🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook O Xưa Ebooks Nhóm Zalo O Xưa nhã ca O Xưa nhã ca bìa: NXB Hải Ngoại trình bày: Anywhere nguồn: internet O Xưa tập truyện nhã ca MỤC LỤC 1. Thuận An năm Ất Dậu 9 2. Qua một kiếp khác 37 3. Con Bần 73 4. Nụ Hồng 121 5. Liêu trai Huế 151 6. Thương chùm hoa khế 191 7. Con ngựa Thượng Tứ 225 8. Chiều Bolsa cuối năm 267 9. Chàng Mùi 299 10. Rắn hồng 327 11. Của nợ 371 12. Bà Bắc vào Nam kiếm chồng 417 13. O Xưa 477 8 | Nhã Ca 1. Thuận An năm Ất Dậu | 9 Thuận An năm Ất Dậu Năm Ất Dậu 1945 tôi chỉ mới bảy tuổi. Lúc đó, ba tôi làm việc trong ngành Công Chánh tại Thuận An. Ông là trắc địa viên, vẽ, đo đạc đường sá. Lúc về sở công chánh Thuận An, ông có thêm việc đo mực nước biển hay các đập xây bằng đá để điều chỉnh nguồn nước cho cả hai làng Thái Dương Thượng và Thái Dương Hạ. Công việc ba tôi ra sao không rõ, chỉ biết gia đình tôi được cấp cho một ngôi nhà riêng trong khu vực Trấn Hải Đài. Đây là một khu thành lũy trên đồi cao, trước mặt là phá Tam Giang, sau lưng là nơi tận cùng của giòng sông tràn ra thành cái vịnh lớn có hình dạng như tên gọi là vịnh Khoanh Tay. Qua khúc sông cụt này là bãi cát, rừng dương, con đê và biển. 10 | Nhã Ca Ngày xưa Trấn Hải Đài là nơi quân triều đình trấn thủ cửa biển. Đây cũng là nơi sử sách có ghi vào năm Quí Mùi, 1883, tướng Pháp Cour bet và toàn quyền Harman đưa tàu chiến đánh vào Thuận An. Trấn Hải Đài thất thủ, quan trấn thành Lê Sỹ tử trận, đưa tới việc cả nước Việt Nam phải chịu sự bảo hộ của Pháp. Đời sống ở làng Thái Dương Hạ thời trước yên ổn, bình lặng thế nào tôi hoàn toàn không nhớ. Chỉ mơ mơ hồ hồ trong ký ức một con bé gầy gò ốm yếu, cả ngày tha thẩn trong khu đồi rộng, dám leo lên cửa thành, chui ra khỏi hai cánh cổng sắt lớn, buộc lỏng lẻo một sợi dây xích to tướng. Hôm nào sợi dây xích nới không đủ để chui, con bé đi lối sau đồi, khom người bò qua một lỗ hổng nhỏ, đeo những sợi dây của cây thuồng luồng mọc từ đầu tường thành, thả xuống tận dưới đáy lũy sâu, rồi lại leo lên ở đầu tường bên kia, ra ngoài được. Đôi chân nhỏ xíu của con bé phải chạy thật nhanh, đạp trên những đám cỏ khô cho đỡ rát chân, vì cát ban ngày bị mặt trời hun nóng như lửa. 1. Thuận An năm Ất Dậu | 11 Qua bãi cát, rồi qua rừng dương, qua hồ cá mặt trăng. Gọi là hồ cá mặt trăng vì những cái hồ nhỏ nằm khuất giữa rừng dương, mặt nước dày đặc lá dương liễu khô rụng xuống che mát cho đàn cá mặt trăng. Cá nhỏ li ti, màu trắng trong trong, hai mắt như hai điểm tăm đen. Gọi là cá mặt trăng, vì ban đêm, lúc có ánh trăng chan hòa trên cành lá liễu thì đàn cá ngoi lên mặt nước đớp trăng. Qua rừng dương, qua con đập bằng đá xây cao ngăn nước chạy dài không biết tới đâu, lại phải nhảy nhót đặt cho đúng chân lên những mảng cỏ hay lá khô tránh cát nóng, trước khi sung sướng dẫm hai bàn chân xuống nước biển. Nhưng bỗng thú vui duy nhứt của con bé bị cấm. Quân lính Nhật chẳng biết từ đâu tràn vào Thuận An, đóng quân ngay trong Trấn Hải Đài. Những cái lỗ đá vỡ ở cửa thành sau bị bít lại và sợi dây xích phía trước buộc khít khao hơn. Ba tôi vẫn tiếp tục công việc cũ của Sở Công Chánh, lúc đó do người Nhật nắm giữ. Gia đình 12 | Nhã Ca tôi vẫn tiếp tục ở trong đài (“đài” là tiếng tắt dân làng gọi Trấn Hải Đài) bên cạnh một binh đội Nhật. Lúc đầu, cứ chiều chiều là má đưa tôi ra ngoài nhà cậu mợ để ngủ, sáng hôm sau lại trở vào. Về sau, khi Ba tôi đã học nói được ít tiếng Nhật, rồi giúp thêm việc thông dịch giữa người Nhật với dân làng, má tôi mới bớt sợ, chiều chiều khỏi phải đi lánh thân nữa. Từ đó, con bé đêm đêm thường nghe thấy ba má thì thầm… Chuyện ở đâu đó, trên cái đầu của nước Việt Nam, nạn đói đang xảy ra, nhiều người chết vì không cơm ăn. Hết thời quan Tây rồi. Quân Nhật đã nắm mọi quyền hành. Ngay tại Thuận An, thuyền bè bị trưng dụng, trai làng Thượng làng Hạ bị quân Nhật lùa đi lao dịch. Đã có nhiều vụ bắt bớ, nhiều người bị bắn chết. Một đêm, con bé bỗng nghe má hỏi ba: – Trong cái hầm dê đó đang giam mấy người? – Sáu bảy người gì đó. – Có đàn bà không? 1. Thuận An năm Ất Dậu | 13 – Không. Người đàn bà… Má tôi hỏi dồn: – Nhốt ở đâu? Há, ông nói đi. – Thôi, bà biết làm gì cho mệt. Chuyện đó không phải chuyện của mình, bà đừng xía vô mà mang họa… Ba tôi dặn thêm: – Bà đừng tưởng thấy tụi nó tử tế mà mắc mưu. Tại tui làm thông ngôn cho nó nên nó nể… Nể chứ không phải là tin… Tui cực chẳng đã mà làm thôi, có vậy mới mong cứu được vài người vô tội… Còn bà, tui can bà rồi đó nghe... Má tôi không nói gì nữa. Nhưng ngày hôm sau, chờ lúc không có ai, gọi tôi. – Mi Ki, con đi chơi với mấy “tụi lùn” nhớ để ý coi giúp má, có nơi nào nhốt một người đàn bà… một chị thôi. Con còn con nít, không ai để ý… Con bé ngớ ngẩn: 14 | Nhã Ca – Kiếm làm chi, má. Ba nói kệ người ta. Con sợ mấy – chú lùn – không thương con, đánh con như đánh mấy người trong hầm dê. Mà sao kêu mấy chú là tụi lùn má. Mấy chú cao… cao… này này… Má tôi cười: – Thì người ta kêu sao mình kêu vậy. Má hỏi lại nè. Có giúp má không? Con bé sợ ba nhưng cũng phải giúp má. Ba với má mà. Con bé miễn cưỡng gật đầu. Khó quá, xung quanh căn nhà lớn, hai tầng là đất rộng bao quanh. Hồi còn thong thả đi lại, con bé đã thấy không biết bao nhiêu căn hầm đào sâu dưới đất, miệng hầm là những tảng đá lớn hoặc những cây gỗ ghép lại để che chắn, làm sao biết được – chị đó – ở hầm nào mà kiếm. Có len lén đi rình, đi kiếm. Nhưng gần một tháng, con bé không tìm được gì cả. Vì hễ đi tới những khu cấm là thấy một người lính Nhật có súng đứng canh, đưa tay xua xua đuổi con bé đi… chỗ khác chơi! 1. Thuận An năm Ất Dậu | 15 Anh lính Nhật có cái tên dài lắm, con bé không thể nào nhớ nổi. Nghe đọc đã theo không kịp rồi. Cái gì mà như tô xô ba cô ba nô bà già gì đó, ba cũng bắt đọc đi đọc lại mấy lần, chịu thôi. Kệ, cứ gọi anh lính đó là Tô-Cô, chữ tô dễ nhớ vì nhà cậu có con chó tên Tô, chữ cô cũng dễ nhớ luôn, đi đâu má cũng bắt vòng tay: Thưa cô đi con. Anh Tô-Cô trẻ hơn ba nhiều, cũng không thấy lùn như bị gọi vì đứng với mấy người trong làng bị bắt vô đồn để ba làm thông ngôn thấy anh Tô-Cô cao hơn. Bữa đó, có tới bốn người bị bắt vô đồn chẳng biết vì tội gì. Tất cả đứng trong sân sắp hàng, lính Nhật đưa súng lên nhắm như khi họ nhắm để bắn mấy con chim. Ba làm thông dịch, có anh Tô-Cô đứng bên. Ông Cử Sừng mặt mày đỏ tía: – Thầy thông dịch cho nó nghe. Tui chửi nó đó. Đồ quỷ la sát, đồ chó đẻ. Suốt ngày đi chọc ghẹo con gái trong làng, còn bắt bớ, giam cầm người ta. Giỏi thì bắn đi. Bắn chết thằng già này đi. 16 | Nhã Ca Ông Cử Sừng vạch áo ra lòi bộ ngực xương xẩu. Ông này dữ quá, dám thách thức đám lính Nhật có súng. Lỡ nó bắn thì sao? Con bé thấy tim đập thình thịch. Ba cười cười, nói một tràng tiếng Nhật. Kỳ chưa, mấy khẩu súng hạ xuống, ba kéo ông Cử Sừng ra ngoài, thấy ba mạnh tay quá. Tối hôm đó, ba lại kể với má. – Ông Cử dữ dằn, thách thức chửi chúng nó làm gì. Tụi nó có quyền, có súng, sợ gì ai mà không bắn. – Tui đứng trong nhìn ra sợ muốn đứng tim. Ông nói gì mà hay quá vậy? – Không nghe nói gì sao biết là hay. Bà thiệt ba phải. Ừ, tui thấy ông Cử vạch ngực ra, tui phải dịch là dân làng rất quí người Nhật, người Nhật tốt, nhưng chỉ buồn là có người Nhật không tuân kỷ luật đã vạch áo chị Muông ra để nhìn ngực… Họ muốn trình bày sự phẫn uất của họ và xin xét xử cho chị Muông thôi. Họ nói người Nhật tốt nên họ mới liều chết tới để xin… – Bộ ông thấy tụi chó đó không đáng chửi sao mà nói trợt đi… 1. Thuận An năm Ất Dậu | 17 – Chớ dịch đúng cho nó bắn cái đùng, bốn mạng chết ngay đơ thì lợi gì. Đàn bà thiệt ngu. – Ông nói tui ngu… – Chứ phải khen bà khôn sao. Đàn bà nhẹ dạ, hay tin người nên chuyện gì có đàn bà nhúng vô là hỏng bét. Má làm thinh không cãi nữa. Bốn người đã bình yên ra về rồi, nhưng câu chuyện hôm đó cứ khuấy động tấm lòng non nớt của con bé. Con bé hứa với má sẽ tìm cho ra chỗ giam chị Muông. Nhưng hễ cứ quành ra phía sau là chân con bé chùn lại. Nó sợ cây súng của người lính Nhật lúc nào cũng đứng ở đó như hai chân đã chôn dưới đất và cái mặt như đúc bằng sáp đèn cầy. Một lần khác, lính Nhật giải vào đồn một bà già. Bà bị trói gô trong sân, trước cột cờ. Bà già chửi luôn cả ba: – Thầy Thông ơi là thầy Thông. Thầy làm thông ngôn làm chi cho xấu mặt dân làng. Thầy theo tụi Nhật lùn áp bức người ta, bắt bớ người 18 | Nhã Ca ta… Tui thề, hễ thấy thằng Nhật lùn nào là tui chửi tui đào, tui bới ba đời mười kiếp cả nhà nó…Thầy nói nó giết tui đi, tui thà chết chớ không chịu nhục. Thả con tui ra, trời ơi là trời… Anh lính Tô-Cô nhìn ba tôi, chờ Ba tôi lại nói một tràng tiếng Nhật. Ba tôi mới học thôi mà, nên có chữ ông phải làm dấu. Anh lính Tô Cô gật gật, bỏ đi. Ba tôi tự tay cởi trói cho bà già, nói: – Bác chửi cũng phải. Tui không giận bác đâu. Nhưng tui làm gì thi tui biết, sau này mấy bác biết… Bà già: – Bữa nay tui cố tình cho nó bắt vô để gặp cái thằng Nhật lùn khốn nạn, nhưng không thấy nó. Nó chọc con Muông, con Muông cự lại, nó bắt nó nhốt. Thiệt tức, mình cả làng, cả hai làng Thái Dương Thượng, Thái Dương Hạ, lâu nay vua biết mặt chúa biết tên, mà để cho mấy “thằng lùn” nó làm nhục… 1. Thuận An năm Ất Dậu | 19 – Lần sau bác đừng đứng trước đồn mà chửi, lỡ có thằng nó không biết, bắn ẩu bắn tả thiệt mạng mình… – Nhưng tức quá thì làm sao…Đi biển có cá ngon thì phải nạp cho nó… Cái đồ ăn sống ăn sít… Còn bắt bớ giam cầm… Ác chi mà ác dữ… thầy Thông còn binh… Người ta chửi ba mà ba vẫn lặng thinh như khi ba nói má ngu má cũng lặng thinh. Tối đó, con bé thấy ba má thì thầm nói chuyện nữa. Ba khoanh tay trên ngực, nhìn lên trần nhà. Má khóc. Con bé nằm ở cái giường nhỏ, bỏ đi sang nằm với người anh. – Anh, anh… má khóc. Người anh đã ngủ say, không biết gì hết. Một buổi chiều anh lính Nhật Tô-Cô tìm má đưa một gói cá. Anh làm dấu nhờ má kho mặn rồi bỏ vào một cái hũ đất nhỏ. Mấy người lính Nhật ở trong đồn rất cẩn thận việc ăn uống, không được phép ăn đồ ăn ngoài đầu bếp người Nhật 20 | Nhã Ca nấu, không được ra ngoài la cà hàng quán uống rượu ăn hàng. Ba nói họ rất sợ bị thuốc chết như trong làng thường thuốc cho chuột chết. Vậy mà anh lính Tô-Cô này dám đưa đồ ăn cho má nấu. Con bé tò mò hỏi: – Má nấu cá cho cái anh Tô-Cô phải không? Má quắc mắt: – Người ta nhờ. Này, người Nhật họ dữ lắm đó, biết anh Tô- Cô nhờ má kho cá, họ sẽ phạt anh đó. – Thích ăn mà cũng bị phạt hả má? Sao con thích ăn gì thì má nấu cho con ăn? – Vì mình khác, người Nhật khác. Má giải thích. Người mình, người Nhật, chẳng hiểu gì cả. Nhưng nhớ. Má dặn không được nói cho ai biết thì không nói. Biết anh lính Tô-Cô thích ăn cá kho, vì cứ nhờ má nấu hoài mà cứ tưởng con bé không biết. 1. Thuận An năm Ất Dậu | 21 Rồi một thời gian sau, không thấy má nhắc tời việc nhờ con bé kiếm cái hầm nào giam chị Muông nữa. Chắc má đã quên. Con bé thấy vậy cũng mừng vì hễ thấy cây súng chĩa tới trước mặt là con bé sợ muốn té. Mấy cái hầm đó, hồi chưa giam người, con bé cũng không muốn chui vô trong chơi rồi, vì trong đồn có nhiều rắn, chui vô mà thấy có một con rắn ở trong thì có mà nằm dài ra đó chết luôn, chớ đừng nói chuyện chui ra được. Đã quen với mấy chú Nhật lùn, nhưng con bé vẫn muốn có một lúc nào đó, không có mấy chú, cái lỗ nhỏ phía sau thành bị phá ra. Con bé nhớ chết được lúc đánh đu theo sợi dây cây thuồng luồng để xuống đáy hào, rồi đu lên sợi dây cây khác để được ra ngoài, thấy biển. Ở dưới đáy hào còn có nhiều thứ cây có trái ăn rất ngon, trái sim tím, trái chuột chuột thơm giòn, nhỏ bằng cái gai nhưng ăn còn ngon hơn trái dưa chuột má thường dọn ăn với cơm. Còn trái muồng muồng, chờ cho gần khô, tách ra lấy hột, rang lên ăn hay nấu nước uống, người làng 22 | Nhã Ca nói uống nước này sáng mắt lắm. Còn nữa, trái bát bát chín đỏ đeo lủng lẳng theo dây leo, ăn ngọt như đường phèn. Con bé chỉ chừa một cây tên là Mạt Sát, có trái to, dày như trái quả bông, người làng nói đập ra lấy cái tim, nuốt cái tim vô khỏi họng là chết liền, ai dám. Nhưng ở dưới đáy hào, ba đã cho người chặt đi tuyệt giống, không thấy nữa. Lâu, con bé cũng chưa thấy ai bị lính Nhật bắt vô đồn. Ba vẫn làm – thầy Thông – nhưng đi ra đường không ai chửi nữa, mà còn có người chào hỏi. Con bé hơi khó chịu vì thấy anh lính Nhật Tô-Cô thân với má quá. Con bé còn thấy má với anh Tô-Cô đứng ở một chỗ rất khuất nói gì nhiều lắm. Không biết có nên nói cho ba biết không? Con bé đi chợ với má, nghe người lớn nói, lính Nhật hay ve đàn bà con gái. Con bé không thích má chơi thân với anh lính Tô-Cô. Con bé cũng không thích anh lính Tô-Cô, không thích cả đám lính Nhật đóng trong đồn. Nó tha thẩn chơi một mình dù biết chơi một mình buồn lắm. Nhớ cây muồng muồng, trái sim, 1. Thuận An năm Ất Dậu | 23 trái chuột chuột, cũng không thể ra ngoài. Có ra ngoài thì phải đi với ba, với má. Con bé nhớ tới cái cây nằm ở góc tít xa, trái giống trái sung mà nhỏ bằng móng tay, ăn có mùi vị chát. Lâu quá, quên luôn rồi, bữa nay nhớ, không thể không tới thăm. Nhưng tới đó, lại phải đi qua một trạm lính Nhật gác. Con bé nghĩ cách, đi vòng theo bờ thành, chui qua các bụi cây rậm. Con bé thoát được cặp mắt vẽ trên cái mặt sáp bủng của anh lính. Đang mùa, trên cành, dưới lớp lá, chi chít trái. Thoắt cái, con bé đã lên tuốt trên một ngánh ba, có rất nhiều cành nhỏ, xúm xít lá che khuất luôn con bé. Có vậy mà lâu nay bỏ quên nó. Leo lên, trốn trong tùm lá, yên ổn biết bao. Có thể tha hồ hái ăn những trái đang mùa, còn đang xanh, căng tròn. Con bé biết, loại trái này chín thì chỉ vứt đi. Bên trong trái chín muồi, lúc nhúc những con bọ chui vào trong đó. Con bé lay cành, một con chim vội vã bay đi, đậu tuốt trên cây bạc hà cao vút. 24 | Nhã Ca Thình lình, con bé nhìn thấy một bóng người đi tới. Đang buổi trưa. Lính Nhật buổi trưa thường được nghỉ tới khoảng hai giờ mới dậy làm việc. Nếu người lính Nhật canh gác nghi ngờ, đi tìm thì con bé có trốn kỹ tới đâu cũng bị bắt. Con bé giữ chặt tay đeo cứng cành sợ rớt xuống. Thấy rồi, không phải người lính gác mà anh lính tên Tô-Cô. Anh lính Tô-Cô cứ nhìn quanh quất, mắt lấm lấm lét lét. Đã là lính Nhật rồi mà còn sợ ai nữa chớ. Con bé tò mò dõi mắt theo. Cách chỗ cây con bé đang trốn trong tùm lá không xa có một cái hầm. Anh lính Tô-Cô tới đó. Lúc anh quỳ trước miệng hầm, con bé thấy anh lính lấy ra một vật gì giấu trong áo như cái hũ. Nhớ ra rồi, đúng là cái hũ đất anh lính thường nhờ má kho cá bỏ vô đó. Cái hũ đất biến mất trên tay anh. Rồi một bàn tay thò ra. Hai bàn tay nắm lấy nhau. Một lúc, hai bàn tay thả ra, anh lính Tô Cô đứng dậy bỏ đi. Chờ một lát, con bé tò mò tới bên miệng hầm. Quanh miếng lưới sắt chặn cửa hầm, nhờ ánh 1. Thuận An năm Ất Dậu | 25 nắng ban trưa, con bé nhìn thấy một người đang ngồi bó gối ở bên trong. Nhìn kỹ, con bé nhận ra là một người đàn bà. Chị lết ra sát miệng hầm. Con bé lùi lại. – Đừng sợ, em... em đừng sợ. Chị bị tụi Nhật bắt giam ở đây. – Chị là… Có phải chị là… Con bé nhớ lại… – Chị Muông. Chị bị bắt mấy tháng nay rồi. Khổ lắm. Thì ra chị Muông đây. Con bé cắn môi. Má đã từng bảo con bé đi tìm cho ra chỗ chị Muông. Còn bây giờ má thân với anh lính Tô-Cô rồi, má không muốn giúp chị Muông này nữa. Con bé thầm trách má ác. – Cái anh Tô-Cô đó tới làm gì? Anh ta xấu lắm. – Không phải đâu em. Anh ta giúp chị. Cho chị ăn. Chắc phải nói với má chuyện này. Ngoài chợ 26 | Nhã Ca người ta nói lính Nhật rất xấu, hay mê đàn bà, con gái. Anh lính Tô-Cô này đã làm thân với má, còn bắt má kho cá để lấy lòng chị Muông. Anh đó xấu quá, đâu có nên chơi. Con bé lắc đầu: – Nhật lùn xấu lắm. Em ghét Nhật lùn. Chị Muông nói gì thì nói, con bé vẫn lắc đầu, vẫn bĩu môi nói xấu là xấu. Chị Muông hối hả bảo con bé nên đi đi, bị lính gác phát hiện sẽ ăn đòn. Con bé bỏ đi. Có nên nói cho má biết không? Khi con bé biết chỗ chị Muông thì má đâu có nhờ nữa. Con bé im luôn. Một buổi tối, ba má nói chuyện thì thầm, giọng má: – Ngày mai con Muông được tha rồi... – Biết. – Thằng Tô-Cô… – Biết. 1. Thuận An năm Ất Dậu | 27 Thấy không, con bé không nói nhưng chuyện gì ba cũng biết. Giọng má nhỏ quá, con bé nghe không kịp. – Tôi biết bà…biết rồi, bà thiệt… Chỉ có vậy thôi? Sao không nghe ba la má gì nữa. Hôm sau con bé chờ coi. Đúng là chị Muông được thả. Chị ôm bọc quần áo đi ra. Bà già bữa hôm chửi bị bắt với mấy người nữa đứng đón bên ngoài cánh cửa sắt. Chị Muông đi ra mà cứ quay lại nhìn lui hoài. Đâu có người ngu nhớ cái nơi giam giữ mình khổ sở mà ngoái đầu lại chớ! Từ bữa đó con bé cố tìm cách để coi có còn bắt gặp cảnh anh lính Tô-Cô với má thì thầm ở một góc kín nào nữa không. Con bé định bụng, bắt được một lần nữa thì phải méc với ba. Nhưng con bé mất công. Má nhiều lần chạm mặt với anh lính Tô-Cô, hai người chào nhau như má vẫn chào những người khác. Anh lính Tô-Cô làm như bận việc lắm, ít thấy mặt trong đồn, nhất là ngoài giờ làm việc là anh biệt tăm biệt tích. 28 | Nhã Ca Cũng có một vài lần theo mẹ ra chợ, gặp chị Muông. Sao lúc nào chị Muông với má cũng thân thiết, cũng to to nhỏ nhỏ, cười cười nói nói. Chị Muông còn tặng má quà, có bữa nấu xôi, có bữa mua bánh trái bắt má và con bé phải nhận. Con bé vẫn không quên nhắc chừng chị Muông. – Chị ơi, từ nay thấy thằng Nhật lùn Tô-Cô, chị đừng tới gần nữa nghe. Nó xấu ghê lắm. – Chị nhớ. Chị nhớ. Chị Muông vừa nói vừa cười. Má cũng cười theo nữa. Chuyện tới vậy mà không ai chịu tin. Vậy mà cứ nói người lớn khôn hơn con nít. Đêm ngủ, ba lại có tin tức mới cho má nghe. Nhiều tin lắm, con bé không nhớ gì ngoài câu: – Chắc tụi nó thua tới nơi… Chỉ nghe vậy là mừng… Mừng chớ sao không mừng. Tụi nó thua bỏ đi hết thì đâu có ai cản con bé đi học, ra ngoài làng chơi hay trốn ra biển tắm. Hôm sau con bé nhìn thấy anh lính Tô-Cô thì vác cái mặt lên, không 1. Thuận An năm Ất Dậu | 29 thèm nhìn. Anh lính đâu biết, còn cho con bé bánh. Bánh thì phải lấy. – Đúng rồi em. Tụi nó sắp rút đi thật… Lại tin tức mới nữa. Giọng má như tắc ng hẹn: – Nhưng con Muông. Nó phải làm sao đây. Ngày mai làng họp về chuyện nó. Giọng má nhỏ đi nhiều lắm: – Thì phải, nó có bụng rồi. Ba tháng… Thì tụi nó thương nhau thiệt… Chắc chắn mà, với thằng Tô-Cô… Con bé biết chữ có bụng là có một em bé. Em bé sẽ được đẻ ra. Chị Muông đang có một em bé do tên Nhật lùn gửi trong bụng chị. Sao chị lại dại dột cho một thằng Nhật lùn gửi em bé trong bụng chứ. Con bé thở dài y hệt một người lớn. – Đừng cho mấy đứa con nó biết. Má nói. Ba: 30 | Nhã Ca – Mai cả hai vợ chồng mình phải ra ngoài làng. Tui cũng phải làm thông ngôn cho Tô-Cô. – Ngủ đi. Đừng nói lớn mà con nó nghe. Con bé đã nghe. Ngay sau khi ba má vừa ra khỏi đài là con bé lén theo. Không biết bằng cách nào, con bé đã lọt qua cái cổng sắt, ra tới được đình làng. Cả làng đang họp. Ông Cử Sừng ngồi trên ghế cao bắc trước một dãy ghế gồm nhiều người lớn trong làng ngồi trên thềm đình. Phía bên trái, một dãy ghế người Nhật ngồi. Ba đứng bên anh lính Tô-Cô và chị Muông bị trói ở một cây cọc cắm giữa sân đình. Con bé đã nhanh nhẩu núp phía trong đình, dưới một chiếc bàn có trải khăn dài phủ tới đất. Chị Muông như một người nào khác, không giống chị Muông con bé thường gặp. Mặt mũi chị bị trát bùn. Đầu tóc không chải, rối bời, chị mặc một bộ quần áo cũ rách và người chị bị quấn dây thừng chặt cứng như khúc giò. Mắt chị sưng húp mở không ra, con bé chưa khi nào thấy một cô gái xấu xí tới phát sợ như vậy. 1. Thuận An năm Ất Dậu | 31 Ông Cử Sừng là người lên tiếng trước tiên. Ông kể toàn là tội của chị Muông. Tội thứ nhứt, thứ nhì cho tới mười hai tội mà tội nào cũng kèm theo câu đánh chết, thả bè trôi sông. Con bé nhớ lại, nó đã gặp ông đứng trước sân đồn, la lối, mắng chửi, không màng đến cái chết để bênh vực chị Muông và ba đã thông dịch khác đi để lính Nhật không bắn ông. Rồi bà già, má của chị Muông cũng đứng lên cho làng hỏi và bà cũng khóc lóc, chửi rủa con gái đã làm xấu nhục bà. Con bé càng ngày càng không hiểu, cho tới lúc ba dịch lại lời của anh lính Tô-Cô. – Tui thương cô Muông. Tui muốn cưới cô Muông làm vợ thiệt lòng. Giọng ông Cử Sừng: – Thầy Thông, thầy phải thông ngôn cho đứng đắn, đừng thông ngôn sai giúp cho giặc. Thầy Thông phải thề trước tổ đình… Ba đưa tay thề. Một người Nhật ngồi trên ghế đứng dậy đưa tay phản đối, bập bẹ nói tiếng Việt: 32 | Nhã Ca – Khôn nấy được… Khôn cưới được… Người Nhật… người Nhật… Ông nói một tràng tiếng Nhật và ba thông ngôn: – Ông sĩ quan này nói con gái Việt Nam đổ cho lính Nhật, con gái Việt Nam không tốt. Người Nhật không chịu trách nhiệm… Chị Muông khóc rấm rứt, mệt lả như muốn ngất đi. Nghe nói mấy ngày trước chị Muông đã bị đánh đập và bỏ đói. Anh lính Tô-Cô muốn tới bên chị thì bị mấy người đàn ông trẻ giữ chặt lại. Đoàn lính Nhật ngồi yên không nói một tiếng nào. Mấy cây súng của họ đâu? Họ trở nên hiền lành từ khi nào vậy! – Con kia. Nghe làng hỏi. Một mụ đàn bà mập mạp hùng hổ đi ra sân, cầm đầu tóc giựt ngược để cái mặt chị Muông phải ngẩng lên. – Nghe hỏi đây. Mày có chửa với thằng nào? 12. Bà Bắc vào Nam kiếm chồng | 33 Chị Muông đưa khuôn mặt gần như nát bét trét bùn đất về phía anh lính Tô-Cô. – Có phải người này không? Cái đầu chị Muông gật nhẹ. Anh lính Tô-Cô lại nhào ra, anh bị giữ riệt lại. Một người Nhật đứng bật dậy hô khẩu lệnh. Cả đoàn đứng lên răm rắp, sắp hàng, bước ra. Anh lính Tô-Cô cũng vào hàng đi, không dám ngoái lại. – Đánh chết con chửa hoang. Một mụ đàn bà la lên. Con bé nhìn ra, hoa cả mắt. Đàn bà nhảy cỡn. Con nít reo hò. Đá, gạch, rác rưởi từ bốn phía đang ném về phía chị Muông. Bà già, mẹ đẻ của chị, mới lên án chị đó, đã nhảy ra, khóc la, lấy thân che cho chị. Con bé cũng la lên. La thật lớn. Hai bàn chân con bé bị nắm lại, kéo ra khỏi gầm bàn. Má. Má kéo con bé, đẩy ra phía ngõ sau. – Đi về nhà. Đi. 34 | Nhã Ca Chưa bao giờ con bé thấy má giận dữ vậy. Má bóp tay con bé chặt quá. Con bé đau chảy nước mắt nước mũi, nhưng không dám khóc thành tiếng. Tối hôm đó trăng sáng lắm. Trước nhà con bé ở có hai cây sầu đông rất lớn nhưng cái sân còn lớn hơn, nên ánh trăng vờn trên cành lá, tràn xuống, lênh láng cả sân. Hình ảnh chị Muông ở đình làng làm con bé không thể ngủ được. Đứng ở cửa sổ, qua chấn song sắt, con bé thấy anh Tô-Cô đi tới. Đến khoảng giữa sân, bỗng thấy anh khuỵu xuống, mặt ngước lên trời. Lát sau, thấy anh lăn lộn dữ dội trên mặt sân, rồi anh la lên một tràng tiếng Nhật. Cho tới khi Tô Cô rời khỏi cái sân, con bé còn nghe thấy tiếng la của anh lùng bùng trong tai nhưng nó không thể hiểu và cũng không thể nhớ. Phải chi con bé có thể nhờ ba làm thông ngôn, coi anh ta la lối gì đêm đó. Ngày hôm sau, Tô-Cô lên đường về nước. Anh không từ giã ai, cả ba, cả má, cả con bé. Ba nói quân đội Nhật đã thất trận. 1. Thuận An năm Ất Dậu | 35 Còn chị Muông thì sao? Ba im. Má im. Con bé không biết thêm gì nữa. Nhiều năm về sau, khi đã thành người lớn, con bé có lần nghe má kể. Cả làng ghép chị Muông vào tội chửa hoang. Chị Muông bị đuổi ra khỏi làng, sống trong một cái chòi nhỏ ở ngoài độn cát với bà mẹ già. Má có tìm cách ra thăm. Lần nào chị cũng khóc rồi nói chỉ có chết, mẹ con em muốn sang tới Nhật ở bên anh Tô-Cô. Anh Tô Cô thương em thật mà. Tụi em thương nhau… Má cũng nói ngay từ lúc chị Muông bị nhốt ở cái hầm phía sau, Tô-Cô đã lén giúp đỡ chị rồi họ thương nhau thật. – Tội nghiệp. Cái bầu của nó ngày một lớn. Ba má vẫn để dành chút gạo chút muối giúp nó. Ai dè, một buổi trưa, người ta tìm thấy nó chết ngoài đụn cát, bên bụi cây mạt sát. Nó ăn tim trái mạt sát để chết với đứa con trong bụng. Má tôi nói. o O o 36 | Nhã Ca Thêm một năm Ất Dậu. Mới đó mà đã sáu mươi năm. Ba má tôi đã mất từ lâu. Làng Thuận An xưa chẳng biết ra sao. Xưa lắm thì có vụ Tây đánh, vào một năm Mùi. Sau đó có người Nhật và anh lính Tô-Cô tội nghiệp. Thuận An cũng từng thấy lính Mỹ và cảnh bể dâu Cộng hòa rồi Cộng sản. Còn Thuận An ngày nay? Nghe đâu cả con đê, rừng dương, hồ cá mặt trăng, cả cái vịnh Khoanh Tay phía sau Trấn Hải Đài nữa, đều đã bị biển lấn vào xóa hết dấu vết. 2. Qua một kiếp khác | 37 Qua một kiếp khác Thuận đi học tập cải tạo, được tha về, nhưng giấy gửi ở phường quản lý. Có nghĩa là chỉ hộ khẩu tạm, và mỗi một tháng đã có ghi số lịch, ra công an phường trình diện. Về nhà, con thì còn nhưng vợ mất. Cái giường của anh đã có một thằng cha khác nằm chung với vợ anh. Giang sơn của anh là cái ghế bố, mỗi tối đem ra kê ở phòng ngoài, sáng phải dậy sớm, xếp ghế bố lại để trả chỗ. Quần áo thì đâu có nhiêu, vỏn vẹn chỉ có hai bộ mang từ trong tù về, với vài thứ lỉnh kỉnh, lưỡi dao lam để cạo râu, cái bàn chải đánh răng. Chắc vợ anh tưởng anh sẽ không bao giờ về, sẽ chết rục trong tù. Chị nghĩ vậy cũng không phải là quá đáng gì. Bạn anh, nhiều người đâu có về mà nằm sắp măng ngoài bìa đồi, có người không ai khắc cho cái tên nên vợ con có được lệnh đi thăm cũng khó khăn lắm mới tìm 38 | Nhã Ca ra. Vợ anh, cũng tưởng có ngày phải đi ra bìa đồi, để tìm kiếm một miếng đất u lên như vậy, với lại bả cũng quá khổ, quá cô đơn, nên phải chắp nối với một người đàn ông. Hắn đã lớn tuổi, lại có chỗ dựa lưng, còn cho chị tiền để chi nên chị đỡ phải bị phiền lụy nhiều vì có chồng đi học tập. Quên sao được bữa mới được tha về. Anh bước vào sân, hồi hộp gõ cửa. Lâu rồi, xấp nhỏ đi theo một bà cũng thăm chồng, ở chung xóm, nói là má bị gãy chưn, không đi lại được. Vợ anh gãy chưn ra sao? Anh bước vô nhà tới nơi rồi này. Anh sẽ ôm cái chưn gãy của chị, vuốt ve nhẹ nhàng, có thể sẽ khóc nữa. Vì chắc chắn chị cũng khóc, nước mắt mừng tủi thâm tình nghĩa chồng vợ sẽ hòa với nhau, rơi trên đốt xương chân bị thương của chị. – Ba. Ba… A Ba… Hai đứa con trai mở cửa reo lên. Bất ngờ quá mà. Anh ôm chầm cả hai đứa bằng hai cánh tay gầy guộc. – A, ba về, ba về… 2. Qua một kiếp khác | 39 Ôm nữa. Hai đứa làm như anh bằng giấy, bằng bột, sẽ tan biến mất. Thằng lớn dụi mắt, tưởng bị hoa: – Ba thiệt hôn? Sao ba về mà không báo trước… Thuận vội vã: – Má con đâu? Há, bả đâu? Anh chờ để nghe giọng nói của con: – Má ở trỏng, ba. Ba vô đi… Và chúng sẽ kéo anh tuồn tuột, anh bước theo không kịp chúng, và anh thấy chị đang ngóc cái đầu ra, ngong ngóng chờ đợi anh. Rồi anh… – Má… Ờ, má chưa về, ba. Thằng nhỏ: – Má đi công chuyện, ba. – Má bây đi được? Bả đi lại được… 40 | Nhã Ca Không thấy đứa nào trả lời. Hai đứa ngó nhau. Chuyện gì đây? Anh ôm cái bọc quần áo đi vào trong. Anh còn nhớ như in, chỗ nào kê cái giường ngủ, cả tấm màn vải hoa che kín phía ngoài. Cái màn vải do chính tay chị tự may bằng tay và cả anh cả chị rất hài lòng khi chọn lựa. Tất cả còn y nguyên, chỉ có cái màn vải hoa cũ đi nhiều quá, bị ố, bẩn và có nơi sờn mục. Anh vén tấm màn qua một bên. Đặt lưng nằm xuống đó, ôi hạnh phúc xiết bao. Cái giường, cái chỗ gối đầu, căn nhà, vợ anh, con anh… Anh còn nhớ, lúc đó chiều mới xuống, còn sáng lắm. Chiếc chiếu hoa ngày xưa đã thay vào một tấm nệm dày, có khăn trải đàng hoàng. Và anh đứng chết sững, trên giường có một cái quần đùi đàn ông đang để cẩu thả. Và nữa kìa, nơi cây đinh đóng trên tường phía cuối giường treo một cái áo sơ mi đàn ông. Anh đã hiểu. Cái đầu choáng lên một cái, rồi ruột anh quặn đau, bao nhiêu năm tù đày, anh đã tập được một điều là bất cứ chuyện gì, giận dữ, bi thảm, đều phải nuốt xuống, nuốt xuống… Anh đã phải nuốt xuống quá nhiều, lần này thì nó cứ mắc ở cổ họng. 2. Qua một kiếp khác | 41 – Ba. Ba. Anh có nhìn thấy hai đứa con mặt mũi xanh lè xanh lét, đứa nhỏ còn như muốn run. Anh vày vò mé tấm màn trong tay. Cũ quá rồi, nó sút chỉ ra và sờn rách, có ít chút bụi mủn trong lòng tay anh vẫn còn nắm chặt. Anh phải thả nó ra. Thả ra. Và anh buông ra được. Thả ra rồi, anh hụt hẫng, không thấy hai bàn tay đâu nữa. Nhưng anh biết còn hai cái chân, hai cái chân muốn bước. – Ba. Ba. Ba ơi! Anh cắm đầu bước đi, bỏ mặc tiếng gọi thảm thiết của hai đứa con đằng sau lưng. Kêu không được, chúng chạy theo: – Ba ơi, đừng đi. Đừng đi ba… Anh vẫn đi. Hai đứa nhỏ òa khóc. Rồi cứ vừa khóc vừa bước lẽo đẽo sau lưng anh. Làm như anh là chiếc quan tài, còn hai đứa nhỏ đang khóc lóc đằng sau đưa đám ma anh. Thì dù chưa nằm trong quan tài, anh khác gì một xác chết. Hai chân cứ bước, còn đi tới đâu, sẽ làm gì, anh hoàn toàn không biết! 42 | Nhã Ca Nhưng rồi anh phải biết. Tờ giấy lệnh tha của anh còn nằm trong cái bọc anh đang ôm trong tay. Tờ giấy ghi một địa chỉ. Trừ phi anh can đảm chết đi thì không còn gì để nói. Nhưng rõ ràng anh không có can đảm đó. Tiếng khóc của hai đứa nhỏ sau lưng anh như dao cắt nát từng khúc ruột. Anh hiểu là anh cứ phải sống, và nếu còn muốn sống, không cách gì không về cái địa chỉ đã ghi trong tờ giấy lệnh tha. Hai đứa con thu xếp để anh gặp vợ. Cũng ngay tối hôm đó thôi. Người đàn ông đưa chị về rồi bỏ đi. Đến chết anh cũng không quên được vẻ mặt thất thần, sượng sùng, khổ đau của chị. Chị sụp xuống dưới chân anh: – Anh Thuận. Anh đừng nhìn em vậy. Anh giết chết em đi. Mắt anh nhìn chị làm sao? Hung dữ? Hằn học? Thù hận? Dịu dàng? Hình như quá dịu dàng. Làm sao không thể chia sẻ với người vợ ánh mắt trìu mến nhớ nhung của bao năm trời xa cách. Anh còn muốn ôm chầm lấy chị, muốn khóc. Cả 2. Qua một kiếp khác | 43 hai cùng khóc cho trôi bớt những tủi hờn, nhục nhã. Nhưng hai bàn tay của anh không còn tuân theo cái đầu của anh, nó như đã rời khỏi thân thể anh rồi! – Ôi! Anh chỉ kêu lên được tiếng đó. Rồi thôi. Anh ngồi như pho tượng đá, nghe chị kể lể, khóc lóc. Có lúc anh nghe rất rõ, có lúc tai anh lùng bùng, trí anh đi đâu, và có lúc anh giật mình như hụt chân, sắp rơi vào vực thẳm. Có lúc anh bật cười khan, có lúc mắt anh rươm rướm lệ, rồi mặt anh hóa đá. Hai đứa con đã vứt ra ngoài biển đông, phó mặc cho dông tố và sự sống chết. Không được sống cũng không được chết, chúng vào tù. Một thân một mình, chị cầu cạnh khắp mọi nơi để con được thả ra. Nghe lời hứa hẹn, vay mượn tiền bạc để chạy vạy. Không xong, còn bị cán bộ lợi dụng làm nhục. Sau đó, hắn, người đàn ông đã nằm trên cái giường của anh ra tay nghĩa hiệp, cứu vớt người phụ nữ bơ vơ. Bỏ tiền chuộc hai đứa 44 | Nhã Ca nhỏ, và bao bọc luôn người mẹ. Chị vẫn lo thăm nuôi anh đều đều, do đứa con lớn mang lên trại tù. Anh còn nói gì được nữa. Hắn cũng đã góp vào những món ăn thăm nuôi mà anh đã nhận, đã ăn. Bữa cơm cho con anh ăn bao nhiêu năm nay, hắn cũng có phần. Anh nhìn chị, thấy chị ốm đi nhiều, mặt mày xanh xao, đôi má ngày xưa mủm mỉm nay đã hóp vào. Chị không cười, nhưng anh cũng biết là chị đã mất mấy cái răng. Chị đã hết thời xuân sắc quá sớm. Nhà dài kiểu hộp, chia được ba phòng và bếp. Chị đã cho một cặp vợ chồng già, con cái đi vượt biên hết trơn thuê một phòng. Họ được sử dụng bếp chung và đi bằng lối cửa bên hông. Căn phòng này nối với bếp, có một phần lộ thiên sáng sủa. Phòng giữa là phòng của anh chị hồi đó. Còn bây giờ, hai đứa nhỏ ở phòng ngoài cùng. Có hai bàn học ọp ẹp, và buổi tối, sau khi mọi người đã đi ngủ, hai đứa mới bày hai cái ghế bố ra để nằm. Bàn thờ tổ tiên cũng biến đi đâu mất, anh còn nhớ trên bàn thờ có bộ lư hương, chân đèn bằng 2. Qua một kiếp khác | 45 đồng từ đời ông cố ông sơ, đến đời anh. Bức ảnh ông sơ ngồi như quan đại thần, được lồng trong tấm khung bằng gỗ mun chạm trỗ mà cha anh rất quý, cũng biến. – Bán hết rồi ba, hồi trước ba mới đi tù, ở nhà chẳng có gì ăn hết trơn… Anh còn biết đi đâu trong những ngày đầu tiên. Thằng cha cũng ý tứ, mấy ngày không về nhà ngủ. Chị thì đi suốt ngày, làm như cố tránh mặt anh. Chị có đi gặp “hắn” không? Gặp ở đâu? Nhiều khi trong đầu anh dấy lên sự thắc mắc. Ban đêm, khi hai cái ghế bố ngã xuống, hai đứa con ép nhau nằm một ghế, trở đầu trở đuôi, anh nằm một ghế. Căn phòng vuông vức, có một cái bàn dùng tiếp khách và làm bàn ăn luôn, hai cái bàn học, và hai cái ghế bố khi bày ra, do sự trăn trở của người nằm, chúng cũng bực dọc hích nhau hà rầm. Còn chị, lúc này thì một mình, nằm ở phòng trong. Anh biết, nhiều đêm chị đã khóc suốt vì sáng ra, hai quầng mắt chị sưng vù, bầm tím. 46 | Nhã Ca Qua chừng một tuần, anh dịu lại. Anh gọi chị, nói nhẹ nhàng, nhưng muốn kêu tiếng em cũng không thể nào thoát cái tiếng đó ra được ngoài cổ họng: – Bà đừng vì tui mà phiền hà cho bà quá. Bà cứ nói với… người ta về nhà mà ngủ. Đừng để tui thành một cục nợ cho hai người. Thằng Út, có vẻ khá nhiều tình cảm với hắn, nói vội: – Phải đó má, chú Tâm không về con cũng nhớ. Ba, Ba, chú Tâm rất thương con, mua quần áo, giày dép sách vở cho con. Chú Tâm còn đưa con vô sở thú coi khỉ nữa. Anh cay đắng. Còn vô sở thú coi gì nữa, trong nhà có hai con khỉ già coi chưa đủ sao. Nhưng nghĩ điều ác trong bụng mà không nói ra lời. Anh cũng cảm thấy vướng víu. Hình như về một mặt nào đó, anh còn phải cám ơn hắn. – Đừng ngó tui vậy. Tui nói thiệt với… bà đó. Bà biểu người ta về đi. Còn không tui dọn ra riêng… 2. Qua một kiếp khác | 47 ….Nói vậy nhưng anh biết điều đó không làm được. Còn cái hộ khẩu. Đã đi trình diện phường, công an phường dặn kỹ, mỗi tháng tới trình diện một lần. Không được đi ra khỏi ngoại ô qua đêm. Nếu sai trái thì cắt luôn tạm trú. – Hay em… hay tui lấy lại cái phòng sau để anh ở tạm. Khi hết hạn quản chế rồi thì… tính. Anh cười chua chát: – Ở đằng sau hay đằng trước cũng trong nhà này. Căn nhà này là… Anh muốn nói căn nhà này là anh mua trước kia. Nhưng anh ngăn lại kịp. Nói như vậy thật không đàn ông chút nào. Anh bị tù đày, chị thân cô thế cố, đáng lẽ đã phải bán căn nhà này lâu lắm rồi, nếu không nhờ hắn… Hồi còn ở trong tù, một bạn tù biết tin vợ ở nhà đã lấy chồng, anh bạn tuyệt vọng muốn chết. Anh khuyên: – Mình phải hiểu cảnh các bà ở ngoài. Mình ở tù là yên phận tù rồi, còn các bà phải đối mặt với 48 | Nhã Ca bao nhiêu điều, mà một mình yếu đuối, đôi khi không chống chỏi nổi… Hoàn cảnh người ta thì anh cảm thông. Còn hoàn cảnh vợ mình? Anh đã nghĩ bao đêm nát óc rồi mà. Nhưng chị nhất định không là không. Anh biết là trong lòng chị vẫn còn thương anh. Nhưng anh không thể ở không trong nhà, không làm gì hết. Mấy ngày anh ăn cầm hơi, nghĩa là không ăn cơm trong nhà. Thằng con đầu tuy chưa tới tuổi trưởng thành, nhưng thương cha, tự ý đi mua bánh mì, xôi, bánh giò: – Tiền riêng của con, con mua cho ba ăn đó. Anh ôm con. Chính anh mới là người bất lực, không bảo vệ được vợ con. Anh mới là người có lỗi. Để chuộc lại, anh làm gì cho chúng đây? Phải đem chúng đi khỏi nơi này, đi thật xa, cho các con làm lại một đời khác, sống một kiếp khác. Sau cùng anh gặp một người bạn cũ. Anh đi tìm một người bạn cũ khác, nhưng không gặp. Lúc ra hẻm thì thấy một người đàn ông gánh hai cái thúng đầy những thứ lỉnh kỉnh, giấy báo, chai 2. Qua một kiếp khác | 49 lọ, bao ni lông, cả mấy cái thau nhôm cũ… Theo anh là một người đàn bà, vừa đi vừa rao: – Ai có bao ni lông, đồ nhôm, giấy báo, quần áo cũ bán… khô…ông? – Bà con cô bác ai có giấy báo, bao ni lông… Anh không nhận ra người đàn ông mà nhận ra người đàn bà. Trước đây là vợ một người bạn cũ khá thân. Anh ta cũng đi học tập. Còn bây giờ, chị đang ra sao đây? – Chị Hồng? Phải chị Hồng không? Người đàn bà chậm bước, có vẻ hơi khựng: – Tui… phải rồi. Sao ông biết tên tui. – Chị Hồng ơi! Thuận đây. Thuận “rằn ri” đây. – Ui cha, mèn ơi! Anh Thuận. Làm sao nhìn ra anh. Người đàn ông vội đặt hai cái thúng xuống, mặt vui mừng nhưng có vẻ trầm tĩnh: – Thì vậy. Còn tui, ông cũng nhìn không ra mà. 50 | Nhã Ca – Thọ. Phải Thọ không? – Thì Thọ, chồng tui. Ông tưởng tui đã bỏ ông Thọ lấy người khác chớ gì. Trời đất, có bỏ chồng thì cũng lấy một thằng cha ngon lành, chớ anh Thuận coi, thằng cha đi học tập về thân tàn ma dại như vậy đó. Chỉ có tui hổng chê ổng thôi. Tim anh thót lại. Hai anh chị đi buôn bán ve chai, chồng gánh vợ rao, coi có cực khổ mà cũng hạnh phúc quá. Còn mình? Anh cố gắng nuốt tiếng thở ra. – Mèn ơi. Đâu có ngờ gặp nhau chớ. Mấy ông đi học tập nhiều ông không về. Vậy đâu phải mình tui hên có lại ông Thọ, mà nhiều bà cũng hên nữa… Ha, từ ngày mấy ổng vô, mỗi nhà tan nát mỗi kiểu, tui chưa hề gặp chị Thuận đó nha… Bả khỏe hôn? Anh lừng khừng: – Ờ… thì cũng… cũng khỏe. – Khỏe là được rồi. Chỉ cần khỏe là hai cái chưn chạy được ra đường kiếm cơm kiếm củi… 2. Qua một kiếp khác | 51 Xời ơi, mình đáng gì, mấy bà tướng bà tá cũng đứng chợ trời, thiếu giống gì! Thuận nhớ ngày xưa, Thọ nói nhiều, hay đùa, nói chuyện tếu, còn Hồng thì lúc nào cũng nghiêm nghị, ít lời, bây giờ đổi ngược lại hết. Lát sau cả ba ngồi một quán cóc uống cà phê. Thấy quán vắng, Thọ thì thầm tâm sự: – Tụi này lo gom đủ tiền cũng tính… Thuận gật đầu. Nói chừng đó đã đủ hiểu hết từ trong tim gan phèo phổi của bạn. Thuận cũng kể hoàn cảnh của mình cho bạn nghe. Thân nhau từ ngày còn nhỏ. Lúc Thọ lấy vợ, Thuận cũng hết lòng lo đám cưới cho bạn. Thọ lắc đầu, còn Hồng thì nước mắt rơm rớm: – Mèn ơi! Vậy thì khổ quá, chịu gì nổi. Nếu là tui… Thọ nhăn mặt: – Mỗi người một hoàn cảnh, em đừng có… nhiều chiện. Bây giờ phải nghĩ cho anh Thuận một cách gì để kiếm tiền… 52 | Nhã Ca Chị Hồng: – Rồi. Tui nghĩ ra. Đã nói chiện gì ông cũng chậm hơn tui mà, nhất là từ ngày đi cải tạo về, cứ làm như tiên ông bị lạc xuống núi đó anh Thuận. Tui nghĩ vậy nè, ở nhà tui còn dư cái cân cũ, tui cho anh. Sau đó, sắm gánh gióng, anh cũng làm nghề ve chai. Ý cha, lóng này người ta mua đồ sắt đồ đồng nhiều lắm nha, mảnh vụn, ve chai đang trúng mối. Không đợi cho Thuận suy nghĩ mông lung, Hồng quyết định: – Vậy đi. Trưa mai, tụi mình cũng hẹn nhau tại đây. Được rồi, tui mua luôn cho anh gióng thúng, đòn gánh, đưa anh cái cân luôn… Anh định nói gì? Hổng được. Mình giúp nhau, có qua có lợi mà, hồi… anh cũng giúp anh Thọ nhiều rồi, nghe anh kể… – Hồi trước khác, bây giờ khác… – Khác là khác với ai kìa, chứ người mình thương nhau hổng hết. Anh Thuận à, khi nào ngặt quá anh cứ tới nhà tụi này… 2. Qua một kiếp khác | 53 Chị lại ngừng. Thời buổi này ai dám chứa ai. Nửa đêm, gần sáng, ban trưa, giữa chiều, đập cửa ầm ĩ: Kiểm tra hộ khẩu. Chứa chấp người không có tên trong hộ khẩu, người đó khổ đã đành, mà mình cũng “hậu khổ” luôn. Chị Hồng nói trớ đi: – … Tới tụi này… ăn cơm. Thấy Thuận có vẻ ngượng nghịu, khó xử. Thọ nói: – Bà nói ít chút được hôn? Anh Thuận, tụi này có chút dư, ra vốn cho anh mượn rồi sau này anh trả lại, mất mát đi đâu mà lo. Thuận cắn môi: – Vậy cũng được. Anh cũng đã thấy có một con đường mới, dù con đường nhỏ xíu, đầy đá, lồi lõm, hố sâu, tối om om. Nhưng còn có một con đường, chứ như bây giờ, anh hoàn toàn rơi hút trong vực thẳm. 54 | Nhã Ca Trưa hôm sau, Thuận có quang có gánh và bắt đầu hành nghề. Thọ đưa cho Thuận một số vốn nhỏ để mua hàng. Chiều tối Thuận ghé nhà Thọ đổ hàng, rồi vợ Thọ sẽ gom chung lại với hàng đã mua đem tới vựa bán lấy tiền. Mấy ngày đầu đi rục cả chân mà Thuận không mua được bao nhiêu vì anh không biết rao, cất tiếng lên thì ngượng nghịu. Nhiều lúc buổi trưa, ba người cũng gặp nhau nghỉ chân ở quán cóc, nghe anh kể về sự vụng về của mình, chị Hồng cười: – Bị anh hiền quá mà. Cứ bị mấy con mẹ ve chai giựt mối chớ gì. Gặp tui là “xui tận mạng” đó nha. Thọ cười mỉm, lắc đầu: – Lóng này bả chửi hay lắm đó. Thuận thấy thương chị Hồng quá. Mới đây là một người đàn bà đằm thắm, không biết một tiếng nói giỡn, nói đùa, con nhà nề nếp, vậy mà trong cuộc đổi đời đã biến chị thành một con người khác hẳn. 2. Qua một kiếp khác | 55 Một thời gian Thuận quen dần, bạo dạn hơn. Anh đã thay đổi lối rao mua hàng. Anh thường đi vô sâu trong các hẻm, ngõ ngách và khi nhớ tới bộ lư hương, chân đèn nhà anh cũng gửi vô đám ve chai, anh cay đắng rao: – Ai có lư hương, nhang đèn, bàn thờ ông bà ông vải… bán hôn? Mới nghe thì hỗn. Nhưng thấm lắm. Dân nghèo trong hẻm nhìn anh cười thiện cảm. Mấy ông già đi ngang vỗ vai anh, kéo anh vào nhà mời uống nước. Uống nước xong thì lục lọi giấy báo, bao ni lông, còn nói: – Chỉ còn chừng đó thôi. Bàn thờ ông bà ông vải bán lâu rồi! Một hôm anh đang rao: – Bà con cô bác ơi! Ai có lư hương, nhang đèn, bàn thờ ông bà ông vải… bán… Thì một bàn tay đập vào vai anh. Anh quay lại đụng ngay bộ quần áo vàng của công an. Hắn đang cưỡi xe đạp và làm như rà rà theo anh lâu 56 | Nhã Ca rồi. Anh dừng lại, xe đạp cũng dừng, nhưng hắn ngồi trên xe đạp. – Giấy tờ? Mặt gườm gườm như sắp giết người, giọng dấm dẳng, khó nghe. Hắn cầm tờ lịnh tha, lật ngược lật xuôi coi một hồi làm như sợ giấy giả. – Còn quản chế sao “nại” dám bán buôn? Tội đáng đi tù cải tạo “nại”. Thọ và Hồng đã chỉ cách cho anh. Mời điếu thuốc, dấm dúi ít tiền. Tên công an trả tờ lịnh tha. Không nói là anh trái luật gì cả, vì nếu không có bọn buôn bán ve chai, làm trái luật thì chúng tiền đâu mà vơ vét! – Thôi đi đi. Chờ hắn đi khuất, anh lại cất tiếng rao lanh lảnh: – Ai có bàn thờ, khung ảnh ông bà ông vải bán không... ? 2. Qua một kiếp khác | 57 Rồi anh bật cười khan, hơi hạ giọng nhỏ xuống một chút: – Ông bà ông vải bán không? Một ông cụ già, giữa trưa mà bắt cái ghế ngồi phơi nắng trước nhà, ở trần, chỉ có cái quần đùi vải thâm, nghe anh rao thì gọi: – Có, còn cái bát nhang mua không? Anh gật đầu. Ông lão mang cái bát nhang bằng đồng ra. Anh giật mình, sao giống cái bát nhang của cha anh để lên bàn thờ trước đây y chang vậy! – Bao nhiêu, cụ? – Chẳng biết tính giá bao nhiêu nữa. Hồi thằng con tui đi cải tạo về, bịnh chết. Rồi… – Rồi sao, cụ? – Thì chết ngắt. Thiệt là sấp ngửa, hổng có tiền mua áo quan, bó chiếu đem thiêu. Lấy chút tro bụi bỏ vô cái hũ kia kìa… 58 | Nhã Ca Thuận nhìn lên cái bàn ghép bằng bốn cái chưn gỗ và một miếng ván, ọp ẹp, chắc có cả ngàn con mối đục ở bên trong. Hủ gì đâu? Là một cái lon guy gô cũ mèm. Một cái đĩa nhựa để ba thì mười họa có một trái quả gì đó. – Bữa đám ma hàng xóm tới coi… hổng phải coi đám rình rang có thằng thổi kèn tí toe mấy bài giựt xương sống đâu nghen. Mà coi cái… nghèo, cái thảm, cái đói. Rồi con mụ làm nghề ve chai trong xóm đem cho cái bát nhang này, nói là đồ xưa. Đồ xưa sao đem cho. Chớ hôn, tui cũng cân kí lô bán với đồng vụn, sắt vụn, thời buổi này, có cục vàng đổi lon gạo cũng không có, bo bo hôn à, báu gì. Tiên sư nhà…tui! Thì chửi vậy. Chớ tiên sư nhà nó là có một thằng lòi mặt ra, hăm dọa thưa phường xóm cũng khổ hết biết. Là thành ngụy, phản động liền. Ông cụ với tay đóng cửa lại, cho ăn chắc. Nhưng ăn chắc gì chớ. Bụi tre có lỗ tai nghe. Thằng hàng xóm để lỗ tai trong vách tường báo cáo lấy điểm. Thuận lớn giọng: 2. Qua một kiếp khác | 59 – Cụ bán nhiêu, tui mua. Một giá rẻ mạt. Lúc đầu mới nghe, Thuận mừng thấp thỏm, nhưng chỉ vài giây sau, thấy trong lòng có chút ân hận, mình đã mừng vì mua giá rẻ đối với một người nghèo khổ, tuy không ép, nhưng thấy không ổn tí nào. – Tui bán đi để lâu lâu mua cái quả, miếng xôi cúng nó. Chớ đã không mua được nhang thắp thì để cái lư hương làm gì cho chật chỗ. Ông cụ nói lạ kỳ không. Bàn thờ rỗng hoách. Quên chưa nói tới cái khung ảnh nhỏ xíu, trong lồng hình một cậu bé chừng mười ba tuổi. Thuận hỏi: – Sao cậu ấy nhỏ con quá vậy? Có phải cậu ấy không? – Là nó. Đâu có cái hình nào lúc nó lớn lên đâu. Từ lúc bả chết, tui cho hai vợ chồng đứa cháu về ở chung, chúng nó cũng nghèo mạt rệp. Thấy miếng giấy vụn nào là vơ vét đem bán, riết trong nhà còn tờ giấy gì đâu. Những tấm ảnh chúng nó lồng vào giữa giấy báo để cân cho thêm 60 | Nhã Ca kí lô. Tìm lòi con mắt, được có tấm đó… Chiện là vậy. Thuận trả tiền, còn boa cho ông cụ chút đỉnh. Ông cụ trợn mắt, làm như Thuận là người ở trên trời hay dưới âm phủ lên, còn lũ nghèo đói nhân gian đâu có ai xài sang vậy. Để gói cẩn thận cái lư hương anh phải hy sinh một tờ giấy báo. Lúc về tới nhà, anh lại cẩn thận kiếm mớ giẻ rách quấn quanh, rồi bọc báo quấn lại. May mà cái lư hương hơn cỡ cái chén ăn cơm, anh còn có thể giữ được. Đêm, nằm ngủ trên ghế bố, để cái lư hương gói kín phía một bên đầu, anh cảm thấy như còn chút gần gũi với tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Ai ngờ, vì cứ đi rao mua “đồ đồng, lư hương, khung ảnh, bàn thờ ông bà ông vải” , mà anh kiếm gặp được vật kỷ niệm thờ cúng của gia đình từ thời ông cố ông sơ. Không biết có phải các cụ cảm kích, thương 2. Qua một kiếp khác | 61 tình không, mà từ ngày đó anh ăn nên làm ra. Rồi một hôm, hai vợ chồng Thọ rủ anh đóng “cây” đi vượt biên. Số tiền dành dụm chỉ vừa đủ cho một chỗ. Anh rứt áo ra đi, để hai đứa con lại. o O o Tổ tiên phù hộ. Anh tới nơi an toàn. Được vào Mỹ. Anh ôn lại Anh ngữ mấy tháng rồi xin việc làm. Bất kể việc gì anh cũng làm, hai job, ba job, lãnh việc về nhà làm thêm ban đêm. Các con của anh ở Việt Nam đã có thùng quà. Anh thi quốc tịch và bảo lãnh cho hai đứa con sang ở với anh. Thọ và Hồng cũng đã có một cửa hàng. Họ vẫn thăm gặp nhau. Lúc Thuận mua được căn nhà ở khu Garden Grove, mời Thọ Hồng tới ăn cơm. Hồng thấy cái cân đi buôn mua ve chai của chị cho Thuận bày trang trọng trong tủ kính. Bên trên tủ kính là bàn thờ, tất cả đều chưng bày những đồ đẹp, từ bộ lư hương, chân đèn bằng bạc, tới đèn hoa sen bằng điện chiếu đủ màu, có 62 | Nhã Ca một cái bát nhang bằng đồng cũ mèm. Bát nhang đầy cứng chưn hương. Hồng hỏi: – Tất cả đồ đẹp, mới, sao anh không thay cái lư hương cũ đó đi. Nó nằm ở giữa những thứ đó trông không hợp. Thuận cười: – Nhưng nó hợp với tôi. Cám ơn anh chị đã truyền nghề ve chai cho tôi. Nhờ đó mà tôi tìm được một vật của tổ tiên tôi đã thất lạc. Đứa con nói theo: – Cô Hồng à. Có bữa, ba còn thắp nhang lạy lạy cái đó nữa kìa. Nó thấy ghê… – Cái gì? – Thì nó. Nó ở trong tủ. Nó là cái cân. Thằng bé chưa khi nào thấy hoặc nghe ba nó rao hàng đi mua đồ cúng bái, kể cả bàn thờ ông bà ông vải. o O o 2. Qua một kiếp khác | 63 Vậy mà Thuận đã ở Mỹ được mười lăm năm. Như đã đi qua một kiếp người khác. Hai đứa con, bây giờ là tên Mỹ, Kevin và John. Hồi trước, anh thường gọi hai thằng là cu Anh và cu Em. Lúc đầu chị nghe thấy chướng tai, ngượng lắm, nhưng riết rồi hai vợ chồng thấy hai cái tên dễ thương, đậm đà như tình yêu của anh chị. Thời gian này, Thọ và Hồng tới thăm hai đứa nhỏ đều đặn lắm. Anh cảm kích hai vợ chồng bạn rất nhiều. Hai đứa con thiếu tình mẫu tử đã dựa vào cô Hồng. Thì gà trống nuôi con mà! Anh lại vụng về, còn nghiêm khắc. Hai đứa nhỏ chưa bao giờ dám làm phật lòng anh. Thời gian gần Tết, Thọ tới chở Thuận ra quán cà phê. Lâu lâu Thuận và Thọ đều thích vậy, ngồi nhâm nhi cà phê, ăn bánh ngọt, có thì giờ để nhắc lại không biết bao nhiêu chuyện đời trước ở Việt Nam. Hôm nay, hình như Thọ có điều gì muốn nói, nên khi Thuận nói phải về thì Thọ giữ lại. Thuận ngạc nhiên: 64 | Nhã Ca – Giờ này ông chưa về đón mấy đứa nhỏ? – Bả lo rồi. Bữa nay tôi có chút chuyện nói với anh… – Chuyện gì? Sao bí mật quá vậy? Thọ cười, đưa cho Thuận thêm điếu thuốc: – Hỏi thiệt nghe, có khi nào cậu còn nhớ tới người vợ ở bên kia không? – Có? Không? Nhiều phần là có. Nhưng chuyện đời trước, kiếp trước qua rồi. Không muốn nhớ, không muốn nhắc. – Chị ấy rất tội. – Thì tôi có oán trách gì đâu! Nghĩ cho cùng thì mỗi người có một số mạng… Bà ấy… đã nói thôi không nhắc là không nhắc. – Trước đây vợ chồng tôi cũng đồng ý là không nhắc lại với anh, nhưng bây giờ đến lúc phải nhắc. Thuận ngạc nhiên: 2. Qua một kiếp khác | 65 – Tại làm sao? Thọ kể, vợ anh đã vượt biên, đến đảo. Thằng Kevin được tin, sợ anh không dám nói nhưng có cầu cứu vợ chồng tôi. Tôi có chỉ vẽ cho nó gửi thư qua đảo, làm giấy bảo lãnh và hiện nay. Thọ nhìn Thuận như dò phản ứng, rồi nói nhanh: – Bả đang ở Mỹ. Thuận thấy chới với. Cái đầu như ngất đi một giây rồi tỉnh lại, yếu đuối, bàng hoàng. Thọ tiếp: – Anh đừng xúc động. Vợ chồng tôi có lỗi là đã giúp các cháu mà giấu anh. Nhưng anh hãy nghe tôi giải thích. Thọ nói. Người chồng sau của vợ anh đã chết sau một thời gian ngắn khi hai đứa con anh qua Mỹ. Cái chết có nhiều khả nghi, người thì nói tự tử, người thì nói bị ám sát. Ông ta có làm ăn, móc ngoặc, có ân oán giang hồ, và cái chết của ông là rớt từ trên lầu cao xuống. Vợ anh đi vượt biên, đến đảo, liên lạc với thằng con lớn, và với sự giúp 66 | Nhã Ca đỡ của vợ chồng Thọ, đã tới Mỹ từ ba tháng nay. Tôi có nói với chị là liên lạc với anh, nhưng chị nói thôi, thôi. Chúng tôi đã hết rồi. Lỗi về phần tôi. Chị ấy bây giờ sống tội lắm, không đi đâu, không giao thiệp với ai. Chị chỉ đi chùa, chùa nào cũng đi… Gần năm mấy nay rồi! Lòng anh có mềm đi. Hèn chi hai thằng con, mùa lễ Giáng Sinh vừa qua, nhất định xin đi Florida ăn lễ do gia đình người bạn mời. Chúng nó đã đi gặp mẹ mà giấu anh. – Tụi con đi chơi trước để Tết ở nhà với ba. Ha, thì ra anh là một thằng khờ, hết vợ gạt, con gạt rồi bạn gạt. Nhưng anh cũng không có lý do gì để trách Thọ. Anh trở về nhà. Lúc lái xe qua phố, anh thấy đã có một vài chỗ bày bán hoa. Tết cứ từ từ mà tới, anh không biết vì lòng anh đã không có Tết từ lâu rồi. Nhưng hôm nay sao trong lòng anh là lạ, như có cái gì mới mẻ len lén nhen nhúm trong anh. Anh bước vào nhà, hai đứa con trai, đã tự lo xong bữa ăn chiều. Ba cha con ngồi ăn cơm. Kevin nói: 2. Qua một kiếp khác | 67 – Ba à. Con muốn sơn lại nhà cửa. Anh cao hứng: – Rồi mua cây chưng trong nhà, mua hoa trồng trước sân. Ừ, mình phải sửa sang nhà cho đẹp. Hai đứa con ngó nhau như thầm hỏi chiện gì đây? – Và ba có chuyện nói với con. – Ba, ba nói đi. – Ba báo cho con một tin vui. Ba sẽ đem về cho con một bà mẹ… mới toanh. Hai đứa lại ngó nhau. Kevin hầm hầm: – Không được đâu ba. Thằng em: – Lấy vợ thì ba dọn đi nhà khác. Chúng con không ở với ba. Tự nhiên anh vọt miệng: 68 | Nhã Ca – Sao hồi đó má bây lấy người khác, tụi bây không bỏ đi ở chỗ khác? Kevin đã lớn rồi, đủ lý lẽ để bào chữa cho mẹ: – Ba à, hồi đó khác. Hồi đó, má con vì hai đứa con. Má con có thể chết, có thể cắt thịt cho con ăn, nhằm nhò gì chuyện có một người đàn ông để giữ ba mạng người. Ôi thằng con. Nó đã lớn. Lớn hơn cả anh nữa. Kevin tiếp: – Tụi con thán phục ba vì cách ba cư xử tốt đẹp với má, chớ không… – Chớ không thì sao? – Tụi con ở lại cùng chịu khổ với má. Anh đặt bát cơm đang cầm trên tay xuống bàn, nghiêm trang nói: – Hai con nghe đây. Ba đã nhất quyết rồi. Ba không thể ở một mình mãi, ba già rồi… – Già rồi mà còn ham lấy vợ. Sao không cưới vợ cho con đi. 2. Qua một kiếp khác | 69 – Con cũng phải cưới vợ. Nhưng ba muốn con có một người mẹ… – Con không muốn một người mẹ nào khác ngoài má con. Anh cười, nhìn con âu yếm: – Thì bởi vậy nên ba sẽ đón... đón ai tụi con biết không? Hai cái mặt lại ngơ ngác, anh nói mau: – Đón má con. Má ruột của tụi con. Mặt hai đứa tái ngắt. Đứa này nhìn đứa kia, há hốc miệng. – Ba biết hết rồi, sao tụi con giấu ba? – Con… con… Thằng lớn nghẹn lời. Anh nhìn hai đứa con bằng con mắt dịu dàng, thương yêu, giống cái nhìn lần đầu tiên với chị, trong ngày cưới. – Ba mới biết đây. Các con hư lắm. Má con sang đã gần năm mà vẫn giấu ba… – Ba, ba, tha lỗi cho chúng con. 70 | Nhã Ca – Chúng con không có lỗi. Chỉ có lỗi giấu ba thôi. – Ông ấy đã chết. Má con ở một mình. – Ba biết. Đưa cho ba số điện thoại. Tối nay ba gọi má con. Ngày mai mình sửa nhà, trồng cây, ăn Tết lớn. – Ô Ba. Thiệt há Ba. Thiệt hôn Ba? Hai đứa con bỏ ghế đứng dậy ào qua phía anh, ôm chặt lấy anh. Hai đứa con bật khóc. Anh cũng khóc. Ba cha con ôm nhau khóc vùi. Bao nhiêu năm trái tim anh ngủ miết, bây giờ mới hồi sinh thức dậy… Trước khi gọi điện thoại cho chị, anh chải đầu, soi gương. Anh mở cửa sổ, thấy như có chút gió xuân lùa trên mớ tóc bạc của anh. Anh cầm điện thoại lên. Bên kia đầu giây chuông reo, có người nhấc máy. 2. Qua một kiếp khác | 71 – Alo. Alo, anh đây. Anh đây. Thuận chẳng nghe gì ngoài tiếng khóc. 72 | Nhã Ca 3. Con Bần | 73 Con Bần Trời mùa đông ở Huế, lạnh cắt da thịt mà con Mận phải dậy từ ba giờ sáng. Bà chủ là cái đồng hồ tốt nhất. Nếu có bữa nào Mận ngủ quên thì cứ đúng giờ bà chủ tỉnh dậy, gọi: – Con Bần dậy chưa, dậy xắt chuối cho heo ăn. Bần là tên cúng cơm của cha mẹ đặt cho. Nhưng Mận không hề biết cha mẹ mình là ai. Ông chủ nghe cái tên Bần, kỵ, sợ có cái nghèo trong nhà, nên mới sửa lại tên Mận. Bà chủ quen miệng, cứ gọi là con Bần. Tên Mận ngọt ngào thanh lịch đâu có hợp cho một con ở đợ. Đâu chỉ có xắt chuối không thôi. Nấu cơm bằng củi ướt, thổi, khói xông hai con mắt đỏ lòm, 74 | Nhã Ca sưng húp, nước mắt chảy ràn rụa. Hồi còn nhỏ, hai con mắt Mận luôn luôn có hai cục ghèn. Cậu chủ sợ lắm, hễ con Bần bưng cơm vô phòng học cho cậu là cậu gớm, không chịu ăn. Bà chủ lại chửi: – Con quỷ, mi bưng cơm vô cho cậu chủ thì phải rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, nghe chưa. Xòe bàn tay coi. Con Bần xòe tay, lúc nào cũng bị gõ mấy cây thước đau điếng. – Đồ nhớp nhúa. Nấu cơm hay cháo bữa sáng, xong rồi, tay nách một cái thau, đầu dội một cái thau nữa đựng quần áo dơ đi xuống sông giặt. Mùa đông khổ hết biết, nước lạnh băng, xà phòng không có, giặt bằng trái mù u. Xát bọt mù u với cục đá lên quần áo, chà mòn nhám cả tay. Chưa kể mỗi ngày phải cầm cái búa bửa củi, rồi chẻ củi thành từng thanh nhỏ. Và để tiết kiệm, con Bần còn phải cầm cái cào đi cào lá khô đem về nấu nướng, bởi vậy, hai bàn tay của con Bần sần sùi, lúc nào cũng có vết 3. Con Bần | 75 đứt, trầy trụa, có khi mưng mủ, cả đêm đau nhức không ngủ được. Hai con mắt nó gần như bị bét nhèm, vì thổi ống khói cho củi cháy lên, nhất là mùa đông, lá cây, củi mục gì cũng ẩm ướt, hai con mắt nó bị um khói chín nhừ. Mặt con bé buồn lắm, duy nhứt có đôi mắt tròn xoe, đen nhánh và cái mũi cao, kín đáo. Có lần, một ông thầy tướng tới coi cho cậu chủ, con Bần pha nước hầu, ông thầy ngó nó: – Con ni thiếu niên tân khổ nhưng qua tuổi ba mươi, nó đổi vận hạn, giàu có lắm chớ không phải chơi mô. Bà chủ cười nhạt, không tin. Cái thứ dân bần tiện này, nếu bà không nuôi, có đi ăn mày, ăn cắp mà sống, đôi khi cũng chết tấp trong bờ bụi, ruồi kiến bu rồi. Con Bần thuộc lòng câu nói của ông thầy tướng để an ủi mỗi khi làm lụng cực quá hay bị mắng chửi, ăn đòn. Từ nhỏ tới lớn, con bé ăn đòn đếm không hết số. Và mỗi lần bà chủ giận là người mẹ của Bần bị đem ra biêu riếu. Theo lời 76 | Nhã Ca bà chủ thì Bần là con hoang, mẹ gánh nước thuê, không biết nhẹ dạ với ai mà có mang. Đẻ con ra nhưng nuôi không nổi, gặp năm đói đã bỏ con nhỏ đầu làng, trốn đi. Con nhỏ bị kiến bu, người tím bầm. Ông chủ thương tình đem về nuôi, và bà chủ huấn luyện thành con ở. – Cái thứ đó rồi cũng y như con mạ nó, đoản hậu rứa thế! Ăn toàn canh thừa cá cặn, lại ăn không đủ, mặc không ấm, năm mười sáu tuổi con Bần cũng lớn lên được, nhưng gầy nhom, nhìn thấy cả bộ xương. Có điều, không biết ai gây giống mà con Bần có cặp mắt đẹp quá, đen láy, hễ giương mắt nhìn ai là người đó không thể ngoảnh mặt làm ngơ, trừ bà chủ lòng dạ sắt đá. Bạn bè của cậu chủ tới chơi, thấy con Bần ngộ quá, cũng tấm tắc: – Coi con ở nhà mi ưa mắt lắm nghe. Con mắt nó đẹp quá. Cậu chủ làm nghiêm: – Nó là con ở, tụi bây đừng bắt thang cho nó leo. 3. Con Bần | 77 – Làm ra vẻ ông cụ há. Thôi mi ơi, đã nói trong nhà gì đẹp bằng sen… Con Bần ra đằng sau nhà, có cái lu nước mưa, cúi xuống soi mặt. Trong lu nước, cặp mắt nó nhìn lại nó và nó cười. Có cả áng mây từ trên trời in trong đáy lu nước nữa. Nó đưa tay vọc, mắt nó tan, mây tan. Nó đứng sững, muốn soi mặt mình lại lần nữa cũng không được. Nó thương đôi mắt nó lắm, ai đã cho nó hai con mắt đó vậy? Nghe nói lúc xưa, Bần có người mạ, bỏ con mà đi. Bần đã một lần trốn nhà, muốn tìm mạ. Đi suốt mấy ngày qua làng bên, đói quá phải bò về, để lãnh đòn thí chết. Sau lần đó, gia đình chủ dọn lên thành phố, vì cậu chủ phải ăn học. Bần không còn hy vọng tìm ra mạ mình nữa. Gia đình chủ chỉ có một cậu con trai. Năm đó cậu thi đỗ tú tài, nhà rấp rem muốn cưới vợ cho cậu. Ông bà chủ có một người bạn quen biết đâu hồi mới lên thành phố làm ăn mua bán, thường tới lui thăm viếng, coi bộ hạp ý hạp tình lắm. Nhà này có tới bốn chị em gái, nghe nói cô nào cũng giỏi giang. Vậy là hai nhà đi lại, sắp làm thông 78 | Nhã Ca gia với nhau. Con Bần nghe chuyện, tò mò lắm, muốn biết mặt đứa con gái may mắn đó là ai. Khi gặp, nó thất vọng, vì cô gái đó không nhan sắc mặn mà, chỉ vì con nhà giàu có. Lên thành phố ở, ông chủ bà chủ mải mê chuyện làm ăn. Họ có một cửa hàng ở trên phố mà nhà thì ở Vỹ Dạ. Cậu chủ đi học bằng xe đạp, và mỗi lần trời mưa, dẫn xe về, cậu chủ đều bảo con Bần: – Bần, xe tao nhớp quá, mày rửa sạch cho tao. Con Bần chùi rửa chiếc xe láng cóng. Cậu chủ thích lắm, tập cho con Bần biết đi xe đạp. Đạp chiếc xe đạp con Bần sướng rơn, coi sang trọng quá, đâu phải giống như con ở nữa. Nhưng biết đi xe đạp rồi, cậu Thanh sai suốt ngày, đi mua thuốc lá, đi bỏ thư, đi trả sách nhà bạn cậu. Lúc này nhà vắng người, cậu chủ muốn nói chuyện cũng chỉ nói chuyện với con Bần. Riết, có chuyện gì khẩn cấp cậu cững nhờ Bần. Bữa nọ, cậu Thanh biểu: – Bần, mi đưa cái thư tới nhà cô Trâm giùm tao chút được không? 3. Con Bần | 79 Con Bần được ra khỏi nhà là mừng rồi. Nó hăng hái: – Dạ được, cậu. – Mi đừng vô nhà, nhà đó có chó dữ lắm. Mi đứng đầu đường, chờ lúc cô nớ đi học, mi đưa thư là được. – Tui nói mần răng. – Nói của cậu Thanh là không có chuyện chi hết. Vậy ra, cậu Thanh vợ đã đi hỏi mà còn trai gái. Mấy lần như vậy rồi, họ hẹn hò gặp nhau. Con Bần cũng lấy làm vui vì chứng kiến hai người, người nào cũng đẹp, xứng đôi vừa lứa lắm. Cậu chủ, bớt coi rẻ rúng con ở, vì lúc này, Bần cũng trổ mã, đẹp ra, mặc dù thân hình gầy nhom, nhưng cặp mắt đẹp lạ lùng. Cô Trâm còn phải khen. – Con ở nhà anh có cặp mắt đẹp quá. Coi chừng anh… Cô cười rúc rích. Thanh nghiêm mặt: 80 | Nhã Ca – Đẹp cũng là con ở. Em nói chi lạ rứa! Lại “trong nhà gì đẹp bằng sen”, cô Trâm nhắc và cười khúc khích. Bữa đó con Bần tủi thân lắm. Nó khóc một đêm sưng cả mắt. Sáng ra, cậu chủ nhăn mặt: – Coi tề. Mi cứ ở nhớp nhúa, coi, hai cục ghèn dính nơi mắt tề… Con Bần đưa vạt áo lau. Nước mắt nó lại muốn trào ra. Nó buồn cả tháng không hết. Chuyện của cậu chủ, dù kín đáo đến mấy cũng có lúc hở ra. Ba má cô Trâm tới tận nhà nói chuyện với ông bà chủ. Vậy là cậu chủ thất tình, những lúc không có ai, cậu chủ say mèm. Con Bần thương cậu chủ quá mà không biết làm sao cho cậu chủ bớt buồn. Nhiều bữa, thấy cậu ngồi trong phòng, nó gõ cửa. Cậu không mở mà còn đuổi đi. Cho tới chỉ còn một tháng nữa là đám cưới, cậu nhờ con Bần đi đưa thư nhưng con Bần không gặp được cô Trâm. Bữa đó, cậu uống rượu say mềm người. Nhà lại vắng, con Bần phải pha nước chanh đem vô cho cậu chủ.