🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quan Điểm Vượt Thời Đại Trong Tư Tưởng “Trị Nước, An Dân” Của Lê Thánh Tông - Giá Trị Kế Thừa Cho Công Cuộc Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền XHCN Việt Nam Hiện Nay
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản
GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung:
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in:
Đọc sách mẫu:
ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ĐINH ÁI MINH
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU PHẠM THÚY LIỄU
NGUYỄN QUỲNH LAN NGUYỄN THỊ LƯƠNG
TẠ THU THỦY
ĐINH ÁI MINH
NGUYỄN VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 2266-2021/CXBIPH/15-23/CTQG. Số quyết định xuất bản: 427-QĐ/NXBCTQG, ngày 29/6/2021. Nộp lưu chiểu: tháng 7 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6900-3.
Biên mục trên xuất bản phẩm
của Thư viện Quốc gia Việt Nam
TrÇn ViÖt Hμ
Quan ®iÓm v−ît thêi ®¹i trong t− t−ëng "TrÞ n−íc, an d©n" cña Lª Th¸nh T«ng - Gi¸ trÞ kÕ thõa cho c«ng cuéc x©y dùng Nhμ n−íc ph¸p quyÒn x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam hiÖn nay / Ch.b.: TrÇn ViÖt Hμ, TrÞnh V¨n Toμn. - H. : ChÝnh trÞ quèc gia, 2021. - 180tr. ; 21cm Th− môc cuèi chÝnh v¨n
ISBN 9786045766125
1. Lª Th¸nh T«ng, 1442-1497, Vua nhμ Lª, ViÖt Nam 2. T− t−ëng chÝnh trÞ
320.509597 - dc23
CTF0527p-CIP
2
TẬP THỂ TÁC GIẢ
TS. TRẦN VIỆT HÀ
TS. TRỊNH VĂN TOÀN
TS. TRẦN THỊ PHƯƠNG ĐIỆP
TS. LƯƠNG THỊ THU HƯỜNG
TS. NGUYỄN BẰNG VIỆT
ĐINH ÁI MINH
4
L
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
ịch sử phát triển của các xã hội là lịch sử của sự kế thừa, trong đó bất cứ xã hội mới nào cũng “gạn lọc”, dung chấp và
tiếp biến những tinh hoa, thành tựu của các xã hội trước đó. Điều này cũng có nghĩa, con người không thể sáng tạo ra lịch sử, mà thoát ly khỏi các quan hệ xã hội, các điều kiện và tiền đề của tồn tại xã hội. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Thực tiễn việc tiến hành xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi phải “ôn cố, tri
tân”, ôn xưa để biết nay, thậm chí không chỉ cần biết lịch sử của dân tộc mình mà còn của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tìm hiểu “cội nguồn”, xét tới cùng không gì khác hơn là để góp phần làm sống lại những trang sử vẻ vang của dân tộc, thể hiện truyền thống và đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của thế hệ ngày nay. Đồng thời, nó có ý nghĩa sâu sắc đối với quá trình xây dựng nền văn hóa mới mà Đảng ta đã khẳng định, đó là nền văn hóa mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì tốt đẹp nhất trong truyền thống hàng nghìn năm của dân tộc, vừa tiếp thu có chọn lọc những thành tựu văn hóa, văn minh của nhân loại.
Hơn nữa, việc nghiên cứu lịch sử, đánh giá đúng đắn, vận dụng, kế thừa và phát huy những tinh hoa trong đó có tư tưởng của các danh nhân văn hóa là việc làm hết sức cần thiết nhằm khơi dậy truyền thống dân tộc, làm sống lại các giá trị mang tính thời đại để phục vụ thiết thực cho quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng cũng như trên mọi lĩnh vực.
5
Lê Thánh Tông là vị hoàng đế “anh minh, quyết đoán”, nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà cải cách, nhà văn hóa, nhà thơ lớn, gắn liền với một thời đại hoàng kim của quốc gia Đại Việt - là 38 năm “Triệu dân vỗ yên, trăm việc chấn chỉnh; văn giáo rộng ban, vũ công đại định”. Điểm nổi bật, bao trùm toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông chính là tinh thần xả thân vì lý tưởng xây dựng một xã hội “thái bình, thịnh trị”, một quốc gia văn minh và hùng cường.
Nhằm góp phần cung cấp tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách nói riêng, bạn đọc nói chung quan tâm đến vấn đề trên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Quan điểm vượt thời đại trong tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông - Giá trị kế thừa cho công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay do TS. Trần Việt Hà và TS. Trịnh Văn Toàn làm đồng chủ biên. Cuốn sách cung cấp cho bạn đọc những giá trị sâu sắc về tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông, đồng thời, thông qua những bài học thành công của Lê Thánh Tông trong hơn nửa thiên niên kỷ trước để có những gợi mở, tham góp vào công cuộc cải cách hành chính, phát triển kinh tế, văn hóa - giáo dục và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Những nội dung được tác giả đề cập trong cuốn sách là những vấn đề mang tính lịch sử sâu sắc, có nhiều cách tiếp cận và đánh giá khác nhau, vì vậy, cuốn sách khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Nhà xuất bản và tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 3 năm 2021
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT6
Chương I
KHÁI QUÁT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CHÍNH TRỊ CỦA LÊ THÁNH TÔNG
I- CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tư Thành, con thứ tư của Lê Thái Tông. Cuối năm 1442, Hoàng đế Thái Tông mất, Thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi tức Lê Nhân Tông, phong Tư Thành làm Bình Nguyên vương. Năm 1459, người con cả của Thái Tông là Lê Nghi Dân đột nhập cung cấm giết vua Nhân Tông. Nghi Dân tự lập làm vua, cải phong Tư Thành làm Gia vương. Nghi Dân chỉ ở ngôi được 8 tháng. Ngày 6 tháng 6 âm lịch năm 1460, các tể phụ Nguyễn Xí, Đinh Liệt, làm binh biến, bức tử Nghi Dân. Hai ngày sau, họ bàn nhau đón Tư Thành nối ngôi. Lê Thánh Tông lên ngôi hoàng đế, xưng làm Thiên Nam Động chủ, đặt niên hiệu là Quang Thuận, sau đổi thành Hồng Đức.
Thời kỳ trị vì của Lê Thánh Tông đánh dấu sự hưng thịnh của nhà Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam nói chung với tên gọi là Hồng Đức Thịnh Thế -
7
một trong bốn thời kỳ hưng thịnh nhất của triều đại phong kiến Việt Nam.
Mẹ Vua Lê Thánh Tông là bà Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị, người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Trước kia, khi còn là tiệp dư, thái hậu đi cầu tự, mơ thấy thượng đế ban cho một tiên đồng, thế rồi có thai. Tục truyền rằng thái hậu khi sắp ở cữ, nhân thư thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ thượng đế, thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con thái hậu, tiên đồng chần chừ mãi không chịu đi, thượng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra, sau tỉnh dậy, rồi sinh ra vua, trên trán vẫn còn dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất1.
Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442). Lê Thánh Tông sinh ra có thiên tư đẹp, thần sắc khác thường, vẻ ngoài tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang - mang tố chất của bậc quân vương, bậc trí dũng để giữ nước.
Năm Thái Hòa thứ 3 (1445), ông được phong Bình Nguyên vương, làm phiên vương ở kinh sư, hằng ngày cùng học ở Kinh diên với các vương khác. Bấy giờ, quan ở Kinh diên là Trần Phong thấy Lê Thánh Tông dáng điệu đường hoàng, thông minh hơn hẳn người khác, trong bụng
________________
1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.436.
8
cho là bậc khác thường. Lê Thánh Tông có lối sống kín đáo, không lộ vẻ anh minh ra ngoài, chỉ vui với sách vở cổ kim, nghĩa lý thánh hiền. Bẩm sinh ra đã biết, mà sớm khuya không lúc nào rời sách vở, tài năng lỗi lạc trời cho, mà chế tác lại càng đặc biệt lưu tâm, ưa điều thiện, thích người hiền, chăm chắm không hề biết mỏi1.
Với những phẩm chất đặc biệt này nên trong sự nghiệp chính trị, Lê Thánh Tông luôn ý thức rất cao về trọng trách của mình:
“Lòng vì thiên hạ những sơ âu,
Thay việc trời dám trễ đâu.
Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng chẳng thôi chầu”.
(Tự thuật).
Đến khoảng năm Diên Ninh, Nghi Dân tiếm ngôi, phong Lê Thánh Tông là Gia vương và xây phủ đệ ở bên hữu nội điện cho Lê Thánh Tông ở. Khi các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt cùng nhau đem cấm binh đánh bọn Đồn, Ban, rồi phế Nghi Dân (tháng 6 năm 1460) và rước Cung Vương Khắc Xương lên ngôi nhưng ông này “cố ý từ
chối” bèn “đón Vua (tức Lê Thánh Tông, lúc ấy 18 tuổi) ở Tây Kinh thành để về lên ngai”. Sự kiện này dường như ngẫu nhiên nhưng lại chính là cơ may cho lịch sử Đại Việt suốt nửa cuối thế kỷ XV.
________________
1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.436.
9
Lê Thánh Tông lên ngôi vua vào ngày 26 tháng 6 năm 1460 và trị vì trong 38 năm. Ông là vị hoàng đế trị vì lâu nhất thời Hậu Lê - giai đoạn Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Trong 10 năm đầu lấy niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) và 28 năm sau ông lấy niên hiệu Hồng Đức (1470-1497).
Trước khi Lê Thánh Tông lên ngôi vua lịch sử Việt Nam là cả một giai đoạn khá dài (gần 20 năm) triều nhà Lê rơi vào khủng hoảng; đỉnh điểm là vụ giết Nguyễn Trãi (1442) và cuối cùng là sự kiện Nghi Dân cướp ngôi
(1459). Trung hưng ký đã viết lại như sau: “Nhân Tôn mới lên hai tuổi, sớm lên ngôi vua (1442), Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy mai. Đô đốc Lê Khuyển là thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng, buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, giúp ngược hoành hành trong nước. Kẻ thân yêu chỉ giữ việc, do vậy tệ hối lộ công khai. Việc văn giáo như băng tan, hiền tài bó cánh. Túc Nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đưa vào chỗ nhàn, phường dốt đặc như ong nổi dậy, chó chuột nhe răng. Tể thần như Lê Sung, Lê Sát thì dốt đặc, không phân biệt lục súc; chẳng hiểu rõ bốn mùa. Người giỏi như Trịnh Khả, Khắc Phục thì vội giết đi, người tài như Nguyễn Mộng Tuân thì ném vào đại họa. Oan uổng không kêu đâu được, công việc đều đổ nát dần. Văn giai như Đào Công Soạn, tuổi gần bát tuần; Tể thần như Lê Ê, không biết một chữ. Người trẻ không biết nghĩ, tự ý làm càn; người già chẳng chết đi, thành
10
ra tai hại... Hiền tài là rường cột của triều đình, chẳng còn ai cả; Văn chương là khí vận của nhà nước, hoang phế hết rồi. Kẻ xiểm nịnh được nghe theo, bọn đạo bút được sử dụng...”1.
Trước tình trạng suy thoái, rối ren đó, việc Lê Thánh Tông lên ngôi khi 18 tuổi, rất khó có thể làm mọi thứ lập tức sẽ khác đi. Đó là chưa kể đến một hiện trạng ngoài ý muốn khó khăn cho việc trị vì thiên hạ của Lê Thánh Tông đó là: trong triều thần còn đẻ ra một số đông các công thần “kép” (những người có công phò Thái Tổ, bây giờ lại có công phò Thánh Tông nữa)... Quả thật, Lê Thánh Tông đã có trong tay một hiện trạng đất nước, triều đình rối ren, sa sút. Điều này đặt ra một câu hỏi lớn, rằng Lê Thánh Tông sẽ phải tiến hành các công việc “nội trị” ra sao?2.
Trong thời gian trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu Vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời các triều đại phong kiến nước ta. Ngoài ra, ông đã có công lớn trong mở mang bờ cõi Đại Việt.
________________
1. Dẫn theo Almanach: Những nền văn minh thế giới, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2011, tr.1733.
2. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1733.
11
Về cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông có nhiều ý kiến khác nhau, song nhận xét mang tính khái quát của những người đương thời được ghi lại trong sách sử. Quốc sử chép: “Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc anh hùng tài lược, dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng
không hơn được. Song công việc thổ mộc quá chế độ xưa, tình nghĩa anh em thiếu lòng nhân ái, đó là chỗ kém”1. Như vậy, gồm cả “khen” cả “chê”, nhưng “khen” là chính yếu. Ca ngợi Lê Thánh Tông sử gia Vũ Quỳnh viết: “Vua tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà Thánh học rất chăm”..., và chỉ chê một điều là “nhiều phi tần quá”2.
Lê Thánh Tông mất tháng Giêng, năm Hồng Đức thứ 28 (1497), Thụy hiệu do người kế vị ông, Lê Hiến Tông truy tôn là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.
Khi Lê Thánh Tông mất, Thân Nhân Trung soạn một bài tán, trong đó có những câu đánh giá rất cao: “Lấy tin thực đãi trăm quan,
Rộng vỗ yên đối triệu tính
Văn giáo gần xa thấm nhuần,
Vũ công đó đây bình định”.
________________
1, 2. Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1733. 12
II- KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG TƯ TƯỞNG
“TRỊ NƯỚC, AN DÂN” CỦA LÊ THÁNH TÔNG
1. Một số thành tựu trong tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông
Trong 38 năm trị nước, Lê Thánh Tông đã ban hành nhiều chính sách để hoàn thiện bộ máy quan chế, hành chính, kinh tế, giáo dục - khoa cử, luật pháp và áp dụng các giá trị tân Nho giáo vào việc trị nước, an dân, làm cho Đại Việt trở thành một quốc gia ổn định và văn minh.
Ông xây dựng một hệ thống quan liêu đồ sộ từ trung ương tới địa phương, với tổng số quan trong, ngoài là hơn 5.300 người1. Lê Thánh Tông còn chia đất nước làm 12 thừa tuyên và phủ Phụng Thiên trực thuộc đế đô Đông Kinh, sai quan nghiên cứu hình thế núi sông mà đóng thành bản đồ Hồng Đức. Ông rất chú trọng tới việc tiến cử, cất nhắc quan lại tài năng, liêm khiết và nghiêm khắc bài trừ tệ tham nhũng, thói biếng nhác, phóng đãng và vô đạo đức trong giới quan chức2.
Lê Thánh Tông là một trong những nhân vật lịch sử có nhiều đóng góp đặc biệt hiệu quả cho đất nước và dân tộc.
________________
1. Xem Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr.291. 2. Xem K.W. Taylor: A History of the Vietnamese, Cambridge, University, Press, 2013, tr.213-215.
13
Điều đó được thể hiện từ việc giữ gìn và bảo vệ biên cương, bờ cõi, lãnh thổ, xây dựng và phát triển sức mạnh dân tộc, cho tới những đóng góp trong các lĩnh vực cụ thể như: văn học - nghệ thuật, lịch sử, địa lý, khoa cử giáo dục, chính trị - pháp luật, ngôn ngữ dân tộc... Những công lao đó đã tạo thành những quan hệ giá trị mang đặc trưng thời đại - thời đại Hồng Đức (như luật Hồng Đức, Hồng Đức bản đồ, Hồng Đức khoa cử, Hồng Đức tao đàn, Hồng Đức quốc âm...).
Tất cả những đóng góp của Lê Thánh Tông đã để lại ảnh hưởng lâu dài trong nhiều đời và những triều đại sau. Sẽ là hoàn toàn xác đáng khi nhận định rằng, Lê Thánh Tông là một vị nguyên thủ quốc gia, một nhà cách tân xuất sắc, nhà văn hóa, nhà thơ nổi tiếng của nước ta vào nửa sau thế kỷ XV.
Có thể nêu tóm tắt ở dưới đây những thành công lớn của ông trên một số lĩnh vực tiêu biểu:
Về xây dựng kinh tế, Lê Thánh Tông rất coi trọng sản xuất nông nghiệp như: khai hoang, lập ấp, củng cố đê điều, bảo vệ đàn gia súc... Đồng thời, ông cũng khuyến khích cho thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, khuyến khích dân mở chợ để đẩy mạnh trao đổi hàng hóa trong nước. Với nhiều tư tưởng đúng đắn nên ở thời Vua Lê Thánh Tông, lĩnh vực kinh tế rất ổn định và phát triển. Nhân dân sống trong cảnh no ấm, thái bình. Nạn ăn xin, chết đói đầy đường đã từng xảy ra dưới thời trị vì của vua cha, vua anh nay vắng bóng. Cảnh tượng cuộc sống no ấm, yên bình của nhân dân dưới thời trị vì của
14
Vua Lê Thánh Tông vẫn còn lưu truyền đến tận ngày nay trong câu ca dao truyền miệng:
“Đời Vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn”.
Về cải cách hành chính, Lê Thánh Tông rất chú ý đến việc xây dựng chính quyền vững chắc, ông đã đưa ra nhiều cải cách quan trọng như:
(1) Tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương, quy định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp, mỗi loại cùng sự ràng buộc lẫn nhau giữa các ngành, các cấp.
(2) Sắp xếp lại các khu vực hành chính thống nhất trong cả nước. Hệ thống cả nước có 5 đạo thành, 12 thừa tuyên; dưới đó là phủ, huyện, châu, tổng, xã. Việc làm này đáp ứng nhu cầu thống nhất và phát triển đất nước lúc bấy giờ.
(3) Năm 1467, ông cho điều tra, khám xét sông núi, mộng đồng, chuẩn bị vẽ bản đồ cả nước và năm 1469 thì định bản đồ cả nước gồm 12 thừa tuyên.
Đây là một bước tiến mới về khoa học địa lý họa đồ ở Việt Nam, phản ánh cả bước tiến triển mới về ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà.
Về quân sự, trong sự nghiệp trị nước, Lê Thánh Tông đã dành nhiều công sức cho việc cải tổ, huấn luyện quân đội, nhiều lần trực tiếp chỉ huy các cuộc chinh phạt, về mở mang bờ cõi phía Nam và phía Tây. Lê Thánh Tông đã chỉ huy quân đội giữ vững những vùng đất mới bất chấp
15
những áp lực từ phía Bắc. Trong quan hệ bang giao, Lê Thánh Tông luôn thể hiện sự cứng rắn để ngăn chặn các cuộc lấn chiếm biên giới của thổ quan và người dân tộc thiểu số miền núi bên Đại Minh1.
Về pháp luật, trong sự nghiệp trị vì 38 năm, Lê Thánh Tông đã xây dựng được một bộ luật hoàn chỉnh, đồ sộ và được lưu truyền đến ngày nay. Đó là Bộ luật Hồng Đức. Các nhà nghiên cứu đánh giá cao tính nhân đạo, tính duy lý; tôn trọng quyền lợi phụ nữ, quyền lợi xã hội nói
chung... trong Bộ luật Hồng Đức.
Về giáo dục và văn hóa, sự nghiệp khoa cử - giáo dục, đào tạo nhân tài dưới thời kỳ trị vì của Lê Thánh Tông phát triển mạnh mẽ: trường lớp được mở mang, nhiều luật lệ, quy chế, thi cử chặt chẽ cũng được đề ra... Triều đình đã tổ chức đều đặn ba năm một lần mở khoa thi (12 khoa
trạng nguyên. Sĩ tử dự thi rất đông, có khoa đông tới 3.000 người thi) lấy đỗ 501 tiến sĩ. Trong các triều đại phong kiến ở nước ta, có lẽ rất hiếm khi sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài lại được phát triển rầm rộ và vai trò của trí thức được đề cao như thời kỳ này.
Về văn học - thơ ca, dưới thời Lê Thánh Tông, phong trào sáng tác văn học rất sôi nổi, rầm rộ, nhất là phong trào sáng tác phổ biến bằng ngôn ngữ dân tộc. Bản thân ông đã sáng tác rất nhiều thơ, văn (cả chữ Hán và chữ Nôm). ________________
1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr.450.
16
Hồng Đức quốc âm thi tập gồm 300 bài thơ của Hội Tao Đàn, trong đó Lê Thánh Tông đóng vai trò chủ chốt, là một tác phẩm phản ánh nhiều mặt sinh hoạt của xã hội nước ta, rất có giá trị trong việc nghiên cứu các lĩnh vực ngôn ngữ, thơ ca và văn tự của nước nhà thời bấy giờ.
Cuối cùng, một việc làm rất dũng cảm là vào năm Quang Thuận thứ 5 (1464), Lê Thánh Tông đã minh oan cho người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Năm 1467, ông còn hạ lệnh cho sưu tầm sách vở nói chung, những tác phẩm của Nguyễn Trãi nói riêng còn đang nằm rải rác trong thiên hạ, đây là một đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà.
Tóm lại, các thành tựu trong trị nước của Lê Thánh Tông đã khiến cho Đại Việt trở thành một cường quốc trong khu vực Đông Nam Á. Hơn ba mươi năm trị vì của Lê Thánh Tông là “Triệu dân vỗ yên, trăm việc chấn chỉnh, văn giáo rộng ban, vũ công đại định”. Đánh giá và ghi nhận những đóng góp lớn lao đó, năm 1942, đúng vào dịp kỷ niệm 500 năm Ngày sinh của Lê Thánh Tông, trong cuốn Lịch sử nước ta Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ca ngợi:
“Vua hiền có Lê Thánh Tôn
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành”1.
________________
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.3, tr.262.
17
2. Một số hạn chế trong tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông
Bên cạnh những thành tựu đạt được là cơ bản trong “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông vẫn có những hạn chế nhất định trong sự nghiệp trị vì thiên hạ của ông. Có thể khái quát ở một số điểm sau:
Thứ nhất, một số quan điểm của ông còn bị chi phối bởi một thế giới quan phần nào còn mang tính duy tâm vì Lê Thánh Tông là người tin ở trời và mệnh trời. Có lẽ cũng chính do thế giới quan duy tâm này đã làm ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng “trị nước, an dân” của ông. Nhưng trên tinh thần khách quan, công tâm để đánh giá thì ở trong thời đại đó, việc rơi vào thế giới quan duy tâm là điều khó tránh khỏi. Hơn nữa, Lê Thánh Tông lại là người chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Nho giáo thời bấy giờ.
Thứ hai, hạn chế cơ bản nhất và cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến một số sai lầm khác trong tư tưởng “trị nước” của Lê Thánh Tông, đó là quá tập trung vào việc xây dựng bộ máy nhà nước siêu mạnh của chế độ phong kiến. Nhà nước quan liêu thời Lê Thánh Tông trước mắt đã đem lại sự ổn định, kỷ cương và thịnh trị ở một mức độ nhất định
cho xã hội Đại Việt nửa sau thế kỷ XV. Tuy nhiên, điều này lại làm cho xã hội phần nào thiếu năng động, đơn điệu, xơ cứng, ngay cả khi so sánh với những thế kỷ trước và sau đó. Khi mà nhà nước can thiệp quá sâu vào đời sống dân chúng, có nghĩa là triệt tiêu vai trò chủ thể,
18
chủ động của nhân dân. Điều đó sẽ không phải là một biện pháp tốt để đem lại sự giàu có và hạnh phúc cho đất nước lâu dài. Mặc dù rất cố gắng để diệt trừ tệ tham nhũng nhưng Lê Thánh Tông chưa thể khắc phục được triệt để tệ
nạn này. Một trong những nguyên nhân cơ bản nhất đó là bộ máy cồng kềnh và chế độ lương bổng thấp dưới thời của Lê Thánh Tông.
Ngược dòng lịch sử, cách đây hơn 2.500 năm, Lão Tử đã từng nêu lên cái hại của một “chủ nghĩa nhà nước toàn trị” là “trị nước lớn cũng như kho nồi cá nhỏ... Thiên hạ càng nhiều lệnh cấm thì nước càng nghèo, triều đình càng nhiều lợi khí thì quốc gia càng nhiễu loạn” (Đạo đức kinh). Và bản thân Lê Thánh Tông cũng thừa nhận sự hạn chế của thứ “chủ nghĩa nhà nước” đó là: “Trẫm từ khi lên ngôi đến giờ, tất cả những phép dạy dân nên phong tục tốt, những việc lấy lợi trừ hại cho dân không điều gì không nói trong các huấn dụ để các ngươi cứ theo thế mà làm. Thế mà của dân vẫn chưa được dồi dào, tục dân vẫn chưa được sửa tốt”1. Trong một sắc dụ
với đời, Lê Thánh Tông thừa nhận mình đã có sai lầm là làm “nhiễu loạn việc trời”.
Thứ ba, khi đề cập đến những hạn chế trong tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông, không thể không nhắc đến một số tư tưởng mang tính chủ quan của ông.
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, t.3, tr.520.
19
Thể hiện ở việc, có lúc Lê Thánh Tông tự coi mình đã là Thánh, coi triều đại mình đã là Đường, Nghiêu, Thuấn: “Ba chén rượu tự xem mình ngang ông thánh”. Hơn nữa, trong việc nhận định về mối quan hệ giữa mình với người
khác, ông tự cho mình là mặt trời. Trong một số ít trường hợp, Lê Thánh Tông đã biểu hiện sự tự kiêu, tự phụ, tự mãn, ý thức bản ngã khá nặng nề, sâu sắc. Trong hầu hết các tác phẩm của mình, con người Lê Thánh Tông như là
trung tâm, mọi người đều dưới quyền ông; công lao đều thuộc về nhà vua. Lê Thánh Tông ca ngợi dân tộc, đất nước và triều đại như để ca ngợi bản thân mình. Ông viết về sự vật dường như cũng là để viết về mình. Vì vậy, ở Lê Thánh Tông, cái nón cũng có nhân cách như ông vua: “cả mọn thế gian nhờ phù rợp, nào ai là chẳng đội lên đầu” (Hồng Đức quốc âm thi tập), cái bếp, cái rế cũng chứa đựng một quan hệ đạo đức phong kiến: “một bữa nào quên nghĩa chúa tôi”, con cóc cũng trở thành oai vệ: “Miếu Đường có thuở vang lừng tiếng, giúp được dân lành kẻo nắng nôi”.
Mang ý thức trên, Lê Thánh Tông khó có thể khách quan, toàn diện trong tất cả các nhận định, đánh giá; không phải lúc nào cũng nhận thức được sức mạnh của quần chúng nhân dân - điều mà thế hệ trước Lê Thánh
Tông trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh thấy rõ, nên ông khó có thể tìm ra những hướng phấn đấu mới. Vì vậy, tuy thông minh và có nghị lực, song Lê Thánh Tông không thể đạt tới những đỉnh cao trong lĩnh vực tư tưởng.
20
Cũng có người nêu lên và phê phán một số hành vi của Lê Thánh Tông như vì Lê Lăng trước có ý lập anh vua là Cung Vương Khắc Xương nên sau đó Lê Thánh Tông đã tống giam và bỏ chết Khắc Xương trong ngục, khép Lê Lăng vào tội “ngầm mưu làm phản” để giết hại. Về việc này, bộ quốc sử như Đại Việt sử ký toàn thư cũng bình
luận: “tình nghĩa anh em thiếu lòng nhân ái nó là chỗ kém vậy”.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông đôi lúc còn tuyệt đối hóa vai trò của tư tưởng đạo đức Nho giáo, phần nào đó là phiến diện. Ông coi tư tưởng đạo đức Nho giáo là yếu tố quyết định đưa tới xã hội thái bình, thịnh trị. Trên tinh thần khách quan để đánh giá thì hạn chế này là khó tránh khỏi, do ảnh hưởng của thời đại nên dưới nhãn quan của Lê Thánh Tông chưa có đủ điều kiện để nhận thức được rằng tư tưởng đạo đức đó có thể phù hợp với hiện thực đương thời nên mới phát sinh tác dụng thúc đẩy, còn trong tương lai chắc chắn sẽ không thể giữ được vị trí độc tôn.
Có thể nói đó là một số nhược điểm, thậm chí là những khuyết vết trong cuộc đời của Lê Thánh Tông gắn liền với chế độ quân chủ chuyên chế khi mà quyền uy của hoàng đế được coi là “tối thượng” và bất cứ một sự xúc phạm hay gây nguy hại nào dù nhỏ nhất hay gián tiếp đều bị loại trừ. Chế độ quân chủ chuyên chế không những để
lại một số hạn chế trong con người, cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông mà còn bộc lộ sự hạn chế của nó trong một số chính sách trị nước, an dân của ông. Có một số
21
ý kiến phê phán Lê Thánh Tông như: về việc xây dựng nhiều công trình, cung điện vượt quá quy mô xưa, quá trọng văn chương phù phiếm, xử sự khắc bạc với một số đại thần và anh em, tính khoa trương, bắt chước lối tổ chức nhà nước của Đại Minh, và “nhiều phi tần quá, nên mắc bệnh nặng” dẫn đến cái chết ở tuổi 561.
Nhìn chung cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thánh Tông có nhiều ưu điểm nổi bật hơn là một số hạn chế khó tránh khỏi. Nếu xét vấn đề từ yêu cầu khách quan, điều kiện nhận thức lịch sử - cụ thể thì phải thừa nhận rằng Lê Thánh Tông đã đóng góp công lao lớn vào sự thịnh trị của vương triều thời bấy giờ, thể hiện bằng sự thái bình và ổn định của đất nước Đại Việt trong suốt mấy chục năm cuối thế kỷ XV.
Những đóng góp to lớn đó đã đưa Lê Thánh Tông lên vị trí của một nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn, một danh nhân văn hóa có tầm cỡ. Lê Thánh Tông - một vị hoàng đế thời bình đã biết cách hàn gắn nguy cơ rạn nứt của một triều đại, để tiếp tục sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước một cách vẻ vang.
________________
1. Xem Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Trung tâm học liệu xuất bản, Hà Nội, 1971, tr.99.
22
Chương II
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TƯ TƯỞNG “TRỊ NƯỚC, AN DÂN”
CỦA LÊ THÁNH TÔNG
I- CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
“TRỊ NƯỚC, AN DÂN” CỦA LÊ THÁNH TÔNG
1. Những nhân tố khách quan quy định tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông
Nghiên cứu tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông không thể không đề cập đến những tiền đề khách quan của những tư tưởng đó. Nói đúng hơn là tình hình kinh tế, chính trị, xã hội - nền tảng tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông.
Tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông thể hiện sự tiến bộ thời đại; là sự phản ánh của tồn tại xã hội và tư tưởng đó do tồn tại xã hội sản sinh và quyết định. Đúng như C. Mác đã khẳng định: “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
23
Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, chính tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”1.
Do đó, bàn về cơ sở nảy sinh tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông không thể không nghiên cứu bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ bấy giờ với nhiều sự biến động lớn. Trước hết là thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho đất nước, tạo điều kiện để phát triển kinh tế, chính trị - xã hội. Sau thắng lợi đó, ruộng đất của bọn xâm lược, của những kẻ làm tay sai cho giặc, của quý tộc nhà Trần để hoang hóa đều bị triều đình tịch thu chia cho những người có đóng góp công sức vào cuộc kháng chiến. Nhờ đó nhiều người lao động có ruộng đất, những người trước đó còn phải làm thuê cho địa chủ thì nay địa vị của họ trong quan hệ sản xuất cũng được cải thiện hơn trước. Vì vậy, họ hăng hái sản xuất, nỗ lực tạo ra nhiều của cải vật chất cho gia đình và xã hội, khiến cho sự ấm no trong thôn, ngoài xóm trở thành phổ biến.
Về tình hình chính trị, loạn Nghi Dân tuy có xáo trộn cục diện chính trị trong một thời gian nhưng nhanh chóng được dẹp yên. Người ta đã kịp thời rút kinh nghiệm và nhận thấy phải ổn định để phát triển kinh tế và duy trì cho thể chế triều đình được vững vàng. Xu thế
________________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15.
24
phát triển đó còn tiếp tục kéo dài, tạo nền tảng cho đến thời Lê Thánh Tông.
Như vậy, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi đã tạo điều kiện cho chế độ phong kiến đương thời phát triển, từ chỗ còn phân tán dưới thời Trần đến chỗ tập trung hơn dưới triều Lê. Chế độ phong kiến dưới thời Trần với quyền lực phân tán cho các vương hầu địa phương đã làm cho chính quyền trung ương không được mạnh, bộ máy thống trị nặng nề và kém hiệu lực, thì dưới triều Lê, quyền lực đã được tập trung vào tay vua. Do đó triều đình điều hành bộ máy nhà nước dễ dàng hơn và chính sách ban ra được thực hiện tốt hơn.
Mặt khác, khi đánh giá tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông, có thể nhận thấy tư tưởng của ông không phải là một phát minh đột xuất, mà nó có “Nguồn gốc cơ sở lịch đại và đồng đại, chịu ảnh hưởng trong nước và ngoài nước”1. Ông là vị vua thứ tư triều Lê sơ (không kể Nghi Dân); ông tự cho mình là trung thành với tổ tông, tất nhiên ông đã chịu ảnh hưởng sâu sắc những tư tưởng, tính cách của ông, cha, anh mình. Phải chăng ông đã thừa hưởng được ở Lê Thái Tổ truyền thống “Ấn định luật lệ, chế tác lễ nhạc... xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện”2,
________________
1. Nguyễn Thừa Hỷ: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, tr.71. 2. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr.240, 310, 358.
25
ở Lê Thái Tông là tinh thần “Bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di Địch, trọng đạo sùng Nho, mở khoa thi chọn kẻ sĩ”1, và ở Lê Nhân Tông là quan niệm “Thương người làm ruộng, yêu muôn dân”2.
Điều này đã chứng tỏ tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông chính là sự kế thừa, tiếp nối có chọn lọc, đồng thời phát triển đến đỉnh cao những quan điểm chính trị của các triều Lê sơ trước đó.
Về yếu tố ngoại sinh, cũng như các nhà vua Lê sơ tiền triều, tư tưởng, đường lối trị nước của Lê Thánh Tông đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc của một mô hình xã hội phong kiến Trung Hoa, lúc này là nhà Minh - một triều đại ở giai đoạn cao của nền quân chủ chuyên chế. Đồng thời, tiếp biến từ nhiều thế kỷ trước, hệ tư tưởng Nho giáo
và văn hóa Trung Hoa đã ồ ạt tràn vào và đọng lại trong xã hội Đại Việt (qua hai thập kỷ thuộc Minh), trên thực tế là cuộc Bắc thuộc lần hai. Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, các vua Lê đã chủ động tiếp thu những tinh hoa và mô phỏng ở mức cao nhất những thể chế, hệ tư tưởng, lễ nghi của văn hóa phương Bắc với ý muốn sánh ngang bằng nhà nước và triều đại Trung Hoa. Đồng thời, hạn chế tối đa những yếu tố văn hóa Đại Việt dân gian bản địa vốn thấm đậm trong xã hội thời Lý - Trần thì nay bị coi là lạc hậu, không hợp lễ.
________________
1, 2. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, tr.310, 358.
26
Với những biến đổi của tình hình trong nước hết sức sâu sắc và những ảnh hưởng của tình hình bên ngoài vào đã tạo ra những tiền đề cho công cuộc trị nước, an dân của Lê Thánh Tông. Nghiên cứu sâu về nhân tố khách quan không những làm sâu sắc hơn những thành công và hạn chế trong sự nghiệp trị nước, an dân của Lê Thánh Tông mà còn chứng minh được vai trò quyết định của các nhân tố khách quan đối với nhân tố chủ quan. Nói cách khác, các anh hùng - vĩ nhân trong lịch sử chính là sản phẩm của thời thế.
Như vậy, suy đến cùng, các nhân tố khách quan là cơ sở, tiền đề và giữ vai trò quyết định đối với đường lối “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông. Bởi vì, các điều kiện, quy luật khách quan luôn buộc các chủ thể phải tính đến trước tiên trong mọi hoạt động và là cội nguồn làm nảy sinh tri thức, tình cảm, ý chí, nguyện vọng, quyết tâm hành động cải biến hiện thực. Tuy vậy, theo quan điểm biện chứng khoa học, khi khẳng định nhân tố khách quan là nhân tố có vai trò quyết định, không những không phủ nhận mà còn đánh giá cao vai trò của nhân tố chủ quan (tính năng động, sáng tạo, tích cực của con người). Trong trường hợp này chính là hoàn cảnh và tư chất của con người Lê Thánh Tông (nhân tố chủ quan). Những phẩm chất sáng tạo, tích cực của Lê Thánh Tông trong các quyết sách chính trị đã thúc đẩy nhanh hơn tiến trình phát triển của triều đại. Đúng như V.I. Lênin
27
từng khẳng định: “Thế giới không thỏa mãn con người, và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình”1.
2. Nhân tố chủ quan quy định tư tưởng “trị nước, an dân” của Lê Thánh Tông
Trong trường hợp của Lê Thánh Tông, các nhân tố chủ quan đã tác động một cách chủ động và tích cực trở lại các nhân tố khách quan. Hơn nữa, các nhân tố chủ quan còn góp phần làm thay đổi những điều kiện khách quan. Điều này đã chứng tỏ rằng, các anh hùng vĩ nhân không những là sản phẩm của lịch sử mà còn là người sáng tạo ra lịch sử.
Lê Thánh Tông, với 38 năm trị vì đất nước, có thể khẳng định đường lối trị nước, an dân của ông mang dấu ấn của một cá tính mạnh. Bản thân Lê Thánh Tông lại là người có tư chất năng động, ham làm việc, sớm tối không rời việc đọc sách:
“Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu”2.
Hằng ngày, Lê Thánh Tông đọc sử sách nói về nhà Hán, nhà Đường nên ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa lại càng sâu đậm. Chính vì vậy, với một cá tính mạnh được
________________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.29, tr.229.
2. Mai Xuân Hải: Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986. Bài tự thuật.
28
nảy sinh từ hoàn cảnh và tư chất của Lê Thánh Tông đã góp phần đáng kể vào sự hình thành đường lối trị nước, an dân của ông.
Lê Thánh Tông (1442-1497), sinh ra và lớn lên trong một hoàn cảnh lịch sử đầy rẫy những cuộc khủng hoảng chính trị cung đình (cái chết đột tử của Lê Thái Tông đã dẫn đến vụ thảm án Nguyễn Trãi năm 1442, vụ Nghi Dân tiếm ngôi năm 1459), lúc nhỏ phải cùng mẹ đẻ ra ngoài Hoàng thành lánh nạn, nương nhờ trong dân gian ở chùa Huy Văn. Hoàn cảnh đó đã góp phần tạo nên ở Lê Thánh Tông một nhân cách trưởng thành sớm, già dặn, đánh giá như Vũ Quỳnh là: “anh minh, quyết đoán”.
Năm Thái Hòa thứ 3 (1445) ông được anh trai (Vua Lê Nhân Tông) phong Bình Nguyên vương giữ lễ phiên thân ở Kinh đô và được học tập cùng với các vương thần khác. Nhờ vậy mà ở ông đã sớm có một nền học vấn kinh
viện, bác học. Mặt khác, cũng do sống ở ngoài hoàng cung mà ông có dịp gần gũi với dân chúng nên tình cảm, tư tưởng “thân dân” của ông đã có cơ hội nảy sinh từ thời còn trẻ.
Lê Thánh Tông là người thông minh, đầy tự tin, lên ngôi giữa độ tuổi thanh niên đầy sung sức - khi 18 tuổi1. Ông cũng là người có bản chất giàu tình cảm, yêu chuộng điều thiện, siêng năng làm việc. Sử sách chép về ông
________________
1. Trong khi Thái Tông lên ngôi lúc 11 tuổi, Nhân Tông lên ngôi lúc 2 tuổi.
29
viết: “Ngài ưa điều thiện, thích điều hiền, chăm không mỏi”. Có thể nhận thấy, trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, ít có vị vua nào có được khối lượng tri thức sách vở uyên bác, văn võ song toàn như Lê Thánh Tông. Nhà sử học Vũ Quỳnh khi nhận xét về Lê Thánh Tông đã viết: “Vua tự trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà
Thánh học rất chăm”.
Từ khi lên nắm vương quyền, Lê Thánh Tông còn là một vị vua có ý thức mãnh liệt về việc làm cho triều đại hưng thịnh, nhân dân thái bình, đất nước giàu mạnh. Ý thức này nảy sinh là do ông nắm bắt được yêu cầu của thời đại. Lúc bấy giờ, vấn đề đặt ra cho Lê Thánh Tông không phải là tìm cách bảo vệ triều đại mình - một triều đại đang có sức sống, mà phải tìm cách để làm sao cho triều đại đó phát triển. Việc này không dễ dàng đối với Lê Thánh Tông hay bất kỳ một vị vua nào khác, phải có quyết tâm cao và nỗ lực rất lớn thì mới thành công được. Và Lê Thánh Tông đã có được những điều kiện chủ quan đủ đầy để đón nhận và giải mã thành công những thách thức đó.
Lê Thánh Tông còn có ý thức đúng đắn trong kế thừa và phát huy mạnh mẽ các tư tưởng “trị nước, an dân” trước đó, trong đó, phải kể đến tư tưởng của Nguyễn Trãi, vì nó giữ vai trò định hướng cho tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông. Nguyễn Trãi từng tâm niệm: “Đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”. Câu nói nổi tiếng của
30
Nguyễn Trãi cũng xuất phát từ học thuyết “dân vi quý” (dân là quý) của Khổng Tử, Mạnh Tử. Trong một lần Nguyễn Trãi ra thăm cửa biển Bạch Đằng đã viết bài thơ Quan hải (Ngắm biển). Bạch Đằng - nơi vẫn còn vết tích trong trận bại chiến của Hồ Quý Ly chống Trương Phụ và Mộc Thạnh nhà Minh. Trước sự thất bại của Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi nhận ra điều mà đã ăn sâu trong tâm hồn, trí tuệ ông bấy lâu nay: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (lật thuyền mới biết sức dân như nước - đẩy thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân). Ông đã đúc kết điều đó trên nền tảng Nho giáo với học thuyết “dân vi quý”, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là thực tiễn của dân tộc Việt Nam. Tin ở dân, chăm lo cho dân, lấy dân làm gốc là một bài học quý báu được rút ra từ lịch sử dân tộc. Vận nước thịnh hay suy, mất hay còn là do sức mạnh của nhân dân quyết định.
Tất cả những yếu tố trên đã giúp Lê Thánh Tông thực hành kiên quyết và triệt để những tư tưởng, đường lối, quan điểm “trị nước, an dân” của chính mình một cách khá toàn diện và hiệu quả. Thực tế lịch sử đã chứng minh, ở Lê Thánh Tông, không có cái gì là do dự, nửa vời; ý kiến và hành động thường rất dứt khoát, đôi khi đến cực đoan.
Tóm lại, với tư chất thông minh, cần cù, tự tin, ý chí kiên định và hành động quyết đoán (điều kiện chủ quan) trong một điều kiện khách quan đầy biến động, Lê Thánh Tông đã biết kết hợp thành công hai điều kiện này để tạo nên
31
sự thịnh trị trong vương triều của ông. Có thể nói Lê Thánh Tông chính là người mà lịch sử cần và lịch sử tạo ra như là một tất yếu của lịch sử.
Với sự kiện vào ngày 18 tháng 6 năm Canh Thìn (tức ngày 26 tháng 6 dương lịch) năm 1460, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa, truất bỏ Nghi Dân, lập Lê Thánh Tông, vừa mang tính tất nhiên vừa ngẫu nhiên này lại là một cơ may cho lịch sử Đại Việt nửa cuối thế kỷ XV.
II- NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG “TRỊ NƯỚC” CỦA LÊ THÁNH TÔNG
1. Tư tưởng về kinh tế
Triết học Mác - Lênin khẳng định, kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, kinh tế giữ vai trò quyết định đối với chính trị, còn “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, cũng đồng quan điểm như C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin khẳng định vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị. Quan điểm của V.I. Lênin về vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện trong luận điểm: “Trong sản xuất vật chất, con người ở trong những mối quan hệ nhất định với nhau, những quan hệ sản xuất. Những quan hệ này bao giờ cũng phù hợp với trình độ phát triển của năng suất mà những lực lượng kinh tế
32
của các quan hệ ấy có được trong thời kỳ đó. Toàn bộ những quan hệ sản xuất đó tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng chính trị và pháp lý và phù hợp với cơ sở đó là những hình thức ý thức xã hội nhất định. Như vậy, phương thức sản xuất quyết định các quá trình của đời sống xã hội, chính trị và thuần túy tinh thần”1.
Trong xã hội, giai cấp giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế sẽ thống trị về mặt chính trị. Lợi ích kinh tế xét đến cùng là căn nguyên cơ bản của những hành động chính trị.
Tư tưởng kinh tế là kết quả của quá trình nhận thức những quan hệ kinh tế của một cộng đồng dân cư qua từng thời kỳ lịch sử nhất định. Mặt khác, tư tưởng kinh tế lại có tính độc lập và tính kế thừa theo không gian và thời gian. Con người tiến hành các hoạt động kinh tế và tư duy kinh tế không thể thoát ly khỏi điều kiện và tiền đề có sẵn.
Trong lịch sử Việt Nam thời trung đại chưa từng xuất hiện và tồn tại một học thuyết kinh tế độc lập và hoàn chỉnh, cũng như không có những nhà tư tưởng kinh tế thực thụ, nhưng như vậy không có nghĩa là không cần hoặc không có gì để tìm hiểu tư tưởng kinh tế của các thời đại đã qua. Nếu như không thể tìm thấy ________________
1. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.1, tr.160.
33
những biểu hiện tập trung, khái quát trong một vài tác phẩm của một số tác giả chuyên biệt về vấn đề này thì chí ít cũng có thể tìm hiểu nó qua những đạo luật, những chính sách kinh tế, những chiếu chỉ của vua, tấu biểu của đình thần, đặc biệt là qua các yêu sách kinh tế của quần chúng nhân dân. Điều đó có nghĩa là phải nghiên cứu tư tưởng kinh tế của các thời đại đã qua bằng phương pháp gián tiếp. Hơn thế nữa, tư tưởng kinh tế cũng không thể tìm hiểu tách biệt với các loại tư tưởng trị quốc khác. Do đó, nghiên cứu tư tưởng trị nước của Lê Thánh Tông thì đồng thời phải nghiên cứu cả tư tưởng kinh tế của ông.
Thời Lê Thánh Tông, tư tưởng kinh tế là một yếu tố mang tính chất quyết định đến sự hưng thịnh của vương triều. Đó cũng chính là lý do và điều kiện để tiến hành nghiên cứu tư tưởng kinh tế thời Lê Thánh Tông.
Những nội dung chính trong tư tưởng kinh tế của Lê Thánh Tông:
Ở một nước có nền nông nghiệp trồng lúa nước xuất hiện sớm và trở thành ngành kinh tế chủ đạo thì việc các nhà cầm quyền quan tâm, chú ý đến nông nghiệp là lẽ đương nhiên. Ngay từ khi xây dựng nhà nước độc lập buổi đầu ở thế kỷ X, các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiến hành các nghi lễ mang ý nghĩa trọng nông.
Khởi đầu với nghi lễ cày Tịch điền của Vua Lê Đại Hành vào năm 987, các triều đại Lý, Trần sau đó vẫn tiếp tục duy trì các nghi lễ này và tiến thêm một bước là đưa
34
vào trong chính sách, hành động cụ thể, thiết thực hơn để khuyến khích nông dân như: ra chiếu chỉ khuyến nông, ban hành điều luật cấm giết mổ trâu bò để bảo vệ sức kéo, vua đi xem gặt và đặc biệt là chương trình đắp đê ngăn lũ mở đầu từ thời Lý và tiến hành quy mô lớn vào năm 1248 dưới thời Trần...
Nhà nước Lê sơ cũng tiếp tục các chính sách tăng cường phát triển kinh tế nông nghiệp. Các vua Lê nhiều lần ban hành chiếu khuyến nông nhằm khôi phục đồng ruộng bỏ hoang sau chiến tranh, khôi phục lễ cày Tịch điền, mở rộng và củng cố hệ thống đê ngăn lũ và đắp đê chuyên ngăn mặn, mở rộng diện tích đất trồng ở vùng ven biển tiêu biểu như: đê Hồng Đức, chính sách lập đồn điền, thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi quân ở nơi đồng ruộng - cho quân đội thay nhau về làm ruộng)...
Đến thời Lê Thánh Tông, ông đã ban hành nhiều chính sách rất cụ thể chú trọng đến nông nghiệp. Thực hiện phương châm “bất vi nông thời” (không làm trái thời vụ nhà nông) và “sử dần dĩ thời” (sai khiến dân thì phải chú ý đến nông vụ). Nhằm tăng cường sức lao động cho nông nghiệp vào thời vụ cần kíp, Nhà nước thời Lê Thánh Tông không chỉ cho quân đội thay phiên nhau về làm ruộng mà còn huy động cả các lực lượng “phi nông nghiệp” khác cho mùa vụ. Sắc chỉ năm Bính Tuất (1466)
ghi rõ: “Vào tháng 5, tháng 6, đương mùa làm ruộng, các quân nhân ứng dịch ở thường ban thì cho ở lại túc trực và làm các việc giữ cửa, coi nhà, canh điếm, lợp nhà, cắt cỏ,
35
nuôi voi, còn các sắc quân ở các sảnh, viện và những thợ ở cục Bách tác thì giữ lại một nửa làm việc, còn thì cho về làm ruộng”1. Những việc xây dựng, tu tạo không được huy động sức dân vào lúc đương thời vụ.
Thậm chí, luật thời Lê còn được quy định để cho phép chuộc ruộng vào các tháng 3 mùa xuân và tháng 6 mùa hè - là những tháng rỗi rãi của việc đồng ruộng. Nếu giữa kỳ làm ruộng mà cưỡng đòi ruộng thì theo luật, người vi phạm bị đánh 80 trượng và bị tội đồ2.
Có thể nhận thấy, sự quan tâm đến nông nghiệp và đặt nông nghiệp lên hàng đầu của Lê Thánh Tông là có cơ sở, kinh nghiệm thực tế và hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, đến thời Lê Thánh Tông thì sự quan tâm đến nông nghiệp đã khác với các thời kỳ trước. Hơn ai hết, Lê Thánh Tông đã xác định lương thực, cái ăn là trời của dân.
So sánh với thời Lý - Trần, mặc dù rất quan tâm đến nông nghiệp nhưng thời Lý - Trần vẫn chưa có biểu hiện đem đối lập giữa nông nghiệp với thủ công nghiệp và thương nghiệp. Thời kỳ này tầng lớp công thương vẫn được tôn trọng trong xã hội. Chẳng hạn, một viên tướng nổi tiếng như Trần Khánh Dư nhưng vẫn vừa làm quan vừa làm nón để kiếm lời, hoặc khi khác thì về buôn than.
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.449.
2. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972, tr.197.
36
Vua Trần Dụ Tông cũng “sai tư nô cày riêng đất ở bờ bắc sông Tô Lịch trồng hành tỏi rau dưa đặt giá bán”1. Sang đến thời Lê, đặc biệt là thời trị vì của Lê Thánh Tông, sau khi lên ngôi, ngay từ năm 1461, Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như: sửa đổi luật thuế khóa, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền, kêu gọi người phiêu tán về quê, đặt ra luật quân điền chia đều ruộng đất cho mọi người. Về thuế má, Lê Thánh Tông quy định người già từ 60 tuổi trở lên và hoàng đinh (thanh thiếu niên) dưới 18 tuổi, cùng những người tàn tật và những người thuộc về tráng (hạng tòng quân) đều được miễn thuế đinh; còn lại mỗi nhân đinh phải nộp thuế đồng niên là 8 tiền. Lê Thánh Tông còn định lệ thuế đất, thuế ruộng và thuế đất bãi trồng dâu. Cả ba thứ đất này đều được chia làm 3 hạng, dựa theo số mẫu mà đóng thuế2.
Lê Thánh Tông rất chú trọng nông nghiệp. Ngay từ khi mới lên ngôi, tháng 3 âm lịch năm 1461, ông đã ra sắc chỉ cho các quan, huyện, lộ, trấn, xã nhằm tối đa hóa sản xuất, xác định và khuyên bảo quân dân đều chăm chỉ nghề nghiệp sinh nhai để đủ ăn đủ mặc, không nên bỏ nghề gốc theo nghề ngọn, không được lấy danh nghĩa hoặc mượn cớ đi buôn bán và làm kỹ nghệ để chơi bời dông dài...: “Từ nay về sau, trong việc làm ruộng, phải
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1982, t.2, tr.60.
2. Xem Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Sđd, tr.99.
37
khuyến khích quân dân đều chăm nghề nghiệp sinh nhai, để đủ ăn mặc, không được bỏ gốc theo ngọn, hoặc kiếm chuyện buôn bán, làm trò du thủ du thực. Người nào có ruộng đất mà không chăm cày cấy, thì quan cai trị bắt trình trị tội”1. Nghề làm ruộng, trồng dâu, nuôi tằm được coi là “nghề gốc”, còn buôn bán và làm nghề thủ công được coi là “nghề ngọn”. Các chiếu dụ tiếp theo đều nhắc lại nhiệm vụ của các quan phủ, châu, huyện khuyên nhủ nhân dân làm ruộng, trồng dâu, giữ gìn phong tục cho được thuần hậu. Ông còn lập các chức quan Hà đê, Khuyến nông để dễ chăm lo việc nông trang. Ông còn ra lệnh cho Hộ bộ và các quan địa phương báo cho ông biết nơi nào có đất hoang, rồi ông dụ phủ huyện đôn đốc dân đi khai hoang, mở ruộng2. Năm 1466, theo lời tâu của Tuyên chính sứ Tây đạo Trần Phong, Lê Thánh Tông tuyên bố các văn tự cầm bán ruộng đất từ thời Trần, Hồ và thời thuộc Minh hết hiệu lực và không được chuộc lại, nhưng nếu từ sau năm 1428 thì cho phép chuộc lại3. Ông cũng đặt ra những quy định về quyền tư hữu ruộng đất, nghiêm trị những người cưỡng đoạt, lấn chiếm ruộng của người khác, hoặc chặt cây và tre trong ruộng của người khác. Theo nhà sử học người Mỹ K.W. Taylor, triều đình
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.439.
2. Xem Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Sđd, tr.99. 3. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.448.
38
Lê Thánh Tông quan tâm đến đời sống làng xã hơn bất kỳ một triều vua nào trước. Điều này xuất phát từ sự gia tăng số lượng quan chức ở làng xã và từ cách cai trị sâu sát của hoàng đế1.
Dưới thời Lê Thánh Tông, dân số Đại Việt gia tăng mạnh mẽ, lệnh chỉ năm 1477 khẳng định: “Sinh dân các huyện, châu, xã ở các xứ trong nước mỗi ngày một đông...” . Để đáp ứng nhu cầu lương thực của một lượng dân số lớn như thế, triều đình phải đẩy mạnh khai khẩn những vùng đất hoang. Do đó, năm 1481, Lê Thánh Tông cho lập 42 sở đồn điền trong cả nước, chia thành 3 bậc thượng, trung, hạ, với nguyện vọng “dùng hết tiềm lực của nghề nông, mở rộng nguồn tích trữ cho nhà nước”2. Bên cạnh đó, thời Thánh Tông trị vì có một số lần hạn hán, đói kém xảy ra (1467, 1468, 1473, 1476, 1489-1490, 1492), ông đều giải quyết thành công. Chẳng hạn, năm 1467 có sâu cắn lúa, nhà vua cử Lễ bộ Thượng thư, Lại bộ Thượng thư
và các đạo sĩ đi tế thần linh để diệt trừ sâu lúa. Ông còn giảm tô ruộng và thuế nhân đinh sau khi nghe Hộ bộ tâu là mùa màng kém. Khi thiên tai xảy ra làm đê điều tan vỡ, ruộng lúa bị ngập và nhiều người chết đói, Lê Thánh Tông lập tức ban lệnh ngừng xây dựng cung thất, lại cho quân sĩ vùng ven biển hoãn thao luyện để dồn sức khôi phục các đê ven biển và giảm thiểu thiệt hại của bão.
________________
1. Xem K.W. Taylor: A History of the Vietnamese, Sđd, tr.217-218.
2. Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Sđd, tr.99.
39
Đồng thời, ông sai Giám sát Đinh Nhân Phủ, Thiều Duy Tinh chia nhau đi đôn đốc việc xây lại đê điều. Cùng thời gian này, giá gạo ở Kinh đô tăng vọt, nhà vua thấy giá gạo ở Nghệ An rẻ hơn nên sai quan thừa tuyên Nghệ An vận chuyển gạo về Kinh sư1. Hoặc như trong năm 1489- 1490 có đại hạn, Thánh Tông ban bố lệnh đại xá gồm 45
điều, rồi truyền Hàn lâm viện cùng các Khoa, Đài, Cẩm y vệ hiệu úy chia nhau đến các phủ huyện, phát thóc công để cứu đói cho dân2. Thấy trời không mưa, Thánh Tông tự mình cầu đảo, cuối cùng trời có mưa. Chính sách nông nghiệp của Lê Thánh Tông đã khiến cho việc canh nông trôi chảy: “thời tiết thuận hòa, mùa màng bội thu, dân
chúng yên vui, muôn vật dồi dào”.
Từ việc xác định nghề nông là “gốc rễ trong nước” thì Nhà nước thời Lê Thánh Tông cũng coi công thương nghiệp là nghề ngọn và chủ trương vun gốc, xén ngọn - khuyến khích nông nghiệp và hạn chế công thương nghiệp.
Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng ngay từ đầu thời Lê Thánh Tông đã phát triển mạnh mẽ. Một số nghề như nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế giới thời bấy giờ, số lượng sách in thời này khá
đồ sộ. Các nghề thủ công như: dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Đế đô Đông Kinh 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy, ________________
1, 2. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.458.
40
phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xã đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác nữa. Đặc biệt nhất là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế ở thời kỳ này. Đồ gốm, sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp không thua kém đồ dùng Trung Hoa. Bởi vậy, vua quan thời Hồng Đức ưu tiên dùng hàng quốc nội, không lệ
thuộc vào đồ dùng Trung Hoa: Người nước ta ưa chuộng gấm vóc, đồ dùng của người Tàu; mỗi năm có tàu buôn đến, thì hao tổn tiền không biết đâu mà kể; có biết đâu rằng trong đời Hồng Đức những đồ mâm, bát, bình, chén
dùng ở trong cung vua, đều là của nước ta chế tạo, không thấy nói lấy đồ của Tàu làm quý. Đồ dùng của nước ta tinh xảo chả kém gì Trung Hoa, cứ cho mẫu mà bảo thợ chế tạo, thì sao lại chả tinh xảo được? Đó là một cách bỏ thói xa xỉ, làm cho nước giàu. Xa nữa thì nên bắt chước vua Lý Thái Tông, gần thì lấy đời Hồng Đức làm mẫu mực1.
Về thương mại, hoạt động nội thương thời Lê Thánh Tông chủ yếu là hình thức trao đổi sản phẩm giữa các địa phương. Nhờ hệ thống đường sá được xây dựng và đường sông được khơi đào, việc lưu thông hàng hóa giữa các địa phương khá thuận lợi. Đông Kinh là trung tâm buôn bán lớn và sầm uất nhất. Do có ưu thế về vị trí, những người
________________
1. Xem Ngô Thì Sĩ, Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc Văn hóa Á Châu (phiên dịch): Việt sử tiêu án, Nxb. Văn Sử, Hà Nội, 1960, tr.47.
41
buôn bán muốn đến Đông Kinh bằng đường bộ hay đường sông đều thuận tiện. Ngoài Đông Kinh và một vài thị trấn là trung tâm buôn bán, hầu hết là các chợ nằm ở các địa phương. Mỗi xã có một chợ hoặc một vài xã lân cận có một chợ chung. Chợ họp hằng ngày hoặc theo những ngày nhất định trong tháng gọi là ngày phiên chợ. Họp chợ là dịp để những người trong địa phương và các lái buôn từ xa tới buôn bán trao đổi sản phẩm - chủ yếu là trao đổi giữa nông phẩm và sản phẩm thủ công1.
Để tạo thuận tiện cho việc mua bán Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng:
Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng hóa, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau.
Do dân cư ngày càng đông đúc và nhu cầu trao đổi hàng hóa ngày càng lớn, năm 1477, Lê Thánh Tông ra quy định về việc chia chợ. Theo đó, các quan phủ, huyện, châu phải xem xét thực trạng, nếu việc chia chợ là thuận tiện cho việc buôn bán của dân thì làm bản tâu lên xin phép triều đình. Luật Hồng Đức có quy định cấm những hành động sách nhiễu và thu thuế quá cao đối với các chợ. Điều 186
chương Vi chế ghi: Những người coi chợ trong kinh thành mà sách nhiễu tiền lều chợ thì xử tội xung, đánh 50 roi, ________________
1. Xem Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, t.3, tr.329.
42
biếm 1 tư; lấy thuế chợ quá nặng biếm 2 tư, mất chức coi chợ và bồi thường tiền gấp đôi trả cho dân, tiền phạt trả cho người cáo giác. Nếu lấy thuế chợ không đúng luật thì
đánh 80 trượng và dẫn đi rao trong chợ 3 ngày1. Bên cạnh đó, đối với ngoại thương Lê Thánh Tông thực hiện chính sách ức chế nghiêm ngặt2. Trên cửa khẩu dọc biên giới miền duyên hải, triều đình lập cơ quan kiểm soát ngoại thương rất khắt khe. Những nhà buôn ngoại quốc đến Đại Việt buôn bán chỉ được ra vào hạn chế tại một số địa điểm quy định, chủ yếu là Vân Đồn (Quảng Ninh). Tại các cửa biển có các quan Sát hải sứ kiểm soát tàu bè, các An phủ ty và Đề Bạc ty kiểm soát buôn bán và đi lại. Nhân dân và quan lại vùng duyên hải tự ý mua hàng hóa của người nước ngoài hoặc đón tiếp các thuyền buôn thì sẽ bị nghiêm trị, phạt tiền rất nặng, từ 50 quan đến 200 quan3. Chính sách này có một phần lý do xuất phát từ nhu cầu tự vệ để ngăn ngừa do thám của ngoại bang và mặt khác do tư tưởng trọng nông, muốn gắn chặt người dân với đồng ruộng, không cho người dân rời đồng ruộng và quê hương đi buôn bán4. Còn sử gia Tạ Chí Đại Trường trong sách Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam (2009) thì liên hệ chính sách này với nguồn gốc miền núi của hoàng triều Lê cũng như việc tôn sùng Nho giáo vào thời Lê Thánh Tông: Dù rằng ngày nay có người cố tìm
________________
1, 2, 3, 4. Xem Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, Sđd, t.3, tr.329, 333, 335, 333.
43
dấu vết thương nghiệp trong thời Lê sơ nhưng rõ ràng là ngoài các chứng cứ thành lập chợ búa, đã không thấy những hoạt động ngoại thương ảnh hưởng đến triều đại mà lại còn thêm các hành động hạn chế ngay từ trên triều đình. Các quan sứ đi Bắc gồng gánh buôn bán lúc về bị bêu xấu công khai... Thánh Tông mới lên ngôi đã có lệnh khuyến khích làm ruộng, ngăn cấm không được “bỏ gốc theo ngọn, kiếm chuyện buôn bán làm trò du thủ du thực” khiến Nhà nước không thể kiểm soát người được. Có thể đó là do lối nhìn hẹp hòi từ nguồn gốc rừng núi của tập họp Lê và phe nhóm quen lối trao đổi hàng hóa ở khu vực nhỏ, thấy tức tối trước món lợi lộc liên quốc gia của đám sứ thần vốn là người trung châu (họ Trần nhiều rõ rệt) đưa về. Và biện minh cho thái độ phủ nhận đó lại là mớ tư tưởng nho gia chống đối việc “bỏ gốc (nông) theo ngọn (thương)” như đã thấy trên. Đồng thời cũng là do sự thần phục Minh đã ảnh hưởng đến tình trạng co rút của đất nước trong lúc các tập đoàn phương Tây chưa bén mảng đến vùng đất này. Thế là cuộc sống vẫn gói trọn trong vòng nông nghiệp và buôn bán nhỏ mà dấu hiệu xây cất chợ lại là một minh chứng1.
Sự ngăn cấm khắt khe của Lê Thánh Tông và triều đình Hậu Lê khiến ngoại thương phát triển rất kém. Thuyền buôn các nước vào thưa thớt, các chợ miền biên như Kỳ Lừa
________________
1. Xem Tạ Chí Đại Trường: Sơ thảo: Bài sử khác cho Việt Nam, Nxb. Kệ sách, 2009, tr.141.
44
(Lạng Sơn), Móng Cái, Vạn Ninh, Vân Đồn (An Bang)... suy giảm dần. Năm 1467, thuyền buôn Xiêm La đến Vân Đồn dâng biểu bằng vàng lá và hiến sản vật quý để xin thông thương nhưng bị Lê Thánh Tông khước từ. Chính sách đó cản trở sự phát triển kinh tế hàng hóa, làm cho quá trình tách rời thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp và quá trình phát triển của các đô thị rất khó khăn1.
Trên tinh thần đó, Nhà nước thời Lê Thánh Tông đã giữ độc quyền trong việc giao dịch buôn bán với nước ngoài và không khuyến khích thương nghiệp giữa các vùng trong nước. Việc nhập cư và đi lại buôn bán từ các nơi về
thành Đông Kinh bị hạn chế và ngăn cấm. Nhà nước chỉ cho phép mở các chợ ở làng quê để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp và thủ công nghiệp trong từng vùng miền...
Có thể nói, trong lịch sử nước ta, tư tưởng trọng nông ức thương bắt đầu xuất hiện và được thi hành triệt để dưới thời Lê Thánh Tông. Có lẽ từ đây cũng xuất hiện quan điểm phân tầng xã hội làm tứ dân: sĩ, nông, công, thương.
Để thực hiện tư tưởng kinh tế của mình, Lê Thánh Tông đã tăng cường vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước.
Sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, yêu cầu tất yếu là phải củng cố và xây dựng một nhà nước vững mạnh nhằm giữ gìn độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Sau chiến tranh, Nhà nước Lê sơ có điều kiện nắm trong tay số ________________
1. Xem Viện Sử học: Lịch sử Việt Nam, Sđd, t.3, tr.337.
45
ruộng đất lớn... Đó là thực tế đặt ra cho vương triều này phải có biện pháp phục hồi nền nông nghiệp bị tàn phá. Với việc thể chế hóa chính sách ban cấp lộc điền và phép quân điền, Lê Thánh Tông đã đạt được nhiều mục tiêu: bảo đảm quyền lợi cho tầng lớp quan lại, các công thần có
công xây dựng, bảo vệ đất nước và vương triều, duy trì cơ sở kinh tế để bảo đảm cho người nông dân có một phần ruộng đất để gánh vác các nghĩa vụ tô thuế, sưu dịch và đi lính cho Nhà nước. Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến giới quan lại - tầng lớp trung gian giữa nhà vua và dân chúng.
Công thần là tầng lớp không thể bỏ qua, Lê Thánh Tông đã phải dùng cả ân và uy để chế ngự họ. Người có công, Lê Thánh Tông đã không tiếc để phủ dụ. Vừa lên ngôi, ông xuống chiếu ban thưởng, tặng tước cho tất cả những người có công gây dựng đại nghiệp. Ruộng đất là phần thưởng cao nhất và ông đã ban thưởng cho 30 viên quan mà mức thấp nhất là 150 mẫu. Riêng Lê Lăng được ban tới 300 mẫu (nhưng cũng chỉ hai năm sau ông thẳng tay giết chết viên quan này vì nghi ngờ có ý mưu phản). Ngoài ruộng đất, các công thần còn được mang quốc tính (họ vua) như một đẳng cấp xã hội riêng. Con cháu họ mãi đến năm 1484, 1492 (nghĩa là 65 năm sau khi bình Ngô) vẫn còn được Lê Thánh Tông có sắc dụ thu dụng, ưu đãi. Nhưng ông cũng tỏ ra kiên quyết với những người cậy công làm càn hoặc dung túng làm bậy. Việc giết Thái úy Lê Lăng là một ví dụ. Đô đốc Tây quân Lê Thiệt cũng hai lần bị phạt. Một lần, Thiệt bị “thu lại quyền coi quân” vì để con
46
“phóng ngựa giữa phố, dung túng gia nô đánh người”. Lần khác, Thiệt bị “bãi chức” vì để cho quân sĩ dọa nạt cướp bạc của người Châu Thoát1.
Dưới thời Lê Thánh Tông, đặc biệt vào niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) phép phu thuế được quy định đầy đủ trong sách Thiên nam dư hạ tập2.
Việc kiểm kê hộ tịch để nắm đến từng hộ, từng người dân được tiến hành thường xuyên và kỹ càng theo lệ “tiểu điển” (3 năm 1 lần) và “đại điển” (6 năm 1 lần). Nhờ đó, Nhà nước tiến hành thu thuế, tuyển lính và huy động sưu dịch được thuận lợi, công bằng. Tăng cường sức mạnh kinh tế cho Nhà nước là một chủ trương được thực thi khá triệt để dưới thời Lê Thánh Tông. Nhà nước quy trách nhiệm cụ
thể cho các quan ở phủ, huyện, châu thu nộp các thứ thuế đinh, thuế ruộng. Ai lười biếng, không chăm, để dây dưa nợ đọng thì truy trách nhiệm đền bù theo tỷ lệ người nợ
thuế nộp 7 phần, quan phụ trách nộp 3 phần3. Mặc dù phải thừa nhận sự hiện diện tất yếu của ruộng đất tư hữu nhưng trong ý thức của triều Lê, ruộng tư không phải là loại hình chính thống. Nhà nước tìm mọi cách hạn chế phát triển ruộng đất tư từ việc mua bán ruộng công (các điều 1, 2, 9 Chương Điền sản của
________________
1. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1733-1734.
2, 3. Xem Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, t.3, tr.55.
47
Quốc triều hình luật)1. Con đường phát triển khai hoang để có ruộng tư cũng bị hạn chế. Nhà nước thời Lê Thánh Tông tìm mọi cách để mở rộng phạm vi của loại hình ruộng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý. Điều này được thể hiện rõ trong chính sách phát triển đồn điền. Thực ra đây là một loại hình kinh doanh của Nhà nước xuất hiện từ thời Trần, sang thời Lê Thánh Tông, đồn điền trở thành một chính sách lớn của Nhà nước. Chiếu về việc mở đồn điền năm 1481 ghi rõ: “Mở đồn điền là để dùng hết tiềm lực của nghề
nông, mở rộng nguồn tích trữ cho Nhà nước”2. Một khía cạnh khác của tư tưởng tăng cường chức năng kinh tế của Nhà nước được thể hiện trong việc triều Lê Thánh Tông quy trách nhiệm cụ thể cho các quan cai trị trực tiếp xem xét, giải quyết các việc đồng áng, trị thủy, thủy lợi, mùa vụ. Với cách tư duy đúng đắn này đã có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của kinh tế nông nghiệp. Ngoài những bộ luật hoàn chỉnh như quân điền, lộc điền, Lê Thánh Tông còn ban hành những quy định rất cụ thể và chặt chẽ về vấn đề thừa kế ruộng đất. Xét cho cùng thì những chính sách ruộng đất dưới thời Lê Thánh Tông không tách rời tư tưởng chủ đạo của vị hoàng đế, vai trò quản lý của Nhà nước đối với ruộng đất và sản xuất nông nghiệp,
________________
1. Xem Quốc triều hình luật, bản dịch, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.133.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XIII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.490.
48
củng cố quyền lực kinh tế của Nhà nước thông qua việc pháp chế hóa quyền sở hữu tối cao của Nhà nước. Sẽ là thiếu sót nếu cho rằng Lê Thánh Tông củng cố quyền lực của Nhà nước trung ương chỉ bằng các quy định nghiêm ngặt hay các biện pháp cưỡng chế cực đoan. Thực ra, quyền lực kinh tế của triều đại Lê Thánh Tông được sinh ra từ chính vai trò thực tế của Nhà nước trong kinh tế nông nghiệp. Ở đây, có thể đánh giá cao vai trò của Lê Thánh Tông, bởi ông đã phát huy cao độ tiềm năng của kinh tế nông nghiệp, góp phần phát triển kinh tế của đất nước, đưa đất nước lên vị trí một cường quốc khu vực. Vì vậy, ông là người đã có những đóng góp xuất sắc cho sự hưng thịnh của triều đại nhà Lê và cho lịch sử dân tộc. Tóm lại, với sự can thiệp mạnh của Nhà nước vào kinh tế dưới thời Lê Thánh Tông đã làm cho nền kinh tế thời kỳ này phát triển cao, nhất là nông nghiệp. Bằng hàng loạt các chính sách kinh tế mang tính hiệu quả cao đã chứng tỏ Lê Thánh Tông là một nhà kinh tế giỏi. Nét nổi bật trong tất cả mọi chính sách trị nước của Lê Thánh Tông là pháp điển hóa tới mức tối đa mọi quan hệ xã hội1.
2. Tư tưởng về chính trị - pháp luật
Tư tưởng chính trị giữ một vị trí đặc biệt trong quan niệm trị nước của Lê Thánh Tông. Sở dĩ có thể khẳng định
________________
1. Xem Vũ Minh Giang: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997, tr.202.
49
như vậy là vì: “Chính trị là sự tham gia vào những công việc của nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định những hình thức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”1. Việc thiết lập được một thể chế chính trị ổn định, nhất quán sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển của mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nghĩa đó: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”.
Điều đó có nghĩa là chính trị của một giai cấp do địa vị kinh tế của nó quyết định. Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội về chính trị. Ngược lại, sự thống trị về kinh tế chỉ được thực hiện một cách đầy đủ bằng quyền lực của nhà nước. Nhà
nước là công cụ chủ yếu để bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị mà lợi ích kinh tế là cơ bản nhất.
Trong luận điểm này, V.I. Lênin đã chỉ ra vai trò của chính trị đối với kinh tế trong lãnh đạo, dẫn dắt các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Với ý nghĩa đó V.I. Lênin viết: “Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”2.
Là sự phản ánh tập trung nhất cơ sở kinh tế, hệ tư tưởng chính trị có vai trò rất to lớn trong toàn bộ đời sống xã hội. Một giai cấp nhất định nào đó sẽ không thể giữ vững được vai trò thống trị của mình nếu không có tư tưởng chính trị đúng đắn. Tư tưởng chính trị thống trị giữ ________________
1, 2. V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.42, tr.350, 349.
50
vai trò chỉ đạo đường lối hoạt động và đường lối tổ chức của nhà nước, qua đó tác động trở lại cơ sở kinh tế. Bộ máy nhà nước là cơ quan, là công cụ của quyền lực chính trị. Nhà nước thể hiện một cách tập trung quyền lực chính trị. Tác động của nhà nước đối với cơ sở kinh tế rất trực tiếp, và mạnh mẽ tới mức “Có thể trong những giới hạn nhất định, thay đổi cơ sở kinh tế”1.
Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thánh Tông đã nhanh chóng chấm dứt tình trạng rối loạn cung đình, lập lại kỷ cương quốc gia, tạo lập sự ổn định chính trị để đẩy mạnh sự nghiệp phục hưng dân tộc. Có thể nói trong suốt 38 năm trên cương vị hoàng đế nước Đại Việt, Lê Thánh Tông đã đề ra nhiều biện pháp, chính sách trong đó nhiều chính sách mang ý nghĩa của những tư tưởng cải cách nhằm mục tiêu củng cố chế độ quân chủ tập quyền, giữ vững độc lập dân tộc, tăng cường nền quốc phòng và thúc đẩy sự
phát triển mọi mặt của đất nước.
Lê Thánh Tông đã xây dựng một chế độ quân chủ tập quyền cao độ nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế, để hạn chế sự tham chính của tầng lớp quý tộc, hoàng tộc, loại trừ khả năng lộng quyền của các triều thần ở trung ương và tệ nạn tập trung quyền hành, cát cứ của các quan lại ở địa phương. Lê Thánh Tông cho ban hành Hoàng triều quan chế năm 1471.
________________
1. C. Mác - Ph. Ăngghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, t.2, tr.602.
51
Đây là một cuộc cải cách hành chính có hệ thống và quy mô lớn trên phạm vi cả nước nhằm thực hiện mục tiêu chính trị trên. Có thể hiểu lý do của cuộc cải cách là nhằm giải quyết những bất cập trong bộ máy của triều đình. Vì sự phân tán quyền hành sẽ làm giảm quyền lực trong tay nhà vua. Ý tưởng trên của Lê Thánh Tông được thể hiện qua một số điểm sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở học tập nhà Minh, song có phần sáng tạo của mình như ở Đạo không đặt “Án sát sứ ty” trong việc trông coi an ninh, tư pháp ở địa phương như của nhà Minh mà đặt “Hiến sát sứ ty” với chức trách
thanh tra quan lại, nghĩa là đặt nặng vai trò và trách nhiệm của quan lại địa phương đối với nhân dân, xem họ là đại diện của vua, thực hiện việc tuyên dương đức chính của vua, quan hệ trực tiếp đến sự tồn vong của Nhà nước.
Thứ hai, không đặt chức quan đứng đầu Đạo thừa tuyên, Lê Thánh Tông mong muốn tránh xu hướng ly tâm, gắn địa phương với trung ương để thống nhất hoạt động. Để tăng cường quyền chỉ đạo của trung ương, ông giao cho các cơ quan trung ương nhiệm vụ đề cử quan chức lãnh đạo ở các ty theo tiêu chuẩn thống nhất đã ban hành và Bộ lại xem xét, bổ sung.
Có thể nhận thấy rằng, “Thông qua phần cơ cấu tổ chức, cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông đã tạo ra một hệ thống hành chính thống nhất từ trên xuống dưới trong phạm vi cả nước, gọn gàng, chức trách tương
52
đối phân minh, đảm bảo sự chỉ đạo và quyền lực tập trung của trung ương”1.
Với mô hình nhà nước quân chủ phong kiến này, đã thực hiện được khá hoàn chỉnh tư tưởng chính trị của Lê Thánh Tông: “Lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng kìm chế nhau”, trung ương và địa phương gắn liền nhau, quyền lực của vua và trung ương được bảo đảm. Đánh giá việc làm này, Giáo sư Phan Huy Lê đã khẳng định: “Chế độ mà Lê Thánh Tông xây dựng rõ ràng là chế
độ quân chủ tập quyền, quan liêu theo mô hình Nho giáo, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo”2.
Trong lịch sử Việt Nam, chế độ quân chủ đã trải qua một sự chuyển biến sâu sắc từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu. Trước vương triều Lê, từ triều Ngô (938-965) đến triều Lý (1010-1225), triều Trần (1226-1400), triều Hồ (1400-1407), chế độ quân chủ tập quyền đã được xác lập và phát triển trên nền tảng của một kết cấu kinh tế nông nghiệp - xóm làng còn mang nặng đặc trưng “phương thức sản xuất Á châu” và trình độ xã hội thấp kém. Các làng xã với kết cấu công xã nông thôn còn mang tính tự quản cao và ruộng đất công của làng xã tuy phải đặt dưới quyền sở hữu của nhà nước nhưng vẫn do làng xã quản lý và phân chia theo tục lệ của làng.
________________
1, 2. Trương Hữu Quýnh: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Sđd, tr.105, 15.
53
Chế độ quân chủ tập quyền của tầng lớp quý tộc dựa trên cơ sở của chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất và quyền bóc lột tô thuế đối với nông dân công xã. Chế độ tư hữu ruộng đất đang phát triển củng cố thêm quyền sở hữu ruộng đất của tầng lớp quý tộc quan lại và tạo ra tầng lớp địa chủ, “thứ dân” không có mặt trong bộ máy thống trị. Các vương triều quân chủ quý tộc biểu thị tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc cao, chủ trương “Tam giáo đồng tôn”, lấy Phật giáo làm chủ đạo đồng thời kết hợp với Nho giáo và Đạo giáo.
Cuối triều Trần sang triều Hồ, trước yêu cầu phát triển mới về kinh tế - xã hội, thể chế chính trị cũ lâm vào khủng hoảng, kinh tế điền trang bị phá vỡ. Trong điều kiện kinh tế - xã hội như vậy thì chế độ phong kiến tập quyền chuyển từ chế độ quân chủ quý tộc sang chế độ quân chủ quan liêu theo mô hình Nho giáo là điều tất yếu. Và từ đó, hệ tư tưởng Nho giáo phục vụ đắc lực cho thể chế chính trị này được nêu cao và tôn sùng cũng là điều tất nhiên, khi mà nước ta là nước láng giềng của Trung Quốc và nằm trong khu vực ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc.
Với tư duy nhạy bén, Lê Thánh Tông đã nhìn thấy trong Nho giáo những nhân tố cần thiết để ổn định tình hình chính trị lúc bấy giờ. Ông chủ trương quan điểm: “Giáo dục con người theo những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo, và chủ trương lấy “lễ”, “nghĩa” làm yếu tố
54
ràng buộc con người duy trì sự bền vững của triều đình phong kiến”1.
Theo C. Mác, tư tưởng của giai cấp thống trị là tư tưởng thống trị thời đại2. Do đó, dưới thời Vua Lê Thánh Tông, Nho giáo là cốt lõi máu thịt, trở thành “Chiếc gậy quyền uy để trị nước, an dân nhằm thực hiện lý tưởng “Nhân nghĩa” của mình”3. Như vậy để trị nước, Lê Thánh Tông đã không ngần ngại nắm lấy “Chiếc gậy quyền uy” này, và ông đã đưa hệ tư tưởng Nho giáo phát triển lên đỉnh cao của thời đại.
Trong lịch sử, chưa có một vị vua nào lại ban hành nhiều lệnh chỉ, sắc dụ một cách rất tỉ mỉ như Lê Thánh Tông. Ông quy định lễ nghĩa trong đời sống của quan lại và dân chúng, như cách thức hôn thú, tang ma, mũ áo, xưng hô, đi đứng tâu bầy, chắp tay, quỳ lạy. Kèm theo là
những biện pháp trừng phạt mọi hành động không thực hiện đúng các quy phạm đó. Có thể nói Nho giáo thời Lê sơ cũng đã có sự ngả màu. Với Nguyễn Trãi, Nho giáo còn đậm yếu tố nhân, thì đến Lê Thánh Tông, nó đã chuyển sang đậm yếu tố lễ. Con người sống với nhau ít bằng tình thương yêu mà bằng những quy phạm sẵn có. Điều này ________________
1. Vũ Kim Dung: Tư tưởng triết học về con người, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, tr.91.
2. Xem Vũ Kim Dung: Tư tưởng triết học về con người, Sđd, tr.91.
3. Vũ Minh Tâm: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Sđd, tr.311.
55
như một nghịch lý, lễ sẽ chế định xã hội theo những khuôn mẫu, có thể nó sẽ đem lại một trật tự ổn định, nhưng nếu sử dụng quá mức “Lễ sẽ trở nên đầu mối của hỗn loạn” (Lão Tử - Đạo đức kinh).
Tính độc lập dân tộc ở đây không phải bị loại trừ bằng mô hình quân chủ Nho giáo ngoại lai, mà phải xem xét ở chỗ vận dụng các yếu tố ngoại sinh đó như thế nào cho phù hợp với điều kiện lịch sử văn hóa dân tộc và có bảo đảm sự phát triển của đất nước trong độc lập và thống nhất hay không. Chế độ triều Lê đã khắc phục được cuộc khủng hoảng cuối triều Trần và dưới triều Hồ, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh cụ thể của nước Đại Việt và bối cảnh chung của khu vực lúc bấy giờ.
Trong xây dựng thiết chế chính trị, Lê Thánh Tông rất coi trọng pháp luật, thực hiện ý tưởng của Lê Lợi ngay từ năm đầu thành lập vương triều: “Từ xưa đến nay trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn”1. Lê Thánh Tông tuyên bố với các đình thần: “Pháp luật là phép công của nhà nước. Ta và các ngươi đều phải theo, ngươi nên nhớ lấy”2.
Pháp quyền ra đời cùng với nhà nước nhằm thực hiện quyền lực công của nhà nước. Thực chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể chế hóa và được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, Ph. Ăngghen
viết: “Nếu nhà nước và công pháp là do quan hệ kinh tế ________________
1, 2. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.2, tr.388, 405.
56
quyết định thì dĩ nhiên là pháp quyền công dân cũng như thế, vì về thực chất, nó chỉ xác nhận những quan hệ kinh tế hiện có và tồn tại bình thường giữa những cá nhân riêng biệt, trong những hoàn cảnh nhất định”1. Do đó, ý thức pháp quyền rất gần với ý thức chính trị cả về nội dung và tính chất.
Đối với Lê Thánh Tông, ý chí nhất quán dùng pháp luật để cai trị đất nước và quản lý xã hội của ông được thể hiện qua nhiều chiếu chỉ cho các quan lại và thần dân.
Tháng 7 năm Giáp Thân (1464), khi biếm chức Binh bộ Tả Thị Lang Nguyễn Đình Mý mắc tội tham tang, vua dụ các quan: “Pháp luật là phép công của nhà nước, ta cùng các ngươi phải theo, ngươi nên nhớ lấy”2.
Tháng 8 năm Tân Mão (1471), nhân ban hành Hoàng triều quan chế mà thực chất là một cuộc cải tổ chính trị, sắp xếp lại thiết chế nhà nước quân chủ tập quyền một cách có quy củ và hệ thống, ông dụ các quan và trăm họ
rằng đặt ra pháp luật là để: quan to nhỏ đều ràng buộc với nhau, chức trọng, chức khinh cùng kiềm chế nhau. Uy quyền không bị lợi dụng, thế nước vậy là khó lay. Hình thành thói quen giữ đạo lý, theo pháp luật mà dứt bỏ tội lỗi thịnh nhân nghĩa, phạm ngục hình3.
________________
1. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.21, tr.442. 2. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.444, 478.
3. Xem Bùi Xuân Đính: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Sđd, tr.107.
57
Tháng 9 năm Giáp Ngọ (1474), ông lại nói: “Đặt luật để trừ kẻ gian, sao dung được bọn coi thường pháp luật”1. Với ý chí nhất quán dùng pháp luật để cai trị đất nước, Lê Thánh Tông luôn chăm lo đến việc soạn thảo ban hành pháp luật, hàng loạt quy chế hoạt động của Nhà nước được ban hành và trên cơ sở tổng hợp các điều luật của triều Lê từ đời Lê Thái Tông rồi bổ sung, hoàn chỉnh năm 1483 xây dựng thành bộ Quốc triều hình luật, thường gọi là luật Hồng Đức. Bộ luật này tiếp tục được bổ sung và thực thi trong suốt thời kỳ nhà Lê cho đến cuối thế kỷ XVII. Lê Thánh Tông là vị vua nêu cao vai trò của pháp luật và đạt được một thành tựu to lớn về hoạt động lập pháp. Sau khi đánh bại quân Minh, Vua Lê Thái Tổ đã bắt đầu soạn thảo luật pháp2. Đến năm 1483, Vua Lê Thánh Tông sai các đình thần sửa đổi, biên soạn lại các điều luật cũ, làm thành bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Luật Hồng Đức). Bộ luật gồm 6 quyển, 722 điều, và được sử dụng từ thời Hồng Đức đến hết thế kỷ XVIII. Trong việc biên soạn bộ luật này, triều đình có tham khảo các bộ luật nhà Đường, nhà Minh của Trung Quốc. Tuy nhiên, bộ luật của Lê Thánh Tông chứa đựng những sáng tạo đáng kể khiến nó gần gũi hơn với các đặc điểm xã hội, tôn giáo của Đại Việt. Trong số 722 điều của Quốc triều hình luật, có đến 342 điều hoàn toàn không tương ứng ________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XIII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.478.
2. Xem Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Sđd, tr.96.58
với các điều luật của Trung Quốc. Trong các điều luật còn lại thì 200 điều chịu ảnh hưởng một mức độ nào đó luật nhà Đường, chỉ có 14 điều mô phỏng trực tiếp từ luật nhà Minh1. Giáo sư Oliver Oldman, Chủ nhiệm khoa Luật Á Đông của Đại học Harvard đã đánh giá cao Luật Hồng Đức, coi đó là hệ thống luật tiến bộ với nhiều sự tương đương về chức năng so với những quan niệm luật pháp Tây phương cận hiện đại. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và thuộc loại sớm trên thế giới.
Bộ luật Hồng Đức thời Lê có nội dung cơ bản như sau: (1) Giữ cho đất nước luôn ở thế chủ động đối phó với sự xâm lược từ bên ngoài;
(2) Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước;
(3) Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế - xã hội;
(4) Mở rộng giao lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh, hạn chế ngoại thương; (5) Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, chống tham nhũng triệt để, chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng;
(6) Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục và phát triển kinh tế;
(7) Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ (khác với luật pháp Trung Hoa đương thời, luật Hồng Đức cho phép ________________
1. Xem Nguyễn Ngọc Huy: Quốc triều hình luật Quyển A, Viet Publisher, 1989, tr.177.
59
phụ nữ có quyền ly hôn, con gái trong gia đình có quyền thừa kế tương đương với con trai, con gái lấy chồng không nhất thiết phải qua sự cho phép của cha mẹ);
(8) Bảo vệ quyền lợi của vua và quan lại, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị địa chủ phong kiến.
Để có một thể chế pháp luật thực sự có hiệu lực, Lê Thánh Tông là người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Một lần, ông đã thu lại quyền chỉ huy của Tổng quân Đô đốc Lê Thiệt vì con trai của Lê Thiệt là Bá Đạt phóng ngựa trên đường phố giữa ban ngày và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường bảo với các quan rằng: Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và các người phải cùng tuân theo1. Bên cạnh đó, việc dùng luật dưới thời Lê Thánh Tông trở nên khắc nghiệt hơn so với các triều trước. Thời Lê Nhân Tông, năm 1448 chỉ có 42 người bị xử tử. Đến đời Lê Thánh Tông, riêng năm 1467 đã có 323 người bị hành quyết. Thánh Tông còn đặt ra hình phạt cứng rắn đối với người không tuân theo quy chế để tang cha mẹ và chồng. Thêm vào đó, ông ép những người nước Đông Nam Á mà ông coi là “man di” sống trong lãnh thổ Đại Việt phải đổi tên và nếp sống cho giống với người Việt2.
________________
1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr.448.
2. Xem Womack: China and Vietnam: The Politics of Asymmetry, 2006, tr.132.
60
Lê Thánh Tông coi việc xây dựng đội ngũ quan lại của ngành hành pháp là tầm quan trọng hàng đầu. Trước hết về tiêu chuẩn các quan trông coi pháp luật, Lê Thánh Tông cho rằng: “Hình quan là chức quan trọng, phải chọn người có sở trường. Quan các ty ở Hình bộ, không kể là nha hay lại, nếu tài năng kiến thức nông cạn, không am hiểu hình danh thì phải lựa thải ra, làm bản tâu lên, giao cho lại bộ đổi chức khác, rồi chọn các quan đã đủ hai kỳ khảo khóa trở lên đã thi đỗ và có tài năng, kiến thức cùng những người do lại viên xuất thân mà đã từng trải việc hình danh để bổ vào việc đó”1.
Như vậy, qua đạo dụ này thì tiêu chuẩn các quan lại pháp luật mà Lê Thánh Tông đặt ra trước hết là những viên quan có kinh nghiệm làm việc, hơn nữa là những viên quan đã qua hai kỳ khảo công và là những người có kiến thức về pháp luật. Quan điểm này được Lê Thánh Tông nhất quán để định việc khen thưởng, thuyên bổ, cất nhắc,
sa thải hoặc chuyển đi làm việc khác.
Cùng với việc lựa chọn đội ngũ quan lại phụ trách pháp luật, Vua Lê Thánh Tông rất chú trọng đề ra thể chế làm việc cho họ. Ngay trong năm đầu tiên lên ngôi, tháng 10 năm Canh Thìn (1460), vua ra sắc chỉ cho các hình quan: “Từ nay, việc kiện tụng phải mỗi tháng 3 lần trình lên để quyết định, coi đó là định chế lâu dài”.
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.2, tr.483.
61
Tháng 4 năm Giáp Thân (1464) vua dụ Lê Cảnh Huy và Chưởng Hình bộ: “Từ nay về sau, ngươi hãy xét ký những việc oan uổng, dẹp bớt những kẻ gian ngoan, bàn luận ở triều đình, cho đen trắng sáng tỏ, phải đối chiếu với nghĩa lý, chớ làm điều khôi hài”1. Những năm sau đó, vua còn ra nhiều chỉ dụ quy định các nguyên tắc làm việc của quan lại pháp luật.
Tháng Chạp năm 1463, Lê Thánh Tông đã thề cùng sáu vị thượng thư: “Ta nghe Tư Mã Quang có nói: “người quân tử là cội gốc để tiến lên trị bình, kẻ tiểu nhân là thềm bậc để đi đến họa loạn. Ta và các ngươi đã thề với trời đất dùng người quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chắm không mỏi, các ngươi chớ có quên đấy”2. Nhưng là người thông minh, ông cũng hiểu rằng “lời thề” dù trang trọng đến đâu dần dần rồi cũng sẽ mất thiêng. Vẫn phải có bảo đảm bằng thiết chế và luật pháp thì việc thu phục nhân tâm mới được đầy đủ.
Lê Thánh Tông đã xây dựng một thiết chế hành chính trong ngoài quan hệ, liên lạc ràng buộc lẫn nhau khá chặt chẽ. Lê Thánh Tông còn liên tiếp sửa định các quy chế, nghi thức cho hệ thống quan lại của mình, như định triều nghi hộ vệ (tháng 10 năm 1472); sắc chỉ cho các quan tan chầu
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.2, tr.404-405.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.443.
62
phải về ngay công sở (tháng 9 năm 1472); định quan chế, bổng lộc (1473, 1477); chọn thải bớt quan và bổng lộc (tháng 6 năm 1481); nhắc rõ lệnh và danh hiệu xưng hô (tháng 4 năm 1487); định ban chầu các quan văn võ (1493)... Thêm nữa, còn khá nhiều các quy định về quần, áo, mũ, bổ
tử, hốt, giày... sao cho hàng ngũ quan lại có được một bộ dạng nghiêm túc về phẩm phục. Cách thức làm việc của các quan còn được luật hóa ở các điều 239, 240, ở Quốc triều hình luật. Ngoài ra còn có các sắc chỉ sau:
- “Cấm các quan đổi đi chỗ khác, không được bẻ lấy các thứ đồ dùng ở nhà công” (tháng 4 năm 1466). - “Các quan vào chầu không được nhổ nước trầu, ném bã trầu ở cửa hay sân đan tri” (tháng 11 năm 1473). Mới nghe có vẻ khôi hài nhưng lại rất cần thiết để làm giảm bớt đi cái lem nhem, luộm thuộm của quan lại Đại Việt1.
Một trong những điều mà Lê Thánh Tông hằng quan tâm, trăn trở với hàng ngũ quan lại là tệ nạn tham nhũng, hối lộ. Lê Thánh Tông ban hành luật lệ rất nghiêm ngặt nhằm ngăn chặn tệ nạn này. Bằng các điều khoản được ghi trong Quốc triều hình luật và nhiều sắc chỉ đã nói lên rằng: Lê Thánh Tông đấu tranh chống tệ tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc một cách khá kiên quyết, toàn diện và triệt để.
________________
1. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1734.
63
Để cho bộ máy quan lại bớt nhũng lạm, Lê Thánh Tông liên tiếp ra sắc chỉ: khi thì cấm những viên quan lợi dụng việc xây dựng để đục khoét, xoay tiền (tháng 11 năm 1475); khi thì răn dụ họ không được lười biếng, bỉ ổi (tháng 3
năm 1479), không được nhóm họp để say đắm tửu sắc (tháng 6 năm 1481)... Sử chép, ông đã phạt đích danh Viên ngoại lang Hoàng Văn Biển (hạ ngục và nộp 50 quan), Hữu thị lang Bộ Công Trịnh Công Đán (30 quan) vì tội “bỏ phơi mưa nắng những gỗ lạt của công”. Ông cũng cho Thượng thư Binh Bộ Nguyễn Vĩnh Tích “ở dưng” vì ông quan kễnh này “ăn bạc đút lót”... Có thể nói, Lê Thánh Tông đã làm hết sức mình để chống tham nhũng và
tạo dựng một hàng ngũ quan lại mạnh.
Trong triều, ông cho đặt 5 phủ, 6 bộ và đổi 6 viện làm 6 tự (1466). Năm năm sau (1471), ông cho ban hành Hoàng triều quan chế trong đó quy định rõ: “Ở trong quân vệ đông đúc thì 5 phủ chia nhau để giữ, việc công bề bộn thì 6 bộ chia nhau mà làm. Ba ty cấm binh thủ ngự là để làm nanh vuốt lòng dạ. Sáu khoa để xét bác trăm ty, 6 tự để thừa hành mọi việc”. Ở ngoài, Lê Thánh Tông đặt toàn quốc thành 13 đạo thừa tuyên, đổi lộ làm phủ, đổi trấn làm châu. Ông còn sai các thừa tuyên xét các “sông núi hiểm dị cùng sự tích xưa nay” để làm bản đồ địa lý; các năm 1469, 1471 liên tiếp định lại bản đồ phủ, huyện, châu. Cùng năm 1471, ông còn sai người vẽ bản đồ nước Chiêm và đến tháng 6 cho đặt đất mới làm thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa. Việc này dẫn đến định lại
64
bản đồ toàn quốc vào tháng 4 năm 1490. Hoàng triều quan chế viết: “Ở ngoài thì 13 thừa tuyên cùng Tổng binh coi giữ địa phương. Đô ty thủ ngự thì chống giữ các nơi xung yếu; các phủ, châu, huyện thì để gần dân”1.
Tháng Giêng năm 1473, Lê Thánh Tông có sắc chỉ: “Vợ không phạm tội thì không được bỏ” và hình luật thời ông còn khoan nới hoãn xử với “đàn bà đang mang thai mà bị tử hình”. Tháng 10 năm 1491, Lê Thánh Tông sai làm Đình Quảng Văn ngoài cửa Đại Hưng tại Kinh thành để
“treo các pháp lệnh trị dân”. Ông thể chế hóa các mục: điền sản, hộ hôn, tang ma... vào Quốc triều hình luật. Trị dân theo luật là nét tiêu biểu dưới triều Lê Thánh Tông. Trong “đám dân đen”, Lê Thánh Tông cũng đặc biệt lưu ý đến giới phụ nữ và ông cũng có những ưu tiên cho những người “cùng khổ trong đám cùng khổ này”.
Không chỉ chú trọng đến việc “làm luật”, chống tham nhũng, Lê Thánh Tông còn rất quan tâm đến tính thực thi và hiệu quả của các văn bản pháp luật đã được ban bố. Trong 38 năm, không kể các vụ án về quân
pháp, Lê Thánh Tông đã trực tiếp xử gần 30 vụ các quan lại phạm luật hành chính và hình sự. Không chỉ nghiêm minh trong xét xử, Lê Thánh Tông còn đề cao sự bình đẳng, công bằng trước pháp luật. Trong hầu hết các trường hợp phạm tội, dù là thường dân hay quan lại cao cấp,
________________
1. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1734.
65
nhà vua đều xử lý theo luật. Chính nhà vua, vào năm 1468 đã khước từ việc dùng tiền để chuộc tội của Lê Bô - một trong những người có công diệt “loạn Nghi Dân” để đưa ông lên ngôi vua, nhưng sau đó do mắc tội tham tang, phải chịu tội hình (thích chữ vào trán). Lê Bô đã nhờ Thượng thư Trần Phong xin dùng tiền để chuộc tội, nhưng Lê Thánh Tông gạt đi: “Nếu Lê Bô được chuộc tội, như thế là người có quyền thế, người giàu có dùng
của hối lộ thì được miễn tội, còn người nghèo hèn thì vô cớ bị chịu tội, là cả gan vi phạm phép tắc của tổ tông lập ra để trừng trị kẻ ngoan cố không biết Tần chừa. Đại lý tự phải chiếu luật trị tội”1.
Xét cho cùng, đấy là những biểu hiện dùng luật pháp để ràng buộc quan lại của Vua Lê Thánh Tông. Bên cạnh những biện pháp về tổ chức, luật pháp, Lê Thánh Tông luôn duy trì một tinh thần “phê bình và tự phê bình”, khuyến khích các quan trong triều bàn bạc, phê phán lẫn nhau, và bản thân nhà vua đã gương mẫu trong việc đó. Có thể nói Lê Thánh Tông đã quản lý rất chặt các đình thần của mình, không thể bỏ qua một sai sót nhỏ nào của họ về tư cách ý thức, tổ chức kỷ luật2. Bản thân
________________
1. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1734.
2. Xem Nguyễn Thừa Hỷ: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Sđd, tr.80.
66
nhà vua thưởng dụ các quan: “Ta có lỗi lầm gì, hãy thẳng thắn chỉ ra chớ quen thói giấu giếm”1.
Tóm lại, tư tưởng chính trị - pháp luật của Lê Thánh Tông đã thể hiện rõ quan niệm, tư tưởng “trị nước, an dân” của ông. Về thực chất của tư tưởng này là sự tập trung chuyên chế của một vị hoàng đế mạnh thông qua việc triển khai một bộ máy nhà nước và sự quan liêu theo chế độ quân chủ phong kiến. Nhà nước của Lê Thánh
Tông là một nhà nước quan liêu, chỉ huy, quản lý can thiệp vào mọi mặt đời sống của dân chúng từ kinh tế đến chính trị - xã hội, tư tưởng. Nó dựa trên những trụ cột vững chắc của chế độ: một hệ thống quan lại hoàn chỉnh, một quân đội mạnh, một pháp luật nghiêm và một hệ tư
tưởng Nho giáo chặt chẽ. Chính Lê Thánh Tông đã nhấn mạnh đến hai chức năng chủ yếu của nhà nước, đó là: “Tôn trọng lễ nghĩa để sửa tốt lòng dân, khuyến khích nông tang để có đủ cơm áo, đó là việc cần kíp của chính sự, là chức trách của các quan nuôi giữ dân”2.
Đề cập đến tư tưởng “trị nước” của Lê Thánh Tông, Giáo sư Phan Huy Lê viết: “Lê Thánh Tông là một người tôn sùng Nho giáo, một nhà lý học theo phái Tống Nho,
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985, t.2, tr.405.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.2, tr.449.
67
nhưng ông biết kết hợp tư tưởng Nho giáo, tư tưởng đức trị và lễ trị với tư tưởng pháp trị, trên một tinh thần và ý thức dân tộc sâu sắc”1.
Hầu hết các điều luật ghi trong Quốc triều hình luật đều xuất phát từ thực tế xã hội Việt Nam, từ những phong tục và tập quán, những tục lệ và truyền thống lâu đời của nhân dân được Nhà nước chấp nhận và quy phạm hóa thành pháp luật. Trong những điều luật này có những điều luật xác nhận một số địa vị và quyền lợi của người phụ nữ trong gia đình, hôn nhân, trong sở hữu tài sản, tôn trọng tập tục của dân tộc thiểu số, tôn trọng người già trong xã hội... Đó là nội dung tiến bộ và mang giá trị đặc sắc của Bộ luật Hồng Đức phản ánh rõ rệt tư tưởng chính trị - pháp luật của Lê Thánh Tông. Nho giáo của Lê Thánh Tông là sự vận dụng Tống Nho vào thực tế xã hội Việt Nam trên tinh thần sáng tạo, có thể coi đó là Nho giáo Việt Nam đời Lê Thánh Tông.
3. Tư tưởng quân sự
Lê Thánh Tông là một nhà cách tân đất nước, một bậc minh quân nổi tiếng thông minh, tài trí và mưu lược. Ngoài tài năng về chính trị, kinh tế và văn hóa - giáo dục, Lê Thánh Tông là một nhà quân sự, một vị tướng lừng
________________
1. Phan Huy Lê: Lê Thánh Tông (1442-1497) - Con người và sự nghiệp, Sđd, tr.18.
68
danh với những võ công lớn, những quan điểm quốc phòng và những cải cách võ bị tiến bộ.
Trị vì đất nước trong giai đoạn thanh bình, thịnh vượng (1460-1497), nhưng Lê Thánh Tông không quên chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh để đề phòng khi đất nước có giặc xâm lăng, ông cho rằng “phàm có nhà nước tất có võ bị”. Thế nên, ngoài sự ổn định chính trị, kinh tế, văn hóa phát triển, còn cần phải có một quân đội mạnh giữ gìn biên cương Tổ quốc, phòng chống giặc ngoại xâm. Mặc dù chú trọng “sửa văn, dẹp võ” nhưng không xem nhẹ việc quân cơ phòng thủ bờ cõi. Lê Thánh Tông luôn quan tâm đến việc biên cương hải đảo và vùng lãnh thổ phía Nam Tổ quốc.
Một quốc gia mạnh phải bao gồm nhiều mặt vững chắc, trong đó quân sự là một trong những yếu tố trọng yếu nhất. Trên cơ sở xây dựng lực lượng phòng bị vững mạnh trong nước, Lê Thánh Tông còn mở rộng các quan hệ ngoại giao với các nước lân bang. Đối với lân bang, ông thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo nhưng kiên quyết trên nguyên tắc độc lập và toàn vẹn về chủ quyền lãnh
thổ, với mục đích giữ gìn hòa hiếu lâu dài để đất nước có thái bình, thịnh trị. Lê Thánh Tông thường cử sứ giả tài giỏi sang tranh biện việc biên giới với nhà Minh (Trung Quốc), trên một tinh thần nhất quán: “Một thước núi, một tấc sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ; các ngươi nên cố cãi, chớ để họ lấn dần. Kẻ nào dám đem một thước núi,
69
một tấc đất đai của Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng”1.
Trong sự nghiệp của mình, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến công cuộc bảo vệ sự toàn vẹn, bất khả xâm phạm lãnh thổ của Tổ quốc. Hồng Đức địa đồ được hoàn thành năm 1469 đã xác định rõ cương vực, lãnh thổ của đất nước. Tháng 7 năm Canh Thìn (1460), ngay sau khi mới lên ngôi, Lê Thánh Tông đã ra sắc chỉ cho các vệ quân năm đạo, các phủ trấn, các tổng quản và tổng tri rằng: “Có quốc gia là phải có võ bị. Nay phải tuân theo trận đồ nhà nước đã ban, trong địa phận của vệ mình, phải chỉnh đốn đội ngũ, dạy cho quân lính phép đi, đứng, đâm, đánh, hiểu được hiệu lệnh, tiếng chiêng, tiếng trống khiến cho binh lính tập quen cung tên, không quên võ bị”2.
Ngày nay, nghiên cứu Bộ luật Hồng Đức và Hiệu định quan chế, tất cả đều toát lên nỗi lo canh cánh của Lê Thánh Tông làm sao cho đất nước được thái bình, bền vững. Trong bộ luật có nhiều điều quy định rõ
trách nhiệm bảo vệ đường biên, bảo vệ cửa quan và vùng biển; trừng trị nghiêm khắc những hành vi xâm phạm chủ quyền và an ninh Tổ quốc. Nếu như dưới triều
________________
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1968, t.3, tr.250.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.437.
70
Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông vận mệnh của đất nước bị đe dọa bởi nạn tham nhũng và trộm cướp nổi lên bên trong, ở biên cương giặc ngoài xâm phạm thì dưới triều Lê Thánh Tông với việc lập lại kỷ cương, phép nước, dốc sức chỉnh đốn việc quân sự, sức mạnh quốc phòng đã hồi phục và phát triển khiến cho xã hội được yên, bốn bể
một nhà.
Để xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, biện pháp quan trọng nhất mà Lê Thánh Tông đã thực hiện là cải cách toàn diện nền binh dị nhà nước, làm cho quân đội gọn nhẹ nhưng tinh nhuệ, có quân thường trực tại ngũ
mạnh và có lực lượng dự bị đông đảo để huy động khi cần thiết.
Thiết lập được một hệ thống vua - quan - dân với các hình thức phủ dụ, cai trị được luật hóa cặn kẽ, Lê Thánh Tông còn coi trọng việc xây dựng quân đội để tăng cường sức mạnh của Nhà nước và mở rộng bảo vệ bờ cõi. Năm 1466, ông cho diễn tập thủy trận ở Giao Thủy và tháng Giêng năm sau, khi từ Lam Kinh trở về đến điện An Lạc cho ban “phép tập trận đồ”.
Tính riêng năm 1467, Lê Thánh Tông đã cho tập trận đến bốn lần với nhiều thế trận khác nhau mà đỉnh cao là cuộc tập trận lớn ở Lục Đầu Giang năm 1469, và 10 năm sau (1479) là cuộc duyệt võ nghệ do đích thân nhà vua tổ
chức kéo dài đến 16 ngày.
Để cho quân đội vào quy củ, năm 1486, ông cho ban điều lệ Hồng Đức quân vụ với 27 điều và đến tháng Chạp
71
năm 1492, ông còn cho làm các kho chứa vũ khí và thuốc súng.
Dưới thời trị vì của mình, Lê Thánh Tông rất chăm lo đến việc chỉnh đốn quân ngũ hùng mạnh để tạo thế bang giao, phía Bắc nhằm khống chế sự lăm le nhòm ngó của nhà Minh, phía Nam thì răn đe các cuộc cướp phá của Chiêm Thành. Lịch sử đã ghi nhận nhiều cuộc đánh Chiêm Thành toàn thắng của vương triều Lê Thánh Tông và cũng ghi nhận một thái độ cứng rắn của triều đình ông đối với nước lớn phương Bắc. Và có thể nói, tuy chỉ đóng khung trong khu vực Đông và Nam Á nhưng nước Đại Việt nửa cuối thế kỷ XV là một nước có uy tín được láng giềng, lân bang nể trọng1.
Lê Thánh Tông mở mang quan hệ, bang giao khá rộng. Tháng 10 năm 1467, sứ thần Trảo Oa đến cùng năm thuyền buôn của Tômôn đáp lễ tiến cống phẩm vật nhưng Đại Việt cũng kiên quyết bắt người của Đại Minh trà trộn trong các thuyền buôn này trả lại cho bản quốc. Đến năm 1471, thổ quan Trấn Ninh sang chầu. Năm 1485, Lê Thánh Tông cho định hẳn “Luật triều cống” của các phiên bang. Biên giới Đại Việt lúc đó tuy mới chỉ mở đến Thăng Hoa nhưng việc giải quyết tranh chấp với các nước lân bang cũng đã rất phức tạp. Lê Thánh Tông chủ yếu đối phó với mấy khu vực sau:
________________
1. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1735.
72
(1) Các sơn man (ở các vùng hẻo lánh)
(2) Bồn man (tộc ít người)
(3) Ai Lao (ở ngang hông)
(4) Chiêm (phía Nam)
(5) Trung Hoa (phía Bắc)
Trừ chính sách đối với Trung Hoa, còn với các khu vực khác Lê Thánh Tông chủ yếu dùng biện pháp quân sự1. Cuối những năm 1460, tình hình biên giới có phần căng thẳng, Lê Thánh Tông cho hội quân ở Lục Đầu Giang để giễu võ giương oai. Cũng dịp này ông tuyên bố đanh thép: “Thiên Nam vạn cổ hà sơn tại!”
(Trời Nam ngàn năm núi sông vẫn còn).
Năm 1473, trong lời dụ Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy, ông còn tỏ ra kiên quyết hơn nữa: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc trình bày rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di”2.
Với Lê Thánh Tông bang giao rõ ràng là giữ cho bờ cõi cương vực được nguyên vẹn và ông cũng tỏ ra không nhân nhượng với bất kỳ kẻ nào muốn nhòm ngó giang sơn Đại Việt.
________________
1. Xem Almanach: Những nền văn minh thế giới, Sđd, tr.1736.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.477.
73
Lê Thánh Tông ngay sau khi lên ngôi đã ra lệnh cho lập sổ hộ tịch và phân hạng nhân đinh trên cả nước để làm cơ sở cho các chính sách kinh tế - xã hội và vấn đề tuyển đinh tráng sung vào quân đội. Nhà nước đã định lại chế độ tuyển lính; thời này, quy chế, luật lệ tuyển lính được bổ sung và hoàn chỉnh.
Với tư chất thông minh, sáng suốt, Lê Thánh Tông tỏ ra là một nhà quân sự tài ba. Ông đòi hỏi các quan phải “đem hết lòng thành, nén lòng tham” mà chăm lo việc xét tuyển, phải làm một cách kỹ càng. So với nhiều
triều đại, nhiều đời vua khác thì việc kê khai và phân hạng nhân số, việc định quân hạng và tuyển lính bước đầu dưới triều Lê Thánh Tông tươm tất, chặt chẽ và công bằng hơn.
Quân đội Đại Việt dưới thời trị vì của Vua Lê Thánh Tông là quân đội của một quốc gia thống nhất, việc tổ chức biên chế chính quy thành hai lực lượng, đó là quân của triều đình và quân các đạo, còn gọi là quân trong Kinh và quân ngoài các đạo. Chính sách “ngụ binh ư nông” là một quốc sách của nước Đại Việt có từ thời Lý - Trần. Nhờ vận dụng chính sách này hết sức tinh tế, nên đời Lê Thánh Tông tuy số quân có tăng nhiều, nhưng thực chất thì số quân tại ngũ lại vừa phải, tạo điều kiện Nhà nước tăng cường nhân lực lao động, giảm bớt chi phí quốc phòng mà lực lượng dự bị luôn sẵn sàng. Khi có chiến sự, Nhà nước có thể huy động nhanh chóng số quân cần thiết.
74
Cùng với những hoàn thiện trên cơ cấu tổ chức quân đội là cải cách trên phương diện hành chính quân sự - quốc phòng. Từ đời Lê Thánh Tông cơ chế 5 đạo bị bãi bỏ, cả nước chia thành 13 đạo thừa tuyên. Nhà vua vừa tăng cường lực lượng quân sự địa phương vừa giảm quyền hạn của các tướng. Với tư tưởng này thì sức mạnh quân sự được tập trung trong tay chính quyền trung ương và nhà vua.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông rất chú trọng đến việc đào tạo đội ngũ chỉ huy hùng mạnh. Ông quan tâm đến việc cất nhắc tướng sĩ tài giỏi để bổ sung cho quân đội, đồng thời cũng giảm bớt số tướng hiệu và các võ sĩ kém cỏi để đỡ
phần chi phí của Nhà nước.
Nhìn chung, những cải cách quân sự nêu trên đã dẫn đến sự thay đổi lớn trong cơ cấu binh chế Đại Việt thời Lê sơ. Cùng với xu hướng tăng cường chế độ chuyên chế, Nhà nước nắm độc quyền xây dựng lực lượng vũ trang, quân đội đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình mà
người đứng đầu là nhà vua.
Như vậy, thông qua việc củng cố, xây dựng quân đội thì xu hướng tập trung quyền lực vào trong tay nhà vua và triều đình ngày một phát triển. Quân đội trở thành công cụ vũ lực hữu hiệu để phục vụ cho sự thống trị của triều đại Lê Thánh Tông. Đồng thời, quân đội đó cũng đóng vai trò tích cực trong việc củng cố quốc phòng, giữ
gìn an ninh và chủ quyền đất nước.
75
Cùng với việc củng cố và xây dựng lực lượng quân sự mạnh, Lê Thánh Tông cũng rất coi trọng vấn đề biên giới quốc gia, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Vì lãnh thổ là vấn đề quan trọng hàng đầu, là không gian cần thiết, là cơ sở thực tế cho sự tồn tại của quốc gia. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét rằng: “Của báu của một nước không có gì quý bằng đất đai; nhân dân và của cải từ đó mà sinh ra”1.
Trong mỗi thời kỳ cụ thể, điều kiện lịch sử khác nhau, công việc biên phòng được thể hiện bằng những chính sách, biện pháp, phương thức tổ chức và thực hiện thích hợp. Kế thừa và phát triển tư tưởng bảo vệ và quản lý biên cương trong lịch sử dân tộc, Lê Thánh Tông đã đặt công việc biên phòng ở một vị trí quan trọng hàng đầu trong quốc sách xây dựng và bảo vệ đất nước. Ông rất quan tâm khuyến khích các quan biên giới cảnh giác với các âm mưu xâm nhập và xử lý kịp thời các sự việc lãnh thổ với bên ngoài. Nhà vua ra sắc chỉ cấm người vùng biên giới giao thiệp với người nước ngoài2, và cấm gia nô người Ngô (số người Minh tự nguyện xin được ở lại sau khi bị bắt làm tù binh trong cuộc khởi nghĩa của Lê Thái Tổ trước đây)
________________
1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, t.3, tr.23.
2. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr.470.
76
của quân, dân ở các lộ, huyện, phủ Trung Đô giao thiệp, thông đồng với sứ Minh1.
Tư tưởng biên phòng của Lê Thánh Tông trước hết thể hiện ở quan niệm đất đai, bờ cõi là thiêng liêng, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là bất khả xâm phạm. Tư tưởng này đã hình thành từ những ngày đầu dựng nước của quốc gia Văn Lang - Âu Lạc. Song có lẽ chiều sâu của tư tưởng biên phòng đã phát triển đến đỉnh cao dưới thời Lê Thánh Tông. Bởi lẽ, vị vua anh minh này không chỉ dừng lại ở nhận thức về sự thiêng liêng của từng thước núi, tấc đất, tấc sông của lãnh thổ quốc gia phải thường xuyên quan tâm, kiên quyết bảo vệ, giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thường xuyên ý thức về sự cần thiết phải tìm những “phương lược tốt” để bảo vệ vững chắc các miền biên cương của Tổ quốc. Với ông điều đó liên quan đến sự tồn vong của đất nước, xã hội. Hai câu thơ của Lê Thái Tổ làm sau khi dẹp yên cuộc phiến loạn của Đèo Cát Hãn, thể hiện rõ tư tưởng biên phòng của Lê Thái Tổ, là lời răn dạy đời sau và cũng là ý tưởng mà Lê Thánh Tông tâm đắc: “Biên phòng hảo vị trù phương lược
Xã tắc ưng tu kế cửu an”.
(Biên phòng phải lo sẵn phương lược
Giữ nước cần tính kế lâu dài).
________________
1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, quyển XII, Nxb. Văn học và Công ty Văn hóa Đông A, Hà Nội, 2017, tr.440.
77
Điều kiện lịch sử thời Lê Thánh Tông trị vì đã cho phép tìm ra “phương lược tốt” để tiến sâu thêm một bước cụ thể, táo bạo và vững chắc hơn trong công việc quốc phòng. Được thừa hưởng thành quả xây dựng và bảo vệ đất nước của những triều đại trước, Lê Thánh Tông đã tận dụng mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh và kết hợp nhiều biện pháp để tổ chức bảo vệ và quản lý chặt chẽ biên giới quốc gia.
Lê Thánh Tông không chỉ dùng biện pháp cứng rắn, bằng sức mạnh của lực lượng vũ trang, bằng đấu tranh quân sự, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, thương thuyết, tranh biện, dựa trên thế mạnh của quốc gia phong kiến đang hưng thịnh, mà còn sử dụng cả cơ chế hành chính, dùng pháp luật để cưỡng chế, kết hợp với các chính sách “thân dân”...
Sức mạnh của công việc biên phòng bắt nguồn từ sức mạnh đất nước. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh nhân dân, dân giàu thì nước mạnh. Vì vậy, việc bảo vệ biên cương không chỉ là trách nhiệm của triều đình mà
còn là trách nhiệm của toàn dân, trực tiếp là dân cư vùng biên cương.
Việc giữ gìn đất nước, bảo vệ biên giới phải gắn liền với việc giữ dân, “an dân”, xây dựng khối đoàn kết cộng đồng đa dân tộc, tổ chức và động viên sức mạnh toàn dân. Sử cũ còn ghi Lê Thánh Tông nhiều lần phủ dụ quan quân
nơi biên trấn phải lo tròn trách nhiệm giữ đất, giữ dân,78