"
Non nước Xứ Quảng
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Non nước Xứ Quảng
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên sách : NON NƯỚC XỨ QUẢNG (Tân biên) Tác giả : PHẠM TRUNG VIỆT
Nhà xuất bản : KHAI-TRÍ
Năm xuất bản : 1969
------------------------
Nguồn sách : Việt Khương
Đánh máy : Phạm Thị Dạ Tường
Kiểm tra chính tả : Phạm Thị Dạ Tường, Nguyễn Tuấn Anh Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 03/10/2019
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn tác giả PHẠM TRUNG VIỆT và nhà xuất bản KHAI-TRÍ đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
MỤC LỤC
TÁI NGỘ
I. THEO GIÒNG LỊCH SỬ
II. ĐỊA-LÝ THIÊN-NHIÊN
1) ĐỊA-THẾ VỊ-TRÍ
2) DIỆN-TÍCH
3) CÁC NGUỒN LỢI VỀ NÔNG NGHIỆP, KỸ NGHỆ, THỔ SẢN, KHOÁNG SẢN VÀ HOẠT ĐỘNG TIỂU CÔNG NGHỆ
4) NÚI SÔNG, ĐỒNG BẰNG, BỜ BIỂN, HẢI ĐẢO
5) GIAO-THÔNG
6) KHÍ HẬU
III. ĐỊA LÝ NHÂN VĂN
1) DÂN SỐ
2) SINH HOẠT
3) PHONG TỤC TẬP QUÁN, TÍNH TÌNH, TÍN-NGƯỠNG NGƯỜI VIỆT MIỀN ĐẤT QUẢNG
4) DI TÍCH LỊCH SỬ
5) THẮNG CẢNH
a) THIÊN-ẤN NIÊM HÀ (ấn trời đóng trên sông)
b) THIÊN-BÚT PHÊ VÂN (Bút trời vẽ mây)
c) CỔ-LŨY CÔ THÔN (thôn Cổ-lũy cô quạnh)
d) LIÊN-TRÌ DỤC NGUYỆT (nguyệt tắm ao sen)
e) THẠCH-BÍCH TÀ DƯƠNG (bóng chiều Thạch-Bích)
g) AN-HẢI SA BÀN (mâm cát An-Hải)
h) VÂN-PHONG TÚC VÕ (núi Vân đêm mưa)
i) THẠCH-CƠ ĐIẾU TẨU (Lão câu gành đá)
IV. NHÂN VẬT – DANH THẦN
1) LÊ-VĂN-DUYỆT (1763-1832)
2) TRƯƠNG-ĐĂNG-QUẾ
3) NGUYỄN TẤN
4) CHÍ SĨ CÁCH MẠNG TRƯƠNG-CÔNG-ĐỊNH (1820-1864)
5) LÊ-TRUNG-ĐÌNH (1862-1885)
6) NGUYỄN THỤY (1878-1916)
a) Tham gia phong trào khất thuế chống Pháp b) Nguyễn-Thụy và cuộc Duy-Tân khởi nghĩa c) Cái chết của người chí sĩ cách mạng
7) HIẾU TỬ NGUYỄN-VĂN-DANH
V. THI CA
1) CA DAO, TỤC-NGỮ
2) HÁT RU EM
3) HÁT HỐ
4) HÒ
a) Hò (Nhân nghĩa)
b) Hò (vấn đáp)
VI. THƠ
1) TÚ CANG (1841-1898)
2) NGHÈ KIM
3) HỌC SOẠN
4) HỌC Ý (1831-1905)
5) NGUYỄN VỸ
6) BÍCH-KHÊ (1916-1946)
7) TẾ-HANH
VII. BỜ XE NƯỚC
1) TỔ CHỨC MỘT BỜ XE NƯỚC
a) Nguyên tắc vận chuyển
b) Muốn đặt bờ xe nước
2) CÁCH ĐIỀU HÀNH VÀ QUẢN TRỊ MỘT BỜ XE NƯỚC a) Thợ xe
b) « Bảo cử » xe
c) Thời gian làm xe
d) Thủy tô
e) Số chi thu hằng năm của một bờ xe nước 3) SỰ QUAN TRỌNG CỦA BỜ XE NƯỚC
a) Về mặt sản xuất
b) Liên hệ với đời sống dân chúng
c) Đặc điểm của bờ xe nước
VIII. NÔNG, LÂM SẢN
1) MÍA, ĐƯỜNG
a) Thời gian trồng mía và đốn mía
b) Các loại đường
2) QUẾ QUẢNG
a) Hình thái, tố chất và hương vị Quế
b) Phương pháp trồng Quế
c) Mùa bóc vỏ quế
d) Cách để dành Quế
e) Các kiểu quế Quảng (Trà-Bồng)
3) CÁC GIỐNG HUỲNH TINH
a) Cách trồng huỳnh tinh
b) Cách lấy bột
c) Có 2 cách khuấy bột
IX. CÁC NGHỀ CỐ HỮU
1) MẠCH NHA
a) Nguồn gốc
b) Đặc tính của mạch nha
c) Cách thức nấu mạch nha
2) KẸO GƯƠNG
X. THÚ VUI ĐỒNG QUÊ : ĐÁNH CHIM MÍA a) Các loại chim mía
b) Thú đánh chim mía
c) Món ăn chim mía
XI. MÓN ĂN ĐẶC BIỆT
1) CÁ BỐNG SÔNG TRÀ
a) Các loại cá bống
b) Cách đánh cá
c) Món ăn đặc biệt : cá bống kho tiêu
2) DON VẠN-TƯỢNG
a) Trà-Giang : quê hương duy nhất của loại don b) Mùa nhủi « don »
c) Cách nấu don
d) Ruột don xào dòn : món ăn chọn lọc XII. SÁCH BÁO THAM KHẢO
PHẠM TRUNG VIỆT
NON NƯỚC XỨ QUẢNG
Tân biên
KHAI-TRÍ SÀI-GÒN PHÁT HÀNH
1969
(Ấn bản mới của « Non Nước Xứ Quảng » sửa chữa, hiệu đính, kiểm chứng, tăng bổ tài liệu, hình ảnh sinh hoạt, thắng cảnh địa phương)
« NON NƯỚC XỨ QUẢNG » là cuốn sách đã giới thiệu rất đầy đủ về Quảng Ngãi với thắng cảnh, danh nhân, các sản vật và sinh hoạt của người dân Quảng Ngãi. (TẬP SAN SỬ ĐỊA Đại-Học Sư-Phạm Sàigòn số 2-1966)
…Nhìn chung, tập biên khảo của ông Phạm Trung-Việt vẫn là tập sách bổ ích, không những bổ ích cho việc tìm hiểu của những người muốn đi sâu vào non nước Việt-Nam mà còn bổ ích cho chính người địa phương. THƯ-TRUNG (Tin Sách số 12, Sổ tay một năm văn học do Trung Tâm Văn Bút Việt-Nam ấn hành 1963)
« NON NƯỚC XỨ QUẢNG » của Phạm trung-Việt, một tập khảo cứu về địa lý, nhân văn, thắng cảnh và thi ca Quảng-Ngãi.
Tài liệu đầy đủ, soạn thảo công phu, có nhiều thắng cảnh địa phương. (Tạp chí PHỔ THÔNG số 87-1962 – số tân niên 15-2-1966)
Cùng một tác-giả
Đã xuất bản :
- NON NƯỚC XỨ QUẢNG, biên khảo - TÂM SỰ NGƯỜI CHA I, II, tùy bút-thư - NON NƯỚC XỨ QUẢNG, tân biên
Sẽ xuất bản :
- NHỊP TRÔI, nhật ký – tùy bút
- THÙY DƯƠNG CA, thi tuyển
- HÀNH TRÌNH MÙA THU, hồi ký
- MẤY ĐƯỜNG TƠ, thơ
TÁI NGỘ
« Ai về Quảng-Ngãi xa xôi »…
Dư âm của tiếng hát chiều phượng xưa còn nghe vẳng đâu đây, gờn gợn theo sóng nước Trà-giang.
Mười năm qua, bao nhiêu lá rụng, nước vẫn chảy qua cầu xuôi về biển cả bao ước vọng thầm kín, tâm tư khổ đau của con người.
Hơn một lần tái ngộ. « Non nước xứ Quảng » thân gởi lời cảm tạ tri kỷ bốn phương từng dành cho núi Ấn sông Trà mối cảm tình lai láng.
Cái thuở ban đầu yêu sông núi ấy, ai làm sao quên được ?
Núi sông nầy từng che chở, an ủi, khuyến khích kẻ cầm bút chập chững trên bước đường sự nghiệp.
Tạ lòng tri kỷ, đền ơn quê hương, người văn nghệ chỉ biết làm kiếp tằm nhả tơ tô điểm cho miền đất Quảng một màu tươi đẹp vĩnh viễn, dù quê hương từng trải mấy lớp tang thương.
Xứ Quảng xa xôi nhưng tình dân vẫn gần gũi, khắn khít muôn đời với đất Mẹ. Tô điểm cho non sông xứ Quảng, phải chăng đã góp phần tăng vẻ đẹp gấm vóc cho nước Tổ.
Với ý nghĩa trên, người văn nghệ thành kính dâng lên Tổ Quốc Việt-Nam tập biên khảo « Non nước xứ Quảng tân biên ».
PHẠM TRUNG VIỆT
« Hoài hương »
Mơ về đất Tổ mộng nào nguôi
Một trận cười pha lệ sụt sùi.
Hòn BÚT sang nghiên trăng lại gió Sông TRÀ mượn chén ngược rồi xuôi. QUẢNG giao đèn sách tuồng xao lảng
NGHĨA nhớ quê hương luống ngậm ngùi. Đời có khi say còn lúc tỉnh
Thế thời, hai tiếng khó mà lui.
BẠCH VÂN
CHÂN DUNG
« Họa phẩm của Nghiêu-Đề, huy chương bạc, Triển lãm hội họa mùa xuân 1961 ».
I. THEO GIÒNG LỊCH SỬ
XỨ Quảng, miền núi Ấn sông Trà ngày-nay, nguyên xưa là đất Việt-Thường Thị. Đời Tần thuộc Tượng quận đời Hán thuộc quận Nhật-Nam (đất huyện Lư Dung). Cuối đời Hán bị quân Lâm-Ấp chiếm, đời Tùy bình định quân Lâm-Ấp đemthuộc về Hồng-Châu, sau đổi thành quận Hải-Ân. Đời Đường thuộc Sơn-Châu, đời Tống thuộc Cổ-Lũy-động của Chiêm-Thành.
Năm Nhâm-Ngọ (1402) Hồ-Quý-Ly sai tướng Đỗ-Mẫn mang quân chinh phạt Chiêm-Thành. Vua Chiêm Ba-địch-Lại (con La-Khải) phải nhường Chiêm động (nam Quảng-Nam ngày-nay) để xin bãi binh. Vua nhà Hồ buộc Chiêm Thành phải nhượng thêm Cổ-Lũy-động (Quảng-Ngãi ngày-nay).
Hồ-quý-Ly chia đất nầy thành 4 châu : Thăng, Hoa,Tư, Nghĩa, đặt lộ Thăng Hoa thống hạt 4 châu.
Đời Minh-thuộc (1414-1427), các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa lại bị mất về Chiêm.
Năm 1471 Vua Lê-thánh-Tông xuống chiếu thân chinh. Tháng giêng Tân-Mão (1471) toàn quân Việt chia làm 2 đạo, mỗi đạo 100.000 thủy quân do Thái-Sư Đinh Liệt và Thái-Bảo Lê Niệm chỉ huy tiến vào đất Chiêm. 500 chiến thuyền Việt do Tả Du Kích tướng quân Lê-hy-Cát chỉ huy lẻn vào cửa biển Sa-Kỳ (Quảng-Ngãi) lập dinh lũy, đặt đồn ải, khiến quân Chiêm sợ phải rút lui về cố thủ tại Trà-Bàn.
Vua Lê-thánh-Tông ra lệnh tiến binh vây hãm cửa Thị-Nại, ngày 29-2 Tân-Mão (1471) vây thành Trà-Bàn ngày 1-3 vào thành bắt được vua Chiêm Trà-Toàn, ngày 2-3 xuống chiếu sửa soạn ban sư. Vua cho người Chiêm đầu hàng là Ba-Thái làm đồng Tri Phủ Đại Chiêm bổ ông Lê-y-Đà làm Tri Châu Cổ-Lũy coi việc quân dân.
Tháng 6 năm Tân-Mão (1471) vua Lê-thánh-Tông lấy đất Chiêm Thành vừa chiếm đặt làm đạo Thừa-Tuyên Quảng-Nam thống lảnh 3 phủ 9 huyện trong đó có phủ Tư-Nghĩa gồm có 3 huyện : Bình-Sơn, Mộ Hoa (Mộ-đức ngày-nay) Nghĩa Giang (Nghĩa-Hành ngày-nay).
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn Thuận-Quẳng đổi thành Quảng-Nghĩa phủ nhưng cũng thuộc Quảng-Nam dinh.
Đời nhà Nguyễn Tây-Sơn (1788-1802) cải Quảng-Nghĩa thành Hòa-Nghĩa phủ. Năm 1802 vua Gia-Long khôi phục đất ấy đặt tên Quảng-Nghĩa dinh có chức
quan Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục cai trị. Năm 1808 đổi làm Quảng-Nghĩa trấn, quan cai trị gọi là Trấn-Thủ.
Năm Minh-Mạng thứ 8 (1827) lại đổi chức Ký Lục Cai Bộ làm Hiệp Trấn, ThamHiệp. Năm 1832 chia đặt đặt tỉnh hạt, đổi trấn thành tỉnh, đặt 2 ty Bố-Án (Bố Chánh và Án-Sát) thống thuộc Quảng-Nam. Năm 1834 lại gọi Nam-trực-tỉnh.
Năm Thành-Thái thứ 2 (1890) đặt 3 châu : Sơn Tĩnh Nghĩa hành, và Mộ-Đức thuộc Nghĩa-Định sơn phòng, đổi 3 châu ấy làm 3 huyện do tỉnh kiêm quản, bỏ chức Bố-Chánh đặt chức Tuần-Vũ cai trị 1 phủ : phủ Tư-nghĩa và 6 huyện : Chương-Nghĩa, Bình-Sơn, Mộ-Đức, Nghĩa-Hành, Sơn-Tỉnh, Đức-Phổ gồm tất cả : 24 tổng, 426 xã, thôn, ấp, trại.
- Từ 1908 cho đến năm cuối của Triều Nguyễn (Bảo-Đại (1926-1945) miền Trung châu Quảng-Nghĩa được chia thành 4 phủ : Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư-Nghĩa Mộ-Đức ; 2 huyện : Nghĩa-Hành, Đức-Phổ, tất cả 21 tổng, 403 làng. Miền Thượng được chia thành 4 nha : Trà-Bồng, Sơn-Hà, Minh-Long, Ba-Tơ với 17 tổng, 199 « nóc ». Miền duyên hải có đảo Lý Sơn 1 nha, 2 làng.
- Từ 9-3-1945 đến 19-8-1945, tổ chức hành chánh không thay đổi mấy, chỉ đổi chức vụ cai trị : Tuần Vũ đổi thành Tỉnh Trưởng (chính phủ Trần-trọng-Kim).
- Từ 19-8-1945 đến 1-11-1954 (ngày hội nghị Trung-Giả quyết định chuyển giao quyền cai trị trong khuôn khổ hiệp định Genève 20-7-54).
Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa 1945, tỉnh Quảng-Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê-trung-Đình, phủ Tư-Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy, xã Chánh-Lộ lấy tên xã Nguyễn-Viện, v.v… Về tổ chức, lập liên xã, bỏ các làng cũ.
Nhưng sau một thời gian thay danh hiệu, Tỉnh Huyện đều lấy lại tên cũ. Các Phủ, Huyện, Nha trong tỉnh đều gọi là Huyện, gồm tất cả 10 Huyện, 124 liên Xã. Đảo Lý-Sơn sát nhập vào huyện Bình-Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếmđóng sát nhập hải đảo nầy vào thành phố Đa-Nẵng.
Từ 1-11-1954 đến nay (1969) tỉnh Quảng-Ngãi được chia thành 10 quận :
- Bình Sơn : 24 xã
- Sơn Tịnh : 24 xã
- Tư Nghĩa : 14 xã
- Nghĩa Hành : 8 xã
- Mộ Đức : 12 xã
- Đức Phổ : 15 xã
- Trà Bồng : 13 xã
- Sơn Hà : 14 xã
- Minh Long : 14 xã
- Ba Tơ : 24 xã
Cộng : 158 xã
Xã Cẩm-Thành nằm giữa tỉnh lỵ, trước kia thuộc quận Tư-Nghĩa hiện đã tách rời, thuộc tòa Hành Chánh tỉnh.
2 xã ở hải đảo Lý-Sơn sát nhập vào quận Bình Sơn, lấy tên Bình Vĩnh, Bình Yến. Ranh giới Quảng-Ngãi hiện chạy từ phía nam Dốc Sỏi đến giáp đèo Bình-Đê.
Trải nhiều thế kỷ, dân tộc Chàm từng lấy miền đất Quảng nầy làm thành lũy ngăn chận cuộc Nam tiến của dân tộc Việt. Hiện nay tại địa phương còn vài di tích lịch sử như thành lũy ở Châu Sa (Sơn Thành Sơn Tịnh) Cổ Lũy (Tư Nghĩa), v.v…
Thỉnh thoảng đồng bào địa phương vẫn còn đào được nhiều tượng đá với nét điêu khắc tuyệt mỹ tiêu biểu cho nền văn minh Chiêm-Thành. Đến Quảng-Ngãi du khách hiện còn nghe một số tên địa phương chỉ tên sông như : Trà Khúc, Trà Bồng, chỉ cửa biển như : Sơn Trà Những tên nầy có giọng Chàm vì tiếng Trà do chữ Phạn Jaya, một trong 4 dòng họ Chiêm chính thống : On, Ma Trà, Chế (hiện ở thôn Năng Đông, xã Tư Hòa, quận Tư Tư-Nghĩa còn ước 500 người mang dòng họ chế với ngôi mộ Tiển Hiền của họ.
Khi tiến sâu vào Nam, công cuộc di dân bén rễ và bành trướng nhanh chóng, dân tộc Việt dựa trên ý thức Quốc Gia, cơ sở gia tộc và nhất là khả năng đồng hóa đặc biệt của mình, để sinh tồn.
Và xứ Quảng, miền núi Ấn sông Trà, phần đất của quê hương là chứng tích cuộc hành trình Nam tiến lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt.
II. ĐỊA-LÝ THIÊN-NHIÊN
1) ĐỊA-THẾ VỊ-TRÍ
- Địa-thế Tỉnh Quảng-Ngãi nằm giữa miền Trung nguyên Trung phần, có nhiều núi đồi cao, có gò, thung lũng, có những cánh đồng trồng lúa, mía và biển cả.
- Vị-trí-Tỉnh Quảng-Ngãi ở bắc vĩ tuyến 150 (8’, kinh độ Greenwich 1800 47’, cao độ ở đồng bằng là 8m, cao độ tại ga Quảng Ngãi 9m, khoảng cách với SàiGòn 877 km, bắc giáp Quảng Tín, Nam giáp Bình Định, Đông giáp biển Nam Hải, tây giáp Trướng Sơn và tỉnh Kontum.
2) DIỆN-TÍCH
Căn cứ vào không ảnh và bản đồ, Quảng Ngãi có hình thể đa giác gảy nhiều cạnh, bề ngang từ 40 km đến 60 km, chiều dài 98 km, Diện tich toàn tỉnh ước chừng 4.359 km2.1
Quận Trung Châu :
- Bình Sơn : 498 km2
- Sơn Tịnh : 311 km2
- Tư Nghĩa : 220 km2
- Nghĩa Hành : 186 km2
- Mộ Đức : 252 km2
- Đức Phổ : 287 km2
- Xã Cẩm Thành : 3 km2
Quận Thượng :
- Trà Bồng : 439 km2
- Sơn Hà : 807 km2
- Minh-Long : 395 km2
- Ba-Tơ : 942 km2
Hải đảo Lý-Sơn 19 km2 hiện sát nhập vào quận Bình-Sơn.
3) CÁC NGUỒN LỢI VỀ NÔNG NGHIỆP, KỸ NGHỆ, THỔ SẢN, KHOÁNG SẢN VÀ HOẠT ĐỘNG TIỂU CÔNG NGHỆ
Diện tích canh tác toàn tỉnh : 89 201 ha, 830.
Lúa : Có 4 vụ lúa :
- Tháng 3 : 35. 400 ha lúa trắng, ba trăng, 1 mẫu thu được : 1200 kí - Tháng 8 : 20.000 ha lúa tàu núp và chiêm ngự. 1 mẫu : 1 600 kí. - Tháng 10 : 16.500 ha lúa đen, bông rinh. 1 mẫu : 1.100 kí
- Tháng 12 : 8.223 ha lúa trì trì.
Năm 1968 đã thí nghiệm thành công lúa Thần Nông (IR8) năng xuất gấp 3 các giống lúa địa phương. Năm 1969 đang phát triển 1500 ha lúa Thần Nông trong toàn tỉnh.
Hoa màu phụ quan trọng : mía, dừa, thuốc lá khoai lang, mì, bột huỳnh tinh…
Cây ăn trái : chuối, xoài, cam, quít, v.v…
Rau Cải : Các giống rau nhất là rau muống thích hợp với đất phù sa ven 4 sông lớn.
Thổ sản nổi tiếng : Quế sản xuất ở nguồn Thanh-Cù (Trà-Bồng) có ít dầu, vị bạc ; nghĩa sâm sản xuất ở các núi dọc bờ biển thuộc quận Bình-Sơn, tháng 2, 3, nở hoa.
Khi ấy người ta đào củ, rửa sạch đem chưng rồi cạo bỏ vỏ ngoài, ban ngày phơi, ban đêm sấy lửa cho khô, củ có vần ngang giống sâm ở Bắc, vị cam đạm.
Khoáng sản. Quảng Ngãi có những hầm mỏ đã tìm thấy nhưng chưa được khai thác : Mỏ chì ở Tân An Sơn-Tây (Sơn-Tịnh) Mỏ Kaolin ở Di-Lăng (Sơn-Hà) Mỏ sắt ở Đức-Hoài (Mộ-Đức) có quặng sắt (loại nầy : Có từ 62,5 đến 73,5% oxyde de fer) hầm mò lộ thiên khám phá năm 1965 tại xã Đức-Hoài, cách tỉnh lỵ 15 km về phía Nam. Hầm mỏ ước lượng 40 triệu tấn, trị giá 20 tỷ bạc NV (tài liệu VTX năm 1965).
Chăn nuôi : Không quan trọng vì không cò đồng cỏ, không có thành phần chuyên sống về nghề chăn nuôi, chỉ thực hiện trong phạm vi gia đình. Tuy nhiên vẫn có số ít người chuyên nuôi vịt, nhiều nhất là 1000 con (hiện nay có phong trào nuôi heo, gà (giống ngoại quốc).
Tỉnh Quảng-Ngãi, trong năm 1969 theo bảng thống kê địa phương có chừng 26.150 con trâu, 134.500 con bò 157.000 gà, 132.000 vịt. Số gia súc trên thường được đem bán ra ngoài tỉnh.
Chài lưới : 25.000 ngư dân Quảng-Ngãi Sa-Huỳnh đánh cá trên sông bể. Đánh cá bể quan trọng hơn đánh cá sông Các ngư thuyền có động cơ thường hoạt
động theo ven biển : Sa-Huỳnh, Bình Sa, Bình-Thiện, Đức-Hải, Tư-hiền. Hằng năm trung bình ngư dân đánh được : 4000 tấn cá biển, 30 tấn cá sông, 45 tấn tôm, 30 tấn mực. Số lượng sản xuất nước mắm ở Quảng-Ngãi trung bình hằng năm : 200.000 lít. Tỉnh Quảng-Ngãi có 2 nơi làm muối : Sa-Huỳnh, Bình-Đức sản xuất hằng năm 980 tấn dư dùng trong tỉnh. Muối thặng dư được bán ở các tỉnh miền Trung.
Thương mại : Hiện hạng trung tiểu thương, hoạt động khá mạnh những người buôn gánh bán bưng chiếm số lượng đáng kể. Các tiệm buôn to phần nhiều của ngoại kiều và người ngoài tỉnh. Các chợ là trung tâm trao đổi hàng hóa tại thôn xã. Ngoài Thị xã là trung tâm buôn bán có ngôi chợ lớn, toàn tỉnh có 110 chợ rải rác các quận, xã và tiểu thị trấn.
Các hoạt động tiểu công nghệ : Làm gạch ngói, dệt vải, chiếu, chằm nón. Gạch ngói nhiều nhất ở Tư-Nghĩa (Sông Vệ) toàn tỉnh có 60 lò sản xuất, đủ cung cấp cho công tác kiến thiết, xây dựng nhà của trong tỉnh. Hằng năm sản xuất độ 750 triệu viên gạch, 350 triệu ngói. Nghề dệt chiếu phát đạt ở Tư Nguyên (Tư
Nghĩa : hằng năm sản xuất 251000 đôi chiếu (đặc biệt đã bắt đầu dùng nylon dệt thay lát). Nghề làm nón cũng đang phát triển mạnh, trở thành nghề phụ của những gia đình nông thôn hay các gia đình đình định cư, tạm cư. Hằng năm mức sản xuất từ 500.000 đến 70.000 chiếc nón tiêu thụ trong ngoài tỉnh, nhất là các tỉnh miền Nam (tài liệu địa phương chí Quảng-Ngãi năm 1968).
Sản phẩm địa phương xuất tỉnh : đường, mạch nha, kẹo gương, thuốc lá, quế… những hàng hóa nhập tỉnh : gạo, các dụng cụ nông nghiệp, vải…
4) NÚI SÔNG, ĐỒNG BẰNG, BỜ BIỂN, HẢI ĐẢO
Về hình thể thiên nhiên, tỉnh Quảng-Ngãi được chia làm 2 miền riêng biệt : vùng Thượng du, vùng Trung Châu và 1 hải đảo.
- Vùng Thượng du : rộng gần bằng 2/3 diện tích toàn tỉnh, Vùng nầy thuộc loại đất núi, có nhiều đá, khả năng khai thác kém, núi cao hiểm trở, rừng rậm bao la chiếm một diện tích trên 500 ha, nơi có lâm sản dồi dào sản xuất hàng ngàn thước gỗ quý, cung cấp nhiều củi lại thêm có quế Trà-Bồng là một lâm sản quan trọng rất được ưa chuộng trên thị trường quốc nội và quốc ngoại.
Quảng-Ngãi có nhiều núi cao hiểm trở như núi Cà-Đam tục gọi « Hòn Ông, Hòn Bà » cao độ 1600m tọa lạc địa hạt 2 xã Hà-Long và Hà Tây ngăn cách Sơn Hà và Trà-Bồng, về phía tây bắc, núi Đá Vách (Thạch Bích) cao độ 1500m tọa Lạc xã
Hà Thạch ngăn cách Sơn Hà Minh Long, núi U Bò ở xã Lò Xà Hà Khê (Sơn Hà) cao độ 1200m. Rất nhiều núi cao trung bình 700m như núi Cao-Môn phía tây quận Đức Phổ.
Ngoài ra còn có nhiều núi thấp như Tham Hội, Phụng Hoàng, Phổ-Tiên, Cổ Sơn (tục danh Ình Tình), Ngủ Chỉ Nam Châm, Mô Nỏ, Trà Quân (Bình Sơn), Thiên Ấn, Long Đầu, La Vọng, Tam Thai, Vu, Hổ Trụ, Truyền Tung, Ba Hãn, Vân Phong (Sơn Tịnh), Thiên Bút, Phú Thọ, Là Hà, Đầu Kê, Kỳ Lân, Đầu Voi, Trấn-Công (núi Ông) (Tư Nghĩa) ; núi Eo Gió, Phú Lập, Mã Yên (Nghĩa Hành) ; Đằng Giao, Thiết Trường, Văn Bân, Nho Lãnh, Quất Lâm, Long Cốt, Lộ Bôi, Man Tân, Bình Quang, Sa Băng, Thanh Hiếu (Đức Phổ) ; Diên Trường, Tiên Mễ, Hoành Sơn, Cung Quăng, núi Đại (Đức Phổ).
- Vùng Trung Châu : Đất đai phần lớn là phù sa do các sông bồi lên. Dựa vào thành phần cát khá cao của đất vào P.H. Acit (trung bình 4,5 đến 5) và với sự xoi mòn hủy phá do thời tiết mưa nắng đặc biệt ở Quảng-Ngãi Người ta thấy rằng chất đất ở đây tương đối nghèo-sự thoát thủy lại quá nhanh, thêm váo đó mùa khô hạn kéo dài chứng tỏ có một sự thiếu nước trong nhiều tháng của năm. Một màu sắc nhạt ở bề mặt đất cho biết có sự thiếu chất bùn.
Tuy nhiên, Quảng-Ngãi có nhiều vùng đất rộng thích hợp cho việc cày cấy nhờ thế nước của các sông lớn phát nguyên từ dãy Trường sơn chảy xuyên qua đồng bằng rồi ra biển.
Lưu lượng các giòng sông biển thiên theo mùa. Về mùa nắng lòng sông khô cạn, trái lại mùa mưa, những cơn mưa dầm nặng hạt trên dãy Trường sơn làm cho nước đổ xuống các giòng sông khiến mực nước dâng cao đột ngột lan tràn vào các vùng đất xung quanh.
- Về sông ngòi : Quảng ngãi có 4 sông chính :
SÔNG TRÀ-BỒNG dài độ 50 km, ở phía bắc quận Bình-sơn, phát nguyên từ nguồn Thanh Bông, chảy qua quận Bình-sơn xuống hướng đông đến thôn Giao Thủy, lại chảy về đông bắc đến thôn Mỹ-huệ, Tân-An và chảy ra cửa biển Thể Cần (SƠN-TRÀ)
SÔNG TRÀ-KHÚC dài khoảng 120 km phía bắc quận Tư-nghĩa, tả ngạn con sông về phía bắc là quận Sơn-tịnh, phát nguyên từ vùng Thượng (tục danh mọi HRÉ (đọc Re) chảy qua 2 quận Tư-nghĩa và Sơn-tịnh. Sông Trà-Khúc tập họp các nguồn nước của 3 sông Di-Lăng thuộc xã Hà-tây (Sơn-hà) bắt nguồn từ Đakto, sông Daksélo (tức Xà-Lò) xã Hà-khê (Sơn-hà) bắt nguồn từ Kom-phong, sông HRÉ
thuộc xã Hà-Thượng bắt nguồn từ Ba-Tơ, từ Hải-Giá chảy xuyên qua quận lỵ Sơn hà, phía ngoài Trường lũy gọi là là Lệ-giang, chảy xuống hướng đông qua nguồn Thanh-Cù, từ phía tây tập họp vào gọi là Nham-giang lại chảy xuống đông-bắc qua thôn Diên-niên, Phước-lộc, Thu-phố, lại chuyển qua phía đông bắc chảy đến xã Phú-nhơn xuôi về hướng đông rút vào của biển Đại cổ-Lũy năm Tự-Đức thứ 3 (1850) được liệt vào hạng Đại xuyên (sông lớn) đăng vào tự điển Lưu lượng mùa nắng là 35 m3.
SÔNG VỆ dài chừng 80km ở phía tây quận Mộ-đức. Phía bắc con sông là ranh giới quận Tư-nghĩa. Sông nầy có ba ngả nguồn, chảy xuyên qua các quận Nghĩa hành, Mộ-đức, Tư-nghĩa :
- Từ núi Tô sơn nguồn An-Ba chạy ra gọi là Tô-giang, giòng sông khuất khúc chảy xuồng phía đông qua các đất mán Trà-nô, Trà nột đến mán Đồng chùa.
- Từ sơn phần Man lý chảy xuống đông bắc gọi là Lý-giang chảy qua Man-nậu, Man-năng rồi cùng hiệp với sông Man Đồng-chua chảy quật ra phía bắc, vòng quanh phía đông núi Cao-môn.
- Từ khe nước Nhĩ chảy xuống đông nam gọi là Na-giang rồi quẹo về phía đông chảy đến Man-sung rồi chảy về Nam cùng đến núi Cao-môn hiệp gọi là Bôn giang ; từ đây chảy quẹo xuống hướng đông đến núi Hung-nhỉ, Hương-Quán, lại chảy đến núi Long phụng quẹo qua phìa đông bắc chảy đổ ra cửa biển Đại cổ-Lũy. Niên hiệu Minh-Mạng thứ 17 (1836) có chạm hình sông vào Dụ-đỉnh.
SÔNG TRÀ-CÂU dài ước 40 km, phía nam quận Mộ-đức (nay thuộc quận Đưc phổ), phát nguyên từ núi Bàn-Thạch thuộc mán làng Lộ ngoài trường lũy, chảy đến mán Na-ấm hiệp lựu với khe Thiết-liêm gọi là sông Liêm, chảy khuất khúc về phía đông bắc đến Tỉnh-nam nhất bảo, chảy quanh qua phía đông nam gọi là sông Trà-Câu. Đến đây quẹo xuống phía đông, hiệp lưu với Thóc giang rồi chảy ra cửa biển Mỹ-Ý (tục gọi Mỹ-Á).
Sông Quảng-ngãi, đặc biệt sông Trà-Khúc và sông Vệ không có lưu lượng lớn như sông Mã, cũng không chảy lờ đờ như sông Hương, không quá rộng như sông Đà-Rẵng nên rất hữu ích cho nông nghiệp.
Trên các sông nầy, nông gia dựng rất nhiều bờ xe nước tự động, đào nhiều kênh, mương, tận dụng nước sông trong những mùa nắng hạn.
Ngoài 4 con sông lớn trên, Quảng Ngãi còn có các sông nhỏ như : Thóc-Giang hay Bến Thóc (Mộ Đức), sông Phố-Hiển-Đông (Đức Phổ), sông-Lê (phía tây quận Nghĩa-Hành), sông Chiến-Lộc (Sơn-Tịnh), sông Xà-Lộ (Bình-Sơn), sông Phước-
Hậu, v.v…
Quảng-Ngãi còn có một hệ thống 400/km kênh đập, bờ cừ, đê quan trọng :
- Đập Bến-Thóc tại xã Đức-Thọ (Mộ Đức) dài 104 th, cao 2m5 tưới 2000 ha, dân-số hưởng lợi 20.000 người, khởi công 11. 8. 58 hoàn thành 10-3-59.
- Đập Hố-Đá (Nghĩa-Hành) thuộc hệ thống sông Giăng hoàn thành 1958, dài 78th, tưới 2130 ha.
Ngoài ra còn các đập nhỏ : đập Suối-Tó (Tư mỹ) tưới 100 ha, đập ngăn nước mặn Đồng-phó (Phổ Châu) đập Hiệp Phổ, cây Bứa, v.v…
- Hệ thống đê : đê cầu Bi, Châu-Me-Đông, v.v…
- Hệ thống bờ cừ quan trọng : bờ cừ Mộ Đức tận dụng sông Vệ, bờ Cừ sông Trà-Khúc đầu khẩu kênh, đặc biệt bờ cừ Tư-Nghĩa (Tư-Quang) dài 588m bằng tre.
- Kênh Tư-Nghĩa (kênh chính dài 6km500 hỗ khẩu tại Tư Quang, nếu kể cả các chi nhánh có thể dài đến 30 km, như một màn nhện lấy nước sông Trà về tưới ruộng các xã trong quận. Công trình kỷ thuật là đập Ba-La đúc bằng xi mân cột sắt và đập cây bứa đã hoàn thành.
- Kênh Núi Sứa xã Sơn Long, Sơn Tịnh cách tỉnh lỵ 3 km phía bắc dài 13.300 km tưới 600 ha ruộng. Kênh Sơn-Tịnh dài 7000 th, lấy nước sông Trà-Khúc tưới ruộng các xã miền đông Sơn-Tịnh và đông-nam Bình-Sơn. Công trình kỷ thuật của kênh nầy là đập Tư-Cung Nam hoàn thành cuối 1962.
Tuy ở trên những con sông khác nhau nhưng về kỷ thuật công tác của các hệ thống dẫn thủy trên đều liên hệ mật thiết với nhau, tưới gần 10.000 ha ruộng.
- Suối nước nóng : Tại Quảng Ngãi có 8 suối nước nóng :
Suối Mộ Đức (Thạch Trụ) 520
Suối Tú Sơn (bắc Mộ Đức) 720
Suối Nghĩa Kỳ (Mỹ Thạnh Tư Nghĩa) 750
Suối Nghĩa Thắng (An Hội) 750
Suối Phước Thọ (Cù-Và Thạch-Nham) 570
Suối Bình-Hòa I (Lộc-Thanh Bình-Sơn) 640
Suối Bình-Hòa II (gần Bình-Hòa I) 540
Suối Kim-Thành (Nghĩa Lộc Nghĩa-Hành).
- Bờ biển Quảng-Ngãi : dài chừng 98 km có nhiều bãi cát dài, có nhiều đoạn nhô sát biển. Dọc theo bờ biển từng có những vườn dừa cao rậm, những rặng dương liễu mênh mông, những bãi cát trắng vàng hoặc những mõm đá tạo cho bờ
biển miền đất Quảng nhiều cảnh đẹp : mũi Ba-Tân-gân, bãi Mỹ-Khê, Sa-Huỳnh từng là những nơi thừa lương tốt, có nước trong, cảnh trí nên thơ. Đặc biệt Sa Huỳnh có nhiều ruộng muối thẳng tắp ngang dọc như đan bên bờ biển. Và cũng tại Sa-Huỳnh, người ta đã tìm thấy những cổ tích tiền sử trước khi có Chiêm Thành (những cổ tích tiền sử nầy, cũng như những di tích Chiêm-Thành đào được tại Quảng Ngãi hiện còn trưng bày ở Bảo tàng viện Saigon).
Quảng Ngãi có 5 cửa biển :
- Cửa Sơn-Trà ở phía đông bắc quận Bình-Sơn (xã Bình-Giang) cửa rộng 220m khi nước lên sâu 3m 2, có 2 gành đá gọi là gành Ông và gành Trà. Phía bắc gành có cảng rộng, nước sâu, ghe thuyền thông thương được. Cảng ở phía namhẹp nhỏ, nước cạn, ghe thuyền không ra vào được.
- Cửa Sa-Kỳ ở phía đông nam quận Bình-Sơn (xã Bình-Đức) cửa rộng 580m, khi nước lên sâu 2m4, có gành đá cao lên trên mặt nước hình như người đứng. Gành đá nầy được chọn làm thắng cảnh địa phương mang tên : Thạch-cơ điếu tẩu (Lão câu gành đá).
- Cửa Đại Cổ-Lũy ở phía đông bắc quận Tư-Nghĩa (xã Tư-Hiền) cửa rộng 1520m, khi nước lên sâu 5m6. Phía Nam là đại hải khẩu nước sâu, phía bắc là tiểu hải khẩu nước cạn ghe thuyền ra vào đều đi theo đại hải khẩu. Nơi đây có thôn Cổ Lũy, phía đông bắc dựa theo biển, phía tây nam liên tiếp cửa lớn là chổ mà hai ngọn nước của sông Trà-Khúc và Vệ Giang đổ dồn về đó.
Dân cư ở đây làm nghề đánh cá và dệt chiếu. Cửa biển cách xa làng mạc, phong cảnh trông như một vùng khói sóng lờ mờ.
Ở Quảng Ngãi, đây là một trong 12 cảnh đẹp gọi là Cổ-lũy cô thôn (thôn Cổ lũy hiu quạnh).
- Cửa Mỹ-Ý (tục gọi là Mỹ-Á) ở phía đông quận Đức-Phổ (Phổ-Xuân). Cửa biển rộng 32m, khi nước lên sâu 1m, 2, miệng cảng cạn, hẹp, ghe thuyền khó đậu.
- Cửa Sa-Hoàng (Sa-Huỳnh) ở phía đông nam quận Đức-Phổ (Phổ-Thạnh). Cửa biển rộng 40m, khi nước lên sâu 1m6. Tàu nhỏ trọng tải từ 100 tấn trở xuống có thể đậu tại Sa-Kỳ còn các cửa biển khác chỉ có ghe thuyền dưới 30 tấn mới ghé được.
- Hải đảo Lý-Sơn về phía đông-bắc Quảng-Ngãi cách đất liền 24km vĩ độ bắc 15o40 và kinh độ 19o.
Hải đảo nầy hình đa giác không đều cạnh, chiều dài lớn nhứt 7km, chiều
ngang 3km, diện tích chừng 19km2. Núi chiếm 1/4 diện tích của đảo, 4 phía cao, ở giữa trũng thấp, có một đồi rẫy nằm vào khoảng giữa núi Thái-Lơi, Hòn Sỏi cao 75m, hòn Vung cao 40m.
Đảo Lý-Sơn có 2 đảo nhỏ gọi là Hòn Bé và hòn Mù-Cu. Hòn Bé thuộc xã Bình Vĩnh được coi như một thôn của xã nầy, có đất trồng trọt (đặc biệt loại hành lao) sản xuất nhiều tỏi, đậu phụng, chuối, có nhà cửa và dân cư…
Phía đông hải đảo có miệng động giống như miệng cá sấu sâu từ 8 đến 12mphía dưới bằng phẳng, trên là núi.
Động nằm trong lòng núi, mặt trước xây ra biển. Trong động có chùa vài gian thờ Phật, có giường, ghế đá thiên nhiên, có nhà sư trù trì. Bốn mùa hơi đá tỏa lạnh mát, trong hang có ánh sáng tỏa.
Ngoài ra, tại hải đảo Lý-Sơn còn có một giếng đặc biệt gọi là giếng Xó La (xã Bình Vĩnh) xây sát bờ biển bằng đá đen cách xa nhà cửa dân chúng. Nước giếng ngọt và trong nhất ở đảo mặc dù hằng ngày sóng vỗ sát thành giếng. Dân nghiện trà ở hải đảo thường đến múc nước giếng nầy về pha trà. Đồng bào phần đông cũng thích uống nước ngọt ở giếng nầy. Tương truyền giếng có đời vua Gia Long, mạch giếng có lẽ thông với mạch đất liền.
Bờ biển phía bắc khúc khuỷu, phía nam tương đối xuôi có bến ghé, có bến tàu nhỏ, có hải đăng cao 55m. Tàu nhỏ ra vào để tránh bão tố.
Đảo Lý Sơn còn có tên là cù lao Ré vì trước kia có nhiều cây ré dùng làm giây rất dai và bền.
Xưa, Lý Sơn là một hoang đảo. Vào đời vua Lê Kinh-Tông (1600-1619), năm1604 mới có người ở đất liền ra khai khẩn định cư tại 2 phường Vĩnh-An và An Hải (xã Bình-Yến và Bình-Vĩnh hiện nay).
Dân số toàn hải đảo : 20.000 người. Hiện nay dân làng còn thờ 8 vị Tiền Hiền có công khai khẩn hải đảo gọi là bát Tổ. Ở làng Bình-Yến còn thờ 7 vị gọi là Thất Tộc. Hằng năm vào dịp tháng 7 â.l, dân làng trên đảo còn mở hội đua ghe cúng tế linh đình trong ngày giỗ Tổ.
5) GIAO-THÔNG
- Hàng-Không. Tỉnh Quảng-Ngãi có 2 sân bay : 1 tại Thu-Phổ cách tỉnh lỵ 3km về phía tây dùng cho phi cơ dân sự và quân sự, 1 phi trường khác tại hải đảo Lý Sơn dùng cho quân sự. Hiện nay có những chuyến bay từ Quảng-ngãi đi Sài gòn, Huế, Đà-nẵng, Qui-nhơn, v.v… Ngoài ra, tại các quận đều có sân đáp cho máy
bay trực thăng quân sự.
- Thiết lộ : 95km chạy vắt qua tỉnh lỵ song song với quốc lộ số 1 lần lượt qua 14 ga (kể cả ga chính Quảng-ngãi) chạy từ Bắc (ga Trì-bình) đến Nam (ga Sa huỳnh). Sau trận lụt 1964, cùng với những phá hoại do chiến cuộc gây nên, hệ thống thiết lộ đã ngưng hoạt động, các đường rầy đã bị gở, dời đi xa, hoặc dùng làm công sự…
- Đường bộ : Quốc lộ số 1 chạy qua tỉnh lỵ và 5 quận lỵ dài 98 km. Liên tỉnh lộ số 5 từ Sơn-tịnh, Di-lăng Giá-vực 88km400.
- Tỉnh lộ :
Quảng-ngãi – Sơn-hà – Di-lăng : 54 km
Quảng-ngãi – Minh-long : 29 km
Quảng-ngãi – Thu-xà : 10 km
Quảng-ngãi – Mỹ-khê : 10 km
Quảng-ngãi – Sa-kỳ : 17 km
Quảng-ngãi – Giá-vực : 60 km
Bình-sơn – Trà-bồng : 29 km
Núi-Bút – Cổ-lũy : 11 km
- Đường thủy : Những con sông Quảng-ngãi nhất là sông Trà-khúc là những đường giao thông tiện lợi. Dân chúng có thể liên lạc được với các xã ở hai bên bờ Trà-khúc, các xã miền duyên hải hay miền thượng du quận Sơn-Hà. Về đường biển có thể đi từ Phú-Thọ – Đà-nẵng, Phú-Thọ (xã Tư-Hiền) đi Sài-gòn, ngoài ra còn các trục giao thông thủy lợi : Châu-ổ (xã Bình-Vân) – Lý-sơn, Lý-sơn – Đà
nẵng, Phú-thọ – Lý-sơn, v.v…
6) KHÍ HẬU
Quảng-ngãi có khí hậu nhiệt đới và gió mùa. Nhiệt độ trung bình là 25o8c.
Thượng tuần tháng 7 và tháng 8 nóng nhất không quá 34, thượng tuần tháng giêng lạnh nhất không quá 18o.
Thời tiết Quảng-ngãi được chia làm 2 mùa, mưa nắng rõ rệt :
- Mùa nắng : từ hạ tuần tháng giêng âm lịch đến thượng tuần tháng 8 âm lịch.
- Mùa mưa : từ hạ tuần tháng 8 âm lịch đến thượng tuần tháng giêng âm lịch.
- Tiết xuân : vào khoảng tháng giêng đến tháng 3 âm lịch, khí hậu mát mẻ, hoa lá xinh tươi, thỉnh thoảng có mưa phùn nhưng không mang theo hơi lạnh như sương mù miền cao nguyên.
- Tiết hạ : kéo dài từ tháng 4 âm lịch đến cuối cuối tháng 6 âm lịch, nóng nực, nắng gắt, có những trận mưa giông lớn Thường thường trước những cơn mưa khí trời hết sức oi bức, khó chịu. Sau những cơn mưa giông, khí hậu dễ chịu hơn.
- Tiết thu : từ tháng 7 â.l. đến cuối tháng 9 â.l.. Mát mẻ những buổi chiều tối thường có mưa, mực nước dâng cao gây nên lụt lớn (như 1964) nhưng đôi khi mùa nắng kéo dài đến tháng tám mà nhiệt độ không kém nhiệt độ tháng tư và tháng năm. Cho nên ở địa phương có câu « tháng 8 nắng rám trái bưỡi ».
- Tiết đông : từ tháng 10 đến cuối tháng 12 â.l. với những cơn mưa dầm tầmtả kéo dài suốt tháng, gió bấc lạnh se da tuy nhiên thường sau 23 tháng 10 â.l. thì không còn những trận lụt lớn.
- Gió mùa : từ hạ tuần tháng giêng đến tháng 8 â.l. gió thổi từ đông nam qua tây bắc hết sức mát mẻ dễ chịu gọi là gió nồm.
Vào những tháng nóng bức thỉnh thoảng có gió từ tây nam đến gọi là gió nam, nóng bức hại hoa màu.
Từ tháng 9 â.l. đến tháng 12 â.l. gió thổi từ đông bắc vào tây nam đem hơi lạnh gọi là gió bấc.
Khí hậu Quảng-ngãi có nhiều gió đông nam, ít gió đông bắc vì địa điểm gần phía nam, hơn nữa do thế núi địa phương tạo ra.
Quảng ngãi có mưa đặc biệt. Ở đây mưa nhiều. Vũ lượng trung bình hằng năm : 2198 mn nhưng chỉ qui tụ vào 4 tháng cuối năm còn các tháng khác thì khô hạn (Trung bình hằng năm mưa 129 ngày, nhiều nhất vào các tháng 9, 10, 11, 12). Sự phân phối vũ lượng không đều cũng như sự kéo dài mùa khô hạn rất có hại cho cây cối đất đai và gây khó khăn cho việc dẫn và thoát thủy.
Đặc biệt các trận bão ở Quảng-ngãi chỉ có thể xảy ra khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 12 dương-lịch, nhất là hai tháng 10 và 11.
III. ĐỊA LÝ NHÂN VĂN
1) DÂN SỐ
Bằng vào những thống kê từ năm 1921 đến năm 1960 người ta thấy dân số Quảng-ngãi tăng theo nhịp đều đặn, tuy từ 1958 đến 1960 đã có hơn 20.000 đồng bào địa phương vào lập nghiệp tại các địa điểm dinh điền Cao-Nguyên Trung phần và Nam phần.
- Năm 1921 : 423.000 người
- Năm 1933 : 447.994 người
- Năm 1955 : 645.559 người
- Năm 1958 : 676.208 người
- Năm 1960 : 721.487 người
- Đàn ông : 374.674 người
- Đàn bà : 346.813 người
- Dân số tỉnh lỵ : 7.800 người
- VN : 651.061 người
- Trung-hoa : 33 người
- Thượng : 70.763 người
- Ấn kiều : 5 người
Các ngoại kiều khác : 12 người. Từ năm 1960 trở đi vì chiến cuộc lan rộng đến vùng nông thôn nên việc kiểm tra dân số khó thực hiện đầy đủ. Một số đồng bào khá giả, có phương tiện sinh sống đã rời khỏi tỉnh một số khác (đa số nông dân) hiện hơn 100.000 người (1969) phải tạm bỏ đồng ruộng lánh cư về các trại định cư dọc đường quốc lộ hay tìm nghề sinh sống ở tỉnh lỵ và vùng ven thị.
Tử xuất trung bình tăng cao. Dân số toàn tỉnh giảm xuống so với các nămtrước (dân số toàn tỉnh tính đến 31-12-1967 là 634.123) (địa phương chí Quảng ngãi 1968) trong lúc đó dân số tỉnh lỵ (xã Cẩm-Thành) gia tăng từ 7800 (năm1960) đến 25.349 người (1968) và trên 32.000 (1969)
2) SINH HOẠT
- Đồng bào Việt : 85% sống về nghề nông, 5% sống về chài lưới, 10% sống về thương mại, tiểu công nghệ, chăn nuôi tiểu quy mô.
- Đồng bào Thượng : săn bắn, khai thác quế phá rừng làm rẫy, trồng chè, trầu.
- Ngoại kiều : tổng cộng 556 người (năm 1966) trong số nầy có 478 người Việt gốc Hoa, 34 Ấn kiều, 54 Mỹ kiều và các nước khác : Gia-nã-Đại, Phi-luật-Tân Cũng như ở các tỉnh khác trong toàn quốc, người Việt gốc Hoa ở Quảng-ngãi tuy mang danh nhập tịch Việt nhưng vẫn giữ trọn vẹn nếp sinh hoạt của một ngoại kiều.
- Người Việt gốc Hoa : chuyên về buôn bán thổ sản tạp hóa, vật liệu xây cất, trồng răng, mở tiệm ăn : mì phở).
- Ấn kiều : chuyên về nghề buôn bán hàng, vải lụa, v.v…
- Mỹ kiều : nhân viên các phái bộ viện trợ quân sự kinh tế, văn hóa, không buôn bán như Ấn kiều hay Hoa kiều (thời chiến tranh có một số quân nhân Hoa kỳ trú đóng tại các vùng Đức-Phổ (Phổ-Đại) Bình-Thắng (Bình-sơn) và các quận Thượng, di chuyển bất thường không rõ quân số. Phái đoàn Y tế quốc tế ngoài các bác sĩ Hoa kỳ, Gia-nã-Đại còn có cả bác sĩ người Đức (từng phục vụ ở Trung tâm
bài lao Quảng-ngãi).
3) PHONG TỤC TẬP QUÁN, TÍNH TÌNH, TÍN-NGƯỠNG NGƯỜI VIỆT MIỀN ĐẤT QUẢNG
Năm 1968 : (575.731) Đất xấu, dân nghèo, người Quảng-ngãi nói chung có tinh thần đấu tranh, óc cách mạng cầu tiến, ưa chuộng sự thật, có nhiều sáng kiến tháo vát, đảm đang cần cù và nhẫn nại nhất là ưa lý luận.
Câu « Quảng-Nam hay cải, Quảng-Ngãi hay co » phản ảnh đúng tính tình cố hữu của người dân gốc miền núi Ấn sông Trà.
Tuy nhiên, nói chung, người Quảng-ngãi cũng có nhược điểm : óc quá khích, nặng tinh thần địa phương hơi đố kỵ…
Trải qua nhiều chế độ, nếp sinh hoạt và mối tương quan đã thay đổi theo trào lưu nhưng nhìn chung, nếp sống đông phương vẫn còn tồn tại nhất là ở vùng quê. Vẫn còn thờ cúng Tổ tiên, nhà nào cũng có bàn thờ ông bà ở giữa. Tháng chạp, lễ tảo mộ đều sắm lễ vật dâng ông bà. Việc đồng bóng tuy giảm nhiều nhưng vẫn còn. Cầu tiên là thú riêng của một số ít người :
Việc hôn lễ, tang lễ, cúng giỗ hiện nay đã giản đơn rất nhiều. Vẫn còn tục gọi tên trùng (giống nhau) tục nầy vẫn còn phổ biến ở miền quê thuộc Bình-sơn, Tư nghĩa, Mộ-đức, v.v…
Khi người con gái chính thức về nhà chồng thì gia đình chồng gọi tên người ấy theo vị thứ của chồng. Khi sanh được đứa con đầu lòng, nếu đặt tên là C thì từ đó
nhà chồng, bà con, hàng xóm đều gọi người chồng là lão C, người vợ là nhà C. Trường hợp nầy tên trùng nhau sẽ là tên C, trong gia đình có Nguyễn C (cha), Trần-thị-C (vợ) và Nguyễn C (con).
Ngoài ra ở nông thôn còn tục đeo bùa cho con để hộ thân đứa trẻ. Phần đông đồng bào địa phương thờ cúng ông bà, theo đạo Phật, một số còn lại theo các đạo Thiên-Chúa giáo, Cơ-Đốc giáo, Cao-Đài, Tin-Lành, Ba-Hái.
Nhận xét về người dân Quảng-ngãi, 3 ông Cao-xuân-Dục, Lưu-đức-Xứng, Trần-Xán đã viết trong Đại Nam nhất thống chí năm 1909 : « Đất xấu, dân nghèo nhưng tính kiệm ước. Địa thế tuy hẹp mà khí mạch rất hậu cho nên đời nào cũng sản xuất hạng danh thần, nhiều người trường thọ, nhiều sĩ phụ đĩnh ngộ, tuấn tú… » (Đ.N.N.N.T.C. bản dịch của Tu-Trai Nguyễn-Tạo 1964).
Năm 1967, trong tập biên khảo « Người Việt đất Việt » hai ông Cửu-long Giang và Toan-Ảnh đã trích lời nhận xét của Chân-Như về người dân Quảng-ngãi :
« Người Bình-Định khéo, người Phạn-Thiết thực, người Nha-Trang nhã, nhưng người Quảng-ngãi lại đảm hơn cả.
« Trông các lọng che nắng rất đơn sơ bằng một khúc tre cắm dưới đất nghiêng theo chiều của mặt trời, trên đầu là dăm ba tàu lá gài lên một tấm đan bằng tre, ở những guồng tát nước hay ở những chỗ tát nước bằng gàu dưới nắng hè, ta phải phục tài tháo vát của người dân Quảng-ngãi.
« Rồi lại trông cái xe đạp thồ chỉ có hai bánh, người ta nối thêm tay lái bằng một gậy tre, nối thêm cao lên bằng một gậy tre nữa để chở đồ bằng sức chở một xe bò, ta phải phục sáng kiến của người dân Quảng-ngãi.
« Ta sẽ vì đó mà không lấy làm lạ về những guồng tát nước tự động lớn nhất trong nước và không lấy làm lạ về nét mặt rắn rỏi, màu da bánh mật, thân hình tầm thước chung của người Quảng-ngãi, nó bộc lộ một dũng cảm và một sức chịu đựng phi thường… » (Người Việt đất Việt trang 400)
Bán nguyệt-san « Trước-mặt » tạp chí văn hóa xã hội đầu tiên và duy nhất xuất bản tại địa phương, trong số 4, đặc biệt về Quảng-ngãi ra ngày 15-8-68, ông Phan-nhự-Thức cũng đã nhận xét về yếu tố tinh thần của dân chúng Quảng-ngãi.
Sinh hoạt nông thôn : « Điều kiện địa dư và lịch sử ảnh hưởng không ít đến tinh thần chiến đấu ấy, Dãy Trường-sơn đã un đúc tinh thần người miền Trung, nói riêng tâm hồn người Quảng-ngãi. Trong hoàn cảnh khó khăn của đời sống, trong sự cằn cỗi của đất đai, trong sự tàn phá của chiến tranh đã đặt người dân Quảng-
ngãi vào cái thế phải phấn đấu… »
- Người Thượng : (Năm 1968 : 58.392) Đa số đồng bào Thượng sinh sống tại vùng rừng núi Quảng-ngãi thuộc giống người Chàm, chia nhiều chi phái : người Cà-Dong ở quận Trà-Bồng và bắc Sơn-Hà ; người Đá-Vách ở nam quận Sơn-Hà Minh-Long ; người Chàm chính thống giống như người Đá-Vách ở vùng thấp giáp trung châu (nam Quảng-ngãi).
- Bộ lạc Cà-Dong hay Cua : (tục gọi mọi Trầu) ở quận Trà-bồng (bắc Quảng ngãi) liên giáp vàng Hậu-đức (Quảng-tín). Dáng người to lớn, chậm chạp, mắt đỏ hoe trông có vẻ hung tợn.
- Bộ lạc Đá-Vách : (còn gọi là HRé) ở phía tây và tây nam Quảng-ngãi (quận Ba-tơ, Minh-long, và nam Sơn-hà) thân hình nhỏ, lanh lẹ, mắt đen và tinh khôn hơn người Cà-Dong.
Đa số nguyên ở dọc nguồn sông HRÉ nằm về quận Ba-tơ là thượng lưu sông Trà-khúc.
Xen vào giữa, người Chàm ở các vùng thấp tiếp giáp trung châu, không khác người Đá-Vách mấy và gần giống như người Kinh.
Người Chàm ở quận Minh-long vì có điều kiện tiếp xúc với người Kinh nhiều nên văn minh hơn.
Các bộ lạc trên tuy ngôn ngữ khác nhau nhưng phong tục và tập quán không khác mấy.
Khi sống lẻ tẻ, người Thượng có vẻ nhút nhát nhưng nếu được tổ chức thành hàng ngũ, họ lại là những người bạo dạn.
Người Thượng tại vùng sơn cước Quảng-ngãi ở nhà sàn làm cách mặt đất 1m50 đến 2m, sườn nhà bằng gỗ hoặc tre nứa, mái lợp bằng tranh hay lá, gác cao, giàn trong làm phòng bếp, ngoài cái bếp làm giàn gác để ngồi chung ăn uống. Đêm, nam nữ nằm quanh ngoài bếp không giường ; lúa gạo chứa trên giàn gác, dưới gác nuôi súc vật, của cải để theo bên khe.
Phần lớn người Thượng ở Quảng-ngãi đều ăn bốc (một số ít tiếp xúc với người Kinh đã biết cầm đũa) khát nước họ thích uống nước suối hoặc nước chè đun thật đậm hoặc, thật sôi.
Đàn ông quấn khố, đàn bà mặc váy (xà rông) con gái chưa chồng mặc yếmhoặc áo khoét cổ có tay miễn sao che kín được ngực, khi có chồng con chỉ quấn miếng vải trước ngực.
- Về trang sức : họ ưa các màu sắc rực rỡ, cườm và vòng đeo bằng đồng.
- Về sinh nở : các bộ lạc Thượng vẫn giữ theo tục lệ cổ truyền. Mỗi « nóc » có một bà đỡ hộ sinh theo lối ngoại khoa. Việc sinh nở của người đàn bà phó mặc cho tự nhiên, không kiêng cữ. Khi sanh chỉ có một bà đỡ ngồi chầu chực bên gường người sản phụ, nếu đứa trẻ sinh được bình an, bà đỡ lấy một thứ lá rất bén « lá chém » để cắt rún cho đứa con ; sản phụ được uống nhiều thứ thuốc bằng rễ, củ, lá cây rừng.
- Tục lệ cưới xin của người Thượng rất phiền toái. Tùy cảnh giàu nghèo mà định lễ cưới.
Nếu nhà trai giàu thì cưới vợ cho con, nhà gái giâu hơn thì bắt rễ cho con gái.
Không cần mai mối, không chọn ngày. Họ chọn lấy ngày cưới bằng một con gà được cắt giò.
Giữa lễ cưới, họ hàng nhà trai và nhà gái đứng ra trao cho cô dâu và chú rể mỗi người một miếng trầu. nếu cả đôi trai gái cùng đỏ môi là có sự may mắn cho hai vợ chồng.
Ăn uống xong, họ hàng giải tán. Đôi vợ chồng mới vẫn chưa được phép ngủ chung, phải chờ thầy cúng đến ban phép cầu hôn. Sau đó hai vợ chồng mới được chính thức sống chung.
Người Thượng có tiếng nói riêng (đa âm, thiếu thốn phải mượn thêm tiếng kinh) kêu cha là cha, kêu mẹ là « môi » hay (mụ), kêu con là « ong », uống rượu gọi là « hách lộc » ăn cơm gọi là « xà vong », loại cầm thú gọi là « ác ».
Người Thượng không có họ, tính theo đêm không tính theo ngày, không văn tự, dùng gút giây để ghi nhớ sự giao kết với nhau, bằng vào gốc rẫy để phỏng b iết số tuổi, mỗi lần thay gốc rạ họ cho là 1 năm.
Đồng bào Thượng sống chung trong thôn xóm gọi là « nóc ». Mỗi nóc có một người « ông già làng » có quyền quyết định trong nóc như người cha trong gia đình.
- Về tang lễ : Khi có người chết thì cả nhà òa lên khóc. Bà con, chòm xómđông đủ đến kể lể, gia chủ phải đâm trâu, xẻ heo đãi, cũng cắt một tí đuôi, mắt mũi của con vật hy sinh đem ra mã cúng. Người ta xẻ cây, bỏ xác vào kéo vào rừng sâu để làm phần mộ, không quan quách (tuy nhiên nhà giàu cũng có dùng hòm đựng xác đem chôn).
- Tính tình : Người Thượng sống hồn nhiên, sống hôm nay không biết ngày
mai, không dành dụm, ưa phóng túng, khi thích vật gì thì dù giá cao mấy cũng mua cho kỳ được.
Tư thù là việc ghi tâm khắc cốt. Họ giận ai không bao giờ thổ lộ ra, nếu có cơ hội trả thù. Tuy nhiên, nếu kẻ thù biết lỗi chịu làm lễ « xối » tạ tội thì họ sẵn sàng tha thứ ngay.
Họ rất trọng lời thề nhất là khi làm lễ tuyên thệ tại bến nước.
Tuy nghèo nhưng đồng bào Thượng không hề trộm cắp, không đi ăn xin, không cờ bạc.
Tính chất lỗ độn nhưng con trai, con gái không hòa gian nhau. Có bệnh thì giết súc vật, kỳ đảo, không uống thuốc. Họ tin tưởng ở sự cúng tế. Có những lệ cúng xin lành bệnh phải đâm 4, 5 trâu. Hằng năm, 2/3 số hoa lợi sản xuất đủ chi phí vào việc cúng tế.
Người Thượng tính đủ 12 trăng tròn là ăn Tết, bắt đầu từ rằm tháng giêng â.l. trở đi. Trong thời gian nầy nhiều cuộc họp, múa, hát, vũ được tổ chức giữa thanh niên nam nữ (đặc biệt có điệu vũ « nhảy kẹp » ở vùng Thượng HRe Ba-tơ).
- Kiêng cử : rất kỵ việc chết dữ chỗ ngủ của nam và nữ đều cấm người lạ mặt vào.
Ngày gặt hay bẻ bắp đầu tiên thì cả ngày lẫn đêm cử nói.
Không mua hạt giống mới khác đem về sợ lúa giống của họ sẽ thù. Khi có tang, cấm người lạ không được đến nhà.
Không được ai rửa mặt và tắm ở máng nước bắt từ suối về nhà.
Khi lúa gần trổ. gia chủ phải giết gà đem cúng rồi nhỏ máu xuống ruộng ngụ ý muốn cho lúa tốt.
« Ăn nhuốc ». bắt phạt kẻ gian hay những người phạm những điều kiêng cử.
4) DI TÍCH LỊCH SỬ
- Tỉnh thành : ở tại xã Chánh-lộ huyện Chương nghĩa (nguyên xưa gọi xã Chánh-mông, niên hiệu Đồng-Khánh đổi lại tên Chánh-lộ, hiện là Cẩm-Thành) chu vi 2000m 8 tấc (xưa 500 trượng 2 thước lẻ), bề cao 4m có 3 cửa (không có cửa nam), bốn phía hào rộng 20m.
Thành bắt đầu xây năm Gia-Long (1807) tại xã Chánh lộ đến năm 1815 mới xong, bị phá hoại năm 1949 thời chiến tranh Việt-Pháp (hiện là địa điểm khu
quân sự thành Hoa-Lư, còn mô đất cao, hào cạn.
- Tổ đình Thiên-Ấn : do Pháp-Hóa Hòa-Thượng pháp danh Minh-Hải tự Phật Bảo, tục danh Lê-Duyệt người Trung-Hoa tỉnh Phúc-Kiến khai sơn.
Năm 1676 đời Lê-hy-Tông chỉ là một thảo am, năm 1727 Lê dụ-Tông mới phong sắc tự cho chùa nầy. Hiện vẫn còn bảng đề « Thiên-Ấn-Tự ». Thời kỳ tranh chấp giữa Chúa Nguyễn và Tây-Sơn, Tổ đình bị bỏ hoang hơn 30 năm. Thời vua Gia-Long được trùng tu nhưng đến năm 1946 lại bị phá hoại (thời chiến tranh Việt-Pháp).
Ngày 6-8-1959, Tỉnh giáo hội Phật-Giáo Thống-Nhất Quảng-Ngãi khởi công trùng tu và hoàn thành công tác đại trùng tu Tổ-đình Thiên-Ấn Ngày 4-3-61 khánh thành dưới sự chứng minh của Hòa-Thượng Pháp-chủ toàn quốc Thích Tịnh-Khiết.
Hiện Thiên-Ấn còn 6 tháp vị Tổ : Pháp-Hóa Hòa thượng Khánh-Vân Hòa Thượng, Bảo-Ấn Hòa-Thượng, Giác-Tánh Hòa-Thượng, Hoằng-Phước Hòa-Thượng, Diệu-Quang Hòa-Thượng.
Cạnh chùa có một cái giếng sâu 21m, nước ngọt trong mát, hiện nay vẫn còn tốt do Hòa Thượng Pháp-Hóa phát nguyện và đích thân đào giếng với sự giúp sức của một vị sư từ xa vào chùa tá túc cùng phát nguyên đào giếng.
Ngoài cái giếng sâu, nước ngọt, Tổ đình còn đỉnh chuông đặc biệt của làng Chú-Tượng (Mộ-Đức) cúng dường vào thời vị Tổ thứ ba Bảo-Ấn Hòa-Thượng đời vua Minh-Mệnh thứ 8 (1827).
Đỉnh chuông nầy nguyên là một quả hồng chung của làng Chú-Tượng đúc sẵn để dùng tại đình làng nhưng đánh mãi vẫn không kêu.
Hòa-Thượng Bảo-Ấn trong giờ tỉnh tọa bỗng có vị Hộ-pháp đến thưa : Hòa Thượng cho người vào làng Chú-Tượng để thỉnh đại hồng chung cho Tổ-Đình.
Hòa-Thượng phái thầy Điền-Tọa hai lần vào Chú-Tượng xin thỉnh hồng chung. Đúng như lời vị Hộ pháp mách bảo, ngày mùng 10 tháng 4 năm Ất Tỵ (1827) Hòa-Thượng Bảo-Ấn làm lễ Phật cẩm dùi khấn nguyện. Và lần đầu, tiếng chuông của làng Chú-Tượng cúng dường cất tiếng ngân lanh lảnh khắp bốn phương, âm
thanh lan xa hàng chục dặm. Đỉnh chuông kỳ lạ ấy hiện nay vẫn còn. Cho nên có thơ vịnh :
« Giếng Phật mạch sâu mùi nước ngọt.
Chuông thần đêm vắn giọng đưa thanh ».
(Thủ Khoa Phạm Trinh)
- Văn-miếu : Ở xã Phú-Nhơn (nay xã Sơn-long quận Sơn-Tịnh, cách tỉnh lỵ 2 km đông bắc). Miếu xưa có 1 chính đường, 3 gian 2 chái và 2 mái và 2 nhà ở hai bên tả hữu, trước nghi môn 3 cửa. Dựng năm Gia-Long (1817) thờ đức Khổng-Tử. Năm Minh-Mạng thứ 20 (1840) dựng miếu Khải-Thánh thờ thân phụ Đức-Khổng
Tử. Bị phá hoại thời chiến tranh Việt-Pháp (1947) hiện nay đã được trùng tu.
Hằng năm, ngày Thánh Đản được cử hành với đầy đủ nghi lễ cổ truyền dưới sự bảo trợ của hội Khổng Học địa phương.
Trước văn miếu lấy núi Thiên-Bút làm án, phía tả núi Thiên-Ấn, phía hữu Long-Đầu, sông Trà-Khúc uốn quanh trước mặt.
Năm 1955 đồng bào địa phương có đào được một pho tượng Đức-Khổng-Tử bẳng đồng đen hiện trưng thờ tại văn miếu.
- Chùa Ông Rau : ở trên lưng đồi núi Đỏ phía sau núi Long-Phụng thuộc ấp Hòa-Tân xã Đức-phụng (Mộ Đức) cách tỉnh lỵ 15 km về hướng đông nam.
Chùa gồm 4 tảng đá thiên nhiên ghép thành 1 hang bề cao 2m, bề rộng 5m, trên có 1 tảng đá to gác ngang vừa làm trần và mái. Phía trong, chính giữa là một bàn thờ, một tảng đá bằng phẳng bề ngang độ 1m, bề dài 1m7 giống như cái phản nằm. Trước mặt, phía dưới hướng ra biển. Cách biển 300m, tay mặt có con suối, nước trong chảy từ đầu núi Đỏ ra biển, phía trái, là một sa núi nhô ra, kế cận là 3 đụn cát.
Tục gọi là chùa Ông Rau Tương truyền cách đây 10 đời, có một đạo sĩ đến tu tại hang, trồng rau ăn để hành đạo. Cách đây 6 năm, vào khoảng (1961-63) có hai khất sĩ tu thuyền tại chùa trọn 2 năm rồi đi biệt tích.
- Phế thành Châu-Sa : Ở xã Châu-Sa (hiện thuộc ấp Phú-Bình, xã Sơn Thành, quận Sơn-Tịnh) chu vi 5 mẫu 5 sào. Thành bằng đất, hình thang cao chừng 4m, dày trên mặt 4m, 4 cửa thành rộng bằng chiếc cổng nhà. Có người bảo đó là thành Đại La của Chiêm-Thành, có người cho đó là Vệ thành đời Lê. Đời Lê, quân đội đã từng đóng ở đây. Thời Pháp thuộc, đình làng Châu-Sa vẫn còn giữ được áo mão của các quan triều Lê.
- Tỉnh Man trường lũy (lũy dài tỉnh Man) : Năm 1819, triều đình nhà Nguyễn (vua Gia-Long) cử Tả-quân Lê-văn-Duyệt đứng ra trông nom việc xây đắp một trường lũy dọc theo ranh giới phía tây trấn Man, tăng cường việc phòng thủ. Trường lũy nầy đặt tên là lũy Sơn-Phòng dài 90km (117 dặm xưa) chạy suốt từ
Trà-Bồng qua quận Sơn-Hà, Minh-Long, Ba-Tơ tới vùng nước giao (gò Bùi) thôn An-Lão (Bình-Định) Lũy đắp bằng đất và đá cục tròn to bằng đầu người cao trên 2m, dày độ 1m 1/2. Phía ngoài lũy còn có một hào sâu rộng trên 3m và một hàng rào tre gai tươi. Ngày nay lũy Sơn-phòng đã bị phá hủy nhiều đoạn cây cỏ mọc um tùm che lấp nhưng nhiều nơi vẫn còn đủ cao để du khách nhìn thấy dễ dàng.
- Mộ Bùi-Tá-Hán : Mộ nầy ở rừng cầy xã Thu-Phổ huyện Chương Nghĩa (hiện nay là xã Tư-Quang, quận Tư-Nghĩa).
Ông Bùi-tá-Hán nguyên người Châu Hoan (Nghệ-An) triều vua Anh Tông đời Lê (1557-1573) được phong làm Bắc quân Đề-Đốc phủ chưởng phủ-sự tổng lãnh Quảng-Nam Thiếu-Bảo-Trấn-Quận-Công.
Tương truyền thuở ông đi giẹp giặc Thượng về đến gò rừng cầy (Rừng lăng) thì tạ thế. Ông hiển Thánh ngày 15-5 chỉ lưu lại một nhung y và đôi điểm huyết ở địa điểm lăng mộ hiện giờ, nhân đó lập lăng chứ không có cốt.
Cách mộ Bùi-tá-Hán 500m có hòn núi nhỏ gọi núi Trấn-Công (tục gọi núi Ông) phía bắc giáp sông Trà-Khúc, trong núi có đường thông với vũng sông Trà, xưa có rất nhiều dơi.
Con cháu Bùi-Tá-Hán tiếp tục sống tại Quảng-ngãi. Con ông là Bùi-tá-Thế tước Tứ-Dương-Hầu, cháu 9 đời là Bùi-phụ-Phong (Thu-giang) làm Bố Chánh Sơn-Tây niên hiệu Thiệu-Trị nhà Nguyễn phụng chỉ đi sứ Tàu nổi tiếng ngoại giao, cháu 12 đời là ông Bùi-phụ-Lượng, cháu 14 đời là Bùi-phụ-Cư, Cử nhân Bùi-phụ-Nghiệp (khoa Mậu-Ngọ 1918) cũng thuộc dòng dõi Bùi-tá-Hán.
Hiện nhà thờ Bùi-tá-Hán đã được xây cất tại Rừng-lăng ấp Thu-phổ-tây (xã Tư-Quang) cách ga Quảng-ngãi hơn 1 km.
- Mộ Tạ-Thu-Thâu :
Chiến sĩ cách mạng, bị xử bắn đêm 13 tháng 8 â.l. Ất-Dậu (1945) tại chiến khu Xuân-Phổ. Mộ tọa lạc tại thôn Xuân-Phổ, xã Tư-Thuận Tư-Nghĩa (cách tỉnh lỵ Quảng-ngãi 10km tây bắc) sát hương lộ, cách chợ Két 200 m vê phía tây bắc.
Mộ được xây cất tử tế. Hằng năm người dân địa phương thường đến viếng. - Mộ Huỳnh-thúc-Kháng :
Chí sĩ cách mạng kháng Pháp, sinh tháng 10 năm Bính-Tý, Tự-Đức 29 (1876) tại Thăng-Bình, huyện Tiên-phước (Quảng-Nam) tự Giới-Tử, hiệu Minh-Viên đổ Tiến-sĩ năm Giáp-Thìn 1904.
Chủ bút nhật báo Tiếng-Dân đến 8-4-1943, 19-8-45 tham gia Chính phủ Liên
hiệp kháng chiến làm Bộ-Trưởng Nội-Vụ.
Năm 1947 Đại biểu Chính phủ tại miền nam Trung-bộ (Liên Khu V) chết vì bệnh tại thôn Phú-Bình (Nghĩa-Chánh-Nghĩa-Hành Quảng-Ngãi) ngày 21-4-1947 (8-3 Đinh Hợi) thọ 71 tuổi.
Một Huỳnh-thúc-Kháng tọa lạc trên đồi Thiên-Ấn tả ngạn sông Trà, cách cửa tam-Quan Tổ-đình Thiên-Ấn non 100m về phía tây nam.
5) THẮNG CẢNH
Từ năm 1750, nhà thơ Đạm-Am Nguyễn-cư-Trinh, tác giả tập thơ nôm đối thoại Sải vải, thời kỳ lưu trú tại Quảng-Ngãi đã vịnh 10 cảnh sau đây, tiêu biểu cho thắng cảnh địa phương :
- Thiên-Ấn niêm hà
- Thiên-Bút phê vân
- Long-Đầu hí thủy
- La-Hà thạch trận
- Liên-Trì dục nguyệt
- Cổ-Lũy cô thôn
- Thạch-Bích tà dương
- Hà-Nhai vãn độ
- An-Hải sa bàn
- Vân-Phong túc võ
Sau Nguyễn-cư-Trinh, các nho sĩ thi nhân miền núi Ấn sông Trà cũng vịnh thêm 2 thắng cảnh : Vu-Sơn lộc trường, Thạch-Cơ điếu tẩu. Trong 12 thắng cảnh trên, hiện có 4 cảnh đã phai vẻ đẹp một thời : Long-Đầu hí thủy, La-Hà thạch trận, Hà-Nhai vãn độ, Vu-Sơn lộc trường. Du khách đến thăm 4 nơi nầy chỉ còn thấy những dấu vết lờ mờ.
Thật ra, phải có sẵn tâm tình riêng biệt của người địa phương pha thêm một ít tưởng tượng, màu sắc âm thanh, lòng yêu quê hương hòa hợp với thiên nhiên khi ngắm cảnh mới rung cảm trước vẻ đẹp thơ mộng, hùng tráng của một miền đất Quảng.
Thắng cảnh Quảng-Ngãi từng là đề tài gieo vần ngâm vịnh cho những người thơ trải bao thế hệ nối tiếp.
a) THIÊN-ẤN NIÊM HÀ (ấn trời đóng trên sông)
I. Phong cảnh ta đây thật rất xinh
Niêm-hà có Ấn của trời xanh.
Xanh kia dấu tích còn vuông vức
Nhận lại non sông rõ dạng hình.
Cách thức còn in đồ cổ tự
Cỏ cây nào phụ tiếng chung linh.
Châu-Sa để dưới chân chờ mãi
Trấn-chỉ sau lưng phía Cẩm-Thành.
(Nguyễn-cư-Trinh (1716-1767)
Hương-Cống Khoa Canh-Thân 1940)
II. Vuông vức ai xây ngó cũng tình
Càng lên cao mấy thấy càng xinh
Sông bên góc núi đua giòng biếc
Biển sát chân trời bủa sóng xanh
Giếng Phật mạch sâu mùi nước ngọt
Chuông Thần đêm vắn giọng đưa thanh
Sờ sờ bia đá ghi còn đó
Ngâm vịnh vài câu tỏ tấc thành
(Phạm Trinh – Thủ-khoa Mậu-Ngọ 1918)
Đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng-Ngãi. Du khách từ trong ra hay ngoài vào, khi dừng chân bên cầu Trà-Khúc (xưa là Quán Cơm) đi dọc theo tả ngạn sông Trà chừng 1000m sẽ thấy núi Thiên-Ấn.
Núi nầy ở phía đông Sơn-Tịnh, tọa lạc tại xã Phú-Nhơn (nay ấp An-Bường, xã Sơn-Long giáp giới Sơn-An) cao 105m, trên đỉnh bằng phẳng ước chừng 10 mẫu tây, bốn mặt vuông phẳng trông như cái ấn nên gọi tên ấy.
Từ Cổ-Lũy, theo giòng Trà đi lên hướng tây, lấy tầm mắt ngó thẳng thì thấy trái núi ở giữa sông nhưng khi đến gần thì núi nằm một bên sông về phía bắc gọi là Thiên-Ấn niêm hà (ấn trời đóng trên sông).
Núi Thiên-Ấn xưa có thổ chất thiên nhiên : đá son, có thể dùng mài thành mực chấm sách chữ Hán. Chân núi về phía nam có gò nhỏ gọi là hòn Triện, phía bắc liền núi La-Vọng, phía đông tiếp núi Tam-Thai, phía tây giáp núi Long-Đầu.
Niên hiệu Minh-Mạng thứ 11 (1830) có chạm hình núi nầy vào di đỉnh. Niên hiệu Tự-Đức thứ 3 (1850) liệt vào hạng danh sơn và được ghi vào tự-điển.
Lần bước theo đường tỉnh lộ Quảng-Ngãi-Mỹ-Khê dọc bờ Trà giang đúng 2km, thêm vài chục bước, du khách sẽ đừng chân lại, rẽ về ngả tay trái sẽ gặp ngay đường lên núi.
Đường lên Thiên-Ấn xoắn tròn như khu ốc. Quanh sườn đồi lên đến tận đồi bằng phẳng, có dương liễu vi vu, có tàng cây đa cổ thụ rợp bóng mát che 6 tháp vị Tổ đình.
Đứng trên núi, du khách tha hồ ngắm cảnh non nước nên thơ. Kìa bể đông, nước xanh phẳng lì như một đường mây liếp da trời bao la, nọ mũi Ba-tân-gân tiếp liền đồi núi, nhô lên, sụn xuống theo các ngọn sóng uốn co, các cô thôn rải rác hoặc những khóm dừa, bãi cát điểm xuyết màu trắng, xanh, vàng, tất cả kéo nhau chạy dài về Long-Đầu hí thủy như con rồng bò lượn.
Nhìn xa xa về phía tây, dãy Trường-sơn như một bức tranh cao vút ánh sáng rực rỡ, sông Trà với chiếc cầu mới 20 nhịp dài 660m nối ngang đôi bờ.
Nhìn về phía Nam, tỉnh lỵ Quảng-Ngãi với đỉnh giếng nước máy cao 25m, những cột ân-tên các loại vô tuyến giây giăng mắc vươn mình lên không trung, những nóc nhà ngói đỏ ẩn hiện dưới hàng phượng vĩ, tiếp đến là cánh đồng lúa xanh chạy dài theo quốc lộ tận núi Thiên-Bút. Những rặng tre dưới chân núi quanh năm phủ bờ sông Trà quanh co theo bãi cát trắng phau.
Lòng lâng lâng, du khách bỗng nghe tiếng chuông Thần từ đỉnh non cao tỏa xuống, âm thanh ngân dài theo giòng Trà hòa lẫn tiếng nước reo vui từ những bờ xe đang quay lăn bánh tròn, tung bọt trắng xóa.
Bên cạnh chùa có giếng mạch sâu 21 th, nước mát ngọt. Tương truyền xưa Pháp-Hóa Hòa-Thượng phát nguyện đích thân đào giếng. Mặc dù núi cao, thiếu phương tiện dụng cụ nhưng Hòa-Thượng vẫn kiên nhẫn đến cùng.
Khởi công được 3 hôm thì có một nhà sư trẻ ở phương xa xin vào tá túc tại chùa đồng phát nguyện góp công sức đào giếng.
Trải 3 tháng làm việc nhọc nhằn, trải qua bao trở ngại, cuối cùng những nhà sư đào giếng mới di chuyển một tảng đá lớn, khơi được mạch nước chảy lai láng.
Có điều lạ,khi giếng có nước thì nhà sư trẻ cũng không còn tăm dạng. Cho nên ngày nay còn truyền miệng 2 câu :
« Ông thầy đào giếng trên non
Đến khi có nước không còn tăm hơi ».
b) THIÊN-BÚT PHÊ VÂN (Bút trời vẽ mây)
Một ngọn núi nhỏ ở làng Chánh-lộ (nay là xã Tư-Chánh) quận Tư-Nghĩa, cách tỉnh lỵ 2km hướng nam, sát đường quốc lộ. Bốn phía núi thăng bằng, ở giữa cao vút như một ngọn bút vẽ trên trời nên gọi Thiên-Bút phê vân.
Xưa kia, núi nầy có nhiều cây trâm, cây móc. Hai thứ cây nầy có quả màu tímđen. Lá móc thường dùng để nhuộm sắc đen. Bên chân núi có một gò vuông gọi là hòn Nghiên.
Núi Thiên-Bút là địa cuộc phát triển văn phong cho một hạt. Ngọn Thiên-Ấn cao 105m, ngọn Bút chỉ cao 65 m. Các thầy địa lý thường nói rằng : Hòn Ấn lấn Hòn Bút cho nên dân Quảng-Ngãi dù học giỏi tài cao thì cũng ít người làm lớn, còn những người làm lớn thì học lực không mấy uyên thâm.
Buổi sáng, sương mù bốc lên chập chờn lưng chừng đồi, tỏa lần trên đỉnh núi chan hòa với mây cao. Ngọn núi nhọn bị sương che lấp xa xa như một cây bút viết trên mây. Đây là lúc Thiên-Bút phê vân. Không phải lúc nào cũng thấy hiện tượng nầy. Và, mỗi làn có bút phê vân thì dân địa phương tin có việc lớn sắp xảy ra trong tỉnh.
Theo cái nhìn của thi nhân du khách, hòn Bút đứng riêng một mình không tạo được vẻ đẹp quyến rủ. Nhưng nếu mượn gió mây, mượn chim qua lại, rồi đứng xa nhìn với mắt tưởng tượng, thì sẽ thấy ngòi bút vẫy gió viết những hàng nhạn vào những bức mây trải rộng trên nên trời xanh, tạo nên vẻ đẹp thơ mộng.
c) CỔ-LŨY CÔ THÔN (thôn Cổ-lũy cô quạnh)
Cảnh nầy thuộc xã Tư-Hiền, ở phía đông bắc quận Tư-Nghĩa, phía đông dựa biển, tây nam giáp cửa biển lớn tục gọi là Đại Cổ-Lũy.
Xưa kia Cổ-Lũy ở trên cửa sông Trà là một đồn phòng thủ kiên cố của Chiêm Thành. Sau khi người Chiêm nhường đất thì quân Việt dùng đồn Cổ-Lũy làm trụ sở hành chánh. Khi trụ sở dời đi thì đồn bị bỏ hoang.
Hiện nay Cổ-Lũy là một thôn nhỏ, dân cư làm nghề dệt chiếu và đánh cá. Cửa biển xa làng mạc, phong cảnh như một vùng khói lờ mờ nên được vịnh là Cổ-Lũy cô thôn.
Khi sương thu mờ nhạt, bóng hoàng hôn vây phủ vắng vẻ, êm đềm, xa trông thôn Cổ-Lũy như phong cảnh bức cổ họa « ngư thôn tịch chiếu » trong « Bát cảnh Tiêu-Tương » của Tống-Địch bên Tàu.
d) LIÊN-TRÌ DỤC NGUYỆT (nguyệt tắm ao sen)
Cảnh nầy ở xã Phổ-Thuận, quận Đức-Phổ cách tỉnh lỵ 36 km hướng tây nam. Liên-trì dục nguyệt, xưa là một hồ sen rộng hơn 10 mẫu hiện còn nhưng hẹp hơn nằm giữa cánh đồng lúa. Cách đó non 3000m tọa lạc núi Rồng.
Trong những đêm thanh, trăng treo đỉnh núi, xa xa vừng trăng rung rinh, ánh trăng uốn khúc theo làn nước hồ sóng gợn lăn tăn. Trăng tỏ trên ngàn in hình bóng núi thành một bối cảnh nổi bật sắc xanh, trắng, vàng của hoa sen.
Ngoài ao sen Liên-Chiễu còn 2 chỗ khác : một ở ấp Bồ-Đề (Mộ-Đức) xưa rộng hơn vài mươi mẫu (hiện còn, rất hẹp). Tương truyền thời Tả quân Lê-văn-Duyệt còn sống thì năm nào ao sen cũng xanh tốt, hương thơm ngào ngạt tỏa ra mấy dặm.
Đến khi Tả quân mất rồi thì sen lụn tàn gần hết. Sau đấy, năm nào sen trổ hoa thì trong làng ắt có người thi đậu.
Còn một ao sen thứ 3 nữa ở ấp Ba-La,(Tư-Bình) quận Tư-Nghĩa. Ở giữa ruộng bằng có một khoảnh sâu 5 mẫu, hình bán nguyệt, nước trong, sen tốt.
Ba chỗ trên đây đều gọi là Liên-trì.
e) THẠCH-BÍCH TÀ DƯƠNG (bóng chiều Thạch-Bích)
Cảnh nầy ở phía nam quận Sơn-Hà giáp ranh Minh-Long. Hình núi đứng cao chót vót, cỏ cây rậm rạp, thế núi quanh co, vách đá dựng ngược, phía tây thông đến các làng Thượng Minh-Long. Tử tuyền (suối Tía) rất hiểm trở.
Buổi mai, khí mây ngưng sắc tía, buổi chiều hang hóc ngậm màu son, bóng tà dương chiếu, ánh đá núi đều dợn sóng như sao.
Khi mặt trời lặng bóng, cảnh vật nhuộm màu đen thẩm thì riêng đỉnh Thạch Bích còn rực rỡ ánh hoàng hôn, oai hùng vươn lên chọc trời tạo nên cảnh đẹp nên thơ.
g) AN-HẢI SA BÀN (mâm cát An-Hải)
Ở Bình-Sơn, phía nam cửa Sa-Kỳ có ấp An-Hải nằm giáp biển, cát đá bồi hình như một cái mâm. nên gọi là « An-Hải sa bàn » Phong cảnh hữu tình, du khách thường đến nơi thăm viếng.
h) VÂN-PHONG TÚC VÕ (núi Vân đêm mưa)
Cảnh nầy ở ngoài nguồn Thanh-Cù phía tây quận Sơn-Tịnh. Hình núi cao vút lên giữa lưng trời, có các núi bao quanh, bốn phía trùng điệp, đứng xa trông thấy tươi sáng. Chót núi dờn dợn mây bay, suốt ngày khí sắc như lúc trời mới sáng hay
sau khi mưa tạnh.
i) THẠCH-CƠ ĐIẾU TẨU (Lão câu gành đá)
Hai quả núi đá tọa lạc hai bên cửa Sa-Kỳ (đông nam quận Bình-Sơn cách tỉnh lỵ 16km) là dãy đá thiên nhiên chặn ngang qua cửa bể chỉ có một lối vào trong. Ở giữa có một tảng đá lớn nổi lên trông như hình người đứng. Gần bên, có một tảng đá bằng in hình 2 dấu chân người. Bên cạnh đó có một tảng đá lộ thiên, mỗi lần gió đưa sóng vổ tràn vào hang, nước theo lộ thiên phun lên rất đẹp trông như lò nấu rượu.
Thạch-Cơ điếu tẩu là hàng cừ đá nổi lên ở giữa bể nhô lên trên mặt nước trông hình người đứng câu giữa giòng nước.
IV. NHÂN VẬT – DANH THẦN
1) LÊ-VĂN-DUYỆT (1763-1832)
Lê-văn-Duyệt, tổ tich nguyên quán ở Bồ-Đề Mộ-Đức, Quảng-Ngãi. Nội Tổ là ông Lê-văn-Hiếu thiên cư vào miền thôn dã gần Vàm Trà-Lọt (nay thuộc làng Hòa Khánh tỉnh Định-Tường) Cha là ông Lê-văn-Toại sinh được 4 con trai. Lê-văn Duyệt là con trưởng sinh vào năm Giáp-Thân (1763) tại vàm Trà-Lọt. Sau khi ông Lê-văn-Hiếu qua đời, đại gia đình đến cư trú tại vùng Rạch gầm ở bên rạch ông Hổ, nay thuộc làng Long-Hưng (Định-Tường).
Lúc mới sinh, Lê-văn-Duyệt không có bộ máy sinh dục (chữ Hán gọi là « ẩn cung ») thân hình ngắn, tánh khí thâm trầm, dũng mảnh, sức khỏe khác thường. Ông ít bạn bè, không ham học, cả ngày chỉ lo làm bẫy, làm giõ để bắt chim, đánh cá, đặc biệt say mê thú nuôi gà nòi.
Khi 14, 15 tuổi thường than rằng : « Sinh ở đời loạn mà không kéo cờ gióng giống làm đại tướng để lưu công danh sử sách thì không phải là tài trai ».
Năm 1780, Lê-văn-Duyệt được Chúa Nguyễn tuyển làm Thái-Giám, sau thăng Cai Cơ cai quản hai đội quân thuộc nội, có công bảo vệ Chúa Nguyễn trên đường phục quốc từ Phú-Quốc qua Xiêm-La về Sài-gòn cho đến ngày đất Đồng-Nai thuộc về Chúa Nguyễn (1789).
Lê-văn-Duyệt thường theo dự chiến trận, cùng các tướng bàn luận việc dụng binh, có nhiều ý kiến xác đáng.
Ông từng tâu lên Nguyễn-Vương : « Sơn tặc (quân Tây-Sơn) là quân vô đạo, không bao lâu cũng tự diệt mà thôi. Nay ta lấy người nhân mà đánh kẻ bạo, thế như chẻ tre, tôi thấy không có gì làm khó ».
Nguyễn-Vương tỏ ý đẹp lòng. Lê-văn-Duyệt bằng xin chiêu mộ quân sĩ theo về cánh Tả quân, phụng mệnh ra đánh Qui-Nhơn, nhờ có công tại mặt trận Úc-Sơn được thăng làm Thuộc-Nội Vệ-Úy thuộc đạo Thần-sách-quân.
Đầu năm Ất-Mão 1795, đem quân cứu viện Diên-Khánh, đưa đại quân qua sông, đánh hạ đồn, Lê-văn-Duyệt được cải phong Vệ-Úy Diệu-Võ, lại đổi làmChánh Thống Tả Đồn của đạo quân Thần-Sách trấn thủ Diên-Khánh thành.
Đầu năm Kỷ-Mùi (1799) Lê-văn-Duyệt đem quân án ngữ Bình-Đê ngăn viện binh Tây-Sơn. Quân của Thiếu-Phó Trần-quang-Diệu và Tư-Đồ Võ-văn-Dũng không tiếp viện được phải lui về Thanh-Hảo (Mộ-Đức) vì thế thành Qui-Nhơn bị
hạ. Nguyễn-Vương cho đổi tên Qui-Nhơn thành là « Bình-Định thành ».
Tháng chạp Kỷ-Mùi (1799) thành Bình-Định bị quân Tây-Sơn vây chặt : Mùa xuân Canh-Thân (1800) Lê-văn-Duyệt cùng Nguyễn-Vương đem quân ra cứu viện Qui-Nhơn, dùng hỏa quân đánh tan thủy quân Tây-Sơn tại biển Thị-Nại.
Trận hỏa công khởi đánh lúc 10 giờ 30 đêm rằm tháng giêng năm Tân-Dậu (27-1-1801) kết thúc vào lúc quá trưa 16 được gọi là « Võ Công đệ nhứt » trong thời trung hưng của nhà Nguyễn.
Sau chiến thắng Thị-Nại, Nguyễn-Vương, theo lời khuyên của Lê-văn-Duyệt, y theo kế của Võ-Tánh, ra đánh Phú-Xuân.
Lê-văn-Duyệt và Lê-Chất điều khiển thủy quân tiền phong cả thắng, bắt được Phò-Mã Trị và hơn 500 tù binh và do cửa Thuận-An thẳng tiến đến kinh thành Huế.
Sáng mùng 3 tháng 5 Tân-Dậu (1801) vua Cảnh-Thịnh Nguyễn-quang-Toản của Tây-Sơn rời Phú-Xuân chạy ra Bắc-Hà. Vào khoảng 3 giờ chiều ngày nầy, Chúa Nguyễn Phúc-Ánh bước lên bờ sông Hương sau 26 năm lưu lạc.
Sau đó Lê-văn-Duyệt được Vua đặc biệt ban một chiếc trống trận và cờ lệnh để tăng uy điều khiển ba quân, cùng Lê-Chất, Tống-viết-Phước đả phá quân Tây Sơn, từ cửa biển Mỹ-Ý (hiện phía đông quận Đức-Phổ, Quảng-Ngãi) tấn công bất thần, đại thắng quân Tây-Sơn tiến vào Bình-Định, khắc phục thành nầy năm1802.
Lê-văn-Duyệt được phong tước Quận-Công tháng 5 Nhâm-Tuất (1802) lại được thăng Khâm-sai Chưởng-Tả quân-Dinh, Bình Tây Tướng quân cùng Lê-Chất tiền phong đánh Bắc-Hà, tháng 10 thâu phục thành nầy đổi là Bắc-Thành và ban sư.
Từ năm 1803 đến năm 1808, Lê-văn-Duyệt đã 3 lần lãnh sứ mạng dẹp giặc Thượng Đá-Vách ở Quảng-Ngãi, có đóng quân tại Trà Khúc.
Năm 1808 Lê-văn-Duyệt trấn thủ Đế-Đô. Thời kỳ nầy có lần Lê-văn-Duyệt vào chầu trể. Và, chẳng biết ai có dèm pha gì không mà Vua Gia-Long đã phán hỏi Tả quân bằng một giọng nghiêm nghị :
- Khanh còn bận xem đá gà ?
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần khó ở phải gượng vào chầu.
- Nhưng, tính khanh rất ham gà chọi ?
- Muôn tâu Thánh-Thượng, cái đó quả có. Nếu hạ thần đã giúp bệ hạ được một
việc nhỏ gì trong quân cũng nhờ chọi gà cả. Người xưa đã nói gà quả là một cầmthú đủ 5 đức lớn : Đầu có mão như đội mũ là văn. Chân có cựa nhọn là vũ. Thấy kẻ địch trước mắt dám xông vào là dũng. Thấy cái gì ăn gọi đồng loại đến cùng ăn gọi là Nhân. Đêm đêm cứ tới giờ, tới canh là gáy gọi là Tín. Văn, Vũ, Tín, Nhân, Dũng 5 đức ấy là đức cần thiết cho kẻ cầm quân làm tướng.
Vua Gia-Long nghe tâu mĩm cười và đổi nét mặt làm vui.
Năm Gia-Long 11 (1812) Lê-văn-Duyệt vâng chỉ vào tuần vãng tại Quảng Ngãi, sau đó được vua triệu về lãnh chức Gia-Định Tổng-Trấn, giao tùy nghi giải quyết vụ Xiêm-La và Chân-Lạp.
Năm 1813, Lê-văn-Duyệt dẫn 13.000 quân theo đường thủy đưa vua ChânLạp Nặc-Ông về cố đô La-Bích, sai quân đắp giùm vua Chân-Lạp kinh thành Nam Vang, to rộng, vững chắc để phòng thủ.
Người Xiêm rút quân, Lê-văn-Duyệt lưu Nguyễn-văn-Thoại thống lĩnh 1000 quân tinh nhuệ ở lại giúp vua Chân-Lạp.
Tháng 6 â.l. (1815), Lê-văn-Duyệt phụng chỉ về triều, kế đó vào dẹp giặc Thượng Đá Vách lần thứ 4. Lần nầy, bình định xong, Lê-văn-Duyệt còn nghĩ đến sự an ninh lâu dài nên đã cho đắp trường lũy chạy dài suốt tỉnh Quảng-Ngãi, bắc tới huyện Hà-Đông (hiện Tam-Kỳ Quảng-Tín) nam tới Bồng-Sơn (Bình-Định).
Lũy dài 90km, có 115 bảo, mỗi bảo 10 binh sĩ, tất cả là 1.150 quân chia làm 6 cơ lo việc phòng thủ.
Sau đó, Lê-văn-Duyệt về kinh cùng với Lễ bộ Thượng-thư Phạm-đăng-Hưng đồng thọ Cổ mạng di chiếu, ủy cho Lê-văn-Duyệt gồm coi năm dinh tướng sĩ thuộc đạo Thần-sách-quân.
Lê-văn-Duyệt từng dựa vào câu « Đích tôn thừa trọng, lập tự duy đích » để bênh vực cho ý kiến chọn con của Đông-cung Cảnh làm Hoàng Thái-Tử nối ngôi nhưng đành nín lặng trước quyết định của vua Gia-Long dựa vào lý khác là câu « Phụ trái tử hoàn » để chọn Hoàng-Tử Đản đã 25 tuổi lên nối ngôi.
Năm Minh-Mạng nguyên niên (1820) Lê-văn-Duyệt lại phụng mạng lãnh chức Gia-Định Tổng-Trấn, dẹp yên được giặc sải Cao-Miên tên là Kế, vây bắt tên nầy, chém đầu thị chúng, khoan hồng đối với những kẻ a tòng, vãn hồi an ninh địa phương.
Lấy danh nghĩa bảo hộ Cao-Miên, đề phòng sự gây hấn của Xiêm-La, Lê-văn Duyệt sửa đắp con đường Sài-gòn lên Gò-Dầu Tây-Ninh tiện cho lục quân thẳng
tới ranh giới Xiêm-Miên ngang qua Nam-Vang, đào kênh Vĩnh-Tế để thủy quân di động mau lẹ từ Châu-Đốc qua Hà-Tiên. Lê-văn-Duyệt chọn 3 muôn rưỡi binh vét kênh nầy sâu rộng, đích thân đốc xuất, lâm bệnh, được vua thưởng cho một ngọc đái.
Suốt 2 nhiệm kỳ lãnh Tổng-Trấn Gia-Định, Lê-văn-Duyệt đã áp dụng nhiều biện pháp nghiêm minh bài trừ trộm cắp, cải cách tệ hương binh, lập cơ quan từ thiện « Anh-Hài » và « Giáo-Dưỡng » để giúp gia đình binh sĩ.
Là người chính trực, Lê-văn-Duyệt đã không ngần ngại khép Huỳnh-công-Lý (Phó Tổng-Trấn) vào tội xử tử vì đã tham tàn, sách nhiễu dân chúng, mặc dù Lý có con gái là sủng phi của vua Minh-Mạng.
Cũng trong nhiệm kỳ Tổng-Trấn Gia-Định Lê-văn-Duyệt đã từng tiếp kiến John White, người Mỹ, chì huy trưởng tàu hai cột buồm Franklin, người đầu tiên đặt chân tới Việt-Nam.
Sau lần được yến kiến chính thức, John Whi te đã nhận xét Lê-văn-Duyệt qua một thiên ký sự : « Quan lớn nói chuyện với tôi rất tự nhiên, bỏ hết mọi kiểu cách long trọng cao quý, mọi nghi lễ về địa vị lớn lao của Ngài. Chiến tranh, chính trị, tôn giáo, phong tục và kiểu cách tại các nước Âu-Châu là đề tài mà quan lớn đặc biệt chú trọng… »
Năm 1824 và 1831, Lê-văn-Duyệt đã hai lần dâng sớ xin từ chức nhưng vua Minh-Mạng không nhận lời, vẫn tỏ tình ưu ái, cố lưu tại chức.
Chẳng bao lâu Lê-văn-Duyệt lâm trọng bệnh. Vào đêm 30-7 Nhâm-Thìn tức 25-8-1832 niên hiệu Minh-Mạng 13 Lê-văn-Duyệt từ trần tại Trấn thành, hưởng thọ 69 tuổi.
Sau khi Lê-văn.Duyệt mất, thành Gia-Định được đổi tên là Phiên-An, đặt Tổng-Đốc, Bố-Chánh, Án.Sát, Lãnh binh cai trị.
Khi ấy Bố-Chánh Bạch-xuân-Nguyên tự xưng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê-văn-Duyệt Đêm 18-5 Quý-tỵ (1833)Lê-văn-Khôi thoát ngục cùng thuộc hạ nổi dậy, giết Tổng-Đốc Nguyễn-văn-Quế, bắt sống Bạch-xuân-Nguyên chiếm giữ Phiên-An. Mãi đến ngày 7 Ất-mùi (1835) quân nhà Nguyễn mới thu phục được thành nầy.
Vua Minh-Mạng truy trách nhiệm tại Lê-văn-Duyệt nuôi phỉ đảng để gây nên họa. đem ra xử án.
Lê-văn-Duyệt bi truy đoạt quan tước, bị cuốc phẳng mộ địa, dựng bia đề 8 chữ
« Quyền yêm Lê-văn-Duyệt phục pháp xứ » Con nuôi và cháu là Hán, Yên, Tề đều bị xử tử, chỉ có Lê Tả quân phu nhân được miễn tội.
Năm Tự-Đức thứ 2, theo lời tâu của quan địa phương vua cho dẹp cây trụ có 8 chữ trên và để mặc thân nhân lo liệu sửa sang, đắp mộ phần cho Lê Tả-quân.
Mãi đến năm Tự-Đức thứ 21 (1868) Vua mới cho truy phục nguyên hàm cho Tả quân là : « Vọng-Các Công Thần-Chưởng Tả-quân Bình-Tây Tướng quân Quận công ».
Hiện, miếu mộ của Tả quân Lê-văn-Duyệt đều xây cất tại xã Bình Hòa (Gia Định). Nơi đây, nam phụ, lão ấu trong toàn quốc, các khách ngoại quốc đều kính cẩn thăm viếng, sùng bái tấp nập, quanh năm khói hương nghi ngút. Người ta thường gọi là lăng Ông hay đền thờ đức Thượng Công.
« Trăm trận gian-nan là trang danh tướng
Trung can, nghĩa khí là vị danh hiền
Hương hoa lễ bạc đừng quên
Đi ngang Gia-Định viếng đền Tả quân ».
(Ưng Bình Thúc-giạ-Thị)
2) TRƯƠNG-ĐĂNG-QUẾ
Trương-đăng-Quế, hiệu Quảng-Khê, sinh quán Mỹ-Khê (nay thuộc xã Sơn-Mỹ, quận Sơn-Tịnh).
Thĩ Tổ dòng họ Trương là Ông Trương-đăng-Nhứt vốn nổi tiếng thanh bạch. Theo gia phả có ghi, con cháu kể lại và đồng bào địa phương vẫn còn truyền miệng thì chính ông Trương-đăng-Nhứt từng đào được một hủ vàng của người Tàu chôn dấu ở Mỹ-Khê và đã vui vẻ trả nguyên vẹn hủ vàng ấy cho con cháu người có của khi họ đến tìm. Ông Trương-đăng-Nhứt cũng đã cương quyết từ chối phân nửa số vàng trên mà người Tàu có của tự nguyện kính biếu bằng cách đút vàng trong cây bánh tét.
Để trả ơn, người Tàu ấy, một nhà địa lý tinh thông đã cố công tìm cho dòng họ Trương một huyệt mả tại Bàu-Cò, nơi tọa lạc ngôi mộ của Thỉ Tổ họ Trương.
Và, từ đấy dòng họ Trương thịnh phát theo đúng lời dự đoán của nhà địa lý.
Ông Trương-đăng-Quế thi đậu Hương-Tiến (Cử-nhân) vào niên hiệu Gia-Long. Ở tỉnh Quảng-Ngãi ông là người khai khoa đầu tiên.
Tính ông ôn hòa, thận trọng cẩn mật, nếp sống thanh bạch, lòng rất trung
hậu, yêu nước nhiệt thành, có tinh thần chống Pháp. Năm 1861 dưới thời vua Dực-Tôn, vào khoảng tháng giêng Tân-Dậu (1861) sau khi được tin đồn Kỳ-Hòa và thành Mỹ-Tho thất thủ, Triều đình sai quan Thượng-Thư Bộ-hộ Nguyễn-bá-Nghi làm Khâm sai đại thần kinh lý Nam kỳ. Nguyễn-bá-Nghi (cũng người Quảng-Ngãi) biết thế không chống nổi quân Pháp đã dâng sớ xin hòa nhưng tại triều đình Huế, Ông Trương-đăng-Quế đã kiên quyết tìm kế chống giữ.
Tuy chỉ đậu Hương-tiến, nhưng Trương-đăng-Quế học rộng, thông suốt kinh sách, thơ văn lỗi lạc (còn lưu lại « Học văn dư tập » từng xướng họa thơ với Nguyễn-công-Trứ và các danh sĩ khác).
Đặc san Xuân 17 Liên đội 1/17 ĐPQ-NQ Quảng-Ngãi có trích đăng và dịch bài « Xuân giang khúc » trong « Học văn dư tập » (nhất danh Trương-quảng-Khê tập) của Trương-đăng-Quế :
« XUÂN GIANG KHÚC »
Tạc dạ vũ thủy hạ.
Xuân giang vi lãng sinh
Thiếp tâm hữu sở cảm
Diên ngạn tự vi hành.
Tạm dịch : « BÀI CA SÔNG XUÂN »
Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn mờ
Lòng em xao xuyến bấy
Ven sông bước bước hờ.
(Quyển I, tờ I b)
Đến niên hiệu Minh-Mạng, Ông sung chức Đông Cung Bạn Độc (người chỉ dẫn cho Đông-CungHoàng-Tử học tập) lần thăng đến Binh bộ Thượng-Thư sung Cơ mật đại thần.
Năm Minh-Mạng thứ 14 (1815) gia hàm Thái-Thử Thiếu-Bảo. Năm thứ 15 sung Kinh lược Đại Sứ vào khám đạc điền thổ 6 tỉnh Nam kỳ rồi thăng Hiệp Biện đại-học sĩ lãnh Binh-bộ Thượng-Thư như cũ. Năm thứ 17 sung chức Thanh-Hóa Kinh-lược đại thần dẹp yên giặc Thổ rồi trở về lãnh chức cũ.
Năm thứ 20 (1821) được tấn phong Tuy-thạnh-nam, Năm thứ 21 vâng Cổ mạng (di chiếu của Vua) sung chức Phụ-chánh. Niên hiệu Thiệu-Trị thứ nhứt, xét ông có công giúp đỡ nhà Vua, được thăng Văn-minh Điện Đại-học-sĩ gia hàm Thái-
Bảo, quản lý Binh bộ kiêm Cơ-mật viện lại kiêm chức Tổng Tài Quốc-sử quán, tấn phong Tuy-Thạnh-Tử. Lại xét loạn ở trấn Tây được yên ổn là do ông Trương-đăng Quế có công trù hoạch, khi ấy đúc súng ghi hình tượng võ công có chạm tên ông vào bửu pháo (súng báu) « Bảo-đại định công đệ nhứt » (danh hiệu khẩu súng).
Tháng 9, năm thứ 7 (1847) lại vâng di chiếu làm Cổ mạng lương thần sung Phụ chánh. Năm thứ nhứt niên hiệu Tư-Đức (1848) được sắc phong hàm Cần Chánh Điện Đại-Học-Sĩ tấn tước Quận Công sung Kinh-Diện giảng quan. Sau già yếu về hưu trí rồi mất trong cảnh thanh bạch, hưởng thọ 73 tuổi được truy tặng hàm Thái-Sư thụy là Văn-Lương được thờ theo miếu Thế Thất.
Con trưởng là ông Quang Trụ được thọ ấm Thừa chỉ (chức quan trong Hàn Lâm-Viện) lấy Công-chúa, sau được phong tước Hầu.
Con thứ 2 là Quang-Đản, Phu chánh đại thần dưới triều Thành-Thái, Đông-Các Đại-Học-Sĩ hưu trí. Con thứ 3 là Quang-Để thọ hàm Binh bộ Tham-Tri.
Ông Trương-đăng-Quế phụng sự bốn triều, trải 40 năm. Ngoài việc lưu lưu « Học văn dư tập » ông còn để lại hậu thế một sự việc quan trọng tuy không ghi vào chánh sử triều Nguyễn nhưng dư luận trong giới quan trường và dân chúng địa phương vẫn tin có thật : Đó là việc đổi con.
Người ta cho rằng với chức vụ Phụ Chánh Đại thần ông Trương-đăng-Quế đã đem con trai mình đổi lấy con trai vua Thiệu-Trị, lúc 2 đứa trẻ mới sinh.
Dư luận tin rằng vua Tự-Đức sau nầy chính là con trai của Trương-đăng-Quế ứng với lời nhà địa lý Tàu khi tìm huyệt mả cho dòng họ Trương : Đợi đợi công hầu nhứt Đại Vương.
3) NGUYỄN TẤN
Nguyễn-Tấn soạn giả « Phủ man tạp lục » trú quán quận Mộ-Đức vốn dòng dõi của vị lão thần Nguyễn-công-Toản, người có công theo chúa Huệ Vương bình định các vùng sơn cước năm 1773.
Năm 1804 vua Gia-Long nghĩ đến việc an ninh các vùng Thượng, cấp cho Nguyễn-công-Toản làm đất phong hầu.
Thuở còn nhỏ, ông Tấn có tướng mạo anh tú, thông mẫn, kiến thức rộng, đậu Cử-nhân khoa Quý-Mão (1843) niên hiệu Thiệu-Trị được bổ chức Hành-Tẩu viện Cơ mật do một viên đại thần trong viện dâng sớ tiến cử.
Trong khi thừa hành công vụ gặp việc gì cũng chủ trì, định đoạt vững chắc,
ông Tấn được phong Tri-phủ An-Khánh, Án-sát Thái-Nguyên. Năm 1863, vua Tự Đức lại cử ông làm Thị-Lang sung Tĩnh-Man Tiểu-phủ-sứ và từ đấy trấn Man gọi là Sơn-phòng-trấn.
Ông Tấn mất, thọ 50 tuổi, được tặng Binh bộ hữu Tham tri.
Nguyễn-Tấn không những là một nhà quân sự thao lược mà còn là một chính trị gia lỗi lạc về tổ chức và có nhiều kinh nghiệm về vùng Thượng.
Căn cứ theo Phủ Man tạp lục, đường lối của Tiểu phủ Sứ chỉ dẫn cho các cấp gồm các điểm :
- Hoàn toàn bí mật trong công tác quân sự.
- Nghiên cứu kỹ càng địa hình địa vật, đường lối đi lại trong khu vực hoạt động.
- Hiểu rõ phong tục, tập quán và ngôn ngữ địa phương.
- Cương quyết trong việc lãnh đạo, thận trọng và khoan hồng trong cách đối xử.
- Công bằng và triệt để giữ lời hứa.
Nguyễn Tấn bỏ chế độ giao dịch, căn cứ theo các thủy lộ mà lập ra các Tổng nguồn. Dưới mỗi Tổng nguồn có một số Đầu mục. Dưới quyền Đầu mục là Sách trưởng (thôn trưởng).
Để thu phục nhân tâm, khi Nguyễn-Tấn đến làm Tiểu phủ Sứ đã miễn hẳn một năm thuế và hạ xuống 1.350 quan mỗi năm (trước 1.470 quan), Thuế nầy được chia bổ cho các Nguồn tùy theo khả năng, tùy theo nhân khẩu và giao cho cái lái nhiệm vụ thu tập, nạp về cho các Tri Châu.
Dân chúng địa phương còn truyền miệng một giai thoại chứng tỏ mưu mẹo khéo léo của Tĩnh Man Tiểu phủ-sứ Nguyễn Tấn :
Dưới thời Tự-Đức, Thượng du Đá-Vách (Quảng-Ngãi) thường nổi dậy cướp phá, dựa vào địa thế hiểm trở để xâm phạm, đe dọa đời sống các vùng đồng bào kinh.
Quan quân nhà Nguyễn phải đánh dẹp rất vất vả, nhiều lần thất bại vì bị lọt vào các ổ phục kích của quân Thượng, bị những vũ khí cạm bẫy, tên tẩm thuốc độc giết chết rất nhiểu.
Ông Nguyễn-Tấn, sau khi nghiên cứu tỉ mỉ, tính tình, tâm lý, phong tục, tập quán đồng bào Thượng, đã lập kế giảng hòa.
Ông cho mời Đại diện các sắc Thượng Quảng-Ngãi đến họp bàn việc hòa giải.
Trong cuộc họp, ông Tấn phục sức như một Tướng nhà trời : nào hia, mão, có hình mặt trời, mặt trăng ; áo quần thì rồng bay phượng múa và cẩn xa cừ như muôn ngàn vị sao lấp lánh. Xong, ông ra lệnh binh sĩ mua đường phèn Quảng-Ngãi, loại lớn bằng ngón chân trở lên, cùng một lúc cũng tìm mua nhiều đá trắng giống như cục đường phèn. Tất cả được sắp sẳn đem dọn ra dĩa. Quân sĩ soạn 1 dĩa đường phèn 3 dĩa đá giống đường phèn.
Trước khi mở cuộc họp hòa giải Ông Tấn mở tiệc trà đãi 4 đại diện Thượng. Giữa tiệc, 4 dĩa đường lẫn đá được dọn ra.
Lúc bấy giờ, ông Tấn mới tuyên bố với các đại diện Thượng là tiệc có đường do Trời ban và bốc đường phèn nhai lóp cóp. Trong lúc đó, các đại diện Thượng được mời ăn, vô tình bốc phải mấy dĩa đá trắng giống đường phèn dọn trước mặt, nhai đến bể răng mà không nát.
Cuối cùng họ lấy làm khâm phục cho rằng ông Nguyễn Tấn là Tướng nhà Trời. Kết quả họ chịu hòa giải có lợi nhiều về phía quân Sơn phòng.
Hơn nữa, trong suốt cuộc họp ông Nguyễn Tấn đã tỏ thái độ rất hòa nhã, tôn trọng tục lệ người Thượng và cam kết ra lệnh cho toàn thể quân sĩ đưới quyền triệt để tôn trọng mọi phong tục tập quán người Thượng. Do đó, công việc hòa giải được thành tựu mỹ mãn.
Về sau, các sắc dân Thượng địa phương đều tuân theo luật pháp, giải giới, trả các vùng đất đã chiếm cứ lại cho triều đình, chấm dứt mọi sự quấy rối và không giết hại đồng bào kinh nữa.
Ông Nguyễn Tấn làm Tiểu phủ Sứ ở Sơn phòng trấn lâu năm, có ân mà lại có uy. Đồng bào Thượng khiếp phục, nhân dân an cư lạc nghiệp nên khi ông mất người Thượng vùng Quảng-Ngãi dắt nhau đến quân thứ than khóc ai bi và dựng bia ở phía tây đồn bảo để kỷ niệm công đức.
Sơn phòng trấn dưới thời Nguyễn-Tấn vẫn tiếp tục là đất phong hầu.
Khi chết, Nguyễn Tấn truyền lại cho Nguyễn-Thân. Lúc sanh thời, ông có viết « Phủ man tạp lục » bằng chữ Hán (sau nầy được Nguyễn Thân bổ túc kinh nghiệm xây dựng Sơn phòng trấn, hoàn thành sách nầy năm 1891, hiện còn trong tủ sách gia bảo của ông Nguyễn-Hy).
Nội dung : « Phủ man tạp lục » gồm có :
- Các phương châm hướng dẫn công tác thượng vận.
- Kinh nghiệm công tác miền Thượng.
- Những đường xuyên sơn từ vùng nầy đến vùng khác.
- Một số tiếng Thượng phiên âm thành chữ nôm để giúp cán bộ trong việc giao dịch với đồng bào Thượng.
Có thể nói « Phủ man tạp lục » là một tập sách duy nhất về vùng Thượng được viết bằng chữ Hán.
Và từ Nguyễn-Tấn về sau, công tác bình định vùng Thượng Quảng-Ngãi được cải tiến rất nhiều.
Năm Thành-Thái thứ 10 (1898) nhờ phẩm hàm của người con, ông Nguyễn Tấn được truy thăng Lễ Bộ Thượng Thư. Con ông là Nguyễn Thân tước Cần-Chánh Điện Đại-Học Sĩ Túc Liệt-Tướng Diên-Tộc Quận Công về hưu trí.
4) CHÍ SĨ CÁCH MẠNG TRƯƠNG-CÔNG-ĐỊNH (1820-1864)
« …Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình-Tây đất vội chôn… »
(« Điếu Trương-công-Định »
Nguyễn-đình-Chiểu, 1864)
Trương-công-Định sinh năm 1820 tại xã Tư-Cung huyện Bình-Sơn (nay thuộc xã Sơn-Mỹ, quận Sơn-Tịnh, Quảng-Ngãi) Thân phụ là Trương-Cầm. Lúc nhỏ, ở Quảng-Ngãi thì họ và tên không có chữ lót ngăn cách nên trong Đại-Nam chánh biên liệt truyện và Đại-Nam nhất thống chí quyển VI chép là Trương-Định.
Vào khoảng giữa đời Thiệu-Trị (1841-1847) ông Trương Cầm vốn Lãnh binh của triều Nguyễn được bổ nhiệm vào Nam với chức Vệ-Uý Hữu Thuỷ Vệ ở tỉnh Gia-Định.
Trương-công-Định theo thân phụ vào Nam, cưới Lê thị-Thưởng, con gái một nhà phú hào ở huyện Tân-Hoà.
Đến khi thân phụ mất, ông lập luôn gia cư ở đây không về quê nữa. Ông Trương-công-Định, vóc thanh lịch, nước da trắng, nét mặt tạo nhã, tinh tế, dung mạo khôi ngô, có sức mạnh, tài bắn hơn người, lại rành về binh thư.
Từ khi theo cha vào Nam, ông không theo nghiệp cha, không thi võ cử để làmquan, lại nuôi chí khẩn đất, mộ phu, lập đồn điền, theo phong tục trong Nam, thêm chữ lót giữa họ và tên. Và, từ ấy đi vào lịch sử với tên Trương-công-Định.
Khi Kinh-Lược sứ Nguyễn-tri-Phương vào Nam (1850) để điều chỉnh chính sách khẩn hoang, Trương-công-Định xuất tiền, chiêu mộ dân nghèo Nam, Ngãi,
Bình, Phú vô khẩn hoang, lập ấp theo phương pháp « đồn điền » của cuộc Namtiến.
Có võ giỏi, có cơ nghiệp nên Trương-công-Định được bổ chức Quản Cơ thường gọi là Quản Định.
Tháng giêng năm Kỷ-Mùi (1859) quân Pháp công hãm thành Gia-Định, quân đội của Triều đình nhà Nguyễn binh ít, vũ khí thô sơ không chống lại nổi. Bởi vậy khắp nơi đều dấy lên phong trào chiêu binh luyện võ trữ lương để giúp Triều đình chống xâm lăng. Thời cơ ấy giúp cho kẻ anh hùng xuất đầu, lộ diện.
Trong đám quân hùng ấy ai cũng có chức tước khoa nghiệp chỉ có một mình Trương-công-Định xuất thân là thường dân, địa chủ. Nếu đem so sánh chức tước thì Trương-công-Định ở bậc chót trong đám quần hùng. Nhưng, người ở bậc chót nhất lại được mọi người mặc nhiên chịu nhận là người lãnh đạo.
Thuở ấy miền Nam có cả thảy 29 liên đội. Những Quản cơ chỉ huy những liên đội ấy đều có cái thế đứng đầu các nhóm nghĩa binh.
Nhóm nghĩa quân của Trương-công-Định đông hơn hết, 6.000 người, ghép thành 18 cơ, luôn luôn kháng cự quân Pháp một cách hiệu quả và lập rất nhiều chiến công.
Trương-công-Định tổ chức tấn công quân Pháp tại Gò-Công, thanh toán các tay sai của Pháp, hạ sát Cai Tổng Huy, viên xã trưởng ở làng Gò-Công, phá các nhà cửa của những kẻ thân Pháp, xây đồn nhỏ, đóng quân các điểm quan trọng, tuyển thêm tân binh, đánh thuế lưu thông…
Tuy Pháp có quan cai trị tại Gò-Công gọi là D’arfeuille, sau đó Hải quân Thiếu Tướng Bonard nhưng trên thực tế, quân Việt làm chủ chung quanh đồn, lan rộng cả vùng Gò-Công.
Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1860) nghĩa binh của Trương-công-Định đóng ở Thuận-Kiều với phòng tuyến dài từ Cây Mai đến Thị-Nghè. Trương-công-Định luôn luôn đi tiền phong.
Chính vì có tổ chức chặt chẽ và có tinh thần đồng đội nên nghĩa binh của Trương-công-Định chiến đấu rất hăng, quân số ngày càng thêm đông, lại thêmmột số văn thân về giúp sức như : Án-Sát Đỗ-Quang, Tri-phủ Nguyễn-thành-Ý, Thủ-khoa Nguyễn-hữu-Xuân, Cử nhân Phạm-văn-Đạt, Phan-văn-Trị, Tú tài Nguyễn-đình-Chiểu…
Về sau, Triều đình Huế đã hợp thức hóa tình trạng nầy bằng cách phong cho
Trương-công-Định chức phó Lãnh Binh Gia-Định.
Sau hòa ước 1862, các quần hào lãnh đạo đám nghĩa binh đều nhận định rằng : quân Pháp lấy binh lực mà ăn hiếp Triều đình, không phải thực lòng. Sau hòa ước, nghĩa binh sẽ trông cậy về đâu, chi bằng cứ tiếp tục kháng cự, cố thủ một miền để đùm bọc lẫn nhau.
Với nhận định trên, toàn thể nghĩa binh cương quyết thà chết không khuất phục và mọi người yêu cầu ông Trương-công-Định tiếp tục ở lại lãnh đạo cuộc chiến đấu chống Pháp.
Trong khi Trương-công-Định còn suy nghĩ thì ở Tân Long (một làng của tỉnh Tân-An ngày nay) một văn thân là Phạm-tuấn-Phát truyền thư cho tất cả các đội nghĩa quân, đề nghị suy tôn Trương-công-Định làm chủ soái để cầm đầu cuộc kháng Pháp. Đề nghị đưa đến đâu đều được dư luận hoan nghênh. Như một cao trào tất cả nghĩa binh đều đồng tình. Và, người ta tình nguyện đắp đàn làm lễ bái tướng. Trong lễ nầy lại cử người đem nhiễu điều choàng lên vai Trương-công-Định và suy tôn ông lên làm Bình Tây Đại nguyên soái.
Từ bấy giờ, kể từ tháng 2-1863, Trương-công-Định không còn là một Lãnh binh của Triều Nguyễn mà trở thành vị nguyên soái có sứ mạng bình Tây.
Tháng 2-1863, ông Định đã công khai tuyên bố không dính liếu với Namtriều : « Chúng tôi không thể hành động gì khác hơn hành động bây giờ. Dân chúng 3 tỉnh yêu cầu chúng tôi đứng đầu khởi nghĩa Chúng tôi chiến đấu, chúng tôi sẽ đánh ngã bọn giặc ». (trích thư gởi các quan Việt ở Vĩnh-Long)
Và, tháng 8 năm 1864, Trương-công-Định đã gởi hịch cho đồng bào và quân sĩ :
« …Từ ngày lòng dân đã muốn ta lên làm ngươn nhung 3 tỉnh, trước hết ta cố gắng điều khiển chống quân cướp ấy… Chỉ còn trông cậy vào tấm lòng yêu thương không phải của người người đối với ta. Ta sẽ lấy vi-lộ làm cờ, tầm vông làm võ bị. Thế là xong, bất dung cho bọn cướp.
« Về ta, ta chỉ là một tên lính vô học thức và trở nên tướng lãnh vì thời thế : ta chỉ lấy cái dốt của ta để chống đỡ… vì lẽ ấy, ta ra tờ hịch nầy yêu cầu hảy đem đến đây tất cả người dầu ở dưới đạo binh nào, từ tổng binh đến quan suất, không phân biệt sĩ phu hay võ biền, ta cầu xin các vị ấy hãy giúp ta phương pháp để đem về kết quả lớn lao… »
Sau ngày từ chối chức vụ Lãnh binh An-Giang để nhận chức Bình Tây đại
nguyên soái, Trương-công-Định dùng Quang-Quyền làm Tham-Tán quân vụ chỉnh đốn hàng ngũ, phân phát tướng sĩ đi đóng chận các nơi hiểm yếu bao quát một vùng, mặt động-nam ra đến bải bể, mặt tây đến núi Hoa-Cương còn ông thì chỉ huy đại binh đóng ở rừng Trất-Tước, cứ một quãng lại thiết lập một đồn lũy để cản sức xung phong và đúc thêm trọng pháo, mộ đinh tráng, phòng bị huyện Tân-Hòa làm kế trường cửu.
Quân của Trương-công-Định trí súng trên cách sông rạch, tấn công các tàu Pháp đi vô sâu nội địa huyện Tân-Hoà, nhả đạn liên miên khiến cho nhiều quân Pháp trên chiếc tàu L’Alarme bị chết và bị thương.
Các thuỷ thủ ở pháo hạm L’Alarme lại còn bị các đợt tấn công tâm lý nữa. Trương-công-Định đã gởi cho Thiếu-Tướng Bonard : « Chúng tôi bảo vệ Tổ-Quốc chúng tôi. Các người có dõng lực nhưng ít người, mỗi ngày vài người lính ngã quỵ dưới sự phục kích ; bịnh rét cũng ở bên ta để chiến thắng người Hãy từ bỏ một cuộc xâm chiếm không thể được ».
Về phần quân Pháp, sau khi hai bên đã lập hoà ước, mặc dù có biết những hoạt động của nghĩa quân nhưng họ vẫn án binh bất động chỉ thúc giục Trấn Thần Vĩnh-Long Phan-thanh-Giản phải gởi thư cho Định phải bải binh.
Sau một thời gian chờ đợi không hiệu quả, ngày 25-26 tháng 2 (1863) (mồng 8 và 9 tháng giêng Quí Hợi) đại binh Pháp, hải quân do Đại-Tướng Jaurès, lục quân do Đại Tướng Chaumont và Đại Tá Palanca chỉ huy phối hợp tấn công vào Gò-Công.
Cuộc hành quân lớn của quân đội Pháp huy động tất cả lực lượng đạo quân viễn chinh, dùng nhiều xuồng pháo hạm, chuẩn bị non một tháng, bố trí hết sức chặt chẽ, dù có chiếm cứ lũy chót của nghĩa binh ở Trại Cá nhưng toàn bộ lực lượng nghĩa binh đã rút lui dễ dàng, bảo toàn lực lượng. Trái lại, quân Pháp có nhiều người bị chết, bị thương và bị tổn phí nặng nề.
Về phần Trương-công-Định, sau khi thoát khỏi trận tấn công quy mô của quân Pháp ở Gò Công vẫn tiếp tục cuộc chiến đấu.
Không bị hao nhân mạng bao nhiêu nhờ có đường rút lui khôn khéo, nghĩa quân tụ tập từng nhóm tại biên giới Biên-Hòa ở Lý-Nhơn, nhóm cù lao đối diện với Gò-Công ngăn cách bởi sông Soi-Rap và Đồng-Tranh. Các cù lao nầy dày đặc thủy liễu dưới sông và sình lầy nơi bưng biền, nước bao trùm mặt đất, địa thế rất hiểm
trở.
Trương-công-Định dời cả hành dinh ra nơi ấy, xây cất phòng tuyến vững chắc,
mưu tinh việc đánh Pháp.
Ngày 25-9-1863, có người mật báo chỗ ở của ông Định cho Gougeard và Béhic biết. Tức thời quân Pháp đánh úp vào phòng tuyến, một người lính mã tà níu Định nơi vai nhưng ông chém một lát gươm, chạy thoát xuống xuồng, chèo mất hút chỉ có vài nghĩa binh bị bắt.
Để phản ứng lại hành động của quân Pháp, để chứng tỏ sự hiện diện của lực lượng kháng chiến, nghĩa binh đồng loạt nổi lên đánh phá nhiều nơi ở ranh giới Biên-Hòa, Tân-An, Mỹ-Tho, Cần-Giuộc.
Về phần Trương-công-Định lại áp dụng chiến thuật đánh lạc lối quân Pháp bằng cách loan tin đã ra Huế với sứ mạng quan trọng.
Trong khi đó Trương-công-Định và các đồng chí rút vào rừng sâu nhưng chỉ mấy hôm sau lại lần về Phước-Lộc, Nghĩa binh nghe tiếng lần lượt kéo về mưu tính công cuộc phục khởi.
Ngày 19 tháng 8 năm Giáp-Tý (1864) Tự-Đức thứ 17, theo kế hoậch đã mật trù, Trương-công-Định âm thầm cùng đám thuộc hạ về thôn Tân-Phước để chuẩn bị đánh úp đồn Tân-Hòa.
Không ngờ đêm 19 rạng ngày 20 tháng 8 1864 (năm Giáp-Tí,) có người mật báo với Huỳnh-công-Tấn (Tấn trước tòng ngũ dưới quyền Định nhưng vì thân phụ của Tấn vốn làm Phó Quản Cơ nhưng lại giao dịch với quan Việt cộng-sự với Pháp, bị Định hăm dọa lấy đầu nên Tấn trốn sang hàng ngũ Pháp năm 1862).
Tên Tấn chỉ huy một số thuộc hạ, bí mật vây nhà, nơi Định và 25 người tâmphúc đang trú ngụ. Tới bình minh, Tấn áp vào nhà và đã gặp một sức kháng cự quyết liệt.
Trương-công-Định và nghĩa binh đã chống trả như những anh hùng. Lúc bấy giờ, Tấn bỗng chỉa súng sáu bắn Trương-công-Định (mặc dù có ý muốn bắt sống) một viên đạn trúng đích, Định bị gãy xương sống, té xuống đất, chết cùng với 5 nghĩa binh.
Sau khi Trương-công-Định đền nợ nước, con trai tên Tuệ (trong Nam gọi là Huệ) cũng thu thập một số tàn binh trú tại Cao-Miên, kết nạp thêm binh sĩ đemvề cự chiến nhưng cũng bị chết.
Ngay từ năm 1864, mộ Trương-công-Định tại Gò-Công được xây bằng đá ong với hồ vôi ô-đước. Trên bia mộ có đề Đại-Nam Binh Tây Đại Tướng Quân Trương công-Định chi mộ.
Hai cây trụ trước mộ có câu đối :
« Sơn hà thâu chánh khí.
Nhựt nguyệt chiếu đơn tâm ».
Sau đó, bia mộ nầy bị bằm nát. Đến năm 1945 được sửa chữa lại. Mộ bia lại được khắc : « Đại-Nam Thần Đồng Đại Tướng Quân truy tặng Ngũ quân quận công, Trương-công-Định chí mộ ».
Tới năm 1956 mộ được trùng tu và thêm 2 câu đối nữa : « Trương chí quật cường, võ liệt nêu cao đất Việt ; Định tâm kháng chiến, văn mô chói rạng trời Nam ».
Năm Tự-Đức thứ 17 (1864) vợ Trương-công-Định là Lê-thị-Thưởng trở về nguyên quán chồng ở Quảng-Ngãi, lâm vào cảnh nghèo khổ, quan tỉnh bèn tâu về triều cấp cho bà mỗi tháng 12 quan tiền và 2 phương gạo cho đến khi bà chết. Năm Tự-Đức thứ 21 (1868) Tỉnh thần Quảng-Ngãi Trà-quí-Bình tâu rằng : một nhà Trương-công-Định, cha con trung nghĩa, được vua soi xét từ lâu, xin cấp cho tư điền 5 mẫu để người trong họ là Văn-Hổ nhận làm kế tự. Vua y theo.
Năm Tự-Đức thứ 21 (1871) vua nhớ đến công Trương-công-Định lại sai xây dựng đền thờ ở làng sở tại tức là xã Tư-Cung (hiện thuộc Sơn-Mỹ – Sơn-Tịnh) và cấp thêm cho vợ ông một tháng 10 quan tiền, sức cho xã đó phải săn sóc bà. Khi vợ Trương-công-Định, bà Lê-thị-Thưởng mất, vua có ban 100 quan tiền để làm ma chay.
5) LÊ-TRUNG-ĐÌNH (1862-1885)
TRÀ-GIANG : giòng sông lịch sử nối liền quê hương của các chiến sĩ cách mạng miền đất Quảng. Tả ngạn phía bắc có đồi Thiên-Ấn soi bóng là nơi sinh trưởng của Lê-trung-Đình, Trương-công-Định ; hữu ngạn phía nam sát bờ là nơi sinh quán của Nguyễn Thụy.
Con đường buôn bán phồn thịnh nhất ở trung tâm thị xã Quảng-Ngãi được đặt tên là đường Lê-trung-Đình
Cách đây 84 năm, trên con đường nầy, mang tên là đường Trường Bảng, dân chúng Quảng-Ngãi đã từng điểm đăng, kéo cờ chào mừng cuộc thắng trận của nghĩa quân Cần-Vương chống Pháp và nghênh đón chánh tướng Lê-trung-Đình nhập thành Quảng-Ngãi ngày 1-6 Ất-Dậu (7-1885).
Cũng trên con đường nầy, ông Lê-trung-Đình đã cùng Nguyễn-tự-Tân (tức Tú Tân sinh năm 1848 tại Phước-Thọ, Trung-Sơn, Bình-Sơn, Phó tướng của ông Đình)
chính thức đứng ra lãnh đạo phong trào Cần-Vương ra mắt quốc dân, tuyên cáo chống Pháp.
Sinh năm 1862, ông Lê-trung-Đình là con của cụ Cử-nhân Lê-trung-Lượng ở xã Phú-Nhơn (hiện Sơn-Long) quận Sơn-Tịnh.
Cụ Lượng là người rất mực thanh liêm có tài kinh bang tế thế, lúc làm tri huyện ở Nam-Đàn (Nghệ-An) đã cố công khẩn hoang, lập 12 xã được dân các xã ấy tôn làm Phước-Hiền.
Lê-trung-Đình theo học ông Án-Sát Nguyễn-duy-Cung (ông nầy sinh quán ở Hổ-Tiếu, Tư-Nguyên, về sau cũng là một chiến sĩ Cần-Vương ; bị Pháp xử bắn tại Bình-Định với Mai-xuân-Thưởng).
Ông Lê-trung-Đình có tướng lạ (hai lòng bàn chân cong lại không hề dinh đất) thông minh vượt bực, khí khái khác thường từ thuở nhỏ. Tính khí khái nầy có ảnh hưởng tai hại đến sinh mạng của ông sau nầy. Câu chuyện đối đáp giữa ông Lê trung-Đình và Phó Bảng Đỗ đăng-Đệ còn được đồng bào địa phương nhắc nhở như một giai thoại :
Đỗ-đăng-Đệ, người xã Phú-Nhơn (nay thuộc Sơn-Long, Sơn-Tịnh) đậu Phó Bảng năm Thiệu-Trị thứ 2 (1842) được bổ làm Bố Chánh Định-Tường, năm Tự-Đức thứ 34 (1887) thăng chức Thượng Thư hưu trí. Ông Đệ có người con là Đỗ Duân, bạn học của Lê-trung-Đình (ông Đỗ-Duân cũng là 1 trong 4 vị Tiến sĩ của Quảng Ngãi, 3 Tiến sĩ khác là Kiều-Tòng (An-Đại), Lê-Ngại (Mộ-Đức), Tạ-Tương (Chánh Lộ, Tư-Nghĩa).
Khi đậu Cử-nhân ở Bình-Định, cử Đình về ghé thăm Đỗ-Duân nhưng không gặp bạn, chỉ có ông Đỗ-đăng-Đệ ở nhà. Ông Phó Bảng Đệ tiếp chuyện Cử Đình ở gian nhà trên. Cử Đình ngồi ở góc trường kỷ, trong lúc trả lời những câu hỏi của Phó Bảng Đệ đã vói chiếc bình vôi tem trầu ăn nhưng không biết vô tình hay cố ý để lại chiếc bình ngay trước mặt ông Đệ. Ông nầy cho hành động trên là vô lễ và có ý xấc xược ngầm nên đã ngỏ lời quở trách : « Thầy Cử, thầy khí quá, khí như anh Lượng khi trước » (ý nhắc lại việc cụ thân sinh của Cử Đình vì có lời phê bình chính sách Triều đình nên từng bị kết tội khi Quân, nhờ có môn sinh cũ và dân 12 xã huyện Nam-Đàn tâu xin mới được tha tội).
Cử Đình lễ phép trả lời : « Thưa cụ lớn, cha con xưa có khí, nhưng khí đạo, khí tiết, khí nghĩa, chứ không khí tặc vị chí, khí thành như tẩu » (có ý nhắc lại việc ông Phó Bảng Đệ bị cách chức vì để thất thủ thành Định-Tường năm Tự-Đức thứ 12 (1859) lúc còn trấn thủ thành nầy). Ông Đệ rất giận.
Năm 15 tuổi ồng Lê-trung-Đình đã thuộc làu kinh sử, văn chương xuất sắc, ứng đáp biệt tài, sớm nổi tiếng văn học trong đám nho sĩ xứ Quảng. Ông còn để lại nhiều giai thoại đối đáp :
Trong dịp đi thi Hội ở Huế cùng với ông Cử Trần-bà-Võ và Thủ-Khoa Điện, các sĩ tử xứ Nghệ nghe tiếng Cử Đình, khi thấy 3 thầy Cử xứ Quảng đang ngồi đã cho 2 người con gái Nghệ-An giả hỏi thăm và ra câu đối : « Tam nhơn đồng tọa, thượng hạ lục đầu ».
Cử Đình liền đáp : « Nhị nữ song hành, tung hoành tứ khẩu ». Có lần ông Thủ-Khoa Điện ra câu đối : « Đình hư giữa chợ, ăn mày ngủ ». Ông Đình đáp ngay : « Điện tế ngoài đồng, chó đói ăn ».
Ông Cử Trần-bá-Võ ra câu đối : « Đình ra sân, đình đứng, đình dừng, đình bị sét, đình còn một cột ».
Ông Đình liền đối : « Võ ỷ mạnh, võ ra võ múa, võ bị mưa, võ ướt hết lông » (hai câu nầy ứng vào số mệnh của hai người : cụ Cử Võ bị bệnh nan y, ông Cử Đình bị chết chém).
Có tài xuất khẩu thành thơ, trào lộng một cách tài tình, ông Đình đã ứng khẩu mấy câu thơ sau đây trong dịp ngồi với bạn bè, khi lở đau bụng phải xả hơi xấu :
« Lê-trung-Đình
Bụng sình hề, bụng sình
Ống vố còn kinh
huống chi điếu bình
Mùi tợ bánh khô chi vị
Tiếng đùng pháo Tết chi thinh ».
Thơ ông có lúc trào lộng, có lúc chứa đựng tư tưởng cách mạng.
Bài thơ sau đây vẽ lại cảnh sống lầm than của dân tộc Việt-Nam dưới thời Pháp thuộc :
« Mưa từng chặp, gió từng hồi
Đoái lại giang san nước khỏa rồi.
Lũ kiến bất tài tha trứng chạy
Bầy rều vô dụng kết bè trôi.
Líu lo rừng vắng nghe chim hót
Lởm chởm giường cao thấy chó ngồi
Nỡ để dân đen chìm đắm bấy
Nào ông Hạ-Võ ở đâu ơi ! »
(Lụt)2
Giọng thơ có khi âu yếm, tình cảm, nồng nàn, tin tưởng :
« Tên cỏ, cung dâu vẫn chắc phần
Cực vì biển ái lại nguồn ân.
Khúc đàn cầm sắt vui từng nhịp
Chén rượu quan hà nặng mấy cân.
Trướng liễu dù vui xuân chín chục
Võ môn ai lướt sóng ba từng.
Dặn lòng vàng đá, em đừng ngại
Chán biết hoàng châu mấy sắc xuân ».
(Giã vợ đi thi Hội)
Khí tiết hiên ngang, lối dùng chữ hai nghĩa trong thơ đã làm cho mọi người khâm phục, Thơ ông không lưu bút nhưng có nhiều người đọc thuộc lòng và kể lại nhiều giai thoại lý thú :
Vào thời kỳ ông Đình học với ông Án Cung, ông thầy nầy có con gái lớn khá đẹp nhưng tinh nghịch thường lén lút đi tiểu gần lớp học. Các bạn đồng môn rất tức tối, thách ông Đình tìm cơ hội chọc ghẹo cô gái ấy cho bỏ ghét.
Ông Đình hăng hái nhận lời thách đố của bạn bè và đã có lần toan thực hiện « trò chọc gái » nhưng chưa kịp hành động đã bị ông Án Cung tình cờ bắt gặp và đòi nọc ra đánh roi. Ông Đình liền xử dụng món sở trường, ứng khẩu bài thơ tứ tuyệt để phân trần cùng thầy :
« Khoan khoan, con nói để thầy nghe
Mới vật xuống đây chửa kịp đè
Hai cánh hường môn còn khép chặt
Ngọn cờ xích xí mới lo le ».
ông Án Cung hiểu rõ đầu đuôi, hết giận ông Đình biết lấy tục làm thanh, hơn nữa lời thơ còn bao hàm khí phách của một thanh niên (không những hết giận mà chính ông Án Cung sau nầy, trước khi hy sinh vì cách mạng đã còn có cơ hội khóc trước cái chết của Lê-trung-Đình – Từ Bình-Định về Quảng-Ngãi ông Án Cung có ý định tìm cách cứu thoát Lê-trung-Đình khỏi ngục tù nhưng chỉ kịp chứng kiến cái đầu của người học trò thân yêu bị ném từ trong thành Quảng-Ngãi lăn ra).
Năm 1879, ông Lê-trung-Đình dự khoa thi Kỷ-Mão ở Bình Định, tin tưởng sẽ chiếm Thủ khoa nhưng vì lơ đễnh để chữ « nhất » xuất vận nên bị đánh hỏng.
Năm nhâm-Ngọ (1882) ông Lê-trung-Đình lại dự trường thi Bình-Định quyết giành Thủ khoa vì cả trường ai cũng nhường tài. Nhưng đến lúc treo bảng thì ông chỉ đậu Cử-nhân nhì3vì trong Phú Thượng hữu, vần cái là vần Tử, Lê-trung-Đình đã viết thoát ra khỏi khuôn khổ văn phạm :
« Canh Đế Thuấn ư Đường Nghiêu
Mộng Châu-Công ư Khổng-Tử ».
Hai câu trên, quan trường chấm thi cho là tối nghĩa, kém thua 4 câu của Thủ khoa Phạm-văn-Chất :
« Đông châu chí Thánh
Mộng kiến Châu-Công
Chiến quốc đại hiền
Nguyện học Khổng-Tử ».
Trong buổi lễ trình diện của 18 ông Cử tại dinh Tổng Đốc, ông chánh chủ khảo, từ lâu đã nghe tiếng ông Đình (lúc vào thi Bình-Định lần thứ 2, cử Đình cũng đã tâm sự với bạn bè : lần nầy có chấm bài của tôi nên chờ bữa nào nắng chứ gặp bữa trời xâm, khuyên son nhiều quá, sợ không khô) đã hỏi ý kiến Cử Đình về giá trị mấy câu Phú Thượng hữu của ông so với mấy câu của Thủ-khoa Chất.
Cử Đình thản nhiên trả lời. « bài của anh Thủ-khoa Chất có hay nhưng chỉ hay 4 câu đó thôi ». Sau lễ trình diện tại dinh Tổng Đốc, các tân khoa họp nhau ở quán để ăn uống thì Cử Đình có ngỏ ý kiến với Thủ-khoa Chất : « Ông chủ khảo muốn anh đậu cao thì cố kiếm 4 câu trên, còn muốn tôi rớt Thủ-khoa thì cũng chỉ xem mấy câu của tôi »… Thủ-khoa Chất và Cử Đình có tranh luận nhau rất sôi nổi đến độ cải vã mất hòa khí. Các ông Cử khác phải giải hòa mới êm.
Tính tình cương trực, thường cảm xúc trước cảnh suy vong của đất nước, từ đó Cử Đình ngao ngán thi cử, nghiên cứu binh thư đồ trận, theo dõi tình hình trong nước, âm thầm nung nấu tinh thần kháng đế.
Lúc bấy giờ, Pháp đã chiếm xong Nam Kỳ, Bắc-Kỳ, Kinh đô Huế đã thất thủ. Trước âm mưu xâm lăng của quân Pháp, Cử Đình lo nghĩ, căm hờn và quyết định cũng Nguyễn-tự-Tân đề xướng phong trào Nghĩa-hội, tập họp những nghĩa sĩ yêu nước để cướp chính quyền tại tình rồi sẽ dùng lực lượng tiến về Kinh-Đô giúp vua Hàm-Nghi khôi phục lại kinh thành Huế.
Phong trào Nghĩa hội được hưởng ứng mạnh mẽ tại 3 tỉnh :
- Quảng-Nam : Hường-Hiệu, Bùi-Điền
- Quảng-Ngãi : Lê-trung-Đình, Nguyễn-tự-Tân, Nguyễn-Viện
- Bình-Định : Mai-xuân-Thưởng, Nguyễn-duy-Cung
Tuy được tổ chức trong vòng bí mật nhưng thanh thế nghĩa quân rất lớn và Nghĩa hội ngày càng bành trướng, được cảm tình nồng hậu và sự ủng hộ nhiệt thành của dân chúng.
Ngày 1-6 Ất-Dậu (7-1885) từ chiến khu Truyền-Tung (Bình-Sơn) chánh tướng Lê-trung-Đình cùng phó tướng Nguyễn-tự-Tân kéo quân về tỉnh lỵ. Trên đường tiến quân gặp người đàn bà chửa, có người cho là điềm không lành khuyên hoãn binh nhưng Nguyễn-tự-Tân vẫn quyết tiến binh, ra lệnh sẽ chém đầu kẻ nào do dự.
Nghĩa binh tập họp làm lễ tế cờ tại bãi cát trước Văn-Thánh, phân làm 3 đội, vượt qua sông Trà-Khúc do 3 ngả, phân làm 3 đội bao vây thành Quảng-Ngãi, chiếm thành ngay trong đêm ấy, bắt Bố chánh Lê Đoan.
Giữ thành được 5 hôm, Lê-trung-Đình ra lệnh ân xá phạm nhân, chiêu an, bố trí canh phòng thao dượt binh sĩ, có ý định tôn Tuy-lý-Vương (thường gọi là ông Hoàng Sói, lúc nầy bị an trí tại Quảng-Ngãi) làm Minh-chủ để sáng tỏ thêm chính nghĩa cứu quốc nhưng ông Hoàng nầy từ chối.
Trong thời gian ngắn ngủi chiếm được thành Quảng-Ngãi, phó tướng Nguyễn tự-Tân xem thiên văn thấy sát khí nổi từ phía tây-nam, ngờ có nội phản. Sau khi thị sát 4 vệ quân, Tự-Tân nghi vệ hữu do Đội Hùng chỉ huy có ý làm phản nên lập lức đem đội Hùng ra xử tử. Do đó, nghĩa binh thuộc vệ hữu bất mãn, thuộc hạ của đội Hùng trả thù bằng cách ngấm ngầm liên lạc cấu kết với quân sơn phòng, gây mâu thuẩn trong nội bộ quân Cần-Vương.
Quân Cần-Vương giữ thành được 5 hôm, thì đúng giờ ngọ ngày 5-6 Ất-Dậu (1885) quân Pháp phản công mạnh, phối hợp với quân Tiểu phủ sơn phòng từ hướng Ba-Tơ, và Vạn-Lý (Đức-phổ) kéo về công thành, chém tại trận phó tướng Nguyễn-tự-Tân, và Trần-Tu, Nguyễn-Viện, hạ ngục chánh tướng Lê-trung-Đình.
Quân Nghĩa hội từ Quảng-Nam có tiếp viện vào, giao chiến ác liệt với quân Tiểu phủ tại Châu-Ổ (Cầu Cháy) Tuy ban đầu có thắng lợi nhưng vì thiếu quân bản bộ nên phải thất bại.
Sau thời gian ngắn ngủi bị giam, Cử Đình bị xử chém trong thành Quảng-Ngãi (phía cửa bắc).
Ba năm sau (1888) nghĩa quân Quảng-Nam, Quảng-Ngãi, Bình-Định mới thật sự tạn rã ăn nhịp với việc Vua Hàm-Nghi bị bắt và lưu đày.
Hiện mộ chí sĩ Lê-trung-Đình tọa lạc tại ấp Phú-Nhơn, xã Sơn-Long, nhà thờ chính cũng ở xã nầy. Đại gia đình họ Lê vẫn lấy ngày mùng 5 tháng 6 để cúng giỗ hằng năm.
6) NGUYỄN THỤY (1878-1916)
Ông Nguyễn Thụy (Sụy) sinh năm Mậu-Dần (1878) tại thôn Hổ-Tiếu xã Tư Nguyên, quận Tư-Nghĩa, con một bá hộ nổi tiếng trong vùng.
Ông đổ Cử-nhân khoa Quý-Mão (1903) dưới triều Thành-Thái lúc 25 tuổi. Ngoài tài học rộng, thơ hay, ông còn giao du nhiều, tính tình khẳng khái, cương trực, trung hậu và rất hiếu để.
Năm 1908, ông tham gia phong tràa khất thuế chống Pháp, bị lưu đày tại Côn đảo trong khi hai người thủ lãnh : Lê Khiết và Nguyễn-bá-Loan bị thực dân xử tử.
Năm 1916, trở về quê hương, ông cùng Tú tài Lê-Ngung, Lê Triết và Tú-tài Phạm-cao-Chẩm đứng ra lãnh đạo phong trào Duy-Tân khởi nghĩa tại Quảng-Ngãi.
a) Tham gia phong trào khất thuế chống Pháp
Vừa đậu Cử nhân, nhiều bạn bè tiến cử ra làm việc, ông Nguyễn Thụy đã cương quyết từ chối nói : « Nước có đạo nên ra làm quan, nước vô đạo nên ở ẩn » và đọc một câu chữ nho : « giáp bảng phi cao hoặc giã Hoàng Thiên hữu ý » (đậu Cử nhân đâu phải là cao, hoặc giã Trời đã dụng ý).
Từ đó, ông lo phụng dưỡng mẹ già và tìm khuây khỏa nỗi u ẩn trong việc giao du với bạn bè, ngấm ngầm nuôi dưỡng ý chí cách mạng.
Tháng 3 năm Mậu-Thân (1908) ông Nguyễn Thụy cùng các ông Nguyễn-bá Loan (ấm Loan) và Lê-Khiết đứng ra vận động phong trào chống Pháp dưới chiêu bài khất thuế (xin giảm thuế) tại Quảng-Ngãi.
Phong trào nầy có 3 mục đích :
- bài trừ những tệ đoan xã hội bê tha vô đạo lúc bấy giờ.
- lôi cuốn những kẻ hợp tác với Pháp trở về với chính nghĩa Quốc gia.
- cô lập những người thân thân Pháp và tay sai, tiến tới giành lại chủ quyền Quốc-Gia.
Khẩu hiệu chiến lược « khất thuế » được đưa ra thích hợp cho nên dân chúng
6 phủ huyện hưởng ứng nhiệt liệt, kéo về tỉnh lỵ để xin giảm thuế đông như kiến bao vây thành Quảng-Ngãi, phần đông áo rách, nón cời để mô tả cảnh đói khổ do xâu cao thuế nặng gây nên.
Gây được phong trào, ông Thuỵ còn lo nuôi dưỡng và thực hiện mục tiêu cách mạng trong vòng trật tự, phổ biến tân thơ, kêu gọi toàn dân cải cách xã hội, cô lập những người tiếp tay cho Pháp, thanh toán bọn lưu manh trộm cắp.
Tân thơ nói về cải cách xã hội, binh vận được truyền khẩu hoặc dán khắp nơi. Trong những ngày vây thành, tân thơ của Cử Thụy được hàng vạn đồng bào đồng thanh ca lên như sấm vang làm cho bọn Pháp phải run sợ :
…« Hô đồng bào, liên khí huyết
Liệu tử tiết, tử tiết tử cương
Đương cơ hội mấy não lòng thương
Quân sơn-đầm, quân khố đỏ
Lịnh giả nhơn kinh
Hãy quân mình, lòng sắt đinh ninh
Người tập binh cũng An-Nam binh
Đấu nỡ lại chinh chiến, chinh
Chữ thinh đồng thinh, chữ thinh đồng thinh.
Anh em ta cả thảy cả xin khuyến ngã
Khuyến ngã dân quyền
Răn rứa chừ, không khai trí hóa
Sao cho khá với người, để tiếng cười
Xấu hổ năm, nghìn năm
Nhìn năm lâu dài, ai hãy là ai
Cũng mắt tai trong cuộc trần ai
Sáu phủ huyện, anh em ta gắng sức »…
Sự đàn áp của nhà cầm quyền thực dân rất tàn bạo nhưng nhờ phương pháp vận động khéo léo tài tình, bình tĩnh cao độ của Cử Thụy nên lính tập, dù có lệnh của quan thầy họ, vẫn không nả súng vào đám dân xin giảm thuế. Và, bên ngoài bọn tay sai của Pháp cũng không dám đưa tin tức.
Các cửa thành đều đóng chặt. Dân xin giảm thuế ngày càng kéo đến đông nghịt, vây chặt thêm bốn phía, kéo dài đến 10 ngày. Hai thủ lãnh Nguyễn-bá-Loan và Lê Khiết được viên Công sứ mời vào trong thành để thương nghị. Hai ông đã bắt thang leo vào và sau đó bị giữ luôn trong thành.
Ngày thứ 10 vào lúc 8 giờ, lính khổ đỏ và Sơn đầm bí mật từ Quảng-Nam kéo vào, bắt đầu tấn công vào đám dân xin miễn thuế. Nhiều người bị chết, hàng trămngười bị thương vì phải chen lấn, dẫm lên nhau ban đầu phân tán mỏng theo khắp ngả đường rồi cuối cùng phải giải tán vì hỏa lực của quân Pháp quá mạnh.
Hai vị lãnh đạo phong trào : Nguyễn-bá-Loan và Lê Khiết bị hành hình về tội leo thành và « khốc lục phủ huyện, dân chi tiền » (khóc trước dân chúng 6 phủ huyện)
Phong trào khất thuế tan rã nhưng cuộc khủng bố của Pháp và tay sai kéo dài đến mấy tháng. Nguyễn Thụy bị bắt và lưu đày ở Côn Đảo.
b) Nguyễn-Thụy và cuộc Duy-Tân khởi nghĩa
Thế chiến thứ nhất bùng nổ tại Âu-Châu và ngay trên đất Pháp. Cuối năm1915 Pháp thua trận, quân Đức tấn công Ba-Lê. Ở Đông-Dương thực dân Pháp mộ binh ráo riết để bổ sung quân số, chính quyền bảo hộ bận rộn, Việt-Nam quang phục hội gồm các đảng viên cốt cán : Trần-cao-Vân, Thái-Phiên, Lê-đình-Dương, Lê Ngung muốn nắm thời cơ thuận tiện ấy nổi dậy khởi nghĩa giành quyền độc lập.
Vừa mãn hạn tù, ông Cử Thụy vẫn tiếp tục chí hướng cách mạng đã cùng ông Tú Lê Ngung hưởng ứng tích cực phong trào Duy-Tân khởi nghĩa.
Cử Thụy từng được vua Duy-Tân tiếp kiến để nghe trình bày công việc đang tiến hành, công tác liên kết quân đội, tổ chức cơ sở cách mạng trong dân chúng.
Đại hội các nhân vật trọng yếu của cuộc Duy-Tân khởi nghĩa khai diễn lần thứ nhất vào tháng 9 năm Ất-Mão (1915) tại nhà ông Đoàn Bỗng, một viên thư lại bộ Hộ đường Đông-Ba (Huế) có sự hiện diện của đại biểu 5 tỉnh do Thái Phiên-chủ tọa :
- Quảng-Bình : Nguyễn Chánh
- Quảng-Trị : Phạm-phú-Tiên
- Thừa-Thiên : Đoàn Bỗng
- Quảng-Nam : Thái-Phiên, Trần-cao-Vân, Phan-thanh Tài, Đỗ Tự - Quảng-Ngãi : Lê Ngung, Lê Triết, Nguyễn-Thụy (Sụy), Nguyễn-Nậm (Mậu)
Đại hội đã kiểm điểm tình hình và lực lượng, phân công cho ông Nguyễn Thụy và Lê-đình-Dương giao thiệp với cố đạo Bầu Gốc (Quảng Ngãi) để mật giao với viên Thiếu-Tá người Đức đang chỉ huy lính Lê dương đồn Mang-Cá (Huế), ủy nhiệm Lê Ngung lo thảo hịch và vạch chương trình hành động. Cũng chính trong
hội nghị nầy, các đại biểu đã quyết định rước Hoàng-Đế Duy-Tân tham gia cuộc khởi nghĩa để tranh thủ chính nghĩa và ủy nhiệm Thái-Phiên và Trần-cao-Vân tiếp xúc với vua Duy-Tân.
Trần-cao-Vân lãnh sứ mạng mang tờ biểu của dân các tỉnh dâng lên Vua Duy Tân. Dưới dạng lốt một người câu cá, Trần-cao-Vân được thị vệ Tôn-thất-Đề và Phạm-kim-Khánh tiến dẫn gặp Vua tại hồ Tịnh-Tâm.Nhà vua chấp nhận đứng ra lãnh đạo phong trào, ban ấn chỉ làm tin để kết nạp nhân sĩ.
Đại hội thứ 2 của phong trào Duy-Tân khởi nghĩa khai diễn vào trung tuần tháng 3 Bính-Thìn (1916) tại chợ Cầu-Cháy, làng Xuân-Yên (huyện Bình-Sơn) gồm các nhân vật trọng yếu (Việt-Nam-quân Chính-phủ).
Hội nghị kiểm điểm tiềm lực cách mạng, quyết định kế hoạch khởi nghĩa :
- Lấy danh chính : Viêt-Nam-Quân Chính phủ Cờ khởi nghĩa : Cờ nền đỏ, nămsao trắng, ý nghĩa « ngũ tinh, tụ tinh ».
- Thảo hịch.
- Đúc 4 ấn Kinh-lược (Bình-Trị, Nam-Ngãi, Bình-Phú, Khánh-Thuận), Phan thanh-Tài được chỉ định giữ ấn Nam-Ngãi Kinh-lược.
- Định ngày khởi nghĩa toàn diện : giờ Tý, ngày 2-4 âm lịch (Bính-Thìn) (1 giờ sáng ngày 3-5-1916).
Huế sẽ là khởi điểm phát động, bắt đầu tiếng súng thần công báo hiệu, đốt lửa tại đèo Hải-Vân báo hiệu cho Quảng-Nam, Quảng-Ngãi.
Đặc biệt Quảng-Nam, Quảng-Ngãi sẽ dốc toàn lực của lính tập và dân chúng chiếm giữ cửa biển Đà-Nẵng để quân lực viện trợ ở Xiêm về nước đổ bộ lên để mở đường giao thông suốt từ Đà-Nẵng vào tận Đức-Phổ.
Hội nghị đã bầu Ủy-Ban khởi nghĩa :
- Thái-Phiên : Chủ-Tịch
- Trần-cao-Vân : Phụ trách quân sự.
- Phan-thanh-Tài, Đỗ Tự, Lê Ngung (ủy viên).
- Nguyễn Thụy (Cử Sụy)
- Tú Tài Phạm-cao-Chẩm và Lê Ngung được giao phó chỉ huy quân lực quốc nội tại Quảng-Ngãi.
Hầu hết thân sĩ, đồng bào trong tỉnh đều hưởng ứng phong trào, 1/3 binh sĩ người Việt phục vụ trong quân đội Pháp đã tình nguyện tham gia làm nội ứng cho cuộc khởi nghĩa.
Ông Cử Thụy bí mật tổ chức nghĩa binh, vận động dân chúng quyên góp rất có kết quả. Riêng bá hộ Gà ở xã Sơn-Hương (Sơn-Tịnh) đã bí mật xuất tiền may 3000 bộ áo xanh cho nghĩa quân gọi là « áo đầu gà » vì ở trên tay có thêu một đầu gà làm dấu hiệu.
Tuy nhiên, một số thân sĩ đã quá lo lắng, gần đến ngày khởi nghĩa rủ nhau cầu Tiên xin giáng bút chỉ vẽ. Tiên có giáng bút như sau :
« Đừng có tin năm Thìn tháng Tỵ
Mặt anh hùng cũng lụy kiếm cung,
Kiếm cung, cung kiếm rồi rồi
Giang-san bốn bể cũng về một tay ».
Có người đem thơ ấy nói với Cử Thụy khuyên ông nên hoãn ngày khởi nghĩa và cho biết thêm có một số người trước đã thuận theo cách mạng nghe thơ nầy đã rút lui.
Cử Thụy bình tĩnh trả lời : Quân tử bất năng thối bộ (người quân tử không bao giờ lùi bước).
Ngày khởi nghĩa, theo quyết định của hội nghị Xuân-yên đã được phổ biến thành ám hiệu « năm Thìn, tháng Tỵ ».
Tất cả đều được chuẩn bị sẵn sàng. Tại kinh thàn h Huế, đúng 11 giờ đêmngày 2-5-1916, Tôn-thất-Đề, Nguyễn-Siêu cùng 2 tên thị vệ tín cẩn phò vua Duy Tân xuất bôn trong chiếc áo nâu sẩm, khăn đen, quần trắng giày hạ ngự xe kéo ra bến Thương Bạc dự định sẽ xuôi về Bến-Ngự để chỉ huy cuộc khởi nghĩa lịch sử.
Nhưng, chẳng may đại sự đã bại lộ chính tại Quảng-Ngãi từ chiều 1-5-1916 (tức ngày 29-3 â.l. Bính-Thìn, tháng nầy chỉ có 29 ngày).
Nguyên tại Quảng-Ngãi có viên thơ lại khố xanh tên là Trần Thêm, quán làng An-Điềm huyện Bình-Sơn, được biệt phái làm tại tòa Công-Sứ.
Trần Thêm là một binh sĩ giác ngộ, tích cực tham gia phong trào khởi nghĩa trong vòng bí mật, giữ nhiều giấy tờ quan trọng, chiêu dụ được nhiều lính khố xanh theo phe cách mạng.
Trong số lính khố xanh chiêu dụ được có viên cai Võ-An quê Long-Phụng (Mộ Đức). Cai An có người anh ruột tên Võ Huệ (tức Trung, ngụ làng Năng-An, làmlính giản tại đinh Án-Sát Quảng-Ngãi).
Mấy hôm trước ngày khởi nghĩa, cai An bị đổi đi Đức-Phổ. Trong một bữa cơmthân mật ở gia đình, vì tình ruột thịt, Võ An đã khuyên Võ Huệ liệu xin nghỉ việc ở
nhà kẻo ở dinh sắp có loạn.
Vào lúc 14 giờ ngày 1-5-1916, Võ Huệ nghe lời người em, vào dinh Án-Sát Phạm Liệu xin phép về thăm nhà ít hôm.
Án-Sát Phạm Liệu, từ lâu đã có lòng e ngại về những hoạt động của phe cách mạng, nay Huệ lại xin nghỉ phép một các bất ngờ nên sinh nghi, vặn hỏi. Huệ luống cuống, sợ sệt, ấp úng. Viên Án-Sát hăm dọa nhiều lần. Võ Huệ phải đem sự thật trình bày.
Sợ bị liên hệ trách nhiệm về cuộc trị an ở địa phương, Phạm Liệu trông chờ viên Công Sứ và Tuần Vũ đang hành hạt ở Bình-Sơn trở về để trình hết mọi việc. Chờ quá lâu, nóng ruột ông Án Liệu ra trước cửa thành ngóng chừng. Không ngờ cử chỉ của viên Án-Sát làm cho thơ lại Trần Thêm sinh nghi, vội đem đốt sạch hết tất cả giấy tờ bí mật liên quan đến cuộc khởi nghĩa.
Công Sứ De Tastes và Tuần Vũ Trần-tiến-Hối hành hạt trở về, được tường trình rõ ràng sự việc. Một mặt ra lệnh bắt giữ Võ An và Trần Thêm, mặt khác De Tastes mật điện ra Huế báo cho Khâm Sứ Charles hay tự sự, đồng thời thiết quân luật ngay tại thành phố Quảng-Ngãi, bố trí quân lê dương ngày đêm canh phòng cẩn mật khác thường để ứng phó với các lựe lượng cách mạng.
Khi được báo tin về sự biến chuyển bất lợi và nhanh chóng của tình hình, các lực lượng cách mạng đã có mặt tại địa điểm tập trung (đội lính khố xanh ở Nghĩa Hành do Đội Luân và Cai Xứ chỉ huy đã kéo về cách thành Quảng-Ngãi 2 km) các đoàn thể dân chúng võ trang không thấy hiệu lệnh phải vội vã rút lui và sau đó, được lệnh phân tán mỏng dần dần trong đêm 2-5-1916 (tức đêm 1-4 Bính Thìn).
Đến sáng, Cử Thụy tiếp tục ra lệnh cho số còn lại rút lui hoàn toàn để bảo toàn lực lượng. Nghĩa quân rút lui trong vòng trật tự, bỏ lại nhiều thang, dáo gươm, riêng viên chỉ huy cánh quân phía Nam là Mai-Tuấn không kịp lẩn tránh bị viên Tri Phủ Tư-Nghĩa bắt được.
Trong mấy ngày liền, Pháp và bọn tay sai tầm nả khắp nơi, khủng bố trắng, lùng bắt được trên 100 đảng viên cách mạng thuộc Việt-Nam Quang phục hội, đày ra Côn đảo.
Cùng một lúc, tổng lý và tập binh về bao vây nhà Cử Thụy bắt mẹ ông làmcon tin, kê khai tài sản và tầm nả Cử Thụy gắt gao.
c) Cái chết của người chí sĩ cách mạng
Vì thương mẹ, nửa đêm hôm ấy, ông Cử Thụy lén về nhà, tắm rửa sạch sẽ rồi
mẹ con chuyện trò rất lâu nhưng những người canh giữ vẫn không hay biết.
Sắp đặt công việc nhà, dặn dò mẹ xong xuôi, ông Nguyễn Thụy hiện ngang đến phủ đường, đánh thức viên Tri Phủ và nói : « Cử Thụy về cho quan lớn lập công đây ».
Viên Tri Phủ Tư-Nghĩa hoảng hốt, tái mặt vì quá bất ngờ, không biết ai là người bị bắt. Khi hỏi rõ chuyện mới biết Cử Thụy tự đến nạp mình.
Mừng quá, viên Tri Phủ cấp báo về Tỉnh, 5 giờ sáng, một số lính tập được phái đến áp giải Cử Thụy về tỉnh lỵ.
Tuần Vũ lúc bấy giờ thấy Cử Thụy có vẻ ngạo nghễ không sợ sệt, mới ngỏ lời quở trách : « Tặc tử, thị tặc tử, gian hùng thị gian hùng. Cử Thụy liền trả lời một cách thản nhiên : Kiến nghĩa bất vi vô dõng, xử nhơn giai đắc nhi tru ».
Sau hơn 1 tuần bị giam, cũng trong tháng 5-1916, Nguyễn Thụy, Lê Triết, Trần Thêm đều bị chém bêu đầu trong thành, phía tây bắc.
Trước giờ bị chém, Cử Thụy vẫn bình tỉnh ngâm bài thơ cuối cùng :
« Chết mà không sợ, dễ như chơi
Chết đặng danh thơm tiếng để đời.
Chết hiếu không nài xương thịt nát
Chết trung nào ngại cổ đầu rơi ».
Sau khi Cử Thụy chết, thân sĩ, và đồng bào trong tỉnh có bí mật quyên góp làm lễ truy điệu và để tang ông. Mộ chí sĩ cách mạng Nguyễn Thụy hiện tọa lạc tại thôn Hổ-Tiếu (xã Tư-Nguyên).
7) HIẾU TỬ NGUYỄN-VĂN-DANH
Cùng với Nguyễn Phùng (Nghệ-An) Nguyễn Tế (Sơn-Tây) Nguyễn-Cư-Sĩ (Hà Nam), Phan-tam-Tỉnh (Hà-Tỉnh), Tú-Tài Nguyễn-văn-Danh là một trong những trang hiếu tử nổi tiếng ở Việt-Nam.
Nguyễn-văn-Danh, người Quảng-Ngãi sinh trưởng ở Trà-bình-trại, huyện Bình Sơn, phủ Tư-Nghĩa (nay thuộc xã Sơn-Trà, quận Sơn-Tịnh, cách tỉnh non 20 kmtây-bắc).
Quê hương ông Danh là một vùng đất cát trắng phau nhô lên những hàng lang vun cao nở hoa tím chạy quanh những đồi núi thấp nhưng hoang vu rậm rạp, có nhiều khe suối làm nơi trú ẩn thuận tiện cho giống hổ dữ. Nổi tiếng nhất trong vùng là con hổ thọt từng gây nhiều thiệt hại cho địa phương.
Vốn là người con hiếu thảo từ thuở bé thơ nên lúc nào thân phụ đi thămruộng, ông Danh cũng chạy theo dặn dò cha phải đề phòng cẩn thận.
Có một ngày kia, lúc đi thăm ruộng về, chẳng may thân phụ ông Danh bị hổ vồ, tha xác vào rừng. Ông Danh hết sức đau đớn, thương tiếc cha và nguyện theo vết chân hổ, tìm xác thân phụ, lấy giây đo dấu biết đích thủ phạm là con hổ thọt.
Từ đó, ông Danh quyết chí giết hổ trả thù cha, bỏ hết mọi việc, đêm ngày lấy việc giết hổ làm trọng. Khắp núi rừng, từng khe, từng suối, bất cứ chỗ nào, dù nguy hiểm đến đâu. ông Danh cũng đặt cho được cạm bẩy, lặn lội, rình mò…
Sau một thời gian ngắn, ông Danh đã bẫy được nhiều hổ nhưng vẫn chưa tìmra con hổ thọt có chút mích nhỏ ở chân sau.
Trải qua những ngày gian khổ, kiên nhẫn, cuối cùng, vào một buổi tối, ông Danh đã may mắn bẫy được chính con hổ thọt, thủ phạm đã vồ thân phụ ông.
Ông Danh liền mổ lấy gan hổ đem tế sống trên mộ cha, vừa khóc lóc thảmthiết, vừa ăn trọn mớ gan ấy.
Sau đó không bao lâu, ông Danh bị chứng đau tim nặng. Khi có ai hỏi thăm về cái chết của người cha thì ông bỗng gầm thét lên như tiếng hổ (cọp) rồi lâu, khi tỉnh lại thì rơi lụy, câm lặng.
Khắp vùng ai cũng khâm phục, cảm động và thương xót khi rõ câu chuyện báo hiếu của người nho sĩ khoa bảng.
Đầu niên hiệu Tự-Đức (1848) vua có ban cho Tú-Tài Nguyễn-văn-Danh một tấm biển vàng đề 4 chữ : « Hiếu nghĩa khả phong » (Lòng hiếu nghĩa đáng ngợi khen).
V. THI CA
Từ xưa, miền núi Ấn sông Trà đã bàng bạc những vần ca dao, lời mộc mạc nhưng ý thâm trầm.
Thời cận-đại, phần đất xứ Quảng của quê hương Việt đã có những vần thơ trữ tình điêu luyện thanh thoát của các nho sĩ thi nhân : Tú Cang, Học Ý… những vần thơ cách mạng biểu dương tinh thần quật khởi dân tộc của các chí sĩ : Cử Đình, Tú Tân, Cử Thụy…
Thời tiền-chiến trong cao trào thơ mới, Quảng-Ngãi đã có sự hiện diện của Nguyễn Vỹ với trường thơ Bạch Nga và thi phẩm « Tập thơ đầu » (1934) Bích-Khê với « Tinh huyết » (1939), Tế-Hanh với « Nghẹn ngào » (giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự-lực văn-đoàn 1939).
Cuộc hành trình thi ca đang được nối tiếp. Từ 1963 đến 1969, Quảng-Ngãi đã có những thi phẩm mang vết tích và tâm tư thời-đại của lớp người thơ hôm-nay : « Mười năm » của Ngũ-hà-Miên (1963), « Sao khuya » của Vũ-Hồ (1963), « Dưới chân thành phố » của Minh-Đường (1967), « Đốt tuổi » của Phan-nhự-Thức (1969), v.v…
Mục thi ca của « Non nước xứ Quảng tân biên » được giới hạn ở phần ca dao và các thi phẩm xứ Quảng từ cận-đại đến tiền-chiến mà giá trị sáng tạo đã được thẩm định trong văn-học sử nước nhà.
1) CA DAO, TỤC-NGỮ
- Đò đưa sông Vệ4nghênh ngang
Bạn hàng nô nức, sao chàng ngồi đây ?
- Thuốc ngon chợ Huyện5
Giấy quyến Sa-Huỳnh6
- Nẩu xa thì mặc nẩu
Chứ đôi đứa mình đừng xa
- Không đi thì sợ mất lòng chồng
Ra đi thì sợ cái đồng Tú-Sơn7
- Đèo nào cao cho bằng đèo Đồng-Ngỗ8
Bộ nào rộng cho bằng bộ An-Ba9
- Củ lang mỏng vỏ, đỏ da
Ai về Long-Phụng10theo ta mà về Ai về Long-Phụng thì về
Gần sông tắm mát, chợ kề một bên
- Củ lang Đồng Ngỗ
Đổ phụng Đồng-Dinh11
Chàng bòn thiếp mót
Để chung một gùi
- Ai về Cà-Đó12
Chịu khó xách ki
- Tay cầm đôi đũa
Chân đi khòm khòm
- Chèo ghe xuống Vạn13múc dầu Hỏi thăm cô Bốn nhức đầu khá chưa ?
- Ăn chanh chiếp miệng chua chua Em đưa anh cho đến chợ Chùa14xa xa Mãn lo cha yếu, mẹ già
Đặt chân xuống đất con nhạn đà trở canh - Con chim « tra trả »15ai vay mà trả Bụi gai sưng16ai vã mà sưng
Đây người dưng, đó cũng người dưng Cớ sao nước mắt rưng rưng nhỏ hoài Hai tay ôm vạt áo dày
Chặm lên con mắt, chặm hoài không khô - Cảm thương con cút17cụt đuôi Ở bờ, ở bụi, ai nuôi ú ù
- Cô gái lòng son
Không bằng tô « don » Vạn-Tượng18 - Cá bống sông Trà19
Mạch nha Thi-Phổ20
- Ngọt như đường cát21
Mát như đường phèn22
- Quảng-Ngãi hay co
Quảng-Ngãi đải ra sạn
- Giếng cũng như ao
Tao cũng như mầy
- To đầu thì dại
Lớn dái thì khôn
Lớn trôn ỉa vất
Lúa vàng mơ
Đói mờ con mắt
- Lầm lì lụt lịt
Địt ra khói
- Nước chảy hòn đá lăn cù
Con chị có chết thì bù con em
- Chê thằng mòng hóng
Đóng thằng đen thui
Chê thằng ghẻ ruồi
Đụng thằng ghẻ phỏng
2) HÁT RU EM
- Con gà trống tía
Cái lông cũng tía
Bụi lang dâm
Bụi mía cũng dâm
Ông « mai » ngọt miệng em lầm
Bây giờ nghĩ lại giận thầm ông « mai »
- Tiếng đồn chị Bốn có duyên
Anh Bốn đi cưới một thiên cá mòi Chẳng tin giở quả ra coi
Mít non ở dưới, cá mòi ở trên
- Học trò, học trỏ, học tro
Mới học ba chữ mà lo vét nồi
- Em tao buồn ngủ, buồn nghê
Con tằm chín đỏ, con dê mọc sừng Có mọc thì mọc giữa lưng
Đừng mọc ngang con mắt sưng ù em tao
- Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát lên cành nghỉ ngơi
- Chim xanh ăn trái ổi tàu
Xứng đôi mẹ gả, ham giàu làm chi
- Chàng xa, thiếp cách, tội đách gì rầu Thác như Lữ-Vọng té xuống cầu non Tiên Ngửa tay em trao một đồng tiền
Phận sao chịu vậy đừng phiền mà hư
- Sớm mai gánh nước bờ ao
Dặn anh mua bán làm sao cũng về. Đừng bày trò chuyện say mê
Bỏ cha già mẹ yếu, ba bốn bề cực em
- Trăng lu vì bởi chân mây
Đôi ta trắc trở bởi giây tơ hồng
Giây tơ hồng chưa se đà vãn
Rượu Kỳ-Tân chưa uống đà say
Thanh yên chưa gọt đà bay mùi nồng Em gặp anh giữa bến đò đông
Giữa đường quan lộ em không dám chào Hai bên họ đứng lao xao
Ngó nghiêng con mắt như chào người thương
- Bèo than phận bèo nằm trên mặt nước Mướp than phận mướp bắt ngọn leo giàn Lang lo phận lang dứt lên trồng xuống Muống lo phận muống ngắt ngọn nấu canh Anh lo phận anh chưa có vợ
Em có chồng rồi duyên nợ lôi thôi
Hiu hiu gió thổi lò vôi
Ai đưa tin cho bạn, đây ta có đôi, bạn buồn
- Sớm mai ra đứng ngõ sau
Hai tay dủi xuống như tàu chuối te Tiếc công vun quén cây mè
Mè chưa ra trái chim hòe đậu lên
Tiếc công lên xuống, xuống lên
Mòn đàng chết cỏ không nên sự gì
Tay cầm ống chỉ xe lần
Nơi xa trùng họ, nơi gần bà con
Dậm chân xuống đất cái bon
Nay em ở vậy, chồng con đâu nà !
Thôi thôi đừng nói nữa nà
Con trâu ăn đám mạ dấu mà còn đây
- Ăn chanh nhớ tỏi ngùi ngùi
Ngồi trong đám hẹ nhớ mùi rau răm
Hỡi người bạn cũ trăm năm
Quay tơ có nhớ mối tằm ta xưa
- Con chim « chìch chòe » nó đứng hè bà chủ Con chim « đội mũ » nó đứng đám củ ông hương Đôi ta mới ngộ tình thương
Dù ai đem nhiễu đổi lương cũng đừng
- Con chim « chà chuyện » bay thấp liệng cao Nó kêu làm sao lăng nhăng líu nhíu
Em thấy chàng bận bịu không nỡ dứt tình Phải chi em có thuốc hồi sinh
Mổ gan trao lại kẻo tình anh nghi
- Một mình bồ chống, bồ chèo
Không ai tát nước đỡ nghèo một khi
- Mẹ ơi ! đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Mẹ ơi ! đừng đánh con khờ
Để con thả lờ bắt cá mẹ ăn
- Mẹ ơi ! mẹ bạc như gà
Con chưa lẻ mẹ, mẹ đà lẻ con
Có cha, có mẹ thì hơn
Không cha, không mẹ như đờn dứt giây Đờn đứt giây, đờn còn chỗ nối
Cha mẹ mất rồi, nó rối như tơ
- Trèo lên non, em tìm hòn đá trắng
Trách con chim phượng hoàng sao vắng tiếng kêu
Chợ tan còn quán với lều
Chợ tan mặc chợ, quán lều vẫn đông
- Bên kia sông, em bắt cái cầu năm mười tấm ván Bên kia sông, em lập cái quán năm bảy từng thương Cái quán năm bảy từng thương
Là để người thương em đi buôn bán
Cái cầu năm mười tấm ván
Là để người thương em đi
Trách anh sao bạc nghĩa vô nghì
Bây giờ có đôi bạn rồi không nói tiếng gì với em
- Bùn xa bèo, bùn khô bèo héo
Lựu xa đào, lựu ngả đào nghiêng
Vàng trên tay rớt xuống không phiền
Chỉ phiền vì nổi nợ với duyên không thành
- Lập vườn trồng nhãn ra hoa
Thấy mặt anh đó, biết nhà anh đâu
Hồi vui : miếng thuốc, miếng trầu
Khi buồn đi mất, biết đâu mà tìm ?
- Đã lâu không gặp bạn vàng
Nay gặp bạn vàng, lòng càng thêm tủi
Nghĩ đến ân tình có bụi mây bay
Kể từ ngày xa cách đến nay
Lòng em ngơ ngẩn đắng cay muôn phần Còn gì mà đợi mà trông
Còn gì qua lại ân cần anh ơi !
Anh có vợ rồi
Như đũa có đôi
Bỏ mình em lơ lửng mồ côi một mình
- Trâu không ăn sao ngon, sao béo
Nghĩa nhơn không mến sao đem lòng phiền Chờ chàng bóng ngả, trăng nghiên
Bao nhiêu vui về bạn, bấy nhiêu phiền về ta
- Em thương anh, trầu hết lá lương
Cau hết nửa vườn cha mẹ nào hay
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh, nhì đày hai lẽ mà thôi
Gươm vàng để đó anh ơi !
Chết thì chịu chết, lìa đôi không lìa
- Thương nhau cau sáu bửa ba
Ghét nhau cau sáu bửa ra thành mười
Thương nhau để nón về dầu
Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay
3) HÁT HỐ
I.
Nam : Tới đây trước tui chào anh em mình cái đã Sau tui chào hai ngả kinh tân
Chào luôn tiếng nữa, ngoài sân trong nhà
Chào rồi, tui hỏi thiệt bà chủ gia
Con chim đứng đó, chim nhà hay chim ai ?
Chim nhà, tui xuống ná, hạ tên
Hễ chim hàng xóm, tui dương cung bắn liền
Nữ : Chim quan, nó ở lồng vàng thanh vắng Đố anh người phàm sao dám bắn chim quan
Nam : Quốc dĩ dân vi bản
Dân dĩ thực vi tiên
Dân giàu nước mạnh trăm duyên muôn phần Biết đâu lỗi đạo vong ân
Chim quan anh cũng bắn, chim dân anh không tường Rủi tay súng nổ đạn vương
Chim quan anh cũng bắn há nhường chi ai ? Chim quan ở chốn lầu đài
Bay làm chi sa bẫy lạc loài tới đây
Muốn cho chim nhạn gặp cây
Muốn cho chim nhạn gặp bầy mới ngoan
Bay làm chi xuống xóm, xưống làng
Bị tên nước Sở chết oan ới nàng !
Nữ : Chim bay về núi tối rồi
Không cây nó đậu, không mồi nó ăn
Nam : Em ơi ! đừng nói không không
Nó bay về non bộ, sáng nó xuống đồng nó ăn Kẻ cày, người cuốc lăn xăn
Kẻ gieo người vãi, thiếu gì vật ăn
Đứng xa kêu gái nữ nhi
Thiếp lo phận thiếp, lo gì con chim ?
Nữ : Rồng nằm núi Chúa, hạc múa sông Trà Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm Vẫy vùng như cá trong nơm
Sớm mai nam trông bạn, chiều nồm bạn trông ta Bữa ăn lệ nhỏ chan hòa
Vì ai lệ ứa mà sa lòng sầu
Gối loan chẳng đặng giao đầu thì thôi
Nam : Con chim bay về núi Lớn, hạc giỡn sông Tiên Lòng ta thương bạn nước mắt liền nhỏ ra Quanh co như cá trong chà
Sơm mai nam trông bạn, xế qua bạn trông mình Hồi nào ong bướm giao chinh
Cũng vì tự giận thất tình mà điên
Giận non Tiên, bỏ chồng Tiên
Ở nơi dương cảnh chàng nguyền thác theo
Nữ : Giao lâng, em cũng muốn giao lâng Chỉ vì một nỗi mẫu thân ở nhà
Mẹ bồng con từ thuở lên ba
Nuôi cơm sú cá lớn mà chừng ni
Kể từ ngày bỏ ra đi
Hiếu trung phụ mẫu, lấy gì đền ơn
Nam : Chữ đề thiên ái vạn ân
Tình qua cũng muốn giao lâng đôi ngày Mẹ bồng con từ thuở đến nay
Nuôi cơm sú cá, lớn rày chừng ni
Trai như chàng thác mong đơn cô
Ngó lên non cao vòi vọi, ngó xuống cơ đồ mải mê
Làm trai như chàng sớm mai thỏ rước, chiều về nhạn đưa Bẻ cây gội lá, trai xưa nào bì
Em đừng ham nơi phú quý làm chi
Sớm mai tranh, chiều củi, cũng có khi thanh nhàn
Nữ : Chim buồn, chim bay về núi
Cá buồn cá chúi ao sâu
Chàng buồn cởi áo xem bâu
Thiếp buồn, thiếp ngó đâu đâu cũng buồn
Chàu rày chắc có lẽ xa luôn
Én Nam, nhạn Bắc biển nguồn hai nơi
Nam : Em đừng than thở làm chi
Buồn than thở cũng không vui gì
Kề tai than với nữ nhi
Chàng đâu thiếp đó, không mấy khi nào buồn
Ai làm hai đứa xa luôn
Trời xui khiến vậy đừng có buồn chi đâu
Áo bận thường chớ nệ bâu
Ta biểu em đừng có than thở buồn rầu hư thân
Nữ : Anh ra về, em nắm áo kéo xây
Bao nhiêu nhân nghĩa trả đây rồi về
Nam : Sớm mai phất ngọn gió tây.
Chiều xây ngọn gió nồm
Tính gom, tính góp, tính gồm, qua trả cho
Phật trên bàn còn mắc nạn, huống chi người phàm sao khỏi nạn tai bay Thôi thôi em thả áo anh ra, anh về
Kẻo mẹ, kẻo cha anh rầy
Trăng kia còn tưởng đến mây
Giận thì em nói vậy, chẳng lẽ cởi giây trả liền
II.
Nữ : Vô đây, ới bạn !
Vô đây, ới bạn, vô đây
Cổ đồ bác bữu dựng xây trên bàn
Tội tình chi mà đứng ngõ đứng đàng
Hột sương sa nhỏ xuống, cảm thương hàn ai nuôi ?
Nam : Em không kêu thì thủng thẵng qua vô
Qua vô, qua xem thử đồng hồ thế nao
Hồi nảy qua đứng ngoài rào
Tai nghe hát hố lao xao trong nầy
Cầm chìa qua mở khóa đây
Tiếc cái cây chỉa vàng
Kề tai nghe tiếng qua than
Hột sương sa nhỏ xuống cảm thương hàn cậy em
Trước tui chào bà con đông đủ
Sau tui chào bạn cũ lai niên
Nửa anh thương nát ruột, nửa anh phiền cháy gan
Mối tình ai lẽ dứt ngang
Chàng mà xa thiếp ai đem đàng nắng mưa
Hỡi người tình cũ nghĩa xưa
Nữ : Em chưa có chồng, trăm bề trăm cảnh
Em có chồng rồi một cảnh hai quê
Nói ra thảm thiềt nhiều bề lắm bạn ơi !
Phận sao chịu vậy cho rồi
Gạo trút trong nồi không lẽ trút ra
Xưa kia quyền mẹ, quyền cha
Bây giờ thiên hạ, họ dì ta cầm quyền
Nam : Em chưa cố chồng như cá ở lai láng vịch sông
Em có chồng rồi thất thể như con chim lồng khó ra
Buổi xưa kia quyền mẹ, quyền cha
Bây giờ khôn lớn cha mẹ mà định đôi
Nghĩa nhơn em tính sao cho rồi
Gạo trút trong nồi, vo bắt nấu đi
Kề tai than với nữ nhi
Tình ta nhơn nghĩa còn gì đợi trông
Chàu rày chắc lẽ em có chồng
Nào ai phân rẽ tiền đồng đũa tre !
4) HÒ
a) Hò (Nhân nghĩa)
Nữ : Than rằng : Chín chữ vu quy, nhỏ nương vú mẹ lớn đi theo chồng. Tiếc
công cha ẵm mẹ bồng, lưng dài vai rộng mà không đặng gì. Có chồng thì phải ra đi, bưng chén cơm ăn nhớ mẹ, biết mấy khi trở về. Chị em chúng bạn cười chê, có chồng xa xứ không đặng về viếng thăm. Ơn cha nghĩa mẹ ngàn năm, bạc vàng chín nén không biết bao nhiêu nguôi tình.
Nam : Chữ vu quy, em đi cũng phải. Bất hiếu với mẫu từ, dứt ngãi cùng anh. Công ơn cha mẹ sinh thành, em không báo bổ cho từ mẫu, dứt nghĩa anh theo chồng. Ngày ngày anh thường đợi thường trông, sợ cái truông kia vắng, sợ cái đồng kia xa. Ngày ngày tháng lại ngày qua, miếng hồ miếng cháo cha mẹ già uống ăn. Trời khiến xui buộc xích thằng, anh ngồi anh đợi bóng trăng đã lờ. Em còn tót tốt tuổi thơ, dứt tình chi vội, bỏ anh chờ, anh trông…
b) Hò (vấn đáp)
Nữ : Chó đánh trên đầu sao kêu dưới cẳng, ngựa cột đằng trước sao hí sau hè. Trai mà đối đặng ngựa xe em rước liền.
Nam : Con gà không rang, sao em kêu con gà nổ, con chó không nướng, sao em kêu con chó vàng. Trai mà đối đặng thì nàng tính sao ?
Nữ : Con cá đối nằm trên cối đá
Cò lửa đứng trước cửa lò
Trai mà đối đặng dứt câu hò theo anh
Nam : Bốn đứa khiêng bứa đốn
Đôi trò dắt đò trôi
Trai mà đối đặng kết đôi với nàng
"""