còn pháp nào. Cũng vậy, khi nêu hương làm chuẩn thì mọi pháp đều nằm trong hương, ngoài hương ra chẳng còn pháp nào khác. Các pháp còn lại cũng thế. Do
vậy sớ nói: “một sắc, một hương chẳng gì không phải trung đạo 一色一香無非 中道 nhất sắc nhất hương, vô phi trung đạo” tức chỉ cho ý này vậy.
Pháp giới trong trường hợp này được hiểu là mọi pháp đều lấy Tam đế là giới hạn của mình, trường hợp này là xét về mặt Lí.
Vừa song song ngăn ngại nhau lại vừa song song chiếu tỏ lẫn nhau dịch từ cụm “Song già song chiếu 雙遮雙照”. Già nghĩa là ngăn che, ý nói ngăn che về mặt biểu hiện; chiếu tức soi tỏ, ý nói chiếu tỏ về mặt lí tính. Vậy “song già” tức nó ngăn che nhau giữa chân và tục, “song chiếu” tức chiếu tỏ nhau giữa chân và tục.
Nhất sinh 一生 Một đời
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Một đời ở đây chỉ cho quả vị Bồ tát Đẳng giác chưa đoạn sạch vô minh, phải trải qua một lần sinh tử biến dịch nữa, qua đời này mới lên quả vị Phật Diệu Giác. Do vậy gọi quả vị Bồ tát Đẳng giác là nhất sinh bổ xứ 一生補處 nghĩa là phải trải qua một đời trong một quốc độ nào đó, kinh nói: “một đời nữa sẽ thành tựu A nậu đa la tam miệu tam bồ đề 一生當得阿耨多羅三 藐三菩提 nhất sinh đương đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề” tức chỉ cho ý này.
Nhất sinh 一生 Một đời
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Một đời, chỉ đồng tử Thiện Tài thành tựu viên mãn quả vị Phật trong một đời. Thế nên Bồ tát Từ thị khen ngợi rằng “các Bồ tát khác phải trải qua vô lượng kiếp mới có thể trọn vẹn hạnh nguyện Bồ tát, con của vị trưởng giả (Phúc Thành) đây chỉ trong một đời đã có thể thanh tịnh cõi Phật, hóa độ chúng sinh 餘諸菩薩於無 量刼乃能滿足菩薩行願此長者子於一生內 能淨佛土能化眾生 dư chư Bồ tát ư vô lượng kiếp nãi năng mãn túc Bồ tát hạnh nguyện, thử trưởng giả tử ư nhất sinh nội, năng tịnh Phật quốc độ, năng hóa chúng sinh” do vậy gọi là Một đời.
Bồ tát Từ thị tức Bồ tát Di Lặc.
Nhất sư 一師 Cùng một thầy
Xuất xứ: Tứ Phần Giới Phẩm 四分戒品
Sư ở đây chỉ vị thầy gìn giữ đạo pháp. Phàm các tỉ khâu học cùng một thầy, cần phải hòa hợp hoan hỉ, không tranh cãi nhau, hòa hợp như nước với sữa, gặt nhiều lợi ích trong Phật pháp đều được gọi là Nhất sư.
Nhất tàng 一藏 Một kho tàng
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Tàng với nghĩa cất giữ, ý nói Lí của pháp giới trải dọc suốt ba quãng thời gian, giăng ngang khắp mười phương, trọn đủ mọi công đức, thu gom tất cả pháp, bủa vây bao hàm tất cả, trùng trùng vô tận, hoặc pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian thảy đều gom chứa cất giữ nên gọi là một kho tàng.
Nhất tâm ước giáo hữu dị 一心約教有異 Nhất tâm có sự sai khác theo từng giáo nghĩa; Khái niệm nhất tâm có sự khác biệt theo từng quan điểm giáo pháp
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương 華嚴一乘教義分齊章 Tông phái của tổ sư Hiền Thủ 賢首 phán định giáo pháp có năm gồm:
1. Tiểu giáo 小教 triển khai Tứ đế 四諦, nhờ thế mà tâm được giải ngộ.
2. Thủy giáo 始教 triển khai hàm nghĩa của tâm dưới cái nhìn Tâm là thức thứ tám, nhờ thế thấu tỏ các pháp do duyên sinh, chúng đều là không, không pháp nào có tính chất độc lập của tự thân nó nhưng vẫn chịu nhận quả dị thục.
3. Chung giáo 終教 nói rõ rằng, hằng hà sa số công đức vi diệu sẵn đủ trong tâm Như Lai tạng 如來藏心.
4. Đốn giáo 頓教 nói về tâm trong trạng thái không sinh khởi một niệm nào, không nhiễm không tịnh, nhờ thế mà lập tức khai ngộ lí tính của tâm.
5. Viên giáo 圓教 chủ trương chủ thể - đối tượng trọn vẹn trong nhau, pháp pháp không ngại, một là tất cả, tất cả là một, tâm ấy giăng mở hay thâu gom đều tự tại, hàm chứa vạn hữu. Tuy có năm tầng bậc giáo nghĩa khác nhau nhưng chúng đều không vượt ra ngoài trạng thái nhất tâm, do vậy gọi là Nhất tâmcó sự sai khác theo từng giáo nghĩa.
Nhất tâm 一心 Nhất tâm; Một lòng; Tâm niệm thuần nhất
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Nhất tâm tức tâm trong trạng thái một niệm thuần nhất, thể tính của tâm hiện hữu cùng khắp, thoáng rỗng thông suốt: buông ra ắt ứng với vạn sự vạn vật, thu lại ắt thành một niệm. Thế nên bất luận thiện ác, thánh phàm đều do một tâm này, sở dĩ như thế vì tâm này vốn sẵn có muôn pháp và có năng lực tạo lập nên mọi việc. Kinh nói “ba cõi chẳng khác biệt nhau, bởi do một tâm tạo三界無別法惟是一心
作” tức chỉ cho ý nghĩa này vậy.
Nhất thành nhất thiết thành 一成一切成 Một thành tất cả thành;
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Một thành tất cả thành, ý nói một đức Phật thành đạo ắt toàn thể pháp giới đều trở thành y, chính của vị Phật đó. Y tức y báo, chỉ quốc độ mà thân này nương vào; chính tức chính báo, tức thân thể - chủ thể của việc nương vào y báo. Khi mê, chúng sinh và quốc độ đều mê; khi ngộ, chúng sinh và quốc độ đều ngộ. Sở dĩ nói thế do căn cứ vào cách hiểu duy tâm của một chủ thể mê hay ngộ mà nói, thế nên kinh Lăng Nghiêm rằng: “một người quay về cội nguồn chân thật, mười phương hư không này thảy đều rơi sập tiêu mất 一人發真歸源此十方空皆悉消殞 nhất nhân phát chân quy nguyên, thử thập phương không giai tất tiêu vẫn” là ý này.
Nhất thân 一身Một thân; Thân thuần nhất
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Thân ở đây chỉ Pháp thân 法身, chư Phật trong mười phương đã đoạn trừ mọi lậu hoặc, thể pháp tính hiển hiện tròn đầy, không phân biệt giống khác giữa người và ta, thế nên gọi là thân thuần nhất, kinh nói: “thân chư Phật đều là pháp thân thuần nhất 一切諸佛身惟是一法身 nhất thiết chư Phật thân, duy thị nhất pháp thân” tức chỉ cho hàm nghĩa này.
Nhất thật đế 一實諦 Nhật thật đế; Chân lí chân thật thuần nhất
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Lí trung đạo của tướng trạng chân thật thuần nhất không hư dối, không điên đảo, bất luận phàm thánh đều có có chung một thể tính, thể tính ấy vốn không phải hai thế nên gọi là chân lí chân thật thuần nhất.
Nhất thể 一體 Một thể; Nhất thể
Xuất xứ: Pháp Hoa Yếu Nghĩa 法華要義
Nhất thể, chỉ thể thường trú của chân tâm, tính chất của tự thân nó thanh tịnh và chỉ có một thể duy nhất. Vọng tưởng bỗng nhiên sinh khởi, từ đó mọi cảnh giới hiện hữu, thế rồi chúng sinh hữu tình và quốc độ vô tình đều từ một chân tâm ấy mà chia thành hai loại một cách sai lầm. Cần phải biết rằng chúng sinh hữu tình hay vô tình đều do tự tâm của chúng sinh biến hiện ra, thật sự chẳng phải chúng là vật ngoài tâm, thế nên bài tụng nói rằng “chúng sinh hữu tình, vô tình cùng chung một thể 情與非情共一體 tình dữ phi tình cộng nhất thể” tức ngụ chỉ ý này vậy.
Nhất thiện tâm 一善心 Lòng thiện thuần khiết; Thiện tâm thuần khiết; Một tâm thiện Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Tâm ở đây chỉ tâm niệm khởi lên đầu tiên khi căn tiếp xúc với trần. Trong quá trình tiếp xúc đó, nếu tâm khởi lên một ý niệm ác lập tức sẽ diệt hết mọi điều thiện, ngược lại nếu khởi lên một niệm thiện ắt sẽ phá trừ mọi điều ác. Kinh nói: “tu tập Tâm trong một niệm thiện, phá trừ trăm loại ác 脩一善心破百種惡 tu nhất thiện tâm, phá bách chủng ác” là chỉ cho ý này.
Nhất thiết 一切 Tất cả; Cả thảy; Toàn bộ
Xuất xứ: Phiên Dịch Danh Nghĩa 翻譯名義
Nhất với nghĩa là cùng khắp, phổ cập; thiết với nghĩa là thấu đáo, đến điểm cuối cùng. Rốt ráo chẳng phải hai gọi là một; tính chất rộng lớn là thiết. Do vậy gọi là nhất thiết tức tất cả, toàn bộ vậy.
Nhất thời 一時 Một khoảng thời gian; Một lúc; Một thuở; Một thời
Xuất xứ: Các kinh chi thủ 各經之首 Phần mở đầu của các kinh
Một khoảng thời gian, chỉ thời gian hòa hợp giữa nói và nghe của đức Phật và đệ tử, thế nên mở đầu các kinh đều nói “một thời”. Pháp Hoa Văn Cú nói: “nghe và thực hành hòa hợp, không xảy ra trong hai quãng thời gian khác nhau 聞 持和合非異時 văn trì hòa hợp phi dị thời” là chỉ cho ý nghĩa này.
Nhất thời nhất thiết thời 一時一切時Một lúc tức tất cả thời gian; Một thời tứ tất cả các thời; Một quãng thời gian tức tất cả thời gian
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Một lúc tức tất cả thời gian, ý nói quãng thời gian của khái niệm một lúc ấy đã là vô lượng kiếp. Sở dĩ thế vì trí tuệ và cảnh giới đối tượng của Như Lai đã viên dung, dài ngắn không ngăn ngại nhau, thế nên có thể rút thời gian nhiều kiếp thành một lúc; kéo thời gian một lúc thành nhiều kiếp là thế.
Nhất thuấn 一瞬Một chớp mắt; một nháy mắt
Xuất xứ: Ma Ha Tăng Kì Luật 摩訶僧祇律
Nháy, chỉ mí mắt nhắm, mở. Luật nói: “hai mươi nháy mắt là một cái gãy móng tay二十 瞬名一彈指nhị thập thuấn danh nhất đàn chỉ”. Chỉ phép gìn giữ trai giới của người tu hành, chỉ ăn đúng ngọ, nếu quá ngọ trong thời gian một chớp mắt thì không nên ăn.
Nhất thừa 一乘 Nhất thừa
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Nhất thừa ở đây chỉ Phật thừa. Thừa với nghĩa là chuyên chở, Phật nói pháp Nhất thừa giúp chúng sinh nương vào đó tu hành, vượt thoát biển khổ sinh tử, chở đến bến bờ Niết Bàn. Dùng hình ảnh chiếc xe lớn bằng bảy thứ quý báu được voi trắng lớn kéo để ví cỗ xe này. Đức Phật ra đời với bản hoài tuyên thuyết trực tiếp Pháp Hoa 法華 song vì căn cơ chúng sinh không đồng đều nên phải nói pháp ba thừa trước nhằm làm cho đối tượng nghe thực hành thành thục, thế nên kinh nói “Trong đạo nhất thừa lần lượt nói thành ba, sau đến hội Pháp Hoa mới nói ba thừa là pháp tu hành của hàng tiểu thừa, nên tu theo phép Đại thừa rộng lớn 於一乘道,分別 說三。後至法華,會三乘之小行,歸廣大 之一乘ư Nhất thừa đạo, phân biệt thuyết tam. Hậu chí Pháp Hoa, hội Tam thừa chi tiểu hành, quy quảng đại chi nhất thừa.” Lại nói: “quốc độ chư Phật trong mười phương chỉ có pháp nhất thừa 十方佛土中惟
有一乘法 thập phương Phật độ trung, duy hữu Nhất thừa pháp” là chỉ cho ý này.
Nhất thực 一食 Một bữa ăn; Thời gian một bữa ăn Xuất xứ: Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh 維摩 詰 所說經
Một bữa ăn, chỉ thời gian trong khoảng một bữa ăn. Trong khoảng thời gian ấy, nếu có thể thấu tỏ thông suốt tam đế, thức ăn lập tức sẽ thành pháp thực, sau đó vận tâm bình đẳng: trên cúng chư Phật, giữa dâng hiền thánh, dưới thí lục đạo; bố thí với tâm bình đẳng không phân biệt. Kinh nói: “trong khoảng thời gian một bữa ăn, cúng dường cho tất cả 以一食施一切 dĩ nhất thực thí nhất thiết” chính trỏ cho ý nghĩa này.
Nhất thực cảnh giới 一實境界 Cảnh giới chân thực thuần nhất
Xuất xứ: Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh 占察善惡業報經
Cảnh giới chân thật thuần nhất tức Lí của thật tướng thuần nhất vậy. Cảnh giới ấy không thay đổi, không sai khác, không diệt, không sinh; thanh tịnh từ tự tính, lìa tướng hư dối, giống như hư không, hiện hữu rộng khắp bình đẳng, chư Phật và chúng sinh chẳng phải hai, chẳng khác biệt nhau.
Nhất thực tướng ấn 一實相印 Ấn của tướng trạng chân thật thuần nhất; Ấn chứng về tướng chân thật thuần nhất
Xuất xứ: Pháp Hoa Huyền Nghĩa 法華玄義
Tướng chân thật thuần nhất, chỉ Lí chân thật không phải hai, không có sự phân biệt, lìa mọi tướng trạng hư dối. Ấn ở đây với nghĩa là xác định niềm tin, ví như công văn của thế gian được đóng ấn ắt có thể tin là thật. Kinh đại thừa được Như Lai diễn thuyết đều dùng Lí thật tướng để ấn chứng, kinh điển ngoại đạo không thể trộn lẫn, thiên ma không thể phá hoại. Hễ có ấn chứng của thật tướng tức của Phật thuyết; ngược lại không có ấn chứng của thật tướng tức của ma nói. Kinh Pháp Hoa nói: “đức thế tôn tuyên thuyết đạo chân thực, ma Ba Tuần không có được như thế 世尊說實道波旬無此事 Thế Tôn thuyết thật đạo, Ba Tuần vô thử sự” là chỉ cho ý này.
Nhất tính 一性 Một thể tính
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Một thể tính, chỉ cho Phật tính làm nhân chính (trong tâm mọi chúng sinh) vậy. Ý nói tất cả chúng sinh đều trọn vẹn thể tính này song do đi ngược sự tỉnh thức, chung hợp với vọng trần, thường bị phiền não che khuất, nếu tu tập thuận theo tính ấy ắt có thể siêu thoát sinh tử, ngộ nhập Niết Bàn, chứng ngộ điều chư Phật đã chứng, không chút sai biệt.
Nhất tính 一性 Một thể tính; Một bản chất
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Tính với nghĩa là bản chất không thay đổi, tột cùng trên từ chư Phật tận cùng phía dưới đến các loài sâu bọ côn trùng, chủng loại thiên sai vạn biệt nhưng đều lấy một bản chất làm gốc. Bản chất ấy chính là Một thể tính. Khi mê bản tính này ắt thành sinh tử, ngược lại ngộ bản tính này tất thành Niết Bàn. Mê ngộ tuy khác, thể tính vốn chỉ một do vậy gọi là Một thể tính.
Nhất tông 一宗 Nhất tông; Một tông chỉ; Một mục đích
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Tông ở đây với nghĩa là then chốt, khu yếu. Ý nói các kinh Đại thừa tuy khác nhau nhưng đều chung một Lí duy nhất, ví dụ: kinh Hoa Nghiêm bàn về Pháp giới, kinh Bát nhã bàn về Phật mẫu (Bát nhã tức trí tuệ, trí tuệ là mẹ chư Phật ), kinh Pháp Hoa bàn về thực tướng…tất cả đều lấy một chân lí thuần nhất làm tông chỉ then chốt, thế nên Hoa nghiêm sớ sao nói “một tông chỉ dung chứa nhiều kinh khác一
宗容具多經 nhất tông dung cụ đa kinh” tức chỉ cho ý này.
Nhất trần 一塵 Một hạt bụi
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh 華嚴經
Một hạt bụi chỉ một hạt bụi nhỏ. Kinh nói: “ví như có cuốn kinh lớn như thế giới đại thiên nhưng lại ở trọn trong một hạt bụi nhỏ, một hạt bụi nhỏ đã chứa như thế, tất cả các hạt bụi nhỏ khác cũng đều như thế. Bấy giờ có người (chỉ Phật ) với trí tuệ minh đạt, có thiên nhãn thanh tịnh, thấy cuốn kinh ấy nằmtrong hạt bụi nhỏ liền dùng phương tiện phá hạt bụi nhỏ kia để lấy kinh ra giúp mọi loài chúng sinh đều được ích lợi 譬如有大經卷,量等大千世界而全住 在一微塵中。一微塵既然,一切微塵皆亦 如是。時有一人,智慧明達,有淨天眼, 見此經卷,在微塵內,即以方便,破此微 塵,
出此經卷,令諸眾生普得饒益 thí như hữu đại kinh quyển, lượng đẳng đại thiên thế giới nhi toàn trú tại nhất vi trần trung. Nhất vi trần kí nhiên, nhất thiết vi trần, giai diệc như thị. Thời hữu nhất nhân, trí tuệ minh đạt, hữu tịnh thiên nhãn, kiến thử kinh quyển, tại vi trần nội, tức dĩ phương tiện, phá bỉ vi trần, xuất thử kinh quyển, linh chư chúng sinh, phổ đắc nhiêu ích”. Dùng hình ảnh này để ví rằng trong thân của tất cả chúng sinh đủ sẵn trí tuệ vô ngại của Như Lai nhưng do vọng tưởng điên đảo nên chúng sinh không thể tự giác, chỉ có chư Phật mới biết điều này nên liền vận dụng các phương tiện khiến mọi loài chúng sinh, tu tập thánh đạo, phá trừ phiền não hư vọng nhằm hiển bày trí tuệ chân thật của Như Lai. Thế nên kinh nói “trong một hạt bụi nhỏ có số lượng kinh điển lớn như đại thiên 一塵之內有大千經卷 nhất trần chi nội hữu đại thiên kinh quyển” tức chỉ cho ý này.
Nhất trí 一致 Nhất trí; Đạt đến điểm duy nhất
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Nhất trí, chỉ điểm hướng đến cùng cực duy nhất của Phật thừa. Như Lai thực hành công hạnh hóa độ chúng sinh, ban đầu do căn cơ và nhu cầu của chúng sinh khác nhau nên triển khai lí thuyết ba thừa, cuối cùng đều một mục đích là làm sáng tỏ thật lí và chỉ gọi một tên là Lí. Bấy giờ đã đạt đến điểmduy nhất là Phật thừa. Thế nên Sao nói “Gộp gom muôn vạn phương pháp giáo hóa thành một sự thật duy nhất, hội tinh thuần và thô thiển trở về một điểm cùng cực 混萬化即真會精麤一致 hỗn vạn hóa tức chân, hội tinh thô nhất trí” tức chỉ cho nghĩa này.
Nhất tu nhất thiết tu 一脩一切脩 Một tu tất cả tu; Tu một pháp tức tu tất cả pháp Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Tu một pháp tức tu tất cả pháp, ý nói người đại trí căn cơ cao, khởi sự tu tập đúng theo đức tính bản nhiên; thấu tỏ tu tập chính là biểu hiện của tính đức. Công hạnh tu tập và mục đích tu tập là một, sự lí dung thông lẫn nhau, khi đó đốt hương rải hoa thảy đều là trung đạo, tọa thiền tụng kinh ắt hẳn chân như, thế nên nói rằng khi tu một công hạnh ắt mọi công hạnh khác cũng được tu tập.
Nhất tử 一子 Con một
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Ý nói Bồ tát tu hạnh nguyện từ bi, xem mọi loài chúng sinh hệt như con một của mình. Nếu thấy chúng sinh tu tập nghiệp thiện, thăng tiến đạo tâm ắt hoan hỉ, ngược lại nếu thấy chúng sinh tạo nghiệp ác, lưu chuyển sinh tử, ắt tâm sầu não. Ví như cha mẹ thấy con cái yên ổn tâm mới yên ổn, thấy con cái ngộ nạn ắt tâm sầu khổ. Kinh nói “nhìn mọi chúng sinh, giống như con một 視諸眾生,同於一子 thị chư chúng sinh, đòng ư nhất tử” tức chỉ cho ý này.
Nhất tự 一字 Một chữ
Xuất xứ: Đại Phương Quảng Sư Tử Hống Kinh 大方廣師子吼經
Một chữ tức tên gọi của một chân lí duy nhất. Chân lí vốn không tên, không chữ, siêu việt lên tâm, ý, thức; lìa tính lìa tướng, vô tác, vô thị (không thể chỉ bày ra được), mọi loài chúng sinh không thể suy tư hay diễn thuyết về nó mà chỉ có chư Phật Như Lai mới thấu tỏ tường tận, thế nên kinh nói “Pháp duy nhất một chữ, đó chính là chữ ‘vô 無’ /法惟一字,所謂無字 pháp duy nhất tự, sở vị vô tự” tức chỉ
cho ý này vậy.
Nhất tướng 一相 Một tướng; Tướng trạng duy nhất; Tướng duy nhất
Xuất xứ: Khởi Tín Luận 起信論
Một tướng, ý nói tướng trạng của pháp giới chân thật thuần nhất từ xưa đến nay, lìa mọi tướng trạng hư vọng, lìa tướng danh tự, lìa tướng của của mọi pháp nên gọi là một tướng.
Nhất vị 一味 Nhất vị; Một vị; Vị thuần nhất
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經 và Pháp Hoa Huyền Nghĩa 法華玄義
Nhất vị ở đây ví giáo pháp nhất thừa của kinh Pháp Hoa. Như Lai thuyết pháp nhất định phải xứng hợp với nhu cầu căn cơ chúng sinh. Căn cơ lớn nhỏ khác nhau, phải lần lượt trải qua bốn thời ba giáo để điều tiết khiến chúng sinh đều dần vào đại thừa. Đến hội Linh Sơn, Phật chỉ thuyết thuần túy về chân lí vi diệu duy nhất. Chỉ rõ rằng bốn thời ba giáo trước đây chính là giáo lí nhất thừa vi diệu trọn vẹn. Ngoài nhất thừa ra chẳng còn pháp nào khác. Do vậy kinh nói “Nhanh dứt pháp Thanh văn, (để tu đại thừa, vì) Pháp Hoa là vua các kinh 决了聲聞法是諸 經之王 quyết liễu Thanh văn pháp, thị chư kinh chi vương”. Vì vậy Bồ tát Vô Cấu Tạng Vương 無垢藏王菩薩 đã bạch với đức Phật trong hội Niết Bàn rằng: “Phật nói mười hai bộ kinh ví như sữa được lấy từ trâu 佛說十二部經,譬 如從牛出 Phật thuyết thập nhị bộ kinh, thí như tùng ngưu xuất”. Dùng hình ảnh này ví cho thời kinh Hoa Nghiêm đức Phật đã thuyết lần đầu tiên sau khi thành đạo vậy. Thứ đến, nói việc lấy lạc 酪 để ví cho thời kinh A hàm, tức thời kinh thứ hai sau Hoa Nghiêm. Tiếp theo nói đến việc lấy tô sống 生酥 từ lạc để ví cho thời kinh như Tịnh Danh 淨名, Bảo Tích 寶積…tức thời kinh thứ ba sau thời Hoa Nghiêm. Tiếp theo nói đến việc lấy tô chín 熟酥 từ tô sống để ví cho thời kinh Bát nhã 般若經 tức thời kinh thứ tư sau Hoa nghiêm. Tiếp theo nói đến việc lấy đề hồ 醍醐 từ tô chín để ví cho thời kinh Pháp Hoa 法華, Niết Bàn 涅槃…tức thời kinh thứ năm sau thời Hoa Nghiêm.
Giáo pháp lần lượt được tuyên thuyết như thế nhờ căn cứ vào tầng bậc cạn sâu, trước sau trong quá trình giáo hóa của Như Lai. Nếu căn cứ vào vào kinh Pháp Hoa thì các giáo pháp, các thừa trước thời Pháp Hoa chính là Nhất thừa viên diệu, theo đó sẽ làm sáng tỏ rằng sữa, tô sống, tô chín đều trở thành một vị đề hồ duy nhất mà thôi. Nên kinh nói: “một tướng trạng, một mùi vị duy nhất” tức chỉ cho ý nghĩa này vậy.
Nhất vị nhất thiết vị 一位一切位 Một quả vị tức tất cả quả vị
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Một quả vị tức tất cả quả vị, ý nói hàng thượng căn chứng ngộ một quả vị ắt có thể trọn vẹn công đức của tất cả các quả vị khác. Sở dĩ như thế vì quả vị chứng ngộ hoàn toàn thuộc về pháp tính, pháp tính hiện hữu cùng khắp, gom chứa hằng hà sa số công đức thế nên một khi chứng ngộ một quả vị ắt công đức các quả vị khác thảy đều viên mãn.
Nhất vũ 一雨 Một trận mưa
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Một trận mưa, ví Pháp nhất thừa mà đức Phật diễn thuyết. Phật thuyết kinh Pháp Hoa, chỉ bàn về lí thực tướng Viên giáo, thuần nhất không tạp. Một âm thanh Như Lai tuyên diễn mưa pháp nhất thừa khiến mọi chúng sinh đều được khai ngộ tri kiến Phật. Kinh nói “được một trận mưa tưới nhuần 一雨所潤 nhất vũ sở nhuận” tức chỉ ý này.
Nhất xan 一餐 Một bữa ăn
Xuất xứ: Pháp Hoa Kinh 法華經
Một bữa ăn, ở đây ngầm chỉ thức ăn trong một bữa ăn. Hàng Thanh văn nhờ Phật gia bị được dự vào hội Bát nhã; Phật vì hàng Bồ tát diễn thuyết pháp đại thừa, Thanh văn tự cho mình là tiểu thừa nên không sinh tâm vui thích với đại pháp, điều ấy cũng như thấy thức ăn mà không thể ăn vậy. Kinh nói: “(trông thấy thức ăn) mà không có được một ý niệm lấy thức ăn 而無希 取一餐之意” là chỉ cho ý này.
Nhất xứ 一處 Một chỗ; Một xứ; Một nơi; Một đối tượng
Xuất xứ: Di Giáo Kinh 遺教經
Một chỗ, ý nói tâm chỉ chuyên chú vào một đối tượng chứ không hướng về những điều gì khác. Người tu hành nếu thu nhiếp tâm niệm, không vin vào các duyên nào khác ắt hành nghiệp tu tập chắc chắn thành tựu, kinh nói: “chế phục tâm vào một chỗ, chẳng việc gì không thành 制 之一處,無事不辦 chế chi nhất xứ, vô sự bất biện” tức chỉ cho ý nghĩa này.
NHỊ
A lại da nhị nghĩa 阿頼耶二義 Hai ý nghĩa của thức A lại da; Hai công năng của A lại da; Hai hàm nghĩa của thức A lại da
Xuất xứ: Tông Kính Lục 宗鏡錄
A lại da dịch âm từ chữ Ālaya trong tiếng Phạn, nghĩa trong tiếng Hoa là tàng 藏, nghĩa là sự chứa đựng, kho tàng. Ý nói thức thứ tám này có khả năng cất giữ chủng tử các pháp như một kho tàng.
1. Năng nhiếp nhất thiết pháp 能攝一切法 Có khả năng thu nhiếp mọi pháp; Có năng lực gom tụ các pháp
Nhiếp với nghĩa là gom tụ và gìn giữ tức nghĩa của sự cất giữ. Thức này gom tụ và gìn giữ mọi pháp thiện, ác như kho tàng có thể chứa giữ bảo vật khiến chúng không mất.
2. Năng sinh nhất thiết pháp 能生一切法 Có khả năng sinh khởi mọi pháp; Có thể sinh tất cả pháp
Sinh tức phát khởi sinh trưởng, ý nói thức này đã chứa giữ hạt giống thiện ác ắt tất cả các pháp thiện ác đều phát khởi từ đây, ví như mặt đất có thể làm nơi nẩy sinh cỏ cây muôn vật vậy.
Ấn sư nhị giáo 印師二教 Hai giáo của Ấn sư
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Pháp sư Ấn sống đầu thời Đường sáng lập hai giáo gồm:
1. Khuất khúc giáo 屈曲教 Khuất khúc giáo; Giáo pháp uyển chuyển tùy nghi
Kinh do Thích Ca Như Lai thuyết pháp thường tùy nghi uyển chuyển, tùy theo căn cơ chúng sinh mà phá bỏ chấp trước giúp họ theo giáo pháp ấy để nắm lấy nguyên tắc nhằm khơi mở trí tuệ, như kinh Niết Bàn tuy trình bày về lí viên thông cùng cực duy nhất nhưng trong quá trình đó ngài vận dụng các phương pháp hóa độ như: trình bày lí thực tướng cho đối tượng đang theo quyền giáo, hoặc với những căn cơ đang theo giáo pháp khác nhau, ngài dạy nên về một nguồn giáo pháp duy nhất. Do vậy gọi đây là giáo pháp tùy nghi uyển chuyển.
Quyền giáo, chỉ các giáo pháp quyền nghi tạm thời như Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo. Lí thực tướng, chỉ nhất thừa Viên giáo.
Giáo pháp khác nhau ở đây chỉ ba giáo gồm tạng giáo, thông giáo và biệt giáo. Nguồn giáo pháp duy nhất, chỉ Viên giáo.
2. Bình đạo giáo 平道教 Bình đạo giáo
Đức Phật Tì Lô Giá Na diễn thuyết kinh điển đều thuận theo sự bình đẳng của pháp tính, như kinh Hoa Nghiêm có sự điều phục theo từng căn cơ đối tượng chúng sinh riêng biệt: vừa vận dụng phép thiện xảo vừa xứng khớp với bản tính, trường hợp này gọi là bình đạo giáo.
Lô Xá Na, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Bát nhã nhị chủng tướng 般若二種相 Hai tướng Bát nhã; Hai loại tướng Bát nhã Xuất xứ: Địa Tạng Thập Luân Kinh 地藏十輪經
1. Thế gian Bát nhã 世間般若 Bát nhã thế gian
Trỏ hàng Bồ tát chỉ nương vào việc đọc tụng viết chép, giảng thuyết cho người về giáo lí ba thừa, khuyên người tu chính đạo, diệt trừ phiền não hoặc nghiệp…chứ tự mình không tu hành Bát nhã chân thật tịch tĩnh. Thường thực hành Bát nhã có hình tướng, có thể thấy được thì đó là Bát nhã có chấp thủ, có vướng đắm nên gọi là Bát nhã thế gian.
Bát nhã có hình tướng, có thể thấy được là Bát nhã thuộc trí tuệ thế gian, như đại thần Cù Tân 劬賔chia cõi Diêm Phù Đề 閻浮 提 thành bảy phần nhờ thế chấm dứt việc tranh cãi về lãnh thổ, đấy là biểu hiện của trí tuệ viên mãn. Tổ Sư Trí Mãn 智滿祖師 nói: “biết cách áp dụng trí tuệ thế gian một cách đúng đắn là Bát nhã rồi vậy正取世間 之智為般若也 chính thủ thế gian chi trí vi Bát nhã dã”.
2. Xuất thế gian Bát nhã 出世間般若 Bát nhã xuất thế gian
Hàng Bồ tát khi tinh cần tu tập đạo Bồ đề, diễn thuyết chính pháp ba thừa cho chúng sinh theo khả năng của họ, trong quá trình thực hiện việc thuyết pháp, tâm Bồ tát rỗng thoáng như hư không, bình đẳng tịch lặng, lìa mọi tướng trạng, danh xưng. Đấy là Bát nhã không chấp thủ không vướng đắm nên gọi là Bát nhã xuất thế gian.
Bồ tát nhị tâm 菩薩二心 Hai tâm của Bồ tát;
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Đại từ tâm 大慈心 Tâm đại từ
Từ tức ý niệm yêu thương, tâm lí muốn mang lại niềm vui cho người khác. Ý nói Bồ tát yêu thương tất cả chúng sinh, thường cầu điều vui sướng đến với mọi chúng sinh, ấy gọi là tâm đại từ.
2. Đại bi tâm 大悲心 Tâm đại bi
Bi tức xót thương, tức tâm lí muốn nhổ hết đau khổ cho chúng sinh. Ý nói Bồ tát xót thương tất cả chúng sinh chịu nhiều đau khổ nên thường mang tâm đại bi cứu giúp cho họ thoát mọi khổ đau, ấy gọi là tâm đại bi.
Đại tiểu nhị hóa thân 大小二化身 Hai thân hóa hiện theo Đại thừa và Tiểu thừa Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
1. Đại hóa thân 大化身 Đại hóa thân; Thân giáo hóa đại thừa
Chỉ thân hóa hiện với tám vạn bốn nghìn tướng hảo của Phật nhằm hóa độ hàng Bồ tát căn cơ đại thừa hoặc hiện thân lớn lấp đầy hư không với tướng tốt nhiều như số hạt bụi nhỏ, như thế gọi là đại hóa thân.
2. Tiểu hóa thân 小化身 Tiểu hóa thân; Thân giáo hóa tiểu thừa
Trỏ việc Phật hóa hiện thân hình với 32 tướng tốt, mình cao một trượng sáu…nhằm giáo hóa hàng căn cơ tiểu thừa và chư thiên.
Đàm ;Sấm ;nhị ;giáo ;曇讖二教 ;Hai ;giáo ;của Đàm Sấm
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Chỉ hai giáo pháp do tam tạng pháp sư Đàm Mâu Sấm đời Tây Tần 西秦 sáng lập, gồm: 1. Bán tự giáo 半字教 Bán tự giáo; Giáo pháp nửa chữ
Giáo pháp nửa chữ, ý nói kho tàng giáo pháp của hàng Thanh văn trình bày về Lí tính chưa được rốt ráo, ví như chỉ được một nửa chữ thôi vậy.
2. Mãn tự giáo 滿字教 Giáo pháp tròn chữ; Mãn tự giáo
Giáo pháp tròn chữ, ý nói kho tàng giáo pháp của Bồ tát đã trình bày trọn vẹn về Lí tính giống như đã viết tròn vẹn một chữ vậy.
Hoa Nghiêm vi chư giáo bản hữu nhị 華嚴為諸 教本有二 Có hai nguyên nhân xem Hoa Nghiêmlà gốc của các giáo pháp; Hai lí do xem Hoa Nghiêm là gốc mọi giáo pháp
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Hoa Nghiêm tức kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm. Như Lai xuất hiện trong đời, diễn thuyết kinh này đầu tiên, sau đó đến các pháp tiệm, đốn. Sở dĩ vậy vì các giáo pháp đốn, tiệm, đại thừa, tiểu thừa đều lưu xuất từ biển thể tính của kinh Hoa Nghiêm này, do vậy kinh này thống lĩnh bao quát, là gốc của mọi kinh giáo.
1. Vi khai tiệm chi bản 為開漸之本 Gốc của việc triển khai tiệm giáo
Khai tức triển khai, trình bày; tiệm tức lần lượt, ở đây chỉ giáo pháp Tam thừa vậy. Đầu tiên Phật vì hàng Bồ tát Đại thừa diễn thuyết Nhất thừa viên giáo căn bản tức kinh Hoa Nghiêm khiến họ tin, hiểu và chứng nhập trí tuệ Như Lai. Bấy giờ có căn cơ nông cạn, chỉ mộ pháp quyền biến tạm thời của hàng Tam thừa nên họ tuy dự nghe pháp hội Hoa nghiêm nhưng như điếc như mù, không tin không hiểu, không thuận theo, không chứng nhập nên đức Phật Lô Xá Na cởi bỏ ngự phục, mặc áo rách bẩn nhằmgiúp hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát quyền thừa dựa vào căn cơ mình, tu pháp Tam thừa để dần dần thấu đạt, thuần thục do vậy gọi kinh Hoa Nghiêm là gốc của việc khai mở tiệm giáo.
Lô Xá Na, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
2. Vi nhiếp mạt chi bản 為攝末之本 Gốc của việc nhiếp mạt
Nhiếp tức gom tụ; mạt tức ngọn, cuối ở đây mạt chỉ cho giáo pháp Tam thừa. Phật vì hàng căn cơ Tiểu thừa diễn thuyết pháp Tam thừa, sau khi các căn cơ ấy thành thục pháp Tam thừa, sau cùng mới giúp họ ngộ nhập trí tuệ Phật, thế nên kinh Đại thừa đồng tính 大乘同性經 nói “tất cả pháp Thanh văn, pháp của Phật Bích Chi, pháp của hàng Bồ tát, pháp của chư Phật hết thảy các pháp ấy đều chảy vào biển kho tàng trí tuệ Tì Lô Giá Na 所有聲聞法辟支佛法菩薩法諸 佛法如是一切諸法皆悉流入毘盧遮
那智 藏大海 sở hữu Thanh văn pháp, Bích Chi Phật pháp, Bồ tát pháp, chư Phật pháp như thị nhất thiết chư pháp giai tất lưu nhập Tì Lô Giá Na trí tạng đại hải” do vậy nói Hoa Nghiêm là kinh gom tụ ngọn ngành về một cội nguồn vậy.
Tì lô giá na, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Khách Trần nhị nghĩa 客塵二義 Nghĩa của Khách và Trần
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
1. Khách nghĩa 客義 Nghĩa của Khách
Kiến hoặc, tư hoặc đều do chúng sinh không thấu đạt cảnh trần bên ngoài từ đó sinh ra các loại vọng tưởng. Nếu vận dụng trí tuệ quán sát thể tính của hoặc vốn không thì lí của pháp tính hiện bày, khi đó hoặc không còn nơi để tồn tại thế nên kinh nói “Không bám trụ vướng đắm gọi là khách, đấy chính là nghĩa của từ Khách 不住名客是名客義 bất trú danh khách, thị danh khách nghĩa”.
2. Trần nghĩa 塵義 Nghĩa của Trần
Chỉ hoặc vi tế vướng nhiễm vào chân tính thanh tịnh, ví như ánh nắng lọt qua khe cửa làm hiện rõ hình tướng của bụi bẩn, bụi bẩn ấy cũng có thể làm loạn cái tính của hư không. Nếu trí tuệ phát khởi chiếu soi, thấu tỏ hoặc kia vốn không thì lí của Không hiển hiện trước mắt, khi đó Trần cũng đâu còn nữa, kinh nói “trong lặng gọi là Không, lay động gọi là trần 澄寂名空搖動名塵 trừng tịch danh không, dao động danh trần” đấy chính là nghĩa của Trần vậy.
Khế kinh nhị nghĩa 契經二義 Hai nghĩa của khế kinh; Hai hàm nghĩa của kinh điển Xuất xứ: A Tì Đạt Ma Đại Tì Bà Sa Luận 阿毘 達磨大毘婆沙論
Khế nghĩa là phù hợp, trên phù hợp với lí của chưa Phật, dưới phù hợp với căn cơ chúng sinh. Kinh tức là pháp, là thường. Khế kinh mà Như Lai đã tuyên thuyết đủ hai nghĩa kết tập và san định này. 1. Kiết tập nghĩa 結集義 Nghĩa kết tập
Ý nói khế kinh của Như Lai tích tụ và gìn giữ nhiều ý nghĩa, bao trùm lên tâm lí chúng sinh khiến họ không quên mất ví như việc kết vòng hoa đeo lên đầu chúng sinh được lâu mà không rơi lạc vậy.
2. San định nghĩa 刊定義 Nghĩa san định
Ý nói khế kinh của Như Lai phân định quyết đoán các nghĩa, phân biệt thị phi, bỏ ác giữ thiện ví như người thợ mộc dùng mực thước để xử lí các loại gỗ, bào chỗ cong cho thẳng; bỏ gỗ cong lấy gỗ thẳng vậy.
Khinh trọng nhị nghiệp 輕重二業 Hai nghiệp nặng, nhẹ; Nghiệp nặng, nghiệp nhẹ Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
Kinh nói “có nghiệp nặng có thể thành nhẹ, có nghiệp nhẹ có thể thành nặng 或有重業可得作 輕或有輕業可得作重 Hoặc hữu trọng nghiệp khả đắc tác khinh, hoặc hữu khinh nghiệp khả đắc tác trọng”
phụ thuộc vào người có trí hay người ngu.
1. Trọng nghiệp khinh thụ 重業輕受 Nghiệp chịu quả báo nhẹ
Nghiệp chịu quả báo, chỉ người có trí, biết vận dụng sức mạnh trí tuệ tu tập phạm hạnh có thể chuyển nghiệp nặng phải đọa địa ngục thành nghiệp nhẹ phải thụ báo trong đời nay.
2. Khinh nghiệp trọng thụ 輕業重受 Nghiệp nhẹ chịu quả báo nặng
Nghiệp nhẹ chịu quả báo nặng, chỉ người do thiếu trí tuệ nên làm tăng nặng thêm nghiệp lực, khiến những nghiệp nhẹ trong hiện thế phải chịu quả báo nặng trong địa ngục.
Không hữu các cụ nhị nghĩa 空有各具二義 Hai nghĩa của không, hữu; Hai nghĩa của Không và hai nghĩa của Hữu
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
1. Chân Không nhị nghĩa 真空二義 Hai nghĩa của Chân Không; Hai hàm nghĩa Chân Không
1. Cái Không chân thật – chân không, có thể diệt trừ được cái có giả tạm – huyễn hữu, nếu cái có giả tạm không diệt trừ được ắt cái Không kia chẳng phải chân thật.
2. Chân không có thể tác thành cho cái có hư ảo – huyễn hữu; nếu huyễn hữu có sự ngăn ngại thì cũng chẳng phải Chân không, như vậy gọi là hai hàm nghĩa chân không.
Huyễn hữu ở đây được hiểu là các sự việc không có thật, chúng chỉ hiển hiện trong trạng thái giả tạm do mê mờ về lí chân không.
2. Huyễn hữu nhị nghĩa 幻有二義 Hai hàm nghĩa của huyễn hữu
Hàm nghĩa thứ nhất: huyễn hữu nhất định sẽ che khuất chân không do vậy nếu cái huyễn hữu kia hiện rõ thì chân không ẩn khuất; hàm nghĩa thứ hai: cái huyễn hữu không ngăn ngại chân không nên nếu chân không hiện rõ thì cái huyễn hữu kia tự nhiên diệt mất. Đấy là hai nghĩa của huyễn hữu.
Không hữu nhị chấp 空有二執 Chấp có chấp không; hai chấp có, Không; Hai chấp về Không – Hữu
Xuất xứ: Tông Kính Lục 宗鏡錄
1. Tình hữu lí vô 情有理無 Tình có lí không; Về mặt biểu hiện thì có nhưng về lí tính thì không
Tình ;có ;lí ;không ;tức ;dùng ;phép ;quán Không – không quán để đối trị, khiển trừ sự chấp trước về Có. Nghĩa là quán sát biến kế sở chấp, nếu xét trên phương diện biểu hiện – tình, thì có nhưng xét trên phương diện lí tính ắt sẽ thấy chúng không thực, chúng đều sinh khởi từ, hư huyễn giả dối, không có thể và dụng, thế nên cần khiển trừ chúng đi.
2. Lí hữu tình vô 理有情無 Lí có tình không
Lí có tình không tức dùng pháp quán Hữu để đối trị, khử trừ chấp không. Ý nói quán sát các pháp như y tha, viên thành về mặt lí tính chúng có nhưng về mặt biểu hiện thì không. Về lí chúng vốn có thật về thể và dụng, điều này cần phải giữ lại vậy.
Khởi tín nhị môn 起信二門 Hai cửa theo Khởi tín
Xuất xứ: Khởi Tín Luận 起信論
Luận nói “Các pháp trong trạng thái tâm thuần nhất được phân thành hai loại (cửa), trong mỗi (cửa) loại ấy chúng đều có khả năng thâu nạp tất cả các pháp. Sở dĩ như thế vì cửa Chân như dung thông cả hai phần Nhiễm và Tịnh; trong tướng trạng tương thông ấy, chúng không có sự phân biệt Nhiễm hay Tịnh, do vậy chúng có năng lực thâu nạp tất cả các pháp. Cửa Sinh diệt có tướng trạng phân biệt rõ giữa Nhiễm và Tịnh, tuy nhiên chính trong tướng trạng riêng biệt đó của chúng vẫn có công năng bao hàm tất cả, thế nên chúng cũng được xem là có công năng thâu nạp tất cả các pháp 依一心法有二種門
皆各総 攝一切諸法蓋真如門是染淨通相通相之外 無別染淨故得総攝一切諸法生滅門是染淨別相別相之中無所不該故亦総攝一切諸法 y nhất tâm pháp hữu nhị chủng môn, giai các tổng nhiếp nhất thiết chư pháp. Cái Chân như môn thị nhiễm tịnh tương thông, tương thông chi ngoại vô biệt nhiễmtịnh cố đắc tổng nhiếp nhất thiết chư pháp. Sinh diệt môn thị nhiễm tịnh biệt tướng, biệt tướng chi trung
vô sở bất cai cố diệc tổng nhiếp nhất thiết chư pháp.” đây là lí do của việc tại sao phân thành hai cửa vậy.
1. ;Tâm ;chân ;như ;môn ;心真如門 Cửa ;tâm chân như
Thể tính của tâm không sinh không diệt, không nhiễm không tịnh, tuyệt đối bình đẳng, không thay đổi sai khác bởi đó là trạng thái tâm thuần nhất do vậy gọi là cửa tâm chân như.
2. ;Tâm ;sinh ;diệt ;môn ;心生滅門 Cửa ;tâm sinh diệt
Bất sinh bất diệt là thể tính của chân như, do vô minh huân tập nhiễu động mới có tâm sinh diệt. Đây chính là từ trạng thái giác thành bất giác. Trong đó, giác và bất giác cũng huân tập cho nhau: bất giác huân tập bản giác sẽ sinh ra các pháp lưu chuyển sinh tử; bản giác huân tập bất giác sẽ sinh các pháp thanh tịnh, từ đó hành giả sẽ đi ngược dòng để thoát khỏi mọi trói buộc, hợp thành với bản giác do vậy gọi là cửa tâm sinh diệt.
Kiến, Tư nhị hoặc 見思二惑 Hai mê hoặc về kiến và tư; Hai sai lầm về thấy và tư duy. Xuất xứ: Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú 天臺四教儀集註
Hoặc tức mê hoặc, ý nói do không thấu tỏ tự tính vốn không của hết thảy các pháp từ đó chúng sinh nảy lên sự chấp trước sai lầm, mê lầm về con đường chân chính, trôi lăn sinh tử nên gọi là mê lầm. Còn gọi là hai sự trói buộc, ý nói do nghiệp mê lầm này trói buộc mà đắm vào ba cõi, không thể thoát li. Còn gọi là nhị kết, kết với nghĩa là sự trói buộc.
1. Kiến hoặc 見惑 Cái thấy sai lầm; Sự thấy sai lầm; Kiến hoặc
Kiến trong trường hợp này nghĩa là phân biệt; chỉ sự phân biệt khởi lên khi ý căn tiếp xúc pháp trần từ đó nảy lên nhận thức sai lầm như chấp thường, chấp có, chấp không…của ngoại đạo, đấy chính là kiến hoặc.
2. Tư hoặc 思惑 Tư duy sai lầm; Tư duy một cách mê mờ; Tư hoặc
Tư ở đây với nghĩa là sự tham ái, ý nói năm căn gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân khởi lên sự tham lam mê
đắm khi tiếp xúc với năm trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc từ đó không tỉnh thức được nữa, như thế gọi là tư.
Kim cang nhị nghĩa 金剛二義 Hai hàm nghĩa của kim cang; Hai ý nghĩa của kim cang Xuất xứ: Kim Cương Kinh Trợ Hiển Lục 金剛 經助顯錄
Kim tức kim loại, cương là sự cứng rắn. Đây là vật cứng nhất trong kim loại nên gọi là kim cương. Trong Tiểu phẩm Bát nhã lấy kim cương làm tên, trọn đủ hai hàm nghĩa là rắn và sắc bén.
1. Kiên nghĩa 堅義 Nghĩa kiên cố; Nghĩa rắn chắc; Nghĩa cứng rắn
Cứng rắn, chỉ sự rắn chắc của kim cương, không vật nào có thể phá hỏng hoặc nghiền nát. Lấy ý nghĩa này để dụ cho thế tính của trí tuệ Bát nhã. Thường hằng chân thật, thanh tịnh, không biến hoại, thay đổi; phiền não không thể não loạn, tà ma không thể lay động, đấy chính là Bát nhã thực tướng vậy.
2. Lợi nghĩa 利義 Nghĩa về sự sắc bén
Hàm nghĩa về sự sắc bén, ý nói sự sắc bén của kim cương có thể nghiền nát và cắt đứt muôn vật, dùng đặc tính này để dụ diệu dụng của Bát nhã có khả năng cắt đứt mọi sự mê lầm, chấp trước và chiếu soi năm uẩn là không, tháo dỡ mọi khổ ách, đây chính là tác dụng quán chiếu của Bát nhã.
Lợi độn nhị căn 利鈍二根 Hai căn lợi và độn; Độn căn, lợi căn; Hai căn nhanh, chậm; Căn trí nhanh nhạy và căn trí cùn chậm
Xuất xứ: Tích Huyền Kí 析玄記
Sách Tích huyền nói căn trí của hành giả Kiến đạo có hai loại.
Người chứng quả vị thứ nhất tức quả tu đà hoàn đã phá được Hoặc thấy được Lí, những bậc chứng quả vị này gọi chung là Kiến đạo.
1. Độn căn danh tùy tín hành 鈍根名隨信行 Hàng độn căn gọi là tùy tín hành; Hàng độn căn tu hành trên niềm tin chính pháp theo những gì nghe được
Luận Bà sa 婆沙論 nói: “Hạng người kia khởi lên hành nguyện nhờ nương vào niềm tin, phụ theo niềmtin 由彼依信隨信起行 do bỉ y tín, tùy tín khởi hành”. Ý nói hạng người này bản tính chậm lụt nên không tự mình đọc học giáo pháp, chỉ tin lời người nói pháp để theo đó tu hành mà được ngộ đạo do vậy gọi đây là hàng độn căn tu hành trên niềm tin chính pháp theo những gì nghe được.
2. Lợi căn danh tùy pháp hành 利根名隨法行 Hàng lợi căn gọi là tùy pháp hành; Hàng lợi căn tu hành theo chính pháp; Hàng lợi căn tu hành theo pháp
Luận Bà sa nói: “do hạng người này khởi lên hành nguyện nhờ nương theo chính pháp, tùy thuộc vào chính pháp由彼依法隨法起 行 do bỉ y pháp, tùy pháp khởi hành”. Ý nói hạng người này vốn căn tính nhanh nhạy nên không nghe lời người, tự tìm đọc giáo điển nhờ đó chứng đạo nên gọi là tùy pháp hành tức tu hành theo chính pháp.
Luận hữu nhị chủng 論有二種 Luận có hai loại; Hai loại luận
Xuất xứ: A Tì Đạt Ma Đại Tì Bà Sa Luận 阿毘 達磨大毘婆沙論
Luận tức biện luận nhằm làm sáng tỏ nghĩa lí, chỉ người tạo luận với mục đích hoặc là nói rõ ý nghĩa u ẩn kín đáo của kinh đại thừa, tiểu thừa hoặc nhằm nêu rõ con đường chính pháp, nêu bật và bác bỏ những sai trái của luận điệu phi chính pháp.
1. Lập tự tông 立自宗 Lập tông cho mình; Tự thành lập tông phái cho mình
Lập tông cho mình tức xây dựng tông phái cho chính mình, ví như người thích tông thiện thuyết pháp sẽ lập thiện thuyết pháp tông, người thích tông Ố thuyết pháp sẽ lập ố thuyết pháp tông, người thích tông Ứng lí luận sẽ sẽ lập ứng lí luận tông, người thích tông Phân biệt sẽ lập phân biệt luận tông.
2. Già tha tông 遮他宗 Già tha tông; ngăn cản tông phái khác thành lập
Già tha tông tức ngăn cản người khác thành lập tông phái. Ý nói người giỏi thuyết pháp sẽ ngăn cản người khác thành lập ố thuyết pháp tông; ngược lại người ghét thuyết pháp sẽ ngăn cản việc người khéo thuyết pháp thành lập thiện thuyết pháp tông, người giỏi lí luận ứng đối sẽ ngăn cản người khác thành lập phân biệt luận tông; người không thích lí luận ứng đối sẽ ngăn cản người khác thành lập Ứng lí luận tông.
Lưu Cầu nhị giáo 劉虯二教 Hai giáo của Lưu Cầu
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Chỉ hai giáo pháp do vị ẩn sĩ am tường thấu đạt thư tịch Thích giáo tên Lưu Cầu sống vào thời Tề sáng lập.
1. Tiệm giáo 漸教 Tiệm giáo
Chỉ những kinh điển được Phật Thích Ca diễn thuyết bắt đầu từ vườn Nai cho đến lúc nhập diệt giữa hai cây Sa la đều theo thứ tự từ tiệm đến đốn, do vậy gọi là Tiệm giáo.
2. Đốn giáo 頓教 Đốn giáo
Chỉ đức Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm ở thời đầu tiên sau khi thành đạo được ví như mặt trời vừa ló dạng ắt hắt ánh sáng vào những ngọn núi cao nhất, do vậy gọi là đốn giáo.
Nhẫn ;hữu ;nhị ;chủng ;tướng ;忍有二種相 ;Hai tướng trạng của nhẫn
Xuất xứ: Địa Tạng Thập Luân Kinh 地藏十輪經
Chỉ việc Bồ tát có thể an nhẫn đối với các khổ não do chúng sinh hữu tình và vô tình của thế gian mang lại, tuy nhiên quá trình tu nhẫn đó có thể chia thành hai loại khác nhau phụ thuộc vào tâm quảng đại hay bé hẹp, căn cơ cao hay thấp, hạnh nguyện cạn hay sâu.
Não hại của chúng sinh hữu tình như muỗi, ruồi, chấy, rận…
Não hại của chúng sinh vô tình như gió, rét, mưa, ẩm…
1. Thế gian nhẫn 世間忍 Nhẫn thế gian
Chỉ việc Bồ tát an nhẫn với những khổ não, trái ngược của thế gian bằng tâm hữu lậu để gieo nghiệp phúc, như thế gọi là nhẫn thế gian.
2. Xuất thế gian nhẫn 出世間忍 Nhẫn xuất thế gian
Chỉ việc Bồ tát chỉ vì lợi ích các loài hữu tình, khởi tâm đại bi bình đẳng, an nhẫn mọi cảnh sướng khổ, thuận nghịch nhưng không thấy tướng sinh diệt của các pháp, ấy gọi là nhẫn xuất thế gian.
Nhị ác 二惡 Hai trạng thái ác; Hai loại ác
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Dĩ sinh ác 已生惡 Điều ác đã sinh
Các pháp ác như tham lam, sân hận, ngu si, giết hại mạng sống, lấy của không cho, dâm dục đã khởi lên trong tâm đã thể hiện ra bằng hành động đấy gọi là ác đã sinh. Nếu ác đã sinh cần phải diệt trừ ngay lập tức.
2. Vị sinh ác 未生惡 Điều ác chưa sinh
Các pháp ác như tham lam, sân hận, ngu si, giết hại mạng sống, lấy của không cho, dâm dục chưa khởi lên trong tâm, chưa thể hiện ra bằng hành động đấy gọi là ác chưa sinh. Nếu ác chưa sinh cần phải đề phòng khiến chúng không phát sinh nữa.
Nhị ái 二愛 Hai sự yêu quý
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Dục ái 欲愛 Yêu quý dục lạc
Chỉ tâm yêu quý vợ con, đắm đuối vào năm thứ ham muốn thế gọi là yêu quý dục lạc. 2. Pháp ái 法愛 Yêu quý Pháp
Chỉ Bồ tát vận tâm bình đẳng khởi sinh niềm vui trong chính pháp muốn khiến chúng sinh đều đến trên con đường Phật pháp, ấy gọi là yêu quý Phật pháp.
Nhị báo 二報 Nhị báo; Hai loại báo
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
1. Y báo 依報 Y báo
Y báo cũng gọi là Y quả, chỉ quốc độ, thế giới mà mọi loài chúng sinh tồn tại trên đó. Thân của mọi loài chúng sinh thụ nhận quả báo thế nào đều phải nương vào đó để tồn tại gọi là y báo.
2. Chính báo 正報 Chính báo
Chính báo cũng gọi là chính quả, chỉ cho thân ngũ ấm. Mọi loài chúng sinh sẽ thụ nhận thân hình tương ứng tùy thuộc vào nghiệp nhân thiện, ác mà họ đã tạo - Thân là nơi trực tiếp, chính thức thụ nhận quả báo nên gọi là chính báo.
Nhị Bát nhã 二般若 Hai loại Bát nhã
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
;1. Thực tướng Bát nhã 實相般若 Bát nhã thực tướng; Thực tướng Bát nhã; Trí tuệ thực tướng; Thực tướng trí tuệ
Bát nhã thực tướng, chỉ Lí bản giác phi tịch phi chiếu, lìa tướng hư vọng là nghĩa của thực tướng cũng chính là nhất thiết chủng trí.
Phi tịch phi chiếu: tịch tức tịnh lặng, tĩnh lặng; chiếu tức chiếu soi, chiếu sáng. Khi dùng chữ “phi” để phủ định tức muốn ngăn chặn hai thái cực động và tĩnh, chiếu và tịch nhằm hiển bày cái đức của thực tướng trung đạo vậy.
2. Quán chiếu Bát nhã 觀照般若 Bát nhã quán chiếu; ;Quán ;chiếu ;Bát ;nhã; Trí ;tuệ ;quán chiếu
Bát nhã quán chiếu muốn nói đến chính là cái đức của sự quán chiếu, sự chiếu soi mà không phải là chiếu soi, vì khi thấu đạt các pháp không có danh và tướng tức là quán chiếu, đấy cũng chính là Nhất thiết trí vậy.
Phi chiếu nhi chiếu – sự chiếu soi mà không phải là chiếu soi, ý nói về lí tính nó vốn không phải là chiếu soi nhưng do nhờ phép Quán mà công dụng của chiếu tự nhiên hiển hiện, đó cũng chính là cái đức của chiếu soi vậy.
Nhị Bát nhã 二般若 Hai loại Bát nhã; Hai loại trí tuệ
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
Bát nhã dịch từ chữ prajñā trong tiếng Phạn, nghĩa là trí tuệ, chỉ cho đức Phật diễn thuyết diệu pháp thông giáo, biệt giáo và viên giáo trong hội Bát nhã thế nên có loại trí tuệ chung và trí tuệ không chung.
1. Cộng Bát nhã 共般若 Cộng Bát nhã; Trí Bát nhã chung
Trí tuệ chung tức chỉ cho thông giáo. Thông với nghĩa là thông suốt chung nhau, ý nói cả ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều nương vào giáo pháp này mà tu chứng.
2. Bất cộng Bát nhã 不共般若 Bát nhã bất cộng; Trí Bát nhã không chung
Trí tuệ không chung cùng tức viên giáo và biệt giáo. Ý nói viên giáo, biệt giáo chỉ bàn về phép tu hành Bồ tát, không chung thông với hàng Thanh văn Duyên giác.
Nhị bần 二貧 Hai sự nghèo nàn
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tài bần 財貧 Nghèo nàn tài sản
Ý nói do đời trước không biết bố thí, không làm thiện nên đời này thiếu tốn tài sản nuôi thân và thiếu cả mọi thứ tài sản khác, ấy gọi là nghèo nàn tài sản.
2. Pháp bần 法貧 Nghèo nàn chính pháp; Nghèo nàn Phật pháp
Chúng sinh khởi mọi tà kiến, không tin chín pháp, không làm điều thiện, tất sẽ không có tài sản về công đức để nuôi mạng sống trí tuệ, ấy gọi là nghèo nàn chính pháp.
Nhị biên 二邊 Nhị biên; Hai bên; Cực đoan; Hai chấp chặt cực đoan
Xuất xứ: Nhiếp Đại Thừa Luận Thích 攝大乘 論釋
1. Tăng ích biên 增益邊 Tăng ích biên; Nghiêng về phía tăng ích
Chỉ ;các ;pháp ;duyên ;sinh, ;nếu ;tách ;biệt chúng ra để suy đến cùng ắt sẽ thấy chúng vốn không có tính chất cố định của tự thân – vô tự tính, chúng sinh không hiểu thấu chấp rằng chúng có thực, trường hợp này gọi là tăng ích biên.
2. Tổn giảm biên 損減邊 Tổn giảm biên; Nghiêng về phía tổn giảm
Ý nói các pháp duyên sinh, nếu tách biệt chúng ra để xét từng phần sẽ nhận định rằng chúng không có, nhận định này làm tổn giảm khả năng tác thành thực hữu của chúng, trường hợp này gọi là tổn giảmbiên.
Nhị biên 二邊 Nhị biên; Hai bên; Hai thái cực; Hai cực đoan
Xuất xứ: Trung Luận 中論
1. ;Hữu ;biên ;有邊 Cực ;đoan ;chấp ;có; ;Bên chấp có
Biên tức ranh giới, ý nói tất cả sự vật trong thế gian đều nhờ vào các duyên, cần các duyên hòa hợp một cách đầy đủ mới sinh khởi, chúng không có tính chất cố định của tự thân – vô tự tính; tuy không có tự tính nhưng không thể nhận định rằng chúng là không được, do không thể cho rằng chúng không có, đã không phải không có tức là có, trường hợp này gọi là chấp có hay rơi vào phía Hữu.
2. Vô biên 無邊 Cực đoan chấp không;; Bên chấp không
Ý nói tất cả sự vật trong thế gian đều nhờ vào các duyên, cần các duyên hòa hợp một cách đầy đủ mới sinh khởi, chúng vốn không có tính chất độc lập của tự thân – vô tự tính, nếu vô tự tính ắt mọi pháp đều không, không thể gọi là có, trường hợp này gọi là chấp Vô.
Nhị căn 二根 Hai căn
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh Nghĩa Hải 楞嚴 經義海
1. Phù trần căn 浮塵根 Căn phù trần
Căn phù trần, chỉ các căn gồm nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn. Do chúng hư giả không thực nên gọi là phù, không có tác dụng thấy nghe cảm giác tri nhận nên gọi là trần. Kinh nói “mắt như quả nho, tai như lá non cuộn lại, mũi như hai móng tay thả lỏng xuống, lưỡi như trăng non, thân như eo thùng trống, ý như khả năng thấy trong nhà tối 眼 如蒲萄朵耳如新卷葉鼻如雙垂爪舌如初 偃月身如腰鼓顙意如幽室見 nhãn như bồ đào, nhĩ như tân quyển diệp, tị như song thùy trảo, thiệt như sơ yển nguyệt, thân như yêu cổ tảng, ý như y thất kiến.” tức chỉ cho ý này.
Năm căn trước tiếp xúc với năm trần cụ thể nên rõ ràng hơn. Ý căn tiếp xúc với pháp trần trong trạng
thái độc ảnh, do vậy quá trình này diễn ra trong trạng thái mờ tối như khả năng nhìn thấy trong nhà tối vậy.
Các căn hư giả không thực ở đây muốn nói, khả năng ngửi mùi, nghe tiếng…không nằm ở cái biểu hiện của lỗi tai (vành tai) hay lỗ mũi (hai lỗ mũi), vì khi cắt bỏ chúng đi, khả năng nghe, ngửi vẫn còn.
2. Thắng nghĩa căn 勝義根 Căn thắng nghĩa
Thắng nghĩa căn chỉ sáu căn đã có sức mạnh thù thắng có thể chiếu soi cảnh tượng phát khởi nhân thức để hình thành tác dụng của căn, thế gọi là thắng nghĩa căn. Ví dụ như mắt có thể trông thấy, tai có thể nghe tiếng, mũi có thể ngửi mùi, lưỡi có thế nếm vị, thân biết được cảm giác xúc chạm và ý biết được pháp.
Nhị cầu 二求 Hai điều mong cầu
Xuất xứ: Thành Thật Luận 成實論
1. Đắc cầu 得求 Đắc cầu; Cầu được; Mưu cầu cho được
Ý nói chúng sinh muốn có được niềm vui cứ việc mưu cầu theo ý mình, tuy quá trình mưu cầu phải trải nhiều gian nan nguy hiểm nhưng vẫn không xem đó là khổ. Giống như biển cả chứa mọi dòng chảy, cũng thế tâm mưu cầu của chúng sinh chưa từng chán đủ, đấy gọi là cầu được.
2. Mạng cầu 命求 Cầu mạng; Cầu sống lâu; Cầu trường thọ; Cầu thọ mạng lâu dài
Ý nói chúng sinh mưu cầu niềm vui sinh ra ái nhiễm đắm trước, không thể quán sát như thật rằng vui là nhân của khổ ngược lại họ cầu sống lâu để hưởng thụ mọi niềm vui, như thế gọi là cầu mạng.
Nhị chân như 二真如 Hai chân như
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
1. An lập chân như 安立真如 Chân như an lập
Thể không hư vọng tức chân, tính không thay đổi tức như. Chân như cũng chính là thể của thực tướng, do thể chân như sinh ra pháp thế gian, xuât thế gian nhưng nó vẫn an trú tịch tĩnh do vậy gọi là chân như an lập.
2. Phi an lập chân như 非安立真如 Chân như phi an lập
Ý nói pháp chân như xưa nay thanh tịnh, lìa mọi hình tướng, tịch diệt vô vi nên gọi là chân như phi an lập.
Nhị chân như 二真如 Hai chân như
Xuất xứ: Khởi Tín Luận Sớ 起信論疏
1. Li ngôn chân như 離言真如 Chân như lìa ngôn ngữ biểu đạt
Ý nói thể chân như lìa mọi hình tướng của tên gọi; lìa mọi tướng trạng mà tâm có thể tư duy về và lìa
mọi hình tướng mà ngôn ngữ có thể biểu đạt do vậy gọi chung là chân như lìa ngôn ngữ biểu đạt. 2. Y ngôn chân như 依言真如 Y ngôn chân như; Chân như trong ngôn ngữ
Ý nói thể tính chân như vốn rỗng thoáng bao hàm nhưng không vướng trệ trong ngôn ngữ nhưng vẫn có thể dựa vào ngôn ngữ để hiển lộ chân như do vậy gọi là chân như trong ngôn ngữ.
Nhị chân như 二真如 Hai loại chân như
Xuất xứ: Khởi Tín Luận Sớ起信論疏
1. Bất ;biến ;chân ;như ;不變真如 Chân ;như bất biến
Ý nói thể chân như xưa này bình đẳng rốt ráo, không thay đổi, không thể phá hoại, thể ấy thường tịch lặng không tồn tại ở mỗi dạng thức khác ngoài tự thân nó do vậy gọi là chân như bất biến.
2. Tùy duyên chân như 隨緣真如 Chân như tùy duyên
Thể tính chân như vốn không sinh diệt song do vô minh huân tập làm nhiễu động đến mọi tướng như nước gợn sóng do gió thổi đến, nếu gió ngừng lặng tướng động của nước sẽ trở về như vốn có của nó, trường hợp này gọi là chân như tùy duyên.
Nhị chấp 二執 Nhị chấp; Hai sự chấp trước
Xuất xứ: Kim Quang Minh Kinh Văn Cú Kí 金光明經文句記
1. Nhân chấp 人執 Chấp người
Chỉ việc chúng sinh gượng dựng cái chủ tể trong các pháp năm ấm để rồi chấp rằng ta là con người, như thế gọi là chấp người.
2. Pháp chấp 法執 Chấp pháp
Chúng sinh không thấu đạt các pháp trong năm ấm do nhân duyên sinh, như huyễn như hóa lại sinh tâmchấp trước một cách sai lầm rằng đó là thân ta, như thế gọi là chấp pháp.
Nhị chủng 二種Hai loại; Hai hạt giống; Hai loại giống
Xuất xứ: Pháp Hoa An Lạc Hạnh Nghĩa 法華 安樂行義
1. ; Phàm ; chủng ; 凡種 Hạt ; giống ; phàm; Phàm chủng
Chỉ hàng phàm phu không tỉnh giác, thấu hiểu các pháp, do mắt tháy sắc sinh tâm tham ái, tạo nghiệp vì tham ái, theo nghiệp chịu nhận quả báo sinh tử luân hồi liên tục không dứt như thế gọi là hạt giống phàm.
2. ;Thánh ; chủng ; 聖種 Hạt ; giống ; thánh; Thánh chủng
Chỉ hạng người như các bậc thiện tri thức mà nghe được ý nghĩa chính pháp, khéo léo tỉnh thức thấu tỏ các pháp sinh ra từ vọng niệm, quán sát vọng tâm này giống như hư không, nhờ đó tu tập pháp môn không vướng đắm vào các pháp, thành tựu hạt giống gieo trồng quả vị thánh, do vậy gọi đây là hạt
giống thánh.
Nhị chủng ác mạ báo 二種惡罵報 Hai loại quả báo của việc mắng chửi
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Thường văn ác âm 常聞惡音Thường nghe tiếng xấu; Thường nghe tiếng ác
Thường nghe tiếng ác, ý nói nhân đời trước luôn miệng mắng người, không chút kiêng kị, phát ngôn thô ác khiến người khó nghe nên chiêu cảm lấy quả báo đời này thường nghe âm thanh ô uế, xấu xa.
2. ;Hằng ;hữu ;tránh ;tụng ;恒有諍訟 Luôn ;có tranh tụng
Luôn có tranh tụng, ý nói nhân đời trước cậy sức cậy thế, ham thích tranh tụng, ác nghịch vô đức nên chiêu cảm quả báo đời này thường bị tranh tụng, ở chốn bất hòa.
Nhị chủng ác sự 二種惡事 Hai loại việc ác
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Chúng sinh ác sự 眾生惡事 Việc ác của chúng sinh
Ý nói chúng sinh tham dục, sân khuể, ngu si không tuân lời cha mẹ, sư trưởng, làm nhiều việc ác đấy gọi là việc ác chúng sinh.
2. Thổ địa ác sự 土地惡事 Việc ác của đất đai
Ý nói trong đất đầy dẫy nguy cơ mất mùa đói kém, khí độc…ấy gọi là việc ác của đất đai. Nhị chủng ái ngữ 二種愛語 Hai loại ái ngữ; hai ái ngữ
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tùy ý ái ngữ 隨意愛語 Ái ngữ tùy ý; Ái ngữ theo ý
Chỉ Bồ tát vì lòng từ bi thương xót chúng sinh nên thuyết pháp thuận theo ý muốn của họ, đấy gọi là ái ngữ tùy ý.
2. ;Tùy ;sở ;ái ;pháp ;vị ;thuyết ;隨所愛法為說 Nói theo sở thích về pháp của chúng sinh; Thuyết pháp theo sở thích chúng sinh; Nói pháp theo sở thích chúng sinh
Ý nói Bồ tát thuyết pháp thuận theo sự yêu thích về pháp của chúng sinh, luận nói: “Bồ tát nếu đã đắc đạo, thì theo pháp nào có thể độ chúng sinh mà diễn thuyết cho họ, như người giàu có và tâm cao ngạo Bồ tát ắt sẽ vì người đó mà tán thán về việc bố thí, bởi vì người đó yêu thích thanh danh, phúc đức nên họ sẽ vui mừng đối với pháp bố thí kia, như thế gọi là thuyết pháp theo sở thích chúng sinh.
Nhị chủng bạch pháp 二種白法 Hai loại bạch pháp
Xuấtxứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
Bạch pháp tức pháp trong sáng thanh tịnh, ngược ;lại ;với ;bạch ;pháp ;là ;hắc ;pháp. ;Các pháp của địa ngục, ngạ quỷ gọi là hắc pháp, các pháp của người, trời gọi là bạch pháp. Sách 光明文句 nói
“bạch pháp cần được sùng thượng, hắc pháp cần phải xả bỏ 白法湏尚黑 法湏捨 bạch pháp tu thượng, hắc pháp tu xả” là chỉ cho ý này.
1. Tàm bạch pháp 慚白法 Bạch pháp về hổ; Bạch pháp về tàm; Tàm bạch pháp
Chỉ trong lòng hổ thẹn không dám làm điều ác, tu tập các pháp lanh, chấm dứt việc làm ác ấy gọi là tàm bạch pháp
2. Quý bạch pháp 愧白法 Bạch pháp về thẹn; Bạch pháp về quý; Quý bạch pháp
Chỉ việc tự thấy thẹn lòng nên phát lộ tội lỗi, không dám tái phạm, tu tập pháp thiện, chấm dứt việc làm ác như thế gọi là tàm bạch pháp.
Nhị chủng Bát nhã trang nghiêm 二種般若莊嚴 Hai loại trang nghiêm của Bát nhã; Hai cách trang nghiêm của Bát nhã
Xuất xứ: Bát nhã Kinh 般若經 và Đại Trí Độ Luận 大智度論
Bát nhã dịch âm từ chữ Prajñā trong tiếng Phạn, nghĩa là trí tuệ. Trí tuệ có thể làm pháp thân trang nghiêm hơn nên gọi là Bát nhã trang nghiêm.
1. Dĩ trang nghiêm 已莊嚴 Đã trang nghiêm
Chỉ người tu tập trí tuệ như mang vòng anh lạc tuyệt đẹp có thể tô điểm cho thân tướng thêm tôn nghiêm gọi là đã trang nghiêm.
2. Vị trang nghiêm 未莊嚴 Chưa trang nghiêm Chỉ người chưa thể tu tập trí tuệ như chưa có vòng anh lạc tô điểm thân mình gọi là chưa trang nghiêm.
Nhị chủng bịnh 二種病 Hai loại bệnh;
Hai thứ bệnh
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
1. Thân bịnh 身病 Thân bệnh; Bệnh của thân; Bệnh về thân
Thân nhờ bốn đại được ví như bốn con rắn độc ghép lại mà thành. Bốn đại không điều hòa dẫn đến các bệnh phát sinh nên gọi các bệnh trên thân thể là thân bệnh.
Bốn đại gồm đất nước gió lửa. Nhân bốn yếu tố này hiện hữu cùng khắp thế giới nên gọi là đại. Con người lấy bốn đại bên ngoài mà thành bốn đại bên trong cơ thể gồm: chất cứng rắn, chất ẩm ướt, hơi ấm và sự chuyển động. Bốn đặc tính đó đan xen công phá bất hòa sẽ sinh bệnh, chúng độc hại như rắn độc do vậy gọi bốn đại trong cơ thể là bốn con rắn độc.
2. Tâm bịnh 心病 Tâm bệnh; Bệnh của tâm; Bệnh về tâm
Thể của tâm linh diệu, sáng suốt, viên mãn, thoáng rỗng, tịch lặng. Giả sử do bốn việc như: vui mừng quá mức mà sinh xao động, khiếp nhược; do thiếu dũng khí mà sinh hoảng loạn kinh bãi; do ưu sầu khổ não; do ngu si, hôn ám ngu muội khuấy nhiễu khiến tâm phát sinh các thứ bệnh gọi là tâm bệnh.
Nhị chủng bịnh 二種病 Hai loại bệnh
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tiên thế hành nghiệp bịnh 先世行業病 Bệnh do hành nghiệp đời trước; Bệnh do quả báo của hành nghiệp đời trước
Nhân đời trước ham đánh đòn roi gậy, tra tấn lấy cung, trói nhốt não hại chúng sinh nên chiêu cảm đời này mắc nhiều bệnh tật, trường hợp này gọi là bệnh do hành nghiệp đời trước.
2. Hiện thế thất điều bịnh 現世失調病 Bệnh do mất điều hòa cơ thể trong hiện thế; Bệnh do mất điều hòa cơ thể trong đời này
Chỉ các loại tật bệnh do nóng lạnh mưa gió, không biết điều dưỡng, không tiết chế ăn uống, làm việc nghỉ ngơi thất thường gây nên gọi là bệnh do mất điều hòa cơ thể trong hiện thế.
Nhị ;chủng ;Bồ ;tát ;二種菩薩 ;Hai ;loại ;Bồ ;tát; Hai tầng bậc Bồ tát
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
Luận nói “Bồ tát quý trung đạo, bỏ sự chấp chặt vào hai trạng thái cực đoan thế nên không sinh vào vùng ven mà sinh vào vùng trung tâm đất nước, sinh vào vùng trung tâm đất nước lại còn không sinh vào nhà tà kiến 菩薩常好中道捨離 二邊故不生邊國又於中國不生邪見家 Bồ tát thường hiếu trung đạo xả li nhị biên cố bất sinh biên quốc, hựu ư trung quốc bất sinh tà kiến gia”. Giả sử có người hỏi rằng Bồ tát có phúc đức lớn, có sức mạnh trí tuệ do vậy nên sinh vào vùng biên địa và nhà nhiều tà kiến để giáo hóa họ cớ sao phải sợ mà không dám sinh vào đó? Đáp rằng Bồ tát có hai loại, gồm:
Hai trạng thái cực đoan tức hoặc là chấp có hoặc là chấp không.
1. ;Thành ;tựu ;đại ;lực ;Bồ ;tát ;成就大力菩薩 Bồ tát thành tựu đại lực
Luận nói “Bồ tát ở tầng bậc này, tùy nơi nào chúng sinh cần hóa độ ắt sẽ tự tại ứng hiện vào xứ đó, không tránh né biên địa hay nhà tà kiến 此菩薩為眾生故隨所應度隨處受 用不避邊地及邪見家Thử Bồ tát vị chúng sinh cố tùy sở ứng độ, tùy xứ thụ dụng, bất tị biên địa cập tà kiến gia” như thế gọi là Bồ tát thành tựu đại lực.
2. Tân nguyện ý Bồ tát 新發意菩薩 Bồ tát mới phát nguyện
Luận nói “Bồ tát ở tầng bậc sơ phát tâm nếu sinh vào vùng biên địa hoặc nhà tà kiến thì đã không thể độ được người lại tự làm hoại mầm thiện trong mình. Giả như vàng ròng rơi xuống bùn đen thì vẫn là vàng ròng, nếu là đồng sắt ngập xuống bùn đen ắt sẽ han gỉ, hư ; hoại此菩薩初發心故若生邊地及邪見 家既不能度人又自敗壞善根譬如真金在 泥終不變壞若是銅鐵在泥則壞 thử Bồ tát sơ phát tâm cố. Nhược sinh biên địa cập tà kiến gia, kí bất năng độ nhân hựu tự bại hoại thiện căn. Thí như chân kim tại nê chung bất biến hoại; nhược thị đồng thiết tại nê tắc hoại”. Thế nên Bồ tát mới phát tâmkhông sinh biên địa và nhà tà kiến vậy是故新發意 菩薩不生邊地及邪見家”.
Vàng ròng ở đây ví cho Bồ tát đã thành tựu đại lực. Đồng thau ví cho Bồ tát mới phát tâm. Nhị chủng bố thí 二種布施 Hai cách bố thí; Hai kiểu bố thí; Hai hình thức bố thí
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tịnh thí 淨施 Tịnh thí; Bố thí thanh tịnh
Chỉ tâm của người khi thực hành việc bố thí không mong cầu được báo đáp bằng danh dự lợi dưỡng thế gian mà chỉ vì nuôi dưỡng thiện căn xuất thế, vun đắp nhân lành Niết Bàn nên bố thí với tâm thanh tịnh do vậy gọi là bố thí thanh tịnh.
2. Bất tịnh thí 不淨施 Bất tịnh thí; Bố thí bất tịnh
Bố thí với tâm tham vọng mong cầu phúc báo như kinh Bát nhã nói “hoặc sợ mất tài sản mà bố thí hoặc sợ trách mắng mà bố thí hoặc vì cầu cạnh thế lực mà bố thí 或畏失 財故施與或恐訶罵故施與或為求勢故施 與 hoặc úy thất tài cố thí dữ, hoặc khủng ha mạ cố thí dữ, hoặc vị cầu thế cố thí dữ”. Mọi nhân duyên trái ngược với sự thanh tịnh như thế đều gọi là bố thí bất tịnh.
Nhị chủng căn bản 二種根本 Hai loại căn bản
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
1. Vô thủy sinh tử căn bản 無始生死根本 Căn bản sinh tử vô thủy
Chúng sinh trải qua vô lượng kiếp trôi lăn sinh tử, muốn tìm kiếp khởi đầu là điều không thể. Khi chúng sinh đánh mất bản tính liền cuốn theo dòng sinh tử do vậy gọi là sinh tử từ vô thủy. Nói căn bản tức muốn chỉ cho cái tâm phan duyên, kinh nói “dùng tâm phan duyên xem đó là tự tính 用攀緣心 為自性者 dụng phan duyên tâm vi tự tính giả” tức chỉ cho ý nghĩa của từ căn bản trong trường hợp này.
2. Vô thủy Bồ đề Niết Bàn nguyên thanh tịnh thể 無始菩提涅槃元清淨體 Bồ đề Niết Bàn vô thủy là thể thanh tịnh ban sơ
Thể tính Bồ đề Niết Bàn thanh tịnh, thoáng rỗng dung nạp, tịch lặng không thiên lệch di dời, vô thủy vô chung nên gọi là vô thủy Bồ đề Niết Bàn. Không bị phiền não vướng nhiễm, không chìm đắm sinh tử gọi là thể thanh tịnh ban sơ, nó là căn bản của Bồ đề Niết Bàn thanh tịnh.
Nhị chủng chúng sinh 二種眾生 Hai loại chúng sinh
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tập ái chúng sinh 習愛眾生 Chúng sinh tập ái; Chúng sinh quen với ái dục
Tập với nghĩa là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần, ái tức tham ái cũng có nghĩa là ái lạc. Ý nói chúng sinh tiếp xúc với cảnh năm dục như âm thanh, sắc đẹp, hương thơm…. rồi sinh tâm vướng đắm, không thể lìa xa như thế gọi là chúng sinh tập ái.
2. Tập kiến chúng sinh 習見眾生 Chúng sinh tập kiến; Chúng sinh quen với kiến
Kiến ở đây với nghĩa là cái thấy mang nặng tính phân biệt có không…Ý nói chúng sinh luôn mang cái thấy với sự chấp có chấp không, chấp thường chấp đoạn đối với các pháp như thế gọi là chúng sinh tập kiến.
Đoạn kiến, chỉ sự chấp chặt rằng các pháp thế gian đều đoạn diệt vô thường.
Nhị chủng cúng dường 二種供養 Hai cách cúng dường; Hai cách cúng dường Xuất xứ: Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm 普賢 行願品
1. Tài cung dưỡng 財供養 Cúng dường tài vật
Kinh nói “tất cả quốc độ Phật trong mười phương cực nhiều như số lương bụi nhỏ, trong mỗi hạt bụi nhỏ ấy lại có các vị Phật nhiều như số bụi nhỏ, mỗi một vị Phật lại có hải hội Bồ tát vây quanh, ta nhờ vào nguyện lực của Bồ tát Phổ Hiền, dùng vật phẩm tuyệt diệu tối thượng để cúng dường, gồm có: vòng hoa, âm nhạc, ô lọng, áo quần và đốt các loại hương thơm, thắp các loại đèn, mỗi ngọn đèn lớn như núi Tu di. Dùng vật phẩm cúng dường như vậy để thường xuyên cúng dường” ấy gọi là cúng dường tài vật.
Tu di, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
2. Pháp cung dưỡng 法供養 Cúng dường Pháp
Kinh nói “trong các phép cúng dường, cúng dường pháp là sự cúng dường tối thượng”. Cúng dường pháp tức cách cúng dường bằng việc tu hành đúng như lời đức Phật đã dạy, cúng dường bằng cách mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh, cúng dường bằng cách vỗ về che chở tất cả chúng sinh, cúng dường bằng cách chịu khổ thay cho tất cả chúng sinh, cúng dường bằng cách tu tập các gốc lành, cúng dường bằng cách không xả bỏ hạnh nghiệp Bồ tát, cúng dường bằng cách không lìa xa tâm Bồ đề. Vô lượng công đức có được bằng cách cúng dường tài vật đã nói ở trước chẳng thể bằng một phần trămcông đức của việc cúng dường Pháp này, ấy gọi là Cúng dường Pháp.
Cúng dường Pháp bằng cách làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, cúng dường pháp bằng cách vỗ về, che chở cho tất cả chúng sinh ý nói nhất định phải thông qua việc thuyết pháp mới có thể mang lại lợi ích, che chở vỗ về cho chúng sinh ấy chính là cách cúng dường Pháp cho đức Như Lai.
Cúng dường pháp bằng cách chịu khổ thay cho tất cả chúng sinh, ý nói nhờ phát tâm đại bi mới có thể chịu khổ thay cho chúng sinh, đồng thời đấy cũng chính là cách cúng dường pháp cho Như Lai.
Siêng năng tu tập cá gốc lành chính là siêng tu thiện pháp.
Hạnh nghiệp Bồ tát, chỉ các pháp mà Bồ tát tu tập.
Nhị ;chủng ;dâm ;báo ;二種婬報 ;Hai ;quả ;báo của dâm
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Phụ bất trinh khiết 婦不貞潔 Vợ không trinh trắng; Vợ không chung thủy
Vợ không trinh trắng, ý nói do nhân đời trước xâm phạm đến vợ người khác, hành vi tà dâm ô uế nên chiêu cảm quả báo đời này không có được vợ trinh lương trong trắng chung thủy.
2. Đắc bất thuận ý quyến thuộc 得不順意眷屬Không có quyến thuộc thuận ý; Quyến thuộc không vừa ý
Quyến thuộc không vừa ý, ý nói do nhân đời trước làm việc dâm dục bất chính, đoạt lấy người sủng ái của kẻ khác khiến họ không được như ý nguyện nên chiêu cảm quả báo đời này có quyến thuộc thường
không thuận theo ý mình.
Nhị chủng diệt 二種滅 Hai loại diệt; Hai trạng thái diệt
Xuất xứ: Hiển Dương Thánh Giáo Luận 顯揚 聖教論
1. Tạm thời diệt 暫時滅 Diệt tạm thời
Chỉ Như Lai xuất thế, tùy theo căn cơ thi thiết giáo pháp, dẫn dắt chúng sinh, hàng đại thừa tiểu thừa đều được giải thoát. Cơ duyên đã mãn, đối tượng hóa độ cũng hết, Như Lai liền nhập diệt. Tuy nhiên thể của pháp thân Như Lai, như như bất động, thực tế chưa từng diệt, do vậy gọi trường hợp này là diệt tạm thời.
2. Cứu cánh diệt 究竟滅 Diệt cứu cánh; Diệt rốt ráo; Diệt cùng cực
Ý nói Như Lai thành tựu giác tính vi diệu tròn đầy sáng láng, đoạn diệt sạch mọi phiền não khiến chúng không thể sinh khởi lại nữa, thế nên gọi là diệt cứu cánh.
Nhị chủng điên đảo 二種顛倒 Hai loại điên đảo
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
1. Chúng sinh điên đảo 眾生顛倒 Chúng sinh điên đảo
Chúng sinh không thấy rõ tự tính, theo đuổi hư vọng, mê mờ chân lí nên thuận theo hư vọng mê mờ mà gây nên vọng nghiệp do vọng nghiệp ấy dần dần phát triển khiến chúng sinh mãi quay vòng trong ba cõi không thể ngược dòng hư giả quay về chân lí nên gọi là chúng sinh điên đảo.
2. Thế giới điên đảo 世界顛倒 Thế giới điên đảo
Thế với hàm nghĩa là quá khứ, hiện tại, vị lai trôi chảy chuyển dời mãi mãi không dứt; giới với nghĩa là giới hạn của bốn phương đông tây nam bắc. Gộp cả thời gian và phương hướng lại gọi chung là thế giới. Điên đảo, ý nói chúng sinh mê mờ đánh mất chân tính, từng niệm thay đổi trôi chảy mãi không ngừng và ở mãi trong cảnh giới hư vọng ấy mà khởi lên cái thấy trái ngược đảo lộn do vậy gọi là thế giới điên đảo.
Nhị chủng độc giác 二種獨覺 Hai loài độc giác; Hai dạng độc giác
Xuất xứ: Tích Huyền Kí 析玄記
Đại luận nói “độc giác ra đời không gặp Phật, không thầy hướng dẫn vẫn tự giác ngộ nhờ năng lực quán sát nhân duyên bên ngoài 獨覺出無 佛世觀外因緣無師自悟 Độc giác xuất thế vô Phật thế, quán ngoại nhân duyên, vô sư tự ngộ” do vậy gọi là độc giác tức khả năng giác ngộ độc lập vậy.
Quán nhân duyên bên ngoài chỉ khả năng quán sát sự hưng suy vô thường của sự vật bên ngoài mà tỉnh giác ý thức đến sự sinh diệt nội tâm mà giác ngộ.
1. Bộ hành 部行 Bộ hành độc giác
Bộ với nghĩa là nhóm loại, ý nói những vị độc giác này còn có chút tâm vì loài người ví như con nai đi thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn lại bầy đàn của mình, những vị độc giác này cũng có tâm vì loài người
ví như hành vi của con nai kia nên gọi là Bộ hành.
2. Lân dụ 麟喻 Lân dụ độc giác
Lân tức kì lân, dụ tức ví dụ, ý nói những vị độc giác này chỉ muốn độ mình không chút tâm lí vì loài người, ví như loài kì lân chỉ có một sừng, do vậy dùng hình ảnh một sừng của con kì lân này để ví cho những vị độc giác này.
Nhị chủng hiển thị 二種顯示 Hai loại hiển thị; Hai cách hiển thị
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Hiển tức hiển lộ, thị là đưa ra ánh sáng, ý nói mọi chúng sinh vốn có đủ các pháp như Lí, Sự, Nhân, Quả nhưng do luân hồi thay tướng đổi hình, tình sinh khởi nên trí cách ngăn không thể phát triển hiển lộ do vậy Phật diễn thuyết Hoa nghiêm giúp hàng Bồ tát biết tâm với thể khế hợp nhau, trí hiển lộ ắt tình tiêu mất, nhờ vậy biết được có hai sự hiển thị.
1. Ngôn hiển thị 言顯示 Hiển thị qua lời nói; Hiển thị qua ngôn ngữ
Chỉ Phật vận dụng ngôn ngữ lời nói để hiển thị giúp chúng sinh đều biết có đức tướng, trí tuệ Như Lai. Kinh nói: Phá vỡ hạt bụi nhỏ xuất hiện quyển kinh lớn…như thế gọi là hiển thị qua ngôn ngữ.
2. Sử tu hành hiển thị 使修行顯示 Hiển thị qua việc tu hành
Chỉ khi chúng sinh đã biết bản tính vốn đủ các pháp Như Lai, Phật khiến họ tu hành ngộ nhập, hiển thị bản tính đó như kinh Pháp hoa nói: “vì khiến chúng sinh mở ra, thấu tỏ, chứng ngộ và thể nhập tri kiến của Phật” như thế gọi là hiển thị qua việc giúp chúng sinh tu hành.
Nhị chủng hộ trì sự 二種護持事 Hai loại hộ trì; Hai việc hộ trì; Hai đối tượng hộ trì Xuất xứ: Địa Tạng Thập Luân Kinh 地藏十輪經
1. Hộ trì Phật chủng 護持佛種 Hộ trì giống
Phật; Bảo vệ gìn giữ giống Phật
Giống Phật tức hạt giống Phật tính, ý nói chư Phật, Bồ tát vận tâm đại bi để tiếp nối dòng giống Phật khiến chúng sinh xả bỏ thế tục xuất gia, cạo đầu mặc áo hoại sắc, tu hành theo con đường bậc thánh tiếp nối mãi không đứt mạch.
2. Hộ trì chính pháp 護持正法 Hộ trì chính pháp; Bảo vệ gìn giữ chính pháp
Chính pháp, chỉ các pháp chân chính như Tứ đế…Chư Phật, Bồ tát vận tâm đại bi bảo vệ gìn giữ chính pháp Như Lai khiến tất cả tà ma ngoại đạo không thể não loạn, giúp chúng sinh có niềm tin chân chính, thích nghe chính pháp, hoằng dương sâu rộng, lợi ích không cùng.
Nhị chủng huân 二種熏 Hai cách huân tập; Hai sự huân tập; Hai sự hun đúc Xuất xứ: Phiên Dịch Danh Nghĩa 翻譯名義
Huân với nghĩa là sự hun đúc dần dần để khởi phát sự việc, ý nói Thức thứ tám tuy hàm tàng tất cả hạt
giống thiện ác nhưng nếu không có hai duyên Nhiễm, Tịnh hun đúc dần ắt không thể phát khởi thành các việc nhiễm hay tịnh. Ví như hạt mầm lúa mạch tuy có khả năng nảy mầm nhưng nếu không có đất, nước hun đúc thúc đẩy ắt không thể nảy mầm được, do vậy gọi là hun đúc.
1. Huân tập 熏習 Huân tập
Huân tức hun đúc để phát khởi, tập tức lặp lại nhiều lần. Duyên nhiễm, tịnh hun đúc thúc đẩy tâm thể phát khởi để tạo thành các việc nhiễm, tịnh do vậy gọi là huân tập.
2. Tư huân 資熏 Tư huân
Tư ở đây nghĩa là sự trợ giúp, ý nói tâm khởi lên khi tiếp xúc với cảnh trần trong hiện tại và các hoặc trợ giúp để hun đúc làm nẩy nở thành các việc nhiễm, tịnh nên gọi là tư huân.
Nhị chủng hữu 二種有 Hai sự có mặt; Hai sự tồn tại; Hai loại hữu; Hai loại hiện hữu Xuất xứ: Tì Bà Sa Luận 毘婆沙論
1. Thực vật hữu 實物有Hiện hữu bằng vật có thực; Thực vật hữu
Các pháp năm uẩn hòa kết thành thân, vậy nó là vật có thật do vậy gọi là hiện hữu bằng vật có thực. 2. Thi thiết hữu 施設有Hiện hữu bằng sự bày sắp; Thi thiết hữu
Ý nói con người đều tùy theo nghiệp lực nhận chịu quả báo, nhờ mượn thân thể của cha mẹ để lại mà có tức nhờ sự sắp bày mà hiện hữu với tên gọi, nam nữ…do vậy gọi đây là hiện hữu bằng sự bày sắp.
Nhị chủng hữu lậu nhân quả 二種有漏因果Hai loại nhân quả hữu lậu
Xuất xứ: Đại Niết Bàn Kinh 大涅槃經
1. Hữu lậu nhân 有漏因Nhân hữu lậu
Lậu tức rò rỉ, ở đây chỉ sự rò rỉ xuống biển sinh tử. Nhân tức đối lại với quả, ý nói chúng sinh do phiền não kết nghiệp tạo thành Nhân từ đó chiêu cảm Quả khổ sinh tử trong ba cõi, đấy chính là nhân hữu lậu do phiền não kết nghiệp gây nên đồng, thời đây cũng chính là Tập đế.
2. Hữu lậu quả 有漏果 Quả hữu lậu
Quả với hàm nghĩa là quả báo. Ý nói do chúng sinh có hoặc nghiệp hữu lậu làm Nhân mà chiêu cảmlấy Quả sinh tử, gọi là quả hữu lậu tức Khổ đế.
Nhị ;chủng ;khuyến ;thỉnh ;二種勸請 ;Hai ;phép khuyến thỉnh; Hai cách khuyến thỉnh Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
;1. Phật sơ thành đạo khuyến chuyển pháp luân 佛初成道勸請轉法輪 Khuyến ;thỉnh ;Phật chuyển pháp luân khi mới thành đạo
Khi đức Phật vừa thành đạo, Bồ tát khuyến thỉnh rằng “con tên…thỉnh cầu Phật thế tôn vì chúng sinh, chuyển vận bánh xe pháp, độ thoát tất cả” ấy gọi là khuyến thỉnh chuyển pháp luân.
2. Phật dục nhập diệt khuyến thỉnh trú thế 佛 欲入滅勸請住世 Thỉnh Phật trú lại thế gian khi ngài muốn nhập Niết Bàn
Ý nói khi đức Phật muốn xả bỏ thọ mạng, sắp nhập Niết Bàn, Bồ tát nên khuyến thỉnh rằng “con tên… thỉnh Phật thế tôn an trú thế gian lâu hơn nữa đến vô ương, vô số kiếp độ thoát tất cả chúng sinh” như thế gọi là thỉnh Phật trú lại thế gian.
Nhị chủng khước ma pháp 二種却魔法 Hai phép khước trừ ma; Hai cách trừ ma Xuất xứ: Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu 脩習止觀坐禪法要
1. Tu chỉ khước ma 脩止却魔 Trừ ma bằng phép tu Chỉ
Chỉ hành giả tu thiền khi tu định thấy cha mẹ anh em, hình tượng chư Phật và những cảnh khả ái khác khiến họ vui mừng vướng đắm vào hoặc thấy các cảnh đáng sợ như sư tử, hổ, sói, quỷ la sát khiến họ khiếp hãi. Khi gặp các trường hợp như thế, hành giả nên thấu rõ đấy là tướng trạng của ma muốn khuấy nhiễu làm tâm hành giả mê mờ, thế nên cần biết chúng đều giả dối lừa gạt. Không nên vui mừng, không nên kinh hãi, chỉ nên lắng lòng trong tĩnh, cảnh tượng ấy tự nhiên diệt mất, như thế gọi là trừ ma bằng phép tu Chỉ.
2. Tu quán khước ma 脩觀却魔 Trừ ma bằng phép tu quán
Người ngồi thiền, gặp các cảnh ma khi tu thiền định nếu dùng phép khước từ bằng phép tu chỉ không thành lập tức nên quán ngược lại chủ thể của việc thấy đấy chính là tâm mình, tâm vốn không trụ nơi nào thì ma không biết quấy nhiễu vào đâu. Cứ quán như thế, cảnh ma tự tiêu mất, nếu cảnh ma kia lần lữa không đi thì hành giả nên sửa chính tâm mình, không vui không sợ, chính định hiện tiền cảnh kia tự diệt, như thế gọi là trừ ma bằng phép tu Quán.
Nhị chủng kiến 二種見 Hai loại kiến; Hai kiểu kiến giải
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
Hai loại tà kiến này thuộc Biên kiến trong Mười sử. Ngoại đạo có cái thấy sai lầm về thân thể rằng có cái ngã hoặc là trường tồn bất diệt hoặc có cái ngã tiêu mất sau khi thân này chết đi. Đối với hàng chấp thường thì phủ nhận chấp đoạn, ngược lại đối với hàng chấp đoạn lại phủ nhận chấp thường, họ chỉ chấp chặt vào một bên nên gọi là biên kiến tức cái thấy thiêng về một phía.
1. Thường kiến 常見 Thường kiến; Cái nhìn cố chấp về sự thường hằng
Luận nói “thấy năm sự tụ họp là thường tức ngoại đạo tự cho rằng sắc, thụ, tưởng, hành, thức đời này tuy diệt mất nhưng sẽ tiếp tục sinh lại trong đời tương lai, cứ thế tiếp diễn không dứt, ấy gọi là thường kiến.
2. Đoạn kiến 斷見 Đoạn kiến; Cái nhìn cố chấp về sự đoạn diệt
Luận nói “thấy năm sự tụ họp đoạn diệt tức ngoại đạo tự cho rằng sắc, thụ, tưởng, hành, thức đời này diệt mất sẽ không sinh lại trong đời say nữa, như thế gọi là đoạn kiến.
Nhị chủng kiện nhi 二種徤兒 Hai hạng người tráng kiện; Hai hạng người khỏe mạnh
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經 và Thủy Sám 水懺
Chỉ hạng người tự mình không làm điều ác hoặc biết ăn năn hối lỗi, không còn tái phạm khi đã lỡ làm. Làm được như thế, họ là người có sức mạnh nên gọi là hai hạng người tráng kiện.
1. Tự bất tác tội 自不作罪 Tự không tạo tội; Tự không làm tội; Tự mình không tạo tội
Chỉ hạng người có ba nghiệp thân, miệng, ý vốn tự thanh tịnh, không mắc lỗi, không làm ác thế nên gọi họ là hạng người tự không tạo tội.
2. Tác dĩ năng hối 作已能悔 Tạo rồi sám hối; Làm ác rồi biết sám hối
Chỉ hạng người tuy trước đây có làm ác nhưng giờ biết hối cải, không dám tái phạm. Ví như nước đục, thả hạt minh châu vào, nhờ sức hạt mình châu nước trở nên trong sạch, như thế gọi là hạng người làmác rồi biết sám hối.
Nhị chủng lập đề 二種立題 Hai cách lập đề; Hai kiểu lập đề; Hai dạng lập đề Xuất xứ: Pháp Hoa Văn Cú 法華文句
Hai dạng lập đề, chỉ đề mục của tất cả các kinh hoặc là do Phật lập đề hoặc do các nhà kết tập kinh điển lập đề.
1. Phật tự lập 佛自立 Phật tự lập đề; Đề do Phật đặt; Đề do Phật định
Đề do Phật định, chỉ đề mục các kinh do Phật tự đặt định như kinh Kim Cương nói: “Kinh ấy tên là Kim cương Bát nhã ba la mật, dùng tên gọi này, các con nên gìn giữ 是經名為金 剛般若波羅蜜以是名字汝當奉持 thị kinh danh vi Kim cương Bát nhã ba la mật, dĩ thị danh tự, nhữ đương phụng trì” là chỉ cho ý này vậy.
2. Kinh gia lập 經家立 Do kinh gia lập; Do các nhà kết tập kinh điển lập
Kinh gia lập, chỉ sau khi Phật nhập diệt, đề mục các kinh do A nan và các vị đồng kết tập đặt tên như kinh Diệu Pháp Liên Hoa chẳng hạn.
Nhị chủng lưỡng thiệt báo 二種兩舌報 Hai quả báo của việc nói hai lưỡi
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
Nói hai lưỡi nghĩa là đến với người này nói người kia, đến với người kia nói người này, dựng chuyện đặt điều gây nên mâu thuẫn để người tranh đấu, nói thị phi để li gián sự hòa hợp khiến họ trái ý chia lìa nhau.
1. Đắc tệ ác quyến thuộc 得弊惡眷屬 Bị quyến thuộc tệ ác
Bị quyến thuộc tệ ác, ý nói nhân đời trước nói hai lưỡi khiến bè bạn trang lứa chia lìa, sinh lòng oán giận nhau nên chiêu cảm lấy quả báo đời này gặp phải quyến thuộc tệ ác.
2. Đắc bất hòa quyến thuộc 得不和眷屬 Quyến thuộc bất hòa
Quyến thuộc bất hòa, ý nói nhân đời trước nói hai lưỡi để li gián người thân yêu của người khác khiến
họ bất hòa nên chiêu cảm lấy quả báo đời này sống với quyến thuộc bất hòa.
Nhị chủng lưu 二種流 Hai dòng chảy
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
1. Thuận lưu 順流 Dòng chảy xuôi; Thuận lưu
Lưu tức dòng chảy, ở đây chỉ cho dòng chảy sinh tử. Chúng sinh trong sáu đường xuôi theo dòng sinh tử, chỉ biết chảy xuống mà không biết ngược dòng đi lên do vậy gọi trường hợp này là xuôi dòng sinh tử, xa nguồn Niết Bàn.
2. Nghịch lưu 逆流 Dòng chảy ngược; Nghịch lưu
Dòng chảy ngược, chỉ người dự vào dòng thánh, chứng quả vị thứ nhất trong bốn quả Thanh văn, nương vào giới định tuệ tinh chuyên tu tập đoạn trừ kiến hoặc trong ba cõi, vượt thoát sinh tử trong bốn thú bước lên bến Niết Bàn chân không. Trường hợp này gọi là ngược dòng sinh tử, xuôi về đường Niết Bàn.
Nhị chủng ngã kiến 二種我見 Hai loại ngã kiến
Xuất xứ: Khởi Tín Luận 起信論
1. Nhân ngã kiến 人我見 Nhân ngã kiến; Cái thấy có ngã về con người; Thấy có cái ngã trong con người
Chỉ hàng phàm phu gượng lập có đấng chủ tể trong thân năm ấm rồi xem cái ngã đấy chính là con người. Do tạo nên kiến giải sai lầm này nên gọi là cái thấy có ngã về con người.
2. ;Pháp ;ngã ;kiến ;法我見 Thấy ;có ;cái ;ngã trong pháp
Chỉ hàng nhị thừa chấp rằng tất cả các pháp đều có thể tính, tuy đã thấu đạt nhân vô ngã nhưng về trí vẫn còn sợ sinh tử, lầm chấp về pháp Niết Bàn, khởi lên cái thấy sai lầm về pháp đấy gọi là thấy có cái ngã trong pháp.
Nhị chủng nguyện 二種願 Hai loại nguyện
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Khả đắc nguyện 可得願 Nguyện có thể thành tựu; Nguyện có thể đạt được
Ý nói việc tu phúc có thể sinh được làm người, trời; tu giới định tuệ có thể thành tựu a la hán thậm chí thành tựu quả vị Phật, như thế gọi là nguyện có thể thành tựu.
2. Bất khả đắc nguyện 不可得願 Nguyện không thể thành tựu; Nguyện không thể đạt được
Chỉ người với trí lực của mình nhưng lại muốn đo đạc giới hạn của hư không, không thể nào đạt được mong muốn ấy nên gọi là nguyện không thể thành tựu.
Nhị chủng ngữ 二種語 Hai loại ngôn ngữ
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh涅槃經
1. Thế ngữ 世語 Ngôn ngữ thế gian
Chỉ Như Lai vì chúng Thanh văn, Duyên giác diễn thuyết các pháp hữu vi thế gian, đấy thuộc ngôn ngữ thế gian.
2. Xuất thế ngữ 出世語 Ngôn ngữ xuất thế
Chỉ Như Lai vì hàng Bồ tát, diễn thuyết các pháp vô vi xuất thế gian, đấy thuộc ngôn ngữ xuất thế.
Nhị chủng nhân chú thuật bất năng gia 二種人 呪術不能加 Hai loại người chú thuật không gia;hại; Hai loại người chú thuật không làm hại
Xuất xứ: Ma đăng già kinh 摩登伽經
Kinh nói: “A nan trên đường khất thực, gặp cô gái Ma đăng già đi lấy nước. A nan đang khát nên xin nước uống. Tâm cô gái nhiều vấy bẩn, trở về thưa mẹ, xin mẹ dùng chú thuật cho A nan. Mẹ cô gái nói, trên đời có hai hạng người mà người dùng chú thuật không thể gia hại 阿難乞食道逢摩登伽女取水阿難渴乏從之求 飲女心染著歸白其母請以呪術致之母云世 有二種人雖呪術不能加. A nan khất thực, đạo phùng Ma đăng già nữ thủ thủy. A nan khát phạp, tùng chi cầu ẩm, nữ tâm nhiễm trước, quy bạch kì mẫu, thỉnh dĩ chú thuật trí chi. Mẫu vân: thế hữu nhị chủng nhân, tuy chú thuật, bất năng gia”.
Ma đăng già, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
1. Đoạn dục nhân 斷欲人 Người đã đoạn dục
Ý nói người đã đoạn dục, ắt tự biết giữ giới; người biết giữ giới chính niệm kiên định, đi đứng đoan chính, thần minh gia hộ, yêu tà không xâm nhiễu, tuy có chú thuật cũng không thể gia hại họ được.
2. Tử nhân 死人 Người chết
Người đã chết, thần thức đi theo nghiệp để thụ hình nơi khác, huống nữa thọ hay yểu tự có hạn định, người chết không thể sống lại được cho nên tuy có chú thuật cũng chẳng thể làm gì được đối với người chết.
Nhị chủng nhẫn nhục 二種忍辱 Hai loại nhẫn nhục; Hai kiểu nhẫn nhục; Hai loại chịu nhịn Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Phi chúng sinh số nhẫn nhục 非眾生數忍辱 Chịu nhịn với chúng sinh vô tình; Chịu nhận với phi chúng sinh
Ý nói Bồ tát nếu gặp phải sự bất tiện của chúng sinh vô tình như gió rét lạnh nóng, nước mưa…phải an nhiên hứng chịu, không được sân hận như thế gọi là chịu nhịn với chúng sinh vô tình.
2. Chúng sinh số nhẫn nhục 眾生數忍辱 Chịu nhịn với chúng sinh hữu tình; Nhẫn nhục với chúng sinh hữu tình
Ý nói nếu Bồ tát bị chúng sinh rắp tâm gia hại cũng không được khởi niệm sân hận, như thế gọi là nhẫn nhục với chúng sinh hữu tình.
Nhị chủng ;nhập ;二種入 ;Hai ;nhập; ;Nhị ;nhập; Hai sự thể nhập; Hai cách thể nhập Xuất xứ: Kim Cương Tam Muội Kinh 金剛三 昧經
1. Lí nhập 理入 Lí nhập; Đi vào lí tính
Ý nói chúng sinh nhờ niềm tin sâu chắc về chân tính vốn sẵn trong mình, chân tính đó không một không khác, không có không không, không ta không người, phàm thánh chẳng phải hai, vô vi tịch tĩnh, chẳng chút phân biệt. Nhân niềm tin sâu chắc đó, người kia thể nhập lí tính, như thế gọi là đi vào lí tính hay Lí nhập vậy.
2. Hành nhập 行入 Hành nhập; Thể nhập lí tính bằng cách thực hành
Hành tức nương vào Lí để tu tập, ý nói khi thực hành công hạnh này, tâm không nghiêng tựa, không thiên lệch, vô niệm vô cầu, an trú bất động hệt như đất bằng. Nhân thực hành thâm sâu mà thể nhập Lí tính do vậy gọi là hành nhập.
Nhị chủng nhất thừa 二種一乘 Hai loại nhất thừa
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
Nhất thừa ở đây chỉ cho nhất thừa viên giáo trong kinh Hoa Nghiêm. Nhất thừa này được chia thành hai loại gồm có sự tương thông và có sự chuyên biệt nên gọi là hai loại nhất thừa.
1. Đồng giáo nhất thừa 同教一乘 Nhất thừa đồng giáo
Đồng ở đây muốn nói là giống với chung giáo, đốn giáo. Tuy nhiên chung giáo chỉ thuyết trình về lí sự vô ngại, một tính một tướng, đốn giáo chỉ thuyết trình về việc không phải hai, không phải ba, mọi tư duy hay ngôn ngữ đều dứt hẳn. Nay đồng giáo này nói đủ về một tính một tướng, lí sự vô ngại, vô nhị vô tam, mọi tư duy hay ngôn ngữ đều dứt hẳn, giống như Nhị giáo kia, đều hiển thị Nhất thừa nên gọi là nhất thừa đồng giáo.
Không hai – vô nhị: tức không có Thanh văn, Duyên giác
Không ba – vô tam: tức không có Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát
2. Biệt giáo nhất thừa 別教一乘 Nhất thừa biệt giáo
Biệt với nhĩa tách biệt với bốn giáo tiểu giáo, thủy giáo, chung giáo và đốn giáo. Song Biệt giáo này chỉ biện luận về đức trọn vẹn viên dung, sự sự vô ngại, hễ nêu lên bất kì một pháp nào thì pháp ấy đều có khả năng thu nhiếp vô tận pháp môn khác. Mỗi một pháp môn trong biệt giáo đều khác hẳn với các giáo khác nên gọi là nhất thừa biệt giáo.
Nhị chủng như như 二種如如 Hai loại như như
Xuất xứ: Phật Tính Luận 佛性論
1. Như như trí 如如智 Trí như như
Diệu trí chân như xưa nay thanh tịnh, vô minh không thể che, phiền não không thể nhiễm. Diệu trí ấy chiếu rọi các pháp, bình đẳng bất nhị, do trí ấy khế hợp với cảnh như như nên gọi là trí như như.
2. Như như cảnh 如如境 Cảnh như như
Cảnh chân như vi diệu thường trú trong một tướng, rộng lớn như hư không, không di dời không thay đổi, không diệt không sinh, do cảnh này khế hợp với trí như như nên gọi là cảnh như như.
Nhị chủng phá giới nhân 二種破戒人 Hai hạng người phá giới
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Nhân duyên bất cụ túc phá giới 因緣不具足 破戒 Phá giới do thiếu nhân duyên; Phá giới do nhân duyên chưa đủ
Chỉ hạng người bần cùng, duyên cơm áo thiếu thốn do vậy họ sinh lòng trộm cướp, vì vậy mà phá giới thế gọi là phá giới do thiếu duyên.
2. Nhân duyên cụ túc phá giới 因緣具足破戒 Phá giới do duyên đã đủ
Chỉ hạng người tuy đã đầy đủ về cơm áo nhưng do thói quen của tâm thích làm việc ác, phá phạmnhiều giới cấm, như thế gọi là phá giới do duyên đã đủ.
Nhị chủng quảng lợi 二種廣利 Hai lợi ích rộng lớn
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
1. Lợi kim 利今 Lợi ích hiện tại
Chỉ Phật tại thế, thuyết pháp cho hàng đương cơ, nghe pháp ngộ đạo, thành tựu lợi ích lớn ấy là lợi ích hiện tại.
2. Lợi hậu 利後 Lợi ích mai sau
Chỉ sau khi Phật diệt độ, mọi loài chúng sinh cũng được nghe kinh, thụ lĩnh giáo pháp tu hành ngộ đạo, thành tựu lợi ích lớn, ấy là lợi ích mai sau.
Nhị nhân xuất Phật thân huyết 二人出佛身血 Hai hạng người làm thân Phật chảy máu; Hai người làm Phật chảy máu
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Điều đạt thôi sơn đắc tội 調達推山得罪 Điều đạt đẩy núi mắc tội
Điều đạt dịch âm từ chữ Devadatta trong tiếng Phạn,, nghĩa là Thiên Nhiệt 天熱. Điều đạt mang nặng ác tâm, đẩy đá núi xuống đè Phật, lực sĩ Kim Cương bảo vệ Phật, dùng chày kim cương hất ngược tảng đá, đá vỡ bay đi làm ngón chân Phật chảy máu, Điều đạt mắc phải tội báo.
2. Kì vực hành châm đắc phúc 祇域行針得福 Kì vực hành châm được phúc; Kỳ vực châm cứu được phúc
Kì vực dịch từ chữ Jivaka trong tiếng Phạn, nghĩa là Cố Hoạt 故活. Phật mắc bệnh, sai Kì vực điều trị, nhân đó Kì Vực dùng kim chích làm Phật chảy máu, bệnh cũng liền khỏi, tuy cũng làm thân Phật chảy máu nhưng vì mục đích trị khỏi bệnh cho Phật nên được phúc báo.
Nhị ;chủng ;phá ;trước ;二種破著 ;Hai ;cách ;phá trước; Hai cách phá bỏ chấp trước Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Phá dục trước 破欲著Phá bỏ tham đắm về dục
Ý nói người ham đắm sắc, khởi nhiều tham dục nếu thấy sắc vô thường, bất tịnh tất sẽ không sinh tâmtham đắm và sẽ thành tựu niềm vui giải thoát, trường hợp này gọi là phả bỏ tham đắm về dục.
2. Phá kiến trước 破見著Phá bỏ tham đắm do kiến chấp
Ý nói người tuy đã quán thấy vô thường, bất tịnh của sắc nhưng vẫn còn vướng vào chấp pháp sinh nhiều kiến chấp nếu thấu đạt sắc tướng vốn không tất không khởi kiến chấp phân biệt, trường hợp này gọi là phá bỏ tham đắm do kiến chấp.
Nhị chủng pháp thí 二種法施 Hai loại pháp thí
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 般若經
1. Thế gian pháp thí 世間法施 Pháp thí thế gian
Bồ tát tuy vì hữu tình, diễn thuyết các pháp khai thị năm thần thông nhưng chưa thể giúp chúng sinh vượt thoát thế gian nên gọi là pháp thí thế gian.
2. Xuất thế gian pháp thí 出世間法施 Pháp thí xuất thế gian
Bồ tát vì mọi loài hữu tình diễn thuyết khai thị ba cửa giải thoát, tất cả giáo pháp của bậc thánh đều nương vào ba cửa này để tu tập thoát li thế gian nên gọi là bố thí pháp xuất thế gian.
Nhị ;chủng ;pháp ;tính ;二種法性 Hai ;loại ;pháp tính; Hai loại bản tính của Pháp; Hai loại thể tính của pháp
Xuất xứ: Địa Trì Kinh 地持經
Pháp với nghĩa là phép tắc, lề lối; Tính với nghĩa là sự không thay đổi. Ý nói bản tính của tất cả các pháp không thay đổi, đều có thể làm phép tắc lề lối để tu tập, ấy gọi là pháp tính.
1. Thực tính pháp 實法性 Pháp thực tính; Pháp với thể tính chân thực
Ý nói lí thuần nhất chân thật lìa xa mọi tướng trạng hư giả sai trái, thể tính vốn có của nó bình đẳng, không thay đổi, tất cả chư Phật đều lấy đó làm khuôn mẫu lề lối để tu tập mà thành tựu sự giác ngộ chân chính, ấy gọi là pháp thực tính.
2. Sự pháp tính 事法性 Thể tính của các pháp trên phương diện sự
Ý nói mọi pháp trong thế gian đều nương vào lí để xây dựng, trưng hiện. Các pháp như đất, nước, gió, lửa, năm ấm đều phụ thuộc vào cái thấy, cái biết của thế tục. Chúng đều thuộc về Sự nhưng thực ra
không vượt ngoài Lí của pháp tính, ấy gọi là thể tính của các pháp trên mặt hiện tượng.
Nhị chủng phân biệt chân ngụy thiền tướng 二種分別真偽禪相 ; Hai ;cách ; phân ; biệt ; thiền tướng ;chân ;ngụy; ;Hai ;cách ;phân ;biệt ;tướng thiền chân ngụy
Xuất xứ: Tu Tập Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu 脩習止觀坐禪法要
1. Biện tà ngụy thiền phát tướng 辨邪偽禪發 相Phân biệt sự phát tướng của tà thiền ngụy thiền; Phân biệt tướng phát ra từ tà thiền ngụy thiền
Chỉ người tu thiền, trong quá trình nhập định hoặc thấy thân như bị trói, đè có lúc thấy thân nhẹ như muốn bay, hoặc vui sướng lăng xăng xao động hoặc ưu sầu bi não… các tướng tà ngụy đó phát ra cùng với cấp độ thiền định. Nếu tâm đắm đuối vào lập tức sẽ ứng khớp với các pháp của quỷ, sẽ bị mất tâmđiên cuồng, thế nên người tu thiền định cần một lòng lắng đọng để phân biệt tà ngụy đối với các tướng trạng đó. Phải biết đấy giả dối lừa gạt, không yêu quý đắm vào ắt các trạng thái đó tự nhiên tiêu mất, như thế gọi là phân biệt tướng phát ra từ tà thiền ngụy thiền.
2. Biện chân chính thiền phát tướng 辨真正 禪發相 Phân biệt tướng phát ra từ thiền chân chính; Phân biệt phát tướng của thiền chân chính
Chỉ người tu thiền, tâm niệm đoan chính trong trạng thái thiền định, lìa hôn ám mê muội, tán loạn chỉ cảm thấy thân tâm an ổn, lắng đọng thoáng rỗng, sáng suốt thanh tịnh, tịch tĩnh vô vi khế hợp với chính định, như trạng thái vừa nói trên, mọi tướng tà ngụy lắng mất chẳng còn, ấy gọi là phân biệt phát tướng của thiền chân chính.
Nhị ;chủng ;Phật ;cảnh ;二種佛境 Hai ;cảnh ;giới Phật; Hai trạng thái cảnh giới Phật Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 出華嚴經疏
1. Chứng cảnh 證境 Cảnh giới chứng ngộ
Chỉ Lí của pháp tính chân như, là cảnh giới đã được chư Phật chứng ngộ, lìa xa vọng niệm, dứt tuyệt tướng trạng, tất cả đều trong trạng thái chân như, ấy gọi là cảnh giới chứng ngộ.
2. Hóa cảnh 化境 Cảnh giới hóa hiện; Cõi nước hóa hiện
Ý nói các quốc độ trong mười phương đều là những cảnh giới, cõi nước do Như Lai hóa hiện ra, ấy gọi là cảnh giới hóa hiện.
Nhị chủng phúc điền 二種福田 Hai loại ruộng phúc; Hai loại phúc điền
Xuất xứ: Đại Phương Tiện Phật Báo Ân Kinh 大方便佛報恩經
Điền tức ruộng, ruộng với nghĩa là nơi sinh trưởng. Ý nói cúng dường đúng đối tượng cần cúng dường ắt sẽ gặt nhiều phúc báo, điều này được ví như việc chăm bón ruộng vườn để đến mùa gặt hái, như thế gọi là ruộng phúc.
1. Hữu tác phúc điền 有作福田 Ruộng phúc hữu tác; Ruộng phúc có tạo tác; ruộng phúc tương đối Chỉ việc tôn kính, cúng dường đối với chư Phật, Bồ tát, cha mẹ, thầy và các bậc trưởng thượng, ;được
;thế ;thì ;không ;những ;được phúc mà còn có thể thành tựu đạo nghiệp. Nếu cúng dường với tâm mong được phúc báo, đấy chính là cách cúng dường tương đối, hữu vi, có tạo tác nên gọi là ruộng phúc hữu tác.
2. Vô tác phúc điền 無作福田 Ruộng phúc vô tác; Ruộng phúc vô tác; Ruộng phúc tuyệt đối
Chỉ việc tôn kính, cúng dường đối với chư Phật, Bồ tát, cha mẹ, thầy và các bậc trưởng thượng, ;được ;thế ;thì ;không ;những ;được phúc mà còn có thể thành tựu đạo nghiệp. Nếu cúng dường một cách vô tâm, không ham cầu được phúc báo, đấy chính là cách cúng dường tuyệt đối, vô vi, cúng dường vô tác nên gọi là ruộng phúc vô tác.
Nhị chủng ;phúc ; điền ; 二種福田 ; Hai ; loại ruộng phúc
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
Luận nói, có hai kiểu thí chủ một là thí chủ nghèo hai là thí chủ giàu. Cả hai kiểu thí chú ấy đều có thể gieo hai loại ruộng phúc trong tam bảo.
1. Bần phúc điền 貧福田 Ruộng phúc của người nghèo; Ruộng phúc của thí chủ nghèo
Người nghèo tuy không có tài vật cúng dường nhưng nếu biết kính lễ, tôn trọng tam bảo sẽ được phúc báo, trường hợp này gọi là ruộng phúc của thí chủ nghèo.
2. Phú phúc điền 富福田 Ruộng phúc của người giàu; Ruộng phúc của thí chủ giàu
Người giàu có đã biết kính lễ tam bảo lại dùng tài vật cúng dường, sẽ được phúc báo trường hợp này gọi là ruộng phúc của thí chủ giàu.
Nhị ;chủng ;quán ;二種觀 ;Hai ;phép ;quán; ;Hai cách quán tưởng
Xuất xứ: Thiền Yếu Ha Dục Kinh 禪要呵欲經
Quán ở đây với nghĩa là định tâm tư duy. Người tu hành chưa thành tựu chính định, còn sinh tâm ô nhiễm khi đối diện với các pháp bất tịnh, hành giả cần vận dụng hai phép quán này để xua đuổi tâmchấp trước.
1. Tử thi xú lạn bất tịnh quán 死屍臰爛不淨觀 Quán thây chết thối rữa bất tịnh; Quán tưởng về sự bất tịnh của thây chết thối rữa
Chỉ người tu hành trong chốn nhàn tĩnh nên vận tâm quán tưởng về tướng trạng thối rữa của thây chết để tâm sinh chán ghét đối với;; thân bất tịnh của mình vì thân này rồi cũng như thây chết kia, cớ gì phải tham cầu sắc dục không biết chán mệt. Vả lại mạng người qua nhanh như điện chớp, khó bảo đảm dù trong thoáng chốc. Một hơi không trở lại đã giống thây chết kia. Nhờ phép quán này giúp tâm thamđắm tự dứt trừ, như thế gọi là quán thây chết thối rữa bất tịnh.
2. Văn pháp ức tưởng phân biệt quán 聞法憶 想分別觀 Quán tưởng lần lượt sau khi nhớ nghe chính pháp
Chỉ người tu hành tuy nghe cốt lõi chính pháp rồi nhưng chưa thành tựu Không tuệ, nhân duyên về thamái bùng cháy chưa tắt nên phải tự nghĩ xương cốt là trụ chống đỡ, thịt là bùn, lông tóc răng da, mô gân
máu… tụ lại thành thân. Nóng lạnh mất cân bằng thì thân mình đều khổ, từng bộ phận trong cơ thể chẳng có cái nào bền chắc, nhờ lần lượt quán tưởng như thế, tâm tham đắm tự dứt, như thế gọi là quán tưởng lần lượt sau khi nhớ nghe chính pháp.
Nhị ; chủng ; quán ;pháp ;二種觀法 ;Hai ; phép quán tưởng
Xuất xứ: Chiêm Sát Kinh 占察經
1. Duy thức quán 唯識觀 Quán duy thức
Quán duy thức, chỉ việc quán tưởng rằng tất cả các nghiệp do thân miệng ý tạo ra trong mọi lúc mọi nơi đều nên biết rằng duy chỉ do chính tâm mình, trong từng ý niệm phải dùng ba phép quán để quán sát tâm khởi lên, như thế gọi là quán duy thức.
2. Thực tướng quán 實相觀 Quán thực tướng
Thực tướng ở đây với hàm nghĩa là lí, lí tính. Ý nói Thể tính của tâm tư duy kia vốn không sinh không diệt, không thấy nghe cảm giác tri nhận, nên trong từng ý niệm cần dùng ba phép quán để quán tưởng về Lí tính thực;tướng vốn đủ sẵn trong tâm mình, như thế gọi là quán thực tướng.
Nhị chủng sám hối 二種懺悔 Hai loại sám hối; Hai cách sám hối
Xuất xứ: Bổ Trợ Nghi 補助儀 và Thiên Thai Tứ Giáo Nghi 并天臺四教儀
Sám, gọi đủ là sám ma, nghĩa tiếng Hoa là Hối quá tức hối hận với lỗi lầm của mình đã làm. Khi nói Sám hối tức cách nói kết hợp giữa dịch âm và dịch nghĩa vậy. Lại có cách giải thích rằng, sám tức không tiếp tục phạm lỗi trong tương lai; hối tức ăn năn đối với lỗi đã phạm phải. Ý muốn nói sám tức tu tập điều thiện trong tương lai, hối tức chửa đổi điều ác đã phạm trong quá khứ.
Xem thêm từ Sám hối trong phụ lục I.
1. Sự sám hối 事懺悔Sự sám hối; sám hối trên mặt sự; Sám hối trên mặt biểu hiện
Sự ở đây được hiểu là nghi thức của công việc, ý nói khi sám hối thì thân lễ bái chiêm ngưỡng cung kính (Phật, Bồ tát); miệng xưng tên, tán dương (chư Phật, Bồ tát); ý tưởng tượng đến tôn nhan các bậc thánh. Ba nghiệp ân cần khẩn cầu sám hối. Tội nghiệp đã làm trong quá khứ, hiện tại mỗi mỗi đều nương theo nghi thức như thế gọi là sự sám hối.
2. Lí sám hối 理懺悔Sám hối về mặt Lí; Lí sám hối; Sám hối về mặt bản thể
Lí ở đây được hiểu là Lí tính, ý muốn nói tất cả tội nghiệp quá khứ hiện tại đã gây nên đều do tâm khởi nên vật nếu thấu tỏ bản tính của tự tâm vốn không tịch ắt tất cả tướng trạng của tội lỗi thảy đều rỗng thênh vắng lặng, ấy gọi là sám hối về mặt bản thể hay sám hối về mặt lí vậy.;
Nhị chủng sát sinh báo 二種殺生報 Hai quả báo của việc sát sinh; Hai quả báo của việc giết hại mạng sống
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Đoản mạng 短命 Đoản mạng; Đoản thọ; Chết yểu; Mạng sống ngắn ngủi
Đoản mạng, ý nói do nhân đời trước làm tổn thương đến mạng sống loài vật khiến chúng không nhận được tuổi thọ theo tuổi thọ tự nhiên nên chiêu cảm lấy quả báo đời nay mạng sống người đó cũng sẽ ngắn ngủi.
2. Đa bệnh 多病 Nhiều bệnh
Nhiều bệnh, ý nói nhân đời trước hay não hại chúng sinh khiến chúng không được tự do tự tại nên chiêu cảm lấy quả báo thân thể trong đời này mắc nhiều chứng bệnh.
Nhị chủng sắc 二種色 Hai loại sắc
Xuất xứ: Tông Kính Lục 宗鏡錄
1. Hiển sắc 顯色 Hiển sắc
Chỉ sự vật hiện tượng, màu sắc có thể thấy được như xanh vàng đỏ trắng, ánh nắng bóng râm, bóng đêm mây khói, sương, bụi…
2. ;Hình sắc 形色 Hình sắc
Chỉ các loại hình tướng có thể trông thấy được như dài ngắn, vuông tròn, lớn nhỏ, trên dưới, cong thẳng…
Nhị chủng sắc 二種色 Hai loại sắc
Xuất xứ: Tông Kính Lục 宗鏡錄
1. Nội sắc 內色 Sắc bên trong; Nội sắc
Nội sắc, chỉ chỉ sáu thức gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn và ý căn cũng được gọi là nội sắc do sáu căn này tồn tại trong cơ thể vậy.
2. Ngoại sắc 外色 Sắc bên ngoài; Ngoại sắc
Ngoại ;sắc, ;chỉ ;năm ;căn ;gồm: ;nhãn ;căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn và thân căn. Năm trần gồm: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần cũng gọi là ngoại sắc bởi chúng thuộc ngoại cảnh.
Nhị chủng sắc 二種色 Hai loại sắc
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tịnh sắc 淨色 Tịnh sắc; Sắc thanh tịnh
Chỉ sắc thanh tịnh, diễm lệ có năng lực khởi phát tham dục, tổn hoại đạo nghiệp do vậy người tu đạo cần tránh xa.
2. Bất tịnh sắc 不淨色 Bất tịnh sắc; Sắc bất tịnh
Chỉ sắc bất tịnh, xấu xí có khả năng khởi phát tâm căm ghét, tổn hoại đạo nghiệp do vậy người tu đạo cần tránh xa.
Nhị chủng sắc thân 二種色身 Hai loại sắc thân; Hai loại thân vật chất
Xuất xứ: Phật Địa Kinh Luận 佛地經論
1. Thực sắc thân 實色身 Thân sắc tướng chân thực; thân vật chất có thực
Thực tức có thực, chỉ Như Lai tu tập, gieo nghiệp nhân tướng hảo trong vô số kiếp đến khi thành tựu nghiệp quả, được thân trang nghiêm với vô lượng tướng tốt, hiện hữu cùng khắp pháp giới, đấy gọi là thân sắc tướng chân thực.
2. Hóa sắc thân 化色身 Sắc thân do biến hóa; Sắc thân hóa hiện
Hóa tức biến hóa, với nguyện lực đại bi Như Lai sẽ tùy quốc độ, tùy thời gian, tùy nhu cầu chúng sinh mà hóa hiện vô lượng thân tướng, vô lượng tướng tốt, vô lượng âm thanh ngôn ngữ để hóa độ hàng đại Bồ tát và mọi chúng;;sinh. Do sắc thân hóa hiện đó thay đổi theo quốc độ và tâm lí chúng sinh nên gọi là sắc thân do biến hóa.
Nhị chủng sân báo 二種瞋報 Hai loại quả báo của sân hận
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Thường vi tha nhân cầu kì trường đoản 常為 他人求其長短 Thường bị người khác bình phẩm ngắn dài
Thường bị người khác bình phẩm ngắn dài, ý nói do đời trước tâm không độ lượng bao dung, hơi bất như ý liền nổi sân hận do vậy chiêu cảm quả báo đời này thường bị người khác ;tìm ;bới ;sở ;trường, ;sở ;đoản, ;dễ ;bị trách móc.
2. Thường vi chúng nhân chi sở não hại 常為眾 人之所惱害 Thường bị mọi người làm phiền gây hại
Thường bị mọi người làm phiền gây hại, ý nói do đời trước hay sân hận khiến mọi người không được yên ổn nên chiêu cảm quả báo đời này bị nhiều người làm phiền gây hại.
Nhị chủng siêu việt tam muội 二種超越三昧 Hai loại tam muội siêu việt
Xuất xứ: Pháp Giới Thứ Đệ 法界次第
Siêu việt, ý nói loại tam muội này siêu việt hơn các trạng thái nhập định, xuất định của các địa, có hai nghĩa:
1. Siêu nhập tam muội 超入三昧 Siêu nhập tam muội; Siêu nhập định
Tam muội siêu nhập, chỉ hành giả lìa khỏi trạng thái tâm có giác có quán của pháp bất thiện trong cõi Dục, nhập định sơ thiền của cõi Sắc. Xả định sơ thiền của cõi Sắc, nhập định Phi hữu tưởng phi vô tưởng của cõi Vô ;sắc. Xả định Phi hữu tưởng phi vô tưởng, nhập định Diệt thụ tưởng. Xả định Diệt thụ tưởng lại trở về nhập định Sơ thiền. Xả định Sơ thiền, nhập định Diệt thụ tưởng. Xả định diệt thụ tưởng, nhập định Nhị thiền. Xả định Nhị thiền, nhập định diệt thụ tưởng. Xả định Diệt thụ tưởng, nhập định Tam thiền. Xả định tam thiền, nhập định diệt thụ tưởng. Xả định diệt thụ tưởng, nhập định tứ thiền. Xả định tứ thiền, nhập định diệt thụ tưởng. Xả định Diệt thụ tưởng, nhập định Không xứ. Xả định không xứ, nhập định định Diệt thụ tưởng. Xả định diệt thụ tưởng, nhập định thức xứ. Xả định thức xứ,
nhập định diệt thụ tưởng. Xả định diệt thụ tưởng, nhập định. Xả định diệt thụ tưởng, nhập định bất dụng xứ. Xả định bất dụng xứ, nhập định Diệt thụ tưởng. Xả định diệt thụ tưởng, nhập định phi hữu tưởng phi vô tưởng. Xả định phi hữu tưởng phi vô tưởng, nhập định Diệt thụ tưởng. Đấy gọi là tướng siêu nhập định của chư Phật, Bồ tát. Hàng Thanh văn chỉ có thể siêu nhập một loại định chứ chưa thể siêu nhập hai loại định huống là nhiều loại định như trên, do vậy trên đây đã nói rõ về khả năng siêu nhập định tự tại vậy.
Định Hữu dụng tức định Vô sở hữu xứ.
2. Siêu xuất tam muội 超出三昧 Siêu xuất tam muội; Siêu xuất định
Siêu xuất tam muội, chỉ việc xả định Diệt thụ tưởng, trở về tâm tán loạn rồi từ tâm tán loạn nhập định Diệt thụ tưởng lại xả định này trở về tâm tán loạn nhập định Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Xả định Phi hữu tưởng phi vô tưởng, trở về tâm tán loạn rồi từ tâm tán loạn nhập định vô sở hữu xứ. Xả định Vô sở hữu xứ, trở về tâm tán loạn, nhập định Thức xứ. Xả định Thức xứ trở về tâm tán loạn, từ tâm tán loạn nhập định Không xứ. Xả định Không xứ, trở về tâm tán loạn, từ tâm tán loạn nhập định Tứ thiền. Xả định Tứ thiền trở về tâm tán;;loạn, từ tâm tán loạn nhập định Tam thiền. Xả định Tam thiền trở về tâmtán loạn, từ tâm tán loạn nhập định Nhị thiền. Xả định Nhị thiền, trở về tâm tán loạn, từ tâm tán loạn nhập định Sơ thiền. Xả định sơ thiền, trở về tâm tán loạn đấy gọi là tướng tam muội siêu xuất của chư Phật, chư Bồ tát. Nếu hành giả Thanh văn chỉ chỉ có thể siêu xuất trong một trạng thái, định chứ chưa thể siêu xuất trong hai trạng thái định huống gì là nhiều trạng thái định trên đây. Tất cả điều này chứng minh cho sự siêu xuất định của chư Phật, Bồ tát vậy.
Nhị chủng sinh tử 二種生死: Hai loại sinh tử
Xuất xứ: Duy Thức Luận 唯識論
1. Phân đoạn sinh tử 分段生死 Phân đoạn sinh tử; Sinh tử phân thành từng quãng thời gian
Phân tức chia thành từng giới hạn, đoạn tức từng giai đoạn của hình tướng thụ sinh trong từng đời ý nói chúng sinh trong sáu đường cảm thụ. Ý quả báo theo nghiệp lực của mình mà có thân, thân ấy có cao có thấp, tuổi thọ có thọ có yểu nhưng đều trôi lăn trong biển sinh tử do vậy gọi là sinh tử được phân thành theo từng quãng.
2. Biến dịch sinh tử 變易生死 Sinh tử biến dịch
Dịch với hàm nghĩa là nhân thay đổi khiến quả đổi thay, ý nói hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát tuy đã thoát khỏi phân đoạn sinh tử trong ba cõi nhưng vẫn còn ở trong trạng thái biến do vẫn còn ở trong các quốc độ phương tiện. Ví dụ như ở quả vị đầu tiên là nhân, quả vị thứ hai là quả; quả vị thứ hai lại là nhân; quả vị thứ ba là quả do nhân quả chuyển dịch đắp đổi cho nhau như thế nên gọi là sinh tử biến dịch.
Quốc độ phương tiện, chỉ việc nhờ tu tập con đường phương tiện như giới, định, tuệ mà được sinh vào quốc độ này.;
Nhị chủng số 二種數 Hai loại số
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
1. Số lượng số 數量數 Số chỉ số lượng
Số, chỉ số lượng tức số lượng một hay nhiều, ý nói số từ một đến nhiều, trên cơ sở đó có thể thành lập tất cả các pháp.
2. Sắc tâm hữu vi số 色心有為數 Số chỉ sắc, tâm hữu vi; Số hữu vi chỉ sắc, tâm
Sắc ở đây chỉ thân vật chất, tâm chỉ tâm chủ thể từ đó khởi lên các pháp. Cả sắc và tâm ở đây đều trong trạng thái sinh diệt nên gọi là hữu vi. Tâm, pháp hai thứ có các số mục khác nhau chỉ về chúng như năm ấm, mười hai nhập, mười tám cõi…do vậy nói số hữu vi chỉ sắc, tâm.
Nhị chủng sư tử phấn tấn tam muội 二種師子奮 迅三昧 Hai loại tam muội sư tử phấn tấn Xuất xứ: Pháp Giới Thứ Đệ 法界次第
Sư tử phấn tấn nghĩa là sư tử vươn mình, dùng hình ảnh này để ví nhằm hiển rõ ý nghĩa pháp tu tập. Có hai lí do sư tử vươn mình: 1, để rủ bụi bẩn. 2, tư thế chuẩn bị chạy. Sư tử chạy nhanh và có tư thế chuẩn bị chạy lạ hơn các loài thú khác vậy. Tam muội cũng thế, một là phấn chấn trong việc trừ bỏ các hoặc làm chướng ngại thiền định, hai là có năng lực xuất sinh các loại thiền định khác nhanh chóng và không bị gián đoạn, khác với các loại thiền định khác, đồng thời có hai nghĩa xuất định, nhập định như sau:
1. Nhập thiền phấn tấn 入禪奮迅 Phấn chấn vào thiền định; Phấn chấn vào trạng thái thiền
Phấn chấn vào thiền định, chỉ việc lìa xa loại thiện pháp có giác có quán của cõi Dục để đi vào định Sơ thiền. Lần lượt như thế, đi vào nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, không xứ, thức xứ, vô sở hữ xứ, phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thiền định diệt thụ tưởng …như vậy gọi là phấn chấn vào thiền định.;;
Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền thuộc cõi sắc.
Không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ thuộc cõi vô sắc. Định Diệt thụ tưởng, chỉ loại thiền định diệt trừ tâm Thụ, Tưởng mà thành tựu định này. 2. Xuất thiền phấn tấn 出禪奮迅 Phấn chấn xuất thiền; Phấn chấn ra khỏi trạng thái thiền
Phấn chấn xuất thiền chỉ việc thoát khỏi các trạng thái thiền định từ cao đến thấp như thoát khỏi định diệt thụ tưởng nhập định phi hữu tưởng phi vô tưởng; thoát khỏi định phi hữu tưởng phi vô tưởng, nhập định vô sở hữu xứ; thoát khỏi trạng thái định vô sở hữu xứ, nhập định thức xứ…lần lượt cho đến thoát khỏi trạng thái định sơ thiền thậm chí đến việc thoát ra khỏi tâm tán loạn như thế gọi là phấn chấn xuất thiền.
Nhị chủng tà kiến 二種邪見 Hai loại tà kiến
Xuất xứ: Trung Luận 中論
1. Phá thế gian lạc tà kiến 破世間樂邪見 Tà kiến phá niềm vui thế gian
Chỉ người cho rằng không có quả báo tội phúc, không có Như Lai thánh hiền, do khởi lên tà kiến này xả bỏ điều thiện, làm các việc ác nên sẽ đọa vào các đường khổ, đánh mất niềm vui của hàng trời,
người như thế gọi là tà kiến phá hoại niềm vui thế gian.
2. Phá Niết Bàn đạo tà kiến 破涅槃道邪見 Tà kiến phá lối về Niết Bàn; Tà kiến phá đạo Niết Bàn Niết Bàn dịch từ chữ nirvana trong tiếng Phạn, nghĩa là diệt độ.
Người tham đắm về Ngã, chấp có chấp không, dấy khởi điều thiện diệt trừ điều ác nên được niềm vui thế gian nhưng do chấp có chấp không nên không thành tựu con;đường Niết Bàn, như thế gọi là tà kiến phá lối về Niết Bàn.
Nhị chủng tà kiến báo 二種邪見報 Hai loại quả báo của tà kiến
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Sinh tà kiến gia 生邪見家 Sinh vào nhà tà kiến
Sinh vào nhà tà kiến, ý nói nhân đời trước tâm bị ý niệm bất chính che khuất, khởi lên nhiều kiến giải sai lầm nên chiêu cảm quả báo đời này tâm thiếu niềm tin chân chính, sinh vào nhà tà kiến.
2. Kì tâm siểm khúc 其心謟曲 Tâm dua nịnh quanh co
Tâm dua nịnh quanh co, ý nói do đời trước tà kiến, tâm không chính trực nên quả báo đời này tính thường quanh co dua nịnh.
Nhị chủng tâm 二種心 Hai loại tâm
Xuất xứ: Địa Trì Kinh 地持經
1. An ổn tâm 安隱心 Tâm an ổn
Ý nói chúng sinh tạo nhiều hoặc nghiệp, chịu khổ trôi lăn đường ác và sự thúc bách của sinh tử, Bồ tát vì họ khai thị muôn ngàn pháp thiện để trừ pháp bất thiện, giúp chúng sinh ở vào cõi thiện, khiến tâmchúng sinh, được sự yên ổn.
2. Khoái lạc tâm 快樂心 Tâm khoái lạc; Tâm vui sướng
Chỉ Bồ tát khởi tâm đại từ đại bi, cứu tế trợ giúp một cách bình đẳng cho những chúng sinh bần cùng khốn khổ không nơi nương tựa, khiến tâm của họ đều được vui sướng.
Nhị chủng tâm tướng 二種心相 Hai tướng của tâm
Xuất xứ: Chiêm Sát Kinh 占察經
1. Tâm nội tướng 心內相 Tướng trong tâm
Bản tướng tâm thể như như thuần nhất không có biểu hiện của sự khác biệt, thanh tịnh viên mãn, không chướng không ngại, kín đáo nhiệm mầu không thể thấy được và hiện hữu cùng khắp mọi nơi, đấy gọi là tướng trong tâm.
2. Tâm ngoại tướng 心外相 Tướng ngoài tâm
Chỉ tâm khởi lên các niệm về các loại cảnh giới, các loại cảnh giới ấy đều hiện ra, ấy gọi là tướng
ngoài tâm.
Nhị chủng tất cánh 二種畢竟Hai loại tất cánh; Hai loại rốt ráo
Xuất xứ: Đại Niết Bàn Kinh 大涅槃經
1. Trang nghiêm tất cánh 莊嚴畢竟 Tất cánh trang nghiêm
Tất cánh với nghĩa là quyết định, ý nói tất cả chúng sinh đều có tính chân thật nhất thừa, cần thuận theo tu tập Lục độ trang nghiêm, nếu không tu tập ắt sẽ không thành tựu chính tính, vì đấy là nhân tố quyết định sự trang nghiêm của Lục độ. Thế nên sớ nói “lấy Lục độ để trang nghiêm 以六度為莊嚴 dĩ Lục độ vi trang nghiêm”.
2. Cứu cánh tất cánh 究竟畢竟 Tất cánh cứu cánh
Cứu cánh với nghĩa là đến điểm cùng cực, đến điểm rốt ráo cũng chính là tính nhất thừa mà tất cả chúng sinh có được. Nếu thành tựu tính nhất thừa này tất có thể quyết định sẽ đạt đến quả vị cùng cực của Niết Bàn, thế nên sớ nói “nhất thừa là cứu cánh 一乘為究竟.”
Nhị chủng tế 二種際 Hai loại giới hạn
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏 và Diễn nghĩa sao 演義鈔
Tế với nghĩa là giới hạn, ý nói sinh tử và Niết Bàn cùng chung một thể tính, vốn không có giới hạn tách biệt nhau. Song chính trong trạng thái không khác nhau kia lại giả lập thành sự khác nhau từ đó mới có giới hạn phân chia giữa sinh tử Niết Bàn.
1. Niết Bàn tế 涅槃際 Giới hạn Niết Bàn
Giới hạn Niết Bàn, nếu xem duyên nhiễm ô của sinh tử chính là lí tính chân thật của Niết Bàn thì bản thân sinh tử trong trường hợp này cũng chính là biết bàn, rốt ráo chẳng thể có sự chia tách với sự hư vọng nào. Tuy nhiên, giữa sinh tử và Niết Bàn về mặt hiện tượng vẫn có sự tách biệt, ấy là giới hạn giả tạm trong tổng thể vốn không có giới hạn, trường hợp này gọi là giới hạn Niết Bàn vậy. Trung Luận nói “Giới hạn thực của Niết Bàn và giới hạn sinh tử chẳng khác nhau một li 涅槃之實際及與生死際無毫釐差別 Niết Bàn chi thực tế cập dư sinh tử tế vô hào li sai biệt.” tức chỉ cho ý này.
2. Sinh tử tế 生死際 Giới hạn sinh tử
Giới hạn sinh tử, nếu xét theo lí thực tính Niết Bàn là từ duyên ô nhiễm của sinh tử thì Niết Bàn chính là sinh tử, chẳng có một trạng thái tịnh tĩnh nào để thể chứng, do vậy giới hạn sinh tử cũng chỉ là giới hạn giả tạm trong một trạng thái vốn không có sự giới hạn nào mà thôi, ấy gọi là giới hạn sinh tử. Thế nên bản kinh Hoa Nghiêm được dịch vào thời nhà Tấn nói “sinh tử chẳng phải là tạp loạn; Niết Bàn chẳng phải là tịch tĩnh 生 死非雜亂涅槃非寂靜 sinh tử phi tạp loạn, Niết Bàn phi tịch tĩnh.” tức chỉ cho ý này.
Nhị chủng tham báo 二種貪報 Hai loại quả báo của tham lam
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Đa dục 多欲 Đa dục; Nhiều tham dục; Nhiều ham muốn
Nhiều ham muốn, ý nói đời trước buông thả tâm tham dục, không biết dừng nghỉ nên chiêu cảm quả báo đời này sinh nhiều tâm tham dục hơn bởi thói quen của nghiệp nhân đời trước chưa mất, nay gộp thêm nặng.
2. Vô yếm 無厭 Không biết chán
Không biết chán, ý nói nhân đời trước tham cầu không dừng, làm thành động lực dần dà thúc đẩy khiến đời tâm tham dục đời nay càng nặng, tham cầu vô độ không biết điểm dừng.
Nhị chủng thanh tịnh 二種清淨 Hai loại thanh tịnh; Hai sự thanh tịnh
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao 華嚴經隋疏演義鈔
1. Tự tính thanh tịnh 自性清淨 Thanh tịnh tự tính; Thanh tịnh có từ tự tính; Tự tính thanh tịnh; Tự tính vốn thanh tịnh
Tâm thể chân như của chúng sinh vốn thanh tịnh vô nhiễm, vô ngại do vậy gọi là thanh tịnh có từ tự tính.
2. Li cấu thanh tịnh 離垢清淨 Thanh tịnh nhờ lìa cấu uế; Lìa cấu uế thanh tịnh
Tâm thể thanh tịnh có từ tự tính của chúng sinh, tách lìa mọi phiền não cấu nhiễm nên gọi là lìa cấu uế thanh tịnh.
Nhị chủng thắng 二種勝 Hai thứ vượt trội; Hai thứ siêu việt; Hai thứ thù thắng Xuất xứ: Địa Trì Kinh 地持經
1. ;Nhân ;thắng ;因勝Nhân ;vượt ;trội; ;Nhân thù thắng
Bồ tát tu tập thiện pháp xuất thế đều lấy Bồ đề làm nhân, nhân này siêu việt hơn nhân; của Thanh văn Duyên giác nên gọi là nhân siêu việt.
2. Quả thắng 果勝 Quả vượt trội; Quả siêu việt; Quả vị thù thắng
Bồ tát tu hành đã lấy Bồ đề làm nhân cuối cùng sẽ chứng quả Bồ đề, do quả vị này siêu việt hơn quả vị của hàng nhị thừa do vậy gọi là quả vị siêu việt.
Nhị chủng thân độ 二種身土 Hai loại quốc độ của thân; Hai cõi nước của thân Xuất xứ: Phật Địa Kinh Luận 佛地經論
Thân, chỉ thân vật chất; Độ, chỉ quốc độ mà thân vật chất ấy nương tựa vào. Đã có thân ắt phải có cõi nước để thân vật chất đó nương tựa vào, thế nên gọi là hai loại quốc độ của thân.
1. Tự thụ dụng thân độ 自受用身土 Quốc độ của thân tự thụ dụng
Thân tự thụ dụng, chỉ thân có được do sự chiêu cảm của nhân lành tu tập của bản thân, từ đó thụ dụng (hưởng thụ) pháp lạc một cách tự tại vô ngại. Thân tự thụ dụng cũng gọi là viên mãn báo thân độ hoặc
tự thụ dụng độ hoặc thật báo trang nghiêm độ. Chư Phật Như Lai trải qua vô số kiếp tu tập vô lượng thiện căn nên chiêu cảm thân độ cùng khắp pháp giới để tự thụ dụng. Điều này hàng đại Bồ tát chỉ có thể nghe thấy chứ không thể nhìn thấy được.
2. Tha thụ dụng thân độ 他受用身土 Quốc độ thân tha thụ dụng
Quốc độ thân tha thụ dụng, chỉ Như Lai hóa hiện thân tùy theo sự chiêu cảm của căn cơ chúng sinh. Chư Phật Như Lai muốn khiến hàng Bồ tát thành tựu đại pháp lạc, tiến tu các công hạnh thù thắng nên tùy nghi hóa hiện hoặc hiện thân độ hàng Bồ tát hoặc hiện thân độ hàng phàm phu, hoặc hiện thân độ hàng đại thừa hoặc hiện thân độ hàng tiểu;thừa…biến hóa bất định nhằm giúp người khác thụ dụng pháp lạc nên gọi là quốc độ thân tha thụ dụng.
Nhị chủng thân hành thí 二種身行施 Hai loại thân hành thí
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Sinh thân hành thí 生身行施 Dùng thân cha mẹ sinh thực hành bố thí; Sinh thân hành thí
Bồ tát lấy thân hình do cha mẹ sinh ra để thực hành công hạnh bố thí bao gồm tất cả tài sản vật chất kể ngay cả tấm thân đó mà không chút luyến tiếc, bố thí như thế gọi là sinh thân hành thí.
2. Pháp thân hành thí 法身行施 Dùng pháp thân thực hành bố thí; Pháp thân hành thí
Khi Bồ tát xả thân mạng để bố thí, thành tựu pháp thân liền có năng lực bố thí cho tất cả chúng sinh trong thế giới mười phương như các thứ trân quý, áo quần, thức ăn thức uống lại có năng lực diễn thuyết chính pháp bằng âm thanh mà chúng sinh đó nghe hiểu được, thế gọi là pháp thân hành thí.
Nhị chủng thần lực 二種神力 Hai loại thần lực; Hai thần lực
Xuất xứ: Lăng Già Kinh 楞伽經
Kinh Lăng già nói: Như Lai vận dụng hai thần lực kiến lập cho hàng Bồ tát nghe, tiếp nhận thực hành và hỏi nghĩa lí.
Kiến lập ở đây với nghĩa là sự gia hộ.
1. Hiện thân diện ngôn thuyết thần lực 現身面 言說神力 Thần lực hiện thân và diện thuyết pháp; Thần lực hiện thân, mặt nói pháp
Kinh nói: an trú vào thần lực Phật thâm nhập đại thừa, chiếu tỏ tam muội. Nhập tam muội ấy rồi, tất cả chư Phật trong thế giới mười;phương vận dụng sức thần thông để vì vị ấy mà hiện mọi thân, mặt và diễn thuyết 初 菩薩地住佛神力入於大乘照明三昧入是 三昧已十方世界一切諸佛以神通力為現一切身面言說 Sơ Bồ tát địa trú Phật thần lực, nhập ư Đại thừa chiếu minh Tam muội, nhập thị Tammuội dĩ, thập phương thế giới nhất thiết chư Phật dĩ thần thông lực, vị hiện nhất thiết thân diện ngôn thuyết.” tức chỉ cho ý này.
2. Dĩ thủ quán đỉnh thần lực 以手灌頂神力 Thần lực dùng tay làm phép quán đỉnh; Thần lực dùng tay rưới nước lên đỉnh đầu
Kinh nói “Từ quả vị Bồ tát sơ địa, được thần lực tam muội, thành tựu thiện căn tích tập trong trăm
nghìn kiếp, lần lượt chứng nhập các quả vị từ sơ địa đến quả vị thập địa Pháp Vân, ngự lên cung điện vi diệu có hình hoa sen lớn, trong cung điện kia có tòa sư tử hình hoa sen quý lớn với các loại anh lạc châu báu tô điểm nghiêm trang, thân Bồ tát bấy giờ như mặt trời mặt trăng có ánh sáng màu vàng của hoa chiêm bặc. Bấy giờ các bậc tối thắng trong mười phương đều đến ngự lên cung điện hoa sen lớn kia để làm lễ quán đỉnh cho Bồ tát 初菩薩地得三昧神力,於百千刦,積 集善根之所成就,次第入於諸地,乃至第十 法雲地,住大蓮華微妙宮殿,坐大蓮華寶師 子座,眾寶瓔珞莊嚴其身,如黃金薝蔔
日月 光明,諸最勝子,從十方來就大蓮華宮殿 座上而灌其頂 Sơ Bồ tát địa đắc Tam muội thần lực, ư bách thiên kiếp, tích tập thiện căn chi sở thành tựu, thứ đệ nhập ư chư địa, nãi chí thập Pháp vân địa, trú đại liên hoa vi diệu cung điện, tọa đại liên bảo sư tử tòa, chúng bảo anh lạc trang nghiêm kì thân, như hoàng kim chiêm bặc nhật nguyệt quang minh, chư Tối thắng tử, cùng thập phương lai tựu đại liên hoa cung điện tòa thượng nhi quán kì đỉnh.” tức chỉ chỉ thần lực dùng tay làm phép quán đỉnh này.
Các bậc tối thắng, chỉ chư Phật.
Chiêm bặc, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
Nhị chủng thần lực 二種神力 Hai loại thần lực
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Linh viễn xứ kiến văn 令遠處見聞 Khiến nơi xa được thấy, nghe
Khiến nơi xa được thấy, nghe ý nói Phật thuyết pháp ở một nơi nhưng có thể dùng thần lực khiến chúng sinh các quốc độ khác ở phương xa đều nghe và thấy được.
2. Linh các các kiến văn 令各各見佛 Khiến mọi chúng sinh thấy Phật
Khiến mọi chúng sinh thấy Phật, ý nói khi đức Phật thuyết pháp một nơi nhưng vẫn có năng lực khiến từng chúng sinh đều tự thấy Phật thuyết pháp ngay trước mặt mình ví như mặt trời mọc lên ánh sáng chiếu hiện khắp sông nước vậy.
Nhị ;chủng ;thâu ;đạo ;báo ;二種偷盜報 ;Hai ;loại quả báo của trộm cắp Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Bần cùng 貧窮 Bần cùng; Nghèo túng
Nghèo túng, ý nói nhân đời trước trộm cắp tài sản vật chất người khác khiến họ thiếu thốn, trống rỗng nên chiêu cảm lấy quả báo đời này bần cùng túng thiếu.
2. Bất đắc tự tại 不得自在 Không được tự tại
Không được tự tại, ý nói nhân đời trước cướp đoạt tài sản người khác khiến họ không được tự tại nên chiêu cảm lấy quả báo đời này tuy có tài sản vật chất lại thuộc năm nhà, không thể sử dụng một cách tự tại.
Năm nhà, chỉ Nước lửa, trộm cắp, giặc giã, quan quyền và nghịch tử.
Nhị ;chủng ;thế ;gian ;thanh ;tịnh ;二種世間清淨 Hai loại thanh tịnh của thế gian
Xuất xứ: Vô Lượng Thọ Kinh Luận 無量壽經論
Luận ;nói ;“nếu ;người ;một ;lòng ;tinh ;chuyên niệm Phật A di đà, rốt cuộc nhất định sẽ sinh vào quốc độ an lạc, thành tựu nhiều công đức trang nghiêm, có được hai sự thanh tịnh của thế gian. 若人一心專念阿彌陀佛畢竟得生安 樂國土成就種種功德莊嚴獲此二種世間清 淨. Nhược nhân nhất tâmchuyên niệm A di đà Phật, tất cánh đắc sinh An lạc quốc, thành tựu chủng chủng công đức trang nghiêm, hoạch thử nhị chủng thế gian thanh tịnh”.
A di đà, xem từ tương ứng trong phụ lục I.
1. Khí thế gian thanh tịnh 器世間清淨 Thế gian tách biệt trang nghiêm thanh tịnh; Khí thế gian thanh tịnh
Ý nói thế gian như khí cụ trong đó thế với hàm nghĩa là sự cách biệt, gian với hàm nghĩa là sai lệch. Quốc độ an dưỡng rộng lớn vô biên như thái không, thanh tịnh sáng sủa như nhật nguyệt với đầy đủ ngọc báu trang nghiêm, đấy gọi là quốc độ tách biệt trang nghiêm thanh tịnh.
2. Chúng sinh thế gian thanh tịnh 眾生世間清 淨 Chúng sinh thế gian thanh tịnh
Ý nói đối tượng hóa độ là chúng sinh cách biệt nhau về mặt thời gian, lệch nhau về mặt không gian nên gọi là chúng sinh thế gian. Phật A di đà an trú vào trong một quốc độ Phật, thân không dao động, phóng hào quang lớn chiếu khắp thế giới mười phương, hóa độ chúng sinh giúp chúng sinh tu hành theo pháp như thật, lìa mọi nhiễm trước và đều nguyện sinh về quốc độ của Phật Di đà, ấy gọi là chúng sinh thế gian thanh tịnh.
Nhị chủng thí 二種施 Hai loại thí; Hai cách bố thí
Xuất xứ: Pháp Giới Thứ Đệ 法界次第
1. Tài thí 財施 Bố thí tài sản; Tài thí
Bố thí tài sản, chỉ việc bố thí cho người tất cả các loại tài sản như nuôi sống thân mạng như thức ăn, thức uống, áo quần, ruộng vườn nhà cửa, vàng ngọc châu báu của mình. Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương 金光明 最勝王經 nói “phúc của công hạnh bố thí tài sản không giúp vượt thoát ba cõi, vì đây là công hạnh giới hạn trong việc điều phục tham ái, chỉ cứu được cái nghèo một đời chứ không thể khiến hành giả đắc đạo, ví như ánh sáng ngọn đèn chỉ chiếu sáng một căn nhà thôi vậy 財施之福不出三界唯伏貪愛 但濟一世之貧而不能令其得道譬如燈光 止明一室 tài thí chi phúc, bất xuất tamgiới, duy điều phục tam ái, đản tế nhất thế chi bần, nhi bất năng linh kì đắc đạo. Thí như đăng quang, chỉ minh nhất thất.” chính là chỉ cho ý này.
2. Pháp thí 法施 Bố thí pháp; Pháp thí
Bố thí pháp, chỉ việc dùng tâm thanh tịnh diễn thuyết chính pháp mà mình nghe được từ chư Phật, thiện tri thức hoặc nghe được các pháp thiện thế gian, xuất thế gian từ kinh ;điển. ;Kinh ;Quang ;Minh Tối Thắng Vương nói “bố thí pháp lợi ích cả tự thân và người khác, có năng lực giúp chúng sinh vượt thoát ba cõi, đoạn trừ phiền não, thành tựu thân trí tuệ ví như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế giới đại thiên法施兼利自他 能令眾生出於三界斷諸煩惱成就慧身譬 如日光徧照大千世界 pháp thí kimlợi tự tha, năng linh chúng sinh, xuất ư tam giới, đoạn chư phiền não, thành tựu tuệ thân. Thí như nhật
quang, biến chiếu đại thiên thế giới.” tức chỉ cho ý này.;
Nhị chủng thoái 二種退 Hai loại thoái; Hai loại thoái lui
Xuất xứ: Địa Trì Kinh 地持經
1. Cứu cánh thoái 究竟退 Thoái cứu cánh; Cứu cánh thoái; Giảm sút quyết định ban đầu hoàn toàn
Cứu cánh ở đây với nghĩa là sự quyết định. Ý nói người tu hành nếu tín căn cạn mỏng ắt sẽ biểu hiện lúc đầu thì siêng năng tinh cần, sau thì do các chướng duyên chướng ngại đạo tâm nên thoái bộ, cuối cùng không khởi phát nguyện Bồ đề, như thế gọi là giảm sút quyết định ban đầu
2. Bất cứu cánh thối 不究竟退 Thoái bộ không hoàn toàn; Giảm sút quyết định ban đầu tạm thời; Bất cứu cánh thoái
Chỉ người tu hành, ban đầu tinh tiến, đoạn giữa lại lười biếng, đạo tâm giảm sút, tâm đã giảm sút nhưng nhờ gặp thiện tri thức nhắc nhở khuyên bảo, người đó lại phát khởi nguyện Bồ đề, như thế gọi là giảm sút quyết định ban đầu tạm thời.
Nhị chủng thông tướng 二種通相 Hai loại tướng thông; Hai tướng thông Xuất xứ: Lăng Già Kinh楞伽經
1. Tông thông tướng 宗通相 Tướng tông thông
Tông tức tâm tông, cũng có nghĩa là chủ yếu, then chốt, chính yếu; thông chỉ sự dung thông vô ngại; tướng, chỉ tướng trạng thăng tiến mà tự tâm thể nhập được. Vậy tướng tông thông ở đây chỉ quả vị thành tựu của tâm khi đi vào con đường tự giác nhờ nương vào giáo pháp, tư duy giáo pháp và tu tập theo giáo pháp trong trạng thái được ý quên lời, khi đó trí tuệ giác ngộ sáng suốt tròn đầy, dung thông không ngại, như thế gọi là tướng tông thông.
2. ; Thuyết ; thông ; tướng ; 說通相 Tướng thuyết thông
Thuyết ở đây chỉ việc thuyết pháp; thông tức khả năng biện thuyết vô ngại; tướng tức tướng trạng khi ứng dụng khả năng đó vào việc giáo hóa. Vậy tướng thuyết thông ở đây chỉ việc diễn thuyết chính pháp một cách vô ngại cho mọi căn cơ khí chất sâu cạn khác nhau của mọi chúng sinh, như thế gọi là tướng thuyết thông.
Nhị ; chủng ; thuyết ; pháp ; 二種說法 ; Hai ; cách thuyết pháp
Xuất xứ: Bảo Tính Luận 寶性論
1. Tế 細 Vi tế; Vi diệu; Tế
Chỉ các pháp thậm thâm vi diệu mà Như Lai diễn thuyết cho các vị Bồ tát, do những pháp này thuộc về đệ nhất nghĩa đế nên gọi là pháp vi tế hay pháp vi diệu vậy.
2. Thô 麤 Thô
Chỉ các pháp được thể hiện qua tên gọi, chương cú và vô số sự khác biệt khác mà Như Lai đã diễn thuyết cho chúng sinh, do các pháp này lấy chân lí thế gian làm cơ sở nên gọi là Thô vậy.
Nhị chủng thức 二種識 Hai loại thức
Xuất xứ: Hiển Thức Luận 顯識論
1. Hiển thức 顯識 Hiển thức; Thức hiển thị; Thức hiển hiện
Hiển thức tức thức thứ tám, ý nói thức này chứa đựng tất cả hạt giống thiện, ác và có năng lực hiển hiện mọi cảnh giới nên gọi là hiển thức.
2. Phân biệt thức 分別識 Thức phân biệt; Thức có khả năng phân biệt
Thức phân biệt tức ý thức hay thức thứ sáu. Ý nói thức này có khả năng phân biệt các tướng ;trạng ;tốt ;xấu ;của ;Năm Trần ;trong Hiển thức nên gọi là thức phân biệt.
Nhị chủng thường 二種常 Hai loại thường
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Bách tuế chí kiếp diệt danh thường 百嵗至 刦滅名常 Trăm năm đến kiếp diệt là thường
Trăm năm đến kiếp diệt là thường ở đây chỉ chư Bồ tát nếu trú thế một trăm năm, nghìn vạn ức nămhoặc một kiếp đến tám vạn kiếp sau mới nhập diệt gọi là thường. Thường ở đây với nghĩa là trú thế lâu dài chứ không phải Thường ;với ;hàm ;nghĩa ;không ;thiên lệch, không di dời, thường hằng bất biến vậy.
2. Thường trú bất hoại danh thường 常住不壞 名常 Thường trú bất hoại là thường
Thường trú bất hoại là thường, chỉ khi Bồ tát diệt trừ hết mọi Hoặc của phiền não thì lí chân thường hiển lộ. Lí chân thường vốn không sinh không diệt, không biến đổi hoại diệt nên gọi là thường.
Nhị chủng thụ cụ giới pháp 二種受具戒法 Hai cách thụ giới cụ túc; Hai cách thụ đại giới; Hai phép thụ cụ giới
Xuất xứ: Đại Bảo Tích Kinh 大寶積經
Giới là gốc rễ sinh ra muôn nghìn điều thiện, nếu người thụ nhận giới chân chính ắt tất cả pháp lành cũng từ đó tăng trưởng. Ngược lại nếu thụ giới bất chính, thiên đắm về tà kiến ắt đọa vào hàng ngoại đạo, do vậy giới có hai loại khác nhau.
1. Thụ chính bình đẳng giới 受正平等戒 Thụ giới chân chính bình đẳng
Chỉ người tu hành, thụ trì chính giới Như Lai, bình đẳng tất cả, không có kiến giải phân biệt, dứt bặt tâm vọng tưởng, tư duy sai trái nhờ vậy giới thể viên mãn sáng suốt, thành tựu giải thoát rốt ráo, chứng quả vị Bồ đề vô thượng không còn thối lui.
2. Thụ tà bất đẳng giới 受邪不等戒 Thụ giới tà bất bình đẳng
Chỉ người tà kiến, theo bạn xấu ác, dùng tâm phân biệt thụ nhận gìn giữ giới tà, do vậy đọa vào vô vàn tà kiến khác nhau như nhân ;ngã, ;đoạn ;thường, ;kiêu ;mạn, ;tham dục, sân khuể, ngu si…không hay biết gì về con đường giải thoát.
Nhị chủng tỉ khâu 二種比丘 Hai hạng tỉ khâu; Hai loại tỉ khâu
Xuất xứ: Xuất Diệu Kinh 出曜經
Xưa có hai tỉ khâu học trong núi, vị tên Đa Văn 多聞 vị tên Quả Thiển 寡淺. Quả Thiển giữ giới, tụng kinh và chỉ thông suốt một câu nhưng suốt ngày tụng mãi không nghỉ. Vị này cũng chẳng học gì khác nữa, thiên thần khen là tốt lành, nguyện nghe vị này nói pháp. Tỉ khâu Đa Văn thấy vị thần kia liền cất giọng tụng niệm tất cả những gì mình đã nghe được để mong vị thần kia khen ngợi nhưng vị thần kia imlặng. Tỉ khâu Đa Văn giận vị thần kia nói: Sao lại đối đãi hậu với người kia mà bạc với tôi? Vị thần đáp: “thầy không tự trách lại đi trách tôi. Vị kia tuy nghe ít nhưng lời nói và việc làm đối chiếu soi sáng cho nhau, thầy tuy làu thông ba tạng nhưng việc làm trái với kinh điển nên tôi không khen ngợi.
1. Đa văn Tỉ khâu 多聞比丘 Tỉ khâu nghe nhiều; Tỉ khâu đa văn
Thích đọc tụng kinh điển, sưu tập nhiều, ghi nhớ rộng gọi là đa văn tức nghe nhiều. Tỉ khâu nghe nhiều cố nhiên đáng khen ngợi song học thì có thừa mà thiếu thành tâm, thực hành không kịp với những gì đã họ thì chẳng đáng quý, điều này thiên thần không khen ngợi ủng hộ.
2. Quả thiển Tỉ khâu 寡淺比丘Tỉ khâu ít nghe, nông cạn; Tỉ khâu quả thiển
Ý nói thời gian học đạo ngắn, chưa thông thuộc kinh giáo gọi chung là ít nghe, nông cạn. Tỉ khâu ít nghe, nông cạn cố nhiên không đáng khen ngợi, tuy nhiên sở học tuy chưa chín nhưng mức chuyên tâmđã có, việc thực hành không bị tạp lẫn đương nhiên là điều đáng quý do vậy hạng tỉ khâu này được thiên thần tán thán hộ vệ.
Nhị chủng tịch tĩnh 二種寂靜 Hai loại tịch tĩnh
Xuất xứ: Thích Thị Yếu Lãm 釋氏要覽
1. Thân tịch tĩnh 身寂靜 Thân tịch tĩnh
Chỉ việc xả bỏ ân ái gia đình và mọi ràng buộc công việc, nhàn cư chỗ vắng, lìa xa huyên náo, mê lầm, mọi hành vi ác của thân thảy đều chấm dứt, như thế gọi là thân tịch tĩnh.
2. Tâm tịch tĩnh 心寂靜 Tâm tịch tĩnh
Chỉ sự lìa xa tham, sân, si để tu tập thiền định, không còn tán loạn, mọi hành vi ác của ý thảy đều chấmdứt, như thế gọi là tâm tịch tĩnh.
Nhị chủng tinh tiến 二種精進 Hai loại tinh tiến
Xuất xứ: Pháp Giới Thứ Đệ 法界次第
1. Thân tinh tiến: 身精進 Thân tinh tiến
Chỉ việc thân tinh cần tu tập thiện pháp, ngày đêm hành đạo, lễ Phật tụng kinh, giảng thuyết, khuyến khích trợ giúp việc giáo hóa chúng sinh, như thế gọi là thân tinh tiến.
2. Tâm tinh tiến 心精進Tâm tinh tiến
Chỉ việc tâm siêng năng tu tập thiện đạo, liên tục không gián đoạn, như thế gọi là tâm tinh tiến. Nhị ;chủng ;tinh ;tiến ;tâm ;二種精進心 ;Hai ;loại tâm tinh tiến; Hai biểu hiện tinh tiến của tâm Xuất xứ: Pháp Hoa Sám Nghi 法華懺儀
Chỉ hành giả huân tu pháp sám hối cần tự đặt thời hạn cho mình trong việc phá các chướng ngại của Hoặc ví như tu phép Pháp hoa tam muội lấy kì hạn hai mốt ngày, trong thời gian đó hành giả lễ Phật, sám hối, tụng kinh phối hợp giữa sự và lí, song song tinh tiến, vì thế có hai loại tâm vậy.
1. Sự trung tu nhẫn tinh tiến 事中脩忍精進 Tinh tiến học đức nhẫn thể hiện trong Sự; Tinh tiến tu nhẫn trong Sự
Chỉ trong thời gian hai mốt ngày ở đạo tràng, hành giả cần chuẩn bị thuần thục oai nghi cử chỉ, khi lễ Phật cần một lòng thành tín, quán tưởng tướng tốt đoan nghiêm siêu việt của Phật, như thế ắt tâm hành giả tự nhiên không bị các duyên khác khuấy nhiễu, cứ thế cho đến việc sám hối hành đạo, tụng kinh tọa thiền thảy đều nhất tâm nhằm tâm và pháp thực hành ứng khớp nhau, không chút lười biếng, như thế gọi là một lòng tinh tiến trong quá trình tu tập
2. Lí trung tu nhẫn tinh tiến 理中脩一心精進
Tinh tiến tu nhẫn trong Lí
Chỉ hành giả vừa vào đạo tràng đã đến hai mốt ngày, trong thời gian đó, mọi uy nghi cử chỉ phải tự biết rõ, tỉnh thức, một lòng lắng đọng như khi lễ Phật phải biết chủ thể hành lễ, đối tượng hành lễ vốn Không và vắng lặng từ bản chất, nhờ cảm như vậy mới có sự giao ứng của đạo không thể nghĩ bàn. Sở dĩ như thế vì Lí và Thể vốn bình đẳng, chúng sinh và Phật vốn không phải hai, tuy không có chủ thể hành lễ nhưng vẫn có thân ta đứng trước Phật hành lễ; tuy không có Phật là đối tượng hành lễ nhưng có chư Phật hiển hiện theo tâm chúng sinh. Cứ quán tưởng liên tục như thế không chút lười biếng gọi là tinh tiến tu nhẫn trong Lí.
Nhị chủng tính 二種性 Hai loại tính chất; Hai tính chất; Hai chủng tính
Xuất xứ: Địa Trì Kinh 地持經
Chủng tức hạt giống, ở đây chỉ cho khả năng nẩy mầm, sinh khởi; tính tức tính phận tức tính chất riêng không thay đổi của tự thân. Do căn tính của Bồ tát không cố định mà có hai sự phận biệt khác nhau.
1. Tính chủng tính 性種性 Tính có từ bản thể; Tính hiện hữu từ bản thể
Tính chủng tính nghĩa là lấy bản tính làm tính, chỉ Bồ tát với lục nhập thù thắng có thể phân biệt rõ ràng tất cả các pháp.
Thù thắng, các căn của Bồ tát siêu việt nên khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng thảy đều siêu việt. 2. Tập chủng tính 習種性 Tính do huân tập; Tính có được do thói quen
Tính do huân tập ý nói một tính cách nào đó có được do lặp đi lặp lại nhiều lần nên thành thói quen. Ở đây chỉ tập tính của Bồ tát có được do từ khi mới phát tâm tu tập mọi điều thiện mà nên.
Nhị chủng tính 二種性 Hai chủng tính
Xuất xứ: Địa Trì Kinh 地持經
1. Hữu tính 有性 Hữu tính
Các pháp như bốn đại, năm ấm, sáu căn, sáu trần cho đến Niết Bàn đều là những danh từ tạm mượn thế gian mà đặt ra. Hễ pháp nào có tính chất độc lập của tự thân - tự tính đều gọi là hữu tính.
2. Vô tính 無性 Vô tính
Chỉ các pháp tứ đại cho đến Niết Bàn thảy đều mượn tạm danh xưng chứ trong trạng thái tất cánh không – không rốt ráo thì tất cả đều vô tính.
Nhị chủng tính 二種性 Hai chủng tính; Hai loại thể tính; Hai thể tính
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Tổng tính 総性 Thể tính chung; Thể tính phổ quát; Tính chất chung
2. Biệt tính 別性 Tính sai biệt; Tính đơn lẻ; Tính riêng biệt; Tính chất riêng biệt
Chỉ người thích làm ác ắt lấy ác làm tính; thích làm thiện ắt lấy thiện làm tính ví như lửa lấy nóng làmtính, nước lấy ướt làm tính, như thế gọi là tính sai biệt.
Nhị chủng tính 二種性 Hai loại tập tính; Hai tập tính
Xuất xứ: Lăng Già Kinh 楞伽經
Chủng với nghĩa là có khả năng sinh trưởng; tính với nghĩa là tính cách có được do nhiều lần tập luyện mà nên, tính ở đây không chỉ thể tính vốn có về mặt lí.
1. Thánh chủng tính 聖種性 Hạt giống của bậc thánh; Tính cách của bậc thánh; Đặc tính của bậc thánh
Hàng Thanh văn quán năm ấm vốn không thật, là nguyên nhân của khổ nên sinh tâm chán ghét sinh tử, vui cầu Niết Bàn nhờ vậy hình thành chủng tính của Thanh văn. Hàng Duyên giác quán năm ấm do duyên khởi, tu tập hạnh viễn li nhờ vậy hình thành chủng tính của Duyên giác. Phật thấu tỏ các pháp năm ấm xưa nay tịch lặng, không sinh không diệt, ba Hoặc được khử trừ, trọn vẹn mọi đức nhờ vậy hình thành chủng tính Phật. Kinh không đề cập chủng tính Bồ tát vì công hạnh tu tập của hàng Bồ tát tức hình thành chủng tính Phật rồi nên bỏ qua không nhắc.
2. Ngu phu chủng tính 愚夫種性 Hạt giống của phàm phu; Tập tính của phàm phu; Tập tính của kẻ ngu; Tính cách của người thường
Phàm phu ngu sinh khởi tâm vọng tưởng phân biệt đối với các pháp trên thân năm ấm và các việc thế gian, chẳng có chấp có, vô thường chấp thường cứ thế sinh tâm chấp trước đối với mọi sự mọi việc do vậy hình thành chủng tính của hàng phàm phu.
Nhị chủng tồn tế 二種存濟 Hai cách giúp đỡ duy trì sự sống; Hai cách tồn tế Xuất xứ: A Tì Đạt Ma Luận 阿毘達磨論
Tồn tức sống còn, tế tức cứu tế ý nói dùng thức ăn nước uống để cứu giúp duy trì cuộc sống. 1. Hữu tội tồn tế 有罪存濟 Tồn tế có tội
Ý nói có hạng người, giả tạo hư dối quỷ quyệt gian trá để mưu cầu đồ ăn thức uống, mỗi khi cầu được họ vui sướng hưởng thụ tham lam đắm đuối không chịu buông xả, không thấy cái lỗi của sinh tử, không biết cách xuất li sinh tử, như thế gọi là tồn tế có tội.
2. Vô tội tồn tế 無罪存濟 Tồn tế vô tội
Chỉ việc không dùng cách giả tạo hư dối quỷ quyệt gian trá để mưu cầu đồ ăn thức uống, chỉ khất thực theo chính đạo, khi được thức ăn, thụ dụng đúng pháp, không tham không đắm, thấy được lỗi lầm của sinh tử, khéo rõ con đường vượt thoát sinh tử, như thế gọi là tồn tế vô tội.
Nhị chủng trang nghiêm 二種莊嚴 Hai loại trang nghiêm; Hai cách trang nghiêm; Hai thứ trang nghiêm
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
1. Trí tuệ trang nghiêm 智慧莊嚴 Trang nghiêm bằng trí tuệ; Trí tuệ trang nghiêm
Chỉ hàng Bồ tát từ lúc mới phát tâm đến lúc lắng sạch vô minh một cách rốt ráo, Phật tính hiện tiền, tất cả trí tuệ đều có tác dụng hiển thị pháp thân như thế gọi là trang nghiêm bằng trí tuệ hay trí tuệ trang nghiêm vậy.
2. ;Phúc ;đức ;trang ;nghiêm ;福德莊嚴 Trang nghiêm bằng phúc đức; Phúc đức trang nghiêm
Chỉ Bồ tát tu hành Lục độ vạn hạnh, viên mãn mọi công đức để hiển thị pháp thân như thế gọi là phúc đức trang nghiêm.
Nhị chủng trang nghiêm 二種莊嚴 Hai loại trang nghiêm; Hai cách trang nghiêm; Hai thứ trang nghiêm
Xuất xứ: Kim Cương Kinh Toản Yếu Sớ 金剛 經纂要疏
Kinh Kim cương nói: Trang nghiêm quốc độ Phật tức không phải trang nghiêm ấy mới gọi là ;trang ;nghiêm. ;Không ;phải ;trang ;nghiêm ở đây muốn nhắm đến đó là sự trang nghiêm bằng hình tướng. Mới gọi là trang nghiêm ở đây muốn chỉ chính là trang nghiêm theo đệ nhất nghĩa vậy.
1. Hình tướng trang nghiêm 形相莊嚴 Trang nghiêm bằng hình tướng; Trang nghiêm qua hình thức tướng mạo
Ý rằng nếu có người phân biệt quốc độ Phật qua hình tướng hữu vi để người đó tự nói rằng ta có thể thành tựu công việc trang nghiêm quốc độ Phật thì đó là người đã đắm đuối, bám trụ vào cảnh của sắc, thanh…và đó không phải là sự trang nghiêm đích thực, trường hợp này gọi là trang nghiêm bằng hình tướng.
2. Đệ nhất nghĩa trang nghiêm 第一義莊嚴 Trang nghiêm đệ nhất nghĩa; Trang nghiêm theo đệ nhất nghĩa
Với tâm thanh tịnh, không bám trụ, không dính chặt vào bất kì điều gì mà chỉ nương vào trí tuệ chân thật, thông đạt quốc độ của tự tính, thấy quốc độ chỉ do tâm hiển hiện, đấy chính là thành tựu quốc độ Phật bằng chính trí, trường hợp này gọi là trang nghiêm đệ nhất nghĩa.
Nhị chủng tu hành 二種脩行 Hai loại tu hành; Hai cấp độ tu hành
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
1. Chân thật tu hành 真實脩行 Tu hành chân thật
Chỉ việc người tu tập các hạnh khi đã thấu tỏ Phật tính, Niết Bàn thông qua kinh điển Phật đã diễn thuyết, ấy gọi là tu hành chân thật.
2. Bất thật tu hành 不實脩行 Tu hành không thật
Chỉ việc tu tập các hạnh khi chưa thấu hiểu Phật tính, Niết Bàn là gì ấy gọi là tu hành không thật. Nhị chủng tư lương 二種資糧 Hai loại tư lương; Hai loại vốn liếng
Xuất xứ: Bảo Tích Kinh 寶積經
Tư trong từ tư lương chỉ tiền vốn, lương tức lương thực ngầm chỉ người đi đường dài ắt cần tiền vốn và lương thực. Ở đây ví cho việc tu hành của Bồ tát muốn đến quả vị Phật ắt phải nhờ vào hai thứ vốn liếng đó chính là phúc đức và trí tuệ để giúp đỡ trên con đường đạo do vậy gọi là tư lương.
1. Phúc đức tư lương 福德資糧 Vốn phúc đức; Tư lương phúc đức
Các nhân lành đã tu tập như bố thí, trì giới cho đến việc tu tập trọn vẹn tất cả giáo pháp của Phật đều gọi là vốn phúc đức.
2. Trí đức tư lương 智德資糧 Vốn trí đức; Tư lương trí đức
Chỉ việc tu tập có cái nhìn chân chính, tâm không tạp loạn, siêng cầu trí tuệ siêu việt, không chút lười biếng thậm chí đến lúc tu tập trọn vẹn tất cả giáo pháp của Phật, ấy gọi là vốn trí đức.
Nhị chủng tử 二種死 Hai kiểu chết; Hai cách chết
Xuất xứ: Niết Bàn Kinh 涅槃經
1. Mạng tận tử 命盡死 Chết do mạng tận; Chết do tận mạng; Chết do hết mạng
Mạng sống tự nhiên kết thúc, xả bỏ thân này gọi là chết do mạng tận. Tuy nhiên có những cái chết không phải do hết phúc cũng có cái chết do hết phúc chứ không do mạng tận, cũng có cái chết do phúc và mạng đều hết, tất cả các cái chết trên đều gọi là chết do mạng tận.
Phúc ở đây chỉ cho tài sản vật chất.
2. Ngoại duyên tử 外緣死 Chết do ngoại duyên; Chết do duyên bên ngoài mang lại
Chỉ những cái chết không thuận theo thiên mệnh ví như tự tử hoặc bị người khác giết hoặc do hai người sân hận hại chết lẫn nhau…những cái chết đó đều gọi là chết do ngoại duyên.
Nhị chủng tự tại 二種自在 Hai loại tự tại; Hai trạng thái tự tại
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
1. Quán cảnh tự tại 觀境自在 Tự tại Quán cảnh; Tự tại nhờ quán cảnh
Bồ tát vận dụng chính trí chiếu tỏ cảnh chân như và có năng lực thông đạt các pháp một cách viên dung tự tại, như thế gọi là tự tại quán cảnh.
2. Tác dụng tự tại 作用自在 Tác dụng tự tại; Tự tại nhờ tác dụng
Bồ tát sau khi vận dụng trí tuệ chiếu tỏ cảnh chân như liền khởi diệu dụng từ thể tính, hiện thân thuyết pháp hóa độ chúng sinh một cách tự tại như thế gọi là tác dụng tự tại.
Nhị chủng vọng kiến 二種妄見 Hai cái thấy sai lầm; Hai loại vọng kiến
Xuất xứ: Lăng Nghiêm Kinh 楞嚴經
1. Biệt nghiệp vọng kiến 別業妄見Cái thấy hư vọng do biệt nghiệp; Vọng kiến của biệt nghiệp
Chúng sinh mê mờ đánh mất chân tính, khởi lên cái nhìn sai lầm - cho rằng tất cả cảnh giới hư vọng hoặc khổ hoặc sướng tuy nhiên với người không đánh mất bản chân tất sẽ không thấy cảnh giới hư vọng đấy. Ví như người bị bệnh về mắt, đêm nhìn ánh đèn tự thấy có một vòng tròn với đủ năm màu sắc chất chồng đan xen lẫn nhau, người mắt không bệnh nhìn đèn nhưng không thấy vòng tròn kia, như thế gọi là cái thấy hư vọng do biệt nghiệp.
2. Đồng phận vọng kiến 同分妄見 Cái thấy hư vọng do cùng một tính chất
Khi chúng sinh mê mờ đánh mất chân tính, cùng có cái nhìn sai lầm giống nhau về các cảnh giới, cùng có sướng khổ giống nhau, bị nghiệp cảm như nhau ví như người trong cùng một đất nước cùng thấy hơi nóng ẩm từ rừng núi bốc ra và cùng cho đó là điềm bất tường, tất cả điều đó gọi là cái thấy hư vọng do cùng một tính chất.
Nhị chủng vọng ngữ báo 二種妄語報 Hai quả báo của vọng ngữ; Hai quả báo của việc nói sai sự thật
Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Đa bị phỉ báng 多被誹謗 Bị nhiều sự phỉ báng; Bị phỉ báng nhiều
Bị phỉ báng nhiều, ý nói do nhân đời trước không thành thật, nói năng không bằng chứng đáng tin nên chiêu cảm lấy quả báo đời này bị người phỉ báng.
2. Vi nhân sở cuống 為人所誑 Bị người lừa dối; Bị người khi dễ
Bị người khi dễ ý nói do nhân đời trước luôn dùng lời không đúng sự thật để lừa dối người nên chiêu cảm quả báo đời này bị người lừa dối, khi dễ.
Nhị chủng vô lậu nhân quả 二種無漏因果 Hai loại nhân quả vô lậu
Xuất xứ: Đại Niết Bàn Kinh 大涅槃經
1. Vô lậu nhân 無漏因 Nhân vô lậu
Chỉ hàng nhị thừa nhờ tu nhân giới định tuệ đoạn trừ cái khổ sinh tử trong ba cõi, như vậy giới định tuệ ở đây được gọi là nhân vô lậu tức đạo đế vậy.
2. Vô lậu quả 無漏果 Quả vô lậu
Chỉ hàng nhị thừa đoạn trừ cái khổ bức bách của sinh tử trong ba cõi, thể chứng pháp lạc tịch diệt của Niết Bàn chân không, như vậy Niết Bàn chân không được gọi là quả vô lậu tức diệt đế vậy.
Nhị chủng vô lượng 二種無量 Hai loại vô lượng
Xuất xứ: Đại Trí Độ Luận 大智度論
1. Thật vô lượng 實無量 Vô lượng là sự thật; Sự thật vô lượng
Lí Phật tính Niết Bàn ví như hư không thật không có hạn lượng, tất cả Bồ tát không thể đo lường nên gọi là thật vô lượng.
2. Bất tri vi vô lượng 不知為無量 Vô lượng không thể biết hết; Bất tri vô lượng.
Nước trong bốn biển lớn quanh núi Tu di chỉ chư Phật mới biết hạn lượng của chúng. Trí tuệ chư thiên, loài người nông cạn yếu kém không thể biết được do vậy gọi là vô lượng không thể biết hết.
Nhị chủng vô ngại 二種無礙 Hai loại vô ngại
Xuất xứ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ 華嚴經疏
1. Trí tuệ ư cảnh vô ngại 智慧於境無礙 Trí tuệ thấu tỏ các cảnh không ngại
Cảnh tức lí của pháp giới. Bồ tát với trí bình đẳng, chứng ngộ lí pháp giới, lí sự dung thông không chướng ngại nên gọi là trí tuệ thấu tỏ các cảnh không ngại.
2. Thần thông tác dụng vô ngại 神通作用無礙 Tác dụng của thần thông vô ngại; Tác dụng của thần thông không chướng ngại
Nội tâm Bồ tát chứng ngộ lí pháp giới nên có thể vận dụng thần thông ứng hiện tùy thuộc vào nhu cầu của căn cơ chúng sinh trong mười phương để hóa độ họ mà không bị chướng ngại như thế gọi là tác dụng của thần thông không chướng ngại.
Nhị chủng vô nghĩa ngữ báo 二種無義語報 Hai quả báo của việc nói lời vô nghĩa Xuất xứ: Pháp Uyển Châu Lâm 法苑珠林
1. Nhân bất tín thụ 人不信受 Người không tin tưởng; Người khác không tin theo
Người khác không tin theo ý nói nhân đời trước buông lời trái lẽ, không giữ đạo nghĩa, toàn lời dối trá nên chiêu cảm đời này bị người khác không tin tưởng.
2. Bất năng minh liễu 不能明了 Không thể hiểu rõ
Không thể hiểu rõ, ý nói đời trước do tâm ám muội nói lời vô nghĩa nên đời này nói năng cũng không