🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Về CNXH Và Con Đường Đi Lên CNXH Ở Việt Nam - Dư Luận Trong Nước Và Quốc Tế Về Bài Viết Của TBT Nguyễn Phú Trọng Ebooks Nhóm Zalo Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: Trình bày bìa: Chế bản vi tính: Sửa bản in: Đọc sách mẫu: ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG TS. HOÀNG MẠNH THẮNG ThS. HOÀNG THỊ THU HƯỜNG TS. LÊ THỊ THU MAI ThS. ĐỖ PHƯƠNG MAI ThS. TRẦN MINH NGỌC NGUYỄN THỊ HỒNG QUÝ NGUYỄN MAI THẢO NHUNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU PHẠM THÚY LIỄU LÂM THỊ HƯƠNG PHÒNG BIÊN TẬP KỸ THUẬT HẢI ĐĂNG THẢO NHUNG MINH NGỌC VIỆT HÀ Số đăng ký xuất bản: 3099-2021/CXBIPH/30-02/CTQG. Giấy phép xuất bản số: 587-QĐ/NXBCTQG, ngày 14/9/2021. Mã số ISBN: 978-604-57-7041-2. In xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 2021. 5 LỜI NÓI ĐẦU Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, trên cơ sở nghiên cứu lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho mọi người, cho các dân tộc. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Đây là chân lý đã được thử thách và kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam hơn 90 năm qua, nhất là sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước có được như ngày nay càng khẳng định con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn, càng củng cố niềm tin và sự kiên định của dân tộc ta vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Song, chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Đó là những vấn đề lớn đang từng bước được Đảng ta nghiên cứu, làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Vấn đề này cũng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra và luận giải trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngày 15/5/2021. Bằng những lập luận chặt chẽ, phân tích sâu sắc, biện chứng, chắt lọc, đúc kết từ thực tiễn, chân thực, khoa học trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, 6 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... với tinh thần kiên định, vững vàng và bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản, với trọng trách của người đứng đầu Đảng, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng bước trả lời cho những câu hỏi trên. Bài viết cũng chỉ rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Với tầm quan trọng cả lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đã nhận được sự quan tâm, hưởng ứng sâu rộng, được sự đón nhận của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như được bạn bè, các chính đảng, chính khách, các nhà khoa học, nghiên cứu lý luận và dư luận quốc tế đánh giá cao. Từ khi bài viết được công bố ngày 16/5/2021 đến nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các báo, tạp chí,... đã có hàng nghìn bài viết, bài bình luận của độc giả, từ cán bộ hưu trí, đảng viên ở cơ sở, nhân dân ở mọi vùng, miền của Tổ quốc, từ đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo cho đến các nhà nghiên cứu, nhà kinh tế học, nhà ngoại giao, trí thức, văn nghệ sĩ, kiều bào ta ở nước ngoài... đón nhận bài viết của Tổng Bí thư với niềm tin tưởng và sự hưởng ứng tích cực. Các bài viết chia sẻ của bạn đọc đã bày tỏ sự đồng thuận với nội dung bài viết của Tổng Bí thư; nhận thấy rõ con đường mà nhân dân ta, dân tộc ta đang đi là đúng đắn dù có muôn vàn khó khăn, thử thách, song dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta nhất định sẽ đạt được thành công. Đối với các Đảng Cộng sản, Đảng Lao động trên thế giới như: Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Nhân dân Campuchia, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Lao động Thụy Sĩ, Đảng Cộng sản Ucraina, Đảng Cộng sản Braxin, Đảng Cộng sản Anh, Đảng Cộng sản Italia, Đảng Cộng sản Bồ Đào Nha, Đảng Lao động Mêhicô, Đảng Cộng sản Xyri, Đảng Khối Tiến lên Toàn Ấn, Đảng Cộng sản Mỹ... bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận được sự đồng tình, đánh giá cao, như lý luận về chủ nghĩa xã hội - thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản LỜI NÓI ĐẦU 7 “là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn” hướng đích lâu dài, không thể nóng vội, trong đó “Mỗi chính sách kinh tế phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội”; về mục tiêu “xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mĩ ngày càng cao”; về xây dựng một xã hội mà trong đó “con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển”. Trong bài viết, Tổng Bí thư phân tích sâu sắc, toàn diện sự phát triển vượt bậc, những thành tựu to lớn của chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng như những thích nghi, biến đổi của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay; song cũng chỉ rõ sự phát triển chạy theo lợi nhuận cũng chứa đựng những vấn đề như: khủng hoảng kinh tế, mâu thuẫn xã hội, khoảng cách giàu nghèo, suy thoái môi trường sinh thái, bất bình đẳng vốn thuộc về bản chất của chủ nghĩa tư bản. Điều đặc biệt là, bài viết của Tổng Bí thư mặc dù chỉ rất rõ những vấn đề tồn tại trong chủ nghĩa tư bản, nhưng vẫn nhận được sự đồng tình, đánh giá cao của các nhà nghiên cứu, nhà kinh tế, chính trị gia, nhà sử học,... ở các nước tư bản chủ nghĩa, bởi những đánh giá, nhận định sắc sảo, thuyết phục và cũng bởi những giá trị nhân văn cao đẹp, vì con người, cho sự phát triển của con người mà chế độ xã hội chủ nghĩa hướng tới cũng chính là khát khao của nhân loại tiến bộ. Cho đến nay, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vẫn tiếp tục nhận được sự quan tâm, đánh giá của độc giả trong và ngoài nước, thể hiện tính thời sự, tính lý luận thời đại và tính định hướng sâu sắc trong những nội dung mà bài viết đã đặt ra. Bài viết của Tổng Bí thư đặc biệt có ý nghĩa về cả tầm tư tưởng - lý luận và thực tiễn, được công bố vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực phấn đấu để đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, chuẩn bị và tổ chức thành công bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Do vậy, bài viết đã có tác động to lớn, lan tỏa sâu rộng đến tư tưởng, tình cảm, hành động của mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân. Với ý nghĩa đó, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng phối hợp với Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, Bộ Ngoại giao, Báo Nhân Dân, Thông tấn xã Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật tổ chức tuyển chọn, xuất bản cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Dư luận trong nước và quốc tế về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 8 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Cuốn sách chọn lọc một số bài viết, bài phỏng vấn, đánh giá, bình luận về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, phản ánh dư luận trong nước và quốc tế đối với bài viết. Cuốn sách được chia làm ba phần chính: Phần thứ nhất in toàn văn bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, ngày 15/5/2021. Phần thứ hai chọn lọc những ý kiến, đánh giá tâm huyết của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, cán bộ lãnh đạo, quản lý và các tầng lớp nhân dân ở mọi vùng, miền của Tổ quốc về bài viết của Tổng Bí thư. Phần thứ ba gồm các bài trao đổi, phỏng vấn, đánh giá của các học giả, nhà nghiên cứu, các đồng chí, bạn bè quốc tế, các chính đảng,... về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách là tài liệu nghiên cứu có giá trị, giúp cán bộ, đảng viên, các nhà lãnh đạo, quản lý và nhân dân hiểu sâu sắc hơn nội dung bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, để luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời tiếp thu, bổ sung một cách sáng tạo, có chọn lọc “những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống” như Tổng Bí thư đã chỉ rõ. Đồng thời cũng giúp toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tăng cường đoàn kết, thống nhất cao về tư tưởng và hành động để phấn đấu hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển ngày càng phồn vinh và hạnh phúc, vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặc dù đã cố gắng chọn lọc kỹ càng, song do số lượng bài, tin, đánh giá rất nhiều, đa dạng, phong phú, nên khó tránh khỏi thiếu sót. Bên cạnh đó, do tầm tư tưởng và lý luận có giá trị lâu dài của bài viết, vẫn tiếp tục có nhiều bình luận, đánh giá ở cả trong nước và quốc tế, chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của độc giả để hoàn thiện, bổ sung trong những lần xuất bản tiếp theo. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Hà Nội, tháng 10 năm 2021 BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT PHẦN THỨ NHẤT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA Xà HỘI Ở VIỆT NAM 11 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA Xà HỘI Ở VIỆT NAM GS.TS. NGUYỄN PHÚ TRỌNG Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin đề cập một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam. Và cũng chỉ tập trung vào trả lời mấy câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta 12 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... phải định hình chủ nghĩa xã hội thế nào và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam? Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn sai đường, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không? Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 13 chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt, năm 2008 - 2009, chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý. Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng 14 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa. Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản. Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 15 cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Năm 1930, trong Cương lĩnh chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo, “bỏ qua thời kỳ tư bổn chủ nghĩa mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”1. Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới, 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.94. 16 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”1. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”2. Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản... Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.78. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.70. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 17 nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không 18 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển. Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của chúng ta, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ). Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 19 xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là 20 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 21 để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam; không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị. 22 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Công cuộc đổi mới, trong đó có việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong 35 năm qua. Trước đổi mới (1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về người, về của và môi trường sinh thái. Tôi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm nghìn trẻ em bị dị tật bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn còn sót lại sau chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 23 quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện, dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc, trong đó hơn 60% số dân sống ở nông thôn. Phát triển kinh tế đã giúp đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt Nam tập trung hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Trong khi chưa thực hiện được việc bảo đảm cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho toàn dân, Việt Nam tập trung vào việc tăng cường y tế phòng ngừa, phòng, chống dịch bệnh, hỗ trợ các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Nhiều dịch bệnh vốn phổ biến trước đây đã được khống chế thành công. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần ba lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo cho phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một 24 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã giành được “những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”1. Trên thực tế, xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được toàn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu thực hiện. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mới đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định và nhấn mạnh: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.67. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 25 đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”1. Bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, chúng ta cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ; hiệu quả và năng lực của nhiều doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế; môi trường bị ô nhiễm tại nhiều nơi; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Trong khi đó, sự cạnh tranh đang diễn ra ngày càng quyết liệt trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Đặc biệt, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.I, tr.25-26. 26 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu, tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Hiện nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các khâu đột phá là: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội1. Về xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa đời sống văn hóa cho nhân dân. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang ra sức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, 1. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.337-338. Phần thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... 27 đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, thực hiện tốt hơn nữa các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, nhằm làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, giữ vững bản chất cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển. Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người 28 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Quét mã để đọc bài viết đăng trên báo PHẦN THỨ HAI DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 31 LAN TỎA NIỀM TIN VÀ TRUYỀN CẢM HỨNG VỀ KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC 1Thiếu tướng, PGS.TS. ĐẶNG SỸ LỘC* Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục khẳng định và củng cố niềm tin son sắt cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về con đường đi tới tương lai của dân tộc ta. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho nhân dân ta. “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã in dấu ấn đậm nét khát vọng về một dân tộc Việt Nam độc lập, thống nhất, phát triển cường thịnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Khát vọng đó không phải tự nhiên mà có, nó được hun đúc từ những giá trị văn hóa hàng nghìn năm văn hiến của dân tộc Việt Nam, được tôi luyện suốt chiều dài lịch sử dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc, là sự kế thừa và tiếp nối công lao trời biển của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước đã xây dựng nên cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của nước ta như ngày nay. * Phó Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, ngày 17/5/2021. 32 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Khát vọng về một Việt Nam hùng cường như dòng sông quê hương mát rượi, luôn khơi nguồn, chảy mãi trong trái tim của các thế hệ người Việt Nam, bồi đắp cho những ước mơ và hoài bão lớn lao về một dân tộc Việt Nam luôn biết vượt qua mọi thác ghềnh, khó khăn, nguy hiểm để đến với bến bờ hạnh phúc, vinh quang. Trước đây, khát vọng cháy bỏng của chúng ta khi nền độc lập dân tộc bị xâm phạm là: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”1, “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”2, “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3. Khát vọng đó đã truyền cảm hứng mãnh liệt đến từng người, từng nhà, từng ngõ xóm, thôn, bản, từ mọi làng quê Việt Nam, không phân biệt già trẻ, gái trai, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam ở trong nước hay kiều bào ta ở nước ngoài, hễ là người Việt Nam, ai cũng phải đứng lên giải phóng dân tộc. Cho nên, ở Việt Nam lúc bấy giờ “ra ngõ gặp anh hùng”, ai cũng đặt lợi ích của đất nước lên trên hết, trước hết; ai cũng sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ Tổ quốc, “Quyết tử để cho Tổ quốc quyết sinh”. Cũng chính vì lẽ đó, hình ảnh Việt Nam, Hồ Chí Minh, ngôi sao vàng năm cánh cùng với những chiến thắng lừng lẫy của Việt Nam đã vang vọng khắp năm châu, truyền cảm hứng mãnh liệt đến nhân dân và các dân tộc trên thế giới còn bị áp bức, bóc lột và bạn bè quốc tế, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, chân lý, lẽ phải để giải phóng dân tộc và ủng hộ Việt Nam. Sau 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những kỳ tích vô cùng to lớn. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”4. Cả dân tộc Việt Nam đang hòa nhịp 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.15, tr.131. 2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, t.2, tr.225. 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.534. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.25. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 33 vào dòng chảy của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế với “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”1; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với ba mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao2. Khát vọng thiêng liêng, lớn lao đó chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, với sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là phải truyền cảm hứng để hiện thực hóa khát vọng. Muốn vậy, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương phải biết truyền cảm hứng để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Muốn truyền được cảm hứng thì người đứng đầu phải thực sự tiêu biểu cho tinh hoa của Đảng, của dân tộc; phải thực hiện tốt việc nêu gương, lan tỏa những việc làm tốt đẹp đến mọi người dân; phải luôn giữ vai trò nòng cốt, dẫn dắt và thúc đẩy mọi người ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình phụ trách không ngừng đổi mới sáng tạo, tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức trên con đường phát triển. Cốt lõi của khát vọng Việt Nam là khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Do đó, phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân với sức mạnh thời đại cho mọi người, mọi nhà, mọi gia đình người Việt Nam; phải làm cho ai cũng có 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.54. 2. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.112. 34 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... khát vọng vươn lên, khát vọng cống hiến cho sự phát triển phồn vinh của đất nước để hiện thực hóa ba mục tiêu mà Đảng ta đã xác định. Khát vọng của Việt Nam chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chiến thắng được “giặc nội xâm” là chủ nghĩa cá nhân, tham nhũng, lãng phí. Vì vậy, phải truyền cảm hứng cho mỗi người dân Việt Nam nêu cao ý thức trách nhiệm, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân; chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tham nhũng, lãng phí, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Chúng ta tin tưởng rằng, với khát vọng vươn lên mãnh liệt, với quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, nhất định đất nước ta sẽ lập nên những kỳ tích mới vì một nước Việt Nam cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc, cùng bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quét mã để đọc bài viết đăng trên báo 35 BÀI VIẾT CÓ TÍNH ĐỊNH HƯỚNG CAO VÀ GIÁ TRỊ THỰC TIỄN SÂU SẮC 1NGUYỄN TRỌNG LƯỢNG* Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2021), bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có bài viết rất quan trọng với tiêu đề Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nghiên cứu nội dung bài viết, không phải riêng tôi mà đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ở địa phương chúng tôi đều nhận thấy rằng, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa thể hiện tính định hướng cao, vừa có giá trị thực tiễn hết sức sâu sắc. Ngay sau khi bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, như một lẽ tự nhiên, ở địa phương chúng tôi, nhiều cuộc bàn luận diễn ra sôi nổi. Thậm chí, có những người trước đây dường như không mấy quan tâm đến vấn đề được xem là “chính trị”, thì nay có những phân tích, lập luận khá chặt chẽ, có tính thuyết phục cao dựa trên những nội dung đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể * Thôn Tân Luật, xã Công Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, ngày 17/5/2021. 36 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... hiện trong bài viết, nhất là một số người dân theo đạo Thiên Chúa. Vậy, vì sao bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại thu hút sự quan tâm của quần chúng nhân dân? Phải chăng, đây là bài viết của đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng. Đúng là có quan điểm ấy, nhưng trên hết và trước hết chính là tư tưởng và nội dung bài viết. Khái niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải bây giờ mới được Tổng Bí thư nhắc đến, đề cập đến, mà đó là mô hình xã hội và con đường phát triển đi tới của dân tộc đã được Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta lựa chọn ngay từ buổi bình minh tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và đi lên chủ nghĩa xã hội chính là sự lựa chọn tự nguyện; là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam là minh chứng sinh động và đầy sức thuyết phục cho việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những đau khổ cùng cực mà người dân Việt Nam phải gánh chịu dưới xiềng xích đô hộ của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân chỉ những người như thế hệ chúng tôi, cha ông chúng tôi mới cảm nhận được hết. Bằng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, với thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam đã quy tụ được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vùng lên lật đổ chế độ thực dân phong kiến, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài viết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 37 cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”. Trích dẫn lại nội dung trên trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chắc hẳn không cần phân tích gì thêm để trả lời cho câu hỏi: Vì sao Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta nguyện một lòng đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và sự lựa chọn đúng đắn ấy đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam minh chứng với những “thành tựu có ý nghĩa lịch sử” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã mang đến cho mỗi người dân Việt Nam những nhận thức khoa học và đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bài viết đã lý giải cặn kẽ, thuyết phục lý do vì sao dân tộc Việt Nam kiên định, kiên trì với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến hết sức mau lẹ, khó đoán định; trong nước, thành tựu đạt được sau 35 năm đổi mới đã tạo nên những tiền đề vững chắc để đất nước tiếp tục phát triển, nhưng cũng đặt ra không ít thách thức, đòi hỏi đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước và trách nhiệm chính trị của mỗi người dân. Bởi vậy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần rất quan trọng để mỗi người trong chúng ta có cùng nhận thức, thấy rõ trách nhiệm và thể hiện quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cho dù phía trước con đường cách mạng của dân tộc không phải được trải bằng nhung lụa. Và sự thể hiện trách nhiệm của mỗi người dân trước hết là sáng 38 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... suốt lựa chọn cho được những người xứng đáng bầu vào Quốc hội khóa XV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; đồng thời thực hiện tốt công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 để đạt được kết quả tốt trong thực hiện “mục tiêu kép” mà Chính phủ đã xác định. Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của mỗi người dân ở thời kỳ nào cũng vậy, không phải là điều gì quá xa vời, trừu tượng, mà bằng chính những việc làm, hành động cụ thể vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 39 XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM PHÁP QUYỀN Xà HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN 1Trung tướng, PGS.TS. TRẦN VI DÂN* Trong không khí toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, hướng tới bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng, sâu sắc, với luận cứ khoa học, thực tiễn vững chắc, nhất là từ thực tiễn cách mạng Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được các nhà tư tưởng, chính trị, pháp lý như Giôn Lốccơ (1632 - 1704), Môngtexkiơ (1689 - 1755), J.J. Rútxô (1712 - 1778), T. Jepphecxơn (1743 - 1826), tác giả Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776... sáng lập, kế thừa và phát triển như một thế giới quan pháp lý mới, góp phần phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền, làm cơ sở * Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương. Bài đăng trên báo Công an nhân dân online, ngày 18/5/2021. 40 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... lý luận xây dựng nhà nước tư sản cho đến ngày nay. So với nhà nước phong kiến cát cứ “ngàn năm trung cổ”, đây là những tư tưởng tiến bộ của nhân loại trong lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước tư sản khi đó. Trên cơ sở thế giới quan khoa học và lập trường tư tưởng cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, nhà nước là một hiện tượng lịch sử - xã hội, có quá trình ra đời, hình thành và phát triển gắn liền với xã hội phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà nước mang bản chất giai cấp, là bộ máy bạo lực của giai cấp thống trị nhằm duy trì trật tự xã hội và điều hòa lợi ích trong xã hội theo trật tự mà giai cấp thống trị hướng đến. Vì vậy, “Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của một giai cấp này đối với giai cấp khác”1, “Ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”2. Trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước là một công cụ, phương tiện, đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của nhân dân lao động. Dân chủ trong xã hội xã hội chủ nghĩa chính là nhân dân tham gia vào mọi công việc của nhà nước. Toàn bộ việc quản lý nhà nước từ dưới lên phải do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống và đóng vai trò tích cực trong việc quản lý. Vì thế, trong quá trình lãnh đạo xây dựng Nhà nước Nga Xôviết, V.I. Lênin đã yêu cầu phải xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, tinh giản, tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả và tiết kiệm theo nguyên tắc “thà ít mà tốt”, nghĩa là coi trọng chất lượng, không chạy đua theo số lượng; cán bộ, công chức phải có năng lực, bản lĩnh chính trị vững vàng; phải phấn đấu đạt “chất lượng kiểu mẫu thật sự”. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề nhà nước giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người nhấn mạnh: “Nước ta là nước 1. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.39, tr.84. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20, tr.253. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 41 dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”1; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”2. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân; đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là “các ông quan cách mạng” mà là “công bộc của nhân dân”. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong nền chính trị hiện đại, bảo đảm tính chính đáng của chính quyền khi tiếp nhận sự ủy quyền quyền lực từ nhân dân. Người quan niệm, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước của Người thấm đượm tình thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống quý báu của dân tộc. Tư tưởng này mang đậm tính dân tộc và giá trị dân chủ sâu sắc và triệt để. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - đó là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước nhà”3. Kể từ đó, tiếp thu, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về mô hình nhà nước, quá trình nhận thức tư duy lý luận của Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội, nhất là thời kỳ đổi mới từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, không ngừng được phát triển và hoàn thiện. Những quan điểm, đường lối đó được Nhà nước cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử có những thay đổi về mô hình bộ máy, tuy nhiên, xuyên suốt mạch 1, 3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.434, 26. 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.382. 42 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... phát triển ấy đều dựa trên cơ sở nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994), lần đầu tiên, Đảng ta đã chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền Việt Nam”: Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định một trong những đặc trưng của chế độ là “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, chỉ rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”1. Quan điểm này được Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận, đồng thời chỉ rõ: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Làm sâu sắc những tư tưởng này, trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng và đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.85. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 43 Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích, mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội. Chúng ta nhận thức rằng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, chúng ta xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta luôn coi trọng đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn qua 35 năm đổi mới, tư duy lý luận của Đảng về 44 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ và phát triển hơn, tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng một nhà nước trong sạch, vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bài viết, Tổng Bí thư làm sâu sắc những quan điểm đã được thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đảng, vừa có những phát triển mới, vừa chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay. Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, chưa có trong tiền lệ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì vậy, tư tưởng trong bài viết là những chỉ dẫn để tổ chức thực hiện trong thực tiễn, đòi hỏi phải có sự nhận thức lý luận khoa học, cách mạng, phát huy cao độ thái độ, trách nhiệm chính trị và hành động cách mạng đúng đắn, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, đây là cơ sở để phòng ngừa những tư tưởng chủ quan, nóng vội, áp dụng một cách máy móc các mô hình nhà nước pháp quyền của các nước khác vào Việt Nam; đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Bài viết của Tổng Bí thư có ý nghĩa hết sức to lớn, làm sâu sắc, truyền cảm hứng, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, nhất là trong thời điểm mỗi người dân đang nô nức thực hiện quyền làm chủ của mình bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026; góp phần tạo sự đồng thuận, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Quét mã để đọc bài viết đăng trên báo 45 GẮN KINH TẾ VỚI Xà HỘI, MỘT THUỘC TÍNH QUAN TRỌNG CỦA ĐỊNH HƯỚNG Xà HỘI CHỦ NGHĨA TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1PGS.TS. PHẠM VĂN LINH* Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, với nội dung chính là tập trung trả lời 4 câu hỏi lớn: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Bài viết càng có ý nghĩa hơn, khi năm nay kỷ niệm 110 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước và Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tiếp tục cụ thể hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chuẩn bị cho 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) vào năm 2045. * Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương. Bài đăng trên trang Thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 19/5/2021. 46 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Các vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là cơ sở để hình thành lý luận của Việt Nam về chủ nghĩa xã hội. Bài viết tạo được sự quan tâm lớn của người đọc không chỉ ở cách tiếp cận từng nội dung, sự nhuần nhuyễn trong lập luận, lý giải vấn đề không mới, nhưng cô đọng, hàm chứa ở đó những vấn đề mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam kết hợp với tinh hoa, tiến bộ mới của nhân loại, do vậy mang tính thuyết phục cao. Có nhiều luận điểm quan trọng được Tổng Bí thư đề cập, ở đó phải kể đến vấn đề “gắn kinh tế với xã hội” được phân tích khi bàn về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khái quát từ tám đặc trưng cơ bản về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), bài viết của Tổng Bí thư khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”. Sau khi nhắc lại nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được tổng kết, đề cập trong các văn kiện quan trọng của Đảng, từ thực tiễn Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định: “Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường”. Đó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường là một thành quả phát triển, giá trị tinh hoa của nhân loại, có nhiều cấp độ, mô hình khác nhau, tuy đã phát triển cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng do bản chất chế độ, cấu trúc xã hội và cơ chế vận hành..., cho nên ở đó, mặc dù đạt được nhiều thành tựu phát triển và đã có điều chỉnh thích nghi, nhưng nhiều vấn đề lớn, căn bản để đi tới một xã hội văn minh, tiến bộ vẫn không giải quyết được. Các vấn đề về khủng hoảng chu kỳ, phân hóa xã hội sâu sắc thậm chí dẫn đến xung đột xã hội ngay ở những nước tư bản phát triển. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 47 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều thuộc tính, trong đó một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng “Là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”. Đây là luận điểm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, được tổng kết, đúc rút từ thực tiễn, trở thành chủ trương, đường lối và cụ thể hóa thành chính sách qua các giai đoạn phát triển ở Việt Nam. Quan điểm này thực sự nhất quán với chủ trương lấy con người làm trung tâm, mọi thành quả phát triển của đất nước cũng là vì con người, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều đó được thực hiện ngay từ buổi đầu cách mạng, trong những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm giành độc lập dân tộc và từ khi đất nước độc lập, thống nhất, tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Chúng ta nhất quán thực hiện kể cả những lúc “khó khăn nhất, ngàn cân treo sợi tóc” trong chiến tranh và cho đến ngày nay: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” như Tổng Bí thư đã khẳng định. Rõ ràng rằng, đó là thực tiễn Việt Nam, lý luận của Việt Nam. Quan điểm trên cho thấy, chúng ta không chờ đến khi kinh tế phát triển ở trình độ cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu, trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Tất nhiên, sự gắn kết này phải bảo đảm tính thống nhất hữu cơ, có cơ sở khoa học, không khiên cưỡng và mâu thuẫn, theo đó mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội phải tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; vừa thúc đẩy giải phóng sức sản xuất xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường. Đây cũng là điều lý giải vì sao Việt Nam, từ một điểm xuất phát thấp, bị chiến tranh tàn phá, trong bối cảnh thế giới với nhiều biến động phức tạp, khó lường vẫn vững vàng, giữ vững ổn định, từng bước 48 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... thực hiện phát triển nhanh và bền vững, đạt và về trước nhiều Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Trong suốt 35 năm đổi mới, Việt Nam đạt mức tăng trưởng bình quân 7%/năm. Quy mô kinh tế đứng thứ tư trong ASEAN, năm 2020 đạt 342,7 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 62 tuổi năm 1990 tăng lên 73,7 tuổi năm 2020. Năm 2000 cơ bản hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, năm 2010 phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Đến nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Chăm sóc sức khỏe, y tế cho người dân luôn được quan tâm, trong công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 hiện nay, Việt Nam luôn được thế giới đánh giá cao về các biện pháp bảo vệ người dân, chống dịch có hiệu quả. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Đời sống văn hóa, tinh thần của người dân luôn được Đảng, Nhà nước chăm lo. Bản sắc văn hóa, các giá trị truyền thống tốt đẹp được gìn giữ, phát huy... Rõ ràng rằng, thực tiễn thế giới hơn một thế kỷ qua và bối cảnh trong nước hiện nay, đặc biệt là sau biến cố về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây, càng làm cho bài viết của người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam thu hút được sự quan tâm lớn của độc giả trong và ngoài nước. Cần khẳng định, đây là một công trình khoa học rất quan trọng, thể hiện tầm tư duy lý luận cao, sắc bén, mang tính tổng kết thực tiễn sâu sắc, gợi mở ra nhiều vấn đề lý luận cần được đi sâu, làm rõ, thể hiện tính độc đáo, sáng tạo của Việt Nam. Những vấn đề lý luận này còn có ý nghĩa trực tiếp góp phần tiếp tục định hình và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể của Việt Nam, thực hiện khát vọng phát triển đất nước trong các giai đoạn tiếp theo. Quét mã để đọc bài viết đăng trên trang thông tin điện tử 49 BÀI VIẾT CỦA TỔNG BÍ THƯ CÓ Ý NGHĨA ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG, PHẢN ÁNH CẢ TẦM TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN*1 Phóng viên: Xin đồng chí chia sẻ với bạn đọc báo Lao động về ý nghĩa bài viết đặc biệt quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bối cảnh hiện nay? PGS.TS. Đoàn Minh Huấn: Bài viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phản ánh cả tầm tư tưởng, lý luận và thực tiễn, ở đây tôi chỉ xin đề cập đến thời điểm công bố. Được công bố vào dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là lúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đang nỗ lực phấn đấu để đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, chuẩn bị và tổ chức thành công bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, bài viết có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm, hành động của mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tiêu đề của bài viết đề cập đến những chủ đề rất lớn, hệ trọng của Đảng, của dân tộc ta - về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết có ý nghĩa rất quan trọng giúp các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc hơn con đường chúng ta đi, đích * Phỏng vấn PGS.TS. Đoàn Minh Huấn - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản - về nội dung bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Bài đăng trên báo Lao động, ngày 19/5/2021. 50 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... chúng ta đến để làm tròn trách nhiệm cao nhất, tuyệt đối không được dao động, ngả nghiêng. Chứng kiến một thế giới đầy biến động, bất an, đại dịch Covid-19 đang hoành hành khắp hành tinh, nhưng nhân dân ta vẫn được sống, làm việc và học tập trong môi trường an toàn, tự do và hạnh phúc, chúng ta càng thấm thía hơn về giá trị của chủ nghĩa xã hội và niềm tin sâu sắc vào đường tới tương lai của dân tộc mà Đảng, Bác Hồ, nhân dân ta đã lựa chọn. Phóng viên: Đồng chí có thể đưa ra vài bình luận về tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được khẳng định bằng lý lẽ sâu sắc, luận chứng thuyết phục trong bài viết? PGS.TS. Đoàn Minh Huấn: Bài viết dù đặt tiêu đề rất khiêm tốn là “Một số vấn đề” nhưng thực ra đề cập những vấn đề rất rộng lớn, rất cơ bản và sâu sắc ở tầm tư tưởng - lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó vừa là tiền đồ, tương lai phải định hướng để đạt được, vừa là hiện thực phải từng bước định hình trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới. Một trong những điểm nhấn của bài viết là đưa ra những lý lẽ sâu sắc, luận cứ thuyết phục về tính tất yếu thay thế của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản. Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, là giải pháp đúng đắn để mang lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Phải đặt trong bối cảnh chúng ta đang quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII để hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn những nội dung này. Đại hội XIII nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; xác định tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp đổi mới phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ mang lại độc lập cho dân tộc, mà còn là con đường duy nhất đúng đắn để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 51 Thế giới đang chịu nhiều tác động tiêu cực bởi mặt trái của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, của các nền dân chủ đa nguyên, khiến cho bất công xã hội ngày càng gia tăng, xung đột xã hội bùng nổ ở nhiều nước, suy thoái môi trường diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Chủ nghĩa tư bản tự bản thân nó không thể giải quyết được các vấn nạn, các khuyết tật nêu trên - bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh sâu sắc điều này - đó là vấn đề phi chủ nghĩa tư bản, tức là vấn đề của chủ nghĩa xã hội. Không ít người đã từng say sưa với chủ nghĩa tự do, nhưng sự thật trần trụi được phơi bày đã làm phản tỉnh họ, nhất là trong cuộc khủng hoảng y tế lần này hay các cuộc bầu cử gây chia rẽ xã hội, đánh mất lòng tin của cử tri trong nền dân chủ đa đảng hay lưỡng đảng, gây nên các xung đột làm rạn nứt các kết cấu xã hội, đánh rơi mặt nạ “dân chủ” luôn được rêu rao và tìm cách “xuất khẩu dân chủ”. Phóng viên: Bản chất của chủ nghĩa xã hội được nhấn mạnh như thế nào trong bài viết, xin đồng chí cho một số ý kiến bình luận? PGS.TS. Đoàn Minh Huấn: Trong bài viết này, đồng chí Tổng Bí thư đã làm rõ những vấn đề cốt lõi của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta kiên định trong quá trình đổi mới. Có thể ở các văn kiện, tài liệu khác đã đề cập những nội dung này, nhưng tiếp cận dưới góc độ một bài viết, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích các vấn đề cốt lõi đó bằng lập luận khoa học, thuyết phục, kể cả phản bác sắc bén những luận điệu sai trái, xuyên tạc về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa là một chế độ xã hội mang bản chất tốt đẹp, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, lấy con người làm trung tâm, dựa trên lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa cá nhân và phe nhóm. Bài viết nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế thị trường phải gắn liền với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi kinh tế thị trường có vai trò 52 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... trong phân bổ hiệu quả nguồn lực, phát triển lực lượng sản xuất, nhưng mặt trái của kinh tế thị trường là phân hóa giàu nghèo, gây nên các bất công xã hội, bỏ rơi những người kém may mắn, chạy theo lối sống sùng bái vật chất, hình thành “nhóm trục lợi” xem đồng tiền là tối thượng mà bất chấp đạo lý, sẵn sàng hy sinh lợi ích công cộng. Định hướng xã hội chủ nghĩa chính là phát huy mặt tích cực và hóa giải, giảm thiểu mặt tiêu cực của thị trường, gắn với phát huy đầy đủ vai trò của nhà nước và xã hội. Đây là cơ sở rất quan trọng cho phân tích, đánh giá tình hình và đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn phát triển trong thời kỳ quá độ, tránh các biểu hiện chủ quan, nóng vội, duy ý chí, đốt cháy giai đoạn hoặc xa rời, chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Phóng viên: Một trong những điểm nhấn của bài viết là những lý giải về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng chí có thể chia sẻ ý kiến với bạn đọc về điểm nhấn này? PGS.TS. Đoàn Minh Huấn: Trên quan điểm duy vật biện chứng, bài viết đã làm rõ đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn với yêu cầu giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, được phân biệt với đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở dạng hoàn chỉnh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, giúp không ít người khắc phục những nhầm lẫn giữa mục tiêu hướng tới và các biện pháp trung gian quá độ, nhất là khắc phục các biểu hiện nóng vội, chủ quan, duy ý chí lấy các đặc trưng chế độ xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh trong tương lai bắt hiện thực phải khuôn theo. Thời kỳ quá độ là thời kỳ mà “nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực” và sự đan xen, cạnh tranh ngày càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, do xuất phát điểm thấp, chúng ta “bỏ qua” chủ nghĩa tư bản nhưng phải xác định “bỏ qua” cái gì, cái gì phải kế thừa, phát triển. Nói bỏ qua chế độ tư bản Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 53 chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Phải kế thừa những thành tựu này có chọn lọc, có phê phán, trên quan điểm khoa học và phát triển. Bài viết lưu ý rằng, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, hoàn thiện không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hoàn chỉnh. Có thể nói, phải hiểu đầy đủ khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cơ chế thị trường. Định hướng xã hội chủ nghĩa là làm cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa luôn được quản trị, giữ vững trong quá trình đổi mới đất nước; làm cho nhân tố xã hội chủ nghĩa, những cái tốt đẹp luôn giữ vai trò chủ đạo, lớn dần lên trong quá trình cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa là định hình chủ nghĩa xã hội, tức phải làm cho bản chất tốt đẹp, giá trị của chủ nghĩa xã hội được hiện thực hóa trong đời sống hằng ngày mà người dân được thụ hưởng gắn với điều kiện, lộ trình cụ thể. Đó chính là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tăng trưởng kinh tế phải gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Để tránh rơi vào chủ quan duy ý chí, Tổng Bí thư lưu ý rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Phóng viên: Thưa đồng chí, tổ chức Công đoàn cần làm gì để quán triệt sâu sắc tinh thần bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng? PGS.TS. Đoàn Minh Huấn: Bài viết tiếp tục khẳng định, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. 54 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Đồng chí Tổng Bí thư lưu ý rằng, khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình và do đó Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, mà thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, vì giai cấp công nhân là giai cấp có lợi ích thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Với bản chất của mình, Đảng có nhiệm vụ chăm lo cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Bài viết đã nêu lên những con số, ví dụ sinh động thể hiện sự chăm lo của Đảng, Nhà nước cho phát triển con người, phát triển xã hội, không ngừng mở mang phúc lợi xã hội và bảo đảm an sinh xã hội. Ai là đối tượng được thụ hưởng các chính sách bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội? Xin thưa rằng, trước hết chính là giai cấp công nhân, nông dân, người lao động, người có thu nhập thấp. Đại hội XIII của Đảng nêu phương hướng tiến tới xây dựng nền giáo dục phổ thông miễn phí, trước hết là giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Điều này khác hẳn với nhiều nước tư bản chủ nghĩa đã biến giáo dục thành hàng hóa kinh doanh kiếm lời, con em các gia đình có thu nhập thấp không được đến trường, không có cơ hội phát triển. Đối với chế độ ta, khi con em của công nhân, nông dân, người lao động, người có thu nhập thấp được hưởng nền giáo dục miễn học phí (bản chất là Nhà nước trả hộ học phí) thì các gia đình mới có điều kiện dành nguồn tài chính eo hẹp của mình mua sắm các hàng hóa, dịch vụ khác để cải thiện đời sống. Ngay trong những ngày này, nhiều quốc gia còn chìm đắm trong cơn bão của đại dịch Covid-19, mà có một nguyên nhân được chỉ ra là do tư nhân hóa, thị trường hóa các dịch vụ y tế, thiếu đầu tư cho hệ thống y tế công cộng. Còn đối với chúng ta, dù là nước đang phát triển, còn nhiều khó khăn, nhưng đã dành một phần rất quan trọng ngân sách chi cho phát triển mạng lưới y tế công cộng, đầu tư phát triển bệnh viện rộng khắp, hỗ trợ ngân sách cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số mua bảo hiểm y tế, phấn đấu Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 55 bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân, chi ngân sách mua vắcxin phòng, chống Covid-19, tăng cường quản lý giá thuốc, giá dịch vụ y tế, không thả nổi theo thị trường, kể cả xử lý bằng biện pháp hình sự những ai nâng khống giá thiết bị y tế, giá thuốc. Hệ thống y tế công cộng được chăm lo đầu tư của Nhà nước đã tham gia đắc lực, góp phần cực kỳ quan trọng vào phòng ngừa hiệu quả đại dịch Covid-19 thời gian qua. Bảo hiểm y tế cho người dân gắn với kiểm soát giá thuốc, giá dịch vụ y tế, không thả nổi theo thị trường có ý nghĩa bảo đảm quyền khám và chữa bệnh của người dân, nhưng không làm “nghèo hóa” người có thu nhập thấp. Đại hội XIII của Đảng rất nhấn mạnh đến mở mang phúc lợi, phát triển thiết chế văn hóa, dịch vụ xã hội, nhà ở xã hội cho công nhân, người lao động với trách nhiệm của cả Nhà nước, Công đoàn, chủ sử dụng lao động. Để các mục tiêu, định hướng đó được hiện thực hóa có rất nhiều việc phải làm, trong đó Công đoàn các cấp với vai trò là tổ chức đại diện bảo vệ cho quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động phải quán triệt sâu sắc tinh thần bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp tục đổi mới hoạt động, tạo sức hấp dẫn mới trong thu hút, tập hợp, vận động, đoàn kết công nhân, người lao động. Quét mã để đọc bài trả lời phỏng vấn đăng trên báo 56 VỮNG TIN VÀO CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA Xà HỘI Ở VIỆT NAM 1TS. LÊ THỊ CHIÊN* 1. Những quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Tổng thống Nga V. Putin trong Thông điệp Liên bang năm 2005 gọi đó là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX”. Sự đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười, nơi khai sinh ra nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi là thành trì của chủ nghĩa xã hội hiện thực khiến cho các học giả tư sản được dịp lên tiếng phê phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác. Kể từ sau sự kiện gây chấn động lịch sử toàn thế giới đến nay đã gần 30 năm, các thế lực thù địch vẫn luôn ra sức tìm mọi cách lợi dụng, xuyên tạc, công kích và phủ nhận chủ nghĩa Mác. Đúng như bài viết của đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: “Từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút * Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Bài đăng trên tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 19/5/2021. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 57 mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá”. Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư đưa ra hai xu hướng xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội từ sự khủng hoảng và sụp đổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu: Một là, những người không có lập trường tư tưởng vững vàng nên khi sự kiện “chấn động toàn thế giới” xảy ra thì tỏ rõ sự hoang mang, hoài nghi về tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, đồng nhất sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn cho thấy xu hướng này xảy ra trong chính bản thân những người mácxít - những người đã từng tôn thờ chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội. Hai là, những đối tượng có lập trường phi mácxít, tư tưởng chống phá đã vin vào sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô để phủ nhận, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, bác bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của loài người. Xu hướng này trở thành làn sóng chống Mác, đòi xét lại chủ nghĩa Mác. Điển hình cho xu hướng này là phái tờrốtxkít mới. Họ cho rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác”; và bởi “chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”1. Họ cũng cho rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã xây dựng chỉ là một học thuyết “viển vông”, “ảo tưởng” nên áp dụng vào thực tiễn chỉ có thể sinh ra những “quái thai của lịch sử”2... Những luận điệu đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với các hình thức, diễn đàn khác nhau nhằm phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa 1, 2. Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.48, 47-48. 58 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Mác - Lênin. Xuất phát từ lập luận đó, họ cho rằng hiện nay “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”1; rằng, “con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang đi là trái với quá trình lịch sử - tự nhiên”; hay đó chính là “một khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản”2. Do đó, theo họ, Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà một số nước đã đi qua để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính những sự xuyên tạc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến lập trường, quan điểm của những người theo chủ nghĩa Mác. Biểu hiện rõ ràng nhất là xu hướng “phi mácxít hóa”, phân rã về tư tưởng, ly khai với học thuyết Mác - Lênin trỗi dậy mạnh tại hàng loạt nước từng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, cũng như trong nội bộ các đảng cộng sản, các đảng xã hội chủ nghĩa và phong trào công nhân quốc tế. Mặc dù sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã diễn ra 30 năm, nhưng hiện nay các phần tử cơ hội, phản động, xét lại vẫn coi đây là một cái cớ không gì thuyết phục hơn để tiếp tục phủ nhận chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác nói riêng. Ở Việt Nam, từ sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, có không ít người, trong đó có cả những người cộng sản đã hoài nghi về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đã xuất hiện những tư tưởng cơ hội đòi xét lại chủ nghĩa Mác, phủ nhận sự lựa chọn của Đảng Cộng sản Việt Nam vì họ cho rằng khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã sụp đổ nhưng Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một sự “kéo lùi lịch sử”, không tuân theo quy luật mà C. Mác đã từng khẳng định: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Như vậy, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là một cái cớ không gì thuyết phục hơn để các học giả phương Tây nắm lấy để công kích, 1. Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.48. 2. Ban Tuyên giáo Trung ương: Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.12. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 59 xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội. Điều này gây ra sự dao động, hoài nghi của không ít người Việt Nam, trong đó có cả những người đã từng đi theo chủ nghĩa Mác, ủng hộ, thậm chí tôn thờ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Đó là biểu hiện của xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ mà Đảng ta luôn nhắc đến trong những năm gần đây. 2. Sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam Chúng ta không thể phủ nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là một bước lùi lịch sử của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới. Đó cũng là một tổn thất to lớn cho phong trào đấu tranh vì những mục tiêu cao cả và tốt đẹp của nhân loại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và hạnh phúc của con người. Ngay cả khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào thoái trào rồi khủng hoảng, sụp đổ vào những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta vẫn luôn vững vàng niềm tin về tương lai của lịch sử loài người là chủ nghĩa xã hội: Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1; “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”2. Trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây”. Điều này chứng tỏ, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một hành trình trong cả nhận thức và bước đi, trong cả tư duy lý luận và thực tiễn 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 69, 70. 60 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... vận động, phát triển. Bài viết đã cô đọng, khái quát lại những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Đó là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Bài viết còn nhấn mạnh lại những vấn đề cơ bản về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở Đại hội IX, Đảng ta đã đưa ra nội hàm rất cụ thể, rõ ràng về việc “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”1. Tuy nhiên, phần do mơ hồ về nhận thức, phần do có tư tưởng chống phá, nhiều đối tượng đã cố tình bóp méo, xuyên tạc về việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Họ cho rằng “việc Đảng Cộng sản Việt Nam nói về vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là chủ quan, duy ý chí, trái với quy luật khách quan”2. Vì vậy trong bài viết, đồng chí Tổng Bí thư đã khẳng định rõ 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.130-131. 2. Cục Tuyên huấn: Phòng, chống âm mưu, thủ đoạn tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.26. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 61 ràng thêm: “Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Luận điểm này không chỉ tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn quan điểm của Đảng ở Đại hội IX mà đề ra nguyên tắc quan trọng trong việc kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong xây dựng ở Việt Nam. Đó là phải dựa trên quan điểm khoa học và phát triển. Bài viết cũng đã chỉ ra những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các phương diện mà nước ta đã đạt được qua 35 năm tiến hành đổi mới, đặc biệt là những kết quả mà Việt Nam đã đạt được trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2020. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định lại nhận định của Đại hội XIII khi đánh giá những kết quả mà đất nước ta, nhân dân ta đã đạt được qua 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Bên cạnh đó, bài viết cũng chỉ ra những khuyết điểm, hạn chế và những thách thức mới phải đối mặt trong quá trình phát triển đất nước. Bài viết khẳng định những hạn chế, khuyết điểm đó là không thể tránh khỏi nên “cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả”. Qua bài viết, đồng chí Tổng Bí thư vẫn tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, thành công hay thất bại phụ thuộc phần lớn vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, 62 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đây là một luận điểm quan trọng đã chỉ ra cách thức, nguyên tắc trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa, để cho những nhân tố đó ngày càng chiếm ưu thế và đi đến chiến thắng trong các mặt của đời sống xã hội. Để làm được điều đó cần phải có đường lối lãnh đạo đúng đắn, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đây là một trong những nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đã được đồng chí Tổng Bí thư chỉ ra trong bài viết. Đó không chỉ là kết quả của quá trình phát triển lý luận mà còn cả tổng kết thực tiễn từ công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển của Việt Nam trong những năm gần đây. Từ việc nhận định: “Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”, bài viết đã chỉ ra những cách thức, giải pháp để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo đồng chí Tổng Bí thư, điều quan trọng nhất là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Ngoài ra, cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống. Luận điểm này của đồng chí Tổng Bí thư đã nhấn mạnh và làm sáng tỏ thêm quan điểm của Đại hội XIII về việc kiên định, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn mới: “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 63 đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”1. Có thể khẳng định, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có ý nghĩa rất quan trọng đối với đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong bối cảnh Đảng ta đang đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt, đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư vừa có ý nghĩa quan trọng trong việc thống nhất nhận thức, tư tưởng về những nội dung của Nghị quyết Đại hội XIII, vừa trực diện đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời tiếp thêm niềm tin, sức mạnh, tỏa sáng những giá trị văn hóa, con người Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đúng như bài viết khẳng định, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tuy còn rất lâu dài với nhiều khó khăn, thử thách; các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Mặt khác, các thế lực thù địch lại thường xuyên phủ nhận, chống phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, với lập trường kiên định, bản lĩnh vững vàng, quyết tâm cao, nỗ lực lớn và sự đồng sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ ngày càng rõ nét hơn, sự nghiệp đổi mới và phát triển ở Việt Nam sẽ ngày càng đạt được những thành tựu to lớn hơn. Chủ nghĩa xã hội sẽ vẫn luôn là tương lai của lịch sử loài người. Quét mã để đọc bài viết đăng trên tạp chí 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.40-41. 64 SỨC MẠNH NHÂN DÂN LÀ CỘI NGUỒN CỦA THẮNG LỢI* 1HẠNH QUỲNH tổng hợp Bày tỏ sự quan tâm đặc biệt đến bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, TS. Trần Khánh Dung, giảng viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, cho rằng: Bài viết thể hiện sự tâm huyết, luận giải về một vấn đề có nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp trên cơ sở cả lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Qua bài viết, cán bộ, đảng viên và nhân dân sẽ hiểu sâu sắc, toàn diện, đầy đủ hơn về định hình chủ nghĩa xã hội và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm của Việt Nam và quy luật chung trên thế giới. TS. Trần Khánh Dung cho biết, rất tâm đắc với phân tích của Tổng Bí thư về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Theo nhận định của TS. Trần Khánh Dung, qua bài viết này, phải chăng đã thấy dấu hiệu của việc xác định kinh tế tư nhân là chiến lược nhằm đáp ứng mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. “Để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn nữa, chúng ta phải có * Bài đăng trên báo Tin tức, Thông tấn xã Việt Nam, ngày 19/5/2021. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 65 thể chế thật tốt, khuyến khích tư nhân, không trói buộc, phân biệt tư nhân, bỏ cơ chế xin cho, đề cao tính sáng tạo... Có như vậy thì khát vọng một cường quốc kinh tế tương lai mới thành hiện thực”, TS. Trần Khánh Dung bày tỏ. TS. Trần Khánh Dung cũng đồng tình với phân tích của tác giả bài viết về những khó khăn, thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy thu nhập GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương của Việt Nam năm 2020 đứng thứ 106/186 quốc gia, vùng lãnh thổ. Còn theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), thu nhập GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương của Việt Nam năm 2019 đứng thứ 120/187 quốc gia, vùng lãnh thổ. “Có thể thấy, thành tựu nước nhà đạt được sau 35 năm đổi mới là rất to lớn. Song, chặng đường phía trước cũng rất nhiều gian nan, chông gai. Chúng ta có quyền tự hào về những con số tăng trưởng kinh tế đã đạt được nhưng cũng cần thẳng thắn nhìn nhận toàn diện để lấy đó làm động lực, nỗ lực cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa”, TS. Trần Khánh Dung nêu suy nghĩ. Sau khi đọc kỹ bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đại tá Nguyễn Văn Niên, nguyên Giám đốc Xí nghiệp Dược, Binh đoàn 12, đảng viên 60 năm tuổi đảng (trú tại phường Khương Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội) đặc biệt tâm đắc với phân tích của Tổng Bí thư khi nhấn mạnh: “Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển” và “Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại tá Nguyễn Văn Niên bày tỏ, ông vẫn thường nghĩ vì sao Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam lại quy tụ được những người ưu tú nhất vào hệ thống, hấp dẫn được cả dân tộc tham gia vào sự nghiệp vĩ đại? Đó chính là bởi mục đích, mục tiêu cao nhất của Đảng là vì lợi ích của nhân dân. Như luận giải rất rõ ràng của Tổng Bí thư, chủ nghĩa xã hội chính là hướng tới những giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn dân tộc, hài hòa với lợi ích của con người, xã hội vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. 66 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Với lý tưởng của những người cộng sản, giá trị đích thực, tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội là thực sự vì con người, vì sự phát triển bền vững cho thế hệ hôm nay và mai sau. Một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân, phục vụ nhân dân - Đại tá Nguyễn Văn Niên bày tỏ. Đồng tình với phân tích thẳng thắn của Tổng Bí thư về những khuyết điểm, hạn chế, những thách thức mới phải “đối mặt” trong quá trình phát triển đất nước, ông Nguyễn Văn Niên cũng vui mừng khi Tổng Bí thư nêu rõ: Chúng ta không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Đặc biệt, trên chặng đường chông gai sắp tới, Tổng Bí thư đã nhấn mạnh: “Bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình”. Theo Đại tá Nguyễn Văn Niên, thực tiễn từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã cho thấy, khi có được sự đồng lòng thì một dân tộc nhỏ bé cũng có thể trở thành vĩ đại. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược là minh chứng rất rõ đường lối đúng đắn của Đảng được sự tin tưởng của nhân dân đã đi đến thắng lợi trọn vẹn và vĩ đại. Nhưng ngày hôm nay, người dân có tin Đảng như đã từng tin trước đây hay không? Câu trả lời là có! Người dân vẫn một lòng tin Đảng, nghe theo Đảng, làm theo Đảng. Thế nhưng một thời gian chúng ta đã có phần kiêu ngạo, chủ quan, mắc bệnh rập khuôn, duy ý chí. Còn hiện nay, khi chúng ta tập trung phát triển kinh tế - xã hội thì khoảng cách giàu nghèo đang ngày càng gia tăng; văn hóa, đạo đức xã hội xuống cấp và đặc biệt là tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Những điều đó đang gây tâm lý hoài nghi, có nguy cơ làm xói mòn niềm tin vào Đảng trong nhân dân - ông Nguyễn Văn Niên đánh giá. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 67 “Để thành công trên con đường mà Bác Hồ, Đảng và dân tộc đã lựa chọn, việc tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng chính là nhân tố có ý nghĩa quyết định. Qua sự thẳng thắn, luận giải rõ ràng và từ thông điệp của Tổng Bí thư trong bài viết, chúng ta có thể tin rằng đất nước sẽ khắc phục được những khó khăn, trở ngại và đạt được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà trước mắt là đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có thu nhập cao”, ông Nguyễn Văn Niên bày tỏ. Quét mã để đọc bài viết đăng trên báo 68 MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA Xà HỘI VIỆT NAM: VỪA THEO ĐÚNG QUY LUẬT CHUNG, VỪA PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA ĐẤT NƯỚC 1GS.TS. TẠ NGỌC TẤN* Bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào, việc xác định mục tiêu và chọn đường để thực hiện mục tiêu bao giờ cũng là hai yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau tạo nên một trong những cơ sở quyết định sự thành công hay thất bại. Đây là vấn đề có tính quy luật, không chỉ xuất phát từ những suy luận hay khái quát lý luận mà được chứng minh trong thực tiễn lịch sử. Ở nước ta, một loạt cuộc vận động cách mạng trước khi Đảng Cộng sản ra đời đều thất bại. Nguyên nhân của sự thất bại nằm ở cả sự sai lầm trong xác định mục tiêu cũng như chọn sai con đường để thực hiện mục tiêu. Đi sang hướng đông “tầm sư học đạo” và tìm kiếm sự ủng hộ của các thế lực nước ngoài, hay khởi nghĩa vũ trang với những vũ khí thô sơ, nguồn lực nhỏ bé nhằm chống giặc ngoại xâm rồi xây dựng xã hội theo khuôn mẫu cũ với vua hiền, tôi trung, tất thảy đều không thắng nổi sự trấn áp của chính quyền thực dân và thế lực phong kiến. Mục tiêu đã sai thì không thể lay động, lôi cuốn nhân dân, tập hợp thành lực lượng mạnh mẽ để giành thắng lợi trong đấu tranh. Con đường và phương pháp đấu tranh quá cũ, không phù hợp với hoàn cảnh đương thời, lại bị những rào cản bởi nhận thức * Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương. Bài đăng trên tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 20/5/2021. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 69 sai lầm về mục tiêu, nên hầu như thất bại đã được báo trước. Đối với các mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu và Trung Âu, việc chọn mục tiêu chủ nghĩa xã hội là đúng đắn nhưng con đường thực hiện lại sai lầm; do buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; lơ là cảnh giác cách mạng; quan liêu, xa rời nhân dân; bảo thủ, thiếu phát triển sáng tạo nhận thức lý luận trong điều kiện thực tế đã thay đổi, v.v. mà dẫn tới đổ bể, cho dù đã có những thành tựu to lớn chưa từng có trong lịch sử loài người. Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ ràng trong Chánh cương vắn tắt của Đảng là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”1. Từ mục tiêu khái quát ấy, Đảng Cộng sản đề ra những mục tiêu cụ thể về các phương diện xã hội, chính trị, kinh tế hướng đến đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và phong kiến, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, mang lại tự do, bình đẳng cho nhân dân. Đồng thời, “Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”2. Như vậy, đường lối cách mạng dân tộc của Đảng ngay từ đầu đã gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập dân tộc với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa xây dựng lực lượng trong nước kết hợp với sức mạnh của các lực lượng cách mạng trên thế giới. Đường lối ấy đã trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, thành cơ sở vững chắc, ngọn nguồn quyết định cho sức mạnh dời non lấp biển của cách mạng. Trong suốt quá trình đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, trên cơ sở nền tảng ban đầu ấy, đường lối cách mạng của Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện, cụ thể hóa thành các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể, để lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, Đại thắng mùa Xuân 1975 làm sụp đổ hệ thống thực dân mới, bảo vệ độc lập, thống nhất Tổ quốc, cùng với các cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc, đưa đất nước tiến vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với hành trang quá nghèo nàn và trong điều kiện khó khăn chồng chất khó khăn. 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2, 6. 70 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Đất nước bị tàn phá nặng nề sau hơn 30 năm chiến tranh. Nền kinh tế nông nghiệp vốn đã lạc hậu, manh mún lại thiếu thốn về giống, phân bón, công cụ sản xuất, đất sản xuất thì ô nhiễm bom, mìn, chất độc. Công nghiệp nhỏ bé lại lâm vào khó khăn về điện, vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc, phụ tùng thay thế. Gánh nặng hậu quả chiến tranh về con người với hàng triệu người bị nhiễm chất độc hóa học màu da cam, thương tật do chiến tranh cùng sự chia rẽ phức tạp trong mối quan hệ xã hội đè nặng lên cả đất nước. Bên ngoài, các thế lực đế quốc cấu kết với một số kẻ phản bội thực hiện bao vây cấm vận. Đặc biệt, sau khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông và Trung Âu sụp đổ, chúng ta không chỉ mất đi những nguồn hỗ trợ quan trọng về kinh tế, kỹ thuật, mà khó khăn, phức tạp hơn lại làm suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội. Bằng sự kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, dựa vào thành trì nhân dân, lấy lòng dân làm cơ sở chính trị, Đảng ta đã “luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi” để vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong bối cảnh đã thay đổi của thế giới, dần dần hoàn thiện đường lối đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước. Trung tâm của đường lối đổi mới là mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được xác định cơ bản từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) và được bổ sung, hoàn thiện thêm trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Theo Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam được xác định theo ba mảng nội dung: Thứ nhất, mục tiêu chung, khái quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là 5 giá trị căn cốt, quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên nền tảng và sự bảo đảm bền vững cho hạnh phúc của nhân dân, hạnh phúc của con người. Đó là sự tiếp thu chọn lọc những giá trị tiến bộ nhất của những cuộc cách mạng trên thế giới kết hợp với khát vọng ngàn đời của dân tộc ta. Đó cũng là mục đích cao cả, tối thượng của chủ nghĩa xã hội và của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, nội dung “nội trị” hay đường lối đối nội. Đó là một chế độ xã hội “do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 71 sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”1. Những đặc trưng “nội trị” trên phản ánh sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta về những quy luật chung của lịch sử phát triển xã hội loài người, nhất là những thay đổi mạnh mẽ và những vấn đề lớn đang đặt ra trong thế giới đương đại. Cùng với đó là sự vận dụng hợp lý, sáng tạo vào điều kiện, tình hình cụ thể của Việt Nam theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Điểm hội tụ trung tâm của toàn bộ nội dung “nội trị” là nhân dân, nhân dân là chủ nhân của chế độ, chủ thể của công cuộc xây dựng và hạnh phúc của nhân dân là mục đích tối thượng. Mọi bộ phận, thành tố trong xã hội dù có xây dựng, vận hành theo hình thức và cơ chế nào cũng đều hướng tới hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Với ý nghĩa đó, nội dung “nội trị” trong mô hình chủ nghĩa xã hội mang đặc trưng riêng có của Việt Nam và chỉ có ở Việt Nam. Thứ ba, nội dung đối ngoại của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là: “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”2. Đây là cơ sở cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả cao. Mục đích của đường lối ngoại giao là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế, uy tín đất nước trên trường quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, tiến bộ của cả thế giới. Đó cũng chính là điều kiện bảo đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, thể hiện tính chất tốt đẹp của chế độ, vai trò tích cực, có trách nhiệm của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế. Đường lối đối ngoại này là sự phát triển sáng tạo riêng có của Việt Nam, không lệ thuộc và không lặp lại đường lối của bất cứ nhà nước nào khác, nhất là những quốc gia tự nhận là chủ nghĩa xã hội nhưng lại thực hiện những chính sách đối ngoại bá quyền đối với các dân tộc khác. 1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70. 72 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là thành tựu nhận thức lý luận quan trọng của Đảng, đồng thời là kết quả đúc kết từ thực tiễn sáng tạo sinh động của nhân dân, thể hiện tư tưởng, nguyện vọng và ý chí của cả dân tộc. Cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa từng có mà đất nước ta đạt được sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn, sáng tạo của mô hình đó. Những thành tựu to lớn đó cũng là minh chứng không thể rõ ràng hơn cho vai trò lãnh đạo của Đảng, người đã sáng suốt hoạch định và tổ chức thắng lợi đường lối xây dựng, phát triển đất nước. Quét mã để đọc bài viết đăng trên tạp chí 73 THÀNH TỰU TO LỚN - NIỀM TIN MÃNH LIỆT 1Trung tướng TRỊNH ĐÌNH THẠCH* Một nội dung được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dành phần lớn dung lượng trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đó là đưa ra hệ thống luận cứ để khẳng định tính tất yếu phải kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và dân tộc ta đã sáng suốt lựa chọn. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đi lên chủ nghĩa xã hội là quy luật hình thành, phát triển và giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi chưa có Đảng, các xu hướng cách mạng và phong trào yêu nước dù diễn ra hết sức sôi nổi, rộng khắp, thậm chí phải trả giá bằng những hy sinh, mất mát to lớn, nhưng cuối cùng đều chưa mang lại thành công. Cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước, vạch định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì ánh sáng cách mạng mới được soi rọi, chiếu sáng muôn nơi. Đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, trải qua các thời kỳ, giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn trước sau kiên định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Và trên thực tế, trong bất luận mọi tình huống, con đường và lý tưởng cao * Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 5. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, ngày 20/5/2021. 74 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... đẹp ấy chưa bao giờ bị xô ngã, lệch chuẩn, luôn là mục tiêu duy nhất và tối thượng mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân dốc sức hướng đến. Cũng bởi thế, trong những bước thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội, Đảng và dân tộc ta đã buộc phải đánh đổi bằng cả mồ hôi, xương máu của nhiều thế hệ con người Việt Nam để làm nên những thắng lợi kỳ vĩ, khiến thế giới phải kính phục, ghi nhận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam được thử thách bởi những biến cố lịch sử mang tính thời đại. Hơn nữa, trong suốt tiến trình cách mạng, kẻ thù đã không ngừng chống phá và chưa bao giờ buông bỏ dã tâm phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chúng luôn thực hiện mưu đồ hòng làm mờ nhạt, xóa nhòa lý tưởng, lay chuyển mục tiêu, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa thông qua các chiến lược chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh, chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ... Thế nhưng, với sự kiên định tuyệt đối với con đường, mục tiêu đã chọn, không một thế lực nào có thể làm lung lay, thay đổi hoặc chuyển hóa lý tưởng cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Tại Đại hội lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1. “Phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” - đó là sự khẳng định về dòng chảy chủ lưu của cách mạng thế giới; là chân lý thời đại mà mọi quốc gia, dân tộc phải hướng đến. Điều đó lý giải vì sao bạn bè quốc tế luôn ghi nhận, trân trọng và chủ động bắt tay hợp tác cùng Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam. Dưới chính thể của một nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; thiết lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện. Cùng với đó, Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế, có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt Nam 1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70. Phần thứ hai: DƯ LUẬN TRONG NƯỚC 75 hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (Ủy viên ECOSOC, Ủy viên Hội đồng chấp hành UNDP, UNFPA và UPU...), phát huy vai trò thành viên tích cực của Phong trào Không liên kết, Cộng đồng các quốc gia và vùng lãnh thổ có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN... Có thể nói, những kết quả đạt được trong mối quan hệ đan xen lợi ích đã củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cũng chính điều đó minh chứng cho sự ghi nhận, tôn trọng về thể chế, chế độ của Việt Nam; khẳng định uy thế, vị thế của một nước xã hội chủ nghĩa trên trường quốc tế, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong bài viết: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Chúng ta cũng tường tỏ rằng, trong tiến trình lịch sử, nhân loại đã phải chứng kiến và trải qua biết bao thăng trầm, biến cố ngoài dự tính; buộc phải ứng phó với các cuộc khủng hoảng và đại khủng hoảng diễn ra trên phạm vi khu vực và thế giới. Đặc biệt, năm 2008 - 2009, cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Thế nhưng, giữa bão táp khủng hoảng, Việt Nam lại tìm ra đường đi khác biệt từ chính sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tránh được nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế; sáng tạo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” để bứt phá đi lên. Hay trong hai năm gần đây, đại dịch Covid-19 cướp đi sinh mạng của hơn 3,4 triệu người; “tấn công” mọi ngóc ngách, khía cạnh đời sống kinh tế - xã hội; đẩy nền kinh tế toàn cầu vốn đang trong giai đoạn phục hồi mong manh sa lầy vào đợt suy thoái tồi tệ nhất. Trong hoàn cảnh ấy, Việt Nam còn phải oằn mình chống chọi lại những cơn siêu bão, những trận đại hồng thủy lịch sử, gây thiệt hại lớn nhất trong nhiều thập kỷ qua. Thế nhưng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, bằng sự “chung sức, đồng lòng” của toàn dân, kiên định theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã giúp đất nước vững tiến, vượt qua mọi khó khăn, thử thách. 76 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... Thế giới bày tỏ lòng cảm kích trước một Việt Nam sáng tạo, kiên cường khống chế, vượt qua đại dịch Covid-19; nể phục một dân tộc sâu nặng nghĩa tình, làm trọn nghĩa vụ quốc tế; thể hiện cao nhất và sinh động nhất tinh thần bất diệt của những người cộng sản hành động vì con người, vì dân tộc, vì đồng loại, vì nhân loại. Chính trong gian khó, bản lĩnh và trí tuệ của Đảng Cộng sản Việt Nam càng tỏa sáng; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa càng được khẳng định; sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, cùng sự năng động, sáng tạo tuyệt vời của con người Việt Nam càng được bừng sáng! Thật tự hào, khi cả thế giới lâm vào đợt suy thoái trầm trọng thì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2020 vẫn đạt 2,91% - mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới; đạt trung bình 6,8%/năm giai đoạn 2016 - 2019, nằm trong tốp 10 quốc gia đạt tăng trưởng cao nhất thế giới. Càng thêm tự hào, khi nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Như vậy, chúng ta có thể tự tin khẳng định: Phát triển theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội không chỉ là sự lựa chọn của dân tộc, là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam, mà là xu hướng tất yếu của thời đại. Hay nói theo cách khác: Chính những thành tựu to lớn, hiện thực sinh động trong quá trình phát triển đã khắc tạc nên niềm tin mãnh liệt về con đường cách mạng Việt Nam! Quét mã để đọc bài viết đăng trên báo 77 HIỆN THỰC ƯU VIỆT CỦA CHẾ ĐỘ SẼ PHỦ NHẬN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC 1Trung tướng, PGS.TS. PHẠM QUỐC TRUNG* Một trong những nội dung quan trọng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là khẳng định những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đã, đang từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống. Những giá trị cốt lõi đó là: Xã hội thực sự quan tâm, coi trọng con người, tất cả vì con người, mang lại tự do, hạnh phúc cho con người, làm cho con người có cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Con người được sống trong xã hội đề cao tình đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” như lời Bác Hồ mong muốn. Con người ứng xử đúng mực, thân thiện với môi trường để giữ gìn tài nguyên thiên nhiên cho thế hệ mai sau và phát triển bền vững đất nước. Con đường Việt Nam đang đi không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên mà là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, phù hợp với ý Đảng - lòng dân, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Kể từ khi lập quốc theo chế độ mới đến nay, Việt Nam đã trải qua chặng đường gần 80 năm. Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không hề bằng phẳng, trơn tru, thậm chí * Nguyên Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Chính trị, Bộ Quốc phòng. Bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, ngày 20/5/2021. 78 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA Xà HỘI... có lúc vấp váp, sai lầm, song với tinh thần cầu thị, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, dân tộc Việt Nam thêm một lần minh chứng với thế giới là không chỉ chiến thắng những kẻ thù cường bạo nhất thời đại mà còn nỗ lực chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, văn minh, từng bước tiệm cận gần hơn với những mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội - cũng là những mục tiêu tốt đẹp nhất mà nhân loại tiến bộ hướng tới. Danh nhân văn hóa người Đức J. Goethe từng nói, đại ý: Lý luận chỉ là màu xám, còn cây đời mãi xanh tươi. “Cây đời” được ươm mầm, chăm sóc và đang lớn lên, tươi cành xanh lá trên mảnh đất Việt Nam chính là cuộc sống của gần 100 triệu người dân được hưởng thụ hương thơm trái ngọt nhờ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa đã mang lại. Từ một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam vươn lên trở thành quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao, người dân đã chuyển từ nhóm thu nhập thấp sang thu nhập trung bình, trong đó một tầng lớp trung lưu, thịnh vượng đang hình thành, chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong xã hội. Giữa bộn bề, phức tạp của thời cuộc, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đang hoành hành, làm chao đảo nhiều quốc gia, dân tộc khiến hàng triệu người dân nghèo trên thế giới có nguy cơ lâm vào cuộc khủng hoảng nhân đạo thì hầu hết người dân Việt Nam vẫn được Đảng, Nhà nước và cộng đồng dốc sức chăm lo. Càng trong hoàn cảnh thiên tai, địch họa, dịch bệnh, tinh thần yêu nước thương nòi, ý chí cố kết cộng đồng, tình yêu thương chia sẻ của người Việt Nam càng tỏa sáng và trở thành một trong những giá trị văn hóa nổi bật làm nên sức mạnh Việt Nam, giá trị Việt Nam, uy tín Việt Nam trên thế giới. Những năm gần đây, Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước thực hiện hiệu quả những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Nhiều mô hình, sáng kiến của Việt Nam như giải quyết đói nghèo, bất bình đẳng giới; phòng, chống thiên tai; bảo đảm an ninh lương thực... đã được nhiều nước có điều kiện, hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam tham khảo, học hỏi kinh nghiệm. Đặc biệt, những thành công của Việt Nam trong việc ngăn chặn, kiểm soát, phòng, chống đại dịch Covid-19 đã được Tổ chức Y tế thế giới và nhiều hãng truyền thông quốc tế