🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quản Lý Phát Triển Xã Hội Việt Nam: Thực Trạng, Vấn Đề Đặt Ra Và Định Hướng Chính Sách
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung
PHÓ GIÁM ĐỐC- PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
ThS. ĐỖ PHƯƠNG MAI TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. NGUYỄN VIỆT HÀ PHẠM DUY THÁI
NGUYỄN QUỲNH LAN NGUYỄN MAI THẢO NHUNG BÙI BỘI THU
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 4139-2020/CXBIPH/14-337/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5365-QĐ/NXBCTQG, ngày 15/10/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 10 năm 2020.
Mã ISBN: 978-604-57-6109-0.
4
TẬP THỂ TÁC GIẢ
PHẠM QUANG MINH (Chủ biên)
NGUYỄN TUẤN ANH
NGUYỄN THỊ THU HÀ
ĐOÀN VIỆT HẢI
NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG
ĐINH XUÂN LÝ
TRẦN THỊ MINH NGỌC
DƯƠNG XUÂN NGỌC
PHẠM NGỌC THANH
HOÀNG BÁ THỊNH
NGUYỄN VĂN THỤC
PHẠM LÊ DẠ HƯƠNG
V
5
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
ới bất kỳ thể chế chính trị nào thì quản lý phát triển xã hội cũng có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội.
Quản lý phát triển xã hội là một vấn đề lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, bao trùm lên toàn bộ các khía cạnh của đời sống xã hội. Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến các khách thể nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững; phát triển hài hòa cơ cấu xã hội; định hướng, kiểm soát các biến đổi xã hội; thực hiện các bảo đảm an sinh xã hội; thực thi chính sách xã hội phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực, địa bàn nhằm hài hòa quan hệ xã hội, quan hệ lợi ích; xử lý ổn thỏa các vấn đề xã hội nảy sinh, bảo đảm sự đồng thuận xã hội, an sinh xã hội, an ninh con người.
Trước đổi mới, Việt Nam áp dụng chính sách quản lý phát triển xã hội gắn với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, nhưng qua thực tiễn đã xác nhận sự bất cập của mô hình đó đòi hỏi phải đổi mới quan niệm về phát triển xã hội và quản lý xã hội gắn với thể chế kinh tế thị trường. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đã xác nhận tính đúng đắn quyết định đổi mới của Đảng và nhờ đó đã giải quyết thành công nhiều mục tiêu xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn quản lý phát triển xã hội trong thời gian qua cũng đặt ra những tình huống mới mà nếu không kịp thời xử lý sẽ dẫn đến những hệ lụy khó lường.
Nhằm cung cấp cơ sở lý luận và những vấn đề thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam, Nhà xuất
6 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Quản lý phát triển xã hội Việt Nam: Thực trạng, vấn đề đặt ra và định hướng chính sách do tác giả Phạm Quang Minh - Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, làm chủ biên.
Nội dung cuốn sách phân tích khái quát cơ sở lý luận với hệ thống khái niệm và lý thuyết về quản lý phát triển xã hội. Đồng thời, phân tích thực trạng quản lý phát triển xã hội qua việc khảo sát thực tiễn ở 7 tỉnh, thành phố trong cả nước đại diện cho các vùng, miền với các điều kiện, mức độ phát triển khác nhau trong nhiều lĩnh vực như: lao động việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội, bất bình đẳng... Từ những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, trên bình diện cơ chế, nội dung cuốn sách phân tích định hướng chính sách và đề xuất mô hình chuyển từ cơ chế quản lý phát triển xã hội sang cơ chế quản trị xã hội. Đó là quá trình chính phủ, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân là những đối tác hợp tác bình đẳng để điều chỉnh và quản lý các vấn đề xã hội; đưa ra mô hình quản trị phát triển xã hội ở Việt Nam dựa trên mối quan hệ của ba trụ cột: Nhà nước - thị trường - các tổ chức xã hội và cá nhân nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên tập, xuất bản, song nội dung cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 11 năm 2019
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
B
7
MỞ ĐẦU
áo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã chỉ rõ phương hướng nhiệm vụ của quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta, cụ thể là: “Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã hội đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, thực hiện các chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội; giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc; khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển giữa các lĩnh vực, các vùng, miền; bảo đảm sự hài hòa về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa giàu - nghèo. Kịp thời kiểm soát và xử lý các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội. Đẩy mạnh các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; giảm thiểu tai nạn giao thông”1. Nhìn một cách tổng thể, đây là những mục tiêu quan trọng của việc quản lý phát triển xã hội Việt Nam hiện nay và trong tương lai. Việc đạt được những mục tiêu này phụ thuộc vào
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.30.
8 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
các chính sách xã hội và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội. Để có được những chính sách xã hội phù hợp và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội hiệu quả nhằm quản lý tốt sự phát triển xã hội, yêu cầu quan trọng đặt ra là phải hiểu rõ thực trạng các vấn đề xã hội, trên cơ sở đó đưa ra được định hướng chính sách và mô hình quản lý phát triển xã hội phù hợp. Cuốn sách Quản lý phát triển xã hội Việt Nam: Thực trạng, vấn đề đặt ra và định hướng chính sách góp phần thực hiện nhiệm vụ này.
Cuốn sách này được xây dựng dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài: “Quản lý phát triển xã hội ở nước ta: Thực trạng, vấn đề đặt ra và định hướng chính sách”, mã số KX04.15/16-20 thuộc chương trình Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2016 - 2020 của Hội đồng Lý luận Trung ương. Đây là đề tài do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội chủ trì thực hiện. Trong khuôn khổ đề tài này, các hoạt động khảo sát thực tiễn đã được triển khai tại 7 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng, miền có các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa khác nhau, với mức độ phát triển khác nhau trên cả nước, bao gồm: Sơn La, Hà Nội, Quảng Trị, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Sóc Trăng. Các hoạt động khảo sát diễn ra từ tháng 6/2017 đến tháng 8/2017. Nhìn một cách tổng thể, nội dung khảo sát ở các địa phương này bên cạnh các vấn đề chung liên quan tới giảm nghèo, bất bình đẳng, xung đột xã hội, thì những vấn đề riêng trong quản lý phát triển xã hội của từng địa phương cũng được quan tâm. Cụ
thể là trong khi các tỉnh, thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh hay Bình Dương đang phải tập trung nhiều hơn
MỞ ĐẦU 9
cho các thách thức gắn với các đô thị hiện đại, đặc biệt là về bảo vệ môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch vụ xã hội... thì Sơn La, Quảng Trị, Sóc Trăng và Đắk Lắk vẫn chủ yếu phải giải quyết các thách thức của những địa phương nghèo, đặc biệt là vấn đề giảm nghèo ở khu vực đồng bào dân tộc thiểu số. Thậm chí đối với từng vấn đề chung, cách thức quản lý phát triển xã hội cụ thể ở từng địa phương cũng không giống nhau. Trong lĩnh vực giảm nghèo, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ phải tập trung nhiều nguồn lực cho vấn đề giảm nghèo ở khu vực đô thị, rất khác so với các địa phương còn lại. Sự khác biệt cũng diễn ra ngay trong một tỉnh, thành phố với các xã, phường có những đặc điểm khác nhau. Cũng chính vì thế, bên cạnh các giải pháp quản lý phát triển xã hội nói chung, rất cần phải tạo cơ chế để các địa phương có các giải pháp quản lý phát triển xã hội mang tính đặc thù, phù hợp với tình hình thực tiễn.
Về mặt phương pháp nghiên cứu, trong quá trình khảo sát thực tế tại 7 tỉnh, thành phố, đề tài đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Trong đó, trọng tâm là các phương pháp nghiên cứu xã hội học, cụ
thể là phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi đối với nhóm cán bộ và nhóm người dân ở các địa phương. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng sử dụng một loạt các phương pháp bổ trợ khác như phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp phỏng vấn sâu,
phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình. Trước hết, đối với phương pháp phân tích tài liệu, đề tài đã phân tích cả tài liệu thứ cấp và tài liệu sơ cấp. Liên quan đến phân tích tài liệu thứ cấp, đề tài đã sử dụng nhiều tài liệu khác nhau như: hệ thống chủ trương, chính sách của
10 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Đảng và Nhà nước về phát triển xã hội, các công trình nghiên cứu về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, các báo cáo, số liệu, niên giám thống kê ở Trung ương, địa phương và các tài liệu quốc tế có liên quan. Đối với tài liệu sơ cấp, đề tài tập trung phân tích dữ liệu định tính có được qua các đợt khảo sát thực tế, chủ yếu là các dữ liệu có được qua phỏng vấn sâu và quan sát. Đặc biệt là đề tài phân tích các dữ liệu định lượng có được từ khảo sát xã hội học dựa trên bảng hỏi được chuẩn bị sẵn.
Thứ hai, đối với phương pháp khảo sát xã hội học dựa trên bảng hỏi được chuẩn bị sẵn, đây là phương pháp trọng tâm của cuốn sách. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi đã được áp dụng với 2 nhóm khách thể nghiên cứu chính gồm: nhóm cán bộ quản lý ở địa phương (phường, xã) - đây là nhóm đại diện cho các chủ thể của hoạt động quản lý phát triển xã hội và nhóm người dân - đây là nhóm đại diện cho đối tượng tác động của hoạt động quản lý phát triển xã hội. Qua việc thực hiện phương pháp này, đề tài đã tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi với quy mô 2.100 đơn vị mẫu cho nhóm cán bộ và người dân chia đều cho 7 tỉnh, thành phố; tương đương mỗi tỉnh, thành phố có 300 người được phỏng vấn, bao gồm cả nhóm cán bộ và nhóm người dân. Tại mỗi tỉnh, thành phố đề tài đã khảo sát tại 2 quận/huyện/thị xã/thành phố. Tại mỗi quận/huyện/thị xã/thành phố có 2 xã/phường được chọn để khảo sát. Tại mỗi xã/phường được lựa chọn, đề tài tiến hành khảo sát cả nhóm cán bộ và nhóm người dân theo tỷ lệ 25 cán bộ và 50 người dân. Với nhóm cán bộ được phỏng vấn, đề tài đã tập trung vào các cơ quan có liên quan mật thiết tới hoạt động quản lý phát triển xã hội như các
MỞ ĐẦU 11
cơ quan Đảng, chính quyền, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Với nhóm người dân tại địa phương đề tài cũng đã lựa chọn những cộng đồng đặc trưng cho các yếu tố về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Một trong những điểm nhấn đáng chú ý của phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi chính là việc thiết kế các nội dung câu hỏi về phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội có tính đối sánh giữa 2 nhóm đối tượng cán bộ và người dân. Điều này giúp cho các kết quả nghiên cứu của đề tài được kiểm chứng và có sự so sánh với nhau. Do nội dung nghiên cứu của đề tài rộng, bao gồm các lĩnh vực quản lý phát triển xã hội trong việc giải quyết bất bình đẳng, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội, giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội, giảm thiểu rủi ro; đảm bảo an ninh con người, an sinh xã hội vì thế, để đảm bảo các nội dung khảo sát đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, đề tài đã thiết kế bảng hỏi định lượng thành 2 nhóm nội dung. Nội dung thứ nhất quan tâm đến bất bình đẳng, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội. Nội dung thứ hai tập trung vào xung đột xã hội, giảm thiểu rủi ro; đảm bảo an ninh con người, an sinh xã hội. Mỗi nội dung này được thiết kế trong 2 loại bảng hỏi. Một loại bảng hỏi dành cho nhóm cán bộ và một loại bảng hỏi dành cho nhóm người dân.
Thứ ba, đối với phương pháp phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung, các phương pháp này hết sức quan trọng trong việc cung cấp các dữ liệu bổ khuyết cho nghiên cứu định lượng cũng như hướng tới việc lý giải sâu những vấn đề
nghiên cứu được đề cập đến. Trọng tâm của phương pháp phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm là đánh giá sự trải nghiệm,
12 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
mức độ hài lòng, quan điểm của những người được khảo sát đối với thực tiễn các vấn đề xã hội và quá trình giải quyết các vấn đề xã hội ở các địa phương, tức là đánh giá quá trình quản lý phát triển xã hội tại các địa phương cụ thể. Dữ liệu từ phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm cũng giúp cho việc đánh giá những thành tựu, những hạn chế và mong muốn, kỳ
vọng, giải pháp về quản lý phát triển xã hội của người dân và cán bộ quản lý ở các địa phương.
Thứ tư là phương pháp phỏng vấn chuyên gia. Do nội dung nghiên cứu của đề tài rất rộng cả về phạm vi nghiên cứu và thời gian nên đề tài cũng đã sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia trong quá trình triển khai khảo sát. Thông qua phương pháp này, các nội dung nghiên cứu, kết quả được đánh giá, lựa chọn dựa trên các quan điểm, ý kiến của các chuyên gia am hiểu về từng nội dung cụ thể, trong trường hợp này là phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta theo các nội dung của đề tài. Ý kiến của các chuyên gia là những cơ sở quan trọng cho việc giải thích nguyên nhân, dự báo xu hướng và đề xuất giải pháp phù hợp cho quản lý phát triển xã hội, trong đó có việc tìm ra mô hình, giải pháp quản lý phát triển xã hội theo quan điểm phát triển bền vững. Ngoài ra, phỏng vấn chuyên gia được sử dụng còn nhằm tìm hiểu, phân tích về các mô hình, bài học kinh nghiệm trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của các quốc gia trên thế giới. Qua đó, chắt lọc lựa chọn các mô hình, kinh nghiệm phù hợp nhất có thể áp dụng vào quá trình phát triển bền vững ở nước ta.
Thứ năm là phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình. Trong 7 tỉnh, thành phố được lựa chọn khảo sát của
MỞ ĐẦU 13
đề tài, mỗi tỉnh thành phố lại có những đặc trưng riêng về kinh tế, xã hội, vị trí địa lý, dân tộc, văn hóa. Do đó, tại mỗi địa phương, bên cạnh các mô hình, chính sách phát triển và quản lý phát triển xã hội chung sẽ có các mô hình, chính sách mang tính đặc thù. Cũng vì thế, trong quá trình khảo sát, đề tài đã áp dụng phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình để phân tích và làm rõ hơn các mô hình về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, đặc biệt là ở các địa phương vốn có nhiều ý tưởng, mô hình đột phá như
Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương.
Với nội dung nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đề tài Quản lý phát triển xã hội ở nước ta: Thực trạng, vấn đề đặt ra và định hướng chính sách đã có những kết quả nghiên cứu quan trọng liên quan đến quản lý phát triển xã hội ở nước ta. Một phần kết quả nghiên cứu của đề tài đã được sử dụng để xây dựng nội dung của cuốn sách này. Nhìn một cách tổng thể, ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của cuốn sách được chia thành 3 chương:
Chương I bàn về cơ sở lý luận trong nghiên cứu quản lý phát triển xã hội.
Chương II phân tích thực trạng quản lý phát triển xã hội trên các lĩnh vực: lao động việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội, phân cực giàu nghèo, phân tầng xã hội, bất bình đẳng.
Chương III đề cập đến các yếu tố quốc tế và trong nước tác động tới vấn đề quản lý phát triển xã hội và định hướng chính sách, đề xuất mô hình quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2020 - 2030.
Như vậy, cấu trúc nội dung của cuốn sách dựa trên lôgich: lý luận - thực tiễn - định hướng chính sách và mô hình quản lý phát triển xã hội.
14 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Nhân dịp cuốn sách ra mắt bạn đọc, nhóm tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Hội đồng Lý luận Trung ương, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các cán bộ và nhân dân ở 7 tỉnh, thành phố: Sơn La, Hà Nội, Quảng Trị, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương và Sóc Trăng đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Lời cảm ơn đặc biệt của chúng tôi dành cho lãnh đạo và các biên tập viên của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã góp ý, biên tập, xuất bản công trình này.
Xin trân trọng giới thiệu đến độc giả và mong muốn nhận được các ý kiến góp ý để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn. Xin cảm ơn.
Hà Nội, mùa Thu 2019
T/M NHÓM TÁC GIẢ
GS.TS. Phạm Quang Minh
15
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
I- HỆ THỐNG KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Để làm rõ cơ sở lý luận về quản lý phát triển xã hội nói chung và vấn đề quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế trước tiên cần phải làm rõ hệ thống khái niệm có liên quan tới quản lý phát triển xã hội. Việc làm rõ hệ thống khái niệm sẽ giúp đưa ra được các tiêu chí đánh giá phù hợp về vấn đề quản lý phát triển xã hội. Trong đó, đặc biệt là tính toàn diện nhưng cũng rất cụ thể về không gian, thời gian đối với vấn đề phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Không chỉ cần làm rõ các khái niệm về quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, mà để hiểu rõ được bản chất của các khái niệm này, cần phải làm rõ được rất nhiều các khái niệm có liên quan khác như phân tầng xã hội, bất bình đẳng, an ninh con người, an sinh xã hội... Ở những thời điểm phát triển xã hội cụ thể khác nhau, mức độ đặt ra của
16 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
các vấn đề này là khác nhau. Do đó, việc quản lý phát triển xã hội đối với các vấn đề nói trên cũng khác nhau.
1. Quản lý xã hội
Để hiểu khái niệm “quản lý xã hội” trước tiên cần hiểu rõ khái niệm “quản lý”. Theo Phạm Ngọc Thanh: “Quản lý là một hoạt động thực tiễn đặc biệt của con người, trong đó các chủ thể tác động lên các đối tượng bằng các công cụ và phương pháp khác nhau, thông qua quy trình quản lý nhất định, nhằm thực hiện một cách hiệu quả nhất các mục tiêu của tổ chức trong điều kiện biến động của môi trường”1. Khi bàn về khái niệm “quản lý xã hội”, các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận khác nhau2, nhưng đều thống nhất nội dung cơ bản: Quản lý xã hội là quá trình tác động của các chủ thể lên xã hội bằng những công cụ và phương pháp khác nhau, thông qua những quy trình quản lý, nhằm duy trì và phát triển những đặc trưng chủ yếu của xã hội, đạt được các mục tiêu xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Xét cho cùng,
_______________
1. Phạm Ngọc Thanh: Đổi mới văn hóa lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.17. 2. Xem A.G. Xpirkin: Triết học xã hội, Nxb. Tuyên huấn, Hà Nội, 1989, t.1, tr.179; Đỗ Hoàng Toàn và Phan Kim Chiến: Giáo trình Quản lý xã hội, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2000, tr.10; Nguyễn Tuấn Dũng và Đỗ Minh Hợp: Từ điển Quản lý xã hội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr.187-188; Nguyễn Vũ Tiến: Lý thuyết chung về quản lý xã hội, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010, tr.13; Phạm Ngọc Thanh (Chủ biên): Quản lý phát triển xã hội ở Tây Nguyên trong xóa đói, giảm nghèo bảo trợ xã hội và y tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.21-22.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 17
việc quản lý xã hội chính là việc thực thi các chính sách, các giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của xã hội, mang lại lợi ích cho người dân và toàn xã hội. Do vậy, tùy thuộc vào từng thời điểm lịch sử cụ thể, tùy thuộc vào định hướng phát triển, các cách thức, quan điểm và việc thực thi các giải pháp về quản lý xã hội sẽ khác nhau. Ở mỗi quốc gia, đều có những giai đoạn, với những đặc trưng nhất định trong quản lý xã hội. Trong mỗi giai đoạn này có thể bao gồm nhiều giai đoạn nhỏ hơn. Quản lý xã hội cần có cách tiếp cận hệ thống tuân thủ các nguyên tắc lịch sử, cụ thể.
2. Quản lý phát triển xã hội
Có rất nhiều khái niệm, cách hiểu khác nhau về quản lý phát triển xã hội. Trong đó, nhìn chung các khái niệm đều thống nhất cách hiểu về quản lý phát triển xã hội là hoạt động có mục tiêu thông qua các công cụ, giải pháp khác nhau, đặc biệt là về chính sách để thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cụ thể, khái niệm quản lý phát triển xã hội theo nghĩa rộng được hiểu là: “quản lý sự phát triển xã hội tổng thể, bao gồm quản lý phát triển kinh tế, quản lý phát triển hệ thống chính trị, quản lý phát triển văn hóa, quản lý phát triển xã hội theo nghĩa hẹp, quản lý phát triển con người, quản lý nguồn lực vật chất nhân tạo, nhất là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội”1. Theo nghĩa này quản lý phát triển xã hội được hiểu là tổng thể các hoạt động quản lý trên toàn bộ các lĩnh vực khác nhau cấu thành một xã hội, trong đó bao gồm
_______________
1. Phạm Ngọc Thanh: Quản lý phát triển xã hội ở Tây Nguyên trong xóa đói, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và y tế, Sđd, tr.24.
18 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
cả các yếu tố về vật chất và phi vật chất. Đồng thời, cũng có thể nhận thấy rằng, vấn đề quan trọng nhất trong quản lý phát triển xã hội là quản lý tổng thể. Đó là quá trình điều tiết các lĩnh vực, các mục tiêu, các phương pháp để đạt được kết quả cao nhất trong phát triển xã hội, bao gồm cả các giải pháp về quản lý phát triển xã hội theo nghĩa hẹp. Trong khi đó, khái niệm quản lý xã hội theo nghĩa hẹp được hiểu là việc quản lý phát triển xã hội theo các lĩnh vực khác nhau hay còn gọi là quản lý các tiểu hệ thống trong hệ
thống tổng thể chung là toàn xã hội.
Quản lý phát triển xã hội là hoạt động có chủ đích, dựa trên các công cụ chính sách và nhiều công cụ khác để đạt mục tiêu vì sự phát triển chung. Trong đó, đặc biệt là các mục tiêu gắn với phát triển bền vững, ổn định xã hội và đảm bảo hạnh phúc cho con người. Do đó, khi đánh giá về hiệu quả quản lý nhà nước đòi hỏi phải đánh giá ở nhiều góc độ
khác nhau. Trong đó, ít nhất phải đánh giá ở góc độ chủ thể quản lý và khách thể của quá trình quản lý. Thông thường, chủ thể của hoạt động quản lý phát triển xã hội chính là cán bộ thực thi đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khách thể của hoạt động quản lý xã hội thường là người dân. Ở một số tình huống cụ thể, việc phân biệt chủ thể và khách thể của quản lý xã hội chỉ mang tính chất tương đối, phụ thuộc vào vai trò và sự tham gia quá trình phát triển xã hội của các bên.
Ở tầm vĩ mô, Nhà nước thực hiện việc quản lý phát triển xã hội thông qua hệ thống chính sách, pháp luật và hệ thống tổ chức nhân sự, bộ máy thực thi. Thông qua việc triển khai thực hiện chính sách có thể đo lường và đánh giá được về
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 19
hiệu quả quản lý phát triển xã hội cũng như mục tiêu phát triển được định hướng. Sự thay đổi về cơ chế, chính sách hay việc thực thi chính sách có thể coi là những biểu hiện để đo lường, đánh giá về hoạt động quản lý xã hội và phát triển xã hội. Nói chung, chủ trương, đường lối, cơ chế, chính sách là những nhân tố đặc biệt quan trọng trong quá trình quản lý phát triển xã hội, thúc đẩy và đảm bảo hiệu quả về quản lý phát triển xã hội.
Như vậy, có thể hiểu quản lý phát triển xã hội là một quá trình liên tục tác động có tính định hướng của chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý, hướng tới các mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể, cũng như vì sự phát triển bền vững của xã hội. Quản lý phát triển xã hội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của toàn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu tiến bộ xã hội, công bằng xã hội.
3. Bất bình đẳng
Sự khác biệt về xã hội tồn tại ở mọi xã hội. Đồng thời, chính sự khác biệt về xã hội là yếu tố tạo nên sự bất bình đẳng1. Vì thế, có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về bất bình đẳng, tùy thuộc vào cách tiếp cận và bối cảnh thực tiễn của vấn đề bất bình đẳng. Nhìn chung, có thể hiểu rằng bất bình đẳng là sự không bằng nhau/hơn kém nhau về cơ hội/lợi ích/địa vị/của cải... giữa các cá nhân trong xã hội. Do vậy, khi đề cập tới bất bình đẳng, cần phải quan tâm tới các vấn đề như: cơ hội, địa vị, ảnh hưởng chính trị và việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng xã hội phải được xem xét trong những
_______________
1. Xem G. Endruweit, G. Trommsdorff: Từ điển xã hội Oxford, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012, tr.31.
20 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
bối cảnh lịch sử cụ thể1. Bất bình đẳng không chỉ là vấn đề giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội mà còn là vấn đề giữa các nhóm, các khu vực, vùng miền, giữa các dân tộc...
4. Phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội là hiện tượng phổ biến ở các xã hội do đó, khái niệm phân tầng xã hội là một khái niệm rất phổ biến. Về mặt thuật ngữ, phân tầng xã hội chỉ sự phân chia cá nhân thành các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Tuy nhiên, đây chỉ là một dạng biểu hiện bên ngoài của phân tầng xã hội vì sự đấu tranh, tương tác, chuyển hóa giữa các tầng liên tục diễn ra trong quá trình phát triển xã hội. Phân tầng xã hội nhìn chung thường gắn liền với bất bình đẳng xã hội2. Phân tầng xã hội gắn với các vấn đề liên quan tới quan hệ xã hội cũng như quá trình phát triển xã hội. Thực tế, phân tầng xã hội không chỉ là các vị trí của cá nhân mà còn liên quan tới vị trí của các nhóm xã hội, nhóm dân tộc... Điều này đặc biệt đáng chú ý khi nhìn nhận ở góc độ vĩ mô gắn với quản lý phát triển xã hội.
5. Xung đột xã hội
Quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở một khía cạnh nào đó là quá trình nảy sinh, phát triển và giải quyết các mâu thuẫn/xung đột xã hội. Do đó, quản lý phát triển xã hội cũng là quá trình quản lý và giải quyết các
_______________
1. Xem Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Đồng chủ biên): Xã hội học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2010, tr.224-227.
2. Xem G. Endruweit, G. Trommsdorff: Từ điển xã hội học Oxford, Sđd, tr.407.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 21
xung đột xã hội. Về mặt khái niệm, có nhiều cách hiểu khác nhau về xung đột xã hội, thậm chí là đối lập nhau. Sự khác biệt về khái niệm chủ yếu là do cách tiếp cận của các bên khác nhau đối với vấn đề xung đột xã hội. Tuy nhiên, điểm chung của các khái niệm này đều thống nhất rằng xung đột xã hội là một hiện tượng tất yếu của quá trình phát triển xã hội1. Theo George Ritzer - nhà xã hội học người Mỹ (1940), xung đột xã hội về bản chất là xung đột về lợi ích, giá trị giữa các cá nhân trong quá trình tương tác xã hội: “Xung đột xã hội là sự đối đầu công khai, là mâu thuẫn giữa hai hoặc nhiều hơn nữa chủ thể và người tham gia vào tương tác xã hội mà nguyên nhân là sự bất đồng về nhu cầu, lợi ích và giá trị”2. Theo Phan Xuân Sơn, xung đột xã hội có nhiều biểu hiện, cấp độ khác nhau nhưng đều dẫn tới sự đấu tranh giữa các bên trong các quan hệ, trong sự tương tác xã hội: “Xung đột xã hội là sự mâu thuẫn, đối lập, bất đồng, xung khắc về lợi ích, ý kiến, quan điểm... dẫn đến sự đấu tranh với các hình thức, quy mô và mức độ khác nhau, từ các phía trong các quan hệ đó”3.
6. Chủ thể quản lý phát triển xã hội
Trong quản lý nói chung và trong quản lý phát triển xã hội nói riêng luôn tồn tại các mối quan hệ giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý. Mối quan hệ này được thể hiện, điều
_______________
1. Xem G. Endruweit, G. Trommsdorff: Từ điển xã hội học, Sđd, tr.890. 2. Xem Phan Văn Hùng: Một số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.50. 3. Phan Xuân Sơn: Lý thuyết xung đột xã hội và quản lý, giải tỏa xung đột xã hội ở Việt Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014, tr.46.
22 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
tiết, thực thi thông qua các phương thức và công cụ quản lý. Ở góc độ quản lý phát triển xã hội, phương thức và công cụ quản lý chính là đường lối, hệ thống chính sách, pháp luật
được chủ thể quản lý thực hiện với đối tượng quản lý. Thông thường, trong quản lý nói chung luôn có rất nhiều các yếu tố cấu thành như: (1) chủ thể quản lý, (2) khách thể quản lý, (3) đối tượng quản lý, (4) mục tiêu quản lý, (5) phương thức và công cụ quản lý... Do đó, quản lý là một hoạt động rất phức tạp liên quan tới các yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Đối với quản lý phát triển xã hội, sự phức tạp có lẽ ở mức độ cao nhất trong số các hình thức quản lý. Hoạt động quản lý phát triển xã hội thông thường được hiểu gắn liền với quản lý nhà nước, tuy nhiên quản lý phát triển xã hội thường được hiểu rộng hơn. Đồng thời trong quản lý nhà nước lại bao gồm cả quản lý hành chính nhà nước và các nội dung quản lý khác.
Trong quản lý phát triển xã hội, chủ thể quản lý rất đa dạng, bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức và người dân. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể đặc biệt quan trọng của hoạt động quản lý phát triển xã hội bởi Nhà nước có trách nhiệm trong việc xác định và ban hành các chính sách, thực thi các chính sách phát triển xã hội theo mục tiêu đặt ra. Nhà nước cũng đảm bảo việc cân đối và hài hòa giữa quá trình phát triển kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện các chính sách về an sinh và trợ giúp xã hội để giảm bất bình đẳng, giảm phân tầng xã hội, đảm bảo an ninh con người cho người dân. Việc xây dựng và thực thi các chính sách đúng của Nhà nước sẽ giúp nâng cao hiệu quả của hoạt động phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Ngược lại, nếu các chính sách và việc thực thi
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 23
chính sách kém hiệu quả chắc chắn sẽ gây ra nhiều vấn đề trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Tuy nhiên, trong mọi xã hội, ngoài vai trò của Nhà nước không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của các tổ chức xã hội, đặc biệt là các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức cộng đồng... Trong các tổ chức này, nhiều tổ chức là cánh tay nối dài của các cơ quan nhà nước, nhiều tổ chức là cầu nối, kết nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước và người dân. Mặt khác, trong thực tiễn phát triển xã hội, nhiều vấn đề, nhu cầu của xã hội đòi hỏi phải có sự tham gia giải quyết, thực hiện của các tổ chức xã hội thay vì các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng cũng đóng vai trò là các chủ thể vô cùng quan trọng trong quản lý phát triển xã hội. Ngoài Nhà nước và các tổ chức xã hội, Nhân dân chính cũng là chủ thể của hoạt động quản lý phát triển xã hội. Quan điểm của Đảng ta là xây dựng xã hội của dân, do dân, vì dân. Vì thế, quyền làm chủ của người dân nói chung và trong vai trò chủ thể quản lý phát triển xã hội luôn được tôn trọng và đề cao. Để thực thi tốt vai trò chủ thể của người dân trong quản lý phát triển xã hội, những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách quan trọng về phát huy quyền làm chủ của người dân, ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở và hàng loạt các chính sách khác có liên quan. Như vậy có thể thấy rằng, chủ thể quản lý phát triển xã hội theo quan điểm của Đảng ta là rất đa dạng, trong đó nhấn mạnh tới vai trò của Nhân dân, các tổ chức cộng đồng, tổ chức ngoài cơ quan nhà nước. Điều đó có nghĩa rằng, trong quản lý phát triển xã hội, Đảng ta đã chú ý tới các giải pháp, phương thức để đảm bảo sự cân bằng, hài hòa về vai trò của các chủ thể để từ đó tránh các nguy cơ
24 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
về lạm dụng vai trò, quyền lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý phát triển xã hội.
7. Đối tượng/đối tác của quản lý phát triển xã hội
Đối tượng quản lý phát triển xã hội rất đa dạng, tùy thuộc vào các lĩnh vực quản lý phát triển xã hội khác nhau sẽ có các nhóm đối tượng khác nhau. Các đối tượng này cũng có thể được phân loại thành đối tượng trực tiếp và đối tượng gián tiếp. Tuy nhiên, trong quản lý phát triển xã hội, đối tượng của quản lý cũng có thể được coi là đối tác. Nói cách khác, đối tác quản lý không chỉ là đối tượng chịu sự
quản lý mà còn có sự trao đổi và tương tác với chủ thể quản lý. Thực tế, trong khoa học quản lý, mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng chỉ mang tính chất tương đối, nếu nhìn bên ngoài, có thể là mối quan hệ có tính chất xung đột, tuy nhiên đây lại là mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Nếu không có đối tượng để quản lý thì cũng sẽ không có chủ thể quản lý và ngược lại. Việc coi các đối tượng quản lý phát triển xã hội là các đối tác của chủ thể trong quản lý phát triển xã hội là một trong những quan điểm tiến bộ, thể hiện những bước phát triển tích cực trong tư duy của Đảng và Nhà nước về quản lý phát triển xã hội. Trong số các đối tượng/đối tác của quản lý phát triển xã hội, doanh nghiệp là nhân tố chủ chốt. Trong thực tiễn, hoạt động quản lý phát triển xã hội bao gồm rất nhiều các lĩnh vực khác nhau, lĩnh vực kinh tế đóng vai trò xương sống để nâng đỡ, thúc đẩy các lĩnh vực khác. Cũng vì thế, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, là đối tác trong quản lý phát triển xã hội của Nhà nước, các tổ chức xã hội và của Nhân dân: “Đối tác của
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 25
các chủ thể quản lý phát triển xã hội là doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch vụ và gia đình”1.
Trong nhiều năm qua, nhận thức về tầm quan trọng của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước đã được Đảng ta không ngừng nâng cao, thể hiện qua các văn kiện Đại hội Đảng và nhiều chiến lược, chính sách khác có liên quan, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân/kinh tế tư nhân. Điều này có nghĩa, vai trò của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói riêng, trong phát triển xã hội nói chung ngày càng được nâng cao và được tạo mọi điều kiện để đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Việt Nam vẫn đang tiếp tục trên con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó rất cần phải phát triển được cộng đồng doanh nghiệp lớn mạnh để đóng góp về kinh tế và giải quyết được hàng loạt các vấn đề khác về xã hội, môi trường... đặt ra trong quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Tương tự như các doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch vụ xã hội cũng là một đối tượng/đối tác quan trọng trong quản lý phát triển xã hội, đáp ứng đa dạng các nhu cầu của quá trình phát triển. Ngoài các đối tượng/đối tác nêu trên, trong quản lý phát triển xã hội, không thể không nhắc tới gia đình bởi gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình kết nối các cá nhân với xã hội, kết nối các chủ thể và khách thể của quản lý phát triển xã hội. Sự phồn vinh, hạnh phúc, phát triển của các gia đình chính là thước đo về hiệu quả phát
_______________
1. Đoàn Minh Huấn: “Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Đại hội XII của Đảng”, http://tapchicongsan. org.vn, ngày 15/12/2017.
26 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của các quốc gia. Bên cạnh gia đình, mỗi người dân vừa đóng vai trò là chủ thể quản lý phát triển xã hội, vừa là đối tượng/đối tác của hoạt động này. Do đó, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội xét cho cùng là phát triển vì con người. Vì vậy, quan điểm lấy dân làm gốc của Đảng chính là quan điểm then chốt trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của nước ta.
8. Phương thức và công cụ quản lý
Trong quản lý phát triển xã hội, chủ thể, đối tượng, đối tác quản lý rất đa dạng và có mối quan hệ đan xen với nhau. Vì vậy, để đảm bảo được hiệu quả quản lý phát triển xã hội cần phải có các phương thức tổ chức và công cụ quản lý phù hợp. Trong đó, đặc biệt là vấn đề kết hợp hài hòa giữa các phương thức và công cụ quản lý. Vai trò và nguồn lực của Nhà nước là rất quan trọng. Tuy nhiên, Nhà nước không thể
một mình thực hiện tất cả các công việc trong quản lý phát triển xã hội mà cần phải có sự tham gia của các chủ thể, các đối tác khác. Vì thế, Nhà nước cần có phương thức, công cụ phù hợp để thực hiện, điển hình như các cơ chế, chính sách về xã hội hóa, thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ xã hội, hợp tác công tư... Việc thực hiện các phương thức quản lý phát triển xã hội mới này bên cạnh các phương thức quản lý xã hội đặc trưng khác của Nhà nước, chính là chìa khóa để giải quyết vấn đề quản lý phát triển xã hội. Cũng cần phải nói thêm rằng, các phương thức quản lý cần phải linh hoạt và phải có sự đánh giá, giám sát để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp bởi thực tiễn phát triển xã hội cho thấy nhiều chính sách xã hội hóa, hợp tác công tư còn tồn tại nhiều vấn đề, gây ra
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 27
các tổn hại cho các bên cũng như cho quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
II- LÝ THUYẾT VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
Trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội có rất nhiều nhân tố khác nhau. Do đó, các lý thuyết liên quan tới các nhân tố này cũng rất đa dạng và phong phú. Điều này cho thấy, việc quản lý phát triển xã hội đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt các chính sách dựa trên đường lối định hướng chung và việc đánh giá, tổng kết thực tiễn. Nói cách khác, việc quản lý phát triển xã hội cần dựa trên các quan điểm lý luận kết hợp linh hoạt với các bằng chứng thực tiễn sinh động để đảm bảo sự phát triển xã hội hài hòa, bền vững.
1. Lý thuyết về bất bình đẳng
Bất bình đẳng là một hiện tượng tồn tại phổ biến trong các xã hội. Do đó, có rất nhiều lý thuyết và lý giải khác nhau về bất bình đẳng đã được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu, các học giả. Vì vậy, có thể chia các lý thuyết về bất bình đẳng thành các nhóm khác nhau phụ thuộc vào quan điểm, cách tiếp cận của các tác giả.
Có khá nhiều các học giả giải thích vấn đề bất bình đẳng ở góc độ tự nhiên, thường liên quan tới vấn đề bất bình đẳng giới, ví dụ như quan điểm của Aristotle (384 - 322 TCN) và bản chất thống trị của đàn ông và bị trị của đàn bà như là một luật lệ tự nhiên1. Theo Durkheim - nhà xã hội học
_______________
1. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Đồng chủ biên): Xã hội học, Sđd, tr.226.
28 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
người Pháp, bất bình đẳng có liên quan tới vấn đề nhận thức, bối cảnh và tất nhiên là năng lực cá nhân. Về yếu tố năng lực cá nhân, quan điểm của Durkheim cũng giống như các tác giả theo trường phái đặc điểm sinh học. Trong khi đó, về
nhận thức xã hội, theo Durkheim trong những bối cảnh nhất định sẽ có những giá trị riêng được chú trọng như vật chất, tôn giáo... do đó sẽ làm nảy sinh các vấn đề về bất bình đẳng1. Mặc dù vậy, nói về bất bình đẳng xã hội, theo các nhà nghiên cứu, trọng tâm là bất bình đẳng về kinh tế. Trong công trình Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng năm 1753, Jean Jacques Rousseau (1712 - 1788) khẳng định nguồn gốc của bất bình đẳng gắn với vấn đề tư hữu tài sản. Nói cách khác, bất bình đẳng có nguyên nhân căn bản từ chế độ tư hữu tài sản và có thể xóa bỏ.
Trong các nghiên cứu của mình C. Mác cũng đưa ra nhiều quan điểm lý thuyết về bất bình đẳng xã hội. Trong đó, cơ sở của các quan điểm của C. Mác chính là vấn đề giai cấp. Vì thế C. Mác cũng là người có nhiều quan điểm lý thuyết về phân tầng xã hội. Theo C. Mác, các yếu tố về giai cấp ảnh hưởng, tạo ra sự bất bình đẳng xã hội. Sự bất bình đẳng này xuất phát từ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, để giải quyết vấn đề bất bình đẳng cần thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. “Nguyên nhân của xung đột, suy cho cùng là vị trí của tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội là lợi ích kinh tế”2.
_______________
1. Xem Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Đồng chủ biên): Xã hội học, Sđd, tr.224.
2. Phạm Xuân Sơn: Lý thuyết xung đột xã hội và quản lý, giải tỏa xung đột xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.22.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 29
Ở một góc độ khác, Max Weber - nhà xã hội học người Đức cho rằng ngoài các yếu tố kinh tế, còn có nhiều yếu tố khác dẫn tới bất bình đẳng, ví dụ như quyền lực hay uy tín xã hội. Như vậy, nguồn gốc của bất bình đẳng cần phải được xem xét trong những bối cảnh cụ thể. Weber cũng cho rằng, yếu tố thị
trường đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra sự khác biệt, sự bất bình đẳng giữa các cá nhân. Nói cách khác, những cá nhân có năng lực thị trường tốt có thể có điều kiện phát triển tốt hơn so với các cá nhân khác. “Hai yếu tố khác như là uy tín địa vị và ảnh hưởng chính trị cũng đóng vai trò quan trọng, chẳng hạn một người nào đó có thể nghèo mà vẫn có thể
nắm giữ nhiều quyền lực và uy tín xã hội (trường hợp mẹ Theresa) hay các chủ khách là người có quyền lực lớn nhưng họ không phải là người có thu nhập cao trong xã hội”1.
2. Lý thuyết về phân tầng xã hội
Quan điểm của C. Mác về phân tầng xã hội là quan điểm liên quan đến vấn đề giai cấp. Theo đó, sự phân tầng xã hội thể hiện rất rõ giữa các nhà tư bản với công nhân thể hiện ở của cải, quyền lực, vị trí. Sự khác biệt giữa nhà tư bản và công nhân ở các nhân tố trên xuất phát từ sự khác biệt trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ chức sản xuất và trong phân phối, thụ hưởng sản phẩm. Sự khác biệt này dẫn tới sự phân tầng giữa các nhóm, tạo ra phân tầng xã hội, phân chia xã hội thành các nhóm đối kháng. Do đó, tất yếu nảy sinh các xung đột, đấu tranh. Vì thế, sự phân tầng xã hội sẽ dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột xã hội.
_______________
1. Phạm Xuân Sơn: Lý thuyết xung đột xã hội và quản lý, giải tỏa xung đột xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.32.
30 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Quan điểm lý thuyết của Weber về phân tầng xã hội chủ yếu xoay quanh các vấn đề về địa vị, giai cấp và đảng phái. Trong đó, các yếu tố tạo ra sự phân tầng xã hội là phức tạp hơn các yếu tố thuần túy về kinh tế. Do vậy, các nhà nghiên cứu theo quan điểm lý thuyết của Weber thường sử dụng địa vị kinh tế - xã hội để mô tả về các vị trí trong hệ thống phân tầng xã hội. Quan điểm lý thuyết về phân tầng xã hội của Weber nhìn chung gắn với nhiều yếu tố khác nhau, trong đó ngoài tầm quan trọng của yếu tố kinh tế còn có vai trò của các yếu tố phi kinh tế đối với vấn đề phân tầng xã hội1.
3. Lý thuyết về xung đột xã hội
Xung đột xã hội là một vấn đề có nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau. Trong đó, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xung đột là một hiện tượng tất yếu, khách quan trong quá trình vận động và phát triển. Trong bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng như trong xã hội đều tồn tại sự khác biệt. Sự khác biệt này tùy thuộc vào bối cảnh, nhân tố tác động cụ
thể mà chuyển hóa thành mâu thuẫn. Các mâu thuẫn tiếp tục phát triển trở thành các mặt đối lập. Từ đó, dẫn tới sự xung đột giữa các mặt đối lập. Đỉnh điểm của quá trình xung đột sẽ dẫn tới sự chuyển hóa của các mặt đối lập và mâu thuẫn sẽ được giải quyết. Mặc dù vậy, sự ổn định là tương đối còn sự vận động mới là tuyệt đối, vì vậy xung đột diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng và đó là yếu tố thúc đẩy sự vận động và phát triển xã hội. Theo quan điểm của R. Dahrendorf - nhà xã hội học người Đức, xung đột xã hội cần phải được giải tỏa vì nếu _______________
1. Xem Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (Đồng chủ biên): Xã hội học, Sđd, tr.227.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 31
không, xung đột xã hội sẽ giống như khối u ác tính trong cơ thể xã hội1. Tuy nhiên, việc giải tỏa xung đột xã hội không hề đơn giản. Một số lý thuyết về xung đột xã hội cho rằng việc tạo ra các xung đột xã hội đều là các hành vi có chủ đích. Do vậy, trong quá trình giải quyết các xung đột xã hội phải tìm hiểu rõ về các nguyên nhân, mục đích dẫn tới xung đột xã hội. Đây chính là chìa khóa để xử lý vấn đề xung đột xã hội.
4. Một số lý thuyết quản lý
a) Lý thuyết phát triển kinh tế thị trường và vai trò của nhà nước
Đây là một trong những lý thuyết liên quan trực tiếp tới vấn đề phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Đại diện tiêu biểu cho lý thuyết này là Adam Smith (1723 - 1790) với quan điểm về “bàn tay vô hình”. Theo lý thuyết này, Adam Smith khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của thị
trường trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Để thúc đẩy sự phát triển, Adam Smith cho rằng nhà nước cần phải đảm bảo và tôn trọng thị trường trong việc điều tiết, thúc đẩy các quan hệ kinh tế, sản xuất... Nói cách khác, trong một xã hội phát triển dựa trên nền kinh tế thị trường tự do, vai trò điều tiết của nhà nước là tối thiểu. Lý thuyết này cho tới ngày nay vẫn được coi là một trong những lý thuyết quan trọng về kinh tế cũng như quản lý phát triển xã hội2. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, việc vận dụng lý thuyết
_______________
1. Xem Phạm Xuân Sơn: Lý thuyết xung đột xã hội và quản lý, giải tỏa xung đột xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr.33.
2. Xem A. Smith: Của cải của các dân tộc, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.911.
32 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
này phải phù hợp với thực tiễn của các quốc gia và ngay cả khi vai trò của nhà nước là tối thiểu, thì điều đó cũng thể hiện việc nhà nước đang thực hiện quản lý phát triển xã hội. Thực tế, cuộc khủng hoảng thừa của chủ nghĩa tư bản trong những năm 30 của thế kỷ XX đã cho thấy những vấn đề trong quản lý phát triển xã hội tại các quốc gia này. Cũng từ thực tiễn đó, nhiều quan điểm lý thuyết mới đã ra đời, như quan điểm về sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế của J.M. Keynes (1883 - 1946). Thực tế cho thấy, ở bất kỳ nền kinh tế nào, nhà nước cũng phải đóng vai trò then chốt trong quản lý, điều hành nền kinh tế. Nói cách khác, kể cả khi sử dụng bàn tay vô hình của thị trường để phát triển, quản lý về kinh tế, nhà nước vẫn phải tính tới các phương án, giải pháp để quản lý phát triển xã hội nói chung1. Các quan điểm theo trường phái lý thuyết này gọi là lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp, tiêu biểu là Paul Samuelson (1915 - 2009). Theo Paul Samuelson, trong nền kinh tế thị trường, nhà nước phải đảm bảo thực hiện tốt 4 chức năng là: (1) Thiết lập khuôn khổ pháp luật, đề ra quy tắc trò chơi kinh tế mà mọi người phải tuân theo; (2) Sửa chữa những thất bại của thị trường để nó hoạt động có hiệu quả; (3) Đảm bảo công bằng, khắc phục và hạn chế bất bình đẳng xã hội; (4) Ổn định kinh tế vĩ mô. Đây chính là nguyên tắc để nhà nước phát huy tối đa vai trò của bàn tay vô hình trong phát triển kinh tế, nhưng đồng thời có thể tránh được nhiều rủi ro không chỉ về kinh tế, mà còn về quá trình quản lý phát triển xã hội nói chung.
_______________
1. Xem Robert B. Ekeland JR và Robert F. Hebert: Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2004, tr.515.
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 33
b) Thuyết hiện đại hóa
Lý thuyết về hiện đại hóa tập trung chủ yếu vào các phương thức để giúp cho các nước kém phát triển có thể nhanh chóng bắt kịp với các nước phát triển thông qua việc phát triển về khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm và sử dụng hiệu quả các hỗ trợ từ các nước phát triển. Lý thuyết này đề cao vai trò của nhà nước trong việc xây dựng các chính sách, thực thi các chính sách phù hợp với thực tiễn đất nước và tận dụng tốt các nguồn lực hỗ trợ để phát triển mạnh mẽ. Nói cách khác, lý thuyết này nhấn mạnh vai trò chủ thể của nhà nước trong việc thúc đẩy sự phát triển đất nước. Do đó, muốn phát triển tốt, các nhà nước phải đảm bảo thực hiện tốt việc quản lý phát triển xã hội. Điều này càng đáng chú ý hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Hiện đại hóa cũng đi cùng với những hậu quả xã hội tiêu cực, ảnh hưởng nhiều nhất đến tầng lớp những người nghèo, dễ bị tổn thương. Các lợi thế truyền thống về nguồn tài nguyên không phải là yếu tố quyết định tới sự phát triển của các quốc gia, thay vào đó là hàng loạt các nhân tố khác1. Trong bối cảnh đó, vai trò của quản lý phát triển xã hội càng trở nên vô cùng quan trọng.
c) Thuyết con người kinh tế, con người văn hóa
Trong quản lý, các tiếp cận về “con người luôn đóng vai trò rất quan trọng. Có rất nhiều các học thuyết tiếp cận hành vi con người với những đặc điểm tâm lý, hoặc coi con người _______________
1. Xem G. Endruweit và G. Trommsdorff: Từ điển xã hội học, Sđd, tr.208-209.
34 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
chỉ là con người kinh tế, hoặc nhìn thấy sức mạnh “văn hóa” của con người. Mỗi lý thuyết lại có những đặc trưng khác nhau và lý giải, phân tích các vấn đề liên quan tới quản lý phát triển xã hội với các tiếp cận khác nhau. Trong đó, các nhà nghiên cứu theo thuyết con người kinh tế đề cao vai trò quyết định của yếu tố kinh tế trong việc thực hiện các hoạt động quản lý1. Điều này được coi là phù hợp ở cả phạm vi vi mô cũng như ở phạm vi vĩ mô, liên quan tới quản lý phát triển xã hội quốc gia. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, cần nhiều các điều kiện phù hợp để có thể áp dụng thuyết con người kinh tế vào quản lý và trong thực tiễn phát triển có rất nhiều yếu tố có tác động và ảnh hưởng lớn tới các quyết định, các hoạt động quản lý. Do đó, việc tuyệt đối hóa về yếu tố kinh tế trong quản lý không phải lúc nào cũng phù hợp.
Sự thiếu hụt của thuyết con người kinh tế được bù đắp bởi các trường phái khác, trong đó có thuyết con người văn hóa2. Trường phái này xuất hiện trong mô hình quản lý của các nước Đông Bắc Á là Nhật Bản, Hàn Quốc và được xác định là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng, tạo ra sự phát triển vượt bậc trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội tại hai quốc gia này. Thuyết con người văn hóa là bằng chứng cho thấy yếu tố kinh tế rất quan trọng, nhưng các yếu tố phi kinh tế cũng quan trọng không kém nếu được sử dụng đúng cách trong quản lý phát triển.
_______________
1. Xem F. Taylor: “Thuyết quản lý theo khoa học”, H. Fayol: “Thuyết quản lý hành chính”, in trong Nguyễn Thị Doan và cộng sự: Các học thuyết quản lý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.83-124.
2. Nguyễn Thị Doan và cộng sự: Các học thuyết quản lý, Sđd, tr.228-243).
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 35
Đây cũng là lý thuyết có khả năng áp dụng vào thực tiễn Việt Nam cả ở cấp độ vi mô và vĩ mô. Trong điều kiện của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, thuyết con người tri thức, thuyết quản lý xuyên văn hóa đang tiếp tục phát triển mạnh mẽ, được ứng dụng ở nhiều quốc gia, ở nhiều tổ
chức khác nhau.
d) Thuyết quan hệ xã hội
Thuyết quan hệ xã hội cũng là một trường phái khác biệt đối với thuyết con người kinh tế trong phát triển và quản lý. Theo lý thuyết này, yếu tố quan hệ xã hội có vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất lao động, thúc đẩy sự sáng tạo, nâng cao hiệu quả quản lý1. Do đó, trong quản lý cần phải chú trọng phát triển hài hòa các phương pháp và cách thức khác nhau, cho dù phương pháp kinh tế có vai trò rất quan trọng. Đây chính là việc phải chú trọng phát triển và xây dựng môi trường làm việc, thúc đẩy các liên kết, tương tác xã hội giữa các thành viên... Nhìn rộng ra, ở tầm vĩ mô, thuyết này hướng tới sự đa dạng, hài hòa trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội bên cạnh các chính sách về phát triển kinh tế bởi đôi khi thực hiện các chính sách về xã hội có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với việc triển khai các chính sách về kinh tế thiếu tính toán. Các lý thuyết cũng chỉ rõ vai trò to lớn của “vốn xã hội” trong quá trình phát triển và quản lý phát triển xã hội.
_______________
1. Xem Hồ Văn Vĩnh: Một số vấn đề về tư tưởng quản lý, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.162-176.
36 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
đ) Thuyết tổng hợp - thích nghi
Cuối thế kỷ XX, với sự phát triển của khoa học - công nghệ và nhiều nhân tố khác đã xuất hiện những yếu tố của một xã hội hậu công nghiệp. Một quá trình chuyển đổi mạnh mẽ trên nhiều phương diện xã hội đã diễn ra. Các nhà tư
tưởng thời kỳ này gọi nó là thời đại của những biến động không tuyến tính, của những thay đổi không lường trước được, của những “cơn bão” dữ dội trên nhiều lĩnh vực. Theo họ, để có thể thích nghi với những biến đổi đó, phải thay đổi những thói quen, những giả định đã có, chuẩn bị cho những nhận thức và hành vi mới. Chính P. Drucker (1909 - 2005), cây đại thụ lớn nhất của lịch sử tư tưởng quản lý thế kỷ XX, đã trình bày rõ những thách thức của quản lý trong thời đại khủng hoảng và trong thế kỷ XXI. Ông cũng chỉ ra rằng, chỉ có thể tổng hợp những tinh hoa của quá khứ, thay đổi toàn bộ những tư duy cũ, sáng tạo ra những cách quản lý mới, dần dần chúng ta có thể thích nghi được trong môi trường không ngừng biến đổi ngày nay, nhất là trong điều kiện của lao động tri thức thuộc nền kinh tế tri thức, trong quá trình toàn cầu hóa và kết nối mạng1. Nhiều nhà tư tưởng khác cũng đã cảnh báo chúng ta về một cách tư duy mới, “tư duy lại tương lai”, nhìn nhận các vấn đề phát triển xã hội theo một cách thức hoàn toàn mới.
_______________
1. Xem P. Drucker: Tinh hoa quản trị của Drucker, Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2008, tr.97-127 (Khung mẫu mới của quản trị).
37
Chương II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I- THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI TRONG CÁC LĨNH VỰC LAO ĐỘNG VIỆC LÀM, BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM Y TẾ, BẢO TRỢ XÃ HỘI
1. Lao động việc làm
An sinh xã hội là lĩnh vực mà các tổ chức đảng ở các địa phương đặc biệt coi trọng trong công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và chỉ đạo, điều hành. Chẳng hạn, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã nhấn mạnh: “Thực hiện tốt hơn nữa công tác an sinh xã hội, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân”1. Ở
Đắk Lắk, vai trò của Đảng cũng thể hiện rõ trong lĩnh vực
_______________
1. Kết quả Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ X, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
38 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
này, cụ thể là Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã khẳng định: “Giải quyết có hiệu quả các vấn đề lao động việc làm... Giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là lao động, việc làm, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao thu nhập cho người lao động; chất lượng sống của nhân dân”1. Tại Hà Nội, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội cũng nhấn mạnh: “Triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách xã hội, tập trung cho mục tiêu giảm nghèo bền vững, tăng giàu, nâng cao phúc lợi xã hội, hướng tới phát triển bền vững...”2. Nói tóm lại, vai trò của các tổ chức đảng ở các địa phương trong quản lý phát triển xã hội trên phương diện lao động việc làm luôn được nhấn mạnh trong các văn bản, tài liệu chính thức. Trên thực tế, lĩnh vực lao động việc làm ở nhiều địa phương được thực hiện và đạt được những kết quả
quan trọng. Chẳng hạn ở Hà Nội, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội đã khẳng định: “Bình quân mỗi năm đào tạo nghề, truyền nghề cho trên 15 vạn lao động và giải quyết việc làm cho 14 vạn lượt lao động; tỷ lệ thất nghiệp còn dưới 4,8%”3. Tại tỉnh Quảng Trị, lĩnh vực an sinh xã hội cũng đạt được nhiều kết quả
quan trọng. Năm 2016, toàn tỉnh Quảng Trị đã giải quyết
_______________
1. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
2, 3. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 39
việc làm cho khoảng 10.600 lượt lao động (đạt 112% kế hoạch). Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm còn 3,6%1. Như vậy, từ một địa phương lớn là thủ đô đến một địa phương có quy mô dân số, kinh tế nhỏ hơn là Quảng Trị đều đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong lĩnh vực lao động, việc làm. Tuy vậy, nhiều vấn đề cũng đặt ra liên quan đến lao động việc làm, trước hết, là công tác dạy nghề. Kết quả khảo sát về việc hỗ trợ học nghề cho lao động tại địa phương được trình bày qua biểu đồ dưới đây:
Đánh giá của cán bộ về hỗ trợ học nghề
cho lao động tại địa phương
Đơn vị: %
50 40 30 20 10 0
36,6
45,1
14,6
3,7
Tốt Bình thường Chưa tốt Không biết về dịch
vụ hỗ trợ học nghề
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Kết quả khảo sát với nhóm cán bộ tại các địa phương cho thấy, hầu hết đều cho rằng sự hỗ trợ học nghề cho lao động _______________
1. Báo cáo Tình hình thực hiện công tác lao động - người có công và xã hội năm 2016, kế hoạch công tác năm 2017 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Trị.
40 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
tại địa phương hiện nay là tốt (36,6%) và bình thường (45,1%). Bên cạnh đó, vẫn có hơn 1/6 số người được khảo sát đánh giá chưa tốt (14,6%). Ngoài ra, một tỷ lệ nhỏ người tham gia trả lời câu hỏi cho biết họ không biết thông tin gì về các dịch vụ hỗ trợ học nghề của địa phương. Điều này cho thấy có sự đánh giá khá đa dạng về sự hỗ trợ học nghề cho lao động tại địa phương, một bộ phận lớn ý kiến nhìn nhận khá tích cực, nhưng vẫn còn một bộ phận không nhỏ ý kiến cho rằng sự hỗ trợ học nghề cho lao động tại địa phương là chưa tốt.
Cán bộ đánh giá lý do hỗ trợ học nghề
cho lao động tại địa phương chưa tốt
Đơn vị: %
54,1
Thông tin về chính sách chưa được phổ biến rõ ràng
Hỗ trợ chính sách đem lại chưa đáp ứng nhu cầu
50,2
Thái độ, cách làm việc của cán bộ thực hiện chính sách chưa tốt
3,3
Thủ tục chưa thuận tiện
25,8
0 10 20 30 40 50 60
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Liên quan đến các lý do mà những người tham gia khảo sát là cán bộ có ý kiến về sự hỗ trợ học nghề cho lao động tại địa phương chưa tốt là một vấn đề mà cuộc khảo sát quan tâm. Cụ thể, hơn một nửa số người trả lời cho rằng lý do quan trọng nhất việc hỗ trợ học nghề cho lao động tại
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 41
địa phương chưa tốt là do thông tin về chính sách chưa được phổ biến rõ ràng (54,1%). Bên cạnh đó, lý do quan trọng thứ hai cũng chiếm khoảng 1/2 số người khảo sát lựa chọn là do sự hỗ trợ chính sách đem lại chưa đáp ứng nhu cầu (50,2%). Ngoài ra hơn 1/4 ý kiến cho rằng lý do mà sự
hỗ trợ học nghề cho lao động tại địa phương chưa tốt là do thủ tục chưa thuận tiện (25,8%). Đồng thời một trong những lý do chiếm tỷ lệ không đáng kể là thái độ, cách làm việc của cán bộ thực hiện chính sách chưa tốt (3,3%). Một trong những điểm đáng lưu ý mà nghiên cứu quan tâm là vai trò của các cá nhân hay tổ chức trong việc giới thiệu việc làm cho người lao động tại địa phương, thể hiện qua số liệu khảo sát dưới đây:
Ý kiến của cán bộ về người, tổ chức
có vai trò quan trọng trong việc giới thiệu việc làm cho người lao động
Đơn vị: %
Trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc Nhà nước
Trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc nhà nước Trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước Trung tâm dịch vụ việc làm của nhà nước Người làm việc cùng cơ quan, tổ chức Người làm việc cùng cơ quan, tổ chức Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Các tổ chức chính trị - xã hội
16,5
21,4
26
35,1
Các tổ chức chính trị xã hội Chính quyền địa phương Chính quyền địa phương Bạn bè
Bạn bè
Hàng xóm, láng giềng Hàng xóm láng giềng
Anh em họ hàng
Anh em họ hàng
23,4
29,1
39,4
42,9
42
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
42 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Biểu đồ trên cho thấy, một bộ phận khá lớn cán bộ được hỏi cho rằng anh em họ hàng, bạn bè là những người có vai trò quan trọng nhất trong việc giới thiệu việc làm cho người lao động, chiếm tỷ lệ lần lượt là 42,0% và 42,9%. Bên cạnh đó, khoảng 1/3 những cán bộ khảo sát lại cho rằng hàng xóm, láng giềng là những người giới thiệu việc làm cho họ (29,1%), trong khi đó, khoảng 1/5 cán bộ khảo sát cho rằng đó là những người làm việc cùng cơ quan, tổ chức (21,4%). Đối với các tổ chức xã hội, qua biểu đồ trên cho thấy chính quyền địa phương là tổ chức có vai trò giới thiệu việc làm chủ yếu, chiếm đến 39,4% số người được hỏi, trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước là tổ chức đóng vai trò trong việc giới thiệu việc làm được người khảo sát đánh giá chiếm 35,1%. Bên cạnh đó, có 26,0% số cán bộ tham gia khảo sát cho rằng các tổ chức xã hội nghề nghiệp đóng vai trò giới thiệu việc làm cho các lao động tại địa phương của họ. Tổ chức xã hội có vai trò thấp nhất là các tổ chức chính trị - xã hội, chiếm tỷ lệ 23,4%.
Như vậy, kết quả nghiên cứu có thể cho thấy một số điểm đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, về vai trò của cá nhân và tổ chức trong việc giới thiệu việc làm cho người lao động tại địa phương hiện nay là khá đa dạng với sự tham gia của nhiều cá nhân và tổ chức xã hội khác nhau.
Thứ hai, các ý kiến đều đánh giá cao về sự tham gia của các cá nhân và tổ chức này trong việc giới thiệu việc làm cho người lao động tại các địa phương.
Thứ ba, vai trò của cá nhân được đề cao hơn vai trò của tổ chức trong việc giới thiệu việc làm, cụ thể trong nghiên cứu này, anh em họ hàng và bạn bè có vai trò quan trọng nhất trong việc giới thiệu việc làm cho người lao động. Điều này
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 43
cũng phù hợp với thực tế xã hội bởi bản thân hoạt động tìm kiếm việc làm là hoạt động của mỗi cá nhân khi họ tham gia vào thị trường lao động, đầu tiên, các cá nhân sẽ vận dụng các mối quan hệ xã hội của mình để tìm kiếm việc làm.
Thứ tư, kết quả khảo sát cũng cho thấy các tổ chức xã hội đang ngày càng nỗ lực phát huy vai trò của mình trong hoạt động giới thiệu việc làm cho người lao động ở các địa phương.
Vấn đề tiếp theo mà cuộc khảo sát quan tâm là người, tổ chức có vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi việc làm cho người lao động. Khảo sát từ nhóm cán bộ lãnh đạo địa phương về vấn đề này cho kết quả định lượng được thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Ý kiến của cán bộ về người, tổ chức
có vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi việc làm cho người lao động
Đơn vị: %
Trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc Nhà nước
Trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc … Trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước Trung tâm dịch vụ việc làm của nhà nước Người làm việc cùng cơ quan, tổ chức
Người làm việc cùng cơ quan, tổ chức Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Các tổ chức chính trị - xã hội
Các tổ chức chính trị xã hội
Chính quyền địa phương
Chính quyền địa phương
Bạn bè
Bạn bè
Hàng xóm, láng giềng
Hàng xóm láng giềng
Anh em họ hàng
Anh em họ hàng
17,1
19,4
25,4
27,1
27,4
32,3
31,1
33,1
42,3
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Biểu đồ trên cho thấy tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi việc làm của người lao động là chính
44 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
quyền địa phương, chiếm tỷ lệ 42,3%, trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước chiếm tỷ lệ 32,3%, các tổ chức xã hội nghề nghiệp là 31,1%, các tổ chức chính trị - xã hội là 27,1%. Bên cạnh vai trò quan trọng của tổ chức đối với hoạt động chuyển đổi việc làm của người lao động, vai trò của cá nhân trong hoạt động này cũng rất quan trọng. Trong đó vai trò của anh em họ hàng chiếm tỷ lệ cao nhất (33,1%), hơn 1/4 số người khảo sát đánh giá bạn bè là những người đóng vai trò quan trọng trong chuyển đổi việc làm của người lao động (27,4%), khoảng 1/5 ý kiến cho rằng hàng xóm, láng giềng là người đóng vai trò quan trọng trong chuyển đổi việc làm của người lao động (19,4%). Như vậy, so với hoạt động tìm kiếm việc làm thì đối với hoạt động chuyển đổi việc làm, các tổ chức đóng vai trò quan trọng hơn trong việc chuyển đổi việc làm cho người lao động so với các cá nhân.
Vấn đề tiếp theo mà cuộc khảo sát quan tâm là việc thực hiện chính sách chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động địa phương, cụ thể như sau: hơn 1/4 người trả lời (29,4%) cho rằng việc thực hiện chính sách chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động là tốt; hơn 1/2 người trả lời (57,7%) cho rằng việc thực hiện chính sách chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động là bình thường. Tuy nhiên, vẫn còn gần 1/10 số người trả lời (9,7%) đánh giá thực hiện chính sách chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động chưa tốt và 3,1% có ý kiến khác.
Về nguyên nhân việc thực hiện chính sách chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động ở địa phương chưa tốt thì yếu tố quan trọng nhất là do thông tin về chính sách chưa được phổ biến rộng rãi (50,6%); sau đó là do chính sách đem lại chưa đáp ứng nhu cầu (49,8%); ngoài ra còn do thái độ, cách làm việc của cán bộ thực hiện chính sách chưa tốt (5,4%). Như
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 45
vậy, có thể thấy để thực hiện tốt các chính sách về chuyển đổi nghề nghiệp đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ rất nhiều các nhóm chính sách khác nhau, từ các hoạt động truyền thông tới việc tổ chức triển khai chính sách... đặc biệt là vấn đề thái độ, cách thức làm việc của đội ngũ cán bộ. Theo đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế, các chính sách về an sinh xã hội, giảm nghèo nói chung của Việt Nam đều được thiết kế tốt nhưng việc triển khai thực hiện lại chưa tốt. Đây cũng chính là lý do khiến hiệu quả thực thi các chính sách về quản lý phát triển xã hội nói chung đã bị giảm đi trong thực tiễn so với kỳ vọng của Đảng và Nhà nước khi ban hành các chính sách.
Một trong những vấn đề mà cuộc khảo sát quan tâm là ý kiến của người dân về việc hỗ trợ học nghề. Kết quả khảo sát cho thấy, hơn 1/4 người dân cho rằng họ/người thân trong gia đình họ tìm sự giúp đỡ/hỗ trợ học nghề từ anh em họ hàng (26,0%), gần 1/4 người dân tìm sự giúp đỡ từ bạn bè (24,1%), hàng xóm láng giềng, người làm cùng cơ quan, tổ chức chiếm tỷ lệ thấp từ 4,6% đến 6,4%. Đối với việc tìm kiếm sự hỗ trợ
từ các tổ chức, trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Nhà nước là tổ chức hỗ trợ học nghề của người lao động chiếm tỷ lệ cao nhất (18,0%), tiếp theo là tổ chức xã hội nghề nghiệp (11,6%), trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc Nhà nước (9,6%), chính quyền địa phương (8,4%), tổ chức chính trị - xã hội (4,1%). Như vậy, biểu đồ trên cho thấy người dân thường tìm sự giúp đỡ của cá nhân là anh em và bạn bè khi gặp khó khăn trong việc học nghề, chiếm tỷ lệ cao nhất, đối với tổ chức được người dân tìm đến để hỗ trợ họ học nghề là trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Nhà nước chiếm tỷ lệ cao nhất. Hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước, đặc biệt là các trung tâm dịch vụ việc làm của Sở Lao động - Thương
46 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
binh và Xã hội chính là các đơn vị được Nhà nước giao “trọng trách” để thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động, trong đó đặc biệt là giải quyết việc làm và hỗ trợ học nghề.
Liên quan đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề tại các địa phương, cuộc khảo sát đã tìm hiểu ý kiến đánh giá của người dân ở các địa bàn nghiên cứu. Kết quả khảo sát về vấn đề này được minh họa cụ thể qua biểu đồ dưới đây:
Đánh giá của người dân về thực hiện
chính sách hỗ trợ học nghề tại địa phương Đơn vị: %
Không quan tâm chính sách này
Không biết chính sách này
Có thành viên muốn được hỗ trợ nhưng chưa được hỗ trợ
Đã có thành viên trong gia đình nhận được và không thấy hài lòng
Đã có thành viên trong gia đình nhận được và thấy hài lòng
40,4
29,2
4,6
9,2
16,5
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Biểu đồ trên cho thấy liên quan đến chính sách hỗ trợ học nghề tại địa phương có một tỷ lệ khá lớn người dân không quan tâm đến chính sách này (40,4%), có gần 1/3 số người được hỏi không biết đến chính sách này (29,2%). Bên cạnh đó khoảng 1/5 số người được hỏi cho rằng đã có thành viên trong
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 47
gia đình nhận được hỗ trợ từ chính sách này và thấy hài lòng (16,5%), nhưng có gần 1/10 số người trong mẫu khảo sát đánh giá đã có thành viên trong gia đình nhận được hỗ trợ từ chính sách này và không thấy hài lòng. Điều này cho thấy có khá nhiều ý kiến khác nhau về việc thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề tại địa phương nhưng đa số người dân không biết hay không quan tâm đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề ở địa phương. Như vậy, có thể thấy chính sách này không thực sự phát huy hiệu quả của nó trong việc học nghề của người lao động. Câu hỏi đặt ra là lý do tại sao người dân không hài lòng đối với việc thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động ở địa phương? Kết quả khảo sát về vấn đề này được trình bày qua biểu đồ dưới đây:
Ý kiến của người dân về lý do
không hài lòng đối với việc thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động ở địa phương
Đơn vị: %
80 70 60 50 40 30 20 10 0
17
0
73,2
9,8
Thủ tục chưa thuận tiện
Thái độ, cách làm việc của cán bộ thực hiện chính sách chưa tốt
Hỗ trợ chính sách đem lại chưa đáp ứng nhu cầu
Thông tin về chính sách chưa được phổ biến rõ ràng
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
48 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Biểu đồ trên cho thấy một bộ phận lớn người dân tham gia khảo sát cho rằng người lao động không hài lòng đối với việc thực hiện chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động ở địa phương là do việc hỗ trợ chính sách đem lại chưa đáp ứng nhu cầu của người lao động (73,2%), ý kiến về lý do không hài lòng do thủ tục chưa thuận tiện chiếm tỷ lệ 17%, khoảng 1/10 số người được hỏi cho rằng do thông tin về chính sách chưa được phổ biến rõ ràng (9,8%). Điều này cho thấy người dân không đánh giá cao hiệu quả của chính sách hỗ trợ học nghề cho người lao động ở địa phương, điều này là do chính sách hỗ trợ học nghề chưa đáp ứng đúng mong muốn, nguyện vọng của người lao động. Nói cách khác, chính sách hỗ trợ học nghề là rất cần thiết nhưng việc thực hiện chính sách này không đáp ứng đúng nhu cầu của nhóm lợi ích. Đây cũng là tồn tại chung của nhiều chính sách ở nước ta hiện nay.
Một vấn đề tiếp theo đặt ra ở đây là lý do tại sao người dân muốn hưởng thụ chính sách hỗ trợ học nghề nhưng chưa được. Kết quả khảo sát cụ thể về vấn đề này chỉ ra ba lý do chính: trước hết, nhiều người cho là thủ tục khó khăn, phức tạp (chiếm tỷ lệ 45,5%). Bên cạnh đó khoảng 1/3 số người trong mẫu khảo sát lại cho rằng do không biết để
đăng ký (36,4%) và khoảng 1/5 ý kiến cho thấy không đủ giấy tờ để chứng minh thuộc đối tượng của chính sách là trở ngại khiến người lao động muốn hưởng chính sách hỗ trợ học nghề nhưng chưa được (22,7%). Như vậy có thể thấy,
người lao động gặp khá nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với chính sách hỗ trợ học nghề tại địa phương, vì vậy để
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 49
tháo gỡ những khó khăn, người lao động tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cá nhân và tổ chức để giúp đỡ mình trong việc tìm kiếm việc làm hay không là một điểm đáng lưu ý mà nghiên cứu quan tâm. Vấn đề tiếp theo mà cuộc khảo sát quan tâm là ý kiến của người dân về việc tìm kiếm cá nhân, tổ chức hỗ trợ khi thành viên hộ gia đình gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm.
Ý kiến của người dân về việc tìm kiếm
cá nhân, tổ chức hỗ trợ khi thành viên hộ gia đình gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm
Đơn vị: %
Không có ai gặp khó khăn
Không có ai gặp khó khăn
Trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc Nhà nước Trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước
Trung tâm dịch vụ việc làm của nhà nước Người làm việc cùng cơ quan, tổ chức
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Các tổ chức xã hội nghề nghiệp
Tổ chức chính trị - xã hội
Chính quyền địa phương
8,6
3,1
11,7 11
22
19,1
Chính quyền địa phương Bạn bè
Hàng xóm, láng giềng
Hàng xóm láng giềng
Anh em họ hàng
Không ai giúp, tự khắc phụcKhông ai giúp, tự khắc phục
9,3
10,6
29
28,3
26,6
0 5 10 15 20 25 30 35
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Biểu đồ trên cho thấy, liên quan đến việc người lao động tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cá nhân và tổ chức để tìm kiếm việc làm. Cụ thể là trong số 700 người tham gia trả lời có khoảng hơn 1/5 người dân tham gia khảo sát cho rằng họ không gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, bên cạnh đó có khoảng hơn 1/4 số người được hỏi cho rằng khi bản thân họ
50 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
hoặc thành viên trong gia đình gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm không ai hỗ trợ hay giúp đỡ họ (26,6%). Như vậy, khoảng 1/2 số người được hỏi cho rằng họ không nhận được sự giúp đỡ hoặc không có nhu cầu tìm kiếm các cá nhân hay tổ chức giúp đỡ trong tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, có 1/2 số người tham gia khảo sát cho rằng họ đã tìm kiếm sự hỗ trợ từ cá nhân hay tổ chức để tìm kiếm việc làm. Trong đó, đối với việc tìm kiếm sự giúp đỡ của cá nhân, những người có thể hỗ trợ họ tìm kiếm việc làm cao nhất là bạn bè (29,0%), anh em họ hàng (28,3%), hàng xóm, láng giềng (10,6%), tiếp đến là người làm việc cùng cơ quan, tổ chức (8,6%). Đối với sự giúp đỡ của tổ chức trong việc tìm kiếm việc làm, các tổ chức quan trọng nhất đối với người dân lần lượt là trung tâm dịch vụ việc làm của Nhà nước (19,1%), trung tâm dịch vụ việc làm không thuộc Nhà nước (11,7%), tổ chức xã hội nghề nghiệp (11,0%), chính quyền địa phương (9,3%), tổ chức chính trị xã hội (3,1%). Như vậy có thể thấy có khá nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau mà người dân tìm sự giúp đỡ khi bản thân hoặc thành viên hộ gia đình gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm. Trong đó đối với cá nhân thì vai trò hỗ trợ quan trọng nhất là gia đình và bạn bè, các tổ chức chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm.
Vấn đề tiếp theo mà cuộc khảo sát quan tâm là đánh giá của người dân về chính sách hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Kết quả khảo sát về vấn đề này cho thấy có tới 49,6% người được hỏi cho biết họ không quan tâm chính sách này, 22,3% cho rằng họ không biết chính sách này, đồng thời có
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 51
9,4% cho rằng đã có thành viên trong gia đình nhận được sự hỗ trợ của chính sách và thấy không hài lòng; có thành viên muốn được hỗ trợ nhưng chưa được hỗ trợ chiếm 5,4%. Chỉ có hơn 1/10 số người được hỏi cho rằng đã có thành viên trong gia đình nhận được chính sách và thấy hài lòng (13,0%). Như vậy, số liệu thu được cho phép khẳng định đánh giá của người dân về chính sách hỗ trợ tìm kiếm việc làm khá hạn chế. Một bộ phận lớn người dân không quan tâm và không biết chính sách này.
Liên quan đến lý do muốn thụ hưởng chính sách hỗ trợ tìm kiếm việc làm nhưng không được thụ hưởng, kết quả khảo sát 700 người dân cho thấy: Đa số người trả lời cho rằng họ không biết để đăng ký (71,9%). Hai lý do còn lại là thủ tục khó khăn, phức tạp (16,3%), không có đủ giấy tờ để chứng minh thuộc đối tượng của chính sách (16,8%). Có thể nói rằng, một tỷ lệ cao người dân không biết đến chính sách hỗ trợ tìm kiếm việc làm để đăng ký.
Liên quan đến đào tạo nghề, một trong những khó khăn là việc cấp bằng, chứng chỉ nghề. Chẳng hạn thông tin từ tọa đàm với cán bộ Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ngày 04/8/2017 cho biết nhiều lao động có nghề nhưng không có chứng chỉ nghề, nhất là đối với những nghề có tính chất gia truyền và người lao động học được những nghề này qua con đường truyền nghề, hoặc người lao động tự đi học nghề. Lý do là có nhiều ngành nghề không nằm trong danh mục đào tạo. Hoặc là nhiều lao động tự làm ở các tiệm nail, cắt tóc, sửa xe. Họ có kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp nhưng họ lại không tham gia
52 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
chương trình đào tạo cụ thể nên họ không được cấp chứng chỉ nghề.
Liên quan đến xuất khẩu lao động, nhiều địa phương gặp khó khăn, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các khó khăn này liên quan đến chi phí cho việc đi xuất khẩu lao động, tâm lý e ngại đi xuất khẩu lao động và kiến thức, kỹ năng của người lao động. Tại nhiều địa phương, thất nghiệp và thiếu việc làm là vấn đề đáng quan tâm. Chẳng hạn, nhiều thanh niên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng hoặc các trường nghề nhưng chưa có việc ổn định và họ phải đi làm tự do nên lúc có việc, lúc không. Một vấn đề nữa ở nhiều địa phương là những người được đi học theo diện cử
tuyển nhưng sau khi học xong thì không có việc làm. Thực tế là khi địa phương cử họ đi học đã không tính đến đầu ra, không có chỉ tiêu cho việc tuyển số sinh viên đã tốt nghiệp về lại địa phương làm việc. Tình trạng thiếu việc làm ở một số địa phương còn là do thiếu đất, tuy nhiên, thực tế là nhiều hộ thiếu hoặc ít đất sản xuất, trước đây họ có thể có nhiều đất sản xuất nhưng đất được bán dần cho các hộ gia đình khác. Tóm lại, liên quan đến lao động việc làm, dữ liệu định tính từ khảo sát thực địa tại các địa bàn nghiên cứu đã cho thấy nhiều chiều cạnh phản ánh thực trạng lao động việc làm và những vấn đề đặt ra đối thực tế lao động việc làm ở các địa phương.
2. Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một trụ cột quan trọng của an sinh xã hội, bên cạnh hai trụ cột quan trọng khác là lao động việc
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 53
làm và bảo trợ xã hội. Trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, quá trình khảo sát tại 7 tỉnh, thành phố đã cho thấy nhiều điểm đáng lưu ý phản ánh thực trạng và những vấn đề đặt ra liên quan đến lĩnh vực này.
Cụ thể là gần 3/4 số người được hỏi cho rằng thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc là hợp lý (71,1%), chỉ có hơn 1/4 số người tham gia khảo sát cho rằng thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc là không hợp lý (28,3%). Trong khi đó, với hình thức bảo hiểm xã hội tự
nguyện, hơn 1/2 số người tham gia trả lời cho rằng thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện là hợp lý (58,9%) và 40,3% số cán bộ tham gia khảo sát đánh giá thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện là không hợp lý. Như
vậy, về thời gian giải quyết chế độ thì hình thức bảo hiểm xã hội bắt buộc được đánh giá cao hơn so với thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Về thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, kết quả khảo sát cho thấy, khoảng gần 1/2 số người trả lời cho rằng thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện bình thường (41,4%), hơn 1/4 số người tham gia khảo sát có ý kiến về thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đơn giản (28,6%) và có 13,7% số người được hỏi cho rằng thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện rất đơn giản (28,6%). Tỷ lệ cán bộ cho rằng thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện phức tạp chiếm 16,0% và thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện rất phức tạp (0,6%). Có thể nói rằng một bộ phận lớn cán bộ đánh giá về thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện khá thuận lợi, chỉ một bộ phận nhỏ cho rằng thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện phức tạp.
54 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Ý kiến của cán bộ về chế độ hưu trí đáp ứng nhu cầu của người hưởng
Đơn vị: %
Không biết
Đáp ứng nhu cầu một bộ phận nhỏ người có chế độ hưu trí
Đáp ứng nhu cầu một bộ phận đáng kể người có chế độ hưu trí
Đáp ứng nhu cầu phần lớn người có chế độ hưu trí
5,7
18,9
32,0
43,1
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Khảo sát cho thấy, gần 1/2 số người tham gia khảo sát cho rằng chế độ hưu trí đáp ứng nhu cầu một bộ phận đáng kể người có chế độ hưu trí (43,1%), 1/3 số người trả lời cho rằng chế độ hưu trí đáp ứng nhu cầu phần lớn người có chế độ hưu trí (32,0%), trong khi đó chỉ có 18,9% người trả lời đáp ứng nhu cầu một bộ phận nhỏ người có chế độ hưu trí và 5,7% số người được hỏi không biết. Như vậy, có thể thấy một bộ phận lớn số người tham gia khảo sát đánh giá chế độ hưu trí đáp ứng nhu cầu chủ yếu của người được hưởng chế độ hưu trí.
Bên cạnh chế độ hưu trí, nghiên cứu quan tâm đến chế độ trợ cấp thất nghiệp, biểu đồ dưới đây sẽ góp phần minh họa về ý kiến của cán bộ về chế độ này.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 55
Ý kiến của cán bộ về chế độ trợ cấp thất nghiệp đáp ứng nhu cầu của người hưởng
Đơn vị: %
Không biết
12
Đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nhỏ
người hưởng chế độ này
Đáp ứng nhu cầu của một bộ phận đáng
kể người hưởng chế độ này
Đáp ứng nhu cầu của phần lớn người
hưởng chế độ này
47,1
21,7
19,1
0 5 10 15 20 25 30 35 40 45 50
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Kết quả cho thấy một tỷ lệ lớn cán bộ được khảo sát cho rằng chế độ trợ cấp thất nghiệp đáp ứng nhu cầu của một bộ phận nhỏ người được hưởng chế độ này (47,1%), bên cạnh đó hơn 1/5 số người tham gia trả lời cho rằng chế độ
trợ cấp thất nghiệp đáp ứng nhu cầu của người được hưởng (21,7%) và 19,1% số người cho rằng chế độ trợ cấp thất nghiệp đáp ứng nhu cầu của người hưởng chế độ này, 12,0% số người trả lời không biết về chế độ trợ cấp thất nghiệp. Như vậy, có thể thấy một bộ phận lớn số người có ý kiến cho rằng chế độ trợ cấp thất nghiệp đáp ứng nhu cầu ở
mức độ khác nhau của những người được hưởng chế độ này và chỉ một tỷ lệ nhỏ người tham gia khảo sát không biết chế độ này.
Hiện nay, bảo hiểm xã hội mà người dân tham gia có hai hình thức là bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự
56 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
nguyện. Biểu đồ dưới đây minh họa về hai loại bảo hiểm xã hội mà người dân đang tham gia.
Loại bảo hiểm xã hội mà người được hỏi tham gia Đơn vị: %
51,4 Bảo hiểm xã hội
34,7
13,9
bắt buộc
Bảo hiểm xã hội tự nguyện
Không tham gia hai loại trên
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Như vậy, hơn 1/2 số người tham gia trả lời cho rằng mình không tham gia cả hai loại bảo hiểm xã hội trên (51,4%), trong gần số còn lại tham gia một trong hai loại bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tự nguyện, điều này cho thấy tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm xã hội còn hạn chế. Về việc lựa chọn loại hình tham gia bảo hiểm xã hội số người dân tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc chiếm tỷ lệ cao (34,7%) trong khi
chỉ có 13,9% số người tham gia loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện. Có thể nói rằng loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc được nhiều người lựa chọn hơn.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi quan tâm đến khía cạnh thời gian giải quyết chế độ. Biểu đồ dưới đây minh
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 57
họa về thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm tự nguyện.
Đánh giá của người dân về thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc trên thực tế
Đơn vị: %
Chưa hợp lý Hợp lý
26,2
72,1
0 10 20 30 40 50 60 70 80 Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Trong số 244 người tham gia khảo sát, hơn 2/3 số người được hỏi cho rằng thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc là hợp lý (72,1%), có 26,2% số người tham gia khảo sát cho rằng thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện là chưa hợp lý.
Liên quan đến việc các cơ quan tổ chức hỗ trợ người dân tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, kết quả khảo sát cho thấy trong số 243 người tham gia trả lời, hơn một nửa người dân tham gia trả lời cho rằng cán bộ phụ trách bảo hiểm xã hội tại cơ
quan hỗ trợ người dân tháo gỡ những vướng mắc liên quan
58 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
đến chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc (51,4%), 1/3 người dân cho rằng cán bộ lao động thương binh và xã hội địa phương hỗ trợ (31,3%), 26,3% số người tham gia khảo sát cho rằng cơ quan bảo hiểm xã hội hỗ trợ người dân tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, tiếp đó là 18,9% lãnh đạo cơ quan là cơ quan hỗ trợ người dân tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, chỉ có 7,8% số người tham gia khảo sát cho rằng công đoàn cơ quan, trung tâm tư vấn pháp luật (2,5%), không nhờ ai (2,5%). Điều này cho thấy, cơ quan hỗ trợ chủ yếu khi người dân gặp những khó khăn liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc là cán bộ
phụ trách bảo hiểm xã hội tại cơ quan.
Về đánh giá của người dân đối với thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, kết quả khảo sát cho thấy trong 103 người tham gia trả lời về thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, 2/3 số người được hỏi cho rằng thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là bình thường (66,0%), 1/3 số người được hỏi cho rằng thủ tục đơn giản (32,0%) và 1,9% số người tham gia khảo sát cho rằng thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là rất đơn giản. Có thể nói rằng thủ
tục tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được người dân đánh giá khá tích cực và thuận tiện. Điều này sẽ là yếu tố thuận lợi để loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ thu hút ngày càng đông đảo người dân tham gia. Ngoài ra thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng là một điểm đáng lưu ý.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 59
Đánh giá của người dân về thời gian
giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện Đơn vị: %
83
90
80
70
60
50
40
30
15
20
10
0
Hợp lý Chưa hợp lý
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Như vậy, một tỷ lệ lớn người dân đánh giá về thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện hợp lý (83,0%), hơn 1/6 người tham gia khảo sát cho rằng thời gian giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa hợp lý (15,0%). Về dự định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trong thời gian tới, kết quả khảo sát được trình bày qua biểu đồ dưới đây:
Dự định tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện trong thời gian tới
Đơn vị: %
Chưa quyết định Không
Có
37,9
5,3
56,7
0 10 20 30 40 50 60 Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
60 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Rõ ràng vẫn còn một bộ phận lớn người dân không có dự định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trong thời gian tới (56,7%), 1/3 người tham gia khảo sát cho rằng họ chưa quyết định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trong thời gian tới (37,9%), chỉ có 5,3% số người tham gia trả lời có dự định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Như vậy, đa số người dân tham gia trả lời không có dự định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và chỉ có một tỷ lệ không đáng kể người dân có dự định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Liên quan đến lý do người dân không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, ý kiến từ 317 người tham gia khảo sát cho thấy có khá nhiều lý do người dân không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Trước hết một bộ phận lớn người dân không có ý định tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện vì không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (47,3%), gần 1/2 người dân trả lời không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là không cần thiết (47,0%), 1/3 người tham gia khảo sát không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện không biết chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện (30,9%). Tuy nhiên, các lý do mà người dân không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đáng quan tâm chiếm một tỷ lệ không cao, cụ thể là 1/5 người dân không tham gia là do chế độ hưởng thấp (22,1%) và người dân cho rằng lý do không hài lòng chế độ chi trả bảo hiểm xã hội chiếm tỷ lệ 17,4%, thủ tục đăng ký phức tạp chiếm tỷ lệ 16,1%; không tin tưởng cơ quan bảo hiểm xã hội chiếm tỷ lệ 10,1%; không biết nơi đăng ký đóng bảo hiểm xã hội chiếm 9,8%. Điều này cho thấy có nhiều lý do dẫn đến việc người dân không tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 61
Ở một số địa phương, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trốn tránh việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Một vấn đề đáng quan tâm là nhiều người lao động trong các doanh nghiệp sau khi không còn làm việc cho doanh nghiệp nữa thì họ xin dừng đóng bảo hiểm và hưởng chế độ
một lần. Việc tham gia bảo hiểm tự nguyện ở nhiều địa phương rất hạn chế. Lý do là vì nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về bảo hiểm tự nguyện1. Ngoài ra việc người dân tham gia bảo hiểm tự nguyện ít còn do chế độ dành cho đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện chỉ có hai chế độ là hưu trí và tử tuất còn ba chế độ khác thì không được hưởng2. Liên quan đến chế độ bảo hiểm xã hội, có ý kiến cho rằng người lao động chủ yếu quan tâm đến chế độ hưu trí, mức hưởng lương hưu. Trong khi đó, theo Luật bảo hiểm xã hội thì nhiều lao động thiệt thòi, nhất là lao động nữ khi họ đóng bảo hiểm 20 năm, nhưng tuổi đời chưa đủ
theo quy định để hưởng chế độ. Trong khi đó họ khó đủ khả năng để tiếp tục công việc. Đây là vấn đề nhiều lao động tâm tư3.
3. Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế là một loại hình bảo hiểm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tại Việt Nam, bảo hiểm y tế
_______________
1. Tọa đàm tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương với sự tham gia của cán bộ một số sở, ngành.
2. Tọa đàm tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Lắk với sự tham gia của cán bộ một số sở, ngành.
3. Tọa đàm với Phó Giám đốc sở và cán bộ Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
62 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
được Nhà nước thực hiện nhằm phục vụ và bảo vệ sức khỏe của những người có trách nhiệm tham gia. Theo kết quả khảo sát tỷ lệ khá lớn người dân có thẻ bảo hiểm y tế (72,0%) và số người tham gia khảo sát không có thẻ bảo hiểm y tế là 28,0%.
Trong lĩnh vực bảo hiểm y tế, quá trình khảo sát tại 7 tỉnh, thành phố đã cho thấy nhiều điểm đáng lưu ý phản ánh thực trạng và những vấn đề đặt ra liên quan đến lĩnh vực này. Trước hết là ý kiến của cán bộ về thủ tục khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế. Kết quả khảo sát cho thấy: 2/3 cán bộ đánh giá về thủ tục khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế thuận tiện (67,1%); 10,3% số người tham gia khảo sát cho rằng thủ tục khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế rất thuận tiện. Trong khi đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ
tham gia trả lời cho rằng thủ tục khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế không thuận tiện (15,1%), còn có 7,4% cán bộ tham gia khảo sát cho rằng thủ tục khám, chữa bệnh rất không thuận tiện. Bên cạnh đó, chất lượng khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế là điểm đáng lưu ý mà nghiên cứu quan tâm.
Qua khảo sát đối với nhóm cán bộ cho thấy một số vấn đề đáng lưu ý sau:
Thứ nhất, đánh giá về chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế là bình thường chiếm đến 42,3%, tốt chiếm tỷ lệ 27,1%, rất tốt chiếm tỷ lệ 7,1%. Trong khi đó, hơn 1/10 số người tham gia khảo sát đánh giá về chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế là không tốt (12,3%), rất không tốt chiếm tỷ lệ 2,3% và 8,9% người tham gia khảo sát không
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 63
biết về chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế.
Thứ hai, đánh giá về số lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là bình thường chiếm tỷ lệ cao là 49,7%, tốt chiếm tỷ lệ 27,7%, rất tốt chiếm tỷ lệ 6,9%. Bên cạnh đó, ý kiến đánh giá về số lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là không tốt chỉ chiếm 8,3% và rất không tốt chiếm tỷ lệ 1,4%.
Thứ ba, đánh giá về chất lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là bình thường cũng chiếm đến 46,0%, tốt chiếm tỷ lệ 30,6%, rất tốt chiếm tỷ lệ 6,3%. Bên cạnh đó, ý kiến đánh giá về chất lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là không tốt chỉ chiếm 11,7%, rất không tốt chiếm 1,7% và không biết chiếm tỷ lệ 3,7%.
Thứ tư, đánh giá về thái độ phục vụ của cán bộ y tế là bình thường chiếm tỷ lệ 53,7%, tốt chiếm tỷ lệ 25,4%, rất tốt chiếm tỷ lệ 4,3%. Bên cạnh đó ý kiến đánh giá về thái độ phục vụ của cán bộ y tế là không tốt chỉ chiếm 15,1%, rất không tốt chỉ chiếm 1,4%.
Thứ năm, đánh giá về tay nghề bác sĩ là bình thường chiếm tỷ lệ khá cao (56,9%), tốt chiếm tỷ lệ 32,6%, rất tốt chiếm tỷ lệ 6,6%. Bên cạnh đó, ý kiến đánh giá về tay nghề bác sĩ là không tốt chiếm tỷ lệ không đáng kể (2,9%) và rất không tốt chỉ chiếm 0,6%.
Có thể nói, phần lớn các ý kiến đánh giá về các khía cạnh khác nhau trong quá trình chăm sóc sức khỏe của người dân khi sử dụng thẻ bảo hiểm y tế tại các cơ sở y tế là khá hài lòng, mặc dù vậy vẫn có một tỷ lệ nhỏ ý kiến cho rằng hoạt động chăm sóc sức khỏe khi sử dụng bảo hiểm y tế chưa đáp ứng nhu cầu của người dân.
64 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Liên quan đến mức độ hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh, kết quả khảo sát của nhóm cán bộ cho thấy có 48,6% số người được hỏi cho rằng mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh là nhiều và 4,6% số họ cho rằng mức hỗ trợ là rất nhiều. Bên cạnh đó, gần 1/3 số người được hỏi (31,4%) đánh giá mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế là ít và 7,7% số họ cho rằng mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh là rất ít. Ngoài ra, 7,7% trả lời không biết. Có thể nói rằng một bộ phận lớn cán bộ tham gia khảo sát đã đánh giá mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh đã đáp ứng nhu cầu của người dân.
Kết quả nghiên cứu cho thấy về thủ tục mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện, 1/3 số cán bộ được hỏi cho rằng thủ tục mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện tại địa phương là thuận tiện (36,9%). Bên cạnh đó hơn 1/10 (13,4%) số người được hỏi cho rằng thủ tục mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện tại địa phương là không thuận tiện. Ngoài ra, gần một nửa (49,7%) đánh giá sự thuận tiện của thủ tục mua thẻ bảo hiểm y tế ở
mức độ bình thường. Như vậy, ở nhiều địa phương người dân được tạo điều kiện thuận lợi trong thủ tục mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện khi họ không có điều kiện được trang bị bảo hiểm y tế bắt buộc.
Để có thể mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện, một yếu tố rất quan trọng là mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện. Qua khảo sát có gần 2/3 số người được hỏi trả lời mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện là cao (60,0%) và 7,1% số họ cho rằng mức phí này là rất cao. Chỉ có 1/4 số người trả lời cho rằng mức phí mua thẻ là không cao (25,1%) và có 5,4% số
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 65
cán bộ tham gia cho rằng mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện là rất không cao, 2,3% trả lời không biết. Điều này có thể thấy rằng, đa số ý kiến đều cho rằng mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện là cao so với mức thu nhập của người sử dụng loại hình bảo hiểm y tế này ở các địa phương. Đây cũng có thể là một rào cản để người dân tham gia bảo hiểm y tế, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nơi mà thu nhập bình quân đầu người thường thấp.
Một điểm đáng lưu ý là để mở rộng phạm vi bao phủ của bảo hiểm y tế cần có các biện pháp tích cực nhằm tăng cường sự tham gia bảo hiểm y tế của người dân, biểu đồ dưới đây minh họa về ý kiến đánh giá của cán bộ về vấn đề này như sau:
Ý kiến của cán bộ về biện pháp để tăng cường sự tham gia bảo hiểm y tế của người dân
Đơn vị: %
Quy định nhiều mức phí mua thẻ BHYT với nhiều mức chi trả khi khám chữa
Quy định nhiều mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế với
23,7
bệnh bằng thẻ
nhiều mức chi trả khi khám, chữa bệnh bằng thẻ
Bổ sung thêm một số bệnh được chi trả
Bổ sung thêm một số bệnh được chi trả bằng thẻ BHYT
bằng thẻ bảo hiểm y tế
Tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ bảo hiểm y tế
Tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ BHYT cho một số đối tượng
cho một số đối tượng
Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất
Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất cơ sở khám chữa bệnh
cơ sở khám, chữa bệnh
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT
bằng thẻ bảo hiểm y tế
Giảm bớt thủ tục hành chính
Giảm bớt thủ tục hành chính
Tăng cường tuyên truyền về BHYT
Tăng cường tuyên truyền về bảo hiểm y tế
28,6
30,6
50
53
54
58,9
0 10 20 30 40 50 60 70
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
66 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Biểu đồ trên thấy để tăng tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế, đa số nhóm cán bộ cho rằng cần tăng cường các biện pháp như: Thứ nhất, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế (58,9%);
Thứ hai, tăng cường tuyên truyền về bảo hiểm y tế (54,0%);
Thứ ba, nâng cao chất lượng cơ sở vật chất cơ sở khám, chữa bệnh (53,0%);
Thứ tư, giảm bớt thủ tục hành chính (50,0%). Các biện pháp khác chiếm từ 20,0 đến 30,0% như: quy định nhiều mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế với nhiều mức chi trả khi khám, chữa bệnh bằng thẻ; bổ sung thêm một số bệnh được chi trả
bằng thẻ bảo hiểm y tế; tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho một số đối tượng.
Có thể thấy rằng có nhiều biện pháp khác nhau để tăng cường sự tham gia bảo hiểm y tế của người dân và đa số cán bộ tham gia khảo sát đều cho rằng cần sử dụng các biện pháp trên để gia tăng tỷ lệ người dân tham gia sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong việc chăm sóc sức khỏe.
Liên quan đến thực trạng hoạt động tham gia bảo hiểm y tế của người dân ở các địa phương, kết quả khảo sát cho thấy một tỷ lệ lớn người dân tham gia bảo hiểm y tế (72,0%), số người dân không tham gia bảo hiểm y tế chiếm tỷ lệ thấp (28,0%). Tỷ lệ này nhìn chung khá tương đồng với tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế theo số liệu thống kê toàn quốc và cũng đang tiến gần tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra trong các chính sách về bảo hiểm y tế, an sinh xã hội.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 67
Kết quả khảo sát trong 506 người tham gia trả lời câu hỏi về nguồn cung cấp thẻ bảo hiểm y tế cho thấy gần 1/2 số người dân tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện (45,8%) và khoảng 1/3 người dân tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc (33,2%), còn lại tỷ lệ người dân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế do Nhà nước mua hay được Nhà nước cấp miễn phí chỉ chiếm từ
9,0% đến 10,0%. Có thể thấy rằng loại thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động khám, chữa bệnh của người dân, cùng với những nỗ lực của Nhà nước trong việc đa dạng nguồn cung cấp thẻ bảo hiểm y tế và nâng cao nhận thức của người dân về việc tham gia bảo hiểm y tế đã mở rộng phạm vi bao phủ của thẻ bảo hiểm y tế trong hoạt động khám, chữa bệnh của người dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Mức độ người dân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh là một khía cạnh đáng quan tâm, kết quả khảo sát định lượng được minh họa trong biểu đồ dưới đây:
Mức độ người dân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh
Đơn vị: %
5,1
7,7
15
Rất thường xuyên
Thường xuyên
5,9
29,2
37
Không thường xuyên Rất không thường xuyên Chưa cần sử dụng
Chưa bao giờ
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
68 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Có khoảng hơn 1/3 số đó thường xuyên sử dụng (29,2%) và rất thường xuyên (7,7%), đồng thời cũng có khoảng gần 1/2 không thường xuyên sử dụng (37,0%), 5,9% số người dân trong mẫu khảo sát rất không thường xuyên sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong khám, chữa bệnh. Bên cạnh đó có tới 15% số người dân chưa cần sử dụng và 5,1% trong số người trả lời chưa bao giờ sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong khám, chữa bệnh. Có thể nhận thấy mức độ sử dụng thẻ bảo hiểm y tế chưa cao. Tìm hiểu về những yếu tố ảnh hưởng đến mức độ sử dụng thẻ bảo hiểm y tế của người dân. Trước hết, đánh giá của người dân về thủ
tục khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế là khía cạnh cần quan tâm. Kết quả khảo sát cho thấy trong 405 người tham gia trả lời, có 2/3 số người được hỏi đánh giá thủ tục khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế là thuận tiện (62,5%) và có 8,9% người dân cho rằng rất thuận tiện. Bên cạnh đó khoảng 1/5 số người được hỏi cho rằng thủ tục khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế là không thuận tiện (10,1%) và rất không thuận tiện (13,8%). Như vậy, đại đa số người dân sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đều đánh giá tích cực về thủ tục khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế. Bên cạnh đó, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh là khía cạnh đáng lưu ý, kết quả khảo sát về chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế được minh họa trong biểu đồ dưới đây:
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 69
Đánh giá của người dân về chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế
Đơn vị: %
60 50 40 30 20 10 0
5,2
32,8
4,9
54,8
27,2
52,8
6,94 4,2
2,7 3,70,7
Tay nghề bác sĩ
Tay nghề bác sĩ
Thái độ phục vụ của cán bộ y tế Thái độ phục vụ của cán bộ y tế
Chất lượng thuốc được cấp theo Chất lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế
thẻ BHYT
Số lượng thuốc được cấp theo
Số lượng thuốc được cấp theo thẻ BHYT
thẻ bảo hiểm y tế
Chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám,
Chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám chữa bệnh theo thẻ BHYT
chữa bệnh theo thẻ bảo hiểm y tế
Rất tốt Tốt Bình thường
Không tốt Rất không tốt
Không biết
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Kết quả khảo sát trong 405 người tham gia về chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế được phân tích dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
Thứ nhất, khảo sát về tay nghề bác sĩ cho thấy đa số người dân cho rằng tay nghề bác sĩ là bình thường (54,8%), tốt chiếm tỷ lệ 32,8%, rất tốt chiếm tỷ lệ 5,2%. Bên cạnh đó, đánh giá về tay nghề bác sĩ chưa tốt chiếm tỷ lệ không đáng kể (2,7% và 3,7%).
Thứ hai, đa số người dân cho rằng thái độ phục vụ của cán bộ y tế là bình thường (53,1%), thái độ phục vụ của cán bộ y tế là tốt chiếm tỷ lệ 27,7%, rất tốt chiếm tỷ lệ 4,9%. Bên cạnh đó, đánh giá về thái độ phục vụ của cán bộ y tế là không tốt chiếm tỷ lệ 9,6% và 4,4% đánh giá rất không tốt.
70 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
Thứ ba, đánh giá về chất lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là bình thường chiếm tỷ lệ gần 1/2 số người được hỏi (44,2%), 1/4 số người tham gia khảo sát cho rằng tốt (27,4%) và 5,4% cho rằng rất tốt. Bên cạnh đó, một tỷ lệ thấp những người tham gia khảo sát cho rằng chất lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là không tốt (7,9%) và 4,2% cho rằng rất không tốt.
Thứ tư, đánh giá của người dân về số lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế cho thấy hơn 1/2 số người được hỏi cho rằng số lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế là bình thường (52,8%), đánh giá tốt chiếm tỷ lệ 27,2%, đánh giá rất tốt chiếm 4,9%. Bên cạnh đó, có 6,9% số người được hỏi số lượng thuốc được cấp theo thẻ bảo hiểm y tế không tốt và 4,0% đánh giá rất không tốt, 4,2% số người được hỏi không biết.
Thứ năm, đánh giá của người dân về chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh là bình thường chiếm 55,0%, khoảng 1/4 số người được hỏi cho rằng chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh là tốt và 5,4% chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh là rất tốt. Bên cạnh đó, một tỷ lệ thấp số người trả lời cho rằng chất lượng dịch vụ kỹ thuật khám, chữa bệnh là không tốt (6,4%) và 4,2% số người tham gia khảo sát cho rằng rất không tốt. Có thể nói rằng, cả năm yếu tố thể hiện chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế đều được người dân đánh giá tích cực, trong khi đó chỉ có một tỷ lệ thấp số người được hỏi đánh giá không hài lòng.
Liên quan đến mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh, nghiên cứu cho thấy có gần 1/2 số người
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 71
được hỏi cho rằng mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh là nhiều (43,7%) và 1,5% số người cho rằng mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh rất nhiều. Đồng thời cũng có khoảng hơn 1/3 số người được hỏi cho rằng mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh là ít (38,3%) và khoảng 1/10 số người được hỏi đánh giá mức hỗ trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh là rất ít. Có thể nói rằng số người đánh giá mức hỗ
trợ chi phí của bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh khá phân hóa thành hai nhóm tương đương nhau trong đó gần một nửa cho rằng mức hỗ trợ nhiều và gần 1/2 số người được hỏi cho rằng mức hỗ trợ là ít. Điều này có thể thấy mức hỗ trợ hiện tại của bảo hiểm y tế đã đáp ứng được một bộ phận đáng kể
nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân.
Về việc tìm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế, có một tỷ lệ thấp người dân tìm sự hỗ trợ khi gặp khó khăn trong việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế, cụ thể khoảng 1/4 số người được hỏi khi gặp khó khăn trong việc sử dụng thẻ bảo hiểm y tế sẽ tìm sự giúp đỡ của cán bộ lao động thương binh xã hội (22,5%), cơ quan bảo hiểm xã hội (23,9%), chính quyền đoàn thể (23,6%), đại lý bán thẻ bảo hiểm y tế tại phường, xã (22,8%) và 18,6% số người được hỏi cho rằng họ sẽ tìm đến cơ quan, đơn vị lao động.
Liên quan đến đánh giá của người dân về mức phí mua bảo hiểm y tế hiện nay, theo người dân về mức phí mua bảo hiểm y tế phân hóa bởi hai xu hướng trái ngược nhau, trong đó gần 1/2 đánh giá cao (42,3%) và 9,3% đánh giá rất cao. Trong khi đó xu hướng ý kiến cho rằng mức phí mua bảo hiểm y tế hiện nay là không cao cũng chiếm tỷ lệ 42,7% và
72 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
5,4% người được hỏi không biết. Như vậy, dựa vào hai xu hướng đánh giá có thể nói rằng mức phí mua bảo hiểm y tế hiện nay phù hợp với một bộ phận khá lớn người dân và nên xem xét tiếp tục điều chỉnh để phù hợp với một nửa số người khảo sát.
Mở rộng sự tham gia bảo hiểm y tế của người dân là một nhiệm vụ quan trọng của ngành y tế nói riêng và là định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, chủ trương này vẫn đối mặt với nhiều rào cản. Để
thực hiện nó cần có một loạt giải pháp trong thời gian tới. Biểu đồ dưới đây minh họa về ý kiến của người dân để mở rộng sự tham gia bảo hiểm y tế.
Ý kiến của người dân về giải pháp
để mở rộng sự tham gia bảo hiểm y tế
Đơn vị: %
Quy định nhiều mức phí mua thẻ BHYT với nhiều mức chi trả khi khám chữa
Quy định nhiều mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế với
25,4
bệnh bằng thẻ
nhiều mức chi trả khi khám, chữa bệnh bằng thẻ
Bổ sung thêm một số bệnh được chi trả
Bổ sung thêm một số bệnh được chi trả bằng thẻ BHYT
bằng thẻ bảo hiểm y tế
Tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ bảo hiểm y tế
Tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ BHYT cho một số đối tượng
cho một số đối tượng
Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất
Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất cơ sở khám chữa bệnh
cơ sở khám, chữa bệnh
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT
bằng thẻ bảo hiểm y tế
Giảm bớt thủ tục hành chính
Giảm bớt thủ tục hành chính
Tăng cường tuyên truyền về BHYT
Tăng cường tuyên truyền về bảo hiểm y tế
34,9
37,5
44,4
42,7
58,5
67,9
0 10 20 30 40 50 60 70 80
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 73
Như vậy, có 2/3 số người trong mẫu khảo sát cho rằng cần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh (67,9%), hơn 1/2 số người trả lời cho rằng cần nâng cao chất lượng cơ sở vật chất cơ sở khám, chữa bệnh (58,5%), 44,4% cho rằng cần giảm bớt các thủ tục hành chính và 42,7% cho rằng cần tăng cường tuyên truyền về bảo hiểm y tế. Ngoài ra, khoảng hơn 1/3 số người trả lời cho rằng cần tăng mức hỗ trợ đóng, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho một số đối tượng (37,5%) và 34,9% số người tham gia khảo sát đồng ý nên bổ sung thêm một số bệnh được chi trả bằng thẻ bảo hiểm y tế, 1/4 trong số đó đưa ra ý kiến cần quy định nhiều mức phí mua thẻ bảo hiểm y tế với nhiều mức chi trả khi khám, chữa bệnh bằng thẻ (25,4%). Có thể nói rằng có nhiều biện pháp khác nhau nhằm thu hút sự tham gia mua bảo hiểm y tế của người dân nhưng trong đó có hai biện pháp được đông đảo người dân quan tâm, nhất là nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, cơ sở khám, chữa bệnh và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế. Một khía cạnh quan trọng mà nghiên cứu quan tâm là ý kiến của người dân về dự định tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế, kết quả khảo sát về vấn đề này cho thấy trong số 510 người tham gia có 97,5% người dân dự định tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế, chỉ có 2,5% người dân không có dự định tiếp tục tham gia bảo hiểm y tế.
Liên quan đến lý do người dân không có thẻ bảo hiểm y tế, kết quả khảo sát đối với 187 người dân không có thẻ bảo hiểm y tế cho thấy có nhiều lý do đa dạng về việc bản thân họ không có thẻ bảo hiểm y tế. Trong đó, khoảng hơn 1/3 số người trả lời cho rằng họ không có thẻ vì mất nhiều thời gian
74 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
khi khám, chữa bệnh bằng thẻ (36,4%), 33,2% số người được hỏi cho rằng phí mua thẻ cao và 33,6% số người trả lời có ý kiến không tin vào chất lượng khám, chữa bệnh bằng thẻ; lý do thủ tục chuyển tuyến phức tạp chiếm tỷ lệ 31,0%, 1/4 số người được hỏi cho rằng không mua thẻ do thủ tục khám, chữa bệnh bằng thẻ phức tạp (26,2%); 1/5 số người được hỏi cho rằng không cần thiết (21,4%) và 12,8% số người được hỏi cho rằng họ không mua thẻ là do thái độ phục vụ của cán bộ
y tế đối với người sử dụng thẻ là không tốt. Từ 5 đến 10% số người tham gia khảo sát cho rằng họ không biết về thẻ bảo hiểm y tế và nơi bán thẻ bảo hiểm y tế. Có thể nói có nhiều lý do khác nhau dẫn đến việc người dân không tham gia bảo hiểm y tế nhưng lý do cơ bản nhất là tính chưa thuận tiện của việc sử dụng bảo hiểm y tế như mất thời gian, thủ tục phức tạp hay không tin tưởng chất lượng, phí mua cao. Những lý do này đang là rào cản đối với việc mở rộng sự
tham gia bảo hiểm y tế ở nước ta hiện nay.
Thực tế khảo sát tại các địa phương, nhiều ý kiến khẳng định rằng hiện nay việc khám, chữa bệnh sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đã có nhiều thuận tiện. Ở các địa phương, chẳng hạn Đắk Lắk, khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế đã được thông tuyến huyện, tức là thông tuyến giữa các huyện. Vì vậy, những viện tốt thì thu hút bệnh nhân. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là việc trục lợi bảo hiểm y tế vẫn tồn tại. Mặc dù, vấn đề này đã giảm nhiều nhờ việc ứng dụng tin học trong khám, chữa bệnh. Tuy vậy, trên thực tế, một số cơ sở khám, chữa bệnh chưa thực hiện đúng quy định khám bệnh sử dụng thẻ bảo hiểm y tế như: kéo dài ngày nội trú, nhập
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 75
khoa hồi sức cấp cứu khi chưa cần thiết,... chỉ định người bệnh khám nhiều chuyên khoa, chỉ định cận lâm sàng chưa cần thiết, chỉ định thuốc không cần thiết,... Vì vậy, có ý kiến cho rằng nên có sự thống nhất trong hướng dẫn của Bộ Y tế và bảo hiểm xã hội về vấn đề này, đồng thời giao quỹ bảo hiểm y tế cho từng cơ sở và quy trách nhiệm cụ thể cho các cơ
sở trong việc sử dụng kinh phí từ nguồn bảo hiểm y tế. Ở nhiều địa phương, nhất là khu vực có đồng bào dân tộc thiểu số, bảo hiểm y tế chỉ cấp cho trẻ em, người già, mà không còn cấp cho đồng bào dân tộc thiểu số nữa. Trong khi đó, nhiều hộ gia đình không có điều kiện kinh tế để mua bảo hiểm y tế tự nguyện. Thêm nữa, họ không mua bảo hiểm y tế tự nguyện còn do tâm lý “thấy không đau ốm nên không mua”. Trước đây việc mua bảo hiểm y tế tự nguyện phải mua cả hộ gia đình nên nhiều hộ không có điều kiện mua. Hiện tại ở địa phương này họ có thể mua bảo hiểm y tế theo từng cá nhân. Tuy nhiên, tỷ lệ người không có bảo hiểm y tế ở đây vẫn cao (khoảng 65%).
Liên quan đến việc mua thẻ bảo hiểm y tế tự nguyện, một số ý kiến từ các địa phương cho rằng việc mua bảo hiểm y tế tự nguyện vẫn còn thủ tục rườm rà. Cụ thể là các hộ gia đình khi mua bảo hiểm y tế tự nguyện phải khai vào tờ khai rất nhiều thông tin. Ở một số địa phương, nhiều người nhập cư
sống ở địa phương nhưng không thuộc diện dân thường trú (hộ khẩu và KT3) thì không được mua được bảo hiểm y tế tự nguyện. Việc quy định mua bảo hiểm y tế tự nguyện theo hộ gia đình còn gặp phải một khó khăn nữa là phải có sự đồng thuận của tất cả các thành viên trong hộ gia đình thì mới có
76 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
thể mua được. Ngoài ra, một số hộ gia đình có nhiều thành viên nhưng điều kiện kinh tế khó khăn nên không đủ điều kiện để mua bảo hiểm y tế cho tất cả các thành viên, hệ quả là tất cả các thành viên trong hộ gia đình đều không mua bảo hiểm y tế tự nguyện. Khảo sát thực địa cho thấy có những địa phương, chẳng hạn ở Sóc Trăng, đã in thẻ bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo, nhưng họ không đến lấy vì không muốn hoặc không đủ khả năng để chi trả phần còn lại ngoài phần kinh phí được Nhà nước hỗ trợ. Nhiều ý kiến từ thực địa cho rằng từ ngày 01/7/2017, 1.900 dịch vụ y tế tăng giá. Đây là động lực quan trọng để nhiều người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện vì những người không tham gia bảo hiểm y tế sẽ phải chi trả rất nhiều khi họ sử dụng dịch vụ y tế. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cũng cho rằng có những người giàu có hoặc điều kiện kinh tế khá cũng sẽ tiếp tục không mua bảo hiểm y tế tự nguyện vì họ sẽ bỏ tiền ra để thanh toán dịch vụ khám, chữa bệnh khi họ sử dụng.
Một vấn đề đáng quan tâm nữa liên quan đến khám, chữa bệnh do bảo hiểm y tế chi trả là việc thanh quyết toán giữa các cơ sở khám, chữa bệnh và bảo hiểm xã hội. Thực tế là giữa các cơ sở khám, chữa bệnh và bảo hiểm xã hội ở các địa phương thường xuyên có sự khác biệt quan điểm. Tức là chưa có sự thống nhất về thanh toán bảo hiểm giữa cơ sở y tế và bảo hiểm. Các cơ sở khám, chữa bệnh nhiều khi lo không được thanh toán cho những dịch vụ, thuốc men và vật tư y tế mà họ đã sử dụng. Do đó, nhiều ý kiến ở các địa phương mong muốn có một cơ quan trung gian làm trọng tài giữa cơ
sở khám, chữa bệnh và bảo hiểm xã hội. Cơ quan này phải có
Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 77
các chuyên gia y tế sâu, cộng thêm cán bộ tài chính, bảo hiểm. Đây là cơ quan độc lập để làm trọng tài giữa cơ sở khám, chữa bệnh và bảo hiểm xã hội. Một vấn đề nữa đặt ra mà nhiều ý kiến nêu lên là từ góc độ cơ sở khám, chữa bệnh, các bệnh viện tự chủ hoàn toàn; trong khi đó, nhiều bệnh viện có tỷ lệ khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế cao. Vì vậy, nếu bệnh viện quá tải thì phải ưu tiên khám bảo hiểm trước khám dịch vụ sau. Bên cạnh đó, một số địa phương vẫn có nhiều sai sót về thông tin cá nhân trên thẻ bảo hiểm y tế được Nhà nước cấp cho người dân, nhất là vùng có dân tộc thiểu số. Điều này gây khó khăn cho người dân khi sử dụng thẻ bảo hiểm y tế trong khám, chữa bệnh.
Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo trợ xã hội, thực tế là chế độ mà người lao động được hưởng khi tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện giới hạn. Không có chế độ thai sản, ốm đau nên khó thu hút người tham gia. Vì vậy, giải pháp là nên mở
rộng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, đặc biệt là cần đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Vấn đề quan trọng đặt ra đối với bảo hiểm xã hội là việc doanh nghiệp hoặc nợ đọng hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, giải pháp là cần lập hồ sơ ra tòa để giải quyết vụ việc, tức là phải gắn với chế tài về kinh tế. Liên quan đến vấn đề tranh chấp, khác biệt quan điểm trong thanh quyết toán giữa cơ sở khám, chữa bệnh và bảo hiểm xã hội, giải pháp đặt ra là nên có một cơ quan trung gian làm trọng tài giữa bảo hiểm xã hội và các cơ sở khám, chữa bệnh để cơ quan này đánh giá, xử lý những khác biệt giữa bảo hiểm xã hội và các cơ sở khám, chữa bệnh; cần có các chuyên gia y tế sâu, cộng
78 QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ ĐẶT RA...
thêm cán bộ tài chính, bảo hiểm; cơ quan này nên được tổ chức thành một cơ quan độc lập.
4. Bảo trợ xã hội
Bảo trợ xã hội là một trụ cột quan trọng của an sinh xã hội. Phần này cuốn sách trình bày về thực trạng quản lý phát triển xã hội trong lĩnh vực bảo trợ xã hội thông qua các dữ liệu định tính và định lượng từ thực địa. Trước hết cần tìm hiểu đánh giá của cán bộ về việc thực hiện chính sách trợ
cấp xã hội ở các địa phương qua bảng số liệu dưới đây:
Đánh giá của cán bộ về việc thực hiện
chính sách trợ cấp xã hội ở các địa phương Đơn vị: %
10
34,3
55,7
Nguồn: Số liệu do nhóm tác giả điều tra, khảo sát.
Tốt
Bình thường Chưa tốt
Đa số cán bộ đều cho rằng, việc thực hiện chính sách trợ cấp xã hội ở địa phương là bình thường (55,7%), 1/3 số cán bộ cho rằng việc thực hiện chính sách trợ cấp xã hội ở địa phương là tốt (34,3%) và chỉ có 1/10 số cán bộ đánh giá việc thực hiện chính sách trợ cấp xã hội ở địa phương là chưa tốt (10%). Có thể nói rằng việc thực hiện chính sách trợ cấp xã