🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Pháp Luật Dân Sự Và Thực Tiễn Xét Xử
Ebooks
Nhóm Zalo
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP
PHẠM CHÍ THÀNH
Chịu trách nhiệm nội dung:
ỦY VIÊN HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP - XUẤT BẢN TS. VÕ VĂN BÉ
Biên tập nội dung: ThS. VĂN THỊ THANH HƯƠNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG
NGUYỄN THỊ THẢO
BÙI BỘI THU
Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Đọc sách mẫu:
PHẠM THÚY LIỄU LÊ MINH ĐỨC
NGUYỄN THỊ THẢO VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/20-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5013-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/06/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020.
Mã số ISBN: 978-604-57-5673-7.
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện
Quốc gia Việt Nam
Tưởng Duy Lượng
Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử / Tưởng Duy Lượng. - Tái bản có sửa chữa, bổ sung. - H. : Chính trị Quốc gia, 2018. - 552tr. ; 24cm
1. Pháp luật 2. Dân sự 3. Xét xử 4. Việt Nam
347.59707 - dc23
CTH0575p-CIP
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, khi công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã bước vào giai đoạn mới, đòi hỏi pháp luật về dân sự phải kịp thời hoàn thiện, đặc biệt là trong việc xử lý các tranh chấp về dân sự giữa các cá nhân với cá nhân, giữa các cá nhân với tổ chức. Vấn đề này không chỉ là mối quan tâm của hệ thống cơ quan Tòa án, các cơ quan tư pháp nói chung mà còn của đông đảo người dân, các tổ chức kinh tế, xã hội đã, đang và sẽ tham gia vào các quan hệ giao dịch dân sự, mà trong rất nhiều trường hợp họ không thể tự giải quyết các mâu thuẫn phát sinh trong quá trình diễn ra giao dịch.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự thường gặp nhiều khó khăn hơn các loại án khác bởi có những quy định của pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, có những quan hệ tranh chấp pháp luật chưa quy định, hoặc mới chỉ có luật khung, chưa có tính định lượng cụ thể. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, dân sự, tính ổn định của pháp luật không cao, chỉ trong một khoảng thời gian mà có những quy định pháp luật đã thay đổi căn bản, như pháp luật về đất đai. Trước đây, công dân có quyền sở hữu đất đai; đến năm 1980 đất đai thuộc sở hữu toàn dân, pháp luật không cho phép công dân cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, mua bán, chuyển nhượng, thừa kế quyền sử dụng đất đai; từ sau năm 1992, việc cho thuê, chuyển nhượng, thừa kế quyền sử dụng đất được pháp luật cho phép với những điều kiện nhất định...
Mặt khác, thời điểm diễn ra giao dịch, thời điểm tranh chấp, thời điểm giải quyết tranh chấp pháp luật được quy định rất khác nhau, nên
5
việc vận dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp đó như thế nào cho hợp tình, hợp lý là một vấn đề không đơn giản, dễ dẫn đến sai lầm. Để góp phần giải quyết vướng mắc, hoàn thiện pháp luật, đồng thời giúp bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng pháp luật được chính xác, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử của Luật sư, Trọng tài viên Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam Tưởng Duy Lượng - nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Với vốn kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực dân sự, hơn nữa, lại là người có nhiều năm trực tiếp tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, tác giả đã đi sâu nghiên cứu, phân tích, bình luận những vụ án phức tạp, các bản án có những sai sót, vướng mắc điển hình. Từ đó đánh giá, tổng kết thực tiễn xét xử, đưa ra những kiến giải, đề xuất hướng xử lý với từng loại tranh chấp, gợi mở phương pháp thu thập tài liệu, chứng cứ; đồng thời, rút ra bài học thiết thực trong việc vận dụng pháp luật với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao nhận thức, sự hiểu biết về pháp luật dân sự cho người dân, cung cấp những thông tin bổ ích cho bạn đọc. Cuốn sách này, năm 2008 đã được xuất bản lần đầu với tên: Xử lý các tranh chấp trong một số án dân sự. Năm 2009, cuốn sách được tái bản lần thứ nhất (có sửa chữa, bổ sung) với tên sách được thay đổi là: Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử nhằm thể hiện rõ hơn nội dung cuốn sách. Để hoàn thiện hơn nữa về nội dung, cũng như đề cập thêm một số thông tin mới của pháp luật về đường lối xử lý các tranh chấp trong giao dịch dân sự, đặc biệt là việc giải quyết các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng, thừa kế quyền sử dụng đất; tranh chấp quyền sử dụng đất có liên quan đến chính sách cải tạo của Nhà nước, tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà..., đồng thời, đáp ứng nhu cầu của đông đảo bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tiếp tục tái bản lần thứ hai, thứ ba và thứ tư cuốn sách Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử với việc bổ sung thêm một số nội dung mới. Sau khi Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và có hiệu lực từ ngày 01-01-2017, nhiều nội dung mới đã được sửa đổi, bổ sung, vì vậy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
6
Sự thật tái bản lần thứ năm có sửa chữa, bổ sung cuốn sách Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử.
Trong lần tái bản này, tác giả đã chỉnh lý nhiều nội dung cho phù hợp với Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời bổ sung thêm các nội dung về giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu, giao dịch có điều kiện, giải thích giao dịch, về bảo vệ người thứ ba ngay tình và thực tiễn giải quyết, về xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, v.v..
Hy vọng cuốn sách sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu của đông đảo bạn đọc, trước hết là các nhà nghiên cứu, các giảng viên, sinh viên luật, các luật sư, các cán bộ thuộc hệ thống cơ quan Tòa án, các cơ quan tư pháp trong việc tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo, áp dụng những kinh nghiệm thực tế vào quá trình xử lý tranh chấp các vụ việc dân sự; đồng thời, giúp người dân, các tổ chức có thêm vốn kiến thức về pháp luật trong quá trình tham gia các giao dịch dân sự để có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 12 năm 2018
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
7
QUY ĐỊNH VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015, NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý
Giao dịch dân sự là một chế định quan trọng trong các Bộ luật Dân sự nói chung, trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nói riêng. Giao dịch dân sự là hành vi giao kết của các bên trên cơ sở thỏa thuận để hình thành hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương cũng được coi là giao dịch dân sự khi nó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Cả hai loại hình của giao dịch dân sự đều là những sự kiện pháp lý hình thành nên những quan hệ dân sự.
Về nguyên tắc, để một giao dịch dân sự phát sinh hiệu lực pháp lý thì giao dịch đó phải thỏa mãn các điều kiện do luật định. Bộ luật Dân sự đưa ra những điều kiện chung nhất về điều kiện có hiệu lực của các giao dịch dân sự, trên cơ sở đó luật chuyên ngành có thể có những quy định bổ sung cụ thể hóa về điều kiện có hiệu lực đối với loại giao dịch đó, ví dụ Luật Nhà ở, Luật Đất đai đã cụ thể điều kiện có hiệu lực về hình thức. Trong phạm vi bài này tác giả đi sâu bình luận các quy định về giao dịch trong Bộ luật Dân sự.
1. Các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 cơ bản kế thừa quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 về điều kiện có
9
hiệu lực của giao dịch dân sự, theo đó giao dịch dân sự có hiệu lực khi tuân thủ đầy đủ 4 điều kiện sau đây:
1.1. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập Nếu như tại khoản 1 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 1995 và tại điểm a khoản 1 Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định: “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự” thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bổ sung cụm từ “chủ thể có năng lực pháp luật dân sự” và năng lực hành vi dân sự “phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” (điểm a khoản 1 Điều 117). Trong hai cụm từ vừa được sửa đổi, bổ sung trên, việc thay thế chữ “người” bằng “chủ thể” đơn thuần chỉ là kỹ thuật, không làm thay đổi nội dung. Việc bổ sung hai cụm từ “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự”, và năng lực hành vi dân sự “phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” xét dưới góc độ lý thuyết không có gì phải bình luận. Tuy nhiên, trong hai cụm từ mới bổ sung, chỉ cụm từ “phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập” là có ý nghĩa cả về pháp lý và thực tiễn. Sở dĩ như vậy là vì nội dung năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là: “1. Quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản. 2. Quyền sở hữu, quyền thừa kế và quyền khác đối với tài sản. 3. Quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó” (Điều 17 Bộ luật Dân sự năm 2015) và “năng lực pháp luật dân sự (của cá nhân, pháp nhân) là khả năng có các quyền và nghĩa vụ dân sự” và “không bị hạn chế, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác” (Điều 18, Điều 86 Bộ luật Dân sự năm 2015); khả năng này của mỗi loại chủ thể trong cùng một môi trường pháp lý, môi trường xã hội là như nhau và xuất hiện từ khi sinh ra (đối với cá nhân, Điều 16) và từ khi thành lập hoặc từ khi ghi vào sổ đăng ký (đối với pháp nhân, Điều 86). Hơn nữa, hiện nay với một chính sách pháp luật rất cởi mở, nhiều rào cản
10
(đặc biệt đối với chủ thể là pháp nhân) liên quan đến năng lực pháp luật của chủ thể đã được xóa bỏ nên có thể nói năng lực pháp luật của chủ thể là cá nhân và pháp nhân được mở rộng biên độ rất nhiều so với trước đây. Trong bối cảnh đó, việc có đưa hay không đưa cụm từ “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự” vào điều kiện này hầu như không làm thay đổi nội dung, cũng không có nhiều ý nghĩa thực tiễn, nếu không muốn nói còn có thể gây hiểu lầm (vì trước đây quy định của pháp luật liên quan đến năng lực pháp luật còn chứa đựng nhiều rào cản nhưng Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 không đưa yếu tố năng lực pháp luật vào điều kiện này vẫn không có vướng mắc gì trong thực tiễn).
Đối với bạn đọc thích tìm hiểu đến cùng chắc sẽ đặt ra câu hỏi tại sao trước đây có nhiều rào cản hơn liên quan đến năng lực pháp luật đối với một số loại chủ thể, nhưng Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 không đưa yếu tố năng lực pháp luật vào điều kiện này? Bởi lẽ những hạn chế liên quan đến năng lực pháp luật của một loại chủ thể nào thì luôn được luật quy định rõ, trong không ít trường hợp đó là quy định cấm hoặc là quy định dưới dạng chủ thể phải thỏa mãn điều kiện gì thì mới có quyền dân sự đó (ví dụ như người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài phải có điều kiện gì mới sở hữu bất động sản ở Việt Nam, nếu không đáp ứng điều kiện sẽ không được sở hữu nhà, quyền sử dụng đất tại Việt Nam, một dạng của quy định cấm về chủ thể nhưng được thể hiện dưới hình thức ẩn), người làm thực tiễn nếu quên hoàn toàn lý thuyết về năng lực pháp luật, không biết quy định đó chính là đề cập năng lực pháp luật của chủ thể, nhưng chỉ cần áp dụng đúng quy định thì sẽ không sai. Những Thẩm phán, Kiểm sát viên... phạm sai lầm là do họ không đọc, không biết đến quy định liên quan đến loại chủ thể đó (không được sở hữu như trường hợp
11
trên) chứ không phải xét xử sai vì lý do không quy định năng lực pháp luật là điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Nhưng điều kiện về năng lực hành vi dân sự thì hoàn toàn khác, khi nói đến năng lực hành vi là nói đến những chủ thể cụ thể, không phải chủ thể nào (dù đều là công dân Việt Nam, cư trú ở Việt Nam) cũng đều có năng lực hành vi và có năng lực hành vi dân sự như nhau. Việc Bộ luật Dân sự năm 2015 có sửa đổi tại điểm a khoản 2 Điều 125 và Điều 21 liên quan độ tuổi có thể xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, nên việc bổ sung chủ thể có năng lực hành vi phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập là cần thiết, có ý nghĩa pháp lý tạo sự thống nhất giữa các quy định liên quan đến năng lực hành vi. Có thể thấy, năng lực hành vi của chủ thể là yếu tố quan trọng, là điều kiện không thể thiếu để giao dịch có hiệu lực. Khi một chủ thể không có năng lực hành vi thì không thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó, nếu họ tự xác lập thì giao dịch đó không có giá trị pháp lý. Nói khác đi là vi phạm điều kiện này, dẫn đến giao dịch bị vô hiệu.
Cụ thể hóa điều kiện này, tại khoản 1 Điều 125, Điều 128, Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định những trường hợp giao dịch bị coi là vi phạm điều kiện về năng lực hành vi, chỉ rõ thời hạn, xác định chủ thể được quyền tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Như vậy, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi là hai yếu tố của chủ thể quan hệ dân sự, chúng có nội hàm khác nhau, ảnh hưởng đến tính có hiệu lực của giao dịch là rất khác nhau. Giai đoạn Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 còn hiệu lực, dù năng lực pháp luật của chủ thể, nhất là chủ thể là pháp nhân còn nhiều giới hạn nhưng thực tế rất hiếm khi phải soi chiếu xem các chủ thể tham gia giao dịch có vi phạm điều kiện có “năng lực pháp luật dân sự” hay không, và nếu phải xem xét thì chủ yếu chủ thể đó là pháp nhân, chỉ có một
12
số trường hợp phải xem xét chủ thể là cá nhân. Ngược lại, điều kiện chủ thể tham gia giao dịch có năng lực hành vi là yếu tố phát sinh nhiều trong thực tiễn, do những tổn thương, khiếm khuyết, hạn chế trong nhận thức, hiểu biết làm cho chủ thể không nhận thức hoặc hạn chế nhận thức, ảnh hưởng rất lớn đến quyền, nghĩa vụ của chủ thể khi tham gia giao dịch nên pháp luật cần phải quan tâm, bảo vệ, vì thế các Bộ luật Dân sự luôn quy định là một điều kiện có hiệu lực của giao dịch.
1.2. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện Bộ luật Dân sự năm 2015 hoàn toàn kế thừa quy định này trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Ý chí của chủ thể, sự tự do, tự nguyện tham gia giao dịch dân sự là rất quan trọng, nó vừa là quyền con người, vừa là quyền công dân - một điều kiện quan trọng để giao dịch dân sự hợp pháp. Các Bộ luật Dân sự nói chung, Bộ luật Dân sự năm 2015 nói riêng đều có những quy định về vô hiệu của giao dịch dân sự khi vi phạm điều kiện này. Có thể thấy quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 là biểu hiện điển hình của trường hợp vi phạm điều kiện tự nguyện. Tác giả cho rằng, quy định tại Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng được xếp thuộc phạm vi vi phạm sự tự nguyện của chủ thể trong quá trình tham gia giao dịch. 1.3. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội Để có được quy định này chúng ta phải đi một chặng đường không hề ngắn. Trước khi Bộ luật Dân sự đầu tiên được dự thảo, cũng như khi Bộ luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực, chúng ta đều cho rằng mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không được trái pháp luật và đạo đức xã hội thì giao dịch mới được coi là hợp pháp, nếu vi phạm điều cấm của pháp luật thì giao dịch dân sự sẽ vô hiệu. Với những quy định đó tất yếu sẽ là nếu các chủ thể không thực hiện đúng quy định của pháp luật, hoặc luật không có quy định nào cho phép hoặc có quy
13
định cấm đoán mà các chủ thể vẫn xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó đều bị coi là trái pháp luật. Như vậy, không gian dành cho các chủ thể trong xác lập giao dịch rất hạn chế, chỉ trong phạm vi pháp luật cho phép. Nhưng từ khi Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành và có hiệu lực thì không gian dành cho các chủ thể muốn xác lập giao dịch mới thực sự rộng mở bằng quy định: “mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội” (điểm e khoản 1 Điều 117).
Điều kiện này chứa đựng hai cặp yếu tố, cặp yếu tố thứ nhất là: “Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự” là cặp yếu tố tính cốt lõi của giao dịch. Mục đích là cái mà các bên trong giao dịch hướng tới và Điều 118 đã định nghĩa rất cụ thể “Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”. Còn nội dung của giao dịch chính là thỏa thuận của các bên về quyền, nghĩa vụ trong giao dịch mà các bên phải thực hiện hoặc quyền của những chủ thể tham gia nhằm đạt mục đích khi xác lập, tham gia giao dịch. Bộ luật Dân sự năm 2015 hoàn toàn kế thừa nội dung này trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Cặp yếu tố thứ hai được quy định rõ ràng, dứt khoát nhằm xác định, chỉ dẫn một hành lang pháp lý để các bên xử sự trong quá trình xác lập, thực hiện giao dịch, đó là giao dịch không vi phạm “điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội”.
So với Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự năm 2015 có sửa đổi quan trọng, dù chỉ bỏ một chữ “pháp” trong thuật ngữ “pháp luật” (điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015), nhưng đem đến một nội hàm mới về cả pháp lý lẫn thực tiễn.
Dưới góc độ pháp lý thì những vấn đề có ý nghĩa quan trọng phải được luật điều chỉnh và tư duy này đã được thể hiện nhất quán trong rất nhiều điều luật. Như vậy, kể từ thời
14
điểm Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực mà những văn bản dưới luật như nghị định, thông tư... có quy định điều cấm sẽ không còn là căn cứ pháp luật để xác định giao dịch vi phạm điều kiện này.
Dưới góc độ thực tiễn thì lợi ích của người dân nói chung, lợi ích chính đáng của các bên trong giao dịch nói riêng phải được bảo đảm một cách chắc chắn bởi cơ quan quyền lực cao nhất, có như vậy mới không còn nguy cơ bị méo mó bởi những văn bản dưới luật của cơ quan hành pháp, hoặc cơ quan tư pháp có tác dụng tăng niềm tin khi các bên tham gia giao dịch, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự.
Tại Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra một khái niệm ngắn gọn về điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Khi giao dịch dân sự vi phạm điều kiện này thì giao dịch bị vô hiệu và trường hợp giao dịch dân sự do giả tạo hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba được quy định tại Điều 124 có thể coi là một dạng vi phạm điều cấm của luật. Tuy nhiên, không nên cho rằng phạm vi điều cấm của luật chỉ nằm trong Điều 124. Khi xem xét giao dịch có vi phạm điều cấm của luật hay không phải xem xét loại giao dịch đó bị chi phối bởi luật chuyên ngành nào để đối chiếu, xem xét.
Đây là một trong những điều kiện quan trọng, có thể coi là quan trọng nhất. Bởi lẽ mục đích, nội dung của giao dịch chính là linh hồn của giao dịch, nó không chỉ tác động trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia giao dịch mà có thể ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác, dù họ không tham gia giao dịch, nếu các bên tham gia giao dịch không lấy pháp luật, đạo đức xã hội làm chuẩn, làm cơ sở trong quá trình xác lập giao dịch.
15
1.4. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định Đối với điều kiện này, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ chữ “pháp” trong thuật ngữ pháp luật so với Bộ luật Dân sự năm 2005, còn những nội dung khác Bộ luật Dân sự năm 2015 vẫn giữ nguyên. Đồng thời tại Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã liệt kê các hình thức của giao dịch như sau: “1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”.
Bộ luật Dân sự năm 2015 gần như kế thừa quy định về hình thức của giao dịch được quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ bổ sung cho cụ thể hơn và khoản 2 bỏ từ “pháp” để vừa bảo đảm tính nhất quán giữa các quy định, vừa khẳng định chỉ khi “luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký” thì các bên mới bắt buộc phải tuân theo quy định đó.
Như vậy, hình thức của giao dịch phải được thể hiện dưới hình thức văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký chỉ khi có luật quy định, khi đó nó mới trở thành điều kiện bắt buộc về hình thức của giao dịch. Vì vậy, dù giao dịch đó quan trọng hay không quan trọng mà không có luật nào quy định giao dịch phải công chứng, chứng thực, đăng ký thì các bên không thực hiện công chứng, chứng thực, đăng ký, giao dịch vẫn có hiệu lực.
16
Quy định này đã thể hiện rõ hơn triết lý “việc dân sự cốt ở hai bên”, nội dung của giao dịch, sự tự nguyện của các chủ thể mới là yếu tố quan trọng, còn hình thức của giao dịch chỉ có ý nghĩa trong một chừng mực nhất định. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điểm này khi nghiên cứu các trường hợp giao dịch vô hiệu, nhất là quy định giao dịch vi phạm điều kiện về hình thức.
Các phòng công chứng, văn phòng công chứng, văn phòng luật, công ty luật cần nắm chắc quy định này để không hướng dẫn lòng vòng như đã từng diễn ra ở nơi này, nơi khác liên quan đến vấn đề công chứng giao dịch; đặc biệt cơ quan nhà nước không quy định thêm những thủ tục, đòi hỏi công chứng, chứng thực văn bản, giấy tờ quá nhiều như hiện nay, vừa gây tốn kém, phiền hà cho người dân, vừa lãng phí tài lực của xã hội. Mặt khác, các văn bản luật có liên quan đến vấn đề công chứng, chứng thực cũng cần được rà soát, điều chỉnh và quy định theo hướng chỉ những loại giao dịch thực sự quan trọng, có ý nghĩa lớn với người dân, cần có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước thì mới buộc phải công chứng, chứng thực. Một khi luật đã quy định công chứng, chứng thực là điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì cần sử dụng công nghệ thông tin vừa giúp công khai, vừa kiểm soát, đồng thời chỉ nên coi việc đăng ký giao dịch sẽ tạo ra những lợi thế nếu có tranh chấp, thay vì quy định theo hướng là điều kiện có hiệu lực như hiện nay đối với một vài loại giao dịch. Tác giả cho rằng, việc quy định nhiều thủ tục liên quan đến điều kiện về hình thức của giao dịch chỉ chứng tỏ sự yếu kém trong quản lý nhà nước về loại giao dịch đó, gây thêm phiền hà cho người dân. Một chính phủ kiến tạo cần mạnh dạn cắt bỏ những hình thức không thật sự cần thiết, vì gắn với hình thức là phát sinh thủ tục, có nhiều thủ tục không cần thiết là gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp.
17
2. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu Tại Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định như sau: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”.
Quy định nói trên chứa đựng hai nội dung rất quan trọng, nội dung thứ nhất hoàn toàn kế thừa quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Đây là một quy định có tính khẳng định, xét dưới góc độ triết học nó thể hiện mối quan hệ không thể tách rời giữa nội dung và hình thức của sự vật. Vì vậy, trên nguyên tắc quy định này không gây ra băn khoăn, tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở nội dung này như quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, theo tác giả là có phần cứng nhắc vì chưa đáp ứng được sự đa dạng, tính mềm dẻo trong quan hệ dân sự, chưa coi bản chất sự vật, ý chí của các bên tham gia giao dịch mới là yếu tố cốt lõi.
Nội dung thứ hai của điều kiện này là “trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác” là nội dung mới được bổ sung, hé mở sẽ có quy định mới trong các quy định tiếp theo của Bộ luật, đồng thời từ quy định này khi sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng luật mới cần có sự cân nhắc theo hướng hạn chế những trường hợp quy định hình thức là điều kiện bắt buộc đối với loại giao dịch. Trường hợp cần thiết phải quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực cũng không nên quy định nhiều thủ tục liên quan đến hoàn thiện hình thức, nhằm giảm tổn hao tài lực xã hội (người dân tăng chi phí, Nhà nước phải bố trí bộ máy thực hiện...), giảm giao dịch vô hiệu do vi phạm điều kiện hình thức. Ví dụ vừa phải bằng văn bản, vừa phải công chứng, chứng thực, vừa phải đăng ký. Nếu vì lý do liên quan đến quản
18
lý nhà nước thì quy định những hình thức hợp lý, tăng sử dụng công nghệ để thực hiện việc quản lý.
Một giao dịch đã được các bên xác lập có thể là một giao dịch hợp pháp và cũng có thể là một giao dịch không hợp pháp. Khi giao dịch hợp pháp đã hình thành giao dịch đó sẽ được pháp luật bảo hộ. Trong quá trình thực hiện giao dịch có thể diễn ra khuynh hướng khác nhau trong thực tiễn như giao dịch được thực hiện một cách tốt đẹp, lúc này giao dịch đã hoàn thành sứ mệnh và tự chấm dứt. Nhưng giao dịch có thể không đi được đến đích cần đến, phải chấm dứt nửa chừng do có sự vi phạm của một bên hay cả hai bên, do đơn phương chấm dứt giao dịch... sẽ để lại những hậu quả mà hai bên phải tự xử lý, nếu không tự xử lý được thì yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở thỏa thuận của hai bên trong giao dịch và quy định của pháp luật để có các quyết định phù hợp, có thể cho chấm dứt giao dịch và giải quyết hậu quả, nhưng có thể công nhận giao dịch và buộc bên vi phạm tiếp tục thực hiện giao dịch... Tuy nhiên, nếu là giao dịch mà hai bên xác lập vi phạm một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì dù các bên đã hoặc đang thực hiện cơ quan có thẩm quyền có thể tuyên bố giao dịch vô hiệu. Khi một giao dịch bị vô hiệu thì không chỉ dừng ngay việc thực hiện giao dịch mà những gì đã thực hiện đều phải trở về điểm xuất phát, trở lại tình trạng ban đầu, đó là sự khác nhau giữa giao dịch hợp pháp và giao dịch vô hiệu.
Dưới đây là các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Bộ luật không thiết kế theo hướng liệt kê, do đó, không được nhầm lẫn cho rằng Bộ luật đã quy định đầy đủ tất cả các trường hợp giao dịch vô hiệu, mà cần phải thấy đó chỉ là các trường hợp có tính phổ biến, điển hình.
19
2.1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội (Điều 123)
Nếu như Bộ luật Dân sự năm 1995 dựa trên nguyên tắc công dân được làm những gì pháp luật cho phép, thì Bộ luật Dân sự năm 2005 khi được thông qua với một tư duy mới đã bắt đầu nảy nở với ý tưởng là công dân được làm những gì pháp luật không cấm. Tư tưởng này đã được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa rõ nét trong Bộ luật Dân sự năm 2015.
Chúng ta đều biết quy định của pháp luật liên quan đến giao dịch là những khuôn mẫu chung có tính nguyên tắc, định hướng cách xử sự trong đó xác định những giới hạn mà các bên không được vượt qua, tạo không gian cho các bên hành động nhằm bảo đảm lợi ích cho các bên tham gia giao dịch, đồng thời ngăn ngừa các bên xâm phạm những lợi ích chung, lợi ích chủ thể khác.
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp nội dung thỏa thuận của các bên có vi phạm pháp luật là giao dịch vô hiệu, mà giao dịch chỉ vô hiệu khi lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó, hoặc nội dung mà hai bên thỏa thuận trong giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội. Tức là chỉ những trường hợp mục đích của các bên, thỏa thuận của các bên trong giao dịch vi phạm vào các quy định của luật, mà quy định đó không cho phép các chủ thể xác lập, thực hiện giao dịch hoặc đã xâm phạm vào những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng thì mới xác định giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Do đó, khi một bên hoặc cơ quan có thẩm quyền cho rằng giao dịch vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì phải chỉ rõ điều nào của luật, quy định nào không cho phép các bên xác lập giao dịch, nếu vi phạm thuộc lĩnh vực đạo đức cũng phải chỉ rõ vi phạm chuẩn mực nào trong lĩnh vực đạo đức.
20
Nếu không chỉ ra các căn cứ pháp lý cụ thể thì không áp dụng điểm c khoản 1 Điều 117, Điều 123 Bộ luật Dân sự năm 2015 để hủy bỏ giao dịch.
Trong đề mục này tác giả chỉ nêu ra những vấn đề rất cơ bản, chưa đề cập những nội dung đang có nhận thức khác nhau. Ví dụ như trong điều luật phải ghi rõ, có từ cấm thì mới vi phạm điều cấm? Luật có những quy định về giới hạn của quyền, vậy giữa giới hạn của quyền với điều cấm của luật có mối quan hệ với nhau như thế nào? Vượt quá giới hạn của quyền có nằm trong khái niệm điều cấm của luật? Để nắm bắt quy định này thấu đáo, áp dụng chuẩn xác là không dễ. Tác giả sẽ bình luận chuyên sâu Điều 123 trong cuốn Pháp luật kinh tế và thực tiễn xét xử sẽ ra mắt trong thời gian tới.
2.2. Giao dịch dân sự do giả tạo (Điều 124)
Tại Điều 124 quy định: “1. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan.
2. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu”. Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 có hai dạng giao dịch bị coi là giả tạo. Dạng thứ nhất là hai bên tạo ra hai giao dịch nhưng thực chất chỉ có một giao dịch là có thực còn một giao dịch là giả.
Như vậy, khi một giao dịch được coi là giả tạo thì dù biểu hiện về hình thức là một giao dịch, có đủ các yếu tố cấu thành của giao dịch, nhưng các bên không có ý định thực hiện giao dịch, không phát sinh quyền, nghĩa vụ thực sự cho các bên, việc tạo ra giao dịch này chỉ nhằm che giấu một giao dịch có thực khác, nên theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Dân sự
21
năm 2015 giao dịch này bị vô hiệu, còn giao dịch có thực, bị che giấu vẫn có hiệu lực pháp luật.
Ví dụ: Hai bên ký hợp đồng tặng cho tài sản là nhà đất, và mang hợp đồng tặng cho nhà đất đến cơ quan có thẩm quyền đề nghị chứng thực và đã được Ủy ban cấp có thẩm quyền chứng thực, nhưng thực tế hai bên không thực hiện việc tặng cho mà lại thực hiện việc mua bán tài sản là nhà đất này. Như vậy, hợp đồng tặng cho là giả tạo nhằm che giấu một giao dịch có thực của hai bên về việc mua bán nhà đất. Trong trường hợp này giao dịch tặng cho là giả tạo, giao dịch này mặc dù được cơ quan có thẩm quyền chứng thực nhưng không phát sinh hiệu lực pháp lý, bị vô hiệu ngay từ khi giao kết. Giao dịch mua bán nhà đất là giao dịch có thực, đã bị che giấu vẫn có hiệu lực pháp luật, nếu không có vi phạm quy định của luật làm cho vô hiệu. Các bên trong giao dịch mua bán nhà đất vẫn phải thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước theo quy định của pháp luật liên quan đến giao dịch này, ví dụ như nghĩa vụ nộp thuế thu nhập, v.v..
Dạng giao dịch giả tạo thứ hai là các bên chỉ xác lập một giao dịch đối với tài sản đó, nhưng thực chất hai bên không có ý định thực hiện giao dịch này. Dù giao dịch được xác lập theo đúng những quy định của pháp luật nhưng không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của hai bên, các bên không thực hiện những thỏa thuận được ghi trong giao dịch. Việc xác lập giao dịch chỉ nhằm trốn tránh nghĩa vụ với bên thứ ba, trong trường hợp này giao dịch cũng bị vô hiệu.
Ví dụ: A có nợ B 3.000.000.000 đồng đã gần đến hạn phải trả trong khi A có tài sản là nhà đất trị giá 800.000.000 đồng và một chiếc tàu trị giá 2.500.000.000 đồng. A đã ký hợp đồng bán chiếc tàu cho K là em ruột với giá đúng bằng giá trị con tàu (2.500.000.000 đồng), hợp đồng đã được công chứng, đăng ký chuyển quyền sở hữu. Nhưng thực chất K không phải trả
22
đồng nào cho A. Giữa A và K có văn bản thỏa thuận ngầm hợp đồng mua bán chỉ nhằm chứng minh A không còn là chủ sở hữu chiếc tàu, không bị xử lý để trả nợ cho B khi đến hạn, chứ không có việc mua bán thực. Như vậy, hợp đồng mua bán là giả tạo, sẽ bị vô hiệu.
Trong thực tiễn biến tướng của giao dịch giả tạo thường xuất hiện đó là những người cho vay với lãi suất cao sau khi ký hợp đồng cho vay, bên cho vay buộc bên vay ký hợp đồng mua bán tài sản, thường là nhà đất, trong phần lớn trường hợp giá nhà ghi trong hợp đồng rất thấp, có thể tương ứng với khoản tiền gốc vay cộng với khoản lãi suất cao khi cho vay. Khi bên vay không trả được nợ thì bên cho vay buộc bên vay thực hiện việc giao nhà đất. Khi có tranh chấp ra Tòa, hai bên sẽ khai khác nhau về hợp đồng mua bán nhà đất. Việc thu thập tài liệu, chứng cứ, đánh giá chứng cứ để xác định hợp đồng mua bán nhà là thực hay là giả tạo là không đơn giản, dẫn đến không ít trường hợp vụ án phải hủy, xét xử đi xét xử lại nhiều lần do rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Ví dụ do xác định đường lối giải quyết vụ án chưa đúng với bản chất sự việc, vì hội đồng xét xử quan niệm hai bên có hợp đồng mua bán, đã công chứng nên hợp đồng mua bán đã hoàn thành thì công nhận hợp đồng..., hoặc do đánh giá chứng cứ chưa đúng, do thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đầy đủ...
Khi gặp trường hợp này không được chỉ xem xét dưới góc độ hình thức của giao dịch, mà phải xem xét bản chất của giao dịch. Vì nếu chỉ xem xét hình thức của giao dịch thì quy định tại Điều 124 sẽ không còn ý nghĩa, bởi trên thực tế rất nhiều trường hợp hình thức của hai giao dịch đều thực hiện đúng quy định của pháp luật...
Một trong những yếu tố quan trọng để nhận biết được bản chất, xác định đúng đường lối giải quyết là phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ, khi đã có đủ tài liệu, chứng cứ thì việc
23
đánh giá tài liệu, chứng cứ phải được quan tâm đặc biệt. Vì các tranh chấp loại này thường có nhiều tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn nhau, bước tiếp theo là áp dụng đúng quy định của pháp luật. Khi đã có căn cứ xác định giao dịch giả tạo thì áp dụng Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 và các điều quy định về hậu quả giao dịch vô hiệu để giải quyết.
2.3. Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 125)
Tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.
Như đã phân tích, do đối tượng này có những hạn chế, khi họ tham gia giao dịch luôn ở thế bất lợi nên luật quy định phải có người giám hộ, người đại diện cho họ tham gia giao dịch thì giao dịch đó mới hợp pháp. Tuy nhiên, trong quy định này có hai điểm cần chú ý, một là, dù các đối tượng trên trực tiếp tham gia giao dịch vi phạm một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch nhưng nó không đương nhiên vô hiệu, mà nó chỉ được xem xét, xác định vô hiệu khi người đại diện của đối tượng này có yêu cầu, nếu người đại diện biết không yêu cầu xem xét thì giao dịch vẫn được thực hiện; hai là, mặc dù khoản 1 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành niên...” nhưng không phải cứ người chưa thành niên tham gia giao dịch là vi phạm
24
quy định này, bởi lẽ có những loại giao dịch mà Bộ luật cho phép người chưa thành niên tham gia giao dịch, không bắt buộc phải có người đại diện, như quy định tại Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015, đặc biệt quy định tại khoản 4 Điều này. Do đó, khi xác định giao dịch có vi phạm khoản 1 Điều 125 hay không phải đối chiếu, xem xét các quy định khác trong Bộ luật Dân sự năm 2015, luật khác có liên quan.
Tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 khi quy định các trường hợp Tòa án xác định vô hiệu khi có yêu cầu nhưng vẫn “trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.
Những trường hợp được loại trừ, không áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 đó là: “a) Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
b) Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
c) Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự”.
Việc bổ sung quy định tại điểm a là hợp lý, phản ánh đúng thực tiễn cuộc sống. Chúng ta đều thấy không hiếm trường hợp trẻ dưới sáu tuổi thực hiện những giao dịch nhỏ như mua kẹo, đồ chơi, thậm chí chính bố mẹ giao cho trẻ đi thực hiện giao dịch như mua bao diêm, bật lửa, vài nghìn muối, mắm do hàng xóm bán. Mọi người đều thừa nhận giao dịch đó là bình thường, không có gì là bất hợp pháp. Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật lập pháp, tác giả băn khoăn khi nội dung này lại quy định tại điểm a khoản 2 Điều 125 mà không đưa về cuối khoản 1
25
Điều 21, cuối khoản 2 Điều 22, cũng với cách thể hiện: trừ... (ví dụ trừ giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó) sẽ có sự gắn kết, hoàn chỉnh cho một vấn đề.
Xuất phát từ việc bảo vệ những đối tượng yếu thế khi họ gặp bất lợi bởi những đối tượng có lợi thế hơn tạo ra thì việc tuyên bố giao dịch vô hiệu là cần thiết, nhưng nếu giao dịch đó không những không gây bất lợi cho họ mà còn tạo ra cho họ lợi ích thì không đặt vấn đề vô hiệu. Điều đó có nghĩa là khi một người trưởng thành, bình thường đã thực hiện giao dịch với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự... mà giao dịch đó chỉ phát sinh quyền hoặc miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự... thì giao dịch đó vẫn hợp pháp, không bị coi là vi phạm những điều kiện có hiệu lực của giao dịch, chủ thể là người đã thành niên, người bình thường không có quyền yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Quy định tại điểm b khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ ngăn chặn những chủ thể đã giao dịch với những đối tượng yếu thế lợi dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 để yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, việc sửa đổi, bổ sung này là rất hợp lý, cần thiết, phù hợp về lý luận và thực tiễn.
Đối với trường hợp khi thực hiện giao dịch thì chủ thể giao dịch thuộc đối tượng là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện, nhưng quá trình thực hiện giao dịch hoặc sau khi đã thực hiện giao dịch thì chủ thể này đã thành niên (đối với trường hợp khi giao dịch còn vị thành niên) hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự (với đối tượng là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức,
26
làm chủ hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự) thừa nhận hiệu lực của giao dịch thì giao dịch đó có hiệu lực pháp luật. Như vậy, khi chủ thể đã trưởng thành, đã bình thường biết cân nhắc được và mất về những lợi ích liên quan đến giao dịch thì luật dành quyền quyết định cho chủ thể, tôn trọng lựa chọn, quyết định của chủ thể. Quy định này thể hiện sự nhất quán về vấn đề có tính nguyên tắc trong quan hệ dân sự là quyền tự do, tự nguyện, định đoạt của chủ thể.
Suy ngẫm về quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 nếu chỉ thấy nội dung trực tiếp phải áp dụng là chưa đủ, mà cần nhận ra những thông điệp ẩn chứa trong quy định đó thì mới mang nhiều ý nghĩa cho cuộc sống. Có thể thấy quy định rất rõ ràng có tác dụng ngăn ngừa việc áp dụng pháp luật một cách máy móc, cứng nhắc như đã từng xuất hiện. Song sâu xa hơn nó nhắc nhở người áp dụng pháp luật phải trên cơ sở mục đích, bản chất của quy định, lợi ích cần bảo vệ, sự công bằng có thể đem đến cho mỗi chủ thể để đưa ra phán quyết, chứ không nên áp dụng bất kỳ một quy định nào một cách cứng nhắc, máy móc. Và như vậy, dù không có quy định cụ thể này cũng cần có lựa chọn khi xử lý những trường hợp nói trên như quy định này, đều đó cũng có nghĩa là đối với những trường hợp khác mà luật chưa có quy định rõ như trường hợp này thì cũng cần có tư duy áp dụng tương tự, đó mới là điều cần thiết trong bản lĩnh và tư duy áp dụng pháp luật.
2.4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn (Điều 126) Tại khoản 1 Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định như sau:
“1. Trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.
27
Khi các bên cùng nhau thỏa thuận xác lập giao dịch là để mỗi bên đạt được những mục đích nhất định đáp ứng những yêu cầu của mình. Nhưng do những nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến trong quá trình đàm phán đã có sự tiếp nhận sai lạc ý chí thực của nhau, hiểu không đúng những nội dung được đưa ra trao đổi, bàn bạc. Nếu giao dịch được thể hiện bằng hình thức văn bản thì những nội dung, những điều khoản, hay chỉ một vài điều khoản cơ bản, chủ chốt đã không phản ánh đúng ý chí thực của một bên hoặc cả hai bên, chỉ đến khi giao dịch đã được xác lập hoặc khi thực hiện mới phát hiện ra sự nhầm lẫn đó.
Có vấn đề cần chú ý, chỉ coi là nhầm lẫn khi nó không nằm trong sự tính toán của bất cứ bên nào, do vô ý thì mới thuộc trường hợp áp dụng quy định tại Điều 124, còn nếu do sự sắp đặt của một bên, cố ý của một bên có tính chất lừa dối thì không áp dụng quy định này.
Mặt khác, đối với một giao dịch có nhiều nội dung, nhiều điều khoản trong đó có điều khoản thể hiện không đúng ý chí thực của một hay cả hai bên, song nội dung bị nhầm lẫn chỉ thuộc phạm vi tiểu tiết, không có tính chất cơ bản, không ảnh hưởng đáng kể đến quyền, nghĩa vụ của hai bên, không xâm phạm lợi ích của người khác thì giao dịch đó không bị vô hiệu, hoặc nếu phải xác định vô hiệu thì chỉ phần đó của giao dịch bị vô hiệu. Việc xác định toàn bộ giao dịch vô hiệu trong những trường hợp nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì giao dịch đó mới bị vô hiệu.
Đối với trường hợp sự nhầm lẫn là nghiêm trọng, thuộc nội dung cơ bản của giao dịch, nhưng khi nhận ra sự nhầm lẫn hai bên đã trao đổi, bàn bạc khắc phục sự nhầm lẫn đó, hoặc có sự điều chỉnh cho phù hợp để mỗi bên đều đạt được mục đích khi xác lập giao dịch thì giao dịch đó cũng không bị vô hiệu.
28
Khi giao dịch vừa được xác lập, đang thực hiện thì phát hiện ra nhầm lẫn dẫn đến tranh chấp, cũng có thể nhầm lẫn được phát hiện nhưng nhầm lẫn đó không cơ bản hoặc nhầm lẫn thuộc phạm vi cốt lõi của giao dịch nhưng các bên đã trao đổi khắc phục sự nhầm lẫn đó, đã thực hiện xong giao dịch mới xảy ra tranh chấp, v.v.. Nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp có thể là do nhầm lẫn, nhưng cũng có thể nhầm lẫn chỉ là nguyên cớ (vì khi phát hiện nhầm lẫn đã khắc phục...) còn nguyên nhân thực dẫn đến tranh chấp lại có thể bởi các thực tế khác, như quá trình thực hiện đã có sự vi phạm. Do đó, khi có tranh chấp cần phải xem xét có thuộc trường hợp vô hiệu do nhầm lẫn không? Có phải không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch? Nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp là gì? Xác định bên nào có lỗi... tùy từng trường hợp mà lựa chọn đường lối giải quyết phù hợp với thực tế đã diễn ra.
2.5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép (Điều 127)
Khi tham gia giao dịch các bên phải trên tinh thần tự do, tự nguyện, trung thực trong quá trình xác lập, thực hiện giao dịch nhằm đạt được những lợi ích nhất định, không bên nào được lừa dối, ép buộc bên nào, giao dịch đó sẽ được coi là hợp pháp. Vì vậy, bất kỳ bên nào hoặc người thứ ba làm cho bên tham gia giao dịch mất đi yếu tố tự nguyện, dẫn đến những nội dung được thể hiện trong giao dịch không phải là ý chí thực của họ thì pháp luật không bảo hộ cho giao dịch đó. Tuy nhiên, chỉ những trường hợp cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia không có sự tự nguyện khi tham gia giao dịch mới thuộc phạm vi điều chỉnh bởi quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015. Những hành vi đó là “lừa dối, đe dọa, cưỡng ép”. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
29
Theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
Có thể thấy thuật ngữ lừa dối, đe dọa, cưỡng ép đã được giải thích một cách rõ ràng trong Bộ luật.
Như vậy, về mặt chủ quan, hành vi lừa dối, đe dọa, cưỡng ép đều giống nhau đó là hành vi được thực hiện một cách cố ý, có chủ định, nhưng khác nhau ở chỗ, bên lừa dối thường tìm mọi cách để che đậy hành vi, thể hiện dưới những thủ đoạn tinh vi, có thể bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm làm cho bên kia nhầm tưởng, hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự (như mẫu hàng và hàng giao không tương ứng về hình thức, chất lượng; tráo đổi những bộ phận quan trọng của đối tượng giao dịch, tráo đổi khái niệm trong điều khoản để lừa bên kia, cố tình làm cho bên kia hiểu nhầm...) nên đã xác lập giao dịch đó. Còn hành vi đe dọa, cưỡng ép được thực hiện công khai trắng trợn, khai thác những “điểm yếu” của một bên trong giao dịch làm cho họ hiểu rằng nếu không xác lập giao dịch có thể dẫn đến những mất mát (về tinh thần, tính mạng, sức khỏe) lớn hơn, buộc họ giao kết trái với ý nguyện của họ, tạo ra những điều khoản gây bất lợi cho bên bị đe dọa, cưỡng ép.
2.6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 128) Mặc dù tại Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã quy
30
định trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự xác lập, cũng là đối tượng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình và quy định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đề cập đến đối tượng người xác lập giao dịch không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Nếu nhìn về hiện tượng có điểm giống nhau nhưng hai chủ thể này khác nhau hoàn toàn, một bên thuộc trường hợp không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình được diễn ra trong khoảng thời gian dài, liên tục, có thể trước, trong hoặc sau thời điểm xác lập giao dịch. Còn trường hợp quy định tại Điều 128 thì chủ thể vốn là người bình thường có năng lực hành vi dân sự, nhưng việc không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình diễn ra đột xuất trong một khoảng thời gian ngắn, đúng vào thời điểm diễn ra việc xác lập giao dịch, còn trước đó hoặc sau đó họ vẫn bình thường.
Chỉ sau khi xác lập giao dịch, chủ thể ở trong trạng thái bình thường mới nhận ra việc xác lập giao dịch trước đây của mình là ở trong trạng thái “thần kinh có vấn đề”, không bình thường. Khi đó chủ thể này có quyền tự khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Đây là trường hợp ít khi xảy ra, nhưng không phải không có khả năng diễn ra trong thực tế nên Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cũng là cần thiết. Nhưng muốn yêu cầu của mình được chấp nhận thì chủ thể phải thực hiện một việc không hề dễ dàng là xuất trình được chứng cứ chứng minh trước cơ quan tài phán là khi xác lập giao dịch mình ở trong trạng thái không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, nếu không chứng minh được sẽ không được cơ quan tài phán chấp nhận.
2.7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129)
Quy định tại Điều 129 Bộ luât Dân sự năm 2015 có 3 nội
31
dung cơ bản, nội dung thứ nhất vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa phản ánh sự nhất quán giữa quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 là giao dịch dân sự vi phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch thì giao dịch đó vô hiệu.
Câu thứ nhất của Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 có nội dung: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:...”, cách thể hiện theo hướng khẳng định, chỉ loại trừ hai trường hợp ngoại lệ, nhưng cũng không nên cho rằng ngoài hai trường hợp được nêu tại khoản 1, khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, các trường hợp khác (không thuộc hai trường hợp ngoại lệ) dù đã thực hiện hai phần ba nghĩa vụ mà vi phạm điều kiện về hình thức thì đương nhiên vô hiệu.
Nội dung thứ hai khi luật quy định một loại giao dịch nào đó bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, nhưng các bên mặc dù đã thể hiện bằng văn bản nhưng hình thức thể hiện đó không đúng với hình thức văn bản mà luật đã quy định, nhưng một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì giao dịch đó sẽ được công nhận có hiệu lực khi có yêu cầu.
Nội dung thứ ba khi luật quy định giao dịch không những phải thể hiện bằng văn bản mà bắt buộc phải công chứng, chứng thực thì mới coi hoàn thiện điều kiện có hiệu lực về hình thức, nhưng các bên đã không thực hiện công chứng, chứng thực giao dịch, song một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ của giao dịch thì giao dịch đó sẽ được công nhận có hiệu lực khi có yêu cầu. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Ví dụ, theo quy định của Luật Nhà ở năm 2014 thì hợp đồng mua bán nhà phải thực hiện việc công chứng hoặc chứng thực thì hợp đồng mới hoàn thiện về hình thức. Đây là quy định
32
bắt buộc về hình thức hợp đồng mua bán nhà trong Luật Nhà ở năm 2014. Hai bên sau khi lập hợp đồng mua bán nhà bằng văn bản đã không công chứng, cũng không chứng thực hợp đồng, song bên mua đã giao hai phần ba số tiền mua nhà cho bên bán, bên bán đã nhận hai phần ba giá trị hợp đồng và giao nhà cho bên mua, theo quy định của khoản 3 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Những phân tích trên mới chỉ dựa trên câu chữ, lời văn của Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 theo hướng xuôi, chưa nêu những khía cạnh khác có tính phản biện và cần hướng dẫn. Thực tế quy định này đã tạo ra những nhận thức khác nhau, có những quan điểm nếu hội đồng xét xử lựa chọn sẽ dẫn đến nguy cơ mở rộng diện giao dịch dân sự bị vô hiệu, vì vậy, tác giả sẽ bình luận sâu về quy định này ở phần sau.
33
NÊN GIẢI THÍCH, HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG ĐIỀU 129 BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC NHƯ THẾ NÀO?
Trong quá trình nghiên cứu, áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã xuất hiện các quan điểm khác nhau về những nội dung trong Điều luật này. Để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, bài viết nêu lên những vấn đề cần nhận thức, hướng dẫn từ đó đề xuất, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Những điểm mới trong nội dung Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015
Hình thức của giao dịch là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Do đó, các bộ luật dân sự đều quy định giao dịch dân sự vi phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu. Nhưng trong ba Bộ luật Dân sự (Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015) đã có sự khác nhau khi quy định giao dịch vi phạm điều kiện về hình thức.
Nếu như Bộ luật Dân sự năm 1995 rất coi trọng điều kiện về hình thức với những quy định cứng là “Hình thức của giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật” (khoản 4 Điều 131) mới thỏa mãn điều kiện về hình thức. Quy định này đã đồng
34
nhất việc pháp luật quy định biểu hiện hình thức của giao dịch cũng đồng thời là điều kiện bắt buộc về hình thức của giao dịch, sẽ dẫn đến chỉ cần giao dịch không phù hợp quy định pháp luật là vô hiệu, dù hình thức đó chưa hẳn pháp luật đã coi là điều kiện bắt buộc. Thực tế không hiếm những văn bản dưới luật ở thời kỳ này quy định về hình thức của giao dịch nhưng không thể hiện rõ có phải là điều kiện bắt buộc về hình thức không, song theo khoản 4 Điều 131 mặc nhiên được giải thích là điều kiện bắt buộc về hình thức, dẫn đến vi phạm là giao dịch vô hiệu. Tư duy áp dụng theo hướng này được thể hiện rất rõ trong thực tiễn. Tại báo cáo tham luận của Tòa dân sự tại Hội nghị tổng kết hoạt động các cấp Tòa án năm 2001 đã cho rằng phải thỏa mãn 5 điều kiện (điều kiện thứ tư và thứ năm thực chất là điều kiện về hình thức giao dịch) thì mới công nhận hợp đồng1.
Đến Bộ luật Dân sự năm 2005 đã có phần mềm hóa điều kiện về hình thức bằng quy định: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định” (khoản 2 Điều 122). Với quy định này thì dù pháp luật có quy định hình thức của giao dịch, nhưng không quy định theo hướng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch, thì việc không tuân thủ đúng hình thức của giao dịch, giao dịch đó không bị coi là vi phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức. Khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về hình thức của giao dịch đã giữ nguyên Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 1995 nhằm khẳng định khi pháp luật quy định giao dịch bắt buộc phải thể hiện dưới một hình thức nào đó thì các bên phải tuân thủ. Tuy nhiên, các quy định tiếp theo (Điều 134, Điều 136) Bộ luật Dân sự năm 2005 lại thể hiện theo hướng
1. Tham khảo thêm Luật gia Tưởng Duy Lượng: Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử (tái bản lần thứ tư), bài “Một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở”, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015.
35
cởi mở hơn, trong đó có quy định về thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu về hình thức chỉ có hai năm.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định theo hướng mở, nhưng sự mềm hóa điều kiện về hình thức còn rất hạn chế, thể hiện tư duy làm luật còn coi trọng điều kiện về hình thức, nên tỷ lệ giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức còn rất lớn. Có lẽ từ thực tế đó mà trong một vài hội thảo có nhà nghiên cứu cho rằng quy định tại Điều 134 không có ý nghĩa trong thực tiễn. Ý kiến này chỉ đúng một phần do chưa có tác dụng giảm giao dịch vô hiệu, nhưng lại là cơ sở xác định lỗi cho bên không hợp tác hoàn thiện về hình thức. Nếu không có và không áp dụng quy định này khi xét xử, các Tòa án phải xem xét lỗi vi phạm điều kiện về hình thức của từng bên, từ đó xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Còn trong trường hợp Tòa án đã dành cho các bên một thời gian hoàn thiện vi phạm về hình thức, bên không hợp tác, không phối hợp cùng hoàn thiện về hình thức hợp đồng bị coi là có lỗi, sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu về hình thức, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của phía bên kia khi giao dịch bị vô hiệu.
Khi Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành, mặc dù vẫn coi hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch, nhưng đã có một bước tiến trong nhận thức về vai trò, vị trí đối với điều kiện hình thức của giao dịch khi quy định tại khoản 2 Điều 117 như sau: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định” chứ không phải là pháp luật như trước đây, “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. (khoản 2 Điều 119). Song thể hiện rõ sự mới mẻ, ít nhiều có tính đột phá trong đổi mới về nhận thức đối với điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch là ở Điều 129:
36
“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây: 1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó; 2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.
Nội dung này phản ánh tư duy làm luật đã có phần coi trọng bản chất, tôn trọng ý chí của các bên, một biểu hiện trong việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản nói chung, nguyên tắc cơ bản thứ hai tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2015 nói riêng. Như vậy, việc tôn trọng ý chí các bên không chỉ thể hiện trong thực thi mà ngày càng tiến dần đến sự nhất quán trong xây dựng các quy định cụ thể của Bộ luật. Việc sửa đổi, bổ sung này ít nhiều đã giảm sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ dân sự, nó không chỉ hợp lý (xét dưới góc độ lý thuyết) mà còn giàu tính thực tiễn, tăng “sức sống” cho các giao dịch, tăng tính ổn định trong quan hệ dân sự, bảo đảm sự công bằng.
Tác giả không phủ nhận vai trò của hình thức, nhưng cũng cần phải thấy nó luôn luôn chỉ là hình thức biểu hiện của sự vật nói chung, chứ không tạo nên sự vật đó. Ngày nay với sự phát triển đột phá của khoa học công nghệ càng không nên sử dụng quy định về hình thức giao dịch làm công cụ quản lý, kiểm soát của Nhà nước mà phải sử dụng ngay chính công nghệ.
37
Với bản chất quan hệ dân sự thì càng không nên coi hình thức có vai trò ngang bằng hay cao hơn ý chí của hai bên, bởi ý chí của hai bên mới tạo nên quan hệ dân sự, tạo nên đời sống dân sự, chứ không phải hình thức. Điều này không có gì mới, bởi chính dân gian từ xa xưa đã đúc kết thành câu ngạn ngữ nổi tiếng “việc dân sự cốt ở đôi bên”, không chỉ có ý nghĩa ứng dụng khi giải quyết mà cả khi hình thành, công nhận tính hợp pháp quan hệ dân sự. Coi trọng hình thức đến mức biến nó thành công cụ triệt tiêu ý chí hai bên một cách phổ biến như trước đây rõ ràng không phù hợp với cuộc sống, và nó đã từng trở thành phương tiện cho những người bội tín lợi dụng, biến không ít người tử tế trở thành nạn nhân trong quan hệ dân sự. Có vô vàn ví dụ có thể dẫn ra khi giá nhà, đất tăng giảm đột biến thì các quan hệ mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có vi phạm điều kiện về hình thức đã bị vô hiệu, dù hai bên đã thực hiện cơ bản, thậm chí xong nghĩa vụ về tài sản, chỉ còn điều kiện về hình thức là chưa hoàn thành.
Với quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 129 nếu việc giải thích không bị khuôn theo câu chữ mà theo tiêu chí nghĩa vụ đã được thực hiện sẽ giảm rất nhiều thiệt hại cho những người hiền lành, thiện chí nhưng không hiểu hết hậu quả của việc không hoàn thiện quy định về hình thức của giao dịch trong các quan hệ mua bán nói chung, đặc biệt là mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi xảy ra đột biến về giá cả trên thị trường như đã từng diễn ra những năm cuối thế kỷ XX, thập niên đầu thế kỷ XXI. Chính vì thế tác giả đề cao quy định tại Điều 129 của Bộ luật khi giải thích theo hướng nhằm giảm thiểu các giao dịch dân sự bị vô hiệu về hình thức.
Nguyên do tác giả đặt vấn đề giải thích theo hướng giảm thiểu các giao dịch dân sự bị vô hiệu về hình thức là vì, với ngôn từ và cách thể hiện tại Điều 129 dẫn đến nhận thức, giải thích khác nhau. Có nhà nghiên cứu, luật gia, có thẩm phán...
38
cho rằng khoản 1 Điều 129 quy định “giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì...” mới được áp dụng khoản 1 Điều 129. Trường hợp “giao dịch dân sự đã được xác lập” “bằng văn bản nhưng...” văn bản không theo thể thức nào, nói nôm na “không theo kiểu gì”, thì dù “một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch” cũng không áp dụng khoản 1 Điều 129. Cơ sở để không áp dụng là do khoản 1 Điều 129 quy định rất cụ thể, rõ ràng “giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật”.
Nếu nghiên cứu ngôn từ tại khoản 1, khoản 2 sẽ có cơ sở kết luận quy định tại khoản 1 chỉ áp dụng cho những trường hợp các bên có lập văn bản, nhưng văn bản không hoàn toàn đúng theo mẫu, chưa chuẩn theo hình thức luật quy định, nhưng văn bản đó vẫn phải tương thích với hình thức mà pháp luật quy định cho loại giao dịch đó. Điều đó cũng có nghĩa trường hợp văn bản vi phạm nghiêm trọng, sai biệt nghiêm trọng so với hình thức pháp luật quy định. Ví dụ, nếu theo quy định văn bản dưới hình thức hợp đồng nhưng văn bản mà hai bên xác lập không theo dạng hợp đồng hoặc văn bản sai biệt quá nghiêm trọng so với mẫu, nội dung trong văn bản đơn giản, sơ lược không thể hiện thuộc hình thức của loại giao dịch nào, hoặc theo loại mẫu nào thì không được áp dụng Điều 129.
Có lẽ cùng quan điểm này một tác giả đã viết: “Giao dịch dân sự được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trường hợp này pháp luật quy định giao dịch bằng văn bản theo mẫu quy định
39
(ví dụ, giao dịch chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở hình thành trong tương lai theo Luật Nhà ở thì hình thức giao dịch theo mẫu quy định của Nhà nước) nhưng các bên tự lập văn bản của giao dịch và giao dịch đã thực hiện hai phần ba giá trị của giao dịch thì Tòa án có quyền công nhận hiệu lực của giao dịch”1.
Có phải “các bên tự lập văn bản của giao dịch” có nghĩa hình thức văn bản vẫn phải thể hiện rõ, tương đối đầy đủ về hình thức của hợp đồng nhưng tự viết, không theo mẫu thì mới được chấp nhận?
Khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định “giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”. Những người theo quan điểm trên cũng cho rằng, quy định này chỉ áp dụng cho các loại giao dịch mà luật bắt buộc phải công chứng, chứng thực, không áp dụng cho trường hợp khác về điều kiện có hiệu lực hình thức của giao dịch (không được quy định trong Điều 129 như đăng ký) thì dù hai bên có thực hiện hai phần ba nghĩa vụ, thậm chí thực hiện xong nghĩa vụ trong giao dịch cũng không được công nhận hợp đồng. Ví dụ, mặc dù các bên đã thực hiện xong nghĩa vụ trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng sẽ không được áp dụng quy định này vì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 phải được đăng ký mới được coi là thỏa mãn điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch.
1. TS. Nguyễn Minh Tuấn (Chủ biên): Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2016, tr. 201.
40
Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015 không đề cập loại giao dịch mà thủ tục “đăng ký” là điều kiện có hiệu lực của giao dịch đó. Điều đó có nghĩa Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã loại trừ, không áp dụng cho trường hợp hình thức giao dịch phải có thủ tục đăng ký mà hai bên không thực hiện việc đăng ký, nên không được áp dụng. Sở dĩ Bộ luật Dân sự năm 2015 không “châm trước” về hình thức cho loại giao dịch này là vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý chặt chẽ, do đó việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất bắt buộc phải tuân thủ đúng quy định của Luật Đất đai năm 2013 mới được công nhận hợp đồng.
Từ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 129 cho thấy việc công nhận giao dịch vi phạm điều kiện về hình thức cũng mở có giới hạn, chỉ áp dụng cho những giao dịch thuộc trường hợp quy định tại Điều 129 và thỏa mãn điều kiện về thực hiện nghĩa vụ.
Tác giả cho rằng nếu theo câu chữ của điều luật, cách hiểu và giải thích nói trên không phải không có lý, rất sát với câu chữ của luật. Hơn nữa, nếu không phải nhà làm luật chỉ “mở” có giới hạn như giải thích của quan điểm nói trên thì tại sao lại phải thiết kế thành hai khoản với hai trường hợp ngoại lệ đó, cách thể hiện lại khuôn vấn đề rất giới hạn với các câu chữ như “theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật”, v.v.?
Khi nghiên cứu quy định này tác giả có rất nhiều băn khoăn, có phải nhà làm luật định “mở có giới hạn” như quan điểm trên hay đơn giản chỉ thể hiện sự lo ngại vấn đề chứng minh, dẫn đến kỹ thuật thể hiện chưa thoát và cuối cùng tác giả muốn tin đó chỉ là lỗi kỹ thuật thì mới hợp lý, mới có sự thống nhất giữa các quy định liên quan (ví dụ như quy định tại khoản 1 Điều 132 không phân biệt loại giao dịch phải đăng ký với loại giao dịch không bắt buộc phải đăng ký, cũng không
41
phân biệt đối tượng giao dịch là đất đai với các tài sản khác) mới tạo ra sự lôgíc và quy định này mới chứa đựng sự đổi mới có tính đột phá trong tư duy xây dựng luật, mới thể hiện rõ coi trọng ý chí các bên trong giao dịch.
Với suy nghĩ như vậy, tác giả kiến nghị cần giải thích, hướng dẫn áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 129 theo hướng có vi phạm điều kiện về hình thức, nhưng một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trường hợp luật quy định giao dịch phải được lập thành văn bản mà các bên không lập văn bản; trường hợp luật quy định phải công chứng, chứng thực nhưng các bên không công chứng, chứng thực; trường hợp phải công chứng, chứng thực, đăng ký song các bên không thực hiện việc đăng ký, thậm chí không công chứng, chứng thực nhưng “một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.
Giải thích theo hướng này tính ổn định của giao dịch sẽ rất cao, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có vi phạm điều kiện về hình thức (chưa đăng ký) là được áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015, hạn chế rất nhiều giao dịch vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức.
Nếu có băn khoăn về vấn đề chứng minh, hoặc lo giao dịch bị rối loạn có thể yên tâm, vì giữa hình thức giao dịch và vấn đề chứng minh là hai vấn đề khác nhau. Chứng minh thuộc giải pháp tố tụng và “đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch” sẽ là chốt chặn trong một hành lang pháp lý rõ ràng, sao có thể gây ra rối loạn? Có chăng nếu quản lý theo nếp cũ, mở theo hướng này ít nhiều gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước. Có nên, dễ cho cơ quan quản lý thì
42
chọn phương án giảm tính ổn định của giao dịch, cản trở vận động bình thường của giao dịch trong cơ chế thị trường? Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cho rằng quy định tại Điều 129 phải giải thích theo câu chữ của luật như quan điểm trên (dù tác giả rất thất vọng nếu xuất hiện lựa chọn này, do ý nghĩa thực tiễn trong quy định tại Điều 129 không còn nhiều), thì tác giả đề nghị cần giải thích từ “văn bản” theo nghĩa chung nhất của từ này, chứ không nên giải thích từ “văn bản” cứng nhắc như quan điểm nêu trên.
Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học ấn hành thì văn bản “là bản viết hoặc in, mang nội dung là những gì cần được ghi để lưu lại làm bằng”1. Nếu giải thích từ “văn bản” trong Điều 129 như diễn giải của Từ điển tiếng Việt thì trường hợp luật quy định giao dịch phải thể hiện dưới hình thức hợp đồng, hai bên khi mua bán, chuyển nhượng không lập văn bản dưới hình thức hợp đồng, tên ghi trong văn bản rất nôm na như văn bản trao đổi tài sản, bản ghi nhận; nội dung trong văn bản đơn giản, sơ lược không có đầy đủ các nội dung mà luật quy định cho giao dịch, hợp đồng nhưng khi xem văn bản đều biết đấy là giao dịch về vấn đề gì, đã thể hiện rõ nội dung quan trọng nhất, thậm chí trong giấy tờ ghi nhận việc thanh toán có nội dung thể hiện việc mua bán và thanh toán thì được coi là giao dịch đó đã được thể hiện bằng văn bản.
Có thể diễn đạt khái quát: Chỉ cần “bản viết hoặc in” truyền thống hay thể hiện dưới dạng dữ liệu điện tử mà thông tin trong văn bản đủ xác định bản chất của giao dịch, phải coi là thỏa mãn điều kiện “được xác lập... bằng văn bản”.
Nếu loại giao dịch bắt buộc phải công chứng, các bên đã thể hiện bằng văn bản nhưng văn bản hoàn toàn sai với thể thức
1. Viện ngôn ngữ học (Hoàng Phê chủ biên): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, 2000, tr. 1100.
43
pháp luật quy định và không có công chứng, hai bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì đều áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 để công nhận giao dịch.
Quyền sử dụng đất thực sự là một tài sản có giá trị, thực tiễn áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005 cũng cho thấy những giao dịch vi phạm điều kiện về hình thức dẫn đến vô hiệu, tạo ra những nhức nhối, căng thẳng kéo dài chủ yếu là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà.
Sau khi xét xử một trong hai bên có khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm đề cập về hình thức giao dịch chủ yếu cũng là loại tranh chấp này. Do đó, không nên giải thích theo hướng loại đối tượng giao dịch là quyền sử dụng đất không áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015. Nếu loại ra sẽ có một nghịch lý là nếu giao dịch là nhà đất thì dù nhà nằm trên đất nhưng giao dịch lại được áp dụng quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khi đó buộc người dân phải đối phó bằng những sáng kiến theo cách của người dân như dựng một túp lều, trồng cây lưu niên trên đất trước khi chuyển nhượng, v.v. và hợp đồng sẽ ghi là bán nhà, bán vườn cây gắn liền với đất nhằm phòng ngừa lật lọng, không hợp tác hoàn thiện về hình thức giao dịch là được áp dụng quy định tại Điều 129.
Nhưng để phù hợp câu chữ của Điều 129 mà giải thích theo hướng tách nhà ra khỏi đất, chỉ phần giá trị nhà được áp dụng theo Điều 129 thì cũng không hợp lý, vì đó là một sự “sáng tạo” ngược đời. Nếu loại luôn cả đối tượng giao dịch là nhà, công trình, cây lưu niên trên đất thì càng không hợp lý, khi đó Nhà nước và người dân đều không được lợi gì trong trường hợp này, Điều 129 còn bao nhiêu ý nghĩa? Mọi giải thích, mọi lựa chọn cần bảo đảm tính nhất quán, khuyến khích người dân trung thực chứ không phải kích thích việc đối phó, lách luật. Do đó, hy vọng cơ quan có thẩm quyền cân nhắc kỹ lưỡng khi hướng
44
dẫn, để một ý tưởng hợp lý tại Điều 129 được hiện thực hóa trong thực tế, có sức sống mạnh mẽ.
2. Xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ trong giao dịch Điều 129 quy định giao dịch vi phạm điều kiện về hình thức nhưng “một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.
Tuy nhiên, giao dịch có rất nhiều dạng nghĩa vụ, có nghĩa vụ tài sản, có nghĩa vụ phi tài sản, v.v., việc xác định nghĩa vụ chỉ là nghĩa vụ tài sản hay phải bao gồm tất cả các nghĩa vụ mà hai bên thỏa thuận trong hợp đồng? Khi trong giao dịch vừa có nghĩa vụ tài sản vừa có nghĩa vụ phi tài sản; một bên phải thực hiện nghĩa vụ tài sản vừa phải thực hiện nghĩa vụ phi tài sản (như thực hiện thủ tục sang tên...), hoặc các bên đều chỉ có nghĩa vụ phi tài sản thì dựa vào tiêu chí gì được coi là đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ? Đang có nhận thức, quan điểm rất khác nhau, có thể khái quát vào 3 loại quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, không thể cân đong, đo đếm được nghĩa vụ phi tài sản nên quy định tại Điều 129 chỉ áp dụng cho giao dịch có nghĩa vụ tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng, phải xác định cả nghĩa vụ tài sản và nghĩa vụ phi tài sản, nhưng không biết lấy tiêu chí gì để xác định thực hiện nghĩa vụ đến mức nào được coi là đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ, đây là vấn đề phức tạp, cơ quan chức năng cần có hướng dẫn cụ thể.
Thực tế có những giao dịch dân sự vừa có nghĩa vụ tài sản vừa có nghĩa vụ phi tài sản. Cũng có giao dịch mà nghĩa vụ là việc thực hiện những hành vi, công việc nhất định sau đó người thực hiện được trả công, thù lao... hoặc cả hai bên đều
45
phải thực hiện những công việc nhất định theo thỏa thuận. Trong khi đó quy định tại Điều 129 không phân biệt giao dịch có nghĩa vụ tài sản và nghĩa vụ phi tài sản mà chỉ quy định chung là “đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch” thì phải giải thích theo hướng không phân biệt việc áp dụng cho loại giao dịch có nghĩa vụ tài sản hay nghĩa vụ phi tài sản (việc sử dụng cụm từ “nghĩa vụ phi tài sản” chỉ mang tính tương đối). Bất kỳ loại giao dịch dân sự nào mà hai bên cùng có nghĩa vụ đều được áp dụng.
Tác giả chia sẻ quan điểm thứ hai đối với trường hợp nghĩa vụ một bên hay cả hai bên đều là nghĩa vụ phi tài sản sẽ rất khó xác định thế nào là đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ, và rất cần cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn bằng văn bản quy phạm pháp luật, hoặc bằng án lệ nếu giao dịch bị tranh chấp được cơ quan tài phán giải quyết.
Trong khi chưa có hướng dẫn thì tác giả đưa ra giải pháp để cơ quan có thẩm quyền, cơ quan tài phán có thể tham khảo. Nhưng trước tiên cần thống nhất về mặt tư duy là không thể có hướng dẫn chi tiết cho những trường hợp mà giao dịch có nghĩa vụ phi tài sản, nên cần phải giản lược những vấn đề có thể giản lược, từ đó mới có thể có định hướng hợp lý, vì vậy, cần phân biệt:
- Đối với những giao dịch các bên đều có nghĩa vụ tài sản, còn nghĩa vụ phi tài sản chỉ là những công việc để hoàn thiện hình thức của giao dịch, thì chỉ căn cứ vào nghĩa vụ tài sản để xác định. Điều đó có nghĩa là khi một bên hay cả hai bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ tài sản thì cơ quan tài phán công nhận giao dịch, không cân đong đo đếm nghĩa vụ phi tài sản (là thực hiện thủ tục hình thức giao dịch) trong trường hợp này dù trong giao dịch hai bên có thỏa thuận việc một bên hay cả hai bên cùng nhau thực hiện nghĩa vụ hoàn thiện về hình thức của giao dịch. Việc không tính đến nghĩa vụ
46
này dựa trên cơ sở: đây chính là nguyên nhân dẫn đến hình thức của giao dịch không được thực hiện do lỗi của một bên hay cả hai bên nên Bộ luật Dân sự năm 2015 mới đưa ra quy định này. Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 tự nó đã loại nghĩa vụ này ra khỏi bàn cân xác định mức thực hiện nghĩa vụ.
- Đối với giao dịch một bên có nghĩa vụ tài sản, một bên thực hiện những hành vi, công việc nhất định thì nếu bên có nghĩa vụ tài sản đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ thì đủ điều kiện theo luật định để công nhận hợp đồng. Nếu mới chỉ có bên thực hiện nghĩa vụ phi tài sản đã thực hiện nghĩa vụ thì có khó khăn hơn. Trong trường hợp này dựa trên khối lượng công việc đã thực hiện (đối với loại việc được xác định theo khối lượng) hoặc thời gian đã bỏ ra thực hiện công việc (đối với giao dịch được thực hiện theo thời gian)... để xác định đã thực hiện nghĩa vụ ở mức nào.
- Riêng đối với trường hợp cả hai bên đều có nghĩa vụ phi tài sản thì thực sự là rất khó, không thể có tiêu chí cụ thể, nên trước tiên phải dựa trên thỏa thuận của hai bên trong giao dịch về số lượng, loại việc... mà mỗi bên phải thực hiện, từ đó yêu cầu mỗi bên chứng minh về số lượng, khối lượng, thời gian, công sức đã bỏ ra... khi thực hiện nghĩa vụ, chứng minh đã hoàn thành nghĩa vụ đến mức nào. Trên cơ sở đó cơ quan tài phán đánh giá, kết luận đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ hay chưa.
3. Xác định thiệt hại trong trường hợp công nhận hợp đồng
Đối với những trường hợp một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch và đã được cơ quan tài phán công nhận hợp đồng, thì việc xử lý phần nghĩa vụ chưa thực hiện như thế nào cũng có quan điểm khác nhau.
47
Quan điểm thứ nhất cho rằng, cũng tương tự như trường hợp các bên không có tranh chấp thì các bên chỉ thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, nên khi công nhận hợp đồng thì cũng chỉ buộc bên chưa thực hiện xong nghĩa vụ phải thực hiện tiếp phần nghĩa vụ chưa thực hiện cho đến khi hoàn tất nghĩa vụ được ghi trong hợp đồng.
Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả, trong trường hợp không có tranh chấp các bên đã thực hiện theo thỏa thuận trong giao dịch, không phát sinh thiệt hại, hoặc có thì các bên đã tự giải quyết. Trường hợp quy định tại Điều 129 là dành cho những trường hợp có tranh chấp mà giao dịch có vi phạm điều kiện có hiệu lực về hình thức, trên thực tế thời gian từ khi có sự vi phạm thỏa thuận đến khi bản án, quyết định được thi hành thường rất dài, nên có nhiều biến động, làm cho bên nào đó bị thiệt hại. Bên có quyền lợi đã không nhận được đầy đủ quyền lợi của mình đúng như thời hạn đã thỏa thuận trong giao dịch. Vì vậy, không thể xử lý như trường hợp bình thường là chỉ thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng như ý kiến thứ nhất, mà phải buộc bên có nghĩa vụ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại tương ứng với phần nghĩa vụ chậm thực hiện. Tùy theo tính chất của quan hệ dân sự và thiệt hại xảy ra để xác định. Có thể thiệt hại chỉ là những lợi ích bị mất tương ứng với việc chậm thực hiện nghĩa vụ, trong trường hợp này căn cứ Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết, nếu là hợp đồng mua bán thì thiệt hại có thể là chênh lệch giá, v.v., trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hợp pháp thì căn cứ thỏa thuận để xác định.
Lựa chọn trên không phải là không có cơ sở lý luận, thực tiễn và pháp luật. Đối với những trường hợp nói trên khi Bộ luật Dân sự năm 2005 còn hiệu lực, rất nhiều trường hợp giao dịch vi phạm điều kiện về hình thức bị tuyên bố vô hiệu, chúng ta đã giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu, trong đó có xác định
48
thiệt hại. Nay theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cũng trường hợp đó nhưng áp dụng Điều 129 để công nhận hợp đồng, nên thiệt hại vẫn có thể xảy ra nên phương pháp xác định thiệt hại cơ bản là giống nhau. Khi xác định ai phải chịu trách nhiệm trước thiệt hại đó chúng ta cần xác định bên nào có lỗi thì bên đó phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đã phát sinh.
4. Những vấn đề cần chú ý khi áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015
Từ các quy định trong chế định giao dịch của Bộ luật Dân sự năm 2015, có năm vấn đề cần chú ý khi áp dụng Điều 129 như sau:
Một là, Điều 129 chỉ áp dụng cho giao dịch mà luật quy định hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch, nhưng các bên không tuân thủ quy định về hình thức, song một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì công nhận giao dịch đó theo yêu cầu của một bên hoặc các bên.
Hai là, chỉ công nhận giao dịch khi không vi phạm các điều kiện có hiệu lực khác và việc khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu về hình thức trong thời hạn 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch.
Ba là, sau 2 năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập mới khởi kiện yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu về hình thức (không vi phạm các điều kiện có hiệu lực khác) thì dù bên có nghĩa vụ đã thực hiện hoặc chưa thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ vẫn công nhận giao dịch, nhưng không phải là áp dụng Điều 129 mà áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 132 Bộ luật Dân sự năm 2015 và các điều tương ứng với quan hệ pháp luật đang giải quyết.
Bốn là, khoản 1 và khoản 2 Điều 129 đều quy định “một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ
49
trong giao dịch” thì việc xác định hai phần ba nghĩa vụ không phải với nghĩa tổng số nghĩa vụ trong giao dịch mà chỉ cần một bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ của họ trong giao dịch là đủ điều kiện áp dụng Điều 129.
Năm là, dù không có quy định nào chỉ rõ loại quan hệ nào được áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 129, nhưng theo câu chữ của Điều luật có thể giải thích theo hướng là chỉ dành cho các giao dịch có đền bù thì mới châm chước điều kiện về hình thức, còn các quan hệ dân sự không có đền bù, ví dụ như hợp đồng tặng cho thì không áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 129. Đối với loại quan hệ này luật quy định tương đối chặt chẽ, nên chỉ công nhận hợp đồng khi hợp đồng đã hoàn thành và không vi phạm các điều kiện có hiệu lực khác của giao dịch. Do đó, dù bên tặng cho đã giao cho bên được tặng cho hai phần ba giá trị tài sản tặng cho, lúc đó bên tặng cho mới phát hiện bên được tặng cho có những hành vi sai trái, không xứng đáng được hưởng quà tặng của mình nên xin hủy hợp đồng với lý do vi phạm điều kiện hình thức theo luật định thì cơ quan tài phán cần chấp nhận.
5. Đôi điều kiến nghị
Không phủ nhận ý nghĩa tích cực được quy định tại Điều 129, tuy nhiên, nghiên cứu quy định này tác giả không khỏi có những băn khoăn có phải ý đồ của nhà làm luật là chỉ “châm chước” vi phạm điều kiện hình thức có mức độ? Sự “châm chước” điều kiện về hình thức không dành cho đối tượng giao dịch là quyền sử dụng đất? Tại sao lại có sự phân biệt? Nếu lấy lý do về tính chất đặc biệt của đối tượng này hoặc liên quan đến quản lý nhà nước đều không hợp lý trong nền kinh tế thị trường, và các quy định khác của Bộ luật Dân sự năm 2015, ví dụ như Điều 132 không có sự phân biệt.
50
Thực tiễn tranh chấp và yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi và hoàn toàn có thể có lựa chọn khác khi giải thích Điều 129 vừa làm nổi bật tư duy đổi mới, vừa có thể bao quát hơn, không sợ rối loạn khi đã có quy định “đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”.
Hiện nay việc giải quyết tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng bao gồm cả kinh doanh thương mại...) không chỉ có tài phán công là Tòa án, mà còn có tài phán tư là trọng tài, nhưng Điều 129 chỉ đề cập đến tài phán công là Tòa án là chưa đầy đủ.
Khi Tòa án ra phán quyết công nhận giao dịch, hợp đồng thì phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước có giá trị pháp lý rất cao. Mặc dù mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng chắc chắn phán quyết của Tòa án có vị trí pháp lý cao hơn rất nhiều hình thức công chứng, chứng thực. Vì công chứng, chứng thực chỉ xác nhận, ghi nhận một sự kiện pháp lý đã diễn ra, có ý nghĩa ở mức độ nhất định, nhất là ý nghĩa về chứng cứ khi có tranh chấp, khác hẳn với phán quyết của Tòa án là nhân danh Nhà nước công nhận cho bên nào đó có quyền gì, và xác định bên nào đó có nghĩa vụ gì... Khi phán quyết có hiệu lực pháp luật không chỉ các bên trong quan hệ giao dịch phải chấp hành, mà các cơ quan nhà nước có liên quan cũng phải thực hiện trên cơ sở phán quyết đó (ví dụ như sang tên trước bạ). Phán quyết của cơ quan tài phán được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế buộc các bên phải thực hiện. Chỉ với những lý do trên, việc Điều 129 quy định: “trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực” có phải là không cần thiết? Nếu cần (do có công chức, viên chức không hiểu gây khó dễ cho dân) thì nội dung đó được nêu trong văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ hợp lý hơn nhiều. Bình luận này là dưới góc nhìn khoa học, bởi tác giả cũng biết việc ban hành văn bản hướng dẫn thường không kịp thời, ý đồ của nhà làm luật là muốn giảm thiểu việc áp dụng máy móc,
51
giảm thiểu phiền hà cho người dân khi muốn được cấp Giấy chứng nhận nên mới bổ sung câu: “trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”. Dù vậy, khi nhận thức đã thay đổi thì quy định này cũng nên bỏ để bảo đảm tính súc tích của Điều luật.
Cần hướng dẫn giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng phải được áp dụng quy định tại Điều 129 khi thỏa mãn điều kiện: “Mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”.
Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên sửa đổi, bổ sung không chỉ Tòa án mà Hội đồng trọng tài thương mại cũng có thẩm quyền và Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên sửa lại như sau: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
Trường hợp luật quy định hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân thủ, nhưng một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.
52
GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ GIAO DỊCH VÔ HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Giao dịch dân sự được coi là hợp pháp khi tuân thủ đầy đủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch. Khi giao dịch vi phạm một hay nhiều điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì giao dịch đó sẽ bị vô hiệu. Trong giao dịch có thể có một nội dung, nhưng cũng có thể có nhiều nội dung, nhiều đối tượng, nhiều điều khoản, ví dụ có nhiều đối tượng tài sản được thỏa thuận trong giao dịch, trong số đó có tài sản không thuộc quyền sở hữu của người tham gia giao dịch, hoặc ngoài thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ hai bên còn có thỏa thuận lựa chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nếu có tranh chấp. Do đó, nếu toàn bộ nội dung thỏa thuận trong giao dịch vi phạm một hay nhiều điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì toàn bộ giao dịch vô hiệu, nhưng nếu chỉ một phần nội dung thỏa thuận trong giao dịch vi phạm điều kiện có hiệu lực hoặc chỉ phần thỏa thuận liên quan đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết là vi phạm quy định của luật thì chỉ phần giao dịch đó bị vô hiệu. Phần giao dịch vi phạm quy định của luật vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của phần còn lại của giao dịch, nên các phần khác của giao dịch vẫn có hiệu lực. Một ví dụ về vô hiệu một phần của giao dịch đó là trong giao dịch có nhiều đối tượng, trong đó có đối tượng của giao dịch không thuộc quyền sở hữu của
53
bên bán, chuyển nhượng thì chỉ phần thỏa thuận liên quan đến tài sản này bị vô hiệu. Hoặc trường hợp tài sản chung của vợ chồng, nhưng khi người chồng viết di chúc đã định đoạt toàn bộ tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp này, khi người chồng chết chỉ một phần di chúc có hiệu lực, đó là phần tài sản thuộc sở hữu của người chồng (1/2 tài sản trong khối tài sản chung). Khi người chồng chết, khối tài sản được chia theo di chúc, (nếu di chúc của người chồng đã dành ít nhất hai phần ba suất thừa kế cho người vợ), còn khối tài sản thuộc sở hữu của người vợ mà di chúc của người chồng đã định đoạt sẽ không có hiệu lực. Nếu người vợ cũng đã chết và không để lại di chúc thì khối tài sản chung, cộng với phần di sản mà người vợ được hưởng theo di chúc của người chồng sẽ là di sản của người vợ, được phân chia theo pháp luật thừa kế. Ngược lại, nếu di chúc được lập không phải là ý chí của người lập di chúc thì di chúc vô hiệu toàn bộ, di chúc không có hiệu lực.
1. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu Giữa giao dịch có hiệu lực và giao dịch vô hiệu có hậu quả khác nhau, trách nhiệm giữa các bên trong giao dịch là khác nhau. Đối với giao dịch có hiệu lực thì các bên bắt buộc phải thực hiện theo những gì mà hai bên thỏa thuận trong giao dịch, nếu bên nào đơn phương đình chỉ, không thực hiện những nội dung đã thỏa thuận trong giao dịch sẽ phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại đã gây ra cho phía bên kia do việc đình chỉ đó, đồng thời còn có thể bị phạt do vi phạm. Đối với trường hợp giao dịch bị vô hiệu thì giao dịch sẽ không có hiệu lực pháp lý, Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
54
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.
3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.
4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.
5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.
Như vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khi giao dịch không có hiệu lực sẽ không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Điều đó có nghĩa là nếu việc xác lập giao dịch nhằm phát sinh quyền, nghĩa vụ thì khi giao dịch vô hiệu những thỏa thuận về quyền, nghĩa vụ trong giao dịch không có giá trị pháp lý, không ràng buộc các bên.
Ví dụ: hai bên xác lập hợp đồng mua bán tài sản, nhưng hợp đồng này vô hiệu thì bên bán không có nghĩa vụ giao vật, bên mua không có quyền được nhận vật đã thỏa thuận trong hợp đồng, và không có nghĩa vụ giao tiền cho bên bán...
Nếu giao dịch nhằm thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ nhưng giao dịch vô hiệu thì bên nào đang có quyền, hoặc bên nào đang có nghĩa vụ thì quyền và nghĩa vụ đó vẫn được giữ nguyên như trước khi xác lập giao dịch.
Ví dụ: A là em đang nợ B (anh của mình) số tiền 1.000.000.000 đồng. A và B đã có một giao dịch với nội dung là B chỉ yêu cầu A trả 100.000.000 đồng còn 900.000.000 đồng B cho A, không yêu cầu A trả nữa hoặc B xác lập giao dịch với A trong đó có nội dung B cho A toàn bộ số nợ đó, A không phải trả và hợp đồng vay nợ chấm dứt khi giao dịch được xác lập.
55
Nhưng giao dịch giữa A và B về nội dung A chỉ phải thực hiện một phần nghĩa vụ hoặc không phải thực hiện nghĩa vụ nói trên bị vô hiệu do B đang nợ C số tiền 2.000.000.000 đồng, trong khi toàn bộ số tài sản còn lại của B chỉ có trị giá 500.000.000 đồng. Trong trường hợp này C có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch giữa A và B vô hiệu. Nguyên nhân làm cho giao dịch vô hiệu là do việc xác lập giao dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác, vi phạm điều cấm của luật, Tòa án sẽ chấp nhận yêu cầu của C.
Khi giao dịch vô hiệu thì không phải vô hiệu tại thời điểm bị tuyên bố vô hiệu mà giao dịch bị vô hiệu ngay từ thời điểm xác lập giao dịch. Điều đó có nghĩa là nếu các bên chưa thực hiện giao dịch thì không được thực hiện nữa, nếu giao dịch đã được thực hiện tức là các bên đã thực hiện quyền, nghĩa vụ thì sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu của giao dịch, hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Việc Bộ luật Dân sự năm 2005 (khoản 2 Điều 137) và Bộ luật Dân sự năm 2015 (khoản 2 Điều 131) đều quy định “... các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận...” là rất chính xác, vừa mang tính bao quát, vừa hàm chứa tính cụ thể. Quy định này chứa đựng hai nội dung rất rõ ràng, một là “khôi phục lại tình trạng ban đầu”, tức mọi thứ trở lại tình trạng đúng như trước thời điểm xác lập giao dịch, hai bên phải khôi phục lại như cũ. Nội dung thứ hai “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”, chứ không phải vật đã nhận, tài sản đã nhận, đối tượng giao dịch đã nhận.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có lúc dự thảo bỏ hai chữ “những gì” và thay bằng “tài sản” đã nhận, nhưng rất may là các dự thảo về sau đều sáng suốt giữ như quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 cho đến lúc được Quốc hội thông qua. Vì nếu quy định trả cho nhau vật đã nhận, tài sản đã nhận... sẽ làm hẹp nội dung rất nhiều,
56
thậm chí không hoàn toàn chính xác. Ví dụ, vật đã nhận là các loại tiền có mệnh giá khác nhau, đều có số sê ri cụ thể, không thể trả lại đúng đồng tiền đó, vật đồng loại chỉ cần trả lại đúng vật đồng loại có chất lượng, kiểu dáng, công dụng, giá trị... như nhau đều phù hợp với quy định này; có những giao dịch mà các bên không chỉ trao cho bên kia tài sản (đối tượng của giao dịch) mà còn trao cả giấy tờ, tài liệu liên quan đến tài sản đó, nên khi giao dịch dân sự vô hiệu các bên không chỉ trả cho nhau đối tượng của giao dịch mà cả những giấy tờ, tài liệu liên quan đến đối tượng của giao dịch đó.
Tuy nhiên, có những trường hợp các bên đã thực hiện giao dịch, khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu thì đối tượng của giao dịch, giấy tờ... mà các bên đã trao cho nhau theo thỏa thuận trong giao dịch đã có những biến động không còn tồn tại hoặc đã có những biến đổi không thể “khôi phục tình trạng ban đầu” để hoàn trả. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2 Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì sẽ xác định giá trị của “hiện vật” đó và hoàn trả bằng tiền.
Việc Bộ luật quy định “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả” là quy định có tính nguyên tắc chung, không nên hiểu và áp dụng một cách máy móc như trước đây đã từng xuất hiện. Việc xử lý hậu quả của giao dịch phải phù hợp với tính chất của giao dịch. Ví dụ: trong hợp đồng thuê tài sản hai bên thỏa thuận thời hạn thuê là 2 năm, tính từ thời điểm bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê. Giá cả và phương thức thanh toán hai bên thỏa thuận: mỗi năm bên thuê phải trả cho bên cho thuê 120.000.000 đồng, tiền thuê được trả trước 1 năm; thời hạn giao tiền: trong thời hạn 10 ngày của tháng đầu tiên, kể từ ngày nhận được tài sản thuê.
57
Trên thực tế bên cho thuê tài sản đã giao tài sản, đã nhận đủ 120.000.000 đồng tiền thuê của một năm, hai bên đã thực hiện hợp đồng được 5 tháng, bên thuê đã và đang khai thác công dụng của tài sản thuê thì hợp đồng thuê tài sản bị tuyên bố vô hiệu.
Nếu hiểu và áp dụng một cách máy móc quy định này sẽ là buộc bên thuê trả lại đối tượng của hợp đồng thuê và những gì đã nhận cho bên cho thuê, còn bên cho thuê phải trả cho bên thuê 120.000.000 đồng để nhận lại tài sản cho thuê và giấy tờ liên quan đã giao cho bên thuê. Tuy nhiên, trong trường hợp này không thể xử lý buộc bên cho thuê phải trả lại 120.000.000 đồng và nhận lại tài sản, giấy tờ liên quan, còn bên thuê trả lại tài sản đã thuê, giấy tờ liên quan và được nhận lại số tiền thuê đã trả là 120.000.000 đồng, mà cần xử lý theo hướng tuyên bố hợp đồng cho thuê vô hiệu, bên thuê trả tài sản cho bên cho thuê..., còn bên cho thuê chỉ phải trả lại cho bên thuê 70.000.000 đồng.
Sẽ nảy sinh một câu hỏi là Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” vậy tại sao bên cho thuê đã được nhận lại tài sản cho thuê, nhưng chỉ buộc bên cho thuê trả lại cho bên thuê 70.000.000 đồng chứ không phải là 120.000.000 đồng mà bên cho thuê đã nhận của bên thuê?
Nếu phân tích về mặt lý thuyết có thể thấy rằng bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để khai thác công dụng của tài sản là đã đồng ý để bên thuê tiêu dùng một phần giá trị của tài sản, bên thuê đã sử dụng, đã tiêu dùng phần giá trị này, khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu, bên thuê không thể hoàn trả cho bên cho thuê phần đã sử dụng, đã tiêu dùng, phần đó tương đương giá trị là 50.000.000 đồng/5 tháng. Với lẽ đó bên cho thuê không phải trả lại cho bên thuê 50.000.000 đồng.
58
Nói khác đi 50.000.000 đồng được coi là phần bên thuê đã nhận, đã tiêu dùng không trả lại được cho bên cho thuê nên đã hoàn trả bằng giá trị cho bên cho thuê. Dựa trên cơ sở lý luận đó, với những diễn biến thực tế của vụ án nên chỉ buộc bên cho thuê trả lại cho bên thuê số tiền 70.000.000 đồng, chứ không phải 120.000.000 đồng. Đây là số tiền bên cho thuê nhận trước theo thỏa thuận, vì bên thuê chưa tiêu dùng, đã hoàn trả (nằm trong chính đối tượng thuê) phần giá trị chưa sử dụng của tài sản thuê, thì bên cho thuê phải trả lại phần giá trị đó cho bên thuê. Trường hợp hai bên vừa bắt đầu thực hiện hợp đồng (một bên vừa nhận tài sản thuê, một bên vừa nhận tiền cho thuê trả trước) hợp đồng cho thuê bị tuyên bố vô hiệu thì sẽ thực hiện đúng như quy định là một bên nhận lại tài sản cho thuê, bên kia nhận lại số tiền thuê trả trước là 120.000.000 đồng.
Nếu như Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “... nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật” (khoản 2 Điều 137) thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bỏ quy định tịch thu tài sản giao dịch, bỏ việc tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được. Thay vào đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung và quy định tại khoản 3 Điều 131 như sau: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó”. Từ quy định này có hai vấn đề cần lưu ý, một là từ nay trở đi khi giải quyết hợp đồng vô hiệu không được tịch thu tài sản giao dịch, không tịch thu hoa lợi, lợi tức thu được từ giao dịch vô hiệu. Hai là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của giao dịch bên nào sẽ được hưởng phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để quyết định.
Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 131 thì bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Tức là bên đã nhận đối tượng của giao dịch, trong
59
thời gian giao dịch chưa bị tuyên bố vô hiệu, thời gian chưa giao trả tài sản mà phát sinh hoa lợi, lợi tức từ đối tượng của giao dịch thì bên đang quản lý, chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó sẽ được hưởng, nếu là người ngay tình.
Tuy nhiên, theo tác giả, quy định này có điểm không hợp lý, việc Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “bên ngay tình trong việc thu hoa lợi...” là đặt trong mối quan hệ giữa hoa lợi, lợi tức với người thu hoa lợi (chứ không phải trong mối quan hệ chiếm hữu vật đã sinh ra hoa lợi...) để xét có ngay tình hay không ngay tình là khó hiểu, nếu không muốn nói có phần “tối nghĩa”. Thế nào là ngay tình và không ngay tình “trong việc” thu hoa lợi? Nếu xét trong mối quan hệ giữa hoa lợi với hành vi thu hoa lợi đó thì người này luôn luôn ngay tình, không bao giờ là không ngay tình. Mặt khác, cũng chính Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có một số sửa đổi, bổ sung với quan điểm rất mới liên quan đến chiếm hữu, như quy định tại Điều 184 là: “1. Người chiếm hữu được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng người chiếm hữu không ngay tình thì phải chứng minh. 2. Trường hợp có tranh chấp về quyền đối với tài sản thì người chiếm hữu được suy đoán là người có quyền đó. Người có tranh chấp với người chiếm hữu phải chứng minh về việc người chiếm hữu không có quyền. 3. Người chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai được áp dụng thời hiệu hưởng quyền và được hưởng hoa lợi, lợi tức mà tài sản mang lại theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan”.
Trên thực tế hoa lợi, lợi tức có thể phát sinh từ đối tượng của giao dịch bị vô hiệu (mua vườn cây ăn trái, cây ra hoa đậu quả, vật mua đẻ trứng, đẻ con. Vật mới được hình thành không phải từ trên trời rơi xuống mà là kết quả của sự phát triển tự nhiên có mối quan hệ hữu cơ với vật ban đầu, nên thông thường chủ sở hữu vật ban đầu sẽ là chủ sở hữu hoa lợi đó nếu không có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác).
60
Nhưng cũng có thể trong thời gian giao dịch chưa bị tuyên vô hiệu thì người đang chiếm hữu, quản lý đối tượng của giao dịch thực hiện một giao dịch cho thuê đối với đối tượng này và thu được một khoản tiền cho thuê. Nếu cho rằng việc cho thuê là không ngay tình để cho rằng khoản tiền nhận được từ việc cho thuê là không ngay tình thì cũng không đúng với quy định tại khoản 3 Điều 131. Vì việc không ngay tình của việc cho thuê nếu có thì đó là không ngay tình đối với giao dịch cho thuê sẽ được xử lý trong mối quan hệ này (quan hệ pháp luật về thuê tài sản) chứ không thuộc phạm vi không “ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức”.
Từ phân tích trên có thể nhận thấy, không thể xét ngay tình hay không ngay tình trong mối quan hệ giữa hoa lợi và thu hoa lợi, lợi tức, vì thế cần hiểu và giải thích trên cơ sở lôgíc với chủ đề chứa đựng trong điều luật thì mới đúng ý đồ của nhà làm luật. Do đó, quy định “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó” (khoản 3 Điều 131) phải được hiểu trong mối quan hệ hình thành, tạo ra việc chiếm hữu vật đã sinh ra hoa lợi, lợi tức đó. Vì vậy, nếu ngay tình khi thực hiện giao dịch bị xác định vô hiệu, thì việc chiếm hữu vật là ngay tình; khi vật phát sinh hoa lợi, lợi tức việc chiếm hữu hoa lợi, lợi tức đó mới ngay tình; người thu hoa lợi, lợi tức mới được hưởng hoa lợi, lợi tức, còn nếu khi thực hiện giao dịch là không ngay tình (ví dụ thực hiện thủ đoạn lừa dối, đe dọa, cưỡng bức để xác lập giao dịch, thì việc chiếm hữu đối tượng của giao dịch là không ngay tình, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ đối tượng của giao dịch mà người này đang chiếm hữu cũng không ngay tình), thì bên không ngay tình không được hưởng hoa lợi, lợi tức và phải hoàn trả. Trong trường hợp này bên không ngay tình khi xác lập giao dịch, việc chiếm hữu vật của chủ thể này cũng không ngay tình, sau đó giao dịch này bị tuyên bố vô hiệu thì bên không
61
ngay tình ngoài việc phải hoàn trả những gì đã nhận còn phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó.
Khi bên tham gia giao dịch là không ngay tình, việc chiếm hữu vật cũng không ngay tình, nên việc thu hoa lợi, lợi tức là không ngay tình, áp dụng khoản 3 Điều 131 buộc bên thu hoa lợi, lợi tức hoàn trả hoa lợi, lợi tức đó là hoàn toàn cần thiết. Dù quy định tại khoản 3 Điều này không đề cập gì thêm, nhưng nếu phán quyết của cơ quan giải quyết tranh chấp dừng ở đây thì có thể sẽ không đúng. Bởi lẽ, để có được hoa lợi đó, phần giá trị lớn hơn kể từ khi hoa lợi đó được sản sinh ra có phần chi phí, công sức của người thu hoa lợi. Do đó, khi buộc họ trả lại hoa lợi cần xem xét công sức, chi phí mà họ đã bỏ ra để buộc bên được nhận hoa lợi này thanh toán công sức, chi phí này cho họ nếu có yêu cầu.
Khi giao dịch vô hiệu không chỉ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận mà “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” (khoản 4 Điều 131). Bên bị coi là có lỗi được đề cập trong quy định này chính là bên có những hành vi (hành động hoặc không hành động) làm cho giao dịch vô hiệu. Tùy theo hành vi của mỗi bên trong quá trình xác lập, thực hiện giao dịch để xác định bên nào là bên có lỗi. Trên thực tế có trường hợp lỗi làm cho giao dịch vô hiệu là do một bên nhưng cũng có trường hợp cả hai bên đều có lỗi. Nếu hai bên cùng có lỗi phải thu thập tài liệu chứng cứ làm rõ mức độ lỗi của mỗi bên làm cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của mỗi bên đối với thiệt hại đã xảy ra. Thực tiễn xét xử cho thấy có những hội đồng xét xử chưa chú ý đúng mức vấn đề này, thu thập tài liệu, chứng cứ không đầy đủ, xác định mức độ lỗi không chính xác. Những sai sót này thường dẫn đến hậu quả bản án, quyết định bị sửa, hủy để giải quyết lại. Do đó, các Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư tham gia tố tụng cần chú ý vấn đề này.
62
Cả ba bộ luật dân sự đều quy định giống nhau là “bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường” nhưng việc xác định thế nào là thiệt hại thì không phải ngay từ đầu đã có nhận thức thống nhất. Trong suốt thời gian Bộ luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực những người giải quyết tranh chấp từng có sự loay hoay, lúng túng trong xác định thiệt hại khi giao dịch vô hiệu đối với một vài loại giao dịch. Ví dụ như trường hợp hợp đồng mua bán nhà, đất vô hiệu, sự lúng túng trong xác định thiệt hại đã từng được phản ánh trong nhiều bản án với những đường lối giải quyết hết sức khác nhau. Nhưng cũng chính từ thực tiễn đã định hình được thiệt hại đối với các loại giao dịch đó, việc xác định thiệt hại ngày một toàn diện, hợp lý phù hợp với thực tế cuộc sống.
Nếu như các Bộ luật trước đây chúng ta xác định thiệt hại trong giao dịch chỉ có thiệt hại vật chất, thì nay theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nếu vi phạm hợp đồng mà gây thiệt hại tinh thần thì phải bồi thường (khoản 3 Điều 419).
Tuy nhiên, quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng tại Điều 427 cũng chỉ đề cập bồi thường thiệt hại về tinh thần tại khoản 5 Điều này đối với trường hợp hủy bỏ hợp đồng do vi phạm nghĩa vụ, không có điều khoản nào quy định rõ về bồi thường thiệt hại hợp đồng do vô hiệu. Quy định tại Điều 131 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng không đề cập bồi thường thiệt hại về tinh thần? Phải chăng nhà làm luật theo hướng khi giao dịch, hợp đồng vô hiệu không được bồi thường thiệt hại về tinh thần? Nếu đúng là như vậy thì không lôgíc và không hợp lý, vì khi vi phạm hợp đồng dẫn đến thiệt hại tinh thần được bồi thường thì khi giao dịch, hợp đồng vô hiệu mà có thiệt hại tinh thần do lỗi của bên kia thì cũng phải được bồi thường. Trong khi luật chưa thể hiện rõ, Hội đồng xét xử cần coi đây là nhiệm vụ được trao cho án lệ. Bởi lẽ tuy Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định rõ về vấn
63
đề này, nhưng cũng không có quy định nào cấm, do đó, trong trường hợp giao dịch, hợp đồng vô hiệu mà có thiệt hại về tinh thần, có yêu cầu giải quyết, đã xuất trình được tài liệu, chứng cứ thì Tòa án, Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp thương mại cần chấp nhận.
Tại khoản 5 Điều 131 có bổ sung trường hợp việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân mà Bộ luật Dân sự năm 2015 hoặc luật khác có liên quan quy định thì đồng thời phải giải quyết vấn đề này.
2. Về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 132)
Nếu như Bộ luật Dân sự năm 2005 lấy thời điểm xác lập giao dịch để tính thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu đối với các trường hợp có xác định thời gian được quyền yêu cầu, thì Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tính chất của từng trường hợp cụ thể. Nhìn chung việc sửa đổi, bổ sung này là hợp lý và được thể hiện như sau:
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm đối với trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện được tính từ ngày người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch.
Do những chủ thể nói trên đang trong tình trạng không có hoặc không đủ năng lực nhận thức, làm chủ hành vi của mình nên mọi giao dịch phải do người đại diện của họ thực hiện. Do đó, thời hiệu 02 năm phải tính từ ngày người đại diện của
64
những chủ thể này biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch.
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm đối với trường hợp giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn, bị lừa dối được tính từ ngày người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối.
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm đối với trường hợp giao dịch dân sự do bị đe dọa, cưỡng ép được tính từ ngày người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép.
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm đối với trường hợp giao dịch dân sự được xác lập vào thời điểm người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình được tính từ ngày người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch.
Vậy, thời điểm tính thời hiệu 02 năm đối với trường hợp này từ ngày xác lập giao dịch liệu đã hợp lý? Quy định này chỉ đúng trong trường hợp ngay trong ngày xác lập giao dịch chủ thể này đã trở lại tình trạng bình thường. Chúng ta biết có những người ngộ độc rượu có thể sau hai ba ngày mới tỉnh, có trường hợp cá biệt còn lâu hơn, nên thời hiệu 02 năm tính từ ngày xác lập giao dịch là chưa phù hợp với thực tế.
- Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu là 02 năm đối với trường hợp giao dịch dân sự do không tuân thủ quy định về hình thức thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Hết thời hạn 02 năm mà không có yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực. Nói khác đi, hết thời hạn hai năm thì những vi phạm về điều kiện có hiệu lực thuộc các trường hợp nêu trên sẽ không còn là căn cứ để xác định giao dịch vô hiệu.
65
Riêng đối với giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo được quy định tại Điều 123 và Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế về thời gian. Nói cách khác đối với hai trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 123 và Điều 124 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bất kể giao dịch mới được xác lập hay được xác lập đã nhiều năm (trên hai năm trở lên) mà có đương sự yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu thì về nguyên tắc là được chấp nhận.
66
MỘT VÀI SUY NGHĨ VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ CÓ ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI THÍCH GIAO DỊCH DÂN SỰ
1. Giao dịch dân sự có điều kiện
Dưới góc độ pháp lý giao dịch là một sự kiện pháp lý, nhưng dưới góc độ triết học giao dịch là một hiện tượng xã hội, một sự vật có quá trình phát sinh, phát triển và chấm dứt. Thông thường khi các bên xác lập giao dịch mà không vi phạm các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì giao dịch đó đã được hình thành và bắt đầu ràng buộc trách nhiệm, bắt buộc các bên tham gia phải thực hiện theo những nội dung đã thỏa thuận, phải gánh chịu những hậu quả khi vi phạm. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp các bên có thỏa thuận về những điều kiện cụ thể, khi điều kiện đó xuất hiện, diễn ra thì giao dịch đó mới phát sinh hoặc điều kiện đó xảy ra thì giao dịch đó được hủy bỏ, chấm dứt sự tồn tại của giao dịch.
Theo Từ điển tiếng Việt thì điều kiện là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra, ví dụ: sản xuất có phát triển mới có điều kiện nâng cao đời sống, tạo điều kiện hoàn thành kế hoạch1.
Điều kiện còn với nghĩa là điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó, ví dụ: đặt ra điều kiện, ra điều kiện.
1. Viện ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Sđd, tr. 321.
67
Điều kiện còn có thể là những gì có thể tác động đến tính chất, sự tồn tại hoặc sự xảy ra của một cái gì đó (tổng quát); hoàn cảnh như: bay trong điều kiện thời tiết xấu; cải thiện điều kiện ăn ở; điều kiện thuận lợi. Như vậy, tùy theo ngữ cảnh từ điển tiếng Việt đưa ra những giải nghĩa khác nhau về nội hàm của từ điều kiện.
Tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về giao dịch có điều kiện như sau: “1. Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”.
Việc Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “... có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ” cần được hiểu như thế nào mới đúng? Theo nghĩa trực tiếp thì có hai loại điều kiện, điều kiện là cơ sở để phát sinh giao dịch, và điều kiện là cơ sở hủy bỏ giao dịch, chấm dứt sự tồn tại của giao dịch.
Đối với trường hợp điều kiện làm phát sinh giao dịch theo tác giả cần hiểu với những tầng ý nghĩa khác nhau. Điều kiện làm “phát sinh” giao dịch với nghĩa khi điều kiện đó diễn ra, điều kiện xuất hiện các bên mới bắt đầu ký kết giao dịch. Nhưng điều kiện làm “phát sinh” giao dịch còn được hiểu với nghĩa khi điều kiện đó xảy ra thì giao dịch, hợp đồng đó mới bắt đầu có hiệu lực. Trong trường hợp này các bên đã thỏa thuận, đã ký kết hợp đồng, nhưng các bên thỏa thuận giao dịch hợp đồng đó bắt đầu có hiệu lực khi điều kiện đó xảy ra, lúc này sự kiện pháp lý mới chính thức xuất hiện, mới ràng buộc các bên.
Đối với trường hợp hai bên đưa ra điều kiện để hủy bỏ giao dịch có hai lựa chọn khi giải thích, đó là giải thích theo nghĩa hẹp hoặc theo nghĩa rộng. Giải thích theo nghĩa hẹp bám sát
68
câu chữ của điều luật thì giao dịch đó đã được xác lập, đã có hiệu lực, khi điều kiện đó xảy ra thì giao dịch được hủy bỏ. Nhưng theo tác giả nên giải thích quy định này theo nghĩa rộng sẽ phù hợp với sự phong phú, đa dạng của cuộc sống mà vẫn không trái với quy định. Nếu giải thích theo nghĩa rộng thì có hai trường hợp xảy ra đó là giao dịch đã được hai bên thỏa thuận ký kết, giao dịch đã hình thành nhưng chưa có hiệu lực pháp luật, chưa thực hiện thì xuất hiện điều kiện đúng như hai bên thỏa thuận nên giao dịch bị hủy bỏ; trường hợp thứ hai giao dịch đã được hai bên thỏa thuận ký kết, giao dịch đã hình thành có hiệu lực pháp luật, nhưng chưa thực hiện hoặc đang thực hiện giao dịch thì xuất hiện những điều kiện mà hai bên thỏa thuận nên giao dịch bị hủy bỏ. Điều quan trọng là khi điều kiện xảy ra thì giao dịch đó chưa thực hiện xong, chưa chấm dứt, chưa kết thúc.
Nếu giao dịch đó đã được thực hiện xong và chấm dứt mới xuất hiện điều kiện thì giao dịch đó có bị hủy bỏ? Theo tác giả nếu các bên thỏa thuận rõ khi điều kiện xảy ra bất kỳ ở giai đoạn nào thì giao dịch đều bị hủy bỏ, khi đó dù giao dịch đã được các bên thực hiện xong, đã chấm dứt mà các bên không có thỏa thuận lại thì giao dịch vẫn bị hủy bỏ. Trường hợp các bên không quy định rõ, khi giao dịch được thực hiện xong điều kiện mới xảy ra, thì phải giải thích các bên đã chấp nhận giao dịch đó, được thể hiện bằng hành vi thực hiện xong giao dịch, mục đích của việc xác lập giao dịch đã đạt được, nên không hủy bỏ giao dịch.
Khi nói giao dịch dân sự có điều kiện theo quy định tại Điều 120 Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2005) là những điều kiện do các bên tham gia giao dịch đã thỏa thuận, thống nhất, hai bên lựa chọn điều kiện, đặt ra điều kiện làm phát sinh giao dịch hoặc hủy bỏ giao dịch. Điều kiện đó bao gồm những vấn đề gì, nội dung cụ thể của các điều
69
kiện như thế nào là tùy thuộc vào ý chí của các bên, do các bên thống nhất đưa vào giao dịch với ý nghĩa là điều kiện phát sinh, hoặc hủy bỏ giao dịch chứ không phải điều kiện do bên ngoài áp đặt, càng không phải là điều kiện do luật quy định đối với quan hệ pháp luật nào đó hoặc quyền, nghĩa vụ của các bên trong một loại quan hệ pháp luật được Bộ luật quy định. Do không hiểu đúng thế nào là giao dịch có điều kiện theo quy định của Điều 120 nên có trường hợp hiểu sai. Dưới đây tác giả nêu ra một trường hợp để bạn đọc nghiên cứu, bình luận.
Ngày 09-12-2011, Công ty Dra và Công ty SEV cùng nhau ký kết Hợp đồng cho mượn khuôn số VC20111209MD. Theo Hợp đồng và Phụ lục đính kèm thì Công ty SEV cho công ty Dra mượn 126 bộ khuôn miễn phí trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng. Bên mượn khuôn chỉ sử dụng các khuôn để sản xuất hàng hóa và chỉ bán theo hợp đồng mua bán cơ bản (mà hai bên đã ký kết ngày 11-11-2010) cho bên cho mượn khuôn.
Đến ngày 11-12-2011 (sau 02 ngày ký hợp đồng), tại trụ sở của Công ty Dra - Lô 3 khu công nghiệp QV, tỉnh BN đã xảy ra vụ cháy kho và khu vực nhà xưởng làm thiêu rụi toàn bộ phân xưởng sản xuất chính trong đó có một số khuôn của SEV và các hãng khác như Canon, Brother...
Ngày 06-12-2012, SEV và Công ty SVI đã ký với nhau Hợp đồng chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng nợ phải thu, theo đó SEV đã chuyển nhượng cho SVI quyền đòi bồi thường từ Hợp đồng mượn khuôn đối với Công ty Dra trên cơ sở của các Hợp đồng: Hợp đồng mua bán cơ bản; Hợp đồng mượn khuôn giữa SEV với Công ty Dra và Hợp đồng bảo hiểm giữa SEV và SVI đối với số khuôn cho mượn (Hợp đồng chuyển quyền theo Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2005).
Ngày 29-11-2013, Công ty Dra nhận được thông báo của Công ty SVI, đề nghị hợp tác để giải quyết bồi thường cho SEV
70
theo Hợp đồng chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng nợ phải thu do hai Công ty SEV và SVI ký kết ngày 06-12-2012. Theo nội dung Hợp đồng chuyển nhượng được ký kết giữa SEV và SVI thì SEV đồng ý chuyển nhượng cho SVI tất cả các khiếu kiện: Khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại do sự chậm trễ trong việc giao các sản phẩm với số tiền là 1.005.387,59 USD; khiếu kiện đòi bồi thường thiệt hại do làm hỏng các khuôn số tiền là 647.342,70 USD. Trên cơ sở Hợp đồng chuyển nhượng ngày 12-12-2011, SVI đã trả cho SEV số tiền 34.476.723.849 đồng bồi thường cho những thiệt hại về khuôn do vụ cháy gây ra.
Ngày 06-12-2013, SVI khởi kiện Công ty Dra đòi lại khoản tiền mà SVI đã thanh toán cho SEV.
Về hợp đồng chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng khoản nợ phải thu, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Theo Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2005 về chuyển giao quyền yêu cầu quy định: “Người chuyển giao quyền yêu cầu phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu”. Điều 314 Bộ luật Dân sự về quyền từ chối của bên có nghĩa vụ: “trong trường hợp bên có nghĩa vụ không được thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu hoặc người thế quyền không chứng minh về tính xác thực của việc chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ có quyền từ chối việc thực hiện nghĩa vụ đối với người thế quyền”.
Công ty Dra khẳng định không nhận được thông báo về việc chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng nợ phải thu từ phía Công ty SEV. Trong hồ sơ cũng như tại phiên họp, bên liên quan cũng không xuất trình được tài liệu nào thể hiện việc Công ty SEV thông báo cho Công ty Dra biết việc Công ty SEV và Công ty SVI cùng nhau ký Hợp đồng chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng nợ phải thu. Việc không thông báo của Công ty SEV về việc chuyển giao quyền yêu cầu là vi phạm Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2015. Bởi đây thuộc loại
71
giao dịch dân sự có điều kiện và chỉ khi điều kiện xảy ra thì mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Việc Công ty SEV không gửi thông báo việc chuyển nhượng hoặc không chứng minh được việc đã gửi thông báo cho bị đơn đồng nghĩa với việc Công ty SEV không thực hiện nghĩa vụ dân sự bắt buộc được Bộ luật Dân sự quy định thì không làm phát sinh nghĩa vụ của bị đơn với nguyên đơn”.
Trong bài này tác giả không phân tích tài liệu, chứng cứ để xác định đã coi là có thông báo hay chưa (Điều 309 Bộ luật Dân sự năm 2005 ghi là “phải báo”, Bộ luật Dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung là “thông báo”)1. Vấn đề quan trọng là việc Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định nghĩa vụ thông báo trong quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ có phải là “giao dịch dân sự có điều kiện” hay không? Đoạn nhận định nói trên của Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố H đã coi nghĩa vụ thông báo là “thuộc loại giao dịch dân sự có điều kiện và chỉ khi điều kiện xảy ra thì mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên” là hết sức sai lầm. Quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 là “phải báo” chỉ đơn thuần là nghĩa vụ thực hiện một hành vi dân sự trong quan hệ pháp luật đó, không phải “thuộc loại giao dịch dân sự có điều kiện” như Hội đồng nhận định.
Khi các bên tham gia giao dịch thỏa thuận điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch điều đó cũng có nghĩa điều kiện là cơ sở cho sự ra đời, phát sinh, phát triển một giao dịch hoặc là cơ sở cho sự chấm dứt tồn tại một giao dịch. Điều kiện đó xuất hiện do chính sự vận động nội tại, vận động bình thường của sự vật, hiện tượng đó chứ không phải do tác động
1. Tham khảo Luật gia Tưởng Duy Lượng: Bình luận Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Trọng tài thương mại và thực tiễn xét xử, bài “Vì sao hội đồng xét đơn yêu cầu lại nhầm lẫn như vậy”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2016, tr.609.
72
của một bên nào trong giao dịch. Do đó, trong trường hợp điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã xảy ra; trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó không xảy ra.
Khi một bên cho rằng điều kiện không xảy ra, không xuất hiện là do bên kia tìm cách cản trở thì phải xuất trình chứng cứ chứng minh việc cản trở đó, nếu có bằng chứng về việc cản trở không cho điều kiện đó xuất hiện thì được coi như điều kiện đó đã xảy ra. Ngược lại nếu chứng minh được điều kiện xuất hiện là do hành vi của một bên thúc đẩy cho điều kiện đó xảy ra chứ không phải điều kiện đó xuất hiện tự nhiên, bình thường thì coi như điều kiện đó không xuất hiện, không xảy ra.
Như vậy, có thể nhận thấy giao dịch dân sự có điều kiện là một loại giao dịch mà các bên trong giao dịch có thỏa thuận điều kiện cho sự phát sinh giao dịch hoặc cho việc hủy bỏ, chấm dứt một giao dịch. Nhưng “giao dịch dân sự có điều kiện” còn được hiểu với ý nghĩa là một khái niệm pháp lý có nội hàm khá rộng; không nên nhầm lẫn với từ “điều kiện” là ngôn ngữ dùng trong đời sống theo cách nói dân gian.
Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp khi các bên cho rằng đó là giao dịch dân sự có điều kiện thì phải làm rõ thỏa thuận đó có phải là điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch hay không? Điều kiện mà hai bên thỏa thuận có hợp pháp hay không? Có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không? Nếu đúng là giao dịch có điều kiện thì xác định tính hợp pháp của việc phát sinh giao dịch hay hủy bỏ giao dịch trên cơ sở xem xét sự xuất hiện, sự ra đời của điều kiện đó có diễn ra bình thường không.
73
2. Giải thích giao dịch dân sự
Một giao dịch có nội dung chặt chẽ, rõ ràng sẽ không chỉ thuận lợi trong quá trình hai bên thực hiện giao dịch, ít nguy cơ nảy sinh tranh chấp. Trường hợp có tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết cũng thuận lợi, ít phạm sai lầm, vụ việc nhanh kết thúc. Nhưng trong thực tế có những trường hợp nội dung giao dịch, những điều khoản cơ bản của giao dịch hoặc một vài điều khoản của giao dịch không rõ ràng, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, hoặc khó hiểu... nên chính các bên trong giao dịch cũng hiểu, giải thích khác nhau. Khi có tranh chấp xảy ra cơ quan giải quyết sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định đúng nội dung giao dịch... Để giảm bớt khó khăn và tạo sự thống nhất trong giải thích giao dịch, Điều 121 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định về giải thích giao dịch dân sự như sau:
“1. Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch; b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch; c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.
2. Việc giải thích hợp đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 404 của Bộ luật này; việc giải thích nội dung di chúc được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật này”.
Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã chỉ ra ba cách thức giải thích giao dịch mà chủ thể thực hiện việc giải thích có thể lựa chọn khi giải thích giao dịch. Nhưng phải theo thứ tự đã được luật định như sau:
a) Giải thích phải trên cơ sở “theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch”
74
Muốn giải thích theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch thì phải tìm hiểu xem các bên có ý thức như thế nào khi xác lập giao dịch, các bên mong muốn điều gì khi thiết lập giao dịch? Khi đã biết được ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch thì phải giải thích trên cơ sở ý chí của các bên. Nhưng khó khăn ở chỗ dựa vào đâu để biết được ý chí đích thực của các bên?
Có một điều có thể khẳng định là mỗi bên khi tham gia giao dịch đều mong muốn đạt được những lợi ích nhất định và nhằm đạt được những mục đích nhất định, dựa vào nội dung giao dịch chúng ta có thể biết được lợi ích của các bên, mục đích của các bên nó thể hiện ở quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong giao dịch. Trong một giao dịch có nhiều điều khoản thì căn cứ vào những điều khoản đã rõ ràng mà trong đó có thể hiện quyền, nghĩa vụ mỗi bên, thể hiện ý chí của các bên trong những điều khoản đó, ngoài giao dịch có thể còn có những tài liệu liên quan đến giao dịch... Từ đó chúng ta xem xét nó trong mối quan hệ tổng thể, biện chứng để hiểu ý chí đích thực của mỗi bên trong giao dịch, mục đích của mỗi bên khi xác lập giao dịch để giải thích giao dịch chưa rõ ràng, khó hiểu, có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Để hiểu ý chí đích thực của mỗi bên, cơ quan giải quyết tranh chấp có quyền yêu cầu các bên trình bày về suy nghĩ, mong muốn, lợi ích, mục đích mà mỗi bên khi xác lập giao dịch nhằm đạt tới, qua đó có thể biết được ý chí đích thực của mỗi bên đối với việc xác lập giao dịch.
b) Nếu không thể biết được ý chí đích thực của mỗi bên khi xác lập giao dịch thì sử dụng cách thức thứ hai là giải thích giao dịch dựa trên cơ sở “theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch”
Như chúng ta đã biết, giao dịch vừa là sự kiện pháp lý, vừa là hiện tượng xã hội thể hiện mối quan hệ giữa người với người.
75
Mục đích ở đây phải là mục đích của các chủ thể tham gia giao dịch, chứ tự thân giao dịch không có mục đích. Sẽ là hợp lý nếu Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “theo nghĩa phù hợp với mục đích khi xác lập giao dịch”. Do đó, “mục đích của giao dịch” cần phải hiểu chính là mong muốn của các bên được thể hiện trong giao dịch đó. Chúng ta biết được cái mà những chủ thể tham gia giao dịch hướng đến, nhằm đạt được, cái đó được gọi là “mục đích của giao dịch”, khi giải thích giao dịch phải phù hợp với mục đích của các bên khi xác lập giao dịch. Mục đích trong giao dịch mua bán tài sản là gì? Mục đích chung nhất của các bên là nhằm thu về những lợi ích. Song, mục đích của bên bán nhằm thu về một lượng giá trị tương ứng với giá trị của tài sản, còn mục đích bên mua là được sở hữu tài sản đó, sử dụng tài sản đó, khai thác lợi ích từ tài sản đó để đạt được mục đích cụ thể sau cùng, hai bên sử dụng giao dịch là hình thức chuyển giao lợi ích cho nhau.
Trên cơ sở nắm bắt được mục đích chung nhất và mục đích cụ thể của các bên tham gia giao dịch, từ đó giải thích giao dịch theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch.
Nếu không thể giải thích giao dịch “theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch”; và cũng không giải thích giao dịch “theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch” thì sử dụng cách thức thứ ba là “theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”.
c) Giải thích giao dịch “theo tập quán nơi giao dịch được xác lập”
Tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã đưa ra định nghĩa về tập quán như sau: “Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa
76
nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự”.
Có thể thấy tập quán là thói quen trong sinh hoạt, ứng xử của một cộng đồng, dân tộc, vùng, miền... được truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác hoặc được trao truyền trong một lĩnh vực cho các thế hệ tiếp theo trải dài trong lịch sử, được mọi người thừa nhận và áp dụng rộng rãi.
Nhưng khi sử dụng tập quán để giải thích giao dịch thì tập quán đó phải đáp ứng các yêu cầu sau: một là, tập quán phải thuộc lĩnh vực dân sự, hai là, chỉ sử dụng tập quán nơi giao dịch được xác lập để giải thích giao dịch đó, ba là, áp dụng tập quán để giải thích nhưng không được trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam, không vi phạm điều cấm của pháp luật.
Tác giả cho rằng, mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thứ tự sử dụng ba phương pháp giải thích giao dịch, nhưng không nên áp dụng một cách máy móc, nhất định phải theo thứ tự đó, và cũng không nên nhìn nhận mỗi phương pháp một cách hoàn toàn tách bạch tuyệt đối, sử dụng phương pháp thứ nhất không tham khảo phương pháp thứ ba và ngược lại.
Ví dụ: nếu có cơ sở để tin rằng các bên đã dựa trên tập quán để xác lập giao dịch thì tại sao lại phải đi tìm hiểu ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch để giải thích giao dịch, khi không giải thích được phải áp dụng phương pháp thứ hai, cũng không giải thích được mới áp dụng phương pháp thứ ba. Có trường hợp nếu sử dụng mỗi phương pháp tách bạch tuyệt đối thì rất khó nắm bắt chính xác ý chí đích thực của các bên, nhưng nếu giao dịch đó có liên quan đến tập quán thì qua tập quán chúng ta có thể hiểu chính xác hơn ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch, và ngược lại qua tìm hiểu ý chí của các bên khi xác lập giao dịch giúp ta có cơ sở để áp dụng tập quán để giải thích giao dịch.
77
Thiết nghĩ giải thích giao dịch luôn luôn và không bao giờ là việc đơn giản cho nên việc áp dụng cách thức, phương pháp giải thích giao dịch phải trên cơ sở tư duy biện chứng, trên cơ sở các mối quan hệ cụ thể, từ đó sử dụng các phương pháp này một cách linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển phù hợp nội dung, tính chất, lĩnh vực giao dịch được các bên xác lập, có như vậy mới hy vọng việc giải thích đó là chính xác.
3. Giải thích hợp đồng
Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ có duy nhất một điều là Điều 121 quy định về giải thích giao dịch dân sự, trong Điều này không đề cập đến việc giải thích điều khoản không rõ ràng trong giao dịch. Trong thực tế hay gặp là một hay một số điều khoản trong hợp đồng dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, các bên giải thích khác nhau.
Ví dụ: Công ty SAMHIN CO và Công ty Hướng Dương ký Hợp đồng mua bán hàng hóa số 03 ngày 01-01-2013 với tổng giá trị hợp đồng là 205.000 USD. Trong đó điều khoản thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa có nội dung không rõ ràng về thời điểm thanh toán: “Điều 2: Thanh toán
Bên mua sẽ thanh toán bằng TTR như sau:
+ Đặt cọc 20.000 USD sau khi ký hợp đồng.
+ Thanh toán 90.000 USD trong vòng 02 tháng. + Thanh toán 95.000 USD còn lại trong vòng 300 ngày đến bên bán SAMHIN CO, thông qua ngân hàng X, địa chỉ.... Về luật áp dụng: Hai bên thỏa thuận áp dụng Luật Thương mại năm 2005 và luật liên quan”.
Trong thỏa thuận trên hai bên đã thỏa thuận rõ số tiền đặt cọc và thời điểm đặt cọc là “sau khi ký hợp đồng”; đã thể hiện rõ số tiền và thời hạn thanh toán đợt 1 là 02 tháng, số tiền và thời hạn thanh toán số tiền còn lại (đợt 2) là 300 ngày, nhưng
78