🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook O Xưa
 Ebooks
Nhóm Zalo
O Xưa 
nhã ca
O Xưa 
nhã ca 
bìa: NXB Hải Ngoại trình bày: Anywhere nguồn: internet
O Xưa 
tập truyện 
nhã ca
MỤC LỤC 
1. Thuận An năm Ất Dậu 9 2. Qua một kiếp khác 37 3. Con Bần 73 4. Nụ Hồng 121 5. Liêu trai Huế 151 6. Thương chùm hoa khế 191 7. Con ngựa Thượng Tứ 225 8. Chiều Bolsa cuối năm 267 9. Chàng Mùi 299 10. Rắn hồng 327 11. Của nợ 371 12. Bà Bắc vào Nam kiếm chồng 417 13. O Xưa 477
8 | Nhã Ca  
1. Thuận An năm Ất Dậu | 9 
Thuận An năm Ất Dậu 
Năm Ất Dậu 1945 tôi chỉ mới bảy tuổi. Lúc  
đó, ba tôi làm việc trong ngành Công  Chánh tại Thuận An. Ông là trắc địa viên, vẽ, đo  đạc đường sá. Lúc về sở công chánh Thuận An,  ông có thêm việc đo mực nước biển hay các đập  xây bằng đá để điều chỉnh nguồn nước cho cả hai  làng Thái Dương Thượng và Thái Dương Hạ. 
Công việc ba tôi ra sao không rõ, chỉ biết gia  đình tôi được cấp cho một ngôi nhà riêng trong  khu vực Trấn Hải Đài. Đây là một khu thành  lũy trên đồi cao, trước mặt là phá Tam Giang,  sau lưng là nơi tận cùng của giòng sông tràn ra  thành cái vịnh lớn có hình dạng như tên gọi là  vịnh Khoanh Tay. Qua khúc sông cụt này là bãi  cát, rừng dương, con đê và biển. 
10 | Nhã Ca 
Ngày xưa Trấn Hải Đài là nơi quân triều  đình trấn thủ cửa biển. Đây cũng là nơi sử sách  có ghi vào năm Quí Mùi, 1883, tướng Pháp Cour bet và toàn quyền Harman đưa tàu chiến đánh vào Thuận An. Trấn Hải Đài thất thủ, quan trấn  thành Lê Sỹ tử trận, đưa tới việc cả nước Việt  Nam phải chịu sự bảo hộ của Pháp.  
Đời sống ở làng Thái Dương Hạ thời trước  yên ổn, bình lặng thế nào tôi hoàn toàn không  nhớ. Chỉ mơ mơ hồ hồ trong ký ức một con bé  gầy gò ốm yếu, cả ngày tha thẩn trong khu đồi  rộng, dám leo lên cửa thành, chui ra khỏi hai  cánh cổng sắt lớn, buộc lỏng lẻo một sợi dây xích  to tướng. Hôm nào sợi dây xích nới không đủ để  chui, con bé đi lối sau đồi, khom người bò qua  một lỗ hổng nhỏ, đeo những sợi dây của cây  thuồng luồng mọc từ đầu tường thành, thả xuống  tận dưới đáy lũy sâu, rồi lại leo lên ở đầu tường  bên kia, ra ngoài được. Đôi chân nhỏ xíu của con  bé phải chạy thật nhanh, đạp trên những đám cỏ  khô cho đỡ rát chân, vì cát ban ngày bị mặt trời  hun nóng như lửa. 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 11 
Qua bãi cát, rồi qua rừng dương, qua hồ cá  mặt trăng. Gọi là hồ cá mặt trăng vì những cái hồ  nhỏ nằm khuất giữa rừng dương, mặt nước dày  đặc lá dương liễu khô rụng xuống che mát cho  đàn cá mặt trăng. Cá nhỏ li ti, màu trắng trong  trong, hai mắt như hai điểm tăm đen. Gọi là cá  mặt trăng, vì ban đêm, lúc có ánh trăng chan hòa  trên cành lá liễu thì đàn cá ngoi lên mặt nước  đớp trăng. Qua rừng dương, qua con đập bằng  đá xây cao ngăn nước chạy dài không biết tới  đâu, lại phải nhảy nhót đặt cho đúng chân lên  những mảng cỏ hay lá khô tránh cát nóng, trước  khi sung sướng dẫm hai bàn chân xuống nước  biển.  
Nhưng bỗng thú vui duy nhứt của con bé bị  cấm.  
Quân lính Nhật chẳng biết từ đâu tràn vào  Thuận An, đóng quân ngay trong Trấn Hải Đài. Những cái lỗ đá vỡ ở cửa thành sau bị bít lại và  sợi dây xích phía trước buộc khít khao hơn.  
Ba tôi vẫn tiếp tục công việc cũ của Sở Công  Chánh, lúc đó do người Nhật nắm giữ. Gia đình 
12 | Nhã Ca 
tôi vẫn tiếp tục ở trong đài (“đài” là tiếng tắt dân  làng gọi Trấn Hải Đài) bên cạnh một binh đội  Nhật. Lúc đầu, cứ chiều chiều là má đưa tôi ra  ngoài nhà cậu mợ để ngủ, sáng hôm sau lại trở  vào. Về sau, khi Ba tôi đã học nói được ít tiếng  Nhật, rồi giúp thêm việc thông dịch giữa người  Nhật với dân làng, má tôi mới bớt sợ, chiều chiều  khỏi phải đi lánh thân nữa.  
Từ đó, con bé đêm đêm thường nghe thấy  ba má thì thầm… Chuyện ở đâu đó, trên cái đầu  của nước Việt Nam, nạn đói đang xảy ra, nhiều  người chết vì không cơm ăn. Hết thời quan Tây  rồi. Quân Nhật đã nắm mọi quyền hành. Ngay  tại Thuận An, thuyền bè bị trưng dụng, trai làng  Thượng làng Hạ bị quân Nhật lùa đi lao dịch. Đã có nhiều vụ bắt bớ, nhiều người bị bắn chết.  
Một đêm, con bé bỗng nghe má hỏi ba:  – Trong cái hầm dê đó đang giam mấy người?  – Sáu bảy người gì đó.  
– Có đàn bà không? 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 13 
– Không. Người đàn bà…  
 Má tôi hỏi dồn:  
– Nhốt ở đâu? Há, ông nói đi.  
– Thôi, bà biết làm gì cho mệt. Chuyện đó không phải chuyện của mình, bà đừng xía vô mà  mang họa…  
Ba tôi dặn thêm:  
– Bà đừng tưởng thấy tụi nó tử tế mà mắc  mưu. Tại tui làm thông ngôn cho nó nên nó nể…  Nể chứ không phải là tin… Tui cực chẳng đã mà  làm thôi, có vậy mới mong cứu được vài người  vô tội… Còn bà, tui can bà rồi đó nghe...  
Má tôi không nói gì nữa. Nhưng ngày hôm  sau, chờ lúc không có ai, gọi tôi.  
– Mi Ki, con đi chơi với mấy “tụi lùn” nhớ để ý coi giúp má, có nơi nào nhốt một người đàn bà… một chị thôi. Con còn con nít, không ai để ý… 
Con bé ngớ ngẩn: 
14 | Nhã Ca 
– Kiếm làm chi, má. Ba nói kệ người ta. Con  sợ mấy – chú lùn – không thương con, đánh  con như đánh mấy người trong hầm dê. Mà sao  kêu mấy chú là tụi lùn má. Mấy chú cao… cao…  này này…  
Má tôi cười:  
– Thì người ta kêu sao mình kêu vậy. Má hỏi  lại nè. Có giúp má không?  
Con bé sợ ba nhưng cũng phải giúp má. Ba  với má mà. Con bé miễn cưỡng gật đầu. Khó quá,  xung quanh căn nhà lớn, hai tầng là đất rộng bao  quanh. Hồi còn thong thả đi lại, con bé đã thấy  không biết bao nhiêu căn hầm đào sâu dưới đất,  miệng hầm là những tảng đá lớn hoặc những  cây gỗ ghép lại để che chắn, làm sao biết được –  chị đó – ở hầm nào mà kiếm.  
Có len lén đi rình, đi kiếm. Nhưng gần một  tháng, con bé không tìm được gì cả. Vì hễ đi tới  những khu cấm là thấy một người lính Nhật có  súng đứng canh, đưa tay xua xua đuổi con bé  đi… chỗ khác chơi! 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 15 
Anh lính Nhật có cái tên dài lắm, con bé  không thể nào nhớ nổi. Nghe đọc đã theo không  kịp rồi. Cái gì mà như tô xô ba cô ba nô bà già gì  đó, ba cũng bắt đọc đi đọc lại mấy lần, chịu thôi.  Kệ, cứ gọi anh lính đó là Tô-Cô, chữ tô dễ nhớ vì  nhà cậu có con chó tên Tô, chữ cô cũng dễ nhớ  luôn, đi đâu má cũng bắt vòng tay: Thưa cô đi con.  
Anh Tô-Cô trẻ hơn ba nhiều, cũng không  thấy lùn như bị gọi vì đứng với mấy người trong  làng bị bắt vô đồn để ba làm thông ngôn thấy  anh Tô-Cô cao hơn.  
Bữa đó, có tới bốn người bị bắt vô đồn chẳng  biết vì tội gì. Tất cả đứng trong sân sắp hàng, lính  Nhật đưa súng lên nhắm như khi họ nhắm để bắn mấy con chim. Ba làm thông dịch, có anh  Tô-Cô đứng bên. Ông Cử Sừng mặt mày đỏ tía:  
– Thầy thông dịch cho nó nghe. Tui chửi nó  đó. Đồ quỷ la sát, đồ chó đẻ. Suốt ngày đi chọc  ghẹo con gái trong làng, còn bắt bớ, giam cầm  người ta. Giỏi thì bắn đi. Bắn chết thằng già này đi. 
16 | Nhã Ca 
Ông Cử Sừng vạch áo ra lòi bộ ngực xương  xẩu. Ông này dữ quá, dám thách thức đám lính  Nhật có súng. Lỡ nó bắn thì sao? Con bé thấy  tim đập thình thịch. Ba cười cười, nói một tràng  tiếng Nhật. Kỳ chưa, mấy khẩu súng hạ xuống,  ba kéo ông Cử Sừng ra ngoài, thấy ba mạnh tay  quá. Tối hôm đó, ba lại kể với má.  
– Ông Cử dữ dằn, thách thức chửi chúng nó  làm gì. Tụi nó có quyền, có súng, sợ gì ai mà  không bắn.  
– Tui đứng trong nhìn ra sợ muốn đứng tim.  Ông nói gì mà hay quá vậy?  
– Không nghe nói gì sao biết là hay. Bà thiệt  ba phải. Ừ, tui thấy ông Cử vạch ngực ra, tui phải  dịch là dân làng rất quí người Nhật, người Nhật  tốt, nhưng chỉ buồn là có người Nhật không  tuân kỷ luật đã vạch áo chị Muông ra để nhìn  ngực… Họ muốn trình bày sự phẫn uất của họ  và xin xét xử cho chị Muông thôi. Họ nói người  Nhật tốt nên họ mới liều chết tới để xin…  
– Bộ ông thấy tụi chó đó không đáng chửi  sao mà nói trợt đi…
1. Thuận An năm Ất Dậu | 17 
– Chớ dịch đúng cho nó bắn cái đùng, bốn  mạng chết ngay đơ thì lợi gì. Đàn bà thiệt ngu.  
– Ông nói tui ngu…  
– Chứ phải khen bà khôn sao. Đàn bà nhẹ  dạ, hay tin người nên chuyện gì có đàn bà nhúng  vô là hỏng bét.  
Má làm thinh không cãi nữa. Bốn người đã  bình yên ra về rồi, nhưng câu chuyện hôm đó cứ  khuấy động tấm lòng non nớt của con bé. Con  bé hứa với má sẽ tìm cho ra chỗ giam chị Muông.  Nhưng hễ cứ quành ra phía sau là chân con bé  chùn lại. Nó sợ cây súng của người lính Nhật lúc  nào cũng đứng ở đó như hai chân đã chôn dưới  đất và cái mặt như đúc bằng sáp đèn cầy. 
Một lần khác, lính Nhật giải vào đồn một bà  già. Bà bị trói gô trong sân, trước cột cờ. Bà già  chửi luôn cả ba:  
– Thầy Thông ơi là thầy Thông. Thầy làm  thông ngôn làm chi cho xấu mặt dân làng. Thầy  theo tụi Nhật lùn áp bức người ta, bắt bớ người 
18 | Nhã Ca 
ta… Tui thề, hễ thấy thằng Nhật lùn nào là tui  chửi tui đào, tui bới ba đời mười kiếp cả nhà  nó…Thầy nói nó giết tui đi, tui thà chết chớ  không chịu nhục. Thả con tui ra, trời ơi là trời…  
Anh lính Tô-Cô nhìn ba tôi, chờ Ba tôi lại  nói một tràng tiếng Nhật. Ba tôi mới học thôi  mà, nên có chữ ông phải làm dấu. Anh lính Tô Cô gật gật, bỏ đi. Ba tôi tự tay cởi trói cho bà già,  nói:  
– Bác chửi cũng phải. Tui không giận bác  đâu. Nhưng tui làm gì thi tui biết, sau này mấy  bác biết…  
Bà già:  
– Bữa nay tui cố tình cho nó bắt vô để gặp cái  thằng Nhật lùn khốn nạn, nhưng không thấy nó.  Nó chọc con Muông, con Muông cự lại, nó bắt  nó nhốt. Thiệt tức, mình cả làng, cả hai làng Thái  Dương Thượng, Thái Dương Hạ, lâu nay vua  biết mặt chúa biết tên, mà để cho mấy “thằng  lùn” nó làm nhục… 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 19 
– Lần sau bác đừng đứng trước đồn mà chửi,  lỡ có thằng nó không biết, bắn ẩu bắn tả thiệt  mạng mình…  
– Nhưng tức quá thì làm sao…Đi biển có cá  ngon thì phải nạp cho nó… Cái đồ ăn sống ăn  sít… Còn bắt bớ giam cầm… Ác chi mà ác dữ…  thầy Thông còn binh…  
Người ta chửi ba mà ba vẫn lặng thinh như  khi ba nói má ngu má cũng lặng thinh.  
Tối đó, con bé thấy ba má thì thầm nói chuyện  nữa. Ba khoanh tay trên ngực, nhìn lên trần nhà.  Má khóc. Con bé nằm ở cái giường nhỏ, bỏ đi sang nằm với người anh.  
– Anh, anh… má khóc.  
Người anh đã ngủ say, không biết gì hết.  
Một buổi chiều anh lính Nhật Tô-Cô tìm má  đưa một gói cá. Anh làm dấu nhờ má kho mặn rồi  bỏ vào một cái hũ đất nhỏ. Mấy người lính Nhật  ở trong đồn rất cẩn thận việc ăn uống, không  được phép ăn đồ ăn ngoài đầu bếp người Nhật 
20 | Nhã Ca 
nấu, không được ra ngoài la cà hàng quán uống  rượu ăn hàng. Ba nói họ rất sợ bị thuốc chết như  trong làng thường thuốc cho chuột chết. Vậy mà  anh lính Tô-Cô này dám đưa đồ ăn cho má nấu.  
Con bé tò mò hỏi:  
– Má nấu cá cho cái anh Tô-Cô phải không?  Má quắc mắt:  
– Người ta nhờ. Này, người Nhật họ dữ lắm  đó, biết anh Tô- Cô nhờ má kho cá, họ sẽ phạt  anh đó.  
– Thích ăn mà cũng bị phạt hả má? Sao con  thích ăn gì thì má nấu cho con ăn?  
– Vì mình khác, người Nhật khác.  
Má giải thích. Người mình, người Nhật,  chẳng hiểu gì cả. Nhưng nhớ. Má dặn không  được nói cho ai biết thì không nói. Biết anh lính  Tô-Cô thích ăn cá kho, vì cứ nhờ má nấu hoài mà  cứ tưởng con bé không biết. 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 21 
Rồi một thời gian sau, không thấy má nhắc  tời việc nhờ con bé kiếm cái hầm nào giam chị  Muông nữa. Chắc má đã quên. Con bé thấy vậy  cũng mừng vì hễ thấy cây súng chĩa tới trước mặt  là con bé sợ muốn té. Mấy cái hầm đó, hồi chưa  giam người, con bé cũng không muốn chui vô  trong chơi rồi, vì trong đồn có nhiều rắn, chui  vô mà thấy có một con rắn ở trong thì có mà nằm  dài ra đó chết luôn, chớ đừng nói chuyện chui ra  được.  
Đã quen với mấy chú Nhật lùn, nhưng con  bé vẫn muốn có một lúc nào đó, không có mấy  chú, cái lỗ nhỏ phía sau thành bị phá ra. Con  bé nhớ chết được lúc đánh đu theo sợi dây cây  thuồng luồng để xuống đáy hào, rồi đu lên sợi dây  cây khác để được ra ngoài, thấy biển.  
Ở dưới đáy hào còn có nhiều thứ cây có trái  ăn rất ngon, trái sim tím, trái chuột chuột thơm  giòn, nhỏ bằng cái gai nhưng ăn còn ngon hơn  trái dưa chuột má thường dọn ăn với cơm. Còn  trái muồng muồng, chờ cho gần khô, tách ra lấy  hột, rang lên ăn hay nấu nước uống, người làng 
22 | Nhã Ca 
nói uống nước này sáng mắt lắm. Còn nữa, trái  bát bát chín đỏ đeo lủng lẳng theo dây leo, ăn  ngọt như đường phèn. Con bé chỉ chừa một cây  tên là Mạt Sát, có trái to, dày như trái quả bông,  người làng nói đập ra lấy cái tim, nuốt cái tim vô  khỏi họng là chết liền, ai dám. Nhưng ở dưới đáy  hào, ba đã cho người chặt đi tuyệt giống, không  thấy nữa.  
Lâu, con bé cũng chưa thấy ai bị lính Nhật bắt  vô đồn. Ba vẫn làm – thầy Thông – nhưng đi ra  đường không ai chửi nữa, mà còn có người chào  hỏi. Con bé hơi khó chịu vì thấy anh lính Nhật  Tô-Cô thân với má quá. Con bé còn thấy má với  anh Tô-Cô đứng ở một chỗ rất khuất nói gì nhiều  lắm. Không biết có nên nói cho ba biết không?  Con bé đi chợ với má, nghe người lớn nói, lính  Nhật hay ve đàn bà con gái. Con bé không thích  má chơi thân với anh lính Tô-Cô.  
Con bé cũng không thích anh lính Tô-Cô,  không thích cả đám lính Nhật đóng trong đồn.  Nó tha thẩn chơi một mình dù biết chơi một  mình buồn lắm. Nhớ cây muồng muồng, trái sim, 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 23 
trái chuột chuột, cũng không thể ra ngoài. Có ra  ngoài thì phải đi với ba, với má. Con bé nhớ tới  cái cây nằm ở góc tít xa, trái giống trái sung mà  nhỏ bằng móng tay, ăn có mùi vị chát. Lâu quá,  quên luôn rồi, bữa nay nhớ, không thể không tới  thăm. Nhưng tới đó, lại phải đi qua một trạm  lính Nhật gác. Con bé nghĩ cách, đi vòng theo  bờ thành, chui qua các bụi cây rậm.  
Con bé thoát được cặp mắt vẽ trên cái mặt  sáp bủng của anh lính.  
Đang mùa, trên cành, dưới lớp lá, chi chít  trái. Thoắt cái, con bé đã lên tuốt trên một ngánh  ba, có rất nhiều cành nhỏ, xúm xít lá che khuất  luôn con bé.  
Có vậy mà lâu nay bỏ quên nó. Leo lên, trốn  trong tùm lá, yên ổn biết bao. Có thể tha hồ hái  ăn những trái đang mùa, còn đang xanh, căng  tròn. Con bé biết, loại trái này chín thì chỉ vứt đi.  Bên trong trái chín muồi, lúc nhúc những con  bọ chui vào trong đó. Con bé lay cành, một con  chim vội vã bay đi, đậu tuốt trên cây bạc hà cao  vút. 
24 | Nhã Ca 
Thình lình, con bé nhìn thấy một bóng  người đi tới. Đang buổi trưa. Lính Nhật buổi  trưa thường được nghỉ tới khoảng hai giờ mới  dậy làm việc. Nếu người lính Nhật canh gác nghi  ngờ, đi tìm thì con bé có trốn kỹ tới đâu cũng  bị bắt. Con bé giữ chặt tay đeo cứng cành sợ rớt  xuống. Thấy rồi, không phải người lính gác mà  anh lính tên Tô-Cô.  
Anh lính Tô-Cô cứ nhìn quanh quất, mắt lấm  lấm lét lét. Đã là lính Nhật rồi mà còn sợ ai nữa  chớ. Con bé tò mò dõi mắt theo.  
Cách chỗ cây con bé đang trốn trong tùm lá  không xa có một cái hầm. Anh lính Tô-Cô tới đó. Lúc anh quỳ trước miệng hầm, con bé thấy anh  lính lấy ra một vật gì giấu trong áo như cái hũ.  Nhớ ra rồi, đúng là cái hũ đất anh lính thường  nhờ má kho cá bỏ vô đó. Cái hũ đất biến mất trên  tay anh. Rồi một bàn tay thò ra. Hai bàn tay nắm  lấy nhau. Một lúc, hai bàn tay thả ra, anh lính Tô 
Cô đứng dậy bỏ đi. 
Chờ một lát, con bé tò mò tới bên miệng hầm.  Quanh miếng lưới sắt chặn cửa hầm, nhờ ánh
1. Thuận An năm Ất Dậu | 25 
nắng ban trưa, con bé nhìn thấy một người đang ngồi bó gối ở bên trong. Nhìn kỹ, con bé nhận ra  là một người đàn bà. Chị lết ra sát miệng hầm.  Con bé lùi lại.  
– Đừng sợ, em... em đừng sợ. Chị bị tụi Nhật  bắt giam ở đây.  
– Chị là… Có phải chị là… Con bé nhớ lại…  
– Chị Muông. Chị bị bắt mấy tháng nay rồi.  Khổ lắm.  
Thì ra chị Muông đây. Con bé cắn môi. Má  đã từng bảo con bé đi tìm cho ra chỗ chị Muông.  Còn bây giờ má thân với anh lính Tô-Cô rồi, má  không muốn giúp chị Muông này nữa. Con bé  thầm trách má ác. 
– Cái anh Tô-Cô đó tới làm gì? Anh ta xấu  lắm.  
– Không phải đâu em. Anh ta giúp chị. Cho  chị ăn.  
Chắc phải nói với má chuyện này. Ngoài chợ 
26 | Nhã Ca 
người ta nói lính Nhật rất xấu, hay mê đàn bà,  con gái. Anh lính Tô-Cô này đã làm thân với má,  còn bắt má kho cá để lấy lòng chị Muông. Anh đó xấu quá, đâu có nên chơi. Con bé lắc đầu: 
– Nhật lùn xấu lắm. Em ghét Nhật lùn.  
Chị Muông nói gì thì nói, con bé vẫn lắc đầu,  vẫn bĩu môi nói xấu là xấu. Chị Muông hối hả  bảo con bé nên đi đi, bị lính gác phát hiện sẽ ăn đòn. Con bé bỏ đi. 
Có nên nói cho má biết không? Khi con bé  biết chỗ chị Muông thì má đâu có nhờ nữa. Con  bé im luôn.  
Một buổi tối, ba má nói chuyện thì thầm,  giọng má:  
– Ngày mai con Muông được tha rồi...  – Biết.  
– Thằng Tô-Cô…  
– Biết. 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 27 
Thấy không, con bé không nói nhưng  chuyện gì ba cũng biết. Giọng má nhỏ quá, con  bé nghe không kịp.  
– Tôi biết bà…biết rồi, bà thiệt…  
Chỉ có vậy thôi? Sao không nghe ba la má gì  nữa.  
Hôm sau con bé chờ coi. Đúng là chị Muông  được thả. Chị ôm bọc quần áo đi ra. Bà già bữa  hôm chửi bị bắt với mấy người nữa đứng đón  bên ngoài cánh cửa sắt. Chị Muông đi ra mà cứ  quay lại nhìn lui hoài. Đâu có người ngu nhớ cái  nơi giam giữ mình khổ sở mà ngoái đầu lại chớ! 
Từ bữa đó con bé cố tìm cách để coi có còn  bắt gặp cảnh anh lính Tô-Cô với má thì thầm ở  một góc kín nào nữa không. Con bé định bụng,  bắt được một lần nữa thì phải méc với ba. Nhưng  con bé mất công. Má nhiều lần chạm mặt với anh  lính Tô-Cô, hai người chào nhau như má vẫn chào  những người khác. Anh lính Tô-Cô làm như bận  việc lắm, ít thấy mặt trong đồn, nhất là ngoài giờ  làm việc là anh biệt tăm biệt tích. 
28 | Nhã Ca 
Cũng có một vài lần theo mẹ ra chợ, gặp chị  Muông. Sao lúc nào chị Muông với má cũng thân  thiết, cũng to to nhỏ nhỏ, cười cười nói nói. Chị  Muông còn tặng má quà, có bữa nấu xôi, có bữa  mua bánh trái bắt má và con bé phải nhận. Con  bé vẫn không quên nhắc chừng chị Muông.  
– Chị ơi, từ nay thấy thằng Nhật lùn Tô-Cô,  chị đừng tới gần nữa nghe. Nó xấu ghê lắm.  
– Chị nhớ. Chị nhớ.  
Chị Muông vừa nói vừa cười. Má cũng cười  theo nữa. Chuyện tới vậy mà không ai chịu tin.  Vậy mà cứ nói người lớn khôn hơn con nít.  
Đêm ngủ, ba lại có tin tức mới cho má nghe.  Nhiều tin lắm, con bé không nhớ gì ngoài câu:  
– Chắc tụi nó thua tới nơi… Chỉ nghe vậy là  mừng… 
Mừng chớ sao không mừng. Tụi nó thua bỏ đi hết thì đâu có ai cản con bé đi học, ra ngoài làng  chơi hay trốn ra biển tắm. Hôm sau con bé nhìn  thấy anh lính Tô-Cô thì vác cái mặt lên, không 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 29 
thèm nhìn. Anh lính đâu biết, còn cho con bé  bánh. Bánh thì phải lấy.  
– Đúng rồi em. Tụi nó sắp rút đi thật…  
Lại tin tức mới nữa. Giọng má như tắc ng hẹn:  
– Nhưng con Muông. Nó phải làm sao đây.  Ngày mai làng họp về chuyện nó.  
Giọng má nhỏ đi nhiều lắm:  
– Thì phải, nó có bụng rồi. Ba tháng… Thì tụi  nó thương nhau thiệt… Chắc chắn mà, với thằng  Tô-Cô…  
Con bé biết chữ có bụng là có một em bé. Em  bé sẽ được đẻ ra. Chị Muông đang có một em bé  do tên Nhật lùn gửi trong bụng chị. Sao chị lại  dại dột cho một thằng Nhật lùn gửi em bé trong  bụng chứ. Con bé thở dài y hệt một người lớn.  
– Đừng cho mấy đứa con nó biết. Má nói. Ba: 
30 | Nhã Ca 
– Mai cả hai vợ chồng mình phải ra ngoài làng.  Tui cũng phải làm thông ngôn cho Tô-Cô.  
– Ngủ đi. Đừng nói lớn mà con nó nghe.  
Con bé đã nghe. Ngay sau khi ba má vừa ra  khỏi đài là con bé lén theo. Không biết bằng cách  nào, con bé đã lọt qua cái cổng sắt, ra tới được đình làng. 
Cả làng đang họp. Ông Cử Sừng ngồi trên ghế  cao bắc trước một dãy ghế gồm nhiều người lớn  trong làng ngồi trên thềm đình. Phía bên trái,  một dãy ghế người Nhật ngồi. Ba đứng bên anh  lính Tô-Cô và chị Muông bị trói ở một cây cọc  cắm giữa sân đình. Con bé đã nhanh nhẩu núp  phía trong đình, dưới một chiếc bàn có trải khăn  dài phủ tới đất. 
Chị Muông như một người nào khác, không  giống chị Muông con bé thường gặp. Mặt mũi  chị bị trát bùn. Đầu tóc không chải, rối bời, chị  mặc một bộ quần áo cũ rách và người chị bị quấn  dây thừng chặt cứng như khúc giò. Mắt chị sưng  húp mở không ra, con bé chưa khi nào thấy một  cô gái xấu xí tới phát sợ như vậy. 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 31 
Ông Cử Sừng là người lên tiếng trước tiên.  Ông kể toàn là tội của chị Muông. Tội thứ nhứt,  thứ nhì cho tới mười hai tội mà tội nào cũng  kèm theo câu đánh chết, thả bè trôi sông. Con  bé nhớ lại, nó đã gặp ông đứng trước sân đồn,  la lối, mắng chửi, không màng đến cái chết để  bênh vực chị Muông và ba đã thông dịch khác đi để lính Nhật không bắn ông. Rồi bà già, má của  chị Muông cũng đứng lên cho làng hỏi và bà cũng  khóc lóc, chửi rủa con gái đã làm xấu nhục bà.  Con bé càng ngày càng không hiểu, cho tới lúc  ba dịch lại lời của anh lính Tô-Cô.  
– Tui thương cô Muông. Tui muốn cưới cô  Muông làm vợ thiệt lòng.  
Giọng ông Cử Sừng:  
– Thầy Thông, thầy phải thông ngôn cho  đứng đắn, đừng thông ngôn sai giúp cho giặc.  Thầy Thông phải thề trước tổ đình… 
Ba đưa tay thề. Một người Nhật ngồi trên ghế  đứng dậy đưa tay phản đối, bập bẹ nói tiếng Việt: 
32 | Nhã Ca 
– Khôn nấy được… Khôn cưới được… Người  Nhật… người Nhật…  
Ông nói một tràng tiếng Nhật và ba thông  ngôn:  
– Ông sĩ quan này nói con gái Việt Nam đổ  cho lính Nhật, con gái Việt Nam không tốt. Người  Nhật không chịu trách nhiệm…  
Chị Muông khóc rấm rứt, mệt lả như muốn  ngất đi. Nghe nói mấy ngày trước chị Muông đã  bị đánh đập và bỏ đói. Anh lính Tô-Cô muốn tới  bên chị thì bị mấy người đàn ông trẻ giữ chặt lại.  Đoàn lính Nhật ngồi yên không nói một tiếng  nào. Mấy cây súng của họ đâu? Họ trở nên hiền  lành từ khi nào vậy!  
– Con kia. Nghe làng hỏi.  
Một mụ đàn bà mập mạp hùng hổ đi ra sân,  cầm đầu tóc giựt ngược để cái mặt chị Muông  phải ngẩng lên.  
– Nghe hỏi đây. Mày có chửa với thằng nào? 
12. Bà Bắc vào Nam kiếm chồng | 33 
Chị Muông đưa khuôn mặt gần như nát bét  trét bùn đất về phía anh lính Tô-Cô.  
– Có phải người này không?  
Cái đầu chị Muông gật nhẹ. Anh lính Tô-Cô  lại nhào ra, anh bị giữ riệt lại. Một người Nhật  đứng bật dậy hô khẩu lệnh. Cả đoàn đứng lên  răm rắp, sắp hàng, bước ra. Anh lính Tô-Cô cũng  vào hàng đi, không dám ngoái lại.  
– Đánh chết con chửa hoang.  
Một mụ đàn bà la lên. Con bé nhìn ra, hoa  cả mắt. Đàn bà nhảy cỡn. Con nít reo hò. Đá,  gạch, rác rưởi từ bốn phía đang ném về phía chị  Muông. Bà già, mẹ đẻ của chị, mới lên án chị đó,  đã nhảy ra, khóc la, lấy thân che cho chị. Con bé  cũng la lên. La thật lớn.  
Hai bàn chân con bé bị nắm lại, kéo ra khỏi  gầm bàn. Má. Má kéo con bé, đẩy ra phía ngõ  sau.  
– Đi về nhà. Đi. 
34 | Nhã Ca 
Chưa bao giờ con bé thấy má giận dữ vậy. Má  bóp tay con bé chặt quá. Con bé đau chảy nước  mắt nước mũi, nhưng không dám khóc thành  tiếng.  
Tối hôm đó trăng sáng lắm.  
Trước nhà con bé ở có hai cây sầu đông rất  lớn nhưng cái sân còn lớn hơn, nên ánh trăng vờn  trên cành lá, tràn xuống, lênh láng cả sân. Hình  ảnh chị Muông ở đình làng làm con bé không thể  ngủ được. Đứng ở cửa sổ, qua chấn song sắt, con  bé thấy anh Tô-Cô đi tới. Đến khoảng giữa sân,  bỗng thấy anh khuỵu xuống, mặt ngước lên trời.  Lát sau, thấy anh lăn lộn dữ dội trên mặt sân, rồi  anh la lên một tràng tiếng Nhật. Cho tới khi Tô Cô rời khỏi cái sân, con bé còn nghe thấy tiếng la  của anh lùng bùng trong tai nhưng nó không  thể hiểu và cũng không thể nhớ. Phải chi con bé  có thể nhờ ba làm thông ngôn, coi anh ta la lối gì  đêm đó. 
Ngày hôm sau, Tô-Cô lên đường về nước.  Anh không từ giã ai, cả ba, cả má, cả con bé. Ba  nói quân đội Nhật đã thất trận. 
1. Thuận An năm Ất Dậu | 35 
Còn chị Muông thì sao? Ba im. Má im. Con  bé không biết thêm gì nữa.  
Nhiều năm về sau, khi đã thành người lớn,  con bé có lần nghe má kể. Cả làng ghép chị Muông  vào tội chửa hoang. Chị Muông bị đuổi ra khỏi  làng, sống trong một cái chòi nhỏ ở ngoài độn 
cát với bà mẹ già. Má có tìm cách ra thăm. Lần  nào chị cũng khóc rồi nói chỉ có chết, mẹ con em  muốn sang tới Nhật ở bên anh Tô-Cô. Anh Tô Cô thương em thật mà. Tụi em thương nhau… Má cũng nói ngay từ lúc chị Muông bị nhốt ở  cái hầm phía sau, Tô-Cô đã lén giúp đỡ chị rồi họ  thương nhau thật.  
– Tội nghiệp. Cái bầu của nó ngày một lớn.  Ba má vẫn để dành chút gạo chút muối giúp nó.  Ai dè, một buổi trưa, người ta tìm thấy nó chết  ngoài đụn cát, bên bụi cây mạt sát. Nó ăn tim trái  mạt sát để chết với đứa con trong bụng. Má tôi  nói. 
o O o 
36 | Nhã Ca 
Thêm một năm Ất Dậu. Mới đó mà đã sáu  mươi năm. Ba má tôi đã mất từ lâu. Làng Thuận  An xưa chẳng biết ra sao. Xưa lắm thì có vụ Tây  đánh, vào một năm Mùi. Sau đó có người Nhật và  anh lính Tô-Cô tội nghiệp. Thuận An cũng từng  thấy lính Mỹ và cảnh bể dâu Cộng hòa rồi Cộng  sản.  
Còn Thuận An ngày nay?  
Nghe đâu cả con đê, rừng dương, hồ cá mặt  trăng, cả cái vịnh Khoanh Tay phía sau Trấn Hải  Đài nữa, đều đã bị biển lấn vào xóa hết dấu vết. 
2. Qua một kiếp khác | 37 
Qua một kiếp khác  
Thuận đi học tập cải tạo, được tha về,  
nhưng giấy gửi ở phường quản lý. Có  nghĩa là chỉ hộ khẩu tạm, và mỗi một tháng đã  có ghi số lịch, ra công an phường trình diện.  
Về nhà, con thì còn nhưng vợ mất. Cái giường  của anh đã có một thằng cha khác nằm chung với  vợ anh. Giang sơn của anh là cái ghế bố, mỗi tối  đem ra kê ở phòng ngoài, sáng phải dậy sớm, xếp  ghế bố lại để trả chỗ. Quần áo thì đâu có nhiêu,  vỏn vẹn chỉ có hai bộ mang từ trong tù về, với vài  thứ lỉnh kỉnh, lưỡi dao lam để cạo râu, cái bàn  chải đánh răng. Chắc vợ anh tưởng anh sẽ không  bao giờ về, sẽ chết rục trong tù. Chị nghĩ vậy  cũng không phải là quá đáng gì. Bạn anh, nhiều  người đâu có về mà nằm sắp măng ngoài bìa đồi,  có người không ai khắc cho cái tên nên vợ con có  được lệnh đi thăm cũng khó khăn lắm mới tìm 
38 | Nhã Ca 
ra. Vợ anh, cũng tưởng có ngày phải đi ra bìa đồi,  để tìm kiếm một miếng đất u lên như vậy, với lại  bả cũng quá khổ, quá cô đơn, nên phải chắp nối  với một người đàn ông. Hắn đã lớn tuổi, lại có  chỗ dựa lưng, còn cho chị tiền để chi nên chị đỡ  phải bị phiền lụy nhiều vì có chồng đi học tập.  
Quên sao được bữa mới được tha về. Anh  bước vào sân, hồi hộp gõ cửa. Lâu rồi, xấp nhỏ đi  theo một bà cũng thăm chồng, ở chung xóm, nói  là má bị gãy chưn, không đi lại được. 
Vợ anh gãy chưn ra sao? Anh bước vô nhà  tới nơi rồi này. Anh sẽ ôm cái chưn gãy của chị,  vuốt ve nhẹ nhàng, có thể sẽ khóc nữa. Vì chắc  chắn chị cũng khóc, nước mắt mừng tủi thâm  tình nghĩa chồng vợ sẽ hòa với nhau, rơi trên đốt xương chân bị thương của chị.  
– Ba. Ba… A Ba…  
Hai đứa con trai mở cửa reo lên. Bất ngờ quá  mà. Anh ôm chầm cả hai đứa bằng hai cánh tay  gầy guộc.  
– A, ba về, ba về… 
2. Qua một kiếp khác | 39 
Ôm nữa. Hai đứa làm như anh bằng giấy,  bằng bột, sẽ tan biến mất. Thằng lớn dụi mắt,  tưởng bị hoa:  
– Ba thiệt hôn? Sao ba về mà không báo  trước…  
 Thuận vội vã:  
– Má con đâu? Há, bả đâu?  
Anh chờ để nghe giọng nói của con:  
– Má ở trỏng, ba. Ba vô đi…  
Và chúng sẽ kéo anh tuồn tuột, anh bước  theo không kịp chúng, và anh thấy chị đang ngóc  cái đầu ra, ngong ngóng chờ đợi anh. Rồi anh…  
– Má… Ờ, má chưa về, ba.  
Thằng nhỏ:  
– Má đi công chuyện, ba.  
– Má bây đi được? Bả đi lại được…
40 | Nhã Ca 
Không thấy đứa nào trả lời. Hai đứa ngó nhau.  Chuyện gì đây? Anh ôm cái bọc quần áo đi vào  trong. Anh còn nhớ như in, chỗ nào kê cái giường  ngủ, cả tấm màn vải hoa che kín phía ngoài. Cái  màn vải do chính tay chị tự may bằng tay và cả  anh cả chị rất hài lòng khi chọn lựa. Tất cả còn y  nguyên, chỉ có cái màn vải hoa cũ đi nhiều quá, bị  ố, bẩn và có nơi sờn mục. Anh vén tấm màn qua  một bên. Đặt lưng nằm xuống đó, ôi hạnh phúc  xiết bao. Cái giường, cái chỗ gối đầu, căn nhà, vợ  anh, con anh… Anh còn nhớ, lúc đó chiều mới  xuống, còn sáng lắm. Chiếc chiếu hoa ngày xưa  đã thay vào một tấm nệm dày, có khăn trải đàng  hoàng. Và anh đứng chết sững, trên giường có  một cái quần đùi đàn ông đang để cẩu thả. Và  nữa kìa, nơi cây đinh đóng trên tường phía cuối  giường treo một cái áo sơ mi đàn ông. Anh đã  hiểu. Cái đầu choáng lên một cái, rồi ruột anh  quặn đau, bao nhiêu năm tù đày, anh đã tập được một điều là bất cứ chuyện gì, giận dữ, bi thảm,  đều phải nuốt xuống, nuốt xuống… Anh đã phải  nuốt xuống quá nhiều, lần này thì nó cứ mắc ở cổ  họng. 
2. Qua một kiếp khác | 41 
– Ba. Ba.  
Anh có nhìn thấy hai đứa con mặt mũi xanh  lè xanh lét, đứa nhỏ còn như muốn run. Anh vày  vò mé tấm màn trong tay. Cũ quá rồi, nó sút chỉ  ra và sờn rách, có ít chút bụi mủn trong lòng tay  anh vẫn còn nắm chặt. Anh phải thả nó ra. Thả ra.  Và anh buông ra được. Thả ra rồi, anh hụt hẫng,  không thấy hai bàn tay đâu nữa. Nhưng anh biết  còn hai cái chân, hai cái chân muốn bước.  
– Ba. Ba. Ba ơi! 
Anh cắm đầu bước đi, bỏ mặc tiếng gọi thảm  thiết của hai đứa con đằng sau lưng. Kêu không  được, chúng chạy theo:  
– Ba ơi, đừng đi. Đừng đi ba…  
Anh vẫn đi. Hai đứa nhỏ òa khóc. Rồi cứ  vừa khóc vừa bước lẽo đẽo sau lưng anh. Làm  như anh là chiếc quan tài, còn hai đứa nhỏ đang khóc lóc đằng sau đưa đám ma anh. Thì dù chưa  nằm trong quan tài, anh khác gì một xác chết.  Hai chân cứ bước, còn đi tới đâu, sẽ làm gì, anh  hoàn toàn không biết! 
42 | Nhã Ca 
Nhưng rồi anh phải biết. Tờ giấy lệnh tha của  anh còn nằm trong cái bọc anh đang ôm trong  tay. Tờ giấy ghi một địa chỉ. Trừ phi anh can đảm chết đi thì không còn gì để nói. Nhưng rõ ràng  anh không có can đảm đó. Tiếng khóc của hai  đứa nhỏ sau lưng anh như dao cắt nát từng khúc  ruột. Anh hiểu là anh cứ phải sống, và nếu còn  muốn sống, không cách gì không về cái địa chỉ đã 
ghi trong tờ giấy lệnh tha.  
Hai đứa con thu xếp để anh gặp vợ. Cũng  ngay tối hôm đó thôi. Người đàn ông đưa chị về  rồi bỏ đi. Đến chết anh cũng không quên được vẻ  mặt thất thần, sượng sùng, khổ đau của chị. Chị  sụp xuống dưới chân anh:  
– Anh Thuận. Anh đừng nhìn em vậy. Anh  giết chết em đi.  
Mắt anh nhìn chị làm sao? Hung dữ? Hằn  học? Thù hận? Dịu dàng? Hình như quá dịu dàng.  Làm sao không thể chia sẻ với người vợ ánh mắt  trìu mến nhớ nhung của bao năm trời xa cách.  Anh còn muốn ôm chầm lấy chị, muốn khóc. Cả 
2. Qua một kiếp khác | 43 
hai cùng khóc cho trôi bớt những tủi hờn, nhục  nhã. Nhưng hai bàn tay của anh không còn tuân  theo cái đầu của anh, nó như đã rời khỏi thân thể  anh rồi!  
– Ôi! 
Anh chỉ kêu lên được tiếng đó. Rồi thôi. Anh  ngồi như pho tượng đá, nghe chị kể lể, khóc lóc.  Có lúc anh nghe rất rõ, có lúc tai anh lùng bùng,  trí anh đi đâu, và có lúc anh giật mình như hụt  chân, sắp rơi vào vực thẳm. Có lúc anh bật cười  khan, có lúc mắt anh rươm rướm lệ, rồi mặt anh  hóa đá. 
Hai đứa con đã vứt ra ngoài biển đông, phó  mặc cho dông tố và sự sống chết. Không được  sống cũng không được chết, chúng vào tù. Một  thân một mình, chị cầu cạnh khắp mọi nơi để con  được thả ra. Nghe lời hứa hẹn, vay mượn tiền bạc  để chạy vạy. Không xong, còn bị cán bộ lợi dụng  làm nhục. Sau đó, hắn, người đàn ông đã nằm  trên cái giường của anh ra tay nghĩa hiệp, cứu  vớt người phụ nữ bơ vơ. Bỏ tiền chuộc hai đứa
44 | Nhã Ca 
nhỏ, và bao bọc luôn người mẹ. Chị vẫn lo thăm  nuôi anh đều đều, do đứa con lớn mang lên trại  tù.  
Anh còn nói gì được nữa. Hắn cũng đã góp  vào những món ăn thăm nuôi mà anh đã nhận, đã ăn. Bữa cơm cho con anh ăn bao nhiêu năm nay,  hắn cũng có phần. Anh nhìn chị, thấy chị ốm đi  nhiều, mặt mày xanh xao, đôi má ngày xưa mủm  mỉm nay đã hóp vào. Chị không cười, nhưng anh  cũng biết là chị đã mất mấy cái răng. Chị đã hết  thời xuân sắc quá sớm.  
Nhà dài kiểu hộp, chia được ba phòng và  bếp. Chị đã cho một cặp vợ chồng già, con cái đi  vượt biên hết trơn thuê một phòng. Họ được sử  dụng bếp chung và đi bằng lối cửa bên hông. Căn  phòng này nối với bếp, có một phần lộ thiên sáng  sủa. Phòng giữa là phòng của anh chị hồi đó. Còn  bây giờ, hai đứa nhỏ ở phòng ngoài cùng. Có hai  bàn học ọp ẹp, và buổi tối, sau khi mọi người đã đi ngủ, hai đứa mới bày hai cái ghế bố ra để nằm.  Bàn thờ tổ tiên cũng biến đi đâu mất, anh còn  nhớ trên bàn thờ có bộ lư hương, chân đèn bằng 
2. Qua một kiếp khác | 45 
đồng từ đời ông cố ông sơ, đến đời anh. Bức ảnh  ông sơ ngồi như quan đại thần, được lồng trong  tấm khung bằng gỗ mun chạm trỗ mà cha anh  rất quý, cũng biến.  
– Bán hết rồi ba, hồi trước ba mới đi tù, ở  nhà chẳng có gì ăn hết trơn…  
Anh còn biết đi đâu trong những ngày đầu  tiên. Thằng cha cũng ý tứ, mấy ngày không về  nhà ngủ. Chị thì đi suốt ngày, làm như cố tránh  mặt anh. Chị có đi gặp “hắn” không? Gặp ở đâu? 
Nhiều khi trong đầu anh dấy lên sự thắc mắc.  
Ban đêm, khi hai cái ghế bố ngã xuống, hai  đứa con ép nhau nằm một ghế, trở đầu trở đuôi,  anh nằm một ghế. Căn phòng vuông vức, có một  cái bàn dùng tiếp khách và làm bàn ăn luôn, hai  cái bàn học, và hai cái ghế bố khi bày ra, do sự  trăn trở của người nằm, chúng cũng bực dọc hích  nhau hà rầm. Còn chị, lúc này thì một mình, nằm  ở phòng trong. Anh biết, nhiều đêm chị đã khóc  suốt vì sáng ra, hai quầng mắt chị sưng vù, bầm  tím. 
46 | Nhã Ca 
Qua chừng một tuần, anh dịu lại. Anh gọi  chị, nói nhẹ nhàng, nhưng muốn kêu tiếng em  cũng không thể nào thoát cái tiếng đó ra được ngoài cổ họng:  
– Bà đừng vì tui mà phiền hà cho bà quá. Bà  cứ nói với… người ta về nhà mà ngủ. Đừng để  tui thành một cục nợ cho hai người.  
Thằng Út, có vẻ khá nhiều tình cảm với hắn,  nói vội:  
– Phải đó má, chú Tâm không về con cũng  nhớ. Ba, Ba, chú Tâm rất thương con, mua quần  áo, giày dép sách vở cho con. Chú Tâm còn đưa con vô sở thú coi khỉ nữa.  
Anh cay đắng. Còn vô sở thú coi gì nữa, trong  nhà có hai con khỉ già coi chưa đủ sao. Nhưng  nghĩ điều ác trong bụng mà không nói ra lời. Anh  cũng cảm thấy vướng víu. Hình như về một mặt  nào đó, anh còn phải cám ơn hắn. 
– Đừng ngó tui vậy. Tui nói thiệt với… bà  đó. Bà biểu người ta về đi. Còn không tui dọn ra  riêng… 
2. Qua một kiếp khác | 47 
….Nói vậy nhưng anh biết điều đó không làm  được. Còn cái hộ khẩu. Đã đi trình diện phường,  công an phường dặn kỹ, mỗi tháng tới trình diện  một lần. Không được đi ra khỏi ngoại ô qua đêm. 
Nếu sai trái thì cắt luôn tạm trú.  
– Hay em… hay tui lấy lại cái phòng sau để anh ở tạm. Khi hết hạn quản chế rồi thì… tính.  
Anh cười chua chát:  
– Ở đằng sau hay đằng trước cũng trong nhà  này. Căn nhà này là…  
Anh muốn nói căn nhà này là anh mua trước  kia. Nhưng anh ngăn lại kịp. Nói như vậy thật  không đàn ông chút nào.  
Anh bị tù đày, chị thân cô thế cố, đáng lẽ đã phải bán căn nhà này lâu lắm rồi, nếu không nhờ  hắn… Hồi còn ở trong tù, một bạn tù biết tin vợ ở  nhà đã lấy chồng, anh bạn tuyệt vọng muốn chết.  Anh khuyên:  
– Mình phải hiểu cảnh các bà ở ngoài. Mình ở  tù là yên phận tù rồi, còn các bà phải đối mặt với 
48 | Nhã Ca 
bao nhiêu điều, mà một mình yếu đuối, đôi khi  không chống chỏi nổi…  
Hoàn cảnh người ta thì anh cảm thông. Còn  hoàn cảnh vợ mình? Anh đã nghĩ bao đêm nát  óc rồi mà. Nhưng chị nhất định không là không.  Anh biết là trong lòng chị vẫn còn thương anh.  Nhưng anh không thể ở không trong nhà, không  làm gì hết. Mấy ngày anh ăn cầm hơi, nghĩa là  không ăn cơm trong nhà. Thằng con đầu tuy  chưa tới tuổi trưởng thành, nhưng thương cha,  tự ý đi mua bánh mì, xôi, bánh giò:  
– Tiền riêng của con, con mua cho ba ăn đó.  
Anh ôm con. Chính anh mới là người bất lực,  không bảo vệ được vợ con. Anh mới là người có  lỗi. Để chuộc lại, anh làm gì cho chúng đây? Phải  đem chúng đi khỏi nơi này, đi thật xa, cho các  con làm lại một đời khác, sống một kiếp khác.  
Sau cùng anh gặp một người bạn cũ. Anh đi tìm một người bạn cũ khác, nhưng không gặp.  Lúc ra hẻm thì thấy một người đàn ông gánh hai  cái thúng đầy những thứ lỉnh kỉnh, giấy báo, chai 
2. Qua một kiếp khác | 49 
lọ, bao ni lông, cả mấy cái thau nhôm cũ… Theo  anh là một người đàn bà, vừa đi vừa rao:  
– Ai có bao ni lông, đồ nhôm, giấy báo, quần  áo cũ bán… khô…ông?  
– Bà con cô bác ai có giấy báo, bao ni lông…  
Anh không nhận ra người đàn ông mà nhận  ra người đàn bà. Trước đây là vợ một người bạn  cũ khá thân. Anh ta cũng đi học tập. Còn bây  giờ, chị đang ra sao đây?  
– Chị Hồng? Phải chị Hồng không?  
Người đàn bà chậm bước, có vẻ hơi khựng:  – Tui… phải rồi. Sao ông biết tên tui.  
– Chị Hồng ơi! Thuận đây. Thuận “rằn ri”  đây.  
– Ui cha, mèn ơi! Anh Thuận. Làm sao nhìn  ra anh. Người đàn ông vội đặt hai cái thúng  xuống, mặt vui mừng nhưng có vẻ trầm tĩnh:  
– Thì vậy. Còn tui, ông cũng nhìn không ra  mà. 
50 | Nhã Ca 
– Thọ. Phải Thọ không?  
– Thì Thọ, chồng tui. Ông tưởng tui đã bỏ ông Thọ lấy người khác chớ gì. Trời đất, có bỏ chồng  thì cũng lấy một thằng cha ngon lành, chớ anh  Thuận coi, thằng cha đi học tập về thân tàn ma  dại như vậy đó. Chỉ có tui hổng chê ổng thôi.  
Tim anh thót lại. Hai anh chị đi buôn bán ve  chai, chồng gánh vợ rao, coi có cực khổ mà cũng  hạnh phúc quá. Còn mình? Anh cố gắng nuốt  tiếng thở ra.  
– Mèn ơi. Đâu có ngờ gặp nhau chớ. Mấy  ông đi học tập nhiều ông không về. Vậy đâu phải  mình tui hên có lại ông Thọ, mà nhiều bà cũng  hên nữa… Ha, từ ngày mấy ổng vô, mỗi nhà tan  nát mỗi kiểu, tui chưa hề gặp chị Thuận đó nha…  Bả khỏe hôn?  
Anh lừng khừng:  
– Ờ… thì cũng… cũng khỏe.  
– Khỏe là được rồi. Chỉ cần khỏe là hai cái  chưn chạy được ra đường kiếm cơm kiếm củi… 
2. Qua một kiếp khác | 51 
Xời ơi, mình đáng gì, mấy bà tướng bà tá cũng  đứng chợ trời, thiếu giống gì!  
Thuận nhớ ngày xưa, Thọ nói nhiều, hay  đùa, nói chuyện tếu, còn Hồng thì lúc nào cũng  nghiêm nghị, ít lời, bây giờ đổi ngược lại hết.  
Lát sau cả ba ngồi một quán cóc uống cà phê.  Thấy quán vắng, Thọ thì thầm tâm sự:  
– Tụi này lo gom đủ tiền cũng tính…  
Thuận gật đầu. Nói chừng đó đã đủ hiểu hết  từ trong tim gan phèo phổi của bạn. Thuận cũng  kể hoàn cảnh của mình cho bạn nghe. Thân nhau  từ ngày còn nhỏ. Lúc Thọ lấy vợ, Thuận cũng hết  lòng lo đám cưới cho bạn. Thọ lắc đầu, còn Hồng  thì nước mắt rơm rớm:  
– Mèn ơi! Vậy thì khổ quá, chịu gì nổi. Nếu là  tui… 
 Thọ nhăn mặt:  
– Mỗi người một hoàn cảnh, em đừng có…  nhiều chiện. Bây giờ phải nghĩ cho anh Thuận  một cách gì để kiếm tiền…
52 | Nhã Ca 
Chị Hồng:  
– Rồi. Tui nghĩ ra. Đã nói chiện gì ông cũng  chậm hơn tui mà, nhất là từ ngày đi cải tạo về, cứ  làm như tiên ông bị lạc xuống núi đó anh Thuận.  Tui nghĩ vậy nè, ở nhà tui còn dư cái cân cũ, tui  cho anh. Sau đó, sắm gánh gióng, anh cũng làm  nghề ve chai. Ý cha, lóng này người ta mua đồ sắt  đồ đồng nhiều lắm nha, mảnh vụn, ve chai đang trúng mối.  
Không đợi cho Thuận suy nghĩ mông lung,  Hồng quyết định: 
– Vậy đi. Trưa mai, tụi mình cũng hẹn nhau  tại đây. Được rồi, tui mua luôn cho anh gióng  thúng, đòn gánh, đưa anh cái cân luôn… Anh  định nói gì? Hổng được. Mình giúp nhau, có qua  có lợi mà, hồi… anh cũng giúp anh Thọ nhiều  rồi, nghe anh kể…  
– Hồi trước khác, bây giờ khác…  
– Khác là khác với ai kìa, chứ người mình  thương nhau hổng hết. Anh Thuận à, khi nào  ngặt quá anh cứ tới nhà tụi này… 
2. Qua một kiếp khác | 53 
Chị lại ngừng. Thời buổi này ai dám chứa ai.  Nửa đêm, gần sáng, ban trưa, giữa chiều, đập cửa ầm ĩ: Kiểm tra hộ khẩu. Chứa chấp người  không có tên trong hộ khẩu, người đó khổ đã  đành, mà mình cũng “hậu khổ” luôn. Chị Hồng  nói trớ đi: 
– … Tới tụi này… ăn cơm.  
Thấy Thuận có vẻ ngượng nghịu, khó xử. Thọ  nói:  
– Bà nói ít chút được hôn? Anh Thuận, tụi  này có chút dư, ra vốn cho anh mượn rồi sau này  anh trả lại, mất mát đi đâu mà lo.  
Thuận cắn môi:  
– Vậy cũng được.  
Anh cũng đã thấy có một con đường mới, dù  con đường nhỏ xíu, đầy đá, lồi lõm, hố sâu, tối  om om. Nhưng còn có một con đường, chứ như  bây giờ, anh hoàn toàn rơi hút trong vực thẳm. 
54 | Nhã Ca 
Trưa hôm sau, Thuận có quang có gánh và  bắt đầu hành nghề. Thọ đưa cho Thuận một số  vốn nhỏ để mua hàng. Chiều tối Thuận ghé nhà  Thọ đổ hàng, rồi vợ Thọ sẽ gom chung lại với  hàng đã mua đem tới vựa bán lấy tiền. Mấy ngày  đầu đi rục cả chân mà Thuận không mua được  bao nhiêu vì anh không biết rao, cất tiếng lên  thì ngượng nghịu. Nhiều lúc buổi trưa, ba người  cũng gặp nhau nghỉ chân ở quán cóc, nghe anh kể  về sự vụng về của mình, chị Hồng cười:  
– Bị anh hiền quá mà. Cứ bị mấy con mẹ ve  chai giựt mối chớ gì. Gặp tui là “xui tận mạng”  đó nha.  
Thọ cười mỉm, lắc đầu: 
– Lóng này bả chửi hay lắm đó.  
Thuận thấy thương chị Hồng quá. Mới đây  là một người đàn bà đằm thắm, không biết một  tiếng nói giỡn, nói đùa, con nhà nề nếp, vậy mà  trong cuộc đổi đời đã biến chị thành một con  người khác hẳn. 
2. Qua một kiếp khác | 55 
Một thời gian Thuận quen dần, bạo dạn hơn.  Anh đã thay đổi lối rao mua hàng. Anh thường  đi vô sâu trong các hẻm, ngõ ngách và khi nhớ tới  bộ lư hương, chân đèn nhà anh cũng gửi vô đám  ve chai, anh cay đắng rao:  
– Ai có lư hương, nhang đèn, bàn thờ ông bà  ông vải… bán hôn?  
Mới nghe thì hỗn. Nhưng thấm lắm. Dân  nghèo trong hẻm nhìn anh cười thiện cảm. Mấy  ông già đi ngang vỗ vai anh, kéo anh vào nhà mời  uống nước. Uống nước xong thì lục lọi giấy báo,  bao ni lông, còn nói:  
– Chỉ còn chừng đó thôi. Bàn thờ ông bà ông  vải bán lâu rồi!  
Một hôm anh đang rao:  
– Bà con cô bác ơi! Ai có lư hương, nhang  đèn, bàn thờ ông bà ông vải… bán…  
Thì một bàn tay đập vào vai anh. Anh quay  lại đụng ngay bộ quần áo vàng của công an. Hắn  đang cưỡi xe đạp và làm như rà rà theo anh lâu 
56 | Nhã Ca 
rồi. Anh dừng lại, xe đạp cũng dừng, nhưng hắn  ngồi trên xe đạp. 
– Giấy tờ?  
Mặt gườm gườm như sắp giết người, giọng  dấm dẳng, khó nghe. Hắn cầm tờ lịnh tha, lật  ngược lật xuôi coi một hồi làm như sợ giấy giả.  
– Còn quản chế sao “nại” dám bán buôn? Tội  đáng đi tù cải tạo “nại”.  
Thọ và Hồng đã chỉ cách cho anh. Mời điếu thuốc, dấm dúi ít tiền. Tên công an trả tờ lịnh  tha. Không nói là anh trái luật gì cả, vì nếu không  có bọn buôn bán ve chai, làm trái luật thì chúng  tiền đâu mà vơ vét!  
– Thôi đi đi.  
Chờ hắn đi khuất, anh lại cất tiếng rao lanh  lảnh:  
– Ai có bàn thờ, khung ảnh ông bà ông vải  bán không... ? 
2. Qua một kiếp khác | 57 
Rồi anh bật cười khan, hơi hạ giọng nhỏ  xuống một chút:  
– Ông bà ông vải bán không?  
Một ông cụ già, giữa trưa mà bắt cái ghế ngồi  phơi nắng trước nhà, ở trần, chỉ có cái quần đùi  vải thâm, nghe anh rao thì gọi:  
– Có, còn cái bát nhang mua không?  
Anh gật đầu. Ông lão mang cái bát nhang  bằng đồng ra. Anh giật mình, sao giống cái bát  nhang của cha anh để lên bàn thờ trước đây y  chang vậy!  
– Bao nhiêu, cụ?  
– Chẳng biết tính giá bao nhiêu nữa. Hồi  thằng con tui đi cải tạo về, bịnh chết. Rồi…  
– Rồi sao, cụ?  
– Thì chết ngắt. Thiệt là sấp ngửa, hổng có tiền  mua áo quan, bó chiếu đem thiêu. Lấy chút tro  bụi bỏ vô cái hũ kia kìa… 
58 | Nhã Ca 
Thuận nhìn lên cái bàn ghép bằng bốn cái  chưn gỗ và một miếng ván, ọp ẹp, chắc có cả ngàn  con mối đục ở bên trong. Hủ gì đâu? Là một cái  lon guy gô cũ mèm. Một cái đĩa nhựa để ba thì  mười họa có một trái quả gì đó.  
– Bữa đám ma hàng xóm tới coi… hổng phải  coi đám rình rang có thằng thổi kèn tí toe mấy  bài giựt xương sống đâu nghen. Mà coi cái…  nghèo, cái thảm, cái đói. Rồi con mụ làm nghề ve  chai trong xóm đem cho cái bát nhang này, nói là  đồ xưa. Đồ xưa sao đem cho. Chớ hôn, tui cũng  cân kí lô bán với đồng vụn, sắt vụn, thời buổi này,  có cục vàng đổi lon gạo cũng không có, bo bo hôn  à, báu gì. Tiên sư nhà…tui!  
Thì chửi vậy. Chớ tiên sư nhà nó là có một  thằng lòi mặt ra, hăm dọa thưa phường xóm cũng  khổ hết biết. Là thành ngụy, phản động liền.  
Ông cụ với tay đóng cửa lại, cho ăn chắc.  Nhưng ăn chắc gì chớ. Bụi tre có lỗ tai nghe.  Thằng hàng xóm để lỗ tai trong vách tường báo  cáo lấy điểm. Thuận lớn giọng: 
2. Qua một kiếp khác | 59 
– Cụ bán nhiêu, tui mua.  
Một giá rẻ mạt. Lúc đầu mới nghe, Thuận  mừng thấp thỏm, nhưng chỉ vài giây sau, thấy  trong lòng có chút ân hận, mình đã mừng vì mua  giá rẻ đối với một người nghèo khổ, tuy không  ép, nhưng thấy không ổn tí nào.  
– Tui bán đi để lâu lâu mua cái quả, miếng xôi  cúng nó. Chớ đã không mua được nhang thắp thì  để cái lư hương làm gì cho chật chỗ.  
Ông cụ nói lạ kỳ không. Bàn thờ rỗng hoách.  Quên chưa nói tới cái khung ảnh nhỏ xíu, trong  lồng hình một cậu bé chừng mười ba tuổi. Thuận  hỏi:  
– Sao cậu ấy nhỏ con quá vậy? Có phải cậu  ấy không?  
– Là nó. Đâu có cái hình nào lúc nó lớn lên  đâu. Từ lúc bả chết, tui cho hai vợ chồng đứa  cháu về ở chung, chúng nó cũng nghèo mạt rệp.  Thấy miếng giấy vụn nào là vơ vét đem bán, riết  trong nhà còn tờ giấy gì đâu. Những tấm ảnh  chúng nó lồng vào giữa giấy báo để cân cho thêm 
60 | Nhã Ca 
kí lô. Tìm lòi con mắt, được có tấm đó… Chiện là vậy.  
Thuận trả tiền, còn boa cho ông cụ chút đỉnh.  Ông cụ trợn mắt, làm như Thuận là người ở trên  trời hay dưới âm phủ lên, còn lũ nghèo đói nhân  gian đâu có ai xài sang vậy.  
Để gói cẩn thận cái lư hương anh phải hy  sinh một tờ giấy báo. Lúc về tới nhà, anh lại cẩn  thận kiếm mớ giẻ rách quấn quanh, rồi bọc báo  quấn lại. May mà cái lư hương hơn cỡ cái chén ăn  cơm, anh còn có thể giữ được. 
Đêm, nằm ngủ trên ghế bố, để cái lư hương  gói kín phía một bên đầu, anh cảm thấy như còn  chút gần gũi với tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua  đời. 
Ai ngờ, vì cứ đi rao mua “đồ đồng, lư hương,  khung ảnh, bàn thờ ông bà ông vải” , mà anh  kiếm gặp được vật kỷ niệm thờ cúng của gia đình  từ thời ông cố ông sơ.  
Không biết có phải các cụ cảm kích, thương 
2. Qua một kiếp khác | 61 
tình không, mà từ ngày đó anh ăn nên làm ra. Rồi  một hôm, hai vợ chồng Thọ rủ anh đóng “cây” đi  vượt biên. Số tiền dành dụm chỉ vừa đủ cho một  chỗ. Anh rứt áo ra đi, để hai đứa con lại. 
o O o 
Tổ tiên phù hộ. Anh tới nơi an toàn. Được vào Mỹ. Anh ôn lại Anh ngữ mấy tháng rồi xin  việc làm. Bất kể việc gì anh cũng làm, hai job, ba  job, lãnh việc về nhà làm thêm ban đêm. Các con  của anh ở Việt Nam đã có thùng quà. Anh thi  quốc tịch và bảo lãnh cho hai đứa con sang ở với  anh.  
Thọ và Hồng cũng đã có một cửa hàng. Họ  vẫn thăm gặp nhau. Lúc Thuận mua được căn  nhà ở khu Garden Grove, mời Thọ Hồng tới ăn cơm. Hồng thấy cái cân đi buôn mua ve chai của  chị cho Thuận bày trang trọng trong tủ kính.  Bên trên tủ kính là bàn thờ, tất cả đều chưng bày  những đồ đẹp, từ bộ lư hương, chân đèn bằng  bạc, tới đèn hoa sen bằng điện chiếu đủ màu, có 
62 | Nhã Ca 
một cái bát nhang bằng đồng cũ mèm. Bát nhang  đầy cứng chưn hương. Hồng hỏi:  
– Tất cả đồ đẹp, mới, sao anh không thay cái  lư hương cũ đó đi. Nó nằm ở giữa những thứ đó  trông không hợp.  
Thuận cười:  
– Nhưng nó hợp với tôi. Cám ơn anh chị đã  truyền nghề ve chai cho tôi. Nhờ đó mà tôi tìm  được một vật của tổ tiên tôi đã thất lạc.  
Đứa con nói theo:  
– Cô Hồng à. Có bữa, ba còn thắp nhang lạy  lạy cái đó nữa kìa. Nó thấy ghê…  
– Cái gì?  
– Thì nó. Nó ở trong tủ.  
Nó là cái cân. Thằng bé chưa khi nào thấy  hoặc nghe ba nó rao hàng đi mua đồ cúng bái, kể  cả bàn thờ ông bà ông vải. 
o O o 
2. Qua một kiếp khác | 63 
Vậy mà Thuận đã ở Mỹ được mười lăm năm.  Như đã đi qua một kiếp người khác. Hai đứa  con, bây giờ là tên Mỹ, Kevin và John. Hồi trước,  anh thường gọi hai thằng là cu Anh và cu Em.  Lúc đầu chị nghe thấy chướng tai, ngượng lắm,  nhưng riết rồi hai vợ chồng thấy hai cái tên dễ  thương, đậm đà như tình yêu của anh chị.  
Thời gian này, Thọ và Hồng tới thăm hai đứa  nhỏ đều đặn lắm. Anh cảm kích hai vợ chồng bạn  rất nhiều. Hai đứa con thiếu tình mẫu tử đã dựa  vào cô Hồng. Thì gà trống nuôi con mà! Anh lại  vụng về, còn nghiêm khắc. Hai đứa nhỏ chưa bao  giờ dám làm phật lòng anh.  
Thời gian gần Tết, Thọ tới chở Thuận ra quán  cà phê. Lâu lâu Thuận và Thọ đều thích vậy, ngồi  nhâm nhi cà phê, ăn bánh ngọt, có thì giờ để nhắc  lại không biết bao nhiêu chuyện đời trước ở Việt  Nam. Hôm nay, hình như Thọ có điều gì muốn  nói, nên khi Thuận nói phải về thì Thọ giữ lại.  Thuận ngạc nhiên: 
64 | Nhã Ca 
– Giờ này ông chưa về đón mấy đứa nhỏ?  
– Bả lo rồi. Bữa nay tôi có chút chuyện nói  với anh…  
– Chuyện gì? Sao bí mật quá vậy?  
Thọ cười, đưa cho Thuận thêm điếu thuốc:  
– Hỏi thiệt nghe, có khi nào cậu còn nhớ tới  người vợ ở bên kia không?  
– Có? Không? Nhiều phần là có. Nhưng  chuyện đời trước, kiếp trước qua rồi. Không  muốn nhớ, không muốn nhắc.  
– Chị ấy rất tội.  
– Thì tôi có oán trách gì đâu! Nghĩ cho cùng  thì mỗi người có một số mạng… Bà ấy… đã nói  thôi không nhắc là không nhắc.  
– Trước đây vợ chồng tôi cũng đồng ý là  không nhắc lại với anh, nhưng bây giờ đến lúc  phải nhắc.  
Thuận ngạc nhiên: 
2. Qua một kiếp khác | 65 
– Tại làm sao?  
Thọ kể, vợ anh đã vượt biên, đến đảo. Thằng  Kevin được tin, sợ anh không dám nói nhưng có  cầu cứu vợ chồng tôi. Tôi có chỉ vẽ cho nó gửi thư  qua đảo, làm giấy bảo lãnh và hiện nay.  
Thọ nhìn Thuận như dò phản ứng, rồi nói  nhanh:  
– Bả đang ở Mỹ.  
Thuận thấy chới với. Cái đầu như ngất đi một giây rồi tỉnh lại, yếu đuối, bàng hoàng. Thọ tiếp:  
 – Anh đừng xúc động. Vợ chồng tôi có lỗi  là đã giúp các cháu mà giấu anh. Nhưng anh hãy  nghe tôi giải thích.  
Thọ nói. Người chồng sau của vợ anh đã chết sau một thời gian ngắn khi hai đứa con anh qua  Mỹ. Cái chết có nhiều khả nghi, người thì nói tự  tử, người thì nói bị ám sát. Ông ta có làm ăn, móc  ngoặc, có ân oán giang hồ, và cái chết của ông là  rớt từ trên lầu cao xuống. Vợ anh đi vượt biên,  đến đảo, liên lạc với thằng con lớn, và với sự giúp 
66 | Nhã Ca 
đỡ của vợ chồng Thọ, đã tới Mỹ từ ba tháng nay.  Tôi có nói với chị là liên lạc với anh, nhưng chị  nói thôi, thôi. Chúng tôi đã hết rồi. Lỗi về phần  tôi. Chị ấy bây giờ sống tội lắm, không đi đâu,  không giao thiệp với ai. Chị chỉ đi chùa, chùa nào  cũng đi… Gần năm mấy nay rồi!  
Lòng anh có mềm đi. Hèn chi hai thằng con,  mùa lễ Giáng Sinh vừa qua, nhất định xin đi Florida ăn lễ do gia đình người bạn mời. Chúng  nó đã đi gặp mẹ mà giấu anh.  
– Tụi con đi chơi trước để Tết ở nhà với ba.  
Ha, thì ra anh là một thằng khờ, hết vợ gạt,  con gạt rồi bạn gạt. Nhưng anh cũng không có lý  do gì để trách Thọ.  
Anh trở về nhà. Lúc lái xe qua phố, anh thấy  đã có một vài chỗ bày bán hoa. Tết cứ từ từ mà  tới, anh không biết vì lòng anh đã không có Tết  từ lâu rồi. Nhưng hôm nay sao trong lòng anh là  lạ, như có cái gì mới mẻ len lén nhen nhúm trong  anh. Anh bước vào nhà, hai đứa con trai, đã tự  lo xong bữa ăn chiều. Ba cha con ngồi ăn cơm. Kevin nói: 
2. Qua một kiếp khác | 67 
– Ba à. Con muốn sơn lại nhà cửa.  
Anh cao hứng:  
– Rồi mua cây chưng trong nhà, mua hoa  trồng trước sân. Ừ, mình phải sửa sang nhà cho  đẹp.  
Hai đứa con ngó nhau như thầm hỏi chiện gì  đây?  
– Và ba có chuyện nói với con.  
– Ba, ba nói đi.  
– Ba báo cho con một tin vui. Ba sẽ đem về  cho con một bà mẹ… mới toanh.  
Hai đứa lại ngó nhau. Kevin hầm hầm:  – Không được đâu ba.  
Thằng em:  
– Lấy vợ thì ba dọn đi nhà khác. Chúng con  không ở với ba.  
Tự nhiên anh vọt miệng: 
68 | Nhã Ca 
– Sao hồi đó má bây lấy người khác, tụi bây  không bỏ đi ở chỗ khác?  
Kevin đã lớn rồi, đủ lý lẽ để bào chữa cho mẹ:  
– Ba à, hồi đó khác. Hồi đó, má con vì hai  đứa con. Má con có thể chết, có thể cắt thịt cho  con ăn, nhằm nhò gì chuyện có một người đàn ông để giữ ba mạng người.  
Ôi thằng con. Nó đã lớn. Lớn hơn cả anh  nữa. Kevin tiếp: 
– Tụi con thán phục ba vì cách ba cư xử tốt  đẹp với má, chớ không…  
– Chớ không thì sao?  
– Tụi con ở lại cùng chịu khổ với má.  
Anh đặt bát cơm đang cầm trên tay xuống  bàn, nghiêm trang nói:  
– Hai con nghe đây. Ba đã nhất quyết rồi. Ba  không thể ở một mình mãi, ba già rồi…  
– Già rồi mà còn ham lấy vợ. Sao không  cưới vợ cho con đi. 
2. Qua một kiếp khác | 69 
– Con cũng phải cưới vợ. Nhưng ba muốn  con có một người mẹ…  
– Con không muốn một người mẹ nào khác  ngoài má con. Anh cười, nhìn con âu yếm:  
– Thì bởi vậy nên ba sẽ đón... đón ai tụi con  biết không?  
Hai cái mặt lại ngơ ngác, anh nói mau:  – Đón má con. Má ruột của tụi con.  
Mặt hai đứa tái ngắt. Đứa này nhìn đứa kia,  há hốc miệng.  
– Ba biết hết rồi, sao tụi con giấu ba?   – Con… con…  
Thằng lớn nghẹn lời. Anh nhìn hai đứa con  bằng con mắt dịu dàng, thương yêu, giống cái  nhìn lần đầu tiên với chị, trong ngày cưới.  
– Ba mới biết đây. Các con hư lắm. Má con  sang đã gần năm mà vẫn giấu ba…  
– Ba, ba, tha lỗi cho chúng con. 
70 | Nhã Ca 
– Chúng con không có lỗi. Chỉ có lỗi giấu ba  thôi.  
– Ông ấy đã chết. Má con ở một mình.  
– Ba biết. Đưa cho ba số điện thoại. Tối nay  ba gọi má con. Ngày mai mình sửa nhà, trồng  cây, ăn Tết lớn.  
– Ô Ba. Thiệt há Ba. Thiệt hôn Ba?  
Hai đứa con bỏ ghế đứng dậy ào qua phía  anh, ôm chặt lấy anh. Hai đứa con bật khóc. Anh  cũng khóc. Ba cha con ôm nhau khóc vùi. Bao  nhiêu năm trái tim anh ngủ miết, bây giờ mới  hồi sinh thức dậy…  
Trước khi gọi điện thoại cho chị, anh chải  đầu, soi gương. Anh mở cửa sổ, thấy như có chút  gió xuân lùa trên mớ tóc bạc của anh. Anh cầm  điện thoại lên.  
Bên kia đầu giây chuông reo, có người nhấc  máy. 
2. Qua một kiếp khác | 71 
– Alo. Alo, anh đây. Anh đây.  
Thuận chẳng nghe gì ngoài tiếng khóc. 
72 | Nhã Ca
3. Con Bần | 73 
Con Bần  
Trời mùa đông ở Huế, lạnh cắt da thịt mà  
con Mận phải dậy từ ba giờ sáng. Bà chủ  là cái đồng hồ tốt nhất. Nếu có bữa nào Mận ngủ  quên thì cứ đúng giờ bà chủ tỉnh dậy, gọi:  
– Con Bần dậy chưa, dậy xắt chuối cho heo  ăn.  
Bần là tên cúng cơm của cha mẹ đặt cho.  Nhưng Mận không hề biết cha mẹ mình là ai.  Ông chủ nghe cái tên Bần, kỵ, sợ có cái nghèo  trong nhà, nên mới sửa lại tên Mận. Bà chủ quen  miệng, cứ gọi là con Bần. Tên Mận ngọt ngào  thanh lịch đâu có hợp cho một con ở đợ.  
Đâu chỉ có xắt chuối không thôi. Nấu cơm  bằng củi ướt, thổi, khói xông hai con mắt đỏ lòm, 
74 | Nhã Ca 
sưng húp, nước mắt chảy ràn rụa. Hồi còn nhỏ,  hai con mắt Mận luôn luôn có hai cục ghèn. Cậu  chủ sợ lắm, hễ con Bần bưng cơm vô phòng học  cho cậu là cậu gớm, không chịu ăn. Bà chủ lại  chửi:  
– Con quỷ, mi bưng cơm vô cho cậu chủ thì  phải rửa tay, rửa mặt sạch sẽ, nghe chưa. Xòe bàn  tay coi.  
Con Bần xòe tay, lúc nào cũng bị gõ mấy cây  thước đau điếng. 
– Đồ nhớp nhúa.  
Nấu cơm hay cháo bữa sáng, xong rồi, tay  nách một cái thau, đầu dội một cái thau nữa đựng quần áo dơ đi xuống sông giặt. Mùa đông khổ  hết biết, nước lạnh băng, xà phòng không có, giặt  bằng trái mù u. Xát bọt mù u với cục đá lên quần  áo, chà mòn nhám cả tay. Chưa kể mỗi ngày phải  cầm cái búa bửa củi, rồi chẻ củi thành từng thanh  nhỏ. Và để tiết kiệm, con Bần còn phải cầm cái  cào đi cào lá khô đem về nấu nướng, bởi vậy, hai  bàn tay của con Bần sần sùi, lúc nào cũng có vết 
3. Con Bần | 75 
đứt, trầy trụa, có khi mưng mủ, cả đêm đau nhức  không ngủ được. Hai con mắt nó gần như bị bét  nhèm, vì thổi ống khói cho củi cháy lên, nhất là  mùa đông, lá cây, củi mục gì cũng ẩm ướt, hai  con mắt nó bị um khói chín nhừ.  
Mặt con bé buồn lắm, duy nhứt có đôi mắt  tròn xoe, đen nhánh và cái mũi cao, kín đáo. Có  lần, một ông thầy tướng tới coi cho cậu chủ, con  Bần pha nước hầu, ông thầy ngó nó:  
– Con ni thiếu niên tân khổ nhưng qua tuổi  ba mươi, nó đổi vận hạn, giàu có lắm chớ không  phải chơi mô.  
Bà chủ cười nhạt, không tin. Cái thứ dân bần  tiện này, nếu bà không nuôi, có đi ăn mày, ăn cắp  mà sống, đôi khi cũng chết tấp trong bờ bụi, ruồi  kiến bu rồi.  
Con Bần thuộc lòng câu nói của ông thầy  tướng để an ủi mỗi khi làm lụng cực quá hay bị  mắng chửi, ăn đòn. Từ nhỏ tới lớn, con bé ăn  đòn đếm không hết số. Và mỗi lần bà chủ giận  là người mẹ của Bần bị đem ra biêu riếu. Theo lời 
76 | Nhã Ca 
bà chủ thì Bần là con hoang, mẹ gánh nước thuê,  không biết nhẹ dạ với ai mà có mang. Đẻ con ra  nhưng nuôi không nổi, gặp năm đói đã bỏ con  nhỏ đầu làng, trốn đi. Con nhỏ bị kiến bu, người  tím bầm. Ông chủ thương tình đem về nuôi, và  bà chủ huấn luyện thành con ở.  
– Cái thứ đó rồi cũng y như con mạ nó, đoản  hậu rứa thế!  
Ăn toàn canh thừa cá cặn, lại ăn không đủ, mặc không ấm, năm mười sáu tuổi con Bần cũng  lớn lên được, nhưng gầy nhom, nhìn thấy cả bộ  xương. Có điều, không biết ai gây giống mà con  Bần có cặp mắt đẹp quá, đen láy, hễ giương mắt  nhìn ai là người đó không thể ngoảnh mặt làm  ngơ, trừ bà chủ lòng dạ sắt đá. Bạn bè của cậu  chủ tới chơi, thấy con Bần ngộ quá, cũng tấm tắc:  
– Coi con ở nhà mi ưa mắt lắm nghe. Con  mắt nó đẹp quá.  
Cậu chủ làm nghiêm:  
– Nó là con ở, tụi bây đừng bắt thang cho nó  leo. 
3. Con Bần | 77 
– Làm ra vẻ ông cụ há. Thôi mi ơi, đã nói  trong nhà gì đẹp bằng sen…  
Con Bần ra đằng sau nhà, có cái lu nước mưa,  cúi xuống soi mặt. Trong lu nước, cặp mắt nó  nhìn lại nó và nó cười. Có cả áng mây từ trên trời  in trong đáy lu nước nữa. Nó đưa tay vọc, mắt nó  tan, mây tan. Nó đứng sững, muốn soi mặt mình  lại lần nữa cũng không được. Nó thương đôi mắt  nó lắm, ai đã cho nó hai con mắt đó vậy? 
Nghe nói lúc xưa, Bần có người mạ, bỏ con  mà đi. Bần đã một lần trốn nhà, muốn tìm mạ.  Đi suốt mấy ngày qua làng bên, đói quá phải bò  về, để lãnh đòn thí chết. Sau lần đó, gia đình chủ  dọn lên thành phố, vì cậu chủ phải ăn học. Bần  không còn hy vọng tìm ra mạ mình nữa.  
Gia đình chủ chỉ có một cậu con trai. Năm đó  cậu thi đỗ tú tài, nhà rấp rem muốn cưới vợ cho  cậu. Ông bà chủ có một người bạn quen biết đâu  hồi mới lên thành phố làm ăn mua bán, thường  tới lui thăm viếng, coi bộ hạp ý hạp tình lắm. Nhà  này có tới bốn chị em gái, nghe nói cô nào cũng  giỏi giang. Vậy là hai nhà đi lại, sắp làm thông 
78 | Nhã Ca 
gia với nhau. Con Bần nghe chuyện, tò mò lắm,  muốn biết mặt đứa con gái may mắn đó là ai. Khi  gặp, nó thất vọng, vì cô gái đó không nhan sắc mặn mà, chỉ vì con nhà giàu có.  
Lên thành phố ở, ông chủ bà chủ mải mê  chuyện làm ăn. Họ có một cửa hàng ở trên phố  mà nhà thì ở Vỹ Dạ. Cậu chủ đi học bằng xe đạp,  và mỗi lần trời mưa, dẫn xe về, cậu chủ đều bảo  con Bần:  
– Bần, xe tao nhớp quá, mày rửa sạch cho  tao.  
Con Bần chùi rửa chiếc xe láng cóng. Cậu chủ  thích lắm, tập cho con Bần biết đi xe đạp. Đạp  chiếc xe đạp con Bần sướng rơn, coi sang trọng  quá, đâu phải giống như con ở nữa. Nhưng biết đi  xe đạp rồi, cậu Thanh sai suốt ngày, đi mua thuốc  lá, đi bỏ thư, đi trả sách nhà bạn cậu. Lúc này nhà  vắng người, cậu chủ muốn nói chuyện cũng chỉ  nói chuyện với con Bần. Riết, có chuyện gì khẩn  cấp cậu cững nhờ Bần. Bữa nọ, cậu Thanh biểu:  
– Bần, mi đưa cái thư tới nhà cô Trâm giùm  tao chút được không? 
3. Con Bần | 79 
Con Bần được ra khỏi nhà là mừng rồi. Nó  hăng hái:  
– Dạ được, cậu.  
– Mi đừng vô nhà, nhà đó có chó dữ lắm. Mi  đứng đầu đường, chờ lúc cô nớ đi học, mi đưa  thư là được.  
– Tui nói mần răng.  
– Nói của cậu Thanh là không có chuyện chi  hết.  
Vậy ra, cậu Thanh vợ đã đi hỏi mà còn trai gái.  Mấy lần như vậy rồi, họ hẹn hò gặp nhau. Con  Bần cũng lấy làm vui vì chứng kiến hai người,  người nào cũng đẹp, xứng đôi vừa lứa lắm. Cậu  chủ, bớt coi rẻ rúng con ở, vì lúc này, Bần cũng trổ  mã, đẹp ra, mặc dù thân hình gầy nhom, nhưng  cặp mắt đẹp lạ lùng. Cô Trâm còn phải khen.  
– Con ở nhà anh có cặp mắt đẹp quá. Coi  chừng anh…  
 Cô cười rúc rích. Thanh nghiêm mặt: 
80 | Nhã Ca 
– Đẹp cũng là con ở. Em nói chi lạ rứa!  
Lại “trong nhà gì đẹp bằng sen”, cô Trâm nhắc  và cười khúc khích.  
Bữa đó con Bần tủi thân lắm. Nó khóc một  đêm sưng cả mắt. Sáng ra, cậu chủ nhăn mặt:  
– Coi tề. Mi cứ ở nhớp nhúa, coi, hai cục  ghèn dính nơi mắt tề…  
Con Bần đưa vạt áo lau. Nước mắt nó lại  muốn trào ra. Nó buồn cả tháng không hết.  
Chuyện của cậu chủ, dù kín đáo đến mấy  cũng có lúc hở ra. Ba má cô Trâm tới tận nhà nói  chuyện với ông bà chủ. Vậy là cậu chủ thất tình,  những lúc không có ai, cậu chủ say mèm. Con  Bần thương cậu chủ quá mà không biết làm sao  cho cậu chủ bớt buồn. Nhiều bữa, thấy cậu ngồi  trong phòng, nó gõ cửa. Cậu không mở mà còn  đuổi đi. Cho tới chỉ còn một tháng nữa là đám  cưới, cậu nhờ con Bần đi đưa thư nhưng con Bần  không gặp được cô Trâm. Bữa đó, cậu uống rượu  say mềm người. Nhà lại vắng, con Bần phải pha  nước chanh đem vô cho cậu chủ.