🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Lột trần Việt ngữ
Ebooks
Nhóm Zalo
MỤC LỤC
Tự vựng riêng của sách nầy
Các chương:
Chương I - Gốc tổ ra sao?
Chương II - Việt ngữ đa âm trước Mã Viện
Chương III - Những đảo âm nội bộ trong chủng Mã Lai
Chương IV – Nguyên nhân mất mát D và GI của miền Bắc
Chương V – Tài ba của Việt ngữ
Chương VI – Vua Hùng lãnh đạo bao nhiêu bộ lạc
Chương VII – Mình với ta tuy hai mà vẫn cứ là hai, hay là Trò chơi xí cột của các đại danh từ Mã Lai Chương VIII – Con gái, đàn bà, mái đực trống, chồng vợ
Chương IX - Về hai loại từ Cái và Con
Chương X – Vùng núi An Tai hay là yếu tố Mông Cổ trong Việt ngữ
Chương XI - Một ngàn danh từ Phù Nam trong Việt ngữ miền Nam
Chương XII – Hoa Phật bị hạ bệ
Chương XIII - Yếu tố Mênalê trong Việt ngữ
Chương XIV – Sơ Đăng, một đân tộc đầu đàn
Chương XV – Tàn tích mẫu hệ trong Việt ngữ
Chương XVI – Xửa = Thiệt
Chương XVII - Trời và Ngày
Chương XVIII - Việt = Rìu
Chương XIX – Nghi vấn về tiếng Roi
Chương XX - Tự vựng bỏ túi
Chương XXI – Man di thượng hạng và man di hạng bét
Chương XXII – Trãi và Mã
Chương XXIII – Gió thống nhứt
Chương XXIV - Nhứt định không là song ngữ
Chương XXV - Để kết luận
Phụ lục
A - Người Jêh bí mật
B - Những con số ngộ nghĩnh
C - Sức sống mãnh liệt của ngôn ngữ
D – Vài nhận xét về các ngôn ngữ trong đại khối Mã Lai
E - Làm từ điển
F - Sự cạnh tranh ráo riết giữa danh từ của hai thứ Mã Lai
G – Tù, Sào là tiếng Tàu?
H - Nhựt Bổn và Khả Tu
I - Nhựt, Hàn và Việt Nam
K - Vớ
Sách tham khảo
*
TỰ VỰNG RIÊNG CỦA SÁCH NẦY
MIỀN DƯỚI: Định danh do miền Nam sáng tác từ non 300 năm nay để chỉ tổng quát ba quốc gia Phi Luật Tân, Anh Đô Nê Xia và Mã Lai Á, nhất là chỉ đảo Java. Khi nói đến cả ba quốc gia đó, thì quá dài nên chúng tôi dùng danh xưng nầy, mặc dầu nó chưa được toàn quốc nhìn nhận. Bình dân đọc sai là BÌNH DỨ.
Tên của các nhóm trên Cao nguyên: sách Pháp và sách Mỹ không thống nhất với nhau, cũng không thống nhất với ta. Chúng tôi dùng danh xưng mà dân ta dùng. Thí dụ Pháp viết TIAU, Mỹ viết CHRAU để chỉ các nhóm của bộ lạc MẠ. Chúng tôi bất kể Pháp Mỹ, gọi họ là MẠ và CÁC PHỤ CHI MẠ, vì Pháp và Mỹ sai. Thật ra thì danh từ đó là CAU bị dân ta đọc sai là CHÂU, nhưng nó chỉ có nghĩa là NGƯỜI. Họ tự xưng là MẠ trong nhóm chánh. Các phụ chi tự xưng là NUP, CHIN, Kâyông v.v.
TRÃI: Nói tắt nhóm Mã Lai làm chủ Hoa Bắc thượng cổ được Tàu gọi là Lạc bộ Trãi. MÃ: Nói tắt nhóm Mã Lai làm chủ Hoa Nam thượng cổ được Tàu gọi là Lạc bộ Mã. CHUY: Nói tắt nhóm Mã Lai làm chủ Hoa Tây thượng cổ được Tàu gọi là Lạc bộ Chuy.
Chúng tôi phiên âm ngoại ngữ theo Việt ngữ mà không dùng lối phiên âm quốc tế vì muốn sách được đại chúng Việt Nam hiểu.
CHƯƠNG I
GỐC TỔ RA SAO?
Từ vài mươi năm nay, nhiều nhà học giả Pháp và Việt đã nghiên cứu lịch trình tiến hoá của Việt ngữ trong vòng ba trăm năm nay, và đã khám phá ra một số sự kiện mới lạ.
Lần này chúng tôi thử đi xa hơn, trong thời gian và không gian, trong thời gian thì đi xa về sáu trăm năm trước, trong không gian thì đi xa từ Đông Bắc Á đến Đông Nam Á, rồi đến Trung Mỹ, thử xem cái Việt ngữ thượng cổ nó ra sao và đã tiến hoá cách nào cho tới ngày nay.
Sở dĩ các bậc đàn anh của chúng tôi chỉ đi có ba trăm năm vì quí vị đó đã thấy Việt ngữ là một ngôn ngữ riêng biệt, không có bà con trong không gian và thời gian, và văn kiện cổ của ta thì không có để các vị nghiên cứu.
Chúng tôi thấy khác rằng chúng ta thuộc chủng Mã Lai, mà có hàng trăm dân tộc khác cũng thuộc chủng Mã Lai, ở khắp thế giới và có cả tài liệu về ngôn ngữ Mã Lai trong sách vở của Trung Hoa, thành thử chúng tôi mới thám hiểm xa được trong không gian và sâu hơn trong thời gian.
Tuy nhiên đây chỉ là công trình của kẻ phá rừng, luôn luôn có khuyết điểm. Nhưng khi nền móng đã đặt ra rồi thì người sau cứ từ đó mà tiến lên, kẻ phá rừng gặp quá nhiều chướng ngại, còn kẻ khai thác một đám đất đã được khai quang sẽ có dịp đào sâu hơn.
Để chứng minh sự đồng chủng giữa hai dân tộc, khoa học dùng nhiều phương pháp trong đó phương pháp đối chiếu ngôn ngữ là một.
Nếu chỉ có hai dân tộc, thì sự đối chiếu đi thật sâu vào toàn thể cơ cấu của cả hai ngôn ngữ, tức một quyển sách thật dày cũng chưa đủ. Nhưng nếu là hai ba chục dân tộc thì không cần phải đi sâu đến thế mà sự giống nhau của một số danh từ là đủ rồi, nhất là khi các dân tộc ấy hoàn toàn không có liên hệ nhau hồi cổ thời.
Thí dụ chúng tôi cho rằng ta và Nam Dương không hề có liên hệ nhau hồi cổ thời, có nhà phê bình cãi lại rằng có. Mặc dù không có sử liệu chứng minh sự có liên hệ, chúng tôi cũng cố nhượng bộ nhà phê bình, vì sự kiện lịch sử ấy CÓ THỂ xảy ra được.
Nhưng Nhựt Bổn và Nam Dương thì hẳn là không. Chúng tôi có lên xứ của người Sơ Đăng, cả hai lần đều không được, thì ngay như Việt và Sơ Đăng, cùng chung địa bàn mà còn khó có thể tiếp xúc với nhau, thì Nhựt và Nam Dương không làm sao mà trao đổi ngôn ngữ với nhau được, trừ phi vào cổ thời, Nhựt đã di cư đi Nam Dương hoặc Nam Dương đã di cư lên Nhựt Bổn, chứ sự trao đổi ngôn ngữ và văn hoá thì sử không biết, mà lý trí của con người cũng khó lòng chấp nhận.
Chúng tôi đã ám chỉ đến một số danh từ, và chắc quí vị đã đặt thầm một điều kiện rằng danh từ ấy phải chỏ
một ý niệm của con người cổ sơ, mới nói lên được cái gì, chứ một danh từ chỉ một vật do một xã hội văn minh chế tạo ra thì nó có thể đi xa khắp toàn cầu, từ nước này sang nước khác. Thí dụ chúng tôi đã từ chối đối chiếu danh từ HỘP, mặc dù khắp Đông Nam Á đều có danh từ HỘP giống nhau, vì lẽ rằng hộp là vật dụng mà loài người biết quá trễ, và hơn thế, trong cổ vật Đông Sơn, không có cái hộp nào hết thì ta phải biết rằng vào đầu Tây lịch dân Đông Nam Á chưa làm được cái hộp, và tất cả mọi dân tộc đều học của Trung Hoa danh từ HẠP của họ.
Điều kiện mà quí vị đã đặt thầm ra trong bụng, sẽ được kính trọng và kính trọng đến mức triệt để. Chúng tôi đi về dĩ vãng, xa hơn thời nông nghiệp nữa, vì khi biết nông nghiệp thì các dân tộc đồng chủng đã tách rời ra mà sống riêng rẽ ở các địa bàn khác nhau, sáng tác danh từ không giống nhau nữa, và RUỘNG, LÚA, THÓC, không làm sao mà giống nhau giữa các dân tộc đồng chủng. Nhưng những danh từ như CÁI CÂY, CON MẮT thì dùng được.
Chúng tôi xin trình ra một biểu đối chiếu có mặt 28 dân tộc và theo dõi danh từ đối chiếu trong một khoảng thời gian ba ngàn năm.
Việt Nam: CÁ
Sơ Đăng: KÁ
Mường: KA
Xi Tiêng: KA
Mạ: KA
Mnong: KA
Kơđu: KA
Kôhô: KA
Lào: KA
Cụa: KA
Kâyong: KA
Núp: KA
Srê: KA
Halang: KAA
Bàna: KAA
Thái: BLÁ
Rađê: KAN
Giarai: KAN
Rôglai: ICAT
Người Châu Giang: KAN
Chàm: KAN
Khả lá vàng: AKA
Churu: AKAN
Đa Đảo: AKA
Nam Dương: IKAN
Kuy: QAKAA
Khả Tu: KAĐÓONG
Nhựt Bổn: SAKANA
Đáng lý vì chúng tôi nên chọn động từ ĂN, vì có người sẽ nghĩ rằng ĂN cổ hơn CÁ, nhưng chủng Mã Lai lại có đến hai động từ: ĂN và XƠI, họ chia thành hai khối, một khối nói XƠI, một khối nói ĂN, như thế là không còn thống nhứt nữa. Tuy nhiên CÁ không kém cổ sơ hơn ĂN một chút xíu nào hết. Loài người biết nói tiếng người, là đã sáng tác ra danh từ CÁ rồi vì cách sanh sống độc nhứt của họ, thuở sơ khai là HÁI LƯỢM, CÂU KÉO và SĂN BẮN.
CÁ có đầy đủ giá trị thượng cổ để ta dùng đối chiếu cho có hiệu quả.
Các dân tộc trên đây, đều được quý vị biết, trừ một dân tộc mà chúng tôi cần giải thích hơi dài dòng, đó là người mà trong biểu đối chiếu, ghi là người Châu Giang.
Trong tỉnh Châu Đốc có năm làng, mà dân ta gọi gộp là vùng Châu Giang. Dân ở đó, được người miền Nam biết là ai. Nhưng trong vòng mười năm nay, bỗng dưng họ tự xưng là Chàm, nhưng chúng tôi biết nguồn gốc của họ, nên để riêng họ mà không nhập chung với người Chàm.
Nội cái danh từ IKAN cũng đã cho thấy rằng họ là người Nam Dương chớ không phải là người Chàm vì người Chàm nói KAN.
Khi tổ tiên của người miền Nam di cư vào đây, sau năm 1623, thì có ba sự kiện xảy ra:
1. Người Chàm chạy vào đất Cao Miên lánh nạn, đều bị người Cao Miên bắt cóc làm nông nô, sử Pháp đã cho biết như vậy. Vì thế mà họ căm thù Cao Miên và theo Nguyễn Hữu Kính để trở về với ta, và được định cư ở Tây Ninh.
2. Trong khi đó thì người ở vùng Châu Giang lại được ưu đãi từ trước đến thời đó. Sự kiện sau, cho thấy rằng họ không phải là người Chàm nên số phận khác người Chàm tị nạn.
3. Sự kiện thứ ba là ta không gọi họ là Chàm, từ thuở ấy đến nay mà gọi họ là Chà Và. Chà Và là danh xưng phiên âm, ngày xưa chỉ dùng để trỏ người Java, khác với ngày nay mà Chà Và cũng chỉ người Ấn Độ. Tổ tiên của người miền Nam đã gọi họ như vậy, không phải vì các cụ thạo về dân tộc học mà chắc chắn là vì người Châu Giang đã tự xưng như vậy, chớ các cụ không thạo phân biệt các dân tộc cho lắm. Cho đến ngày nay người miền Nam cũng cứ gọi họ là Chà Châu Giang, mà không là Chàm Châu Giang.
Nhưng họ tự xưng là gì, tưởng không có gì quan trọng, trong cuộc nghiên cứu của chúng tôi. Chúng tôi chỉ nói ra những điều trên đây, để giải thích tại sao chúng tôi không nhập họ với người Chàm. Hai thứ người đó nói khác nhau, thì không nên nhập chung lại. Chúng tôi xin đối chiếu thử hai danh từ khác thì ta cũng sẽ thấy rằng họ nói y hệt như người Java và khác hẳn người Chàm!
TRỜI
JAVA: LANGIT
CHÂU GIANG: LANGIT
CHÀM: LINGIK
NGƯỜI
JAVA: ORANG
CHÂU GIANG: ORANG
CHÀM: URANG
Trước khi đi sâu vào lịch sử thành hình và các cuộc tiến hoá của danh từ CÁ của 28 dân tộc trên đây, chúng tôi xin trình bày sơ lược về khoa ngữ học.
Đó là một khoa học rất mới, nhưng không ấu trĩ chút nào hết, và khoa đó đã tìm ra một số luật ngữ về ngữ
học căn bản, có thể dùng được cho mọi trường hợp.
Một trong những cái luật đó là sự mọc đầu, mọc đuôi, rụng đầu, rụng đuôi thình lình của một danh từ, và đôi khi mọc và rụng ngay cả khúc giữa nữa. Thí dụ danh từ VITA của La Tinh thì trong Pháp ngữ, nó rụng chữ T giữa, chỉ còn lại VIA biến thành VIE.
Sự rụng và mọc do đâu mà ra thì chưa biết được, thí dụ BONUS của La Tinh thì trong Pháp ngữ, nó rụng mất cái đuôi US chỉ còn lại BON, nhưng trong Tây Ban ngữ thì trái lại cái đuôi lại mọc rất dài, hoá ra là BUENO. Cái đuôi mọc dài mà khúc giữa là ON cũng bị đổi ra là UE.
Thế thì đầu, đuôi nào cũng có thể mọc ra được cả, và cả khúc giữa cũng mọc và rụng như thường, mà không biết vì lẽ gì.
Một cái luật khác của nhà ngữ học M. Swadesh cho biết điều sau đây: cứ một ngàn năm thì một dân tộc biến dạng, hoặc thay thế hẳn danh từ của họ một lần và lối 20% danh từ bị biến dạng. Luật Swadesh chưa được các nhà ngữ học nhìn nhận và bị công kích dữ, nhưng riêng chúng tôi thì chúng tôi nhìn nhận, vì chúng tôi có chứng tích rằng luật ấy đúng, và các nhà tiền sử học trên thế giới cũng xác nhận rằng luật đó đúng khi họ so sánh văn liệu khắc trên các cổ thạch bi cách nhau một ngàn năm của một ngôn ngữ nào đó thì quả họ thấy có sự biến dạng, hoặc sự thay thế đó và quả con số ước lượng trung bình là 20% cũng đúng.
Thế thì khi Nam Dương, Nhựt Bổn và Việt Nam khác nhau, không có gì lạ hết vì ba dân tộc đó đã tách riêng khỏi đại khối từ nhiều ngàn năm rồi:
Nhựt Bổn: Makanai = thức ăn
Nam Dương: Makanan = thức ăn
Việt Nam: Đồ ăn = thức ăn
AI của Nhựt, AN của Nam Dương và ĂN của Việt Nam đồng nghĩa, tức có nghĩa là THỨC. Còn Việt không có MAK như Nhựt Bổn và Nam Dương vì Việt không mọc đầu, hoặc đã mọc và đã rụng, và ta sẽ biết lát nữa đây, danh từ Việt Nam đã rụng đầu hoặc chưa mọc đầu.
Còn hàng trăm luật khác nữa, nhưng chúng tôi chỉ cần hai cái luật đó mà thôi, trong chương này. Chúng tôi xin thưa thêm một điều này nữa, cũng có thể xem là một cái luật, nhưng nó dĩ nhiên quá, nên được chấp nhận ngay, không có đối chọi với nhau: là giữa các ngôn ngữ xa xôi, không liên hệ nhau, có thể có vài danh từ trùng hợp về hình dáng và về nghĩa. Thí dụ tĩnh từ BAD của Ba Tư và tĩnh từ BAD của Anh, cả hai đều giống hệt nhau và đều có nghĩa là KHÔNG TỐT. Nhưng các nhà ngữ học theo dõi lịch sử của hai tĩnh từ đó thì thấy rằng không hề có liên hệ nhau, và sự giống nhau chỉ là tình cờ.
Khoa ngữ học biết được điều này là sự trùng hợp ngẫu nhiên của danh từ trong các ngôn ngữ xa lạ với nhau, không bao giờ vượt quá con số 5 và không bao giờ lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên y hệt như vậy giữa 28 ngôn ngữ.
Con số 28 mà chúng tôi chọn, xoá được nghi ngờ rằng lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên, và con số mười ngàn từ mà chúng tôi đối chiếu trong một quyển sách khác, cũng xoá được nghi ngờ nói trên.
Chúng tôi chọn toàn là danh từ cổ và thượng cổ, và khi cứ nói rằng là ta vay mượn, thì dân tộc ta phải là dân tộc câm trước khi vay mượn động từ ĂN và XƠI.
Có thể nào mà vua Hùng Vương bỗng dưng bỏ ngôn ngữ của người, vay mượn toàn bộ ngôn ngữ Nam
Dương chăng? Hẳn là không. Người ta chỉ phải làm thế khi nào bị áp lực mạnh của kẻ thống trị, như Thất Mân Phúc Kiến đã mất ngôn ngữ vì bị áp lực mạnh của Trung Hoa. Nhưng thuở vua Hùng Vương nói CÁ thì ta chưa hề bị ai trị cả.
Chúng tôi đã đối chiếu một số danh từ Việt - Mã trên ti vi, và có bạn phê bình: “Không giống chút nào hết!” Thí dụ:
Việt Nam: Sắp xếp
Nam Dương: Siap-siap
Việt Nam: Mất (chết)
Nam Dương: Mati
Nhưng làm thế nào mà giống hệt nhau được khi mà hai dân tộc đã tách rời ra rừ nhiều ngàn năm và sống xa nhau đến sáu ngàn cây số (nếu tính từ Hà Nội).
Các bạn ấy đã quên mất sự kiện sau đây là Anh và Pháp chỉ sống cách nhau có một eo biển mười mấy cây số, tức liên lạc với nhau mỗi ngày từ cổ chí kim, và cũng đồng gốc Ấn Âu với nhau, thế mà từ cái gốc SABULUM của La Tinh, Pháp nói SABLE, Anh nói SAND chỉ giống nhau có SA lại bị hai dân tộc đó đọc khác nhau, tức không còn gì cả.
Dưới đây cũng là một cái luật ngôn ngữ, nhưng không được dùng trong chương này nên chúng tôi chỉ nói sơ qua: ngữ học chỉ kể âm đọc (phonème) mà không kể ký hiệu (gnaphique) vì ký hiệu của các ngôn ngữ thì bậy bạ hết. Về phonème thì SABLE và SAND khác hẳn nhau, nhưng SẮP XẾP và SIAP-SIAP thì giống nhau.
Khoa ngữ học phân biệt bốn loại giống nhau, một cách minh bạch:
1. giống nhau vì đồng chủng (Parenté)
2. giống nhau vì hợp chủng (Affinité)
3. giống nhau vì vay mượn hồi cổ thời (Emprunts aux temps archaiques)
4. giống nhau vì vay mượn hiện đại (emprunts)
Chúng tôi xin chừa ra sự giống nhau vì đồng chủng, vì đó là nòng cốt của chương nầy.
Hai thứ giống nhau loại nhì và ba, thường đi chung với nhau. Đó là trường hợp của Thái và Trung Hoa. Nước Tây Âu đã đón tiếp người Trung Hoa từ thời Đông Chu đến nay, cả trong những con số đếm của Thái từ 1 đến 10 cũng là tiếng Tàu. Con ONG được gọi là PHIÊNG tức là PHONG tức cũng tiếng Tàu và ông tri huyện được gọi là ông CHAOUU mà người Việt dịch là ông CHÂU, nhưng thật ra đó là ÔNG CHỦ (huyện). Đó là hợp chủng và vay mượn cổ thời.
Loại thứ tư thì không dân tộc, không ngôn ngữ nào thoát khỏi hết.
Nhưng ở đây, sử học và địa lý xen vào rất mạnh. Chúng tôi xin kể một kinh nghiệm bản thân. Chúng tôi đã đi đến xứ của người Sơ Đăng hai lần, nhưng đều thất bại cả mà lần đầu, do quân đội mời, tức có đầy đủ phương tiện, đi với cả làng báo Sài Gòn.
Thế mà người Sơ Đăng có danh từ LỒI ỐI mà họ dùng như động từ. Đó là một danh từ mà cả một số trí thức ta cũng không biết là gì. Tiếng Pháp nói là AMNIOS, nhưng một số trí thức Pháp cũng không biết là
gì.
Chỉ có các bác sĩ Việt Nam và các cô đỡ Việt Nam là có dùng danh từ quá chuyên môn đó mà thôi vì đó là danh từ thuộc về cơ thể học (Anatomie) và sản khoa, mà dân ta đã có từ thuở nào không ai biết.
Trong ngôn ngữ Sơ Đăng, LỒI ỐI là CÓ THAI. Nhưng trong Việt ngữ LỒI ỐI là túi da mỏng nằm giữa dạ con và bào thai, bọc lấy bào thai. Có lẽ ta biến nghĩa, còn Sơ Đăng dùng đúng theo từ thượng cổ vì trong LỒI ỐI có chữ LỒI tức KHÔNG LÕM, còn ỐI thì biết đâu lại không là cái bụng trong thời thượng cổ.
Hồi tiền chiến, các cố đạo Pháp và Việt có lên trên ấy giảng đạo. Nhưng các cố hẳn không có dịp dạy họ danh từ đó, nếu các cố có biết đi nữa.
Về sau này quân đội ta có trấn đóng trên ấy, nhưng chưa chắc quân đội giỏi tiếng Việt hơn các cố và nhất là không có thì giờ để dạy họ danh từ đó.
Vậy, không phải cứ sống chung nhau ở một địa bàn là có thể có ảnh hưởng qua lại với nhau. Càng không có thể có ảnh hưởng vì các dân tộc sống giữa họ và ta lại không có danh từ đó. Đừng nói chi cho xa, ngay như người Mạ ở Biên Hoà, cũng không có danh từ đó.
Còn ta với Nhựt thì học với nhau hồi nào mà ta nói CÂY SÀO (chống thuyền), Nhựt cũng nói KI SAO.
Trong khoa đối chiếu ngôn ngữ, các nhà ngữ học loại ra ba yếu tố chót rồi mới lấy yếu tố thứ nhứt để mà kết luận, muốn bác bỏ các ông phải đưa ra ba chứng tích sau, chớ không phải chỉ nói một tiếng: “có tiếp xúc” mà được với các ông.
Nhựt có đến buôn bán ở Hội An dưới thời Chúa Nguyễn nhưng vào thời đó thì họ đã văn minh rồi, ta cũng thế, không cần vay mượn nhau danh từ SÀO làm chi hết.
Những nguyên tắc tổng quát ấy đã trình ra rồi, chúng ta trở về với biểu đối chiếu là được. Người Khả Lá Vàng trốn tránh trong rừng đèo Mụ Già từ trên hai ngàn năm nay, chắc không có dịp học danh từ Aka của ai hết, còn quần đảo Marguises thì ở cách xa Hà Nội 15 ngàn cây số theo đường chim bay, người Việt Nam cũng không ra ngoài khơi Thái Bình Dương hồi nào để dạy họ danh từ Aka.
Muốn chứng minh rằng các danh từ trong biểu đối chiếu, đồng chủng với nhau, khoa học dùng phương pháp khác: tiền sử học và đối chiếu sọ. Công việc ấy chúng tôi đã làm rồi trong quyển sử của chúng tôi. Ở đây ta dùng ngữ học cũng cứ để làm công việc đó.
Thoạt nhìn vào bản đối chiếu, quí vị có cảm giác ngay rằng danh từ ấy đồng gốc, nhưng từ KA đến SAKANA cũng còn khá xa nhau. Nếu quả có sự đồng gốc thì sợ rằng 28 phần tử đồng gốc có những phần tử ngoan ngoãn vâng lời tiền nhơn, mà cũng có khá nhiều phần tử phiến loạn, những đứa con hoang của chủng tộc, chủng Mã Lai.
Vậy chúng tôi cần đưa những tay lang bạt kỳ hồ trở về hàng ngũ. Đây là một cuộc chiêu hồi để mời những anh lãng tử tung cánh chim tìm về tổ ấm vậy.
Chỉ hơi phiền là không biết tổ ấm ở đâu, và ra sao. Phải bắt tất cả nói SAKANA y như Nhựt Bổn, hoặc nói IKAN y như Nam Dương, hay nói KÁ y như Việt Nam? Chưa, chưa ai biết gì cả, kể cả chúng tôi cũng chưa biết gì về cái gốc tổ nó ra thế nào. Mà đừng tưởng rằng Nam Dương giữ đúng gốc tổ Mã Lai vì họ đang tự xưng là người Mã Lai. Chúng tôi đã có chứng tích riêng là họ đã biến bậy rất nhiều. Và vì thế, ở
đây, kẻ bị chúng tôi tình nghi hơn hết là Nam Dương.
Không phải vì chúng tôi thấy đa số nói KA mà tình nghi Nam Dương. Chúng tôi không dám áp dụng luật đa số trong địa hạt khoa học vì khoa học đã đưa ra một luận cứ rất vững: một sai lầm nhơn cho một triệu người thì nó thành một triệu sai lầm, chớ không thể thành sự thật.
Chánh trị chấp nhận luật đa số vì chánh trị có lý do riêng của chánh trị. Khi mà đa số biểu quyết chấp nhận một hành động là đa số sẵn sàng gánh chịu hậu quả tai hại của cuộc biểu quyết đó. Sự biểu quyết trong lãnh vực chính trị chỉ là một cuộc thí nghiệm. Khoa học không dám làm những cuộc thí nghiệm quá nguy hiểm như vậy.
Vậy chúng ta bắt buộc phải áp dụng phương pháp khác. Xin nhắc lại rằng chúng ta hồ nghi Nam Dương trước nhứt vì Nam Dương đã có tiền án, sẽ trình bày sau. Và Nam Dương bị bố ráp trước nhứt.
Đáng lý chúng tôi nên dùng danh xưng Miền Dưới mà không nên nói quá rõ là Nam Dương. Miền Dưới là cách xưng riêng của miền Nam nước Việt, đã được sáng tác từ trên hai trăm năm nay để gọi gộp ba quốc gia Mã Lai Á, Nam Dương và Phi Luật Tân, ba quốc gia có ngôn ngữ gần giống nhau là người Mã Lai.
Ở đó còn lắm phương ngữ, có thể tại Djakaria, người ta không nói là IKAN cũng nên, nhưng ở một vùng xa nào đó thì chắc chắn có ít lắm, là vài tỉnh nói IKAN. Nhưng vì đồng bào miền Bắc và miền Trung không hề biết có danh từ tổng quát là Miền Dưới, thành thử chúng tôi tạm dùng từ danh xưng quá chính xác là Nam Dương cho dễ hiểu.
Chưa kịp điều tra thì chúng tôi đã nắm vững trong tay bằng chứng là Nam Dương đã biến sai danh từ IKAN. Bằng chứng thấy được trong một danh từ khác, chỉ một loại chim mà người Việt Nam gọi là chim BÓI CÁ. Con chim BÓI CÁ, Nam Dương gọi là PƠRAKA.
Thế là hình thức AKA còn nguyên vẹn trong ngôn ngữ Nam Dương, không còn chối cãi được nữa.
Tiếp đầu chữ PƠR có nghĩa là BẮT. Thí dụ PƠPULÔ là “bắt phải cô lập nơi một cù lao”. PƠKARA là BẮT CÁ. Dân Việt Nam là nhóm Mã Lai rất tài tình khi ta biến PƠRAKA thành BÓI CÁ. Về phương diện âm đọc (Phonème) BÓI không khác PƠ tức là kính trọng cái Phonème của chủng tộc, nhưng động từ Bói lại nói lên được nhiều ý nghĩa hơn PƠR.
Những cái luật về ngữ học, các nhà ngữ học châu Mĩ chỉ đoán để lập luật, mà không hề thấy sự kiện. Thí dụ họ đoán rằng VITA của La Tinh rụng T giữa là biến thành VIE của Pháp, nhưng trong Pháp ngữ cổ thời không hề có dấu vết VITA.
Nhưng ngôn ngữ Nam Dương thì còn chứa chấp đủ cả các dấu vết xưa, vì chúng tôi sẽ chứng minh rằng PƠRAKA cổ ít lắm cũng ba ngàn năm. Nếu các nhà ngữ học Âu Mĩ dùng ngôn ngữ Nam Dương để làm tài liệu, thì họ được chứng kiến tất cả những thay dạng đổi hình hiện đang diễn ra nữa, chứ không phải chỉ có dấu vết xưa mà thôi.
Chúng tôi xin trình ra một thí dụ: ở Mã Lai Á, động từ CẠ, CỌ của Việt Nam, họ nói là KARKAS. Thình lình, cách đây không đầy một năm thì tại địa phương kia, vùng Kedah, bỗng dưng thiên hạ chặt đứt khúc giữa và chữ R rụng thình lình, chỉ còn lại có KAKAS.
Ngôn ngữ Nam Dương là tài liệu sống cho cho khoa ngữ học và là một cuốn phim chiếu lại những biến thái
của danh từ (Métamophose) từ trên hai ngàn năm nay, mà ta nhìn thấy được cả từng chi tiết tiến hoá.
Tuy nhiên, ngôn ngữ ở Việt Nam cũng không kém tách cách tài liệu sống chút xíu nào hết. Chắc có chị không biết cái MUỐNG là gì, bởi đó là một danh từ chuyên môn. Chúng tôi cũng không biết ở vùng Bắc Việt và Trung Việt, đồng bào ta dùng cái MUỐNG để làm gì, vì tự điển định nghĩa không được rành mạch. Riêng ở miền Nam nước Việt thì cái Muống là một cái lu dùng trong công nghệ làm đường.
Các từ điển xưa của ta, kí hiệu cho danh từ đó (Graphique) là MUẤNG đó là kí hiệu thật đúng với âm đọc (Phonème) cách đây 100 năm.
Ấy, cái MUẤNG, người Sơ Đăng gọi là cái UÂNG tức Việt Nam đã mọc ra cái đầu M. Nhưng cũng cứ món đó, nhưng người Mạ gọi là cái UÂQ, tức người Sơ Đăng đã mọc đuôi NG.
Chúng tôi xin trở lại danh từ AKA. Rõ ràng là Nam Dương đã rụng đầu A, mọc đầu I, lại mọc thêm cái đuôi N.
Bây giờ chúng ta moi luật của M. Swadesh ra để dùng. Cứ một ngàn năm thì một dân tộc biến dạng danh từ của họ một lần. Ta thí dụ IKAN chỉ mới có 400 tuổi. Thế thì IKA phải thọ 1400 tuổi, và AKA phải thọ 2400 tuổi, vì đã ba lần thay đổi hình dạng từ AKA đến IKAN.
Sự mọc đầu và mọc đuôi của các danh từ không nhảy vọt, và chỉ mọc ra dần dần như Uâq, Uâng, Muấng đã cho thấy và khi Muấng chỉ một vật dụng khác thì nó chỉ thay đổi có cái dấu thôi: Muấng( Muẫng( Muỗng.
Sakana của Nhựt Bổn không phải vừa xuất hiện là dài ngay, theo thuyết N. Marr của Nga Sô, mà nó giống hệt mũi Cà Mau, tức nhờ phù sa bồi đắp, nó mới dài lần dài hồi, khác hẳn với Makanai vì Mankanai là hai từ nhập lại, AI là tiếp vĩ ngữ (tiếp vĩ ngữ này nên hiểu theo quốc tế, Pháp và Việt, và không nên hiểu theo Nhựt. Danh từ tiếp vĩ ngữ của Nhựt mang một nghĩa khác hơn.)
Khi ta thí dụ rằng IKAN bốn trăm tuổi thì ta cũng thí dụ rằng AKAN một ngàn bốn trăm tuổi vì một cuộc biến dạng đòi hỏi một ngàn năm, theo luật Swadesh. Mặt khác, nhìn vào danh từ của dân Churu, ta biết rằng cái đuôi N mọc ra trước cái đầu A, bằng chứng Churu đã có đuôi người rồi, mà đầu cứ còn là A, tức I phải mọc sau.
Vậy AKA → AKAN → IKAN = 400 N + 1000 N + 1000 N = 2400 tuổi. AKA đã thọ đúng 2400 năm rồi.
Vậy ta chặt tất cả những cái đuôi N mới mọc sau của tất cả các dân tộc có đuôi N. Như vậy Churu chỉ còn AKA, Chàm, Rađê, Giarai, chỉ còn KA, Nhựt Bổn chỉ còn SAKA vì cái đuôi N bị chặt thì cái đuôi A cuối không còn dính với danh từ được nữa. Nhựt Bổn mất trọn âm NA cuối.
Vậy còn lại:
Đa số: KA
Trung số: AKA
Thiểu số: SAKA
Ta tha thứ Thái vì họ là Mã Lai thuộc chi khác chớ không phải chi Lạc như các dân tộc kia. Họ nói BLA là được rồi, đừng làm phiền họ.
Chúng tôi mới ra tay cho một hiệp đầu mà bao nhiêu khách giang hồ đều trở về gần với tổ ấm rồi đó. Ra
tay một lần nữa là thống nhứt hết cả, và sự đồng chủng có thể lòi ra một cách minh bạch.
Chữ S đầu của Nhựt Bổn và Q đầu của Kuy rất dễ loại, vì đã có tiền lệ chữ S đầu mọc thình lình. Thí dụ về danh từ LÁ, trong khi đại khối Mã Lai nói Lá thì ông Cao Miên đơn độc mọc ra cái đầu S.
Việt Nam: LÁ
Cổ ngữ Ba Thục: LẠ
Cổ ngữ Tây Âu: LÁ
Việt Nam: LÁ
Célèbes: HALA
Chàm: HALA
Sơ Đăng: HLA
Nam Dương: LAYU
Nhựt Bổn: HẠ
Cao Miên: SLAT
Ta có thể đặt S của Cao Miên thì ta cũng có thể chặt S của Nhựt Bổn.
Vậy còn lại:
Đa số: KA
Trung: AKA
Vẫn cứ còn một phần tử ngoan ngoãn và một phần tử phiến loạn. Phải giống nhau cả, hoặc phải có chứng tích rằng 1 trong 2 là gốc tổ thì ta mới xong phận sự. Nhưng ta chưa có chứng tích đó. Và ta tìm thử. Một câu chuyện bên Tàu có thể giúp ta biết sự thật vì dân Mã Lai, Nam Dương đã được biết là dân Việt ở Hoa Nam đời nhà Chu.
Câu chuyện này xảy ra tại Hoa Bắc, vào thời mà nước Sở đã thành lập rồi, tức không lâu hơn thế kỷ thứ 7 trước Tây lịch. Tuy nước Sở được thành lập do người Trung Hoa lãnh đạo, nhưng đa số dân chúng là người Việt, thuộc chi Lạc bộ Mã, và còn nói tiếng Mã Lai thuần túy. Ta biết như vậy vì có vô số danh từ của Sở, Ngô, Việt được Tàu phiên âm và so lại thì rất giống ngôn ngữ của Nam Dương. Nghĩa là không phải chỉ có Thất Mân mới là Lạc bộ Mã, mà toàn thể Hoa Nam đều là Lạc bộ Mã, trừ nước Tây Âu của chi Âu, tức của người Thái.
Trương Dung là một triết gia Tàu, mà các triết gia Tàu thì hay nói bóng nói gió.
Một hôm Trương Dung chỉ con chim hồng và nói với những triết gia đối lập với ông ta: “Cũng cứ con chimnày mà dân nước Sở gọi là chim ẤT, dân nước Việt gọi là chim PHÙ”.
Ý ông ta muốn nói rằng người đời bày đặt nói văn vẻ để che đậy sự thật, chớ nội dung cũng chỉ thế thôi. Quân xâm lược không nói rằng mình xâm lược mà nói là đi khai hoá man di.
Câu chuyện triết lý ở Hoa Bắc đó, thế mà lại cho ta biết rõ ngôn ngữ Mã Lai vào khoảng năm 700 trước Tây lịch.
Hiện nay con chim hồng được dân Miền Dưới chỉ bằng hai danh từ: Burong sama và Aka kơrapu Ông Tàu, vì có ngôn ngữ độc âm nên khi phiên âm, ông ta nuốt bớt âm của “Man di” và PHÙ đích thị là
BURONG SAMA, còn ẤT đích thị là AKA KƠRAPU.
(Dân ta đã mất danh từ đó và mượn danh từ HỒNG của Tàu, không biết được ta biến dạng như sao, nếu ta còn giữ được ngôn ngữ một cách trọn vẹn.)
Không phải mỗi lần người Trung Hoa cổ thời phiên âm danh từ ngoại quốc, họ đều nuốt hết âm, chỉ chừa lại một, nhưng họ đã có làm như vậy, có lẽ đối với những danh từ và danh xưng quá rắc rối, mà AKA KƠRAPU thì khá rắc rối, còn họ thì sống trước thời Tây Chu, tức chưa văn minh cao như dưới các trào Đường, Tống, chưa quen với ngoại quốc bao nhiêu.
Vào giữa đời Hán, tức sau thời nước Sở được thành lập một ngàn năm, người Tàu đã văn minh hơn, đã quen biết với ngoại quốc nhiều hơn, thế mà họ cũng còn nuốt âm.
Họ vay mượn danh từ Manga của Phạn ngữ (trái xoài) và nuốt âm A, chỉ còn lại MANG và Quan Thoại đọc là MÁNG, viết ra chữ, các cụ nhà nho đọc là MÔNG.
MANGA rất giản dị, họ đã giỏi hơn nhiều rồi, còn AKA KƠRAPU rắc rối hơn, họ lại kém hơn giữa đời Hán, thì cho rằng họ nuốt hết chỉ chừa lại âm ẤT, không có gì là gượng ép cả.
Thế thì AKA đã thọ 2700 tuổi chớ không phải 2400 tuổi. Nhưng có thể còn hơn thế kia, vì có thể IKAN đã được 1000 tuổi rồi, và hơn 400 tuổi của IKAN chỉ là một thí dụ phất phơ của chúng tôi: nếu IKAN có 1000 tuổi thì IKA phải có 2000 tuổi và AKA ba ngàn tuổi, tức dân Sở đã nói AKA rồi, nước Sở mới được thành lập.
Tới đây thì ta đã vào ngõ cụt, chưa biết gốc tổ là KA hay AKA. Thế nên chúng tôi phải đối chiếu một tiếng nữa, nó là đại danh từ, và chúng tôi sẽ ngược về 5000 năm trước và đi xa hơn trong không gian có thể được, để biết cái gốc tổ ấy, thật đúng nó ra sao.
(Chúng tôi tin rằng vua Hùng Vương nói AKA, chớ không nói KA và Việt ngữ, cũng như các ngôn ngữ gốc Mã Lai khác đều đa âm. Tại lưu vực Hồng Hà, ta bị nhiễm ảnh hưởng độc âm của Hoa ngữ và trở thành độc âm. Vua Hùng Vương đã nói AKA như người Khả Lá Vàng, là người đồng thời với vua Hùng Vương, nhưng vì lẩn trốn, họ không chịu ảnh hưởng ngoại lai, nên ngôn ngữ của họ không có biến.
Nhưng đó chỉ là trực giác, phải có chứng tích mới xong. Và biểu đối chiếu thứ nhì sẽ cho thấy rõ mọi việc)
Sơ Đăng: A = Tôi
Nam Dương: A KU = Tôi
Nhựt Bổn: (WAT) A KU (SHI) = Tôi
Khả Tu: KU = Tôi
Chàm Bình Tuy: CAU = Tôi
Việt Quảng Bình: TAU = Tôi
Rađê: KÂU = Tôi
Việt toàn quốc: TAO = Tôi
Việt toàn quốc: TÔI = Tôi
Đa Đảo: JA = Tôi
Đa Đảo: YA = Tôi
Churu: BLA = Tôi
Chàm: DAHLAK = Tôi
Việt thượng cổ: AI = Tôi
Khả Lá Vàng: AI = Tôi
Lào: ANH = Tôi
Rôglai: ANH = Tôi
Mạ: ANY = Tôi
Thổ dân Trung Mỹ: NI = Tôi
Ở đây, mặc dầu cũng không dám dùng luật đa số, nhưng chúng ta không sao mà không trực giác rằng âm A là âm chánh, chớ không phải âm KU.
Chúng tôi xin nói rõ là TA và MÌNH do ngữ nguyên khác tạo ra, chớ không phải là A hay AKU gì hết, và chúng tôi sẽ có dịp nói nhiều về hai ngữ nguyên lạ ấy ở một nơi khác.
Ở đây các phần tử phiến loạn còn đông hơn ở biểu đối chiếu trước nhiều lắm! Tuy thế, gốc tổ lại dễ truy ra hơn, vì có đường đi để ta đến đó, chớ ta không còn gặp ngõ cụt nữa.
Trước hết, chúng tôi xin trình ra chứng tích rằng hồi cổ thời dân ta nói Ai = Tôi, mà không có nói Tôi, Tao gì cả. Dấu vết còn rơi rớt lại thật rõ ràng trong Việt ngữ hiện kim.
Quý vị thử hình dung ra một đôi vợ chồng son trẻ, ở trong một căn nhà không có đệ tam nhân. Tối lại, người chồng mê đọc sách, người vợ hỏi:
“Gì mà nghe như có tiếng súng hở anh?”
“Ai biết đâu?”
AI rõ ràng là: Nào TÔI có biết gì đâu, vì TÔI bận đọc sách. AI không thể nào mà chỉ đệ nhị nhân hay đệ tam nhân được.
Thế là một sự kiện đã được biết chắc: vua Hùng Vương nói hệt như người Khả Lá Vàng, nói AI, chớ không nói TA, TÔI, TAO.
Và vua Hùng Vương cũng nói y hệt như người Khả Lá Vàng về các danh từ khác, tức nói AKA, chớ không nói KÁ, tức Việt ngữ đã đa âm. Nó bị độc âm sau thời Mã Viện. Đây chỉ là một chứng tích. Chúng tôi sẽ có nhiều chứng tích khác ở Chương kế.
Trong chương này, ta bận tâm nhận diện gốc tổ Mã Lai hơn là gốc tổ của riêng Việt ngữ.
Giải quyết xong vấn đề AI thượng cổ của Việt Nam, ta xét đến đại danh từ của người Chàm. Người Chàm cho mọc một cái đầu rất dài là DAHL, có thể không phải là một cái đầu mà chỉ là đại danh từ của thổ dân Mêlanê bị ghép vào với AKU rồi AKU mất đuôi U chỉ còn sót lại một mảnh là AK, nhưng âm A cứ là âm chánh chớ không là KU vì U đã biến mất.
Đa Đảo khi thì JA, khi thì YA, đổi đầu, nhưng cứ kính trọng âm A. Churu cũng thế, Lào, Rôgai và Mạ cũng thế.
Xét đến Watakushi của Nhựt là sự thật lòi ra.
Tra từ điển Nhựt - Hoa, chúng tôi thấy họ dịch WAT là NGÃ tức WÒ của Quan Thoại, còn SHI được dịch là TƯ tức SHI của Quan Thoại, đọc đúng hơn Wò. Nhưng họ không có đọc sai WÒ đâu. Họ thường dùng
chữ T để làm bức tường ngăn chặn giữa hai nguyên âm WÒ + AKU = WOTAKU. WOTAKU về sau mới biến thành WATAKU.
Đại danh từ ngôi thứ nhất của Nhựt thì là: Tôi Tôi Riêng.
Xin đừng thấy đó là kỳ khôi, bởi CHÚNG TA của họ là TÔI TÔI HAI ĐỨA, y hệt như ĐÔI TA của Việt Nam. Vậy thì TÔI là TÔI TÔI RIÊNG, là rất ổn.
Nhưng ta đã đi đến một phần sự thật rồi đây. Người Nhựt viết chữ như thế, nhưng khi đọc, họ nuốt âm. Nhưng họ nuốt âm KU mà không nuốt âm A. Thế thì đã thấy rõ âm A là âm chánh.
Âm A thì kẻ giữ được là người Sơ Đăng. Nhưng không vì thế mà ta kết luận được rằng gốc tổ là A. Còn một kẻ nữa nói rất dị kì. Đó là thổ dân ở Trung Mỹ. Họ nói NI. Nếu không biết họ là ai, ta đã loại NI ra. Nhưng thổ dân Trung Mỹ được xác nhận là Mã Lai thì phải lôi kéo họ vào hàng ngũ.
Riêng chúng tôi, chúng tôi biết họ gồm hai đợt Mã Lai y hệt như ở Việt Nam và ở Nhựt, bằng khoa ngôn ngữ tỷ hiệu. Thí dụ họ có những danh từ của Lạc bộ Trãi di cư cách đây năm ngàn năm mà ta đã đánh mất, nhưng Nhựt còn giữ được.
Momo = cây đào
Tobi = chim ưng
Ta không phải suy nghĩ lâu, cũng biết NI do đâu mà ra. Đó là một mảnh của ANY của người Mạ.
Có ANY rồi thì người Sơ Đăng và thổ dân Trung Mỹ mới tách đôi ra, một đàng mang A đi Tou Ma Rong, một đàng mang NY đi Trung Mỹ và biến thành NI.
Nhưng xin đừng tưởng rằng Mạ là gốc tổ. Ở đa số các biểu đối chiếu ta sẽ thấy rằng kẻ thủ vai trò đầu đàn là người Sơ Đăng chớ không phải người Mạ.
Vậy ANY là đại danh từ đã có từ thuở Lạc bộ Trãi di cư, tức cách đây 5 ngàn năm, theo tiền sử học. Nhưng có thể trước đó còn khác hơn. Nhưng ta chỉ có thể đi xa tới 6 ngàn năm là cùng, không đi xa hơn được, và có thể ANY đã được 1000 tuổi rồi, mới bị tách làm đôi.
Phụ chú
Xin thận trọng về luật Swadesh. Có những danh từ lì lợm và không bị biến dạng. Luật Swadesh có đúng, nhưng cũng có chỗ không đúng, thí dụ như những danh từ cứng đầu thì ông không nói đến. ANY là danh từ khá cứng đầu vì theo ước lượng của chúng tôi thì nó có thể thọ 6 ngàn năm rồi, đáng lý toàn thể danh từ đều biến dạng hết, nhưng nó thì còn.
Xin đừng ngộ nhận là ta chỉ mới bắt chước Chàm mà biến CAU thành TAU thuở ta nam tiến tới Quảng Bình. Biểu đối chiếu phải trình bày như vậy, để cho thấy rõ xâu chuỗi biến dạng: TÔI do TAO, TAO do TAU, TAU do CAU, CAU do AKU chớ không hề hàm ý thời điểm và nơi chốn. Có thể TAU đã biến dạng tại lưu vực Hồng Hà một ngàn năm trước khi xuống Quảng Bình vì ở Bắc Việt cũng có Lạc bộ Mã đến ở trọ với vua Hùng Vương 500 năm trước Tây lịch. Đó là tổ tiên của người Mường và thuở ấy Mường nói hệt như Chàm.
CHƯƠNG II
VIỆT NGỮ ĐA ÂM TRƯỚC MÃ VIỆN
Ta đã thấy rằng vua Hùng Vương, Hai Bà Trưng không nói Tôi, Cá, mà nói AI, AKA, và nếu ta biết rằng luật Swadesh đúng, thì ta không phải ngạc nhiên nữa.
Nhưng ta cần thêm chứng tích. Việt ngữ nằm trong đại khối Mã Lai ngữ, mà các nhà ngữ học đều cho rằng Mã Lai ngữ đa âm vì ảnh hưởng Ấn Độ tại Nam Dương thì làm thế nào mà Việt ngữ ở lưu vực Hồng Hà, không thọ lãnh ảnh hưởng Ấn Độ, lại đa âm được.
Chúng ta sẽ thấy rằng Mã Lai ngữ đã tự động đa âm hoá trước khi một số người Mã Lai di cư đi Nam Dương, ngược hẳn với quan niệm thông thường. Thế thì Việt ngữ cũng có thể tự động đa âm hoá được. Về chủ trương này, tưởng không cần phải chứng minh. Ta nói CÁM ƠN là nói tiếng Tàu. Người Khả Lá Vàng nói tiếng Việt cổ thời là TÔWAYKÔ, tức nói với tam âm. Một số người Đa Đảo cũng nói Tôwaykô. Đó là kẻ đã nói Ai, nói AKA.
Nhưng ta cần càng nhiều chứng tích càng hay. Ta thử nghiên cứu biểu đối chiếu dưới đây:
Việt Nam: XINH
Ra Đê: MSIN
Đa Đảo: SINI
Miền Dưới: ASAM ASIN
Chàm Bình Tuy: SAM
Nhật Bổn: SHAN
Theo nghĩa đen thì Asam Asin chỉ là CHUA MẶN. Tĩnh từ kép của Miền Dưới được dùng theo nghĩa bóng. Nhan sắc Chua Mặn là nhan sắc dễ ưa, tức XINH.
Các cô Sài Gòn thích ăn cóc ngâm nước muối, các cô gốc Hà Nội thích ăn ô mai thì phải chăng của Chua Mặn là của dễ ưa?
I – Các dân tộc đều độc âm hoá cái tĩnh từ vừa kép vừa nhị âm này và chỉ nói Mặn mà thôi, người Nam Dương thì còn giữ đúng hai từ.
II – Chàm Bình Tuy và Nhựt biến cái Phonème SIN khác xa Phonème gốc nó phải là ASIN, SIN, hoặc XINH hoặc SINI.
III – XINH của Việt Nam và SHAN của Nhựt Bổn đã bị quên nghĩa đen, còn các dân tộc khác thì còn nhớ cả hai nghĩa.
IV – Tại sao Việt và Nhựt lại quên? Vì họ tân tạo hai tính từ mới để diễn nghĩa đen là MẶN và SHIO và danh từ mới được dùng lối 200 năm là danh từ cũ chỉ còn mang nghĩa bóng.
V – Tại sao họ lại tân tạo tĩnh từ thứ nhì? Vì một tĩnh từ chỉ hai ý niệm thì không hay, thường gây rắc rối. Riêng Việt Nam, tân tạo MẶN rồi thì lại tân tạo MẶN MÀ nữa, và cũng cứ dùng tĩnh từ mới theo nghĩa bóng, có lẽ Mặn Mà còn non tuổi cho nên ta chưa kịp quên nghĩa đen của Mặn Mà.
Chúng tôi nói rằng Việt và Nhựt quên nghĩa đen của XINH và SHAN, chắc không ai tin. Nhưng ở cuối Chương quí vị sẽ thấy rõ là dân tộc nào cũng đã quên hàng ngàn danh từ cổ của họ. Việt Nam may mắn nhất thế giới là đại khối Mã Lai còn giữ được và tục ngữ ca dao ta còn nằm đó để làm chứng. Hễ trong tục ngữ ca dao có danh từ nào ta không hiểu thì ta cứ học các sinh ngữ quanh ta là hiểu ngay. Thí dụ không còn ai biết BÍT là gì nữa, cả trong câu tục ngữ MÂN SON BÁT BÍT. Nhưng còn hai trăm triệu người đang dùng mạnh danh từ đó. Đó là danh từ Mã Lai BIKA có nghĩa là SỨ. Đồ Sứ là tiếng Tàu mà ta vay mượn sau Mã Viện rồi quên Bít đi. Đó là luật Swadesh. Không có Mã Viện, ta vẫn quên một số danh từ như thường.
Cái may là các dân tộc gốc Mã Lai không quên giống nhau, hễ Nam Dương quên thì ta nhớ, ta quên thì Nhựt nhớ, nhưng ta may hơn họ là ta có học ngôn ngữ của họ còn họ thì không học ngôn ngữ của ta. Hiện ta rất bí về BÚA trong CHỢ BÚA. Nam Dương thì biết Búa là gì. Trái lại họ rất bí về CON CHIM MÚA (con Công) bởi họ đã mượn động từ Múa của Mã Lai. Nhựt Bổn lại rất bí về KI trong KIMONO, nhưng ta thì biết KI là gì. Ta rất bí về MAY trong MÁU MAY, nhưng Nhựt Bổn biết rõ MAY là gì.
Nhưng đó là chuyện về sau. Xin trở lại điều đối chiếu. Ta nghiên cứu tĩnh từ Asam. Asam là Chua, như đã nói (xưa kia ta cũng có Asam, nhưng ta đánh mất. Nam Dương còn giữ được cả hai Asam và CHUKA). Nhưng thật ra thì hồi cổ thời, nó chỉ là SAM. (Xin đừng lẫn lộn Sam này với SAM của Chàm Bình Tuy có nghĩa là Mặn).
A chỉ là tiếp đầu ngữ mới được thêm sau.
(A) sam = Trái chua
(Ma) sam = Giấm chua
(Ba) sam = Sữa chua (Yaourt)
Mỗi món chua, mỗi mang một tiếp đầu ngữ khác nhau. Thế thì Mã Lai ngữ xưa kia chỉ là độc âm. Việt ngữ cũng thế. Nhưng nó đa âm từ thời nào, có phải chăng là vì ảnh hưởng Ấn Độ?
Chúng tôi giải quyết rằng nó đa âm thuở dân Mã Lai chưa di cư đi Nam Dương. Ta nghiên cứu lại tĩnh từ ASAM ASIN thì rõ. Họ nói ASAM ASIN, nhưng họ cũng nói ASAM GARAM. Garam là Muối. Nhan sắc chua mặn hay chua muối, cũng thế thôi.
Biết danh từ MUỐI của họ rồi, biết thêm văn phạm của họ nữa thì một sự kiện vô cùng quan trọng sẽ lộ ra. Muốn diễn cái ý niệm BỎ THÊM MUỐI VÀO, họ không nói BUBỎ GARAM (Bubỏ = Bỏ thêm vào), mà thêm tiếp vĩ ngữ I, hoặc UI, nó hoá ra là GARAMI, hoặc GARAMUI.
Nếu họ đi Nam Dương rồi mới đa âm hoá thì ta đào đâu cho ra vĩ ngữ MUI để giữ lại hầu biến thành MUỐI, sau khi ta bị Mã Viện độc âm hoá?
Hình như quí vị không tin lối giải thích đó. Chúng tôi xin giải thích một cách khác nữa.
Người Chàm đã tự động và tự lực đa âm hoá từ lâu đời lắm rồi. Họ có tiếp đầu ngữ MƠM, MƠNG có nghĩa là LÀM và bị ta vay mượn, biến thành MẦN: “ Mi nói rứa, ta biết mần răng bây chừ?”
Có lẽ quí vị lại bác: “Chính người Chàm cũng thọ lãnh ảnh hưởng Ấn Độ từ đầu Tây Lịch”.
Chúng tôi chỉ mong cho quý vị bác như thế để đưa luận cứ lớn ra. Người Chàm Bình Tuy nói độc âm. Từ hai ngàn năm nay, ảnh hưởng Ấn Độ thừa thì giờ để tới Bình Tuy chớ không phải chưa kịp xuống Bình Tuy. Thế thì có phải chăng là ảnh hưởng Ấn Độ hoàn toàn không chi phối ngôn ngữ Chàm? Trong biểu đối chiếu, chúng tôi cố ý dùng danh từ Bình Tuy là SAM để quý vị thấy ngay rằng người Chàm Bình Tuy nói độc âm. Bao nhiêu âm của Chàm, đều bị Chàm Bình Tuy nuốt hết, chỉ chừa lại một âm độc nhất, bất kể ảnh hưởng Ấn Độ.
Người Chàm Bình Tuy không phải là người Chàm chăng? Đúng thế vì biên giới Chiêm - Phù Nam nằm tại Bắc Khánh Hoà Nhưng cả Phù Nam lẫn Chàm đều là Lạc bộ Mã, nói y hệt với nhau và đều thọ lãnh ảnh hưởng Ấn Độ cùng lúc với nhau. Quốc tịch chẳng liên hệ gì với vấn đề. Vấn đề là có ảnh hưởng Ấn Độ hay không và ảnh hưởng đó có chi phối ngôn ngữ hay không?
Người Cao Miên cũng cùng chung số phận với người Chàm, những ngôn ngữ có bao giờ đa âm hay không?
Ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm rằng một số người Mã Lai đã tự động và tự lực đa âm hoá ngôn ngữ của họ trước khi họ di cư đi Nam Dương. Việt ngữ ở trong khối đó, nên vua Hùng Vương mới nói AI, AKA, TÔWAYKÔ.
Hiện tượng sau đây trong Việt ngữ cũng là một chứng tích hùng biện tiết lộ tánh cách đa âm của Việt ngữ trước Mã Viện. Tất cả danh từ kép của ta đều gồm hai từ đồng nghĩa với nhau, không khác một nét.
Nhiều học giả, nhiều nhà văn phạm cứ chủ trương rằng từ thứ nhì trong danh từ, tĩnh từ kép của ta hoàn toàn vô nghĩa, chỉ thêm chơi cho êm tai. Thí dụ CÂY CỐI, MÚA MAY vân vân.
Ta quên hàng ngàn danh từ cổ. Khi ta lật quyển Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc thì ta thấy có vô số danh từ mà ta không hiểu, như MÂM SON BÁT BÍT đã viện dẫn đến khi nãy.
Có quả thật CỐI vô nghĩa hay không trong CÂY CỐI ? Không. Chủng Mã Lai có hai danh từ chỉ CÂY.
Khả Lá Vàng: KI
Mạ: KI
Nhựt Bổn: KI
Việt Nam: CÂY
Miền Dưới: KÂYU
Đa Đảo: KAIWI (ĐẢO FUGUSON)
Ra đê: KIÂO
Nhưng đồng thời họ cũng có:
Ngô, Việt, Sở: BÔ CỐC
Miền Dưới: BÔ CỐC
Việt Nam: CỐI
Nhựt Bổn: BÔKU
Đa Đảo: BUKÔ
Vậy CỐI chỉ là Cây, không hề vô nghĩa bao giờ hết và nó là danh từ thứ nhì của chủng tộc.
MAY cũng không vô nghĩa. Trong Nhựt ngữ MAI (I cụt) đích thị là MÚA. Và MÚA MAY cũng có nghĩa hẳn hoi. Nhưng MAY còn nằm trong ngôn ngữ ta, mặc dù ta không dùng động từ MAY nữa. Gió HEO MAY, là gió gì? HEO là biến dạng của HIU (hắt) còn MAY là MÚA. Gió đó LÀM MÚA cây cỏ dữ lắm, bằng vào câu tục ngữ: “ Gió heo may chẳng mưa thì bão.”
NỘI là gì trong ĐỒNG NỘI? NỘI cũng chưa biến mất, nhưng tuổi trẻ ngày nay tuyệt đối không biết, nếu họ không có đi học, không có nghiên cứu truyện Kiều.
NỘI chỉ là ĐỒNG mà thôi. Đó là danh từ của Lạc bộ Trãi, được dùng mạnh ở Nhựt Bổn, dưới hình thức là NÔ còn ở xứ ta thì hầu gần như bị quên.
Danh từ cũng có đời sống như sinh vật, có sinh, bịnh, lão, tử, thế nên mặc dầu không bị ảnh hưởng ngoại lai, cũng có thể mất, bằng chứng là Nguyễn Du chỉ mới đây thôi, thế mà người đã dùng mạnh danh từ NỘI, còn ta thì đã hết dùng danh từ đó rồi.
Nhưng Tây lại không hề bắt ép ta bỏ danh từ NỘI. Chính luật Swadesh đã chi phối tất cả. Khi chúng tôi nói rằng ta bị độc âm hoá sau Mã Viện là chúng tôi chỉ mượn thời Bắc thuộc để chỉ thời điểm chứ không có ý gì đổ lỗi cho Mã Viện cả đâu. Vả lại Mã Viện chỉ có mặt mấy năm rồi đi mất thì làm sao kịp thi hành biện pháp sâu rộng nào. Nhưng quả ta đã bị nhiễm ảnh hưởng độc âm của người Tàu khi ta tiếp xúc lâu dài và nhất là theo học với họ.
Nhưng tổ tiên ta đã nhiễm bịnh nhưng vẫn còn nhờ dấu tích tiền nhơn mà họ hoài cổ khi họ tạo ra danh từ kép để nuôi nấng cái ảo tưởng rằng họ còn đa âm như trước đó.
Một danh từ gồm hai từ hoàn toàn đồng nghĩa là một chế tạo rất vô lý. Nhưng tổ tiên ta không vô lý. Họ chỉ tạo ảo tưởng đa âm khi chợt thấy là họ bị độc âm, và chợt ngậm ngùi nhớ xưa.
Không còn ai biết NHỎ NHOI là gì cả. Nhưng những người thạo tiếng Thái thì hiểu, nếu họ chịu nghiên cứu. NOI là NHỎ trong Thái ngữ. Chẳng còn ai biết Sá là gì trong ĐƯỜNG SÁ. Nhưng khi ta nói ĐÀNG SÁ thì Nam Dương nói TÀNG SÁNA. Sána là hướng, là phía của con đường.
Chẳng còn ai biết BÚA là gì cả trong CHỢ BÚA nhưng Miền Dưới biết rất rõ. BÚA là HỚ trong giá cả. Chợ búa là nơi con người thường mua hớ.
Chúng tôi bắt được dấu vết độc âm hoá của Việt ngữ, nó gồm năm phương pháp sau:
I) Ta tách đôi một danh từ Mã Lai ra làm hai âm khi nào danh từ đó mang hai nghĩa. Thí dụ KAYA, Kaya được người Miền Dưới dùng với cái nghĩa là LỚN như BIỂN CẢ, NGHIỆP CẢ, và GIÀU.
KA/YA = Cả + giàu
Với KA, ta chỉ thêm dấu hỏi. Nhưng với GIÀU thì ta thêm cả một nguyên âm U.(Về phương diện Phonnème thì YA giống hệt GIA nên kể như YA không bị biến dạng).
Chúng tôi cho rằng ta nói tiếng Mã Lai đúng hơn người Chàm, không ai tin cả, kể cả người Chàm cũng không tin. Nhưng trong Chàm ngữ thì KAYA là QUÀ BÁNH chớ không có gì là CẢ là GIÀU hết như trong Mã ngữ và Việt ngữ. Còn giàu của Chàm là MƠ TÀ.
Trái lại ta với Nam Dương thì đã giống hệt nhau ở KAYA lại giống hệt nhau ở Quà:
Việt Nam: Quà
Nam Dương: Kúé
II) Ta tách đôi một tiếng Mã Lai để làm một danh từ Kép mà từ thứ nhì hoàn toàn vô nghĩa vì danh từ Mã Lai ấy chỉ mang có một nghĩa. Thí dụ KUYU.
KU/YU = Cù Dù = Buồn thảm
Tuy nhiên rồi ta vẫn cố cho nó một nghĩa,
KU/YU = Cú Vọ
Chúng tôi không bao giờ thấy con Vọ. Vài cụ tả thì ra đó là con chim mèo (Chat huant) và Vọ chỉ được sáng tác bâng quơ rồi gán đại cho một con chim đã có tên rồi.
III) Ta tách hai một danh từ Mã Lai và lần này thì ta không còn làm sao mà gán từ thứ nhì cho ai được nữa, ta đành để nó vô nghĩa thực sự. Thí dụ: LƠ LÀ.
Lo/lai = Lơ là (là vô nghĩa)
IV) Ta nuốt hết tất cả mọi âm của Mã Lai khi nào danh từ mang ba âm sấp lên và chừa lại một độc nhất: Kơmarau = Ráo
Kơma đã bị nuốt chửng, chỉ còn lại cái đuôi Rau ( Ráo.
Tơmbikar = đồ sứ
Tơm và Kar bị nuốt chửng chỉ còn lại khúc giữa BIK ( BÍT (mâm son, bát bít)
V) Ta dịch khi nào danh từ Mã Lai là một danh từ kép mà trong đó gồm hai từ chung cho Trãi và Mã. Cái từ riêng ấy bị ta thay bằng một từ riêng của Trãi. Đây là trường hợp ngộ nghĩnh hơn hết trong các phương pháp độc âm hoá.
Thí dụ danh từ SOAN (cây soan). Danh từ ấy dưới thời Hai Bà Trưng không có giản dị như thế đâu.
Trong quyển Tục ngữ phong dao, ông Nguyễn Văn Ngọc ghi câu tục ngữ sau đây:” Ăn cây táo rào cây soan đâu” rồi thì ông đánh một cái dấu nơi chữ ĐÂU, chua ở dưới là ĐÀO. Thế nghĩa là ông đã quên ĐÂU là gì, và chua như vậy là một lối giải thích riêng của ông. Nhưng đáng kính ông lắm là ông đã ghép y như đã nghe thiên hạ nói chứ không tự ý sửa đổi. Nếu ông đã sửa đổi thì từ năm sách này ra đời đến nay, 40 năm đã qua rồi, chưa chắc câu tục ngữ ấy còn được ai nói đến nữa và dấu cũ đã bị xoá.
Nhưng dấu cũ còn và ta sẽ biết SOAN ĐÂU là cái gì. Chữ ĐÂU đã bị miền Bắc sửa lại là ĐẤU (chung lưng đấu cật) Nhưng nếu miền Bắc không sửa, còn nói là ĐÂU như miền Nam, thì cũng không ai biết SOAN ĐÂU là gì. Nhưng học tiếng Nam Dương rồi thì biết cây soan, Nam Dương gọi là : KAYU ĐOAN MAMBU.
MAMBU là Nhỏ và ĐẤU LẠI (Feuilles composées) vì có một loại soan có lá như thế. Còn Đoan là danh từ thứ nhì của chủng Mã Lai, chỉ LÁ, mà ta đã đánh mất.
Vậy cây soan đâu là cây lá nhỏ và đâu (đấu) lại. Ta biến KAYU thành CÂY, ĐOAN thành SOAN, MAMBU là tĩnh từ riêng của Lạc bộ Mã, nên ta không dùng, mà dịch là ĐÂU, ĐÂU có nghĩa tương đương với MAMBU.
Nhưng khi SOAN đã bị quên rằng là LÁ thì không còn ai biết ĐÂU, ĐẤU là gì nữa hết, cho dẫu nó ở dưới hình thức nào đi nữa.
(Tên của loại cây ấy có một lịch sử rất ngộ nghĩnh qua ba hình thức sau đây:
Cao Miên: So Đau
Miền Nam: Sầu Đâu
Miền Trung: Sầu Đông
Vậy, ai học của ai? Thấy rõ là Cao Miên đã học của Việt Nam, hay của Phù Nam hồi cổ thời vì Phù Nam có ngôn ngữ như Nam Dương. Ta biết được rằng chính họ đã học vì hai tiếng So Đau của họ chẳng có nghĩa gì dính líu đến LÁ và ĐÂU cả. Đó là họ mượn âm đọc chứ không phải dịch mà cũng không phải là đồng gốc.
Nhưng miền Trung và miền Nam thì rõ là đã học của Cao Miên, vì SOAN ĐÂU không thể biến thành SẦU ĐÔNG, SẦU ĐÂU, mà SO ĐAU của Cao Miên thì có khả năng đó.
Chúng tôi tạm xem như Cao Miên học của Phù Nam, còn miền Trung thì học của Cao Miên; qua đèo Mụ Già, hồi nước Cao Miên còn ở Trung Lào).
Dân ta đã quên Việt ngữ hết. Chúng tôi đối chiếu PRI của Mạ và Rừng của ta, trong quyển sử, đã bị công kích dữ. Nhưng cứ lật Nguyễn Văn Ngọc mà xem:
Miệng tu hú ăn lở rú lở ri.
Phải chăng RI là tiếng Việt cổ có nghĩa là Rừng?
Chúng tôi cho rằng VĂN LANG do CAU SỌC mà ra, cũng bị chê là nguỵ biện. Nhưng tại sao MO CAU không gọi là Mo Cau mà gọi là MO NANG? Vì tổ tiên ta gọi Cây Cau là Cây Nang. Danh từ Cau chỉ mới có đây thôi vì luật Swadesh.
Thương Việt: PƠNANG
Chàm: NÂNG
Nam Dương: PINANG
Cổ Việt: NANG
Còn sọc thì
Nam Dương: BƠ LANG
Thương Việt: VLANG
Nam: VẰN
Bắc: RẰN
Ta biến thành
Văn Lang: Nang Vlang = Cau Sọc
Bị các nhà nho cho ký hiệu Con trai xâm mình.
Cứ lật Nguyễn Văn Ngọc ra là học được hàng tá danh từ Mã Lai, Nhựt Bổn, Trung Mỹ. Cô kia có tính dở hơi
Nấu cơm ra cháo, nấu khoai ra bù.
Chẳng ai biết BÙ là gì cả kể cả Tự điển Khai trí Tiến đức. Bù là cháo. Cháo là tiếng Tàu nó đã đẩy Bù ra khỏi Việt ngữ sau Mã Viện, nhưng Bù cứng đầu, di cư vào Trung và Nam dưới hình thức Bồi = Cháo đặt.
Mạ: PÒ
Churu: PÒ
Lào: PÒ
Kôhô: PÒ
Sơ Đăng : HÒ
Cao Miên: BOBO
Nam Dương: BÙBO
Nam Việt: (CHÁO) BỒI
Nguyên nhơn làm mất ngôn ngữ chỉ xảy ra ở Bắc Việt dưới thời Lê Trịnh. Lưu dân đi Trung, đi Nam cứu vãn được khá nhiều danh từ mà GHE là một.
Có người đưa ra câu hỏi sau đây: “Tiếng ta vốn đa âm, nhưng đã bị chận đứng sau Mã Viện. Bây giờ có nên tái khởi hành cho nó đa âm trở lại hay không?”
Câu hỏi này, tưởng không nên đặt ra vì quyền lực ở trong tay dân chúng, chớ không ở trong tay ta. Nếu họ muốn thì họ cứ cho đa âm, bằng không, ta không làm sao mà bắt ép họ được.
Nhưng chủ trương sau đây thì nên chận đứng: Bỏ gạch nối liền, viết dính các danh, động, tĩnh từ kép lại.
Ta nên chận đứng nó vì nó sẽ làm cho ta bối rối lắm, không còn biết đầu đuôi ra sao nữa, trong vài chục năm tới, cái hoạ mà hiện Nhựt đang mắc phải.
Ta thấy, mặc dù có những danh từ viết dài, người Nam Dương không bao giờ viết dính các danh từ ngắn của họ. Thí dụ: XÀO XẠC thì cứ là SOK-SEK; CHUA MẶN thì cứ là Asam Asin, để còn biết ngữ căn ở đâu. Họ làm y hệt như Tây, dùng tiếp đầu ngữ, tiếp vĩ ngữ, nhưng chỉ có vài cái như Pháp. Thí dụ Pháp có tiếp vĩ ngữ ABLE chỉ sự có thể được thì Nam Dương có AN, dùng hoài hoài, trong mọi trường hợp:
Makan = Ăn
Makan + an = Ăn được
Thế nên nhìn vào một từ dài là họ biết ngữ căn ra sao rồi.
Nhật Bổn thì trái lại, làm hệt như đề nghị của Việt Nam trên kia, nên giờ có lắm tiếng dài họ quên mất nghĩa của các phần tử hợp thành.
Thí dụ trong Nhựt ngữ, cần lấy động từ Makan mới xong. Nhựt đã đánh mất động từ ấy của họ, chỉ còn giữ
được trong môi trường hợp độc nhất là MAKAN - AI có nghĩa là THỰC PHẨM. Nhưng AI lại không phải dùng hoài hoài để chỉ phẩm chất, thành thử nhìn vào MAKANAI họ không biết nó do đâu mà ra nữa. Đó là hai từ Makan và Ai bị viết dính, và khi quên nghĩa của một, thì chẳng biết nghĩa của từ khác.
Trường hợp điển hình là hiện họ đang bí về phần tử KI trong KIMONO, y hệt Việt Nam bí về BÚA trong CHỢ BÚA, và Nam Dương bí về MÚA trong con CHIM MÚA.
Họ biết MONO là MÓN, nên họ dịch ra tiếng Tàu là Vật. Thế thì KIMONO là hai từ rời được viết dính, nhưng không theo luật nào cả nên họ quên mất KI là gì, và dịch càn là MẶC. MÓN MẶC thì rất ổn, nhưng đó là dịch vì đoán hiểu chớ không phải vì biết, vì ở các chữ KI rời, không hề có chữ KI nào được dịch là MẶC hết vì cái lẽ dễ hiểu rằng KI không bao giờ có nghĩa là MẶC trong Nhựt ngữ.
Nghiên cứu ngôn ngữ của Lạc bộ Trãi xong, ta mới biết KI là gì. Tất cả âm AI của Lạc bộ Trãi đều biến thành âm I của Nhựt:
Cây = Ki
Trái = Ki
Vậy KI trong KIMONO, chỉ có thể là Cài (nút)
Tại sao lại là Món Cài (nút)? Ai biết đâu! Có lẽ trước khi KIMONO được phát minh, loại áo xa xưa hơn được cột bằng dây chăng?
Đó là chúng tôi đoán hiểu vì thấy từ điển Nhựt bối rối vì quên nghĩa của KI. Những chữ KI rời không bao giờ được dịch ra tiếng Tàu là TRƯỚC tức MẶC, thế mà thình lình KI trong KIMONO được dịch là Trước Vật = Món mặc thì hơi khó chấp nhận.
Phụ chú
Chủng Mã Lai có tĩnh từ thứ hai để chỉ sự chua mà vài học giả Việt Nam cứ cho là mượn của Tàu. Nhưng TSÚA của Quan Thoại chỉ là Giấm, CHUA của họ là TOAN mà họ đọc là XỐLhoàn toàn không dính líu tới CHUA của Mã Lai:
Việt Nam: CHUA
Nam Dương: CHUKA
Sơ Đăng: CHÔU
Cao Miên: MÔCHU
Nhựt Bổn: SUI
Nhựt đã mượn TSÚA của Quan Thoại và đọc là SU = Giấm, mượn XÔLvà đọc là SAN = Chua, nhưng SUI là tĩnh từ Mã Lai mà họ còn giữ được.
CHƯƠNG III
NHỮNG ĐẢO ÂM NỘI BỘ TRONG CHỦNG MÃ LAI
Chương này vẫn cứ nghiên cứu về ngôn ngữ, nhưng nó sẽ đưa ta về dân tộc học, và chúng tôi phải điên đầu với những nhận xét sau đây, không còn biết kết luận ra sao cho ổn, nên chỉ giải thích theo chủ quan và đợi người khác rút tỉa ra từ đó những kết luận về chủng tộc học cần thiết.
I – Những âm AU của Nhật Bổn đều biến thành âm UA của Việt Nam, và ngược lại:
Nhựt Việt
IRAU RỬA
MAU MÚA
KAU MUA
NAO NỮA
NIAO VỪA (VẶN)
Không phải luôn luôn biến như vậy thí dụ CÂY SÀO thì cứ là SAO, nhưng thường biến như vậy và hễ có biến là theo cái luật trên. Luật đó, đúng cho tất cả các nhóm Mã Lai khác đối với Việt Nam, chớ không phải chỉ đúng cho Nhựt Bổn. Thí dụ:
Sơ Đăng Việt
BÁU LÚA
RAU RỪA (DỪA)
CHÔU CHUA
Mạ và các phụ chi Việt
LAU DỪA
RAU RỬA
KA LAUUA CÁ LẤU (CHẠCH LẤU)
Nhưng kì lạ thay, đối với Nam Dương thì ta không có biến, mặc dầu người Thượng là Lạc bộ Trãi, tức thẳng dòng với ta hơn, còn Nam Dương là Lạc bộ Mã, tức không thẳng dòng.
Nam Dương Việt
KURA RÙA
SUA (ĐỒNG) THOÀ
PUA THOẢ
SUAI THÓI
Nhìn vào các bảng đối chiếu trên, ta thấy Nhựt giống hệt Thượng Việt.
Thượng Việt: KI (CÂY)
Nhật Bổn: KI (CÂY)
Mạ: RAU (RỬA)
Nhựt Bổn: ARAU (RỬA)
Khả Lá Vàng: KITA (HƯỚNG BẮC)
Nhựt Bổn: KITA (HƯỚNG BẮC)
Thoạt nhìn, có người sẽ cho rằng không có gì là lạ, trừ Rađê và Giarai, còn thì toàn thể Thượng Việt đều là Lạc bộ Trãi hết vì toàn thể nói CHƠN, Rađê, Giarai và Chàm nói CẲNG. Còn ở Nhựt thì là MÃ Lai hỗn hợp Trãi + Mã y hệt như ở lưu vực Hồng Hà. Thế thì Nhựt có giống Thượng Việt là chuyện dĩ nhiên.
Nhưng không dĩ nhiên chút nào hết vì ta là Lạc bộ Trãi đa số thế mà lại khác Thượng Việt và giống Lạc bộ Mã là Nam Dương.
Về danh từ thì ta giống Thượng Việt hơn, nhưng về âm AU thì như thế đó. Đây là một cuộc đi sâu vào môn đối chiếu ngôn ngữ, chớ nếu chỉ dừng chân tại các cuộc đối chiếu phớt qua, không thể thấy được chi tiết này.
Chúng tôi thử giải thích, nhưng không lấy gì làm chắc thật chắc đến một trăm phần trăm. Trước khi di cư đi Nam Dương một nhóm Lạc bộ Mã rất lớn đã sống chung với ta tại lưu vực Hồng Hà, mà không có lên Cao Nguyên. Họ còn để lại hậu duệ là người Mường.
Ta chịu ảnh hưởng của họ về sự đảo âm AU thành UA, còn người Thượng vốn Lạc bộ Trãi như ta thì lại thoát.
Thí dụ Cây Dừa thì trước khi bọn Lạc bộ Trãi đến ta vẫn gọi là DAU y như Thượng Việt, Lúa, ta gọi là LÁU, RỬA ta gọi là RẢU v.v.
Không thể nói là họ chịu ảnh hưởng của ta vì chỉ có một nhóm là có ở lưu vực sông Hồng Hà, mà toàn thể Nam Dương, Mã Lai Á, Phi Luật Tân đều nói giống nhau về điểm đó. Nếu họ chịu ảnh hưởng của ta thì cái khối kể trên không thể giống nhau như thế được, bởi đa số không chịu ảnh hưởng, còn kẻ chịu ảnh hưởng thì lại quá ít.
Nhưng giải thích như vậy xong rồi, tạm ổn rồi thì vấp phải điều này là Nhựt không biến luôn luôn như vậy mà chỉ biến có nửa chừng thôi. Thí dụ:
Nhựt Việt
Sitxuua (Setsewa) Tích xưa
Nói một cách khác, ta chịu ảnh hưởng của Lạc bộ Mã nhưng chỉ chịu có nửa chừng, còn một phần thì cứ giống Lạc bộ Trãi vì Xưa là danh từ của Lạc bộ Trãi chắc một trăm phần trăm, mà Lạc bộ Mã không có.
(Cả hai Việt và Nhựt đều mượn TÍCH của Tàu. Ở Nhựt bọn Lạc bộ Trãi đã thua trận và bị Lạc bộ Mã lãnh đạo từ hai ngàn năm nay, khác hẳn ở Việt Nam là vua Hùng cứ vững ngôi.)
Nhựt có hai danh từ để chỉ hai văn thể thì đều là danh từ của Lạc bộ Trãi:
Tích xưa = Sitxuua (Setsewa)
Món xưa = Xuuamônô (Sewa mono)
Văn thể thứ nhứt chỉ chuyện cổ tích, còn văn thể thứ hai là một loại kịch chuyên diễn tuồng phong tục.
Quả xưa kia bọn Lạc bộ Trãi đã dùng XUUA để chỉ phong tục nữa, chớ không phải chỉ chỏ chuyện cổ không mà thôi, có lẽ đó là nghĩa rộng của CỔ. Người Sơ Đăng còn giữ được danh từ XUUA có nghĩa là Phong Tục dưới hình thức XRUA.
Hai danh từ đó, cho thấy vai trò văn hoá của Lạc bộ Trãi ở Nhựt rất lớn lao, thành thử âm UA không lấn âm AU được trong toàn thể Nhựt ngữ.
Có hơi kỳ khôi là ở Việt Nam Lạc Mã đã chịu thần phục vua Hùng Vương thuộc Lạc Trãi, nhưng Lạc Trãi lại bị truyền nhiễm âm đọc.
Chúng tôi giải thích như vậy, nhưng không dám tin cho lắm là đã giải thích đúng. Có cái gì trục trặc trong vấn đề dân tộc vì vấn đề đảo âm UA này, rất khó mà truy ra manh mối, nó không được xuôi chèo mát mái là Trãi Việt Nam lại giống Mã mà khác Trãi Thượng.
Có thế nào mà các đời vua Hùng Vương, sau là bọn Mã chăng, vì Trãi đã bị tràn ngập khi Mã đến quá đông, y hệt như ở Nhựt Bổn? Truyền thuyết Mường không nói gì hết về một cuộc đảo chánh, cướp ngôi nào cả, nhưng sự đảo lộn của âm UA lại bắt ta nghĩ rằng Trãi Việt Nam đã bị tràn ngập.
Đây là Chương ngắn nhứt của quyển sách, nhưng nó sẽ mở ra một đám đất mênh mông cho những người khác nhiều khả năng hơn khai thác, tìm tòi để biết có sự dời đổi vai trò lãnh đạo dưới các đời Hùng Vương hay không?
Tưởng cũng nên nói rõ một lần nữa về cách phân biệt hai thứ Lạc ở địa bàn Mã Lai. Danh từ riêng của hai thứ Lạc đó, rất dễ biết, nhưng con người của họ thì không, vì Mã Lai thì giống nhau hết thảy, và vì có nhóm Lạc bộ Trãi chịu ảnh hưởng nặng nề của Lạc bộ Mã, khiến ta lẫn lộn hai thứ với nhau.
Trên miền Thượng có nhiều chi nhóm như Churu, Roglai, Lào, vừa dùng danh từ của Chàm (Lạc bộ Mã), vừa dùng danh từ của Lạc bộ Trãi, tức giống Việt Nam hơn.
Đó là các nhóm ở gần Ninh Thuận, Khánh Hoà, Phú Yên, họ có chịu ảnh hưởng của Chàm.
Rất khó lòng mà biết họ thuộc Lạc Mã hay Lạc Trãi vì nếu nhìn kỹ vào ngôn ngữ của họ, ta thường thấy số danh từ của hai nhóm Mã và Trãi đồng số lượng với nhau.
Chúng tôi có thử dựa vào danh từ dùng làm căn bản, nhưng không chắc gì hết.
Người Churu gọi lúa là Pơđai, tức đó là tiếng Chàm đọc sai chút ít. Nhưng đồng thời họ cũng gọi lúa là KUÊ, hình thức đầu của danh từ LÚA của nhóm Trãi.
Họ dùng RƠGƠI là hình thức đầu tiên của GIỎI của bộ Trãi, nhưng CON thì gọi là ANA, tức tiếng Chàm đọc sai.
Họ là Trãi nhưng được Chàm khai hoá.
Theo chúng tôi thì chế độ hôn nhân là bằng chứng vững chắc hơn cả. Hiện trên thế giới, không có nhóm
Lạc bộ Trãi nào còn theo mẫu hệ hết thì tình trạng dân Cao Nguyên chắc cũng thế.
Vậy đối với những nhóm chắc một phần trăm là Trãi, như Sơ Đăng, Ba Na, Mạ, thì không có vấn đề. Các nhóm chắc một trăm phần trăm là Mã như Rađê và Giarai, cũng không có vấn đề.
Đối với các nhóm khác, ta cứ dựa vào chế độ hôn nhân của họ là ăn chắc, chớ không dựa vào ngôn ngữ một cách đơn phương được. Tuy Mã và Trãi có đến 40% danh từ chung, nhưng vẫn khác nhau, mà sự khác nhau ấy cần được biết và yếu tố giúp ta biết chắc là yếu tố độc nhứt: hôn nhân.
Nhưng cũng không nên biết điều này là nhân loại phải mất ít lắm là một ngàn năm mới bước sang từ mẫu hệ đến phụ hệ được, chớ không phải đầu hôm sớm mai mà xong việc. Nhưng ở Việt Nam thì ba nhóm Mã lớn là Chàm, Giarai và Rađê không có dấu hiệu muốn bước sang phụ hệ.
Vậy chỉ có dấu hiệu đó là đủ chứng tích họ là Trãi rồi, chớ không cần đợi thấy họ theo phụ hệ hẳn. Thí dụ tục đi ở nhà vợ một thời gian rồi mới về nhà mình là tang tích mẫu hệ mà cũng là dấu hiệu đang bước sang phụ hệ của vài nhóm Trãi chậm tiến.
Các ông Tây thường cứ bằng vào số lượng danh từ để cho nhóm này thuộc vào nhóm nọ thì không đúng.
Chúng tôi tìm khắp Đ. N. Á. lục địa và Đ.N.Á hải dương mà chỉ gặp có hai nơi độc nhứt có động từ HÔN là động từ riêng của Lạc bộ Trãi. Động từ này chỉ có mặt ở Nhựt Bổn, dưới hình thức HOOZURI và ở đảo Marquises, dưới hình thức HÔNGHI: nhưng Nhựt Bổn có, không đáng ngạc nhiên vì ở Nhựt, Trãi và Mã đồng số dân với nhau. Sự kiện Đa Đảo có, mới là lạ. Đa Đảo còn theo mẫu hệ toàn loạt, không có đảo nào bước sang phụ hệ hết. Thế thì họ là Mã. Nhưng lại có HÔN ở quần đảo Marquises.
Điều này chứng tỏ rằng tiền sử học làm việc thiếu sót. Lạc bộ Trãi có đi xa khỏi Nam Dương, chớ không phải là chỉ có ghé tại đảo Célèbes không mà thôi. Trái lại đảo Célèbes là địa bàn của Lạc bộ Trãi, thế mà dân ở đó không có động từ HÔN, vì rồi về sau họ bị Nam Dương lấn át và chịu ảnh hưởng rất nặng của Lạc bộ Mã.
Thế nên trong việc học ngôn ngữ, chúng tôi phải học quá xa, học tận đảo Pâques ở cực Nam Mỹ vì ở đó có vài danh từ Việt Nam. Vài dân Tộc Sơ Đăng, có mặt tại Đa Đảo.
(động từ của Nam Dương là CHIUM, có thể nối kết với HÔN, nhưng chúng tôi chỉ tìm được có một cái khoen độc nhứt ở miền Nam nước việt là HUN, phát âm với chữ U, trong khi phải có hai ba chục cái khoen, thành thử chúng tôi không thể CHIUM được).
CHƯƠNG IV
NGUYÊN NHÂN MẤT MÁT ÂM D VÀ GI CỦA MIỀN BẮC
Một người Bắc Việt mới vào Nam, không thể nào phát âm được hai âm D và Gi giống người Nam cả, chỉ dẫn thế nào họ cũng thất bại. Đó là người khác chỉ dẫn, còn chúng tôi chỉ dẫn thì họ có thể đọc ngay tức khắc. Thí dụ DA THỊT, thay vì viết như vậy, tôi viết là YA THỊT và chỉ dẫn rằng phải qua hai giai đoạn:
1. Tách rời Y và A
2. Nhập lại thật nhanh.
Thế là họ thành công liền. Chỉ tốn có hai phút.
Sự kiện ấy chứng tỏ nhiều điều kì lạ lắm. Là lưỡi của hai miền không có khác nhau chút nào hết và họ vẫn phát âm được y hệt như Trung, Nam và bất kì nhóm Mã Lai nào, và cả Trung Hoa cũng phát âm được.
Nhiều người hay đổ thừa cho sự lai Trung Hoa, nhưng chúng tôi nghe Trung Hoa nói mỗi ngày hai tiếng XÌ DẦU cả chục bận. Họ vẫn phát âm được chữ D thì thủ phạm không phải là người Tàu.
Đồng bào miền Bắc đọc được, như bất kì ai, nhưng phải qua một thời kì tập sự, ngắn hay dài tuỳ người chỉ dẫn, thí dụ với tôi thì chỉ tốn có hai phút, còn người khác có khi chỉ dẫn hai ba năm, họ đọc cũng không được.
Thế nghĩa là khi xưa, có một thời họ đọc được, nhưng họ đã đánh mất khả năng của họ chăng? Không.
Thế giới không có chữ D của Nam Kì. Đó sáng tác riêng của các cố đạo. Thế nghĩa là loài người không có âm D. Vậy viết ra chữ D rồi bắt thiên hạ phải đọc chữ đầu đó như Nam Kì thì làm thế nào mà người miền Bắc đọc cho được. Họ đã nỗ lực đến mức tối đa, nhưng nó chỉ hoá ra Dz mà thôi.
Trong ngôn ngữ những gì nhân tạo và cưỡng ép thì không xong. Nếu phải cải cách quốc ngữ thì công việc cần làm trước nhứt là bỏ chữ D.
Ở khắp các địa bàn Mã Lai, ngày nay các nhà ngữ học đã dùng chữ Y để kí hiệu cái âm mà các cố đạo đã ký bằng D và họ thành công 100%.
Thế thì cái lưỡi của đồng bào miền Bắc không có bịnh tật gì cả, tại kí hiệu sai không giúp họ đọc được âm ấy.
Nhưng ta nên tự đặt câu hỏi. Trước khi chữ Quốc ngữ được các cố đạo chế ra, đồng bào miền Bắc phát âm chữ D ra sao? Có phải là Dz như ngày nay hay không?
Đã bảo nhân loại không có âm D thì họ không bao giờ có dịp phát âm D mà nghĩ rằng họ đã phát âm đúng
hay sai. Ngày nay họ phát âm là Dz thì chỉ là một nỗ lực đặc biệt (nhưng không thành công) để diễn tả chữ D nhân tạo đó.
Có một âm gần gần như thế, đó là âm Y, và họ đã phát âm được, nay thì thế xưa chắc cũng thế, trước khi ngoại nhân đưa vào một kí hiệu kém khả năng miêu tả là D.
Sự miêu tả văn phạm và giọng đọc rất là quan trọng và ngày nay tất cả các nhà ngôn ngữ học thế giới đều chú tâm vào đó.
Nhưng đừng tưởng là các cố dốt. Về phương diện Phonème thì Y chỉ có giá trị bằng phân nửa I. Đó là một bán nguyên âm (Semi – voyelle). Nhưng dân ta phát âm DA rất mạnh ở D, thành thử các cố thấy là Y không ổn nên mới phát minh D mà cả thế giới đều không có. Nhưng các cố phát minh GI thì quả thật là dị kì. Hồi tiền chiến ở Hà Nội người ta đã cãi nhau ầm ĩ về chữ DÒNG và GIÒNG. Sở dĩ có cãi nhau là tại hai chữ đó đọc như nhau. Thế thì GI thậm vô ích.
Sự bối rối của các cố trước Y đọc thật mạnh của ta do ta có âm IA trong chữ KIA. Người Chàm không có âm IA nên họ viết IA cho Chàm và Chàm đọc thật đúng là D như Nam Kì, vì I mạnh lắm. Các cố không làm như vậy được cho Việt vì sợ IA (DA) lẫn lộn với IA ( KIA), nên đành phát minh D kém khả năng miêu tả.
Nhưng nếu các cố cứ dùng Y như các nhà ngữ học Âu Mỹ đã dùng cho Nam Dương và Thái Lan , rồi đưa ra ước lệ này là Y có đầy đủ giá trị như I, tức đọc mạnh được, thì đã không xảy ra rắc rối nào hết.
Ở Nam Dương và Thái Lan, người công dân cũng phát âm rất mạnh ở DA vì họ cũng là Mã Lai như ta, nhưng khi dùng ký hiệu Y thì các nhà ngữ học đã đưa ra ước lệ đó, nên không có gì trục trặc cả.
Kết luận, miền Bắc không bao giờ mất âm D vì không bao giờ có âm D mà họ chỉ có âm Y đọc mạnh như I.
Vậy nếu có cải cách ta sẽ cải cách với ước lệ như ở Nam Dương và Thái Lan, tức bất kể luật quốc tế, cho phép đọc Y thật mạnh như I.
Nghiên cứu ngôn ngữ của toàn khối Mã Lai, chúng tôi lại nhận thấy điều nầy là Mã Lai không có âm V, hoặc rất hiếm có. Nhưng Việt Nam thì rất giàu V. Tại sao Mã Lai lưu vực Hồng Hà lại làm khác?
Đó là một cải cách lớn có mục đích hẳn hoi, xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm. Muốn biết mục đích của cuộc cải cách cổ thời ấy, ta cần biết thêm đặc điểm nữa của ngôn ngữ Mã Lai. Đại khối Mã Lai lạm phát nguyên âm. Đôi khi có đến năm nguyên âm dính liền với nhau.
Thí dụ ĐÙA của Nam Dương là TAUÙA, còn ĐÙA của Nhựt Bổn là: Tauuamurê, tức cũng có bốn nguyên âm, AUUA dính nhau y hệt như Nam Dương, chỉ khác có cái đuôi MURÊ.
Danh từ CON DIỀU của Thái còn kinh khủng hơn nữa. Nó là HYIAOU tức chứa đến 5 nguyên âm dính liền nhau, THỪA MỨA của Nam Dương là MIỨUA.
Những danh từ ấy, có tánh cách đa âm. Khi ta độc âm hoá ngôn ngữ ta sau Mã Viện thì dĩ nhiên ta phải thu ngắn những danh từ đó, bằng cách phát âm V để thay cho hai, ba nguyên âm, hoặc nuốt mất một số nguyên âm.
Các dân của tộc khác không độc âm hoá thì cứ tiếp tục đọc dài cho tới thế kỷ 19, các nhà ngữ học Âu Mỹ cho họ mượn W thì giải quyết được sự kì dị khi ký hiệu bằng La Tinh. TAUUA của Nam Dương biến thành
TAWA TAUUAMURÊ của Nhựt biến thành TAWAUMRÊ.
Chủng Mã Lai lại cũng không có dấu ngã bao giờ và người ta lại tự hỏi lưu vực Hồng Hà đã sáng tác dấu ngã làm gì cho rắc rối đến thế.
Những gì chúng tôi viết ra dưới đây là chỉ viết riêng cho các nhà nghiên cứu và xin báo trước rằng chúng tôi không bảo đảm một phần trăm nào hết cho chủ trương dưới đây, chính vì ông bạn Trung Hoa đã dạy chúng tôi học Quan thoại cũng chỉ tưởng thế thôi mà không dám chắc gì hết.
Chúng tôi đã chứng minh trong quyển sử, bằng một biểu đối chiếu rằng dân tộc ta đã học với thầy Hoa Bắc vào đời Hán, nên ta nói tiếng Tàu giống giọng Quan Thoại hơn là giống các giọng khác, mặc dầu ta có đọc sai Quan Thoại, vẫn còn cứ khá giống Quan Thoại.
Ông bạn Trung Hoa của chúng tôi vốn người Thất Mân đồng ý về điểm đó, nhưng có thêm ý kiến nầy là Quan Thoại ngày nay đã sai giọng Quan Thoại đời Hán, và người Tàu vừa trở về với Quan Thoại đời Hán mà ta gọi là Tân Âm nhưng nó vốn là Cựu Âm. Đó là Quan Thoại của khu tam giác mà chúng tôi đã nói đến trong quyển sử.
Cái Quan Thoại Tân Âm nhưng mà là Cựu Âm đó có dấu huyền rất là kỳ dị là hơi giống dấu ngã của Bắc Việt, tức xuống rồi lên, nhưng chỉ ít thôi, và rất khó nhận ra.
Chỉ có người Việt châu thổ Hồng Hà mới đủ thính tai để nhận diện được cái dấu huyền kỳ dị đó, còn cho đến cả người Tàu ở xa kinh đô cũng không nhận được, không đọc được.
Thế nên họ đã sáng tác dấu ngã để diễn tả cái dấu huyền đó mà trên thế giới chỉ có họ là nhận ra mà thôi. Nhưng họ lại đi quá lố, chớ thật ra thì cái dấu huyền Quan Thoại đời xưa, không có lên cao đến thế, vì vậy mà trừ Bắc Việt ra, trên thế giới không ai nhận ra được hết, kể cả người Tàu ở ngoài khu tam giác đó.
Ông bạn người Trung Hoa ấy đã đưa ra thí dụ cụ thể để minh chứng chủ quan của ông:
Quan thoại Bắc Việt
Mà Mã (ngựa)
Wùa Vũ (mưa)
Dèl Nguyễn (họ)
Luỳ Lữ (họ)
Nài Nãi (sữa)
MÌ MỸ
Chúng tôi chất vấn ông bạn Trung Hoa đó: “Nói thế thì tại sao những danh từ không do tiếng Tàu mà ra, cũng viết với dấu ngã?”
Ông bạn Trung Hoa nầy đã theo dõi chúng tôi khi chúng tôi viết sử, và đã biết tất cả những gì chúng tôi viết trong đó, nên ông bạn đáp ngay: “Đó là tại những danh từ ấy không phải là của Lạc bộ Trãi. Các anh đã vay mượn của các nhóm khác rồi quên mất chủ nhơn, cứ ngỡ là của Tàu”.
Thí dụ ẴM BỒNG, anh đã nói là do AMBING của Lạc bộ Mã mà ra (Nam Dương: Ambing = Ẵm bồng). Chúng tôi cười hơi mỉa mai: “Có thế nào mà chúng tôi quên cả chủ nợ hay không?”
“Có. Thuở đó Trung Hoa là số dzách khiến ai cũng ngỡ cái gì cũng của Tàu mà ra cả. Anh có biết hiện nay (năm 1972) người Thái Lan gọi người Trung Hoa là gì không?”
“Không.”
“Họ gọi đồng bào của chúng tôi, kể cả cu li nữa là CHAOU JIN, tức là CHỦ NHƠN. Họ gọi theo đời Tần, mà họ bị đánh chiếm, rồi thì nó quen miệng đi. Các anh không có gọi Trung Hoa như vậy, nhưng hẳn các anh có phục Trung Hoa, khi Mã Viện bình định xong, và các anh bắt đầu an phận, theo học văn hoá Tàu.”
Chúng tôi lại chất vấn thêm, và ông bạn vẫn cứ trả lời xuôi rót:
“Tôi còn thắc mắc. Có những tiếng Tàu mang âm huyền rõ ràng thế sao Bắc Việt vẫn phát âm hỏi.”
“Hà, cái nầy dễ hiểu quá mà, tại các anh học với lính Quảng Đông, Phúc Kiến, tức bọn quân bổ túc cho đạo binh viễn chinh, mà người Quảng Đông, Phúc Kiến chỉ mới bị trị trước các anh không tới một trăm năm. Họ chỉ vừa bị Hoa hoá và cho tới ngày nay họ không nhận diện được cái dấu huyền đó, thế nên họ phát âm sai, tức với dấu hỏi.”
Ông bạn lại đưa ra thí dụ:
Quan thoại Quảng Đông Bắc Việt
Quò Quỏ Quả
Chường Chưởng Thưởng
Pèo ẻo Biểu
Chúng tôi xin lặp lại là chúng tôi không đảm bảo gì hết, và chúng tôi chỉ viết ra để các nhà học giả thạo hơn chúng tôi nghiên cứu thử, chớ chính chúng tôi cũng chẳng nhận diện được dấu huyền Quan Thoại đó, và chính kẻ dạy chúng tôi học cũng không đọc được cái dấu huyền hoặc đó.
Dầu sao sự kiện nầy cũng có và còn nguyên vẹn, là trong đại khối Mã Lai đông hơn 300 triệu, chỉ còn Bắc Việt là có dấu ngã, khiến ta phải nghĩ rằng họ mới sáng tác về sau, không biết để làm gì, còn gốc tổ thì không có.
Mặc dù không tin chủ trương trên đây, chúng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi những luật hỏi ngã của văn phạm ta sao mà hơi kỳ kỳ, đại khái như thế này: khi mà các danh từ gốc Hán Việt mà bắt đầu bằng D, L, M v.v. thì phải viết với dấu ngã.
Ở đây, nguyên nhơn tại chữ D, chữ L, chữ M. Tại sao các chữ đó là nguyên nhơn được? Chủ trương của ông bạn Trung Hoa tuy không được chúng tôi tin, nhưng nguyên nhơn mà ông bạn ấy đưa ra có vẻ là nguyên nhơn thật sự, chớ còn chữ D, chữ L, chữ M làm thế nào lại là nguyên nhơn được.
Nếu chủ trương của ông bạn Trung Hoa nói trên mà sai, tưởng ta cũng cần tìm nguyên nhơn khác hơn là chữ D, chữ L, chữ M, nó không có vẻ gì là nguyên nhơn cả.
CHƯƠNG V
TÀI BA CỦA VIỆT NGỮ
Mẹ hát con khen hay thì chẳng được ai khen theo hết. Nhưng chúng tôi khen vì MẸ CHÚNG TA tài tình thật sự.
Nam Dương và Nhựt Bổn đã chế biến ra lắm trò, nào là Nam Dương gắn đầu gắn đuôi như Tây, Nhựt Bổn chia động từ như Tây, nhưng diễn tả không hơn Việt Nam chút nào hết mà lại còn kém hơn nhiều bực.
Các nhóm Mã Lai khác đều mắc nạn đồng âm dị nghĩa mà vô địch là Miền Dưới và Nhựt. Việt Nam cũng có danh từ đồng âm dị nghĩa, nhưng rất là ít, thí dụ Đồng (bằng), Đồng (thau), trong khi đó thì các dân tộc khác mỗi nhóm có hai ba chục tiếng đồng âm.
Ta cũng đã có như họ, vì tất cả đều là Mã Lai, nhưng ta đã uyển chuyển cho mất sự lạm phát đồng âm, còn họ không biết làm thế.
Đó là nguyên nhơn của các dấu sắc, huyền, hỏi, nặng của ta mà các nhóm khác rất hiếm có. Thí dụ GIÁ RẺ ở Nam Dương, thì rẻ chỉ là MURAH. Chữ H cuối chỉ có giá trị của 1/3 cái dấu hỏi hay dấu sắc của ta mà thôi, tức như là MURẢ, nhưng RẢ phải đọc thật nhẹ, chữ H được đọc nửa chừng thì người đọc đứt hơi thình lình.
Quý vị đã thấy ta biến PƠAKA thành BÓI CÁ một cách tài tình. Chúng tôi đếm được trong các tự điển Miền Dưới 40 chữ Tơrăng chẵn chòi, không thiếu một nét.
Việt Nam cứ sử dụng dấu sắc huyền hỏi nặng là dẹp tan hết:
Tơrăng = Trằn
Tơrăng = Trảng
Tơrăng = Trắng trợn
Tơrăng = Trong
Vân vân và vân vân…
Ta biến dạng mà không hề làm mất Phonème, làm mất nghĩa, và trái lại còn thêm nghĩa rất dồi dào. Xem người Mạ và ta biến dạng một từ ngữ Mã Lai thì thấy rõ là ta quá tài.
Con sulong= Filsainé, Elder
Người Mạ biến thành: KON TABÔNG. Phonème đã sai rồi, mà TABÔNG thì chẳng có nghĩa gì cả trong
ngôn ngữ Mạ.
Việt Nam biến: CON ĐẦU LÒNG
Có tài tình chưa? Phonème còn nguyên vẹn, nhứt là trong CON SO và SỔ LÒNG, mà ĐẦU LÒNG cũng đầy ý nghĩa. Đó là một cuộc biến có cố ý, có ý thức vì hiểu nghĩa, chứ không phải là kẻ vay mượn, chỉ mượn âm, như Cao Miên đã biến Kayu Đoan Đâu thành So Đau.
Kẻ hiểu nghĩa để biến cho còn nghĩa là kẻ có danh từ đó, chớ không phải vay mượn.
Sự biến dạng của Tơrăng trong Việt ngữ, tuy hay về số lượng, nhưng không hay về phẩm chất vì ta chỉ bỏ dấu khác mà thôi, ngoài ra không có sửa đổi bao nhiêu. Nhưng sự biến dạng của một động từ, động từ CHẾT thì tài vượt bực.
Chủng Mã Lai có hai động từ chỉ ý niệm chết, mà Miền Dưới chỉ dùng có một là MATI.
Nam Dương: Mati
Chàm Ninh Thuận: Mưtai
Chàm Bình Tuy: Htai
Thái: Tai
Việt Nam: Mất
Thái cũng biến nhưng biến một cách vô ích, và nếu không có cái khoen Chàm Bình Tuy, không làm sao mà nhận ra được TAI do MATI mà ra.
Nhưng Việt Nam biến có mục đích hẳn hòi, để xoá đồng âm U như với tĩnh từ Tơrăng. Vậy Mati = mất.
Ta nuốt chữ I cuối. Thí dụ: Ông tôi mất năm ngoái.
Người Nam Dương cũng có ao nuôi cá và lũy tre quanh làng y như ở Bắc Việt, và họ gọi ao đó là: Ao mati = Ao chết
Tại sao ao lại chết? Vì nước ao không được thay đổi tức đó là nước chết. Việt Nam không bằng lòng như thế và trong trường hợp này, ta không nuốt chữ I mà nuốt âm MA. Âm TI còn lại được biến thành ra là TÙ.
Ao mati = Ao tù
Xin lưu ý các nhà làm từ điển. Chữ Tù hồi cổ thời chỉ có nghĩa là (nước) Chết.
Đèn không cháy nữa, người Nam Dương gọi là:
Đian mati = Đèn chết
Tại sao chết? Vì ngọn lửa đã chết. Trong bài hát Au clair de la lune, của Pháp ta cũng thấy câu: Ma chandelle est morte, tức cây nến của tôi đã chết.
Việt Nam cũng chẳng bằng lòng vàa lần nầy ta biến âm TI thành TẮT.
Đian mati = Đèn tắt
Có tài tình chưa? Và cũng xin các nhà làm tự điển biết rằng vào cổ thời TẮT, chỉ có nghĩa là CHẾT. Hiện nay trong Việt ngữ, ta vẫn còn nói TẮT để chỉ ý niệm Chết. Thí dụ: “Ông tôi tắt nghỉ hôm qua”.
Sự tài tình ở đây, còn hơn cả trong từ ngữ CON ĐẦU LÒNG nữa. Và có hằng ngàn trường hợp biến tài tình như cái vụ Ti →Tù, Ti →Tắt.
Khi ta so tự điển Việt Nam với tụ điển các dân tộc khác gốc Mã Lai, ta thấy luôn luôn tự điển ta dày hơn tự điển họ quá nhiều, bởi họ chỉ định nghĩa có một chữ MATI còn ta thì phải định nghĩa cho ba chữ: MẤT, TÙ và TẮT.
Nhưng hủy bỏ đồng âm, tuy là tài, nhưng vẫn không tài bằng mỹ hoá như trường hợp CHIM BÓI CÁ đã cho thấy.
pơraka = Bắt cá→ Bói cá
BÓI CÁ đậm ý nghĩa hơn BẮT CÁ, nhưng không khác âm bao nhiêu. Thế thì không cần gì tiến tới đa âm như họ, ta vẫn diễn ý được nhiều hơn họ và nhứt là hay hơn họ.
Xem ra sự đa âm hoá không đem đến cái lợi nào đáng kể hết, và nếu không bị ảnh hưởng Trung Hoa chận đứng cái đà đa âm của ta, ta vẫn không hơn gì ngày nay đâu, bằng chứng là Nam Dương, mặc dầu đa âm hoá, vẫn kém hơn ta về sự phong phú của ngôn ngữ.
Khi mà ta sáng tác được chữ TÙ rồi thì nó đẻ ra một bầy con: TÙ TÚNG, TÙ HÃM, TÙ BINH, VÀO TÙ, Ở TÙ, NGỒI TÙ, TÙ MỌT GÔNG, TÙ RŨ XƯƠNG, TÙ TỘI, CƠM TÙ, CAI TÙ, RŨ TÙ, MÃN TÙ, BỎ TÙ, NHÀ TÙ, CHẾ ĐỘ LAO TÙ, VƯỢT TÙ, NƯỚC TÙ, TÙ TREO, TÙ Ở, TÙ ĐÀY, TÙ BIỆT XỨ, vân vân và vân vân.
Các người ham bắt ta làm nô lệ Trung Hoa, chắc cho rằng ĐÈN là do ĐĂNG của Tàu. Nhưng Tàu đọc ĐĂNG là TẨN, mà TẨN thì quá xa ĐÈN, không như ĐIAN của Nam Dương. Và tiền sử học đã nói rõ là Lạc bộ Mã, khi di cư không có chịu ảnh hưởng của Tàu.
Chúng tôi có hai chứng tích cho rằng ta không học của Tàu:
I - Tất cả đều dùng âm đầu Đ trong khi Tàu dùng T.
II - Nhưng chứng tích đó rất yếu. Các nhà khảo cổ đã tìm được một cây đèn La Mã tại Cao Miên, vì năm 17 OS.K La Mã có gởi sang Trung Hoa một đoàn trò xiếc, bọn ấy có đi ngang qua Cao Miên. Họ lại tìm được đèn đời Hán tại Trung Hoa. Đèn Trung Hoa và đèn La Mã xấu hơn đèn Đông Sơn nhiều lắm. Không lẽ thầy lại kém hơn trò?
Chính Nhật là đã học của Tàu vì họ nói là Tô. Tô do Tẩn mà ra chớ không do Đian được.
Con khen mẹ bấy nhiêu đó là vừa, mặc dầu còn hàng ngàn biến dạng tài tình và nhứt là có mục đích rõ rệt nữa. Khen nhiều quá người khác sẽ khó chịu, nhứt là những quốc gia có 30 chục danh từ đồng âm dị nghĩa, trong hàng trăm trường hợp, hàng trăm danh từ.
CHƯƠNG VI
VUA HÙNG LÃNH ĐẠO BAO NHIÊU BỘ LẠC
Xin nói rõ lại về danh xưng. Chủng Mã Lai ở Viễn Đông chia thành hai chi. Chi Âu tức người Thái. Chi lạc là chi thứ nhì.
Chi lạc lại chia thành hai tiểu chi:
A) Austroasiatiques, chủ đất Hoa Bắc trước khi người Tàu xuất hiện. bọn nầy đã di cư đi Đại Hàn, Nhựt và Việt Nam cách đây năm ngàn năm, được Tàu gọi là Lạc bộ Trãi, chúng tôi gọi là Mã Lai đợt I trong quyển sử của chúng tôi. Nhưng ở đây chúng tôi gọi tắt họ là Trãi.
B) Austronésiens, chủ đất Hoa Nam trước khi người Tàu xuất hiện. Bọn nầy đã di cư đi Chàm, Phù Nam, Nam Dương, và lộn ngược lên Nhựt, được Tàu gọi là Lạc bộ Mã và chúng tôi gọi là Mã Lai đợt II. Nhưng ở đây chúng tôi gọi tắt họ là Mã.
Hai thứ Mã Lai ấy chỉ có những danh từ của con người cổ sơ là giống nhau thôi, như Tay, chơn, mặt, mắt, núi non, bông lá. Những sáng tác về sau, khác nhau hết.
Nhưng đặc biệt trong danh từ cổ sơ, đáng lý gì phải giống nhau hết, họ lại khác nhau ở CHƠN và CẲNG. Bọn Trãi nói CHƠN, bọn mã nói CẲNG.
Trong lãnh thổ Việt Nam hai nhóm ấy còn tồn tại:
Trãi Việt Nam + thiểu số Mã Lai ở trọ Đa số Thượng Việt
Mường Mường là Mã, khi xưa nói y hệt như Nam Dương, nhưng nay đã bị Trãi hoá và nói gần giống ta. Chàm, Phù Nam, Rađê, Giarai.
Có ba thứ người mà số phận giống hệt Mường đó là người Yêh, người Roglai và người Churu, họ là Trãi nhưng lại bị Mã hoá. Thuở xưa họ nói y hệt như Việt Nam, nhưng nay họ nói gần giống người Chàm vì nỗ lực đồng hoá của Chàm.
Ở Nhựt Bổn cũng có hai tiểu chi Lạc y hệt như ở Việt Nam, nhưng số lượng khác. Trãi Việt Nam do nhóm AĐÔUK của vua Hùng Vương lãnh đạo, còn Trãi Nhựt Bổn có lẽ do nhóm KHẢ TU lãnh đạo. Nhóm này hiện ở ngang Đà Nẵng phía trong Trường Sơn, nói khá giống người Nhựt về các danh từ Trãi. Còn danh từ Mã ở Nhựt thì dĩ nhiên là giống Nam Dương, y hệt như ở Việt Nam.
Để chứng minh sự kiện đồng chủng, khoa học chê ngôn ngữ tỷ hiệu.
Nhưng nhờ khoa đó mà chúng tôi biết chắc vua Hùng Vương lãnh đạo tất cả bao nhiêu bộ lạc vào khoảng năm 500 trước Tây lịch, biết chắc 100% và biết tên cả các bộ lạc ấy nữa.
Trước hết chúng tôi đã dùng luật đối chiếu của M. Swadesh, ông ấy có lập ra nhiều cái luật, mà một rất quan trọng: Luật về số lượng danh từ cần phải đối chiếu.
Chúng tôi đã kiểm soát chặt chẽ luật đó và chúng tôi thấy nó đúng 100%. Theo M. Swadesh thì chỉ cần đối chiếu 200 danh từ mà thôi là đủ rồi.
Không phải là hai dân tộc phải giống nhau tất cả ở số lượng 200, mà đa số danh từ trong hai trăm mà giống nhau, là đồng chủng.
Một kết quả ngộ nghĩnh và hay ho, lòi ra sau cuộc kiểm soát của chúng tôi. M. Swadesh cho phép đối chiếu CON MẮT mà không cho phép đối chiếu CÁI MẶT. Nhà ngữ học lỗi lạc đó đã nghiên cứu và thí nhiệm rồi, chớ không phải nói liều.
Hiện có lối một trăm dân tộc gốc Mã Lai, tất cả đều còn giữ được danh từ CON MẮT giống nhau, còn CÁI MẶT thì có ba dân tộc đánh mất: Nhựt Bổn, Cao Miên, Nam Dương.
Nam Dương mượn MUKA của Phạn ngữ, Cao Miên và Nhựt cũng thế (vì Nhựt, bọn Mã đã từ Nam Dương đi ngược lên để nhập bọn và lãnh đạo bọn Trãi tại Phù Tang). Nhưng Nam Dương lấy nguyên vẹn MUKA còn Cao Miên chỉ lấy âm đầu là MUK, nhật chỉ lấy âm sau là KA rồi biến thành KAO.
Thế là luật Swadesh chặt chẽ đến bất ngờ. Họ cấm đối chiếu Cái Mặt, chúng tôi không nghe, cứ đối chiếu, mới lòi ra sự kiện không ăn rơ.
Vậy chúng tôi đã đối chiếu 200 từ Việt ngữ căn bản của Swadesh với ngôn ngữ của khắp Đông Nam Á, và chúng tôi tìm được trên 300 nhóm bộ Lạc Trãi. Những danh từ Việt mà nhóm này không có, thì nhóm khác có.
Thí dụ hai tĩnh từ THẤP và NGẮN thì chỉ có một nhóm độc nhất là có, đó là nhóm KUY. Thí dụ động từ TÊM (trầu) chỉ có một nhóm độc nhất là có đó là nhóm PACOH. Danh từ LỒI ỐI chỉ có một nhóm độc nhất là có, đó là nhóm Sơđăng.
Đây là tên của các nhóm đó ngày nay, ngày xưa chắc họ mang tên khác, vì có nhóm bị ngoại nhân đặt tên, chớ thực ra họ tự xưng khác, thí dụ nhóm Khả lá vàng là do người Lào đặt ra chớ họ tự xưng là ALAK.
Chúng tôi bắt đầu từ trên xuống, tức từ Hà Tịnh Quảng Bình đổ xuống, còn ở trên nữa thì không có Lạc bộ Trãi. Và chúng tôi bỏ các nhóm lai căng ra thí dụ nhóm Hơroy!
1. Khả lá vàng 19. Mnong
2. Bru 20. Gar
3. Pacóh 21. Xi Tiêng
4. Phương 22. Mạ
5. Tà ui 23. Lào
6. Khả Tu 24. Núp
7. Tà Kụa 25. Kâyông
8. Cụa 26. Srê
9. Jêh 27. Churu
10. Duan 28. Kôhô
11. Kayơng 29. Rôglai
12. HRÊ 30. Biat
13. Sơ Đăng 31. Tu Nong
14. Bà na 32. Kơ lua
15. Tơ dra 33. Mung Buk
16. Mơ nơm 34. Hrê
17. Ha lang 35. Cuti
18. Rơ lơm
Chúng tôi bỏ Rađê và Giarai ra vì họ, Chàm và Mường chỉ mới đến xứ ta 500 trước Tây lịch. Tiếng Việt có vay mượn của họ, nhưng những danh từ vay mựơn ấy không phải là căn bản.
Vậy vua Hùng Vương và khoảng năm 500 trước Tây lịch đã lãnh đạo 35 bộ lạc trên đây, và khi thống nhứt được rồi thì ta có Ngắn, có Thấp, có Têm trầu, có Lồi ối, mà bộ lạc nào không có đều phải học hết và tiếng Việt thành hình.
Không rõ Hùng Vương thuộc bộ lạc nào, nhưng ông vẫn phải thuộc 1 trong 35 bộ lạc đó. Chỉ có hai bộ lạc là có danh từ NẮNG nghen bà con, còn TÊM (trầu) thì chỉ độc một bộ lạc có mà thôi, đó là dân Pacóh, như đã nói.
Những điều chúng tôi nói ra trên đây không phải là suy luận như bạn Nguyễn Mạnh Côn đã nói mà có chứng tích hẳn hoi. Thí dụ nhóm Khả Tu chỉ có tĩnh từ ĐAU, tuyệt đối không biết các tĩnh từ khác của Việt Nam, còn nhóm Mạ thì chỉ có tĩnh từ xóc (Đau xóc hông), tuyệt đối không có tĩnh từ ĐAU.
Vua Hùng Vương thứ I thống nhứt các bộ lạc được rồi thì lấy của mỗi bộ lạc một tĩnh từ, nhờ vậy mà ta có Nhức, Đau, Tức, Rát, Xóc, Lói,… phong phú hơn bất kỳ nhóm Trãi nào khác, và tất cả các nhóm Trãi ở lưu vực Hồng Hà đều phải học với nhau, Việt ngữ thành hình và thống nhứt ngay từ thời Hùng Vương.
Chỉ có độc một nhóm Khả mới có động từ RAAN có nghĩa là RÁN SỨC, những bộ lạc khác nói GẮN vân vân… Về chữ Raan thì tự điển K.T.T.Đ viết đúng gốc tổ là RÁN (không G) còn dân chúng miền Bắc phát âm RÁNG có G là sai gốc tổ rồi vậy.
Sự lựa chọn danh từ để vay mượn thật là khó hiểu lý do. Người Khả Tu có đến 9 động từ ĐẺ khác nhau, nhưng ta không có lấy động từ nào của họ hết, mà lấy động từ đẻ của Mạ là dân chỉ có một động từ đẻ độc nhứt. Nhưng không nên hiểu rằng Mạ chính là bộ lạc của vua Hùng Vương, vì những danh từ khác ta không có lấy của Mạ, tức Mạ và ta chỉ giống nhau có mà thôi. Mỗi bộ lạc ấy chỉ giống ta có (không kể các danh từ chung như Mắt, Chim, Cây, Lá).
Thí dụ Thượng Việt có những danh từ sau đây để chỉ con cọp:
Klơa
Klá
Yau
Agôôt
Kan bơơi
Pahua
Kooq
Chắc chắn là ta lấy Kooq để biến thành CỌP. KOOQ là danh từ của người Khả Tu. Mà nó là danh từ trùng hợp với danh từ của bộ lạc của vua Hùng Vương chớ không phải Khả Tu là bộ lạc lãnh đạo.
Những danh từ nào mà ta chê không lấy, đều bị Nhựt Bổn lượm hết. Thí dụ người Khả Tu gọi con CHÓ là ANÚK là trùng với INÚ của Nhựt Bổn, người Khả lá vàng gọi CÂY là KI cũng trùng với Nhựt Bổn, không khác một nét.
Danh từ MANG là ĐÊM, được khắp Cao Nguyên dùng, nhưng ta chê, cũng được Trãi ở Nhựt trọng dụng và biến thành BAN.
Sự chọn lựa giữa ta và Nhựt không ăn khớp với nhau ở mỗi danh từ, thành thử Nhựt vừa giống ta, lại vừa giống đồng bào Thượng. Có thể nói hễ danh từ nào của Thượng Việt mà Nhựt dùng thì ta không, ta dùng thì Nhựt không, chỉ trừ 1 số nhỏ.
Theo tiết lộ của giáo sư đại học Nghiêm Thẩm thì Nhựt cũng đã biết sự kiện đó rồi và họ có thử đi Cao Nguyên, ghé thăm Giáo sư, nhưng chẳng hiểu họ có thành công trong việc đi tìm gốc tổ hay chăng?
Tỷ lệ 10/35 trên đây thoạt trông thì mâu thuẫn với lối trình bày của chúng tôi khi nãy là theo luật Swadesh, không bắt buộc phải giống nhau 100% mà đa số danh từ giống nhau, tức 55% là đủ rồi. Nhưng 10/35 thì thấp hơn 55%.
Ở đây lại cần giải thích rõ ràng minh bạch: 10/35 là số lượng danh từ đặc biệt mà bộ lạc lãnh đạo cần mượn thêm, như TÊM (trầu) chẳng hạn, còn 55% là số lượng danh từ thường mà tất cả đều phải giống nhau như Mắt, Nước, Lá. v.v
Về sự chọn lựa, ta chỉ có thể lấy lý trí mà suy ra chớ không thể biết chắc đựơc: khi nào một ý niệm cần được diễn ra bằng nhiều hình thức, như bị đau đớn, có nhiều lối đau khác nhau, thì vua Hùng Vương mới phải vay mượn lung tung nơi các bộ lạc mà ông lãnh đạo, còn khi nào một ý niệm chỉ cần diễn ra bằng một hình thức độc nhứt như Đẻ chẳng hạn thì không có vay. Như vậy thì Đẻ của Mạ chỉ ngẫu nhiên trùng với Đẻ của bộ lạc lãnh đạo, chớ không phải là bộ lạc ấy vay mượn Đẻ của Mạ.
Về sự kiện thứ nhì, ta cũng chỉ biết được qua một cuộc suy luận mà thôi. Vua Hùng Vương dĩ nhiên là có khuynh hướng bắt các bộ lạc khác dùng danh từ của bộ lạc ông. Nhưng ở trường hợp nầy thì ông không thể thành công, bởi nếu trong 36 bộ lạc, mà chỉ có 3, 4 bộ lạc trùng hợp với ông thì ông bị thiểu số, danh từ của đại đa số sẽ thắng. Thành thử những danh từ mà Văn Lang chánh thức hoá về sau, không phải luôn luôn là danh từ của bộ lạc vua Hùng, mà phải là danh từ của đa số.
Tuy nhiên, khi chúng tôi đối chiếu tổng quát, chúng tôi thấy rằng bộ lạc đã thống nhứt các bộ lạc khác có ngôn ngữ tương đối giống nhứt với ngôn ngữ Khả lá vàng, mặc dầu vì trốn tránh trong rừng từ hơn hai ngàn năm nay, Khả Lá Vàng đã mất gần hết ngôn ngữ, không phong phú như Khả Tu chẳng hạn, nhưng những danh từ còn sót lại thì quá giống danh từ hiện kim của ta.
Nhưng xin cần nói rõ. Thí dụ CÁ thì chính Sơ Đăng giống ta 100% còn Khả lá vàng thì nói AKA, nhưng các danh từ khác thì Sơ Đăng lại không giống ta mà Khả Lá Vàng giống, tuy chỉ giống tương đối như CÁ và AKA, nhưng không khác hẳn như Sơ Đăng.
Sự ít giống, nhưng lại ít ở tất cả mọi danh từ là dây liên hệ mạnh hơn là giống nhiều, giống 100%, nhưng chỉ trong một số danh từ mà thôi. Ngoài Khả Lá Vàng, thì các bộ lạc khác như nhau, không bộ lạc nào hơn bộ lạc nào về sự giống ta.
Thời điểm năm 500 trước Tây lịch mà chúng tôi đưa ra không phải là thời điểm đúng hay khá đúng mà là thời điểm chắc chắn không có đệ tam nhân xen vào vì tiền sử học cho biết rằng chính năm đó là năm bọn Lạc bộ Mã đến nơi (tổ tiên của người Mường). Từ năm đó đổ lên thì cuộc thống nhứt của các bộ lạc Trãi xảy ra vào năm nào, chắc không bao giờ biết được hết vì con số 18 đời vua Hùng Vương không thể kiểm soát, mà con số về thời gian trị vì của một đời vua cũng không thể biết được, phương chi không phải thống
nhứt xong rồi là có vua ngay đâu, mà có thể chỉ có tổng tù trưởng mà chưa có Hùng Vương thứ I, và tình trạng đó, có thể kéo dài 500 năm cũng được như thường.
Đôi khi có vua rồi, nhưng lại chưa thống nhứt được như trường hợp của người Giarai, họ có đến hai ông vua, Thủy Xá và Hoả Xá, thế mà họ chưa thống nhứt nổi Rađê đồng chi Mã với họ.
Nhưng thường thì thống nhứt rồi, mới có vua. Trường hợp Giarai là trường hợp đặc biệt.
Khi thống nhứt xong thì tên của các bộ lạc phải bị quên, không còn Pacóh, Bru, Khả Tu gì nữa hết ở lưu vực Hồng Hà mà chỉ còn có VRĂN NANG = Cau sọc và hằng ngàn năm sau Vrăn Nang mới bị biến thành Văn Lang. Nhưng Vrăn Nang là quốc hiệu hẳn hòi chớ không phải là tên của bộ lạc lãnh đạo. Bộ lạc ấy tên gì, ta sẽ thấy lát nữa đây.
Ta cũng không nên ngộ nhận về sự kiện sau đây là không phải chỉ có 35 dân tộc ấy là giống ta, mà ngôn ngữ Kha si của dân Naga ở Assam( Ấn Độ) cũng giống hệt ngôn ngữ thượng Việt, nhưng họ ở quá xa lưu vực Hồng Hà thì họ không thể được vua Hùng Vương thống nhứt, nên chúng tôi chỉ kể tên các dân ở Cao Nguyên, lào và Cao Miên mà thôi, vì những phần tử không được thống nhứt, có đi xa lắm cũng chỉ đi quanh đó, còn Khả Si tuy cũng là Trãi, nhưng họ định cư xa như thế tức họ Nam thiên từ Hoa Bắc do ngã hướng Tây, y như bọn lạc bộ Chuy, tức không có ghé lưu vực Hồng hà.
Con số 1960 tù trưởng mà truyền thuyết Mường nói đến không vì con số 35 trên đây mà sai, bởi mỗi bộ lạc có nhiều tù trưởng. Nhưng con số 15 bộ của truyền thuyết ta thì chắc chắn là sai. Bộ của truyền thuyết ta, cho dẫu có nghĩa là bộ lạc, hoặc tỉnh gì cũng không thấy còn dấu, mà dấu vết cổ thì phải còn, chúng tôi thấy như vậy khi kiểm soát về các việc khác.
Truyền thuyết của khách trọ lá Lạc bộ Mã đã xoá mất truyền thuyết của lạc bộ Trãi. Nhưng trên Cao nguyên hẳn là còn cái gì và chúng tôi mong đợi ở các nhà nghiên cứu khác, hiện họ đang làm việc tại Cao nguyên.
Chúng tôi nói có tất cả 35 bộ lạc, nhưng thật ra là 36, vì vua Hùng Vương thuộc một bộ lạc khác, có tên khác, và đông hơn cả, nên mới thống nhứt được các bộ lạc khác.
Vua Hùng Vương thuộc bộ lạc nào. Trong quyển sử của chúng tôi, chúng tôi đã tiết lộ rằng đa số đồng bào Thượng gọi ta là Mandi, bằng Phạn ngữ, vì chịu ảnh hưởng của Cao Miên và Chàm. Nhưng ở trên Kontum đổ lên Hà Tịnh thì họ lại gọi ta khác vì họ không có chịu ảnh hưởng của Chàm và Cao Miên và chúng tôi tin rằng họ goi theo thời Thượng cổ.
Từ người Khả Tu đến người Pacóh đến người Bru, ở trên địa bàn Sơ Đăng, đều gọi ta là dân AĐUỐK. chắc chắn là vua Hùng thuộc bộ lạc AĐUỐK, là bộ lạc đa số ở lưu vực Hồng Hà.
Ađuốk chẳng có nghĩa gì cả trong ngôn ngữ của bất cứ nhóm thượng nào. Có lẽ đó là danh tự xưng và phải có nghĩa trong bộ lạc Ađuốk, nhưng các bộ lạc khác không có danh từ đó nên họ không hiểu, trừ các bộ lạc bị thống nhứt thì hiểu, nhưng đó là một danh từ đã mất vì luật Swadesh.
Tuy nhiên tất cả các nhóm Trãi trên Cao Nguyên đều có truyền thuyết cho rằng họ và ta đồng gốc tổ.
Và xin đừng ngộ nhận ở điểm này. Trên 30 bộ lạc đó, không phải là các bộ lạc khác ly khai vì không khứng được với vua Hùng thống nhứt. Sự kiện lịch sử khác hẳn sự tưởng tượng của ta. Khi rời Hoa Bắc di cư đi Việt Nam thì mỗi nhóm chiếm một vùng ở các nơi mà Pháp gọi là Đông Pháp, nhưng đặc biệt ở lưu vực Hồng Hà thì có đủ mặt tất cả ácc bộ lạc vì hai lẽ:
a) Tất cả đều ghé lại đó.
b) Nhưng rồi họ thấy là đất quá chật cho tất cả, nên rồi mỗi nhóm mỗi có người tái khởi hành để đi nơi khác, vì vậy mà mới có đồng bào Thượng ở nơi khác.
Và xin cũng đừng hiểu lầm về điểm thứ nhì này. Là đồng chi lạc bộ Trãi với nhau, họ phải có danh từ chung với nhau hết thẩy, chỉ có những danh từ đặc biệt mới là khác và mới được vua Hùng vay mượn, chớ Cá, Nước, Mắt, Mũi, tay, Chơn đều nhu nhau. Thí dụ: RỬA thì tất cả đều nói là RAO, RÀO, ARAU, MARAU, IRAU .v.v…
Vua Hùng Vương lại thống nhứt ngôn ngữ hơi lạ lùng là lấy cả hai trạng từ của một nhóm để nhập làm một. Thí dụ nhóm Khả Tu có trạng từ Mak có nghĩa là MẶC KỆ, và trạng từ TAKÊ đồng nghĩa. Mak bị nhập với Takê để làm mặc kệ của Việt.
Tuy người Việt miền Bắc vẫn nói Mặc gọn lỏn, còn người Việt miền Nam vẫn nói KỆ gọn lỏn (hoặc THÂY KỆ. THÂY là trạng từ Phù Nam).
Thế nghĩa là MẶC KỆ chỉ mới có về sau này, chớ không phải vua Hùng Vương nhập lại, còn hồi xưa ta vẫn nói y hệt như Khả Tu là Mak và Takê chúng tôi chủ trương rằng tất cả dấu vết cổ thời đều còn đủ và trường hợp MẶC, KỆ và MẶC KỆ đã cho thấy rõ như vậy.
Việt ngữ thành hình đúng vào năm mà cuộc thống nhứt các bộ lạc đã hoàn thành, chớ trước đó thì chỉ có các phương ngữ Mã Lai, mà không hề có ngôn ngữ của bất kì quốc gia nào, vì các quốc gia Việt ở Hoa Nam cũng chỉ được thành lập đồng thời điểm với nước Văn Lang chớ cũng chẳng lâu đời hơn được.
Như đã nói, chúng tôi không biết cái thời điểm ấy, nhưng sớm lắm cũng chỉ một ngàn năm trước Tây lịch chớ không thể sớm hơn, bởi từ chiếc đá mài lưỡi rìu có tay cầm tiến lên phong kiến giai cấp, mất hai ngàn năm là vừa, không chậm cũng không mau.
Tuy nhiên, cái Mã Lai ngữ hay các phương ngữ Mã Lai trước đó, cũng vẫn là Việt ngữ phần nào rồi, bởi các danh từ chung của chủng tộc đã nằm sẵn trong đó rồi, kể cả vài yếu tố về văn phạm nữa.
NgườiJeh nói: Nó, anh là tôi = Tôi là anh của nó (hơi ngược)
Người Mạ nói: Tôi ăn cơm = Tôi ăn cơm (xuôi)
Người Khả Tu nói: Tôi nhắm mắt = Tôi nhắm mắt (xuôi)
Thống nhứt xong rồi thì xuôi ngược gì phải một chiều hết thảy.
Nhưng đó chỉ là các phương ngữ của Lạc bộ Trãi, và Việt ngữ lạc bộ trãi.
Bọn Lạc bộ Mã chưa tới nơi mà Việt ngữ đã giàu 30 lần hơn mỗi bộ lạc trong 35 bộ lạc kể trên. Bọn Mã tới Việt thì Việt ngữ lại phong phú gấp đôi vì bọn ấy llại còn có nhiều danh từ riêng hơn các bộ lạc Trãi bởi họ đã lập quốc rồi ở Hoa Nam.
Đến năm 500 trước tây lịch thì bọn Lạc bộ Mã đến nơi và vua Hùng Vương lại vay mượn của bọn khách trọ ấy (tổ tiên của người Mường. Bấy giờ thì vua Hùng giống hệt như Nhựt Bổn ngày nay, là mỗi ý niệm có hai danh từ. Thí dụ như Nhựt lấy MASÉ của Nam Dương, (Mã) biến thành Mađa có nghĩa là NỮA, và lấy một trạng từ của một nhóm Trãi ở Nhựt để làm trạng từ NỮA thứ nhì của họ dưới hình thức NAO.
Chỉ phiền là không thể biết NAO và NỮA, tiếng nào chắc chắn đúng gốc tổ hơn, vì không thể theo dõi tất cả những danh từ thượng cổ được như chúng tôi đã theo dõi CÁ và TÔI.
Nhưng chúng tôi có cảm giác rằng NỮA đúng gốc tổ hơn vì đồng bào Thượng nói gần gần như thế, thí dụ người Sơ Đăng nói NẾÔ, giống Nữa của ta hơn là giống NAO của Nhựt. Tuy nhiên đó chỉ là một cảm giác, vì luật đa số không bao giờ được chúng tôi dùng để chứng minh cái gì hết.
Bọn Trãi ở Nhựt chắc không đồng số với bọn Trãi ở Việt Nam, và sự lựa chọn danh từ để thống nhứt cũng không giống nhau giữa dân Việt và dân Nhựt, nên Việt ngữ và Nhựt ngữ tuy có giống nhau, nhưng không phải là giống 100% được. Họ lại bị Trung Hoa tràn ngập nên họ mất danh từ nhiều hơn ta.
Một ngàn năm trăm năm sau đó, ta bắt đầu Nam tiến và gặp lại (dĩ nhiên là người Chàm, tổ tiên của người Mường), nhưng ta cũng gặp lại các nhóm Trãi mà 5000 năm về trước, không định cư ở lưu vực Hồng Hà, mà ở Trung Việt và Cao Nguyên. Ở Trung Việt họ đã bị người Chàm di cư đến, đánh đuổi họ lên Cao Nguyên để họ nhập bọn với Trãi nằm sẵn trên đó.
Hễ người Chàm lùi tới đâu thì ta lại gặp bọn Trãi xưa ở đó. Tới Quảng Trị, ta mới gặp lại người Bru, tới Huế mới gặp lại người Pacóh ở Asau, Alưới, tới Quảng Nam ta mới gặp lại người Khả Tu, và mãi cho đến năm 1623 ta mới gặp lại người Mạ đang làm chủ đất Đông Bắc Nam Kỳ, Cao Miên chỉ là chủ trên giấy tờ. Người Mạ là dân mà theo sử thì ta gặp lại sau cùng. Nhưng thật ra, dân mà ta gặp trễ nhứt là người Sơ Đăng và người Jêh. Ở Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, Bắc Bình Định, ta bị các thứ dân khác ngăn không cho ta liên lạc với Jêh và Sơ Đăng. Đó là dân Takua, Katua, CUA, vân vân… Những người Việt lái quế ở vùng đó, tiếng là nói mua quế Ngọc Lĩnh của người Sơ Đăng, nhưng thật ra thì họ chỉ được tới Trà Mi là đất của người Katua, Sơ Đăng bị vây tứ phía.
Vài năm trước khi Pháp xâm lăng ta, có một số người Việt bị bắt đạo, mạo hiểm chạy lên nơi này mà ngày nay là thị trấn Kontum. Nhưng nơi đó là đất của người Bà Na, và ta cứ bị các thứ dân khác ngăn ta với dân Sơ Đăng, vào năm 1840 ấy. đó là dân Rơngao, một thứ dân lai căng.
Ta (tức các cố đạo, chớ không phải thường dân) chỉ thật sự tiếp xúc được với người Sơ Đăng từ năm 1920 đến nay mà thôi.
Trong cuộc tái hợp này, đôi bên vẫn có học thêm với nhau, nhưng rất ít, vì ta đã văn minh lắm rồi, còn họ thì cũng đã đủ danh từ để dùng, còn có dư nữa là khác. Thí dụ ta học tên của một loại danh mộc Yêng Yêng của người Khả Tu ở Quảng Nam, tên của một loại danh mộc Cẩm Lai của người Mạ ở Biên Hòa.
Mỗi nhóm thượng học của ta được bao nhiêu danh từ trong lần tái hợp này, ta đều đếm được cả, nếu ta bỏ
công ra học hỏi, không có vấn đề lẫn lộn thượng cổ, cổ và hiện kim được.
Nhiều danh từ, truy nguyên rất khó nhưng rồi cũng truy được. Thí dụ hiện nay người Mạ ở Lâm Đồng gọi chiếc xe môtô là Mayô. Chúng tôi tìm mãi mới hay rằng họ học với nông dân Biên Hoà thuở họ còn có mặt ở Biên Hòa. Nông dân Biên Hoà gọi xe đó là xe Máy Dầu. Máy Dầu biến thành Mayô được còn Môtô thì không.
Mạ là nhóm thượng mà ta có trao đổi ngôn ngữ nhiều nhất vì họ là nhóm thượng độc nhất ở đồng bằng, ít lắm cũng từ Mỹ Tho lên đến Biên Hoà và đã sống chung với ta ít nhất cũng 200 năm, họ chỉ rời khỏi Biên Hoà trên nửa thế kỉ nay thôi.
(Những nhóm Trãi khác như bà Na, Sơ Đăng, Khả Tu xưa cũng ở đồng bằng Trung Việt, nhưng bị Chàm đánh đuổi lên Cao Nguyên, còn Mạ thì không hề bị Phù Nam đánh đuổi vì Phù Nam quá kém và quá ít người. sử tàu chép rằng dân Phù Nam hỗn tạp về dòng giống là vì lẽ đó. Mạ được chấp nhận ở lại Nam Kì để làm công dân Phù Nam.
Chợt bọn lưỡng Hà đến nơi (chớ không phải Ấn Độ như sử Tây đã chép), lãnh đạo Phù Nam, lập ra một đế quốc lớn, nhưng Lưỡng Hà rất văn minh, cũng không đánh đuổi ai cả, mà để vậy hầu đồng hoá và thống nhứt Mạ.
Nhưng cấp lãnh đạo đó chưa hoàn thành sứ mạng thì đến thế kỉ thứ 6, bị Cao Miên diệt đi, người Mạ chỉ mới bị Phù Nam hoá nửa chừng thì lại bị Cao Miên hoá, nhưng cứ còn giữ đất. Mãi đến năm 1623, ta di cư vào Nam mà tổ chức tế nhị của ta làm bực mình họ, họ mới bỏ đất lần hồi cho ta, rút lần từ phái dưới lên Biên Hòa, và ngày nay thì họ chỉ còn có mặt lưa thưa ở Long Khánh, nhưng trung tâm thì ở Lâm Đồng.)
Họ là chủ đất nam Kì trước khi Phù Nam đến nơi (đồng lúc với Chàm tức 500 trước Tay lịch). Họ kém nên bị Phù Nam lãnh đạo. Phù Nam bị Cao Miên diệt quốc rồi thì họ bị Cao Miên lãnh đạo. Nhưng ta tổ chức quá chặt chẽ, không để lỏng lẻo như Cao Miên, nên họ khó chịu, rút lần lên Lâm Đồng hết và đến nay họ vẫn còn làm rẫy.
Một vài phụ chi quanh họ, định canh, nhưng chánh chi cử luân canh.
Danh từ của họ có len vào cả văn chương của miền Nam nữa, nhứt là trong ca dao, tục ngữ và họ dùng đến ba ngôn ngữ: Phù Nam, (Lạc bộ Mã) Cao Miên (Lạc bộ Chuy) và Lạc bộ Trãi của chính họ. Nhưng tất cả các danh từ của con người cổ sơ nơi họ đều là danh từ của Lạc bộ Trãi.
Ta phải thú nhận rằng ta kém người Chàm trong việc khai hoá đồng bào Thượng. Chàm là Lạc bộ Mã, thế mà họ làm thế nào mà ba nhóm Trãi và Churu, Rôglai và Jêh dùng đến 80 % danh từ của Lạc bộ Mã và định canh hẳn.
Người Mỹ tới đây rất trễ và khi họ nghiên cứu người Jêh họ kinh ngạc vô cùng vì người Jêh ở ngang Quảng Ngãi mà lại ăn nói hệt như người Nam Dương nên vài nhà ngữ học người Mỹ kết luận rằng Nam Dương đã di cư đến đó.
Người Mỹ không biết rằng hồi cổ thời, nơi đó khít vách với Chiêm Động là trung tâm văn hoá của Lâm Ấp rồi của Chiêm Thành. Họ cũng không biết rằng hồi đời xưa, người Chàm nói y hệt như Nam Dương. Họ lại cũng không biết rằng người Chàm không thể chối nhận có mandi ở cạnh kinh đô Indrapura được, thành thử họ chỉ còn một con đường độc nhứt là đồng hoá triệt để người quanh đó. Nhưng họ thất bại với người khít
vách là người Takua và người Cua, nhưng lại thành công lớn với người Jêh ở trong xa, giáp ranh với Ai Lao. Họ nhờ đất của người Jêh để liên lạc với Chân Lạp vốn lập quốc ở Ai Lao hồi cổ thời, và chính vì thế mà Chàm ngữ lại mang hơi nhiều danh từ Cao Miên, khiến các ông Tây đời xưa đặt Chàm ngữ và Cao Miên ngữ vào một gia đình. Đó là một sai lầm to tát.
Bọn Lạc bộ Chuy Nam thiên cùng lúc với bọn Trãi, cách đây 5000 năm. Nhưng riêng Cao Miên thì không, mặc dù họ cũng là Lạc bộ Chuy. Bọn Nam thiên thượng cổ chỉ là người Munda rồi người Miến điện, tuy đồng gốc với Cao Miên, nhưng khác.
Ta biết được điều ấy nhờ quốc hiệu Cao Miên xưa là CHANH RA mà họ còn nhớ nghĩa là được Tàu phiên âm là Chơn Lạp. Chanh là người Tàu, trong ngôn ngữ Cao Miên. Còn ra thì người Pháp cho rằng là THẮNG. Chanh Ra là thắng Tàu.
Một sự kiện đáng ngạc nhiên ở Nhựt, bọn Mã lãnh đạo bọn Trãi. Thế mà danh từ Mã trong Nhựt ngữ lại bị biến nát hết, đến không nhìn nhau được nữa khi các nhà bác học Nhựt đối chiếu Mã ngữ và Nhựt ngữ.
MÃ NHỰT
Kaki bị biến thành Ashi = Cẳng
Masé → Mađa = Nữa
Siang → Asa = Buổisáng
Muka → Kao = Mặt
Bôcốc → Boku = (cây) cối
Kiri → Hiđari = Bên trái
Nhưng danh từ của bọn thua trận, bị lãnh đạo là bọn Trãi thì lại được giữ gần gần như nguyên vẹn:
TRÃI HỰT
Múa → Mau
May → Mai
Nữa → Nao
Irau, Rửa rarr; Arau
Anuk → Inú (chó)
Rui → Taruki
Cây → Ki
Tay → Tê
Vẫn là có biến, nhưng còn nhận diện với nhau được, như CÂY biến ra KI, chí như CỐI là BÔCỐC mà biến thành BÔKU thì khó lòng mà nhận bà con.
(Theo luật Swadesh, thì danh từ Ashi của Nhựt, chỉ mới có lối hai trăm năm thôi, vì danh từ KAKI còn nguyên vẹn trong Nhựt ngữ, và ở độc một trường hợp: Mizukaki = Cẳng nước = Cẳng có bẹ như cẳng vịt, cẳng ếch.
Kaki rụng đầu K vào năm 500 trước Tây lịch chẳng hạn, tức còn lại AKI, mãi cho tới năm 500 sau Tây lịch, đúng một ngàn năm, theo luật Swadesh, thì mọc khúc giữa S, hoá ra là ASKI.
Aski thọ suốt ngàn năm, tức cho tới năm 1500 sau Tây lịch ngang với Mạt Lê của ta thì lại mọc thêm khúc giữa H, sau khi rụng khúc giữa K. Sự mọc và rụng nầy đi song đôi với nhau trong vòng ba trăm năm, cho đến năm 1800, thì Ashi thành hình: ASKI → ASHI.
Mong các nhà bác học Nhựt tìm cổ văn của họ để kiểm soát xem lịch trình biến dạng Kaki → Ashi ra thế nào, có đúng như những bài toán mà chúng tôi đã vẽ phác ra theo luật Swadesh hay chăng.)
Lạc bộ Trãi (Bắc Việt) nói NA NÁ thì Lạc bộ Trãi Nhựt cứ còn được phép nói ANNA. Nhưng Lạc bộ Mã (Nam Dương) nói NANA = TRÁI DỨA, TRÁI THƠM, TRÁi KHÓM, thì tức thì Lạc bộ Mã (Nhựt) biến thành PAINAPPURU.
Nếu đó là vay mượn của Anh PINE- APPLE thì lại còn tệ hơn nữa vì cả hai nhóm Trãi và Mã ở Nhựt đều mất hết ngôn ngữ đợi tiếp xúc với người Anh mới gọi tên được loại trái đó.
Họ mượn danh từ Châu Âu một trăm lần nhiều hơn ta, cả trái chanh cũng bị gọi là RIMON tức LIMON, nhưng riêng về NANA của Nam Dương thì không chắc Nhựt mượn Pine-Apple vì chính Châu Âu đã mượn NANA để biến thành ANANAS thì không lẽ kẻ cho vay lại đi vay lại của con nợ, nên chúng tôi nghĩ rằng Painappuru là do gốc tổ NANA bị biến dạng bậy bạ. Khi họ dám biến KAKI → ASHI thì họ dám biến tất cả. KAMI là MÌNH, tiếng của thần tự xưng với loài người thế mà lại bị biến thành ÔNG THẦN thì họ dámbiến tất cả ra tất cả, chỉ trừ danh từ của bọn thua trận thì được để yên, chẳng những thế, mọi ngành hoạt động văn hoá nghệ thuật đều dùng danh từ của bọn thua trận, đồ sứ là Sêtômônô = Món Lại Hộ, kịch phong tục thì SEWA- MONÊ tức MÓN XIƯƯA, mà XƯA của bọn Trãi có nghĩa là PHONG TỤC; truyện cổ tích là SETSEWA tức TÍCH XIƯƯA.
Ta có thể tưởng tượng rằng bọn Trãi ở Nhựt tuy thua trận các Thiên Hoàng, nhưng chỉ thua ở đường tơ kẽ tóc mà thôi, và kẻ lãnh đạo phải kính nể kẻ bị lãnh đạo đến mức không dám đụng tới danh từ của họ.
Hiện ngôn ngữ đó giải thích được sự kiện ở Nhựt hồi trung cổ, nội chiến xảy ra nhiều hơn ở nước ta bội phần.
Sử Nhựt hoàn toànk biết gì hết về nguyên nhơn dân tộc mà chỉ đưa ra các nguyên nhơn khác, bởi họ không biết rằng Nhựt vẫn có hai thứ Mã Lai y hệt như ở Việt Nam, và có hai thứ danh từ khác nhau, trừ những danh từ danh của con người Mã Lai nguyên thủy thì mới giống nhau được như HẠ, SAKANA, TÊ, KI.
Cũng nên biết rằng khi bọn Mã từ Nam Dương lên xâm lăng bọn Trãi, thì bọn Trãi đã văn minh cao rồi nhờ di dân Trung Hoa do hậu duệ Phù Tô đưa sang Nhựt trên hai trăm năm trước khi bọn Mã tới.
Có lẽ bọn Mã chỉ thắng nhờ lực lượng quân sự, và cũng chỉ lãnh đạo nhở lực lượng quân sự, còn văn hoá thì cứ do bọn Trãi nắm giữ.
Và bọn Trãi học tiếng Tàu không có thầy vì bọn Phù Tô gòm toàn nông dân và thợ, thế nên người Nhựt dùng tiếng Tàu quá kì cục. Thay vì vay mựơn danh từ CANH (ăn cơm của Tàu, như ta đã làm, họ lại sáng tác bằng cách nhập một tiếng Tàu là HẤP với một danh từ Trãi là MÓN. Nhưng họ lại đọc HẤP là SUI. Hoá ra CANH của Nhựt Bổn là SUIMÔNÔ.
Bọn Mã tới nơi, thắng trận, nhưng chẳng biết Ất Giáp gì hết cũng nói SUIMÔNÔ y hệt như bọn Trãi đã học nhảy dù, như vậy từ hai ngàn năm rồi.
Dưới đây là một nhận xét để giúp người Nhựt đi tìm bà con thật cật ruột. Về động từ Rửa thì hiện trong lãnh thổ Việt Nam, nó có mặt dưới các hình thức sau đây:
Việt Nam: Rửa
Mạ: Irau
Sơ Đăng: Jíu
Sơ Đăng: Ró
Khả Tu: Arau
Nhựt nói là ARAU, không khác Khả Tu một nét. Khả Tu ở ngang Đà Nẵng về mặt vĩ tuyến nghen các Anata. Người Nhựt gọi con CHÓ là INÚ, người Khả Tu gọi là ANUK, người Nhựt gọi CHỊ là ANE, người Khả Tu gọi là Anô. Nhựt gọi màu vàng là KI, người Khả Tu gọi là RI. Chắc chắn là Khả Tu ở Nhựt đã lãnh đạo phe Trãi ở Nhựt vì nếu dân nào ở V.N cũng có Rửa, có Arau, thì chỉ có dân Khả Tu là có ANUK, ANÔ và RI.
Các nhà ngữ học Pháp làm việc cho Việt ngữ tiền chiến, đã có một chủ trương sai lầm như sau: “Vào thế kỷ X… thì Việt ngữ và Mường ngữ tách rời ra, Việt ngữ biến dạng, thay đổi nhiều, còn Mường ngữ thì không.”
Chủ trương trên đây có đúng hay không? Ta chưa vội đáp, chỉ biết là nó hàm một yếu tố sai, không được nói ra.
Chủ trương đó, làm cho ai cũng hiểu rằng Việt ngữ và Mường ngữ trước đó là một. Đó là một sai lầm. Sở dĩ có chủ trương ấy vì vào những năm mà các ông Tây nghiên cứu Việt ngữ, chưa ai biết người Mường là dân nào cả, và giới học giả chia làm hai phái, một phái cho rằng người Mường là ai không biết, phái khác
cho rằng họ là người Việt 100%. Chính những nhà ngữ học nói trên thuộc vào nhóm sau, mà đại diện là ông H. Maspéro.
Nay chúng tôi dựa vào ngôn ngữ tỷ hiệu thì biết chắc rằng người Mường là Austronésien, tức Mã Lai đợt II, tức Lạc bộ Mã, thì Việt ngữ và Mường ngữ là hai chớ không phải một, về mặt dân tộc. Về chủng tộc, dĩ nhiên họ và ta là một.
Hai thứ Mã Lai đó chỉ giống nhau 40% về danh từ mà thôi. Đó là những danh từ căn bản của con người Mã Lai nguyên thỉ. Về sau, họ tách rời ra, sống ở hai địa bàn khác nhau là Hoa Bắc và Hoa Nam, nên họ sáng tác 60% còn lại, khác nhau hết.
Nhưng người Mường lại đặc biệt là đã tái hợp với ta vào năm 500 T.K theo tiền sử học cho biết, và họ định cư ở Bắc Việt với tư cách dân bổ sung, làm khách trọ, nên rồi họ phải học theo ta, vì thế mà rồi 60% của họ, sau đó, họ phải bỏ đi, và nói như ta, nhưng lại đọc không giống được hệt như ta.
Học tiếng Mường, ta thấy rằng họ dùng danh từ như ta, nhưng cứ còn sót lại lối ba bốn trăm danh từ của Nam Dương, tức của Lạc bộ Mã mà không ai chú ý, vì những nhà nghiên cứu Mường ngữ không biết tiếng Nam Dương. Thế rồi họ xem mấy trăm danh từ ấy là của cổ Việt, mà Việt Nam không dùng nữa.
Mường: No ti = Ở đâu
Nam Dương: Đi mana = Ở đâu
Họ đã nuốt MA vì chịu ảnh hưởng độc âm của ta, còn Di-Na bị bảo lộn thành Noti: Vậy Noti là sự đảo lộn và biến dạng của Đina của Nam Dương chớ không bao giờ là hình thức cổ của Ở Đâu của Việt Nam.
Mường = La no pò = Làm sao vậy.
Nam Dương = Apa = Làm sao.
LA NO PÒ cũng chẳng dính dáng gì tới tiếng Việt cổ hết.
Trong quyển sử, chúng tôi có trình ra hai danh từ Mường giống hệt danh từ Nam Dương:
Mường : Tô = Cây dâu tằm
Nam Dương : Pơ tô = Cây dâu tằm
Mường : Pơ Đuông = Lúa gạo
Nam Dương : Pađi
Chàm cổ : Pơđa
Chàm kim : Pađai
Rađê : Pơđai
Giarai : Pơđai
Thế thì không có sự tách rời nói trên bao giờ, và trước sau gì họ cứ khác. Ta có thể phân chia như sau: 40% giống nhau từ thượng cổ: cứ còn
60% khác nhau.
Như đã nói, bia trên đền Hùng đã nói đến HÙNG. Đó là các cụ nhà Nho đã Hoa hoá một danh xưng Việt, chắc chắn là như vậy, chớ Việt ngữ thuần túy không có tiếng Hùng. Các cụ Hoa hoá nhưng vẫn Hoa hoá cái gì chớ không phải sáng tác, mà cái gì đó thì hiện nay không ai còn nhớ nữa, chỉ thấy đồng bào ở Bắc Cao Nguyên gọi ta là Ađuôk.
Thế thì rất có thể họ gọi theo cổ thời, chớ Chàm, Cao Miên, Ấn Độ đều không có danh từ AĐUÔK còn người gọi ta là AĐUÔK lại cũng chẳng biết AĐUÔK là gì. Ta cứ tạm kết luận rằng AĐUÔK có nghĩa là HÙNG, rồi tìm học thêm vì có vài nhóm Thượng hiện chưa bao giờ được ai biết ngôn ngữ ra sao như một nhóm định cư giữa người Sơ Đăng, người Khả Tu và người Jêh, nhóm ĐI.
CHƯƠNG VII
MÌNH VỚI TA TUY HAI MÀ VẪN CỨ LÀ HAI HAY LÀ TRÒ CHƠI XÍ CỘT CỦA CÁC ĐẠI DANH TỪ MÃ LAI
Chúng tôi không biết ở Trung và Bắc có trò chơi xí cột hay không nên phải giải thích sơ qua vài dòng. Trò chơi thường xảy ra ở một ngôi nhà lớn mà trống trải, một vựa lúa to, vào lúc mãn mùa chẳng hạn, trong đó phải có nhiều cây cột không bị chướng ngại vật ngăn trở, ít lắm là mười cây.
Nếu có mười cây cột thì trẻ con phải đông 11 đứa. Mười đứa làm chủ mười cây cột, còn một đứa thì dư, không có đất cắm dùi. Thế là nó thua. Nhưng nó chưa thua vì các đứa “xí”, tức “cướp” được cột, phải thay đổi với nhau, chớ không được phép giữ chỗ một cách cố định, không giây phút nào sự đổi chỗ được phép ngưng hết. Và đứa thất nghiệp sẽ mau chơn cướp một trong hai, ba, bốn cây bị bỏ trống trong vài giây ấy thế là nó lại được và một đứa khác phải thua.
Các đại danh từ của chủng Mã Lai cũng thế. Nhưng chúng tôi chỉ nghiên cứu có chi Âu tức Thái và chi Lạc với ba phụ chi là Lạc bộ Trãi, Lạc bộ Mã, và Lạc bộ Chuy mà thôi, còn chi Nam Ấn, Trung Mỹ và Đại Hàn chúng tôi còn đang tìm học, thì xin chừa họ ra.
Ta có dân ca (hay thơ?):
Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai.
Nhưng trong ngôn ngữ Việt Nam thì MÌNH với TA, tuy hai mà vẫn cứ là hai.
Chúng tôi bắt đầu xét ngôn ngữ của chủng Mã Lai từ thời thái cổ đến nay, và chúng tôi chia các thời kỳ lịch sử của chủng Mã Lai như sau:
Thái cổ: Haute antiquité: 8 ngàn năm
Thượng cổ: Antiquité: 5 ngàn năm
Cổ: Epoque archaique: 3500 năm
Trung cổ: Moyen âge: 2500 năm
Đến năm 40 sau Tây lịch thì một biến cố lớn xảy ra, làm xáo trộn ngôn ngữ của ta quá nhiều. Đó là cuộc xâm lăng của Mã Viện. Và từ lối năm đó, thì Việt ngữ vốn là Mã Lai ngữ đa âm, bị độc âm hóa và nhiều biến chuyển nữa xảy ra.
Chúng tôi đi theo sát lịch sử của chủng tộc là chủng Mã Lai nó chia rõ rệt ra thành các thời kỳ sau đây: I - THÁI CỔ: sống chung nhau quanh núi Himalaya
II - THƯỢNG CỔ: tách rời để di cư đi Ấn Độ và Hoa Nam, Hoa Bắc
III - CỔ: tái hợp tình cờ vì cuộc săn đuổi của Tàu. Trước thời tái hợp có một biến cố lớn là các chi nhóm đã lập quốc rồi ở bên Tàu, và ở Đại Hàn, Nhựt Bổn, Việt Nam, v.v. Vậy khi tái hợp là văn hóa đã hơi khác nhau đôi chút vì sự định cư lâu đời ở các quốc gia đó, và các nhóm đều phong phú thêm về ngôn ngữ, nên lại học qua học lại với nhau, y như học của ngoại quốc.
IV - TRUNG CỔ: lại tách rời, rồi các chi nhóm bị ảnh hưởng ngoại lai của Tàu và Lưỡng Hà, Á Rập, Ấn Độ.
Trong thời Trung cổ nầy thì Việt ngữ thành hình hẳn với những vay mượn của thời tái hợp và của Tàu.
Họ đã lập quốc ở bên Tàu, đã sáng tác thêm, nhưng cái MẶT cứ là MATA, con MẮT cứ là MATA, LÁ cứ là HALA, cứ là ĐOAN, CÂY cứ là KÂY, kaỹu.
Nhưng những thứ tế nhị hơn thì đã khác.
Chúng tôi đi từ cái ta đến gia đình, đến thiên nhiên, đến dụng cụ, đến đời sống tinh thần, và mặc dầu nghiên cứu ngôn ngữ ta lại biết được những sự kiện lịch sử mà tiền sử học không cho biết.
Quả thật tiền sử học không có phép mầu. Nhưng ngôn ngữ học và các khoa học khác có cái gậy thần ấy và cùng lúc với nghiên cứu ngôn ngữ, ta thử tìm biết đời sống tinh thần và tâm linh của dân ta xem sao.
Đây là một phần trong một ngàn trang (chớ không phải 500 trang) sách của quyển NGUỒN GỐC MÃ LAI CỦA DÂN TỘC V.N bị lọc ra, vì quyển đó quá dầy sẽ bán không được. Và chúng tôi làm được vài quyển nho nhỏ với cái phần bị lọc đó.
Đại danh từ TÔI của chủng tộc, thuở ban đầu dĩ nhiên không phải là TÔI đâu. Nó đã tan nát rồi, vào thời tái hợp, nhưng ta khôi phục lại được cái đại danh từ tối quan trọng đó.
Nó chỉ còn tồn tại trong chi Lạc bộ Trãi và Lạc bộ Mã, còn chi Âu đã nói là CHUN, chi Lạc bộ Chuy đã nói là KHNHUM từ hơn 2000 năm nay.
Cái TÔI cổ lối 6 ngàn năm đã tìm lại được ở chương I. Đó là ANY với một bầy con đông vô số kể.
Vua Hùng Vương nói AI. Nhưng bọn Lạc bộ Mã bị Tàu săn đuổi, đến ở trọ với Vua Hùng lại nói AKU. Ta không bỏ AI, không cóp AKU, nhưng ta sử dụng nó cũng khá linh động.
Từ nhiều trăm năm nay, dân ta đã quên tiếng Việt, ngỡ Quan Lang là ông quan có tước là Lang. Nhưng không phải vậy đâu. Đó là KUANG T’LANG.
KUANG là danh từ của ta, tức của Lạc bộ Trãi, có nghĩa là tù trưởng. Còn T’LANG là danh từ của khách trọ mà ta vay mượn có nghĩa là thái ấp nhỏ.
Kuang T’lang = Tù trưởng thủ lãnh 1 thái ấp nhỏ.
Hôm nay một sự lầm lẫn y hệt như thế đang xảy ra tại Ninh Thuận. Người Chàm là Lạc bộ Mã, lại vay mượn danh từ KUANG của Thượng Việt là Trãi và dùng để gọi ông Quận Việt Nam. Kuang đã biến thành Quan, lại đang biến thành Quận.
Bọn khách trọ văn minh, đã đóng góp để kiện toàn văn hóa ta, mà vua Hùng ban thái ấp cho họ, ban các
T’lang mà hiện nay họ còn giữ với tước KUANG bị hiểu lầm là QUAN.
Nhưng ta đã hiểu lầm một cách tai hại hơn. Đối với Lạc bộ Mã thì Kuang T’lang = Thằng tù trưởng.
Thế thì khi ta gọi người Mường là Quan Lang thì họ bị mích lòng ghê lắm, nếu họ còn nhớ tiếng Việt cổ thời của bọn Lạc bộ Mã.
Phải gọi họ là Kuang T’lang Aku, nói tắt là KUANG T’LANG KU mới là có lễ độ, vì từ ngữ ấy có nghĩa là: Bẩm tù trưởng CỦA TÔI.
Lối nói đó, giống Tây, nhưng hữu lý hơn Tây. Tây nói VOTRE MAJESTÉ = Bệ hạ của các anh, thì còn nghĩa gì nữa!
Ta đã quên hết tiếng Việt rồi, từ ngày mà ta dời KU để đứng trước các nhân vật, chứ không phải sau: Cụ Tuần, cụ Phán, v.v.
Đây là vay mượn chớ không còn là danh từ chung nữa nên ta biến và dùng sai, vì ta không thạo nghĩa. Danh từ nào vay mượn là biết ngay, vì nếu có biến dạng, biến nghĩa, nó vẫn còn có lý. KU biến thành CỤ và dời chỗ thì còn có lý, nhưng nó tự lật tẩy nó rằng nó là con vay mượn ở trường hợp sau đây, mà ta hiểu bậy bạ quá sức tưởng tượng.
Khi Lạc bộ Mã (và hiện Nam Dương còn dùng y hệt như hồi cổ thời) giới thiệu con trai nhỏ của họ với ai, họ cũng dùng AKU, không phải với ý nghĩa tôn kính quan to nữa, mà với ý nghĩa quý báu đứa con đó.
Anak Aku = Con nít của tôi.
Rồi họ cũng co rút Aku thành Ku. Nhưng lần nầy thì Việt Nam không đảo ngữ nữa, mà cứ để vậy, thay Anak bằng danh từ THẰNG và cho KU một ý nghĩa kì dị: cơ quan sinh dục của con trai: ”Thằng cu Tí, thằng cu Tèo”.
Khi giới thiệu con gái bé, Nam Dương nói: “ Anak gađi”.
Gađi = Con gái bé trinh trắng.
Cả hai tiếng tốt đẹp là KU và GAĐI đều bị dân tộc Việt Nam cho một cái nghĩa xấu nhất thế giới. Anak Gađi = Cái đĩ.
Ở đây Anak bị thay bằng CÁI và Gađi bằng ĐĨ.
Nhưng ĐĨ thuở ấy (thời Hùng Vương) vẫn còn nghĩa là gái bé trinh trắng. Nó chỉ xấu về sau này, khi ta có danh từ đồng âm là CON ĐĨ mà thôi.
Danh từ CON ĐĨ do tiếng Tamoul (Dravidien Nam Ấn) mà ra, không biết nó len vào Việt ngữ từ hồi nào, và bằng cách nào. Đó là danh từ CHAN ĐI. Nhưng không phải là danh từ chung thượng cổ đâu vì hồi thượng cổ không hề có nghề mãi dâm.
Tóm lại KU và ĐĨ thuở xưa rất tốt đẹp. Tiếng thứ nhứt bị ta quên nghĩa rồi hiểu sai, rồi tiếng thứ nhì thì rủi ro đồng âm với CON ĐĨ do Chanđi tạo ra, khiến ta ngộ nhận về sau.
Ngôn ngữ phiêu lưu kinh khủng và viết về lịch sử ngôn ngữ còn khó hơn là về lịch sử dân tộc nhiều lắm. Nào ai dè trong Việt ngữ lại có danh từ Mông Cổ, danh từ Tamoal, mà lại là những danh từ tối quan trọng vì KẺ và HỌ là hai ý niệm có tầm vóc lớn, còn CON ĐĨ tuy là chuyện xấu xa nhưng vẫn đánh dấu một biến cố lớn trong xã hội Việt Nam: sự xuất hiện của nghề mãi dâm.
Rồi ta sẽ thấy còn nhiều danh từ lạ nữa, mà Phạn ngữ là một.
Danh từ Kuang T’lang cho ta biết thật đích xác chế độ xã hội Việt Nam vào năm 500 T.K, năm mà tiền sử học cho biết rằng Lạc bộ Mã (tổ tiên người Mường) đến ở trọ với vua Hùng Vương.
Nước nhà đã thống nhứt theo chế độ phong kiến vì còn thái ấp, và không khác ngày nay ở xứ Mường chút nào cả. Nhưng vua Hùng Vương lại không có một danh từ để ban cho thái ấp trưởng, mà tạm dùng danh từ Kuang là tù trưởng.
Tù trưởng chỉ là trưởng của bộ lạc thôi chớ.
Điều thứ nhì mà ta được biết là bọn khách trọ ấy vẫn được trọng đãi, vì được phong kiến ở những thái ấp nhỏ, chớ không phải chỉ được làm thường dân mà thôi. Sở dĩ được vậy là nhờ họ đã văn minh lắm và giúp vua Hùng kiện toàn văn hóa.
Bọn Mã rất văn minh. Chính họ là tác giả trống đồng. Vua Hùng Vương kết nạp họ vì tình đồng chủng (40% danh từ giống ta) mà cũng để kiện toàn văn hóa của Văn Lang. Chính họ là kẻ đã đưa đôi đũa ăn cơm tới với danh từ ĐŨA.
Đừng tưởng đó là chuyện chơi. Cho tới năm nay người Ấn Độ văn minh là thế, vẫn còn ăn cơm bằng ngón tay. ĐUA vốn là chỉ số từ có nghĩa là hai, họ và ta biến thành ĐÔI và ĐŨA.
Nhưng vua Hùng Vương cũng không vừa gì, bằng không, ông đã mất ngôi, y như bọn Trãi ở Nhựt Bổn. Thiên Hoàng mà bọn Mã đến cướp ngôi của bọn Trãi đã lập quốc rồi. Vua Hùng Vương cũng đã tiến lên thời đại đồng pha (cổ vật núi Voi) và hơn bọn Mã về nông cụ. Họ có lưỡi HÁI. Đó là danh từ mà trước đó ta không có. Nhưng vua Hùng Vương có lưỡi A, mà:
Một lưỡi A, bằng ba lưỡi hái.
Tuy nhiên phải nhìn nhận rằng bọn ấy văn minh lắm, vì họ lập quốc lâu đời hơn vua Hùng Vương, quanh hồ Động Đình.
Chính bài dân ca ông Nỉnh ông Nang là của họ chớ không phải của ta:
Ông Nỉnh ông Ninh
Ông ra đầu đình
Ông gặp ông Nảng ông Nang
Ông Nảng ông Nang
Ông ra đầu làng
Ông gặp ông Nỉnh ông Ninh.
Có thuyết cho rằng ông Ninh là nói ngọng hoặc hình thức cổ của ông Linh (thiêng). Còn ông Nang là hình thức cổ của ông Lang.
Nhưng chúng tôi cũng có bằng chứng rằng hồi đầu Tây lịch dân ta gọi ông Lang là T’BOT. Lang là tiếng
Tàu thì ta không làm sao mà có được vào tới Hùng Vương.
Vả lại nếu Ninh là Linh Thiêng thì linh thiêng chỉ có thể hiện ở đầu đình, nhưng mà ông Ninh cũng hiện diện ở đầu làng như loài người thì không ổn. Vả lại ta cũng chưa vay mượn tĩnh từ Linh của Tàu.
Hiện nay người Nam Dương (Lạc bộ Mã) vẫn có một tục ngữ tương tự, nhưng ý nghĩa thì khác hẳn. Lang là Lanang = đàn ông lực lưỡng.
Nin là Lilin = cây nến
Dân ta biến Lthành N và I thành Ế.
Nhưng ĐÀN ÔNG với CÂY NẾN là cái quái gì? Đó là hai danh từ trong câu tục ngữ mà chúng tôi ám chỉ đến. Cây nến là tục danh dùng để gọi đùa những người đàn ông ẻo lả và vừa gầy lại vừa cao. Tục ngữ ấy đối chiếu hai loại nông dân có hình thù khác nhau, để đùa chơi vậy thôi.
Tục ngữ của MIỀN DƯỚI là như thế này: PUTƠRI LILIN, LANANG LAKI. Định nghĩa đen là: Công chúa cây nến gặp NÔNG DÂN ĐỰC LỰC LƯỠNG.
Ta biến Lanang thành Nang, Nảng.
Ta biến Linin đến hai ba lần:
Linin → Ninin
Ninin → Nin, Ninh
Nin → Nến
Lần biến sau cùng là vào thời Mã Viện mà ta bắt đầu bị độc âm hóa. Nhưng bài ca dao thì đã có trước đó vào giai đoạn nến còn là Ninh.
Ngày nay NANG hình như còn có mặt trong Việt ngữ với nhưng hình thức sau đây: (Nây) NẤN – (Bắp thịt) U NẦN.
Dân ca họ đi vào xã hội ta, cho thấy rằng thuở ấy họ và ta sống lẫn lộn với nhau chớ họ không sống biệt lập như ngày nay, vì thế mà chúng tôi chấp nhận truyền thuyết Mường, bởi không còn ai biết ai là con cháu của Trãi hay Mã nữa.
Vua Hùng Vương có Ừ mà không có DẠ, chính bọn ấy đã đưa YA tới mà hiện Miền Dưới còn dùng.
Tóm lại, đó là thứ dân bổ sung có đời sống tinh thần và tâm linh tế nhị rồi. Hơn thế vì đã lập quốc từ trước cả đời Tây Chu nữa, nên họ đã có những danh từ quí phái. Hơn thế, quanh họ có lu bù nước Việt văn minh bằng nhau (Sở, Ngô, Việt, Mân Việt) nên họ càng dễ văn minh hơn là vua Hùng Vương trơ trọi một mình ở Văn Lang.
Giàu danh từ quí phái, họ có đến ba đại danh từ ngôi thứ nhứt:
AKU: để người xưng hô với người
KITA: để xưng hô với dân
KAMI: để thần xưng hô với người.
Thần ở đây là thánh trong tôn giáo đồng bóng mà vua Hùng Vương cũng có, nhưng lại không có đại danh từ.
Vậy vua Hùng Vương đã vay mượng KITA của họ để phân biệt quí với tiện.
Y như Tần Thủy Hoàng lên ngôi rồi tự xưng là Trẫm, bắt dân tự xưng là Ngã là Ngô.
Dĩ nhiên là thánh thần của bọn Lạc bộ Trãi vốn nhà quê trước đó, tự xưng Ai, Any, bấy giờ cũng bước lên một bước trên đài danh vọng và cũng tự xưng là KAMI. Câu chuyện xảy ra cách đây 2500 năm.
Sống chung với nhau vài trăm năm thì Lạc bộ Mã (người Mường) và Lạc bộ Trãi đều biến KAMI thành ra MIN. Và MIN tồn tại cho tới năm các cố đạo Tây Phương đến xứ ta.
Hiện nay thì thánh thần ở Nam Dương cứ tự xưng là KAMI chớ không có biến.
Kẻ biến bậy có lẽ là Lạc bộ Trãi. Còn tổ tiên của người Mường, vì cái thân ở trọ, đành phải biến theo, chớ Chàm và Nam Dương có chủ quyền thì không biến!
Quí vị thấy AKU biến ra thiên hình vạn trạng, bây giờ ta theo dõi nhưng biến dạng của đại danh từ KITA.
Vua Hùng Vương chỉ tiếp tục tự xưng là KITA cho đến khi trào đại bị Thục Phán diệt. Nhưng dân thì chưa trèo đèo tự xưng là KITA. Ngày nay ở Miền Dưới (trừ Phi Luật Tân) đã mất vua rồi, thế mà chỉ có leo heo vài tỉnh, dân mới dám trèo đèo tự xưng là Kita mà thôi.
Dân ta trèo đèo có thể vào thời Đinh Bộ Lĩnh vì ông vua ấy bắt chước Tàu, tự xưng là TRẪM, Kita bị bỏ ngỏ. Nhưng khi trèo đèo ta bỏ mất âm KI. Người Chàm trèo đèo vào thời nào không rõ, nhưng âm ki chỉ được họ giữ lại có chữ K mà thôi.
Nam Dương: Kita (Dân chưa dám dùng)
Phi Luật Tân: Kita (Dân đã dám dùng)
Mã Lai Á (Kơlantan): Kita (toàn quốc không dám dùng nhưng tỉnh Kơlantan thì dám)
Đại Hàn: Đại Hàn là Lạc bộ Trãi thuần túy nên không có đại danh từ này.
Việt Nam: Ta (Thả cửa)
Chàm: Kta (Thả cửa)
Giarai: Ta (Thả cửa)
Mường: Ta (Thả cửa)
Cái TA thứ ba là TA của thánh thần cũng bị biến lung tung.
Khi các cố đạo Tây Phương đến xứ ta để giảng đạo thì họ mượn KAMI (đã biến thành MIN rồi) để đặt vào miệng đức Giê Su. Khi thánh của nước ngoài dùng đại danh từ đó thì tự nhiên dân tộc ấy nó mất cả nghĩa thiêng liêng, thành thử họ cũng tự xưng là MIN một cách trèo đèo.
Khi ta đọc sách truyền đạo của các cố đạo Kitô giáo, viết bằng quốc ngữ hồi thế kỉ 17, là rất ngạc nhiên, tự hỏi sao đức Chúa Trời, đức Chúa Giê Su không tự xưng với loài người là TÔI ĐÂY, TAO ĐÂY, mà tự
xưng là MIN đây, chữ MIN đó không có H cuối.
Các ông thuộc sách giảng đạo làu làu cũng trả lời được khi ta hỏi họ nguồn gốc của đại danh từ MIN ấy trong Việt ngữ, họ chỉ nói đó là tiếng cổ.
Nay ta đã biết rằng ta là Mã Lai rồi thì mọi việc đều rõ. Hơn thế ta lại biết ở cổ Việt, Lạc bộ Trãi vững ngôi với các ông vua Hùng Vương, khi bọn Lạc bộ Mã tới bổ sung cho dân số của vua Hùng.
Còn dân chúng trèo đèo tự xưng là Min vào thời nào? Chắc là không ai dám phá nổi bí mật của thời gian đó, mặc dầu nó chỉ mới xảy ra không lâu, nhưng theo thư tịch thì ta biết, ta biết cả tên của kẻ trèo đèo. Đó là Nguyễn Du trong câu thơ:
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi.
Một khi mà Min bị thần ngoại quốc dùng thì dân ta thấy rằng nó hết thiêng liêng, nên họ mới dám có sự trèo đèo ấy.
Ông Nhựt Bổn biến kì dị vô cùng. Thánh thần của ông không biết tự xưng là gì, nhưng ông thì biến đại danh từ KAMI đó thành danh từ với cái nghĩa ÔNG THẦN.
Thế nên khi đi tìm chủng tộc, họ mới phải điên đầu, vì so với ai, họ cũng khác hết. Bọn Lạc bộ Mã văn minh lắm, như ta đã thấy với ba cái TÔI rắc rối của họ.
Cái Mầy của chung, nhưng cả hai, Mã và Trãi lại cũng có cái Mầy riêng.
Miền Dưới: Mika = Mầy
Bà Na: Mi = Mầy
Việt Nam: Mi = Mầy
Mạ: Mi, Mai = Mầy
Nhựt Bổn: Kimi = Mầy
Nhưng đã yên đâu nào. Họ còn có một cái Mầy lễ độ nữa, rắc rối lắm là nó giống hệt cái ta của họ.
Miền Dưới: Kita = Mầy ( lễ độ)
Cao Miên: Eng = Mầy (lễ độ)
Việt Nam: Anh = Mầy (lễ độ)
Mạ: yiêng = Mầy ( lễ độ )
Chàm: Ai = Mầy ( lễ độ)
XiTiêng: Ay = Mầy ( lễ độ)
Ra Đê: Ỉ = Mầy ( lễ độ)
Sơ Đăng: Ẻ = Mầy ( lễ độ)
Ông Nhựt lấy Anh + Kita = Anata = Mầy ( lễ độ).
Thì cũng như ông Nhựt lộn xộn nên không còn nhận ra bà con nữa.
Đại danh từ KITA = Mầy (lễ độ) chỉ có dân Mã Lai Kedah là dùng mà thôi, nhưng anh Nhựt, có lẽ vốn đồng gốc với Kedah, nên anh ấy biết và mới nhập hỗn loạn như thế đó.
Ở Nhựt Bổn thủ phạm là Lạc bộ Mã, vì Lạc bộ Trãi đã mất ngôi, chịu phận đàn em, ngôn ngữ chánh thức là ngôn ngữ Đông Kinh (Tokyo) mà đó là ngôn ngữ của bọn Lạc bộ Mã, bọn đã cướp ngôi của Lạc bộ Trãi và tự xưng là Thiên Hoàng từ 2000 năm nay.
KAMI với MIKA lộn lẹo điên đầu, nhứt là hai tiếng lại giữ hai ngôi: KAMI ngôi thứ nhứt, MIKA ngôi thứ nhì. Không phải chỉ là sự tình cờ mà có chuyện lộn lẹo như vậy đâu. Ta thấy có sự liên hệ tư tưởng giữa Kita, Kami và Mika. Kita và Kami đều là tôi, chữ thứ nhứt, vua chúa dùng, chữ thứ nhì thánh thần dùng. Nhưng cái âm quan trọng trong đó là âm KI biến thành âm KA chớ không phải là âm MI.
KI nghĩa là Ta đây, thấy rõ trong KITA.
KA nghĩa là ta đây, thấy rõ trong KAMI.
KAMI, ngôi thứ nhứt, thì KA phải đứng đầu.
MIKA, ngôi thứ nhì thì MI phải đứng đầu, vì kẻ quan trọng không còn là Ka nữa mà là Mi, kẻ được gọi đến.
Ta cứ nói lên một câu mà một vị thần của ta xưa nói với con công và đệ tử, ta sẽ buồn cười lắm: ”Mika phải cúng cho Kami một đĩa xôi đấy nhé!”
Còn vua Hùng Vương thì nói với một thần dân như thế nầy: Kami chém kal mika. KALtức là CÁI, tức LICÁY, mà Lạc bộ Trãi trên Cao Nguyên dùng để chỉ cái đầu.
Dân thì nói: ”Chắc con kớt puôn rợ: kal, chắc, tay, jơn” (Thân thể người có bốn phần, đầu, mình, tay, chơn). Lạc bộ Trãi Cao Nguyên không đọc là chơn mà đọc là jơn. Xưa kia ta cũng phải đọc là jơn, không thể khác hơn được.
Ta lật một quyển tự điển Nhựt Bổn hay Nam Dương ta sẽ ngạc nhiên mà thấy TA với MI được định nghĩa dài một gang tay, còn NÓ thì chỉ có nửa dòng. Đó là dấu hiệu của hai xã hội phân biệt giai cấp triệt để, nên việc xưng hô giữa hai kẻ đối thoại là TAO với MẦY phải phức tạp không thể tưởng tượng được, Tao với Mầy là thần với người, là vua với dân, là nhà giàu với nhà nghèo, là chủ với tớ, là bạn với nhau, là nam với nữ, là quan với dân, là tướng với lính, là một vạn thứ, không sao kể cho xiết được.
Khi dân chúng Việt Nam trèo đèo tự xưng là MIN thì họ lại cho nó mọc cái đuôi H, mới đây thôi, tức sau Nguyễn Du.
Thế thì MÌNH với TA tuy hai mà vẫn là một vì đồng nghĩa. Nhưng MÌNH với TA tuy một mà là hai vì khác ngữ nguyên.
Và đấy là trường hợp Mình với Ta tuy hai mà triệt để hai, hoàn toàn hai, đó là CÁI MÌNH (thân thể), hiện chỉ có bốn quốc gia còn giữ được:
Nhựt Bổn: Mi
Đại Hàn: Mon
Việt Nam: Mình
Thái Lan Hmơan
HMƠAN, đọc chữ H và thật nhanh ở âm ƠA.
Hiện nay nhóm Khả Lá Vàng vẫn cứ gọi cái mình là cái CHẮC, còn người Việt miền Nam thì gọi kẻ lùn là Chăn chắc. Xin nhớ rằng Bắc Việt mất ngôn ngữ rất nhiều và quên mất CHĂN CHẮC. Người Khả Lá Vàng ở đèo Mụ Già chỉ có thể liên lạc được với miền Bắc chớ không với miền Nam để dạy miền Nam tiếng CHẮC. Vả lại thuở Khả Lá Vàng mất nước Đạo Minh trong tay Chơn Lạp thì miền Nam chưa có mặt trên quả địa cầu.
Vậy miền Bắc vẫn phải có Chăn Chắc có nghĩa là kẻ lùn. Chăn chỉ là tĩnh từ của Lạc bộ Mã là Chin, tổ tiên của người Mường, có nghĩa là nhỏ bé.
Vậy danh từ CHẮC có ít lắm cũng từ 5 ngàn năm, nhưng thật ra nó phải xuất hiện ít nhất cũng từ 8 ngàn năm, từ khi Lạc bộ Trãi phát tích. Năm ngàn năm là thời mà họ di cư tới cổ Việt. Nhưng danh từ kép Chăn Chắc thì chỉ mới có cách đây có 2500 năm, năm mà Lạc bộ Mã, tổ tiên của người Mường, tới ở trọ với vua Hùng Vương và cho ta mượn CHIN.
Hiện nay ở nông thôn Bình Trị Thiên, người ta nói ĐẬP CHẮC thay vì nói ĐÁNH NHAU. Đập chắc là đập cái chắc của nhau, thế nên chúng tôi mới quả quyết rằng vua Hùng Vương nói hệt như Khả Lá Vàng vì CHẮC là danh từ được thịnh dụng của Khả Lá Vàng, để chỉ cái Mình.
Khả Lá Vàng: Chak
Khả Tu: Chak
Sơ Đăng: Cha
Hê Lang: Cha
Mạ: Sak
Lào: Sak
Koho: Sak
Nông thôn Bình Trị Thiên: Chắc
Nam Việt: Chắc
(Nam Việt mỗi ngày mỗi nói đến Chăn Chắc nhưng đã quên mất nghĩa, khác với Bình Trị Thiên còn nhớ rằng đó là Cái Mình. Nhưng Bắc Việt thì quên tuốt cả danh từ nữa.)
Nhưng Lạc bộ Trãi lưu vực Hồng Hà rắc rối hơn tất cả các nhóm Mã Lai khác. Họ còn biến Mình một lần nữa, để dùng làm tiếng xưng hô giữa vợ chồng, tiếng Mình nầy thì còn non choẹt nhưng không biết do Mình là THÂN THỂ hay mình là TA mà ra, bởi vì do cái nào cũng hữu lý cả, bởi em yêu mình, em xem mình như Ta (như em) cũng có lý, mà em xem mình như chính thân mình của em cũng có lý.
Cái tiếng MÌNH trẻ tuổi nầy sống đâu được chừng một vài trăm năm thì đã chết vì ngày nay vợ chồng không xưng hô với nhau như vậy nữa.
Nay thì Em ơi! Anh ơi! Thế thì thề non hẹn biển làm gì, bởi BẬU chết, QUA chết, MÌNH cũng chết và vài năm nữa lối xưng hô Em ơi, Anh ơi, cũng sẽ biến mất.
Ngôn ngữ là một thứ khó điển chế nhứt, y hệt như bắt trạch, bắt lươn, bắt cóc bỏ dĩa.
Năm 1954 đồng bào miền Bắc di cư vào đây, nghe người Nam nói BỰ thay vì TO, họ rất chối tai, nhưng họ không hề dè rằng TO chỉ là tiếng Mông Cổ và ta vay mượn cách đây 5000 năm, và thuở thiên hạ mới dùng TO, thay cho LỚN thì những ông trung thành với ngôn ngữ gốc, chắc cũng đã tức mình y hệt như những ông nghe BỰ lấn át TO.
Đã bảo chính đại chúng tạo ngôn ngữ chớ không phải trí thức, thì xin trí thức đành chịu vậy, tức mình cho lắm chỉ tổn thọ.
Danh từ Mình là Thân thể là một hiện tượng mà chúng tôi suy gẫm từ hơn mười năm rồi mà không giải thích được. Tại sao khi tái hợp thì chủng Mã Lai còn giữ được hàng ngàn danh từ chung của thời thái cổ như Núi, Sông, Nước, Cây, Trăng, Lá, thế mà cái thân thể là cái gần gũi với họ nhứt, họ lại không giữ được.
MÌNH vốn là danh từ chung của đại khối Mã Lai, như MẮT. Nhưng MẮT thì giống nhau hết, mà MÌNH lại khác nhau hết, vì họ đã đánh mất hết. Nhưng chúng tôi tin là bọn Trãi còn vì Khả Lá Vàng cổ nhứt. Vậy kẻ đánh mất là Chuy, Mã và Âu.
Nếu họ đánh mất, vì phải học của Tàu hay của Ấn, thì ta hiểu được, đằng nầy họ còn, nhưng lại khác nhau là thế nào? Chúng tôi phải kết luận rằng Mã, Chuy và Âu đánh mất chớ không phải còn, và họ học của một dân tộc kém hơn. Rất có thể họ học của một dân tộc kém hơn vì chế độ mẫu hệ của bọn Mã và bọn Chuy kéo dài rất lâu đời. Thuở ta tới cổ Việt thì ta bắt đầu tiến lên phụ hệ, còn Mã thì không, ở các địa bàn của họ. Chuy cũng thế. Ngày nay, ta vào một gia đình Cao Miên, ta hỏi bất kì cái gì họ cũng bảo ta hỏi thẳng vợ họ. Điểm đó chứng tỏ rằng Lạc bộ Chuy ra khỏi mẫu hệ chưa lâu.
Ông G. Coedès đã cho biết rằng khi bọn Lạc bộ Chuy đến địa bàn mới thì thổ dân, thuộc chủng Mêlanê đã tiến lên cao bằng họ, tức tiến tới thời đại đá mài. Thế nên cuộc hợp chủng rất lớn lao. Và vì phía mẫu hệ đã giỏi nên bộ Chuy phải học với Mêlanê. Hẳn là như thế. Chắc Lạc bộ Mã cũng vậy, vì Nam Dương là trung tâm lâu đời nhứt của nhơn loại với con người Java thì hẳn thổ dân phải giỏi.
Ở các địa bàn Thái và Lạc bộ Trãi thì Mêlanê rất kém vì thế mà Thái và Việt ít hợp chủng, lại còn lấn lướt phía bên nữ, nên sớm tiến lên phụ hệ, và mới còn giữ được Hmơan và Mình. Tiếng Thái đọc theo lời chỉ dẫn của chúng tôi thì rất giống mình.
Như thế, nếu vài bộ phận thân thể, có khác thì không còn phải ngạc nhiên nữa. Tuy nhiên, còn giống nhau rất nhiều: Mặt, Miệng, Lưỡi, Mắt, Xương, Lưng, Chơn, Cẳng, mà toàn khối đều nói giống nhau, ít lắm cũng trong chi Lạc, còn chi Âu có khác là chuyện dĩ nhiên vì họ khác chi. Nhưng cũng không khác bao nhiêu như danh từ mắt đã cho thấy:
Bộ Trãi: mắt
Bộ Mã: Mata
Chi Âu: tả
Đó là lấy một âm trong hai âm, theo thói quen của chủng tộc.
Nhưng đã có chứng tích rằng Lạc bộ Trãi cũng mất vì ta nói là cái chắc vào cổ thời chớ không nói Cái mình, và Cái mình chỉ là danh từ mà ta học của người Thái dưới trào An Dương Vương.
Nhưng CHẮC của Trãi và Mình của Thái, cái nào là gốc tổ? Chỉ có trời mà biết. Truy lên tới đó là cụt đường vì nguồn bị nghẽn rồi.
Chi Âu tức Thái và Lạc bộ Chuy rất bê bối về đại danh từ. Lạc bộ Chuy chỉ giống đại khối Mã Lai có tiếng Eng = Anh. Chi Âu tức Thái chỉ giống có tiếng TAU mà họ đọc là RAOU, nhưng lại có nghĩa là
CHÚNG TAU, còn thì khác cả.
Mầy họ nói là ĐÀN. Nhưng ĐÀN NÀO mới được chớ?
Ngôi thứ ba bị toàn khối khinh thường, mỗi dân tộc chỉ có một tiếng mà thôi. HẮN, xem ra là tiếng Mông Cổ mà cả Đại Hàn lẫn Nhựt đều có, với hình thức khác, cố nhiên. Nhiều nhóm đồng bào Thượng cũng có.
Nhưng NÓ, chỉ là vay mượn của Lạc bộ Mã, nhưng vay mượn sai. Trong ngôn ngữ của Lạc bộ Mã, NYA chỉ là CỦA NÓ, chớ không là NÓ bao giờ. Nó là IA, mà Nam Kỳ có vay mượn biến thành DA (đọc là YA).
Ta, Lạc bộ Trãi, ta vay mượn sai thì còn cho qua, nhưng người Chàm là Lạc bộ Mã cũng đã dùng sai NYA. Nơi người Chàm, NYA biến thành NHU và cũng có nghĩa sai là NÓ.
Tuy nhiên các cụ Trung Việt và Nam Việt đã vay mượn đúng NYA của Chàm đời xưa. Chàm đời xưa, nói đúng y như Mã Lai Nam Dương và NYA của Chàm đời xưa mang cái nghĩa là NGỮ ẤY. Các cụ miền Trung và miền Nam biến thành NỐ = Ngữ ấy. Nhưng NỐ đang hấp hối.
CHƯƠNG VIII
CON GÁI, ĐÀN BÀ, MÁI ĐỰC TRỐNG, CHỒNG VỢ
Buổi sơ khai, danh từ chỉ đàn bà con gái đều giống nhau hết thảy, và còn tồn tại đến ngày nay:
Miền Dưới: Wahinê = Đàn bà
Đa Đảo: Hina (Đảo Marquises) = Đàn bà
Đa Đảo: Véhini (Đảo Alor) = Đàn bà
Nhựt Bổn: Himê = Con gái
Việt Nam: HĨM = Con gái
Thái: Hi-in = Phụ nữ
Lào: Mê-nhin = Phụ nữ
(Tự điển Nhựt định nghĩa HIMÊ là công chúa, nhưng sách Tây lại bảo rằng HIMÊ là con gái. Chúng tôi để danh từ HIMÊ trong biểu đối chiếu với sự dè dặt.)
Việt Nam đã bỏ mất nghĩa của HĨM và cho nó một nghĩa thô tục là cơ quan sinh dục của phụ nữ. Thế thì có lẽ Nhựt cũng đã biến nghĩa danh từ HIMÊ của họ. Sách Tây mà chúng tôi nói đến, nghiên cứu các tác phẩm cũ của Nhựt, còn tự điển là sách mới in. Trong vòng mấy trăm năm nay, Nhựt ngữ đã bị thay đổi hết, tiến từ sự bất biến đến có đủ các thứ biến y như Âu châu.
Trường hợp Việt Nam đánh mất danh từ HĨM có lý do đạo đức và luân lý, chớ không phải là quên nghĩa cũ như trường hợp Thằng Cu, Cái Đĩ. Cái lý do luân lý ấy rất là ngộ nghĩnh…
Ta cứ hình dung ra một bà mẹ hồi cổ thời, bà ấy dạy con: “Mầy nên che cái con gái của mầy lại”. Bà mẹ đó ăn nói rất tốt vì bà tránh phải thốt ra một tiếng thô tục. Dĩ nhiên là trong câu của bà, hai tiếng CON GÁI là HĨM, bởi danh từ con gái chưa xuất hiện.
Nhưng ăn nói như vậy chừng hai trăm năm là danh từ HĨM bị hoen ố rồi nên lại phải tạo ra danh từ mới để diễn ý niệm con gái. Nhưng con gái vẫn chưa xuất hiện, nhưng chúng tôi không đủ tài liệu để kể ra hàng chục danh từ có nghĩa là con gái trải qua 8 ngàn năm lịch sử của dân ta, nhưng đại khái là cứ vài trăm năm thì một danh từ con gái bị hoen ố chính vì cái câu đó, thế nên ta cứ phải thay đổi mãi, mà vua Hùng Vương, bà Trưng bà Triệu ăn nói khác ta ngày nay, chớ không phải y hệt như ta được đâu.
Luật Swadesh về thời hạn một ngàn năm cho 20% danh từ, không thể đúng với loại danh từ này, chúng chỉ thọ 200 năm là cùng. Cách đây một trăm năm, người Pháp nói LE PETIT COIN. Nhưng rồi họ phải bỏ, nói W.C. W.C là tiếng Anh, lại viết tắt thì tưởng nó thọ lâu lắm! Nhưng bây giờ thì họ không dám dùng W.C nữa mà nói TOILETTE.
Tuy nhiên, thật ra thì không phải thay đổi danh từ thuở ta chưa có luân lý. Có lẽ chỉ phải thay đổi từ các đời Hùng Vương đến nay thôi.
Ta thử tìm biết danh từ CON GÁI của thời Hùng Vương 16, 17, 18 xem nó ra sao. Người Khả Lá Vàng là người của thời đó và hiện còn sống sót họ nói: SALU GUÔI = Con trâu gái. GUÔI không phải là hình thức đầu của GÁI. Nó chỉ có nghĩa là CÁI hồi cổ thời.
Thế nghĩa là vào thời đó, ta dùng Gái để chỉ GIỐNG CÁI của loài thú chớ chưa chỉ loài người.
Nhưng GÁI mà ta dùng ngày nay thì rõ ràng là của một nhóm Lạc bộ Mã kia là người Mường. Nhưng các nhóm Lạc bộ Mã khác như Chàm và Nam Dương thì nói khác.
Mường: On Kai = Con gái
Bình Trị Thiên: Con cấy = Con gái
Mãi cho đến ngày nay mà Bình Trị Thiên vẫn còn câu ca dao:
Con trai họ Võ thì lấy
Con cấy họ Võ thì đừng
Trong khi Lạc bộ Trãi chỉ có 36 phương ngữ ở khắp nơi, từ Đại Hàn đến Nhựt, Việt, nhưng đã thống nhứt rồi, ít lắm cũng ở ngoài đồng bằng, thì Lạc bộ Mã có quá nhiều phương ngữ. Ở Nam Dương có 350, ở Phi Luật Tân có 400. Điên được chớ chẳng chơi!
Người Mường chỉ là một nhóm nhỏ trong Lạc bộ Mã thế mà ông H. Maspéro đã tìm thấy 17 phương ngữ Mường khác nhau! Vậy Mường đã cho ta vay KAI mà ta đọc là CẤY để chỉ CON GÁI, còn thấy được trong ngôn ngữ Mường ngày nay và trong ca dao Bình Trị Thiên ngày nay. Lúc Chúa Nguyễn ly khai, hẳn dân ta nói con CẤY ở toàn quốc, tức từ Bình Định tới Lạng Sơn, chớ không phải riêng chúa Nguyễn ở Bình Trị Thiên mới nói như vậy.
Câu ca dao nầy ít có người biết. Nhưng một người bạn ở miền Trung đã cho chúng tôi cái câu đó. Và ở đây có sự lộn lẹo thật buồn cười:
Cấy, Kai = Gái (Đáng lý phải = Cái)
Guôi = Cái ( đáng lý phải = Gái)
Nhưng sau đó có sự điều chỉnh. Người ta bỏ KAI của Mường là khách trọ, dùng GUÔI của Khả Lá Vàng.
Ta trở về với Lạc bộ Trãi là Khả Lá Vàng, nhưng có biến nghĩa. GUÔI là Cái của họ, được ta hiểu là GÁI, còn KAI là GÁI của Mường bị hiểu là Giống Cái.
Ảnh hưởng của bọn Mã, to lắm chớ không phải vừa vì tĩnh từ của họ lấn át cả tĩnh từ của ta, mặc dầu ta đã phản công, nhưng dấu vết còn sót lại mãi cho đến nay ở Bình Trị Thiên.
(Nhưng đất Bình Trị Thiên tuy đã bị Mã hóa ở tĩnh từ CẤY, nhưng lại oanh liệt ở tĩnh từ ĐAM.
Buổi mai, em xách cái oi
Em xuống dưới ao
Em bắt con đam
Đem về bỏ trong cái thỏng
Hắn kêu cái rỏng
Hắn kêu cái rảng
Hắn kêu một tiếng: chàng ơi!
Chàng nay an phận tốt đôi,
Bỏ em lẻ bạn, mồ côi một mình.
ĐAM là CUA, được khắp Cao Nguyên dùng, nhưng ở đồng bằng thì chỉ có Bình Trị Thiên là còn bảo vệ nó, còn toàn quốc đã bị danh từ của bọn Lạc bộ Mã là danh từ KOJOR, mà ta biến thành CUA, tràn ngập hết.
Ta bị tràn ngập cho đến đỗi đa số người Việt không còn biết con đam là gì nữa cả, khi nghe đọc bài ca dao cổ trên đây mà chúng tôi chép lại của một nhà sưu tầm ca dao Trung Việt.)
Nhưng sự điều chỉnh xảy ra vào thời nào thì không thể biết. Chỉ biết rằng điều chỉnh xong rất lâu mà Kai và Cấy cứ tồn tại ở xứ Mường và ở Bình Trị Thiên.
Ta hạ bệ KAI của khách trọ là tổ tiên người Mường, từ địa vị NGƯỜI GÁI xuống địa vị CON CÁI. Đó là ngữ nguyên thật đúng của GÁI và CÁI.
Gái = chỉ thú vật của Khả Lá Vàng → chỉ người của ta.
Kái = chỉ người của Mường → chỉ thú của ta.
Còn MÁI là tĩnh từ của đại khối mà dân tộc nào cũng có, nhưng Việt Nam hỗn xược cho nó cái nghĩa là giống cái của loài cầm, các nhóm Mã Lai khác, dùng để chỉ người.
Nhưng NÁI thì ta không hỗn xược mà chính Thái đã tự hạ mình:
Miền Dưới: Pơnita = giống cái của người và thú, cầm thú.
Việt Nam: Nái = giống cái của heo
Churu: Ana = _”
Rôglai: Ana = _”
Thái: Nai = Đàn bà có chồng
Nhưng không chắc lắm là Thái tự hạ. Không có ai vô cớ mà tự hạ. Có lẽ các dân tộc khác tự tôn mà thôi, và xưa kia NÁI chỉ đàn bà có chồng, bằng chứng còn thấy được trong từ ngữ Việt Nam: NÁI XỀ. Thái giữ được, các dân khác biến bậy về nghĩa. Ta cũng giữ được, nhưng chỉ để nói đùa. NÁI XỀ là phụ nữ có con quá đông, nhan sắc bị tàn phá, trông bắt ớn.
ĐỰC thì hơi rắc rối. Ta sẽ thấy rằng ÔNG, BÀ là tiếng Mông Cổ mà cả Tàu lẫn Ta đã vay mượn thì ĐÀN ÔNG, ĐÀN BÀ không thành vấn đề nữa. Chỉ còn ĐỰC và TRỐNG mà thôi.
Lạc bộ Mã và Lạc bộ Chuy nói khác hết.
Có người cho rằng ĐỰC do TƯA của Thái mà ra. Nhưng chúng tôi chỉ thấy Thái học danh từ của Lạc bộ Mã, còn Lạc bộ Mã thì chưa hề học danh từ của Thái. Trong Thái ngữ có:
Tưa phu = Đực người
Phu chai = Người đực
Đực người hay người đực gì cũng đồng nghĩa.
Nhưng Mường là Lạc bộ Mã thì có Đưa = Trai. Mà Mường là một nhóm Lạc bộ Mã (độc nhứt có ĐƯA). Các nhóm Lạc bộ Mã khác như Nhựt Bổn, Phi Luật Tân, Mã Lai Á, Anh Đô Nê Xia, không thấy có).
Xin lặp lại là Lạc bộ Mã dưới thời Chiến Quốc, văn minh đã cao lắm rồi, còn Thái thì cho đến ngày nay vẫn còn thiếu danh từ để diễn ý.
Ngôn ngữ Thái và Cao Miên đầy dẫy danh từ của Lạc bộ Mã vì khi con dân của Sở, Ngô, Việt di cư thì dĩ nhiên lá họ tạt vào rất đông đảo ở nước Tây Âu hùng cường. Còn Cao Miên thì lại học với Phù Nam, sau khi đã diệt quốc Phù Nam. Vì thế mà Thái mới vay mượn Tưa của Lạc bộ Mã.
Ta, ta vay mượn ĐƯA của Lạc bộ Mã, y như Thái, nhưng ta không biến ĐƯA thành TƯA mà biến ĐƯA thành ĐỰC.
Thế rồi cũng lại có sự điều chỉnh y hệt như ở trường hợp Cái, Gái, vì người Khả Lá Vàng nói: Kuan Salu trùi = Con trâu đực.
Vì Khả Lá vàng là Lạc bộ Trãi nên rồi họ được ưu tiên và Mường phải lép vế vì Mường không thẳng dòng. Thế là Đưa, có nghĩa là Trai, bị hạ bệ xuống làm ĐỰC còn TRÙI có nghĩa là ĐỰC, được tôn lên làm trai.
Không nên ngộ nhận rằng ta đã biến CHAI của Thái làn TRAI, vì CHAI của Thái là biến thể của Licay và có nghĩa y hệt như Licay: đực, lực lưỡng, thủ lãnh, đàn ông.
Mỗi lần người Thái Lan sang Sài Gòn chơi túc cầu hoặc võ Ănglê, ta thường nghe họ khuyến khích bồ nhà: Chai yô! Chai yô! Chai của họ không phải chỉ là Đực mà còn có nghĩa là mạnh. Chai yô! Có nghĩa như là: Tiến mạnh lên!
Nhưng không vì họ cho nó nhiều nghĩa mà tĩnh từ trai là của họ. Chính ta đã lấy của Khả Lá Vàng rồi biến nghĩa, cũng như ta đã lấy Đok là con khỉ của đồng bào Thượng để biến thành KHỈ ĐỘT, vì thường thì sự vay mượn nội bộ xảy ra dễ dàng hơn.
Chúng tôi cũng e là có sự ngộ nhận trong danh từ PHU của Việt Nam, có mặt trong từ ngữ MỘ PHU. Người ta nói đó là tiếng Tàu.
Còn ngờ! Sao cái gì cũng của Tàu hết vậy?
PHU của Tàu chỉ có nghĩa độc nhứt là đàn ông, còn ta thì ta mộ cả phụ nữ để làm phu nữa. PHU của Thái thì mang cả hai nghĩa: nam và nữ.
Bà con Nam: Yạt ti phu chai
Bà con nữ: Yạt ti phu hiin
Thế là PHU của ta do PHU của Thái mà ra.
TRỐNG, ở nông thôn Bắc Việt được phát âm là SỐNG. Nông thôn thủ cựu và SỐNG là hình thức cổ của Trống. Nhưng cái gì biến thành SỐNG? Chỉ một nhóm Thượng Việt độc nhứt là người Khả Tu mới có tĩnh từ nầy dưới hình thức GÔNG để chỉ giống đực của gà. SỐNG thành hình sau khi vua Hùng Vương thống nhứt các bộ lạc. Và cũng xin cứ nói đi nói lại mãi rằng không phải là Hùng Vương đã vay mượn GÔNG
của Khả Tu mà bộ lạc Khả Tu và bộ lạc Ađuôk của Hùng Vương có chung tĩnh từ GÔNG. Các bộ lạc khác, phải học theo, sau khi cuộc thống nhứt thành công.
VỢ thì nhứt định là chung vốn với Thái, họ nói là YAR, nhưng CHỒNG thì không giống ai cả và chúng tôi cũng nghi là tiếng Mông Cổ vì ÔNG thêm CH vào là hóa ra đàn ông quan trọng và thân.
(Xin nhắc đến tĩnh từ CÁI thứ nhì, trong Bố Cái Địa Vương. Đó là tĩnh từ có nghĩa là đực, là đàn ông, là lực lưỡng, là lãnh tụ, chẳng dính líu gì tới Cái là giống cái hết thì ta không xét tới nó ở đây. Chỉ biết là tất cả các dân tộc Mã và Trãi đều có tiếng Cái thứ nhì đó.)
Nhưng CHỒNG do ÔNG của Mông Cổ, mọc thêm cái đầu CH chỉ là giả thuyết. Lạc bộ Mã ở Nam Dương gọi CHỒNG bằng ba danh từ, cả ba đều có thể biến thành CHỒNG: RÔ ĐÔNG (Mã Lai Pahang) - BAGÔNG (Mã Lai Perala) - KAMGÔNG (Anh Đô nê xia).
Một chi tiết ngộ nghĩnh: trên thế giới chỉ có chủng Mã Lai gọi Chồng là NHÀ. Vậy Chồng đồng danh từ với Nhà trong các nhóm. Thí dụ Chàm và các phụ chi Chàm như Rađê, Giarai đều gọi Chồng là THAN là SANG, vì họ lại đồng hóa cái Thang với cái Nhà bởi nhà đời xưa cao cẳng, muốn leo lên loại nhà đó phải nhờ cái thang.
Vậy nơi các nhóm đó, cả ba danh từ Thang, Chồng và Nhà là một.
Chàm: Thang = Chồng, Nhà, Thang
Giarai: Sang = Chồng, Nhà , Thang
Rađê: Sang = Chồng, Nhà, Thang
Chu ru : Sang = Chồng, Nhà, Thang
Cái thang là danh từ riêng của Lạc bộ Mã :
Nam Dương: Tanga : cái Thang
Việt Nam: Thang
Việt Nam: Nhà sàn = nhà có thang.
Chàm và phụ chi: Thang, Sang = Thang, Nhà, Chồng
Nhựt Bổn: Tanna = cái kệ, tức cái món giống cái thang vì có nhiều bực.
Nhựt Bổn là Lạc bộ Mã đa số, nhưng họ lại biến THANG thành cái KỆ, rồi thì họ phải tân tạo danh từ Nhà. Nhà của họ là UCHI, vì đó là thói quen của chủng Mã Lai, gọi cái nhà bằng bất cứ danh từ nào, thì cũng gọi chồng bằng danh từ đó.
Sự kiện này có thể biến thành luật chủng tộc học được. Hễ dân nào gọi chồng là NHÀ TÔI thì nhứt định dân đó thuộc chủng Mã Lai, không có ngoại lệ bao giờ hết.
Ngôn ngữ học lại phục vụ chủng tộc học được một cách chắc chắn, đó là điều bất ngờ.
Nếu Nhựt không biến Thang thành Kệ thì nhứt định chồng của các bà Nhựt Bổn là TANA, chớ không là UCHI.
CHƯƠNG IX
VỀ LOẠI TỪ CÁI VÀ CON
Khi học ngôn ngữ của các dân tộc gốc Mã Lai, chúng tôi có nhận thấy một điều kì dị này là trừ ngôn ngữ Việt Nam ra, còn thì không có nhóm Mã Lai nào có loại từ CÁI hết, và có nhiều dân tộc không hề có bất cứ loại từ nào.
Theo nghiên cứu của giáo sư Trần Ngọc Ninh ( Bách khoa số 349, ngày 15/07/1971) thì cái cây chẳng hạn, là một từ, tức là một đơn vị bất khả phân, và như thế cái không còn là loại từ nữa, như chúng tôi đã nói. Nhưng chúng tôi hơi nghi ngờ vì Việt ngữ, qua cuộc kiểm soát của chúng tôi, chỉ là Mã Lai ngữ một trăm phần trăm, mà không có nhóm Mã Lai nào có những từ có CÁI đứng trước hết.
Thí dụ ta nói Cái thang thì Mã Lai Nam Dương nói Tanga, Chàm nói Thang; Nhựt Bổn nói Tana chớ không hề nghe họ nói Cái Tanga, cái Thang, cái Tana bao giờ. Lại thí dụ ta nói Cái cửa sông thì Mã Lai nói Kưala sôngai, tức cũng không có Cái đứng trước.
Mà không riêng gì Mã Lai Nam Dương, mà Cao Miên, Thái, Chàm, hay Nhựt Bổn gì cũng thế cả, không ai có Cái hết.
Đồng bào Thượng Bru giàu loại từ nhứt, nhưng vẫn không có loại từ CÁI.
Như vậy ta phải hiểu rằng CÁI của Việt Nam là loại từ mới sáng tác về sau, do một ảnh hưởng ngoại lai, chớ gốc tổ không có, mà các nhóm khác, tuy có chịu ảnh hưởng ngoại lai, cũng không có, vì CÁI sở dĩ nảy sanh ra trong Việt ngữ chỉ vì một ngộ nhận của dân chúng Việt Nam, mà khi nói đến ngộ nhận thì phải hiểu rằng các dân tộc khác không cùng chung ngộ nhận với ta, nên họ không hề có CÁI.
Chúng tôi tìm học, mà thấy rằng CÁI chỉ mới xuất hiện sau Mã Viện thôi, chớ không có lâu đời lắm, mà, như đã nói, chỉ do một sự ngộ nhận của dân chúng Việt Nam.
Nên biết rằng trong đạo quân viễn chinh của Mã Viện, tuy có quân Dạ Lang, quân Quảng Đông, Phúc Kiến, nhưng chủ lực quân vẫn là người Hoa Bắc, vì các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến chỉ mới bị nhà Tần chinh phục trước đó không lâu, và họ chưa biến thành Tàu, và nếu có mặt họ, họ cũng nói một thứ tiếng Tàu ba trợn. Quân Dạ Lang cũng không phải là người Tàu.
Vậy ngôn ngữ được nói quanh các trại quân, phải là Quan Thoại. Mà Quan Thoại thì có danh từ CÁ (họ cũng đọc là Cá, các nhà nho ta cũng đọc như thế), nhưng danh từ ấy không phải là loại từ, nó là danh từ, và có nghĩa là Đơn vị.
Ta cứ nhìn vào một gia đình Quảng Đông ở Sài Gòn thì rõ. Dân Quảng Đông cũng nói tiếng Tàu, nhưng đọc bậy bạ cả, y hệt như các nhà nho ta, chớ không bao giờ có ngôn ngữ Quảng Đông như ai cũng tưởng.
Một ông gia trưởng Quảng Đông chia bánh cho con ông ta, và ông ta nói: Dzách cô, lượng cô, xám cô, v.v. CÔ là CÁ đọc sai chớ không có gì, và ý ông ta muốn nói: “Một đơn vị, hai đơn vị, ba đơn vị” đấy.
Dân Lạc Việt đã nghe lính Hoa Bắc nói: Ýi cá, lèng cá bằng Quan Thoại, và ngộ nhận rằng trước tên các món vật, phải có từ CÁ (đọc sai là CÁI) mới là hay. Thế rồi ta chấp nhận từ ấy, nó biến thành loại từ của ta, và đồng thời biến hẳn văn phạm ta, vốn không có loại từ CÁI bao giờ cả, trước Mã Viện.
Nếu không hiểu như chúng tôi, thì không sao cắt nghĩa nổi tại sao không có nhóm Mã Lai nào có CÁI hết, trừ Mã Lai Việt Nam.
Trước đây, ta không biết ta thuộc chủng nào, và tin theo ông H. Maspéro rằng là ta là một chủng riêng biệt, không dính với ai cả, thì nếu chỉ có ta là loại từ CÁI, không làm ai thắc mắc hết. Nhưng nay biết chắc một trăm phần trăm rằng ta là Mã Lai, và ba bốn mươi dân tộc khác nữa cũng là Mã Lai, thì sự kiện chỉ có một mình ta có loại từ đó, phải được đặt thành vấn đề nghiên cứu và được giải đáp thỏa đáng.
Chủ trương rằng CÁI và CON không thể giao hoán với nhau cũng không ổn. Rõ ràng ca dao ta hát: Cái cò, cái vạc, cái nông
Chẳng những CÁI đã giao hoán với Con vật, mà giao hoán cả với Con người nữa. Đó là dấu hiệu lạm dụng của buổi đầu ngộ nhận, ta dùng CÁI loạn xà ngầu, sau rồi ta mới hạn chế nó để dùng làm loại từ chỉ đồ vật bất động mà thôi.
Chúng tôi lại có bằng chứng rằng dân Lạc bộ Trãi, hồi thời Trung cổ nói Con nhà, Con đá, Con trời, thay vì nói Cái nhà, Ông trời, Cục đá như ngày nay.
Vậy Cái là loại từ khả phân. Tánh cách khả phân lộ rõ trong hai câu đối thoại sau đây: “Bác làm gì đó?”
“Tôi đốn cây”.
Không thể nói tôi đốn Cái cây. Còn tánh cách có thể giao hoán, thì câu ca dao trên kia đã cho thấy, mà không phải tại ca dao cổ nên mới còn giữ tánh cách đó, mà cả tục ngữ hiện kim cũng còn mang tánh cách giao hoán vì ta thường nói: “Phận con ong, cái kiến” và loại từ Cái chỉ mới có mặt sau Mã Viện mà thôi.
Còn CON? Loại từ CON thì dân Lạc bộ Chuy và Lạc bộ Trãi có. Nhưng đó cũng là loại từ mới xuất hiện về sau, tuy xuất hiện trước loại từ CÁI, nhưng vẫn không lâu đời lắm.
Theo một chương tới, quý vị sẽ thấy rằng CON, KO, O chỉ có nghĩa là NGƯỜI hồi cổ thời. Nhưng danh từ NGƯỜI lại ra đời, thay cho CON, O. CON hóa ra dư dùng và người ta cho nó một cái nghĩa khác. Ta dùng nó để làm loại từ (Mot générique) đặt trước các vận động (con chim, con vụ) hoặc các vật nhỏ bị động (con dao).
Sự thay bực đổi ngôi xảy ra vào thời nào? Ở một chương tới chúng tôi cho rằng vào khoảng 500 năm trước Tây lịch, tức vào thời mà một ông Hùng Vương vay mượn KITA của Lạc bộ Mã. Thời đó, NGƯỜI đã xuất hiện, nhưng chưa mang dấu huyền và chỉ mới mang nghĩa là MẦY.
Đối với tai của người Cổ Việt còn sống sót ở đèo Mụ Già là người Khả Lá Vàng thì CON CHÓ có nghĩa là NGƯỜI CHÓ vì họ biết CON mà không biết NGƯỜI, lại không biết CON với tư cách loại từ.
Ta may mắn còn ca dao, tục ngữ xưa, nên ta mới dựng lại được xâu chuỗi biến dạng của các danh từ và nhờ thế ta mới thấy mọi thay đổi, NGƯỜI nguyên thỉ, NGƯỜI cổ, NGƯỜI trung cổ ra sao.
Chúng tôi bắt gặp sự vay mượn và biến nghĩa của Con trong ngôn ngữ của người Mạ. Người Mạ là đồng bào Thượng trên Cao Nguyên Lâm Đồng, họ cũng thuộc chi Lạc bộ Trãi như ta (nhưng các ông Tây đã nói liều rằng họ là Cao Miên).
Trong ngôn ngữ Mạ, Con được dùng như danh từ và có nghĩa là Người y như nơi người Thái, nhưng nó cũng được dùng như loại từ, giống hệt như Việt Nam. Đó là chứng tích biến nghĩa nhưng chưa xong, và chứng tích đó đánh dấu thời mới biến nghĩa Con, được dùng như thế đó, tức vừa là danh từ có nghĩa là Người, vừa là loại từ.
Dấu vết thời gian còn nguyên vẹn trong ngôn ngữ Mạ. Họ lạm dụng Con y hệt ta lạm dụng Cái để gọi Cái Cò, Cái Vạc, Cái Nông, vì họ nói Con Trời, Con Đá, Con Cây .
Có lẽ xưa kia, thuở ta còn ở vào trình độ của người Mạ ngày nay, ta cũng nói con trời, con đá, con cây, y hệt như người Mạ. Đó là sự lạm dụng của buổi đầu.
Người Mạ có những bài dân ca như sau:
Kúp kon sim, any tơm ta any
Kúp kon Mạ any tơm ta đuốt
Dịch nghĩa:
Bắt con chim, tôi chỉ sanh sự với tôi.
Bắt người Mạ, tôi phải đánh nhau với họ.
Chỉ trong hai câu, ta đã thấy rằng Con được dùng với cả hai nghĩa: danh từ (có nghĩa là người ) ở câu dưới, và loại từ ở câu trên.
(“bắt người Mạ” là bắt các tù binh trong những cuộc chiến tranh bộ lạc, tục đó nguyên vẹn nơi người MẠ của thế kỷ 20)
Nhưng chẳng những có Con Mạ, mà lại có Con Trời nữa:
Ring tua con trô, tua tiở
Cóp tua mi, tua any
Dịch nghĩa:
Trời đồng ý với đất (con tro = con Trời)
Anh với em đồng ý với nhau
Ta lại còn một danh từ Cái rắc rối nữa, tưởng cũng nên nói rõ ra, mặc dầu danh từ này không gây ngộ nhận bao nhiêu.
Khi người Tàu nói họ đi Cái xị, tức đi Thị, đi Chợ, thì Cái ở trong trường hợp nầy, hoàn toàn không liên hệ đến những Cái khác. Cái ở đây là danh từ Tàu mà ta đọc sai là Nhai và có nghĩa là Đường phố. (Rue)
Thị của Tàu, không phải chỉ có nghĩa là chợ, mà còn có nghĩa là thành phố. Vậy đi Cái xị là đi Nhai thị, tức đi qua các phố của thành phố, y hệt như Việt Nam nói Đi phố. Đi Cái Xị của Tàu, không hề chỉ có nghĩa là Đi Cái Chợ đâu, mặc dầu khi nói như vậy, họ cũng có thể đi chợ, nhưng không phải luôn luôn đi chợ, miễn có đi qua các Cái, tức các Nhai là đủ rồi.
Hiện ở Chợ lớn, ngoài các bảng tên phố của nhà nước, người Tàu thường đặt một bảng nhỏ đề chữ Tàu, để đồng bào họ biết đâu là đâu. Đại khái có một ngõ hẻm mang tên là Ô-Y-Hạng, còn đường Lý Nam Đế nguyên vào thời Pháp thuộc tên là Rue de Canton, thì nay nó mang tên chánh thức của nhà nước là đường Lý Nam Đế, nhưng có bảng nhỏ chữ Tàu để là Quảng Đông Nhai, mà họ đọc là Quảng Tống Cái.
Danh từ Cái này ta không có dùng trong Việt ngữ, mà chỉ biến thành Nhai trong Hán Việt mà thôi, nhưng đôi khi cũng gây ngộ nhận vì nghe người Tàu nói rằng họ đi Cái Xị, ta ngỡ họ nhứt định phải đi Cái thị, tức Cái chợ.
Luôn tiện, chúng tôi cũng xin nói rõ về tĩnh từ Cái của Việt ngữ. Cái không hề có nghĩa là giống Cái, mà oái oăm thay, lại có nghĩa là giống đực.
Trong Mã Lai ngữ, tĩnh từ Laki, bị Chàm biến thành Licáy và Việt biến thành Cái, có nghĩa là đàn ông, là giống đực, là lãnh tụ. Ngón tay Cái không phải là ngón tay của cô nào hết, mà là ngón tay to nhứt. Đường Cái không phải là đường để cho người đẹp đi dạo mà là đường rộng rãi, thợ Cái là thợ “xếp” đấy.
Con dại cái mang, không phải là Mẹ chịu trách nhiệm, mà là cha lãnh đủ, và Bố Cái Đại Vương, không phải là ông Phùng Hưng và bà Phùng Hưng, mà chỉ có ông Phùng Hưng thôi.
Hiện người Mã Lai có thành ngữ Ibu LáKi.
Ibu = Bu= Mẹ
Láki = Thủ lãnh
Và thành ngữ đó có nghĩa Mẹ là nhà lãnh đạo.
Ở chỗ này, có hơi nhiêu khê cần phải nói thật rõ. Thành ngữ Ibu Láki của Nam Dương (Lạc bộ Mã) là thành ngữ đã sẵn có của họ vào thời mà họ còn theo mẫu hệ. Nay họ đã theo phụ hệ rồi thì đáng lý gì họ phải sửa lại thành Babu Láki vì:
Babu = Bố
Láki = Lãnh tụ
Nhưng họ lại không buồn sửa. Ta người Việt Nam, ta đã sửa Ibu Láki vào thời Phùng Hưng thành Babu Licáy, vì ta đã theo phụ hệ vào thời đó. Sau ta biến mãi thì Babu Licáy trở thành Bố Cái.
Nhưng Ibu hay Babu gì cũng không quan trọng. Điều chính yếu là Licáy = Cái = Lãnh tụ, và Cái của ta là Đàn ông, là Lãnh tụ chớ không là giống Cái.
Đại Cồ Việt, cũng thế. Cồ chỉ là Láki, là Cái mà thôi. Hiện trên Cao Nguyên đồng bào Thượng dùng tiếng Cái với các nghĩa sau đây: Cái đầu, Quan trọng, Thủ lãnh.
Còn Cái có nghĩa là giống Cái là do ngữ nguyên khác tạo ra, đã nói rõ ở đầu Chương. Miền Nam có thành ngữ “ Đàn bà lại cái” để trỏ người bán nam bán nữ. Đó là tiếng Mã Lai rõ ràng. Lại = Lagi = Mà lại còn
Cái = Đàn ông
Đàn bà lại cái có nghĩa là đàn bà mà lại còn là đàn ông.
Lagi còn để dấu ở tỉnh Bình Tuy ở đó có một làng tên Lagi. Có lẽ người Chàm hay người Việt đã nuốt mất tiếng chớ Lagi không, chẳng có nghĩa trong địa danh. Tỉnh Bình Tuy là đất Cực Nam của Chiêm Thành, thuở Chúa Nguyễn diệt Panduranga, nên ở đó còn lắm địa danh Chàm tức địa danh Mã Lai, vì người Chàm rõ ràng là Mã Lai, Lạc bộ Mã.
Ngôn ngữ có sức sống mãnh liệt. Cách đây vài mươi năm, người Việt miền Nam có sáng tác thành ngữ ” Đàn bà lại đực”. Cũng với cái nghĩa bán nam bán nữ, vì họ quên nghĩa cũ nên lấy thành ngữ “lại cái” vô nghĩa. Họ hiểu Cái là giống cái, còn Lại là trở thành. Đàn bà lại cái = Đàn bà trở thành giống cái, thì quá vô lý.
Thế nên họ mới sửa lại, để cho nó hữu lý ra. Nhưng toàn thể người Việt miền Nam đều nhứt định dùng thành ngữ có vẻ vô lý, không ai dùng thành ngữ mới cả, mặc dầu nó có vẻ hữu lý hơn.
Tại sao cái có vẻ hữu lý lại bị tẩy chay? Vì tiềm thức và tâm để của dân tộc còn mơ màng nhớ mang máng cái nghĩa cũ, tuy ngày nay có vẻ vô lý, như ngày xưa thì đúng.
Cái đúng đó đã bắt rễ thật sâu, thâm căn cố đế nơi tâm não họ, nên cái mới, có vẻ hữu lý bao nhiêu, họ cũng gạt bỏ ra ngoài.
Đáy lòng của họ còn giữ Lagi Licáy.
Có một cuộc tranh luận rất vui vẻ về nghĩa đúng của câu đầu của bài hát Bắt cái hồ khoan. Đây là dịp mà chúng tôi trình ra sự thật để dứt khoát cuộc tranh luận sôi nổi đó, bằng vào phương pháp truy nguyên các danh từ cổ mà chúng tôi tìm lại được tất cả. Những danh từ của Lạc biến mất tại Việt Nam có hai loại, một loại còn nằm đó, nhưng thiên hạ không còn ai biết nghĩa nữa. Một loại nằm ở các quốc gia Mã Lai khác, từ Đại Hàn đến Nam Ấn, đến Trung Mỹ.
Vụ nầy chúng tôi có ám chỉ trong quyển sử của chúng tôi, nhưng không dám nói dài dòng, vì quyển sử quá dài, nhà xuất bản hết tiền in, bắt phải thu ngắn lại còn 900 trang, thành thử phải nói tắt về quá nhiều việc.
Nguyên ông M. Durand có giải thích Bắt cái hồ khoan nhưng không ổn gì hết, chỉ cắt nghĩa được có tiếng Hồ mà ông dịch là “ Ohé!” một loại tiếng để cùng gọi nhau làm việc, của Pháp.
Ông Ngô Quý Sơ (Hanoi 1943) giải thích rằng: “Trước khi kéo nhau đi thành hàng thì trẻ con bắt thăm bằng cách ai rút được cái rơm nào ngắn nhứt thì làm trưởng đoàn. Như vậy, trẻ con gọi là Bắt Cái. Rồi thành ra bắt cái hồ khoan”.
Ông Lê Khánh Vân giải thích rằng Bắt Cái = bắt cá.
Còn nhiều người tầm nguyên câu nầy, nhưng chúng tôi chỉ trích những ông có tìm được chút đỉnh sự thật, hoặc có nói cái gì độc đáo mà có sai, vẫn được trích.
Ông Tân Việt Điểu ở nguyệt san Văn Hóa số 56 (1960) thấy là chưa ổn nên cho rằng Bắt cái = Bát cạy, và đó là từ ngữ Chàm mà ta mượn ở miền Trung, và Bát là Cây chèo còn Cạy là bơi chèo.
Sự thật ra sao thì ta cần biết thật rõ. Đó là hai động từ Trung cổ, mà ta mượn của người Mường tại Hồng Hà, chớ không phải là mới vay mượn về sau nầy của Chàm, mà Bát và Cạy cũng không giản dị như ông Tân Việt Điểu đã giải thích, mà nghĩa của Bắt Cái cũng không phải do Bát Cạy mà ra.
Bằng chứng là ta mượn Bát Cạy của người Mường lộ rõ ra trong tự điển K.T.T.Đ, họ có định nghĩa, mà định nghĩa rất rành rẽ hơn Huỳnh Tịnh Của rất nhiều lại có đưa thí dụ là một câu thơ Việt miền Bắc: “Một con thuyền cạy bát bên giang”.
Bắc Việt vẫn có tiếp xúc với người Chàm, nhưng chúng tôi cho rằng bắc Việt không có mượn của người Chàm, vì họ có văn thơ dùng hai tiếng đó, họ lại định nghĩa đúng hơn Đàng Trong mà đại diện là Huỳnh Tịnh Của.
Nếu chỉ là vay mượn nơi người Chàm, tại Đàng Trong thì luôn luôn tự điển K.T.T.Đ có viết: “Theo Huỳnh Tịnh Của” hoặc: “Tiếng của Đàng Trong” hay là: “Tiếng của Nam Kỳ”. Về Bát Cạy thì tự điển đó, chẳng những không có ghi như thế, lại đưa thơ miền Bắc ra làm thí dụ, thì là miền Bắc cũng có Bát Cạy, và cạnh họ đã có người Mường để họ vay mượn, không cần phải mượn xa đến thế vì Mường và Chàm là một, hồi đời xưa.
Một lần nữa, chúng tôi thấy rằng cần phải nhắc rằng ở cả ba nơi đều có Lạc bộ Mã, vì có chứng tích. Ở Bắc Hà có tổ tiên của người Mường, chưa bị Trãi hóa (chúng tôi nói Trãi hóa mà không nói Việt hóa vì Mường hay Chàm, hay Phù Nam gì cũng đều là Việt cả). Ở miền Trung, có người Chàm. Ở miền Nam có người Phù Nam mà chúng tôi sẽ chứng minh rằng họ còn tồn tại hồi đầu thế kỷ 17, thuở dân ta di cư vào Nam.
Vậy danh từ nào, vay mượn của ai, và tại đâu, đều có thể biết được cả. Không phải hễ cứ là tiếng Chàm thì nhứt định phải vay mượn ở miền Trung vì bốn dân tộc sau đây, ăn nói y hệt nhau: Mường Trung Cổ, Chàm hiện kim, Phù Nam trung cổ và Nam Dương hiện kim (có chứng tích).
Ta đã biết rằng Mường, Chàm, Phù Nam, Nam Dương, đều là Mã Lai, thứ Mã Lai mà chúng tôi gọi là Mã Lai đợt II, Tây gọi là Austronésien còn Tàu cổ thì gọi là Lạc bộ Mã. Vậy tất cả các dân tộc đó đều có Bát, Cạy, nhưng dưới hình thức khác và nghĩa hơi khác một tí.
Và khi một danh từ khá cổ của ta mà gốc Lạc bộ Mã thì là ta vay mượn của người Mường tại Hồng Hà, chớ không phải là của Chàm, sau đới nhà Lý. Và nên nhớ rằng người Mường thuở xưa sống lẫn lộn với ta chớ không có biệt lập như ngày nay, và họ cũng chưa bị quá nhiều ảnh hưởng của Lạc bộ Trãi là ta, như ngày nay, mà vẫn nói tiếng Mã Lai Nam Dương, y hệt như Chàm.
Nhũng danh từ mới vay mượn của Chàm sau đời nhà Lý đều vì những tiếng đó không có dấu vết Trung cổ. CẠY là KUẮK và nó chỉ có nghĩa là tránh né nhau trên sông, trên biển, không cứ phải bên nào.
BÁT là PỐT có nghĩa là Kéo cây chèo khó khăn. Không có tiếng nào có nghĩa là BƠI CHÈO và CÂY CHÈO cả.
Ta, người Việt Nam, Mã Lai đợt I, tức Lạc bộ Trãi, ta đã biến nghĩa, nhưng biến rất tài tình, không biến liều lĩnh mà dựa theo những ý nghĩ sâu kín của lòng dân tộc của ta là dân Mã Lai, mặc dầu ta chỉ là Mã Lai đợt I, bộ Trãi, nhưng hai thứ Mã Lai, đều đồng dân tộc tính với nhau, đồng tâm hồn với nhau.
Chúng tôi nói PỐT của Lạc bộ Mã là kéo cây chèo khó khăn. Tại sao lại khó khăn? Ta nên nhớ rằng cổ sử Trung Hoa tả dân Việt lấy bên Trái làm bên thuận. Vậy khi trạo phu phải lái từ tả qua hữu, tức đi nghịch với thói quen của họ là họ nghe khó khăn lắm.
Thế nên dân Việt mới cho PỐT cái nghĩa là lái từ tả sang hữu (trên sông) hơi khác với nghĩa thật, nhưng vẫn hữu lý, vì chính nghĩa thật cũng chỉ là một cách nói bóng bẩy rằng là lái từ tả sang hữu.
Tự điển K.T.T.Đ đã định nghĩa đúng rằng BÁT là lái từ tả qua hữu, còn Huỳnh Tịnh Của thì nói là cả hai tiếng đều có nghĩa là từ tả qua hữu, hoặc ngược lại, tức sai hơn miền Bắc tức sự vay mượn không xảy xa ở Đàng Trong mà ở Đàng Ngoài, vay của người Mường, tức thuộc vào thời Trung cổ của Việt sử, 500 T.K vậy, chớ không phải từ thời nhà Lý mà ta đánh Chàm đâu.
Còn CẠY? Chúng tôi đã giải thích rằng KUẮK chỉ có nghĩa là tránh né nhau trên mặt sông. Nhưng dân ta đã trót cho PỐT cái nghĩa là tránh từ tả sang hữu, thì tổ tiên ta phải gán cho Kuắk cái nghĩa là từ hữu sang tả, như thế mới có chủ động từ chính xác để dùng trong việc hành thuyền.
Đó là căn cội và nghĩa thật đúng của CẠY và BÁT.
Nhưng nó không liên hệ gì tới BẮT CÁI hết.
Ông Durand đã vô tình đúng, khi dịch HỒ ra OHÉ, vô tình vì ông không biết lấy một tiếng Mã Lai nào cả. Còn ông Ngô Quý Sơn thì tri tình đấy, nhưng chỉ đúng phần nào thôi, vì ông không biết ngữ nguyên của BẮT CÁI. Ông đúng vì hiện nay dân ta vẫn còn nói BẮT CÁI để diễn tả cái ý bắt thăm để làm cái, trong những cuộc đỏ đen.
Ngày nay, ở Nam Kỳ, người mình, trong giới cờ bạc, cũng thường nói “LÀM CÁI” và “BẮT CÁI”. Làm cái là gì thì ai cũng biết cả rồi. Còn bắt cái được dùng trong trò đánh cắc tê mỗi người lật một lá bài, hễ ai lớn nút thì được làm cái, tức vẫn cứ bắt thăm để làm Licáy.
Ông Tân Việt Điểu giải thích về BẮT CÁI khác với chúng tôi vì ông nghĩ rằng Bắt Cái do bài hát HẢI HỒ KHOAN của Đào Duy Từ mà ra. Đó là bài hát mà họ Đào làm ra cho thủy thủ hát, và trẻ con bỏ mất HẢI, chỉ còn chữ Hồ Khoan.
Theo ông, hễ chèo thuyền là có nói BÁT CẠY, và thủy thủ vừa hô Bát Cạy, và thủy thủ vừa hô Bát Cạy vừa hát Hải Hồ Khoan, trẻ con bắt chước, nhưng bỏ sót tiếng Hải.
Trẻ con bỏ sót một tiếng thì cũng có thể có được nhưng xem ra khó có thể lắm, ví BÁT CẠY là tiếng chuyên môn mà trẻ con cứ nhớ được thì HẢI không là tiếng khó, sao chúng lại quên?
Nhưng suy luận của chúng tôi chưa bác nổi kiến giải của ông Tân Việt Điểu đâu, vì đó chỉ là suy luận, thường thiên lệch, chớ không phải chứng tích vững. Chứng tích vững là đây:
Theo chỗ chúng tôi nhớ, thì bài hát ấy không có tên là HẢI HỒ KHOAN, mà là Quan hải hồ khoan. Vì thế mà nhà xuất bản của Đào Duy Anh ở Huế mới lấy tên là nhà xuất bản Quan Hải.
Quan = Nhìn
Hải = Biển
Đó là hai tiếng có nghĩa. Dưới đây là ba tiếng vô nghĩa:
Hải = Biển
Hồ = Hồ
Khoan = Rộng
Hải hồ khoan vô nghĩa vì nó sai văn phạm chữ nho. Văn phạm đó phải là Khoan hồ hải, và chuyển sang tiếng Việt là Biển hồ rộng. Cái tên mà ông Tân Việt Điểu đưa ra, nếu chuyển sang tiếng Việt thì là Rộng biển hồ, tức sai văn phạm.
Chúng tôi không tin rằng một bực danh nho như Đào Duy Từ lại lầm về văn phạm Tàu, khi ông đặt tên bài hát của ông là Hải hồ khoan.
Nhưng vấn đề, không phải là thảo luận về văn phạm Tàu, vì nó chẳng liên quan gì tới bài này hết, nhưng cần nói ra sự thật, vì sự thật đó, cho biết một sự thật lớn hơn, có liên hệ đến vấn đề.
Nếu Đào Duy Từ không sai văn phạm Tàu thì bài hát không thể nào là Hải hồ khoan được, mà phải là Quan hải hồ khoan, và Hồ khoan nhứt định KHÔNG PHẢI là chữ nho, bởi chữ nho phải là Khoan Hồ.
Không phải là chữ nho thì là tiếng Việt chớ không còn tiếng nào khác mà nằm ở đó được, hay đúng ra là tiếng Lạc, nhưng Lạc bộ Mã chớ không phải Lạc bộ Trãi.
Đào Duy Từ là nhà nho không cách mạng, ít lắm cũng về văn chương, văn phạm. Vậy khi ông ghép chữ Nho Quan hải vào với chữ Nôm Hồ khoan thì đích thị là Hồ khoan là một tên riêng (Nom propre), tên của một bài hát cổ hơn, vì là tên riêng nên ông không có dịch ra chữ Nho, phải để nguyên như vậy để ghép vào chữ Nho.
Thí dụ muốn viết: Tôi đọc truyện Les Misérables thì một nhà nho cẩn thận phải viết: Ngô độc Les misérables chớ không thể viết Ngô độc Bần cùng nhân truyện, vì không dịch, người đọc sẽ biết ngay sách ám chỉ là sách nào, còn dịch thì quá nguy, bởi Nhựt Bổn cũng có một tác phẩm Bần cùng truyện, mà KHÔNG LÀ bản dịch Les misérables của V. Hugo.
Ấy, Đào Duy Từ ghép chữ Nho và chữ Nôm chính vì ông là nhà nho thông minh, nhất định không dịch tên riêng sợ người đọc không hiểu ông định ám chỉ đến cái gì. Ông không dịch thì người ta biết ngay rằng:
Quan hải = Nhìn biển
Hồ khoan = để ca bài Hồ khoan của dân tộc .
Thế thì ngay trong tên của bài hát của họ Đào, nhà nho ấy đã tiết lộ rằng có một bài hát cổ hơn mà ông đã
ám chỉ đến trong cái tên của bài hát của ông. Bài hát cổ hơn là bài Bắt cái hồ khoan. Vậy Bắt cái hồ khoan không phải xuất hiện do bài hát của Đào Duy Từ, như ông Tân Việt Điểu đã viết, mà ngược lại bài hát của Đào Duy Từ bắt nguồn từ bài Bắt cái hồ khoan.
Nhưng tại sao họ Đào lại không đặt tên bài hát của ông là Quan hải bắt cái hồ khoan, mà lại bỏ bớt hai tiếng Bắt Cái? Vì ông quên nghĩa BẮT CÁI, nhưng còn nhớ nghĩa của HỒ KHOAN.
Ai biết được HỒ KHOAN là gì thì hiểu được bài hát cổ và hiểu được thâm ý của Đào Duy Từ, và biết được thêm rất nhiều truyện bí mật của thời Trung cổ nước ta, tức những gì xảy ra 500 năm trước Tây lịch mà bọn Lạc bộ Mã đến ở trọ với vua Hùng Vương.
Quyển sử của chúng tôi bị xén hết 1000 trang, tức xén tất cả những gì mà Chương ngôn ngữ tỉ hiệu đã cho biết về đời sống tinh thần, đã cho ta biết cái mà giáo sư Trần Ngọc Ninh chê là tiền sử học dở, không cho biết được. Quả tiền sử học không biết nhiều chi tiết, nhưng cổ ngữ học thì vạch rõ từng ly từng tí mọi việc nhỏ nhặt nhứt.
Ông Durand đã tình cờ đúng, khi ông dịch Hồ = Ohé. Chúng tôi nói ông vô tình vì ông không biết tiếng Mã Lai.
Mã Lai Lạc bộ Mã, tổ tiên của người Mường, tại Bắc Việt có hai tiếng là AIHO và HAI, đồng nghĩa với nhau, và Chàm biến thành HỜI, HỚI, và ta biến thành HÈ, HỠI, HÔ, HỐ, ƠI và ƠI ỚI. Đó là tiếng dùng để gọi nhau.
Hồ là do aihô, còn khoan là do kuang. Bắt cái hồ khoan là :
PƠR LICÁY AHÔ KUANG!
Pơr= bắt
Licáy = Cái = lãnh tụ, thủ lãnh (Bố Cái Đại Vương)
Ahô = Ới, hè!
Kuang = Thủ lãnh, tù trưởng, chủ soái
Câu đó dịch thoát là: “Thủ lãnh ơi ta nỗ lực để bắt tướng thủy quân (của địch) hè!” KUANG to hơn LICÁY nên ta gọi thủ lãnh của ta là Kuang còn gọi thủ lãnh địch là Licáy.
Chúng tôi đã chứng minh trong quyển sử rằng vào thời Đào Duy Từ ta còn biết tiếng của Lạc bộ Mã, chưa biến dạng. Bằng chứng là tên xưa của cửa là được Ngô Thì Sĩ phiên âm là Cô la, tức phiên âm địa danh Kưala của Lạc bộ Mã. Các sử gia xưa ta luôn luôn dịch, khi nào họ dịch được. Nếu là Cửa Lò thì họ Ngô đã gọi là Lô Môn hoặc Lô Khẩu, nhưng họ Ngô lại phiên âm tức nơi đó, vào thế kỉ 17, còn mang tên là kưala y hệt như vào thời Gia Long mà cửa Thuận An cứ còn được gọi là Eo, một danh từ của Lạc bộ Mã.
Tên của bài hát cổ gồm 4 tiếng, nhưng chỉ có 2 tiếng là danh từ chung của hai chi Lạc, đó là LICÁY và AHÔ, còn Pơr tuy hơi giống bắt, nhưng không phải là ngữ nguyên của bắt. Kuang thì không bao giờ thành Việt ngữ về sau hết, vì bị lẫn lộn với Quan.
Chủng Mã Lai vô địch về thủy vận, nhưng Lạc bộ Mã nổi danh hơn Lạc bộ Trãi, và có lẽ đó là bài hát của bọn Lạc bộ Mã xin quyền sống chung với vua Hùng Vương, phục vụ nhà vua trong thủy quân của nhà nước Văn Lang.
Xin nói rõ về AHÔ. Lạc bộ Mã có hai tiếng dùng để kêu gọi là AHÔ! Và HAI!
Chàm biến thành HỜI và HỚI. ĐỒNG HỚI là cánh đồng của người Chàm. Còn ta thì biến rất nhiều. Chỉ có hai tiếng đó mà nó đẻ ra HỞI, ƠI, ỜI ỜI, ÔI Ớ, Ê (Coi chừng: ÔHÔ là tiếng Tàu, còn Ô HAY là tiếng của Lạc bộ Chuy tức Miến Điện, Tây Tạng, Cao Miên).
Đã bảo Chàm biến hai thành HỚI và HỜI, nhưng sao ta lại dùng Hời và Hới của họ để chỉ họ, hai tiếng đó, đâu phải là tiếng của ta? Một nhà trí thức Chàm rỉ tai cho tôi biết rằng không nên gọi họ là HỜI, là Hới, họ sẽ tức giận ghê lắm, vì đó là tiếng mà ta gọi kẻ không trọng.
Nguyên khi xưa, tại biên giới, họ không thấy ta họ cứ gọi mãi: “Hời, Hới” hoặc “ Hời! Hời”. Ta chẳng hiểu gì hết, bèn dùng hai tiếng đó để trỏ họ, một cách châm biếm, ý muốn nói rằng đó là dân ưa nói “ Hới, Hời”.
CHƯƠNG X
VÙNG NÚI AN TAI HAY LÀ YẾU TỐ MÔNG CỔ TRONG VIỆT NGỮ
Khi sách nầy chưa in xong, chúng tôi có dùng Chương I để làm một cuộc thuyết trình, sau buổi nói chuyện thân mật, có chừa thì giờ cho quý vị thính giả nêu thắc mắc.
Một vị giáo sư có khuyên chúng tôi, khi ám chỉ đến quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (chớ không phải đến buổi thuyết trình) rằng nên cẩn thận khi chủ trương rằng Nhựt ngữ chứa đựng 65% tiếng Tàu và 35% tiếng Mã Lai.
Theo vị giáo sư thì Nhựt ngữ có chứa đựng dân tộc Mã Lai là khám phá của chính một nhà ngữ học Nhựt. Nhưng các nhà ngữ học Âu Mỹ kiểm soát lại thì thấy rằng dân tộc Mã Lai trong Nhựt ngữ rất ít và thuyết của nhà ngữ học Nhựt bị bỏ quên luôn.
Tưởng đây là một vấn đề hay, chúng tôi trình bày lại thật rõ chủ trương của chúng tôi để tự bào chữa và để tự cho thấy rằng các ông Nhựt ông Tây đều không đúng.
Khi thuyết của nhà bác học Nhựt ra đời thì chúng tôi cũng hay biết, nhưng có một điều mà nhà bác học đó không hay biết, mà cho tới nay các ông Tây cũng chưa biết là có hai thứ Mã Lai: Austroasiatiques và Anstronésiens, mà Tàu gọi là Lạc bộ Mã và Lạc bộ Trãi, hai thứ đó chỉ giống nhau về ngôn ngữ có 40% mà thôi, vì khi dời Himalaya, định cư ở các địa bàn khác thì họ sáng tác khác hết.
Phân biệt họ là các nhà tiền sử học mà công trình không được các nhà ngữ học biết. Và các nhà ngữ học chỉ tiếp tục biết có một thứ Mã Lai độc nhứt là Mã Lai Nam Dương vì dân đó đang tự xưng là Mã Lai.
Trong quyển sử, chúng tôi trình bày rõ là Nhựt Bổn là Mã Lai hỗn hợp y hệt như Việt Nam. Nhưng các nhà ngữ học cứ chỉ biết độc có một thứ Mã Lai thì họ bác nhà bác học Nhựt hơi oan. Với lại chính nhà bác học Nhựt đó cũng chỉ biết có một thứ Mã Lai độc nhứt.
Thế thì trong số vốn Mã Lai mà Nhựt còn giữ được là 35%, chính nhà bác học Nhựt và các nhà ngữ học thế giới cũng chỉ thấy có 7% danh từ Mã Lai, còn văn phạm thì không có Mã Lai gì hết.
Tại sao là Mã Lai hỗn hợp, thì đáng lý phải có 2/3 = 17,5% danh từ Nam Dương, thế mà lại chỉ có 7%? Vì người Nhựt biến nát danh từ Nam Dương hết, không chuyên môn không thể nhận ra.
Chúng tôi xin trình ra một thí dụ: ”Hiện nay và BÂY GIỜ” người Nam Dương nói là MASA INI.
INI là trạng từ chung của chủng tộc mà ta còn giữ được dưới hình thức NI, NẦY, v.v. Nhựt cũng giữ được hồi cổ thời. Nhưng họ bị hậu duệ của Phù Tô tràn ngập hồi cuối nhà Tần, thành thử họ bị truyền nhiễm cú pháp HIỆN ĐẠI. Thế nên họ dời INI, để trước MASA, nó hóa ra là INI MASA = HIỆN ĐẠI. Ini masa
được dùng mãi cho đến thời canh tân thì họ lại viết dính các danh từ của họ lại, vì bắt chước Tây (tức cách đây không lâu).
Trong cuộc viết dính đó, NI bị nuốt và SA bị nuốt, nên nay chỉ còn IMA. Khi so MASA INI với IMA, không còn nhà bác học nào mà biết hai tiếng đó cùng gốc mà ra hết.
Thế nên sự thật có 17% tiếng Nam Dương, nhưng các ông chỉ biết có 7%, rồi các ông chê rằng thuyết đó sai. Nhà bác học Nhựt cãi không được cũng đành chịu thua. Vả lại vào năm mà nhà bác học Nhựt đó khám phá ra sự kiện nói trên thì khoa tiền sử học làm việc chưa xong. Khoa học chưa thấy dấu vết di cư của chủng Mã Lai từ Đại Hàn xuống Đông Nam Á. Như thế, ngôn ngữ của hai đàng phải giống nhau 100% họ mới nhìn nhận, phương chi lại giống nhau có 7% nhưng cũng đã nát hết như MASÉ biến thành MAĐÁ, MATI biến thành NAKI.
17% danh từ Lạc bộ Trãi thì không bao giờ được ai biết cả. Nhà bác học Nhựt đó đã khám phá một sự kiện lớn lao, cũng không biết có bọn Trãi trên đời nầy. Các ông Tây lại càng không biết hơn, vì các nhà bác học Âu Mỹ làm việc ở Đông Bắc Á không có làm việc ở Đông Nam Á và ngược lại. Không có ai ở Đông Bắc Á mà biết tiếng Việt Nam và tiếng Thượng Việt cả.
Danh từ của bọn Lạc bộ Trãi là bọn thua trận bị phe Thiên Hoàng là Lạc bộ Mã lãnh đạo, tuy ít bị biến sai như danh từ Nam Dương, nhưng không ai biết tiếng Việt Nam và tiếng Thượng Hải thì làm sao đây?
Thí dụ, con sán (xơ mít) của ta thì Nhựt gọi là SANA. Sana đâu phải là tiếng Nam Dương, nhưng các ông chỉ biết có tiếng Nam Dương, thế mới chết. Cái SỪNG của ta, Nhựt gọi là TSUNO, cũng đâu phải là tiếng Nam Dương, thế nhưng các ông chỉ biết tiếng Nam Dương thì làm thế nào?
Vậy các ông bèn kết luận rằng Hàn ngữ và Nhựt ngữ thuộc dòng An Tai ngữ.
Văn phạm của Nhựt như thế nầy:
Ở đây chi có con chó là có hay không?
Ta nói:
Ở đây có con chó hay không?
CHI, người Nhựt nói là NÔ, nhưng đó cũng là sự truyền nhiễm của 127 huyện của Phủ Tô, chớ Mã Lai không bao giờ có cú pháp đó. Tuy nhiên họ vẫn khác Mã Lai ở điểm động từ CÓ bị dời ra đàng cuối câu.
Nhưng không vì thế mà phủ nhận họ là Mã Lai được. Về vấn đề văn phạm bị biến, chúng tôi đã nói nhiều trong quyển sử. Chính danh từ mới trường tồn, còn văn phạm thì rất dễ bị mất, ngược hẳn với tin tưởng của mọi người.
Vậy ông Nhựt và ông Tây không nhận diện được 8% tiếng Nam Dương trong Nhựt ngữ và tuyệt đối không biết 17% danh từ của Lạc bộ Trãi tức của Đại Hàn, Việt Nam và Thượng Việt. Đại Hàn gọi con chó là con KAI (con cầy) khiến các ông Tây điếc tai, cho đó là tiếng Mông Cổ! Họ gọi TRĂNG là TAL, các ông Nhựt cũng điếc tai luôn, vì Nhựt đã quên danh từ Trăng của chủng tộc vay mượn của Tàu hàng trăm năm rồi: Nguyệt ( yụyt ( Tsuk (i).
Đó là danh từ của Lạc bộ Trãi mà Đại Hàn là Lạc bộ Trãi thuần túy 100%, không dùng lấy một danh từ
Nam Dương nào hết như Nhựt và ta đã dùng.
Chúng tôi cảm tạ vị giáo sư tử tế đó, đã lưu ý chúng tôi đến một điểm có thể sai lầm to mà uổng công học hỏi. Nhưng chúng tôi sẵn sàng đối thoại với các nhà bác học Âu Mỹ, nếu họ thèm đếm xỉa đến chúng tôi.
Và chúng tôi đã có bồ rồi. Theo tiết lộ của giáo sư Nghiêm Thẩm thì Nhựt cũng đã chợt biết trên đời nầy có bọn Trãi mà chính ta và Thượng Việt là Trãi. Họ có đến Sài Gòn để nghiên cứu có ghé thăm giáo sư để tâm sự, nhưng không biết họ đã hay biết rằng:
Sana = Sán (xơ mít) (Việt Nam)
Tsuno = Sừng (Việt Nam)
Mau = Múa (Việt Nam)
Mai = May (Việt Nam)
Arau = Rửa (Khả Tu)
Inú = Anuk (Khả Tu)
Hay chưa? Đó là danh từ của Trãi mà Nhựt và ta với Thượng Việt đều giống hệt nhau, người Nam Dương không có trừ Kơmarau = Rửa
Kamu = Cắn
Kamiau = Cắn nhau
Rõ như ban ngày.
Ấy đó, cái 35% tiếng Mã Lai trong Nhựt ngữ, thành phần nó như thế đó, nhưng lại có 17% danh từ Trãi mà không nhà bác học nào biết hết, còn lại 17,5% danh từ Nam Dương thì các ông chỉ nhận diện được có 7% hóa ra không đáng kể và khám phá của nhà bác học trên bị bỏ trôi là vì thế và buồn lắm là chính người khám phá cũng đánh chịu Forfait khi mà người ta cho thấy rõ là chỉ có 7,5% thì không thể nói rằng là chỉ có 7,5% thì không thể nói rằng tiếng người có gốc Mã Lai được.
Khi mà KIRI của Chàm và của Nam Dương có nghĩa là Bên trái, bị nông dân miền Trung Việt biến thành RÌ để điều khiển trâu cày, thì thiên hạ nhận diện còn được, chớ Nhựt biến thành HAĐIRI thì chỉ có trời mà biết rằng KIRI và HAĐIRI đồng gốc Mã Lai.
Bây giờ chúng tôi xét qua chủ trương Âu Mỹ cho rằng Hán ngữ và Nhựt ngữ thuộc gia đình An Tai ngữ, xem nó có đúng hay không, chúng tôi đã bác bỏ chủ trương ấy trong cuốn sổ của chúng tôi.
Trong quyển Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, chúng tôi đã cực lực bác bỏ chủ trương của sách Âu Mỹ cho rằng Hàn ngữ và Nhựt ngữ gốc là ngôn ngữ của vùng núi Altai (tây bắc nước Tàu) và cho rằng hai ngôn ngữ đó chỉ là đó chỉ là Mã Lai ngữ.
Các ông Tây đã học rồi nên mới dám viết như vậy, nhưng chúng tôi lại cả gan bài xích các ông, không phải là cãi bướng mà vì các ông ăn nói không minh bạch, khiến cả thế giới đều hiểu lầm.
Cho hay, khoa học không thể nói mù mờ như người thường mà phải chính xác, nên chúng tôi phải bác bỏ, vì mặc dầu các ông nói đúng, nhưng thiên hạ lại hiểu sai.
Vùng núi Altai hồi cổ thời chia thành hai khu vực rõ rệt. Ở tây nam, người dân là Nhục Chi, nói tiếng Ấn
Âu, tức tiếng Tây. Đó là xứ Thổ Lỗ Phồn. Khu tây bắc là địa bàn Mông Cổ, mà về sau Mông Cổ đặt Kinh đô Quaraqo- roum của họ ở đó.
Khi vùng đại danh vùng núi Altai thì ai muốn hiểu sao cũng đúng cả, nhưng thiên hạ lại hiểu là vùng Tây Nam, tức vùng Nhục Chi và Hàn ngữ và Nhựt ngữ là tiếng Tây.
Chúng tôi cũng đã dịch Altai là Tây Vức trong quyển sử của chúng tôi, không phải vì chúng tôi không biết rằng các ông Tây nói đúng, họ chỉ nói không minh bạch mà thôi nhưng chúng tôi có mục đích bác bỏ ngay vì giấy sắp lên giá khi in quyển đó, chúng tôi phải lọc bớt trang thì không thể nói dài dòng được mà hễ nói tắt là phải bác bỏ.
Vậy đại danh mơ hồ vùng núi Altai của sách Âu Mỹ chỉ có nghĩa là Mông Cổ. Nhưng nếu chúng tôi dịch đúng thì phải giải thích dài dòng, mà các ông Tây cũng không nói đúng hơn gơ-ram nào cả.
Ba dân tộc : Đại Hàn, 2/3 Nhựt Bổn và 2/3 Việt Nam đều là Mã Lai Hoa Bắc nước Tàu, chớ không làm sao mà họ lại nói tiếng Mông Cổ như các ông Tây đã lầm.
Nhưng các ông Tây đã lầm vì quả trong Hàn ngữ và Nhựt ngữ có yếu tố Mông Cổ. Việt ngữ cũng mang chút ít yếu tố Mông Cổ nhưng các ông Tây không biết nên không nói đến Việt Nam.
Tại sao ba ngôn ngữ đó lại mang yếu tố Mông Cổ? Vì Lạc bộ Mã có lai giống với Mông Cổ trên một tỉ lệ 1/15 như sọ ở hang làng Cườm đã cho thấy. Riêng Đại Hàn và Nhựt, vì ở quá gần đó nên yếu tố Mông Cổ về sau, tức sau cuộc hợp chủng lần đầu, lại tăng thêm, nhiều nhứt là Đại Hàn. Nhưng các yếu tố Lạc bộ Trãi thì các ông Tây mù tịt, nên không bao giờ nói đến, mặc dầu đó là yếu tố căn bản, ít lắm cũng trong Việt ngữ và Nhựt ngữ, còn trong Hàn ngữ thì quá ít, nhưng vẫn có. Đại Hàn mất gần hết danh từ của Lạc bộ Trãi, nhưng cứ còn.
Các ông không biết hai điều:
I - Không biết có Mã Lai đợt I tức Lạc bộ Trãi,
II - Không biết là Lạc bộ Trãi có lai giống với Mông Cổ tại Hoa Bắc.
Nhưng cái sọ ở hang làng Cườm đã gạt gẫm các ông Tây ở Hà nội và các ông cho là lai Tàu, mà lai tại cổ Việt, tức Tàu đã tới xứ ta từ 5000 năm rồi.
Nhựt có tĩnh từ XIUUA, mà các ông kí hiệu theo Anh là SEWA, mà riêng Nhựt đã dùng để chỉ tới hai văn thể của họ là SETSEWA và SEWA MONO.
Các ông Tây có biết tiếng Mông Cổ, và thấy trong Hàn ngữ và Nhựt ngữ có một số danh từ Mông Cổ, nhưng không hề có SEWA và MÔNÔ chỉ có MÓN của Lạc bộ Trãi.
Ở Nhựt SETSEWA = TÍCH XƯA = LÉGENDE
Còn MONOSEWA = một thể kịch diễn tuồng Phong tục, vì xưa cũng có nghĩa Phong Tục, trong Sơ Đăng ngữ.
Vậy trong cả ba quốc gia Đại Hàn, Nhựt Bổn, Việt Nam đều có một số danh từ Mông Cổ mà không ai dè, không dè nhứt là ở Việt Nam.
Danh từ KẺ là danh từ của Mông Cổ, có nghĩa là người dưới hình thức sau đây KÉ. KẺ CHỢ có phải chăng là người ở chợ?
Mông Cổ: Ké
Cao Miên: Kê
Việt Nam: Kẻ
NGƯỜI chỉ là một danh từ do một ngữ nguyên khác tạo ra.
KẺ đẻ ra CON.
Nhưng CON và NGƯỜI ra đời rồi mà KẺ vẫn còn được thịnh dụng, qua câu ca dao tương đối mới, biết rằng nó mới vì trong đó có danh từ TIỀN và CAU. Hồi cổ thời ta đâu có nói Cau mà nói là NANG, y hệt như Chàm và Mã Lai.
Đồn rằng Kẻ Trọng lắm cau
Kẻ Cát lắm lúa, kẻ Mau lắm tiền
Nhưng KẺ không đẻ ngay ra KON đâu, mà có hai ba thế hệ giữa dòng đời của bọn ấy. Kẻ đẻ ra KO của dân Làc (ở Đà Lạt), KO đẻ ra CÂU của dân Mạ (ở Lâm Đồng) rồi KO và CÂU mới đẻ ra CÔ AI của Bru và NCỐ của Pacóh, rồi mới đến KON của Thái và CON của Việt Nam hồi cổ thời.
Đây là xâu chuỗi biến dạng.
Hệ thứ nhứt
Mông Cổ: KÉ
Cao Miên: KÊ
Việt Nam: KẺ
Làc: KO
Bru: CÔAI
Pacóh: NCÔH
Mạ: CÂU
Thái: KON
Cổ Việt Nam: CON
CON thì hiện Thái còn dùng đẩ chỉ NGƯỜI.
Nhưng có bằng chứng nào để dám khẳng định rằng trong Việt ngữ có một thời nào đó, CON có nghĩa là NGƯỜI hay không? Có. Bằng chứng rất vững và rất lâu đời, cổ ít lắm cũng bốn ngàn năm.
Ta có danh từ kép BÀ CON. Bà con phải chăng là người phía bên Bà? Không thể nào mà Bà con lại là BÀ và CON CHÁU, bởi còn anh, chị, chị em, chú, bác, cô, dì, đủ thứ hết, tại sao lại chỉ trỏ có BÀ và CON CHÁU thì quá vô lý.
Vậy CON chỉ có thể là NGƯỜI.
Nhưng tại sao lại là người phía bên bà? Tại chế độ mẫu hệ cổ thời. Con theo họ mẹ. Nhưng người bên bà,
bên mẹ là người đồng tộc, còn kẻ bên ông là người ngoại tộc, không là bà con (theo chế độ mẫu hệ). Vậy bà con là người đồng tộc nhưng mà là tộc bà.
Ta lại có từ ngữ to con hay TO người. Rõ ràng:
Con = Người
Cũng nên biết hai điều nầy:
I - TO CON chỉ được nói ở miền Nam, còn ở miền Bắc thì không, hoặc rất ít được nói. Thế thì dùng từ ngữ miền Nam để nói chuyện cổ thời là sai chăng?
II - Không sai. Chúng tôi đã chứng minh trong quyển sử rằng miền Bắc mất ngôn ngữ rất nhiều, thời vua Lê Chúa Trịnh, nhưng lưu dân đi Trung, đi Nam thì giữ được bởi nguyên nhơn mất ngôn ngữ chỉ xảy ra tại đất Bắc mà thôi. Lưu dân ăn nói theo Bắc cổ thời.
Ngay ở Chương II của sách này cũng đã có chứng tích như thế. Người miền Bắc không hiểu ca dao tục ngữ miền Bắc mà người miền Nam thì hiểu.
III) Chữ TO trong từ ngữ trên đây chứng minh được gốc gác miền Bắc của từ ngữ vì người miền Nam chỉ nói LỚN và BỰ mà không nói TO trừ trường hợp độc nhứt là từ ngữ TO CON mang từ miền Bắc vào.
Vậy thuở xưa, chính miền Bắc đã nói TO CON chớ không nói TO NGƯỜI và đó là chứng tích dở, mặc dầu miền Nam chỉ mới được khai sanh hơn ba trăm năm.
Nhưng đến hình thức KON thì có biến. Kon mọc đuôi rất dài, biến thành KONANG tức thêm ANG. Mã Lai như đã bắt đầu đa âm rồi. Tiếp vĩ ngữ ANG trong KONANG có nghĩa là MẠNH. Quả thật người Nam Dương có danh từ LANANG là Đàn ông lực lưỡng.
(KON) ANG có thể ban đầu là người mạnh. Người mạnh là người đàn ông, khác với người đàn bà là người yếu nên chủng Mã Lai mới tạo ra LANANG = Lan + ang để chỉ đàn ông và tạo PƠRTINA, WAHINA để chỉ đàn bà là kẻ yếu, và giữ KONANG để chỉ NGƯỜI tổng quát.
Mã Lai sáng tác lanang trước khi di cư đi Nam Dương và cho Kon mọc đuôi thành konang cũng trước khi đi Nam Dương. Đến nơi một thời gian họ mới biến ra konang để rồi rụng đầu, hóa ra ngày nay người của họ là ORANG.
Tại sao không để nguyên KONANG mà biến thành KORANG? Là tại ảnh hưởng Ấn Độ. Cứ nghe một ông Ấn Độ ở Sài Gòn nói tiếng V. N. là đủ hiểu cả: ”Côrơ ơirơ, tôirơ, yêurơ, côrơ, lắmrơ.”
KONANG đã có trước khi Lạc bộ Mã di cư đi Nam Dương, vì bọn ở lại bên Tàu có nhiều nhóm bị Hoa hóa sâu đậm lắm rồi thế mà về tiếng người họ không dùng tiếng Tàu, mà nói Nang, Náng, Nàng.
Nang (Phúc Kiến)
Náng (Triều Châu)
Nàng (Hải Nam)
Trong quyển sử, chúng tôi đã lầm mà nói rằng bọn ở lại, đã chịu ảnh hưởng Trung Hoa nên mất âm R, KO RANG biến thành KONANG rồi lại chịu ảnh hưởng độc âm của Trung Hoa thêm một cú nữa thì KONANG bị co rút thành NANG.
Nhưng chúng tôi học lại thì thấy khác. KONANG đã có trước KORANG. Tại Trung Hoa nó chỉ mất đầu KO mà thôi. Tại Nam Dương thì N biến thành R vì thói lạm phát R của Ấn Độ. Ở Chàm cũng có ảnh hưởng Ấn Độ, nên nó biến thành urang (mất đầu K).
Ta cũng có một thời nói KONANG, tuy không còn dấu vết trong ca dao, nhưng đồng bào Thượng có thì ta phải có. Mãi cho đến ngày nay mà người Sơ Đăng còn nói KO- NỐU = Người.
Tóm lại dấu vết KO, KON, KONANG đều còn đủ mặt trong lãnh thổ Việt Nam, chỉ có riêng xã hội Việt Nam thì thiếu KONANG nhưng người Sơ Đăng còn giữ được.
Hình thức Ko thì còn giữ được đầy rẫy ở cao nguyên Lâm Đồng, và KO = Người trong ngôn ngữ của riêng dân Núp, Kâyông Việt. Việt… CO LÀC là NGƯỜI DÂN LÀC.
Trong ngôn ngữ Bru COÂi là NGƯỜI. CÔAI BRU là NGƯỜI DÂN BRU. Trong ngôn ngữ Mạ thì CÂU là NGƯỜI. CÂU MẠ là NGƯỜI DÂN MẠ.
Lại có đại biến, riêng tại lưu vực Hồng Hà. Đó là cuộc xâm lăng của Mã Viện và Mã Lai ngữ ở đó bị độc âm hóa. Konang bị ép như mía của các chị bán nước mía. Và hóa thành O, đã mất đuôi, lại đứt đầu.
Nhưng cấm nói vô bằng chứng. Bằng chứng là đây. Ta có hai ba câu ca dao khá cổ mà trong đó O = NGƯỜI:
O mi coi dáng nhu mì
Cứt dê bỏ bị mà đi khắp làng.
O mi là CON NGƯỜI CỦA MI rõ ràng.
Tự điển K. T. T. Đ định nghĩa O là CÔ. Đành thế, nhưng O phải có nghĩa gì nữa thì câu ca dao này mới là có nghĩa, chớ nếu O chỉ là CÔ thì là gì? Xin thay thế chữ O bằng chữ CÔ ở câu trên để xem sao.
Cô mi coi dáng nhu mì
Cứt dê bỏ bị mà đi khắp làng.
Không có nghĩa gì hết. Tại sao lại chê “cô” của một kẻ nào đó. Cô của hắn phải đã già rồi, không cần được người đời nói đến nữa. Người ta có khen chê thì chỉ khen chê em gái của kẻ đó, hoặc chị của kẻ đó thôi: Không, O trong câu nầy, không thế nào mà có nghĩa là CÔ được, mà đúng là Người: Người của mi coi dáng nhu mì.
Chữ O với nghĩa là CÔ, chỉ hữu lý trong câu ca dao sau mà thôi:
O bà cũng nọ mần chi
Hễ ông thương đặng thì dì cũng hơn
Đấy, O là Cô đấy, nhưng người chép ca dao, ông Nguyễn Văn Ngọc, cũng đã chép sai một tiếng. Đó là NỎ chớ không phải NỌ. NỎ cũng cứ là tiếng Mã Lai và có nghĩa CHẲNG. Xin chuyển ra danh từ đời nay:
Cô bà cũng chẳng làm chi
Hễ ông thương được thì dì cũng hơn
Chữ O với cái nghĩa là CÔ là danh từ Chàm (Lạc bộ Mã) mà ta vay mượn và quả câu ca dao thứ nhì là ca dao miền Trung bằng vào nhưng tiếng mà miền Bắc không có dùng, thí dụ MẦN thay cho LÀM, ĐẶNG thay cho ĐƯỢC.
Chữ O trong câu ca dao thứ nhứt là danh từ của Lạc bộ Trãi, tức đó là sự co rút tới mức triệt để của Konang.
Đó là hình thức sau Mã Viện, chớ trước Mã Viện, ta đa âm thì phải dài hơn, nhưng không biết nó ra sao, vì không tìm được dấu vết, có thể là KONANG, mà cũng có thể là KONỐU như nơi người Sơ Đăng.
Câu ca dao trên đây, chắc chắn là bắt gốc tại Đàng Trong vì có những tiếng mà chỉ có Đàng Trong mới dùng, vì vay mượn của Chàm: MẦN, ĐẶNG (thay vì ĐƯỢC) và chính người Chàm xưa gọi CÔ là O.
Thế thì O gốc Chàm trong câu sau phải khác với O Bắc Việt trong câu trước. O sau là của Lạc bộ Mã có nghĩa là CÔ, O trước của Lạc bộ Trãi có nghĩa là CON.
Đây là xâu chuỗi được hồi phục:
Thế hệ thứ nhứt
Mông Cổ: KÉ
Cao Miên: KÊ
Việt Nam: KỂ
Làc: KO
Mạ: KÂU
Bru: CÔAI
Pacóh: NGÔH
Thái: CON
Việt Nam: CON (trước Mã Viện)
Việt Nam: O (sau Mã Viện)
Sơ Đăng: KONỐU
Việt Nam: KONANG (Không có chứng tích)
Lạc bộ Mã: KONANG (Chưa di cư)
Lạc bộ Mã: NANG (Bọn ở lại thành Tàu)
Lạc bộ Mã: KORANG (Bọn di cư đi Nam Dương)
Lạc bộ Mã: ORANG (Rụng đầu K)
Dân Sơ Đăng, bằng chứng vào ngôn ngữ, là Lạc bộ Trãi, thế nên mặc dầu không tìm thấy dấu vết KONANG trong ngôn ngữ ta, trong biểu đối chiếu trên đây, chúng tôi để Việt Nam có Konang vì Sơ Đăng có thì ta phải có.
Danh từ KONỐU quan trọng hơn hết vì nó là cái khoen biến chuyển từ KON ra KONANG. Trong xâu chuỗi nầy, ta thiếu mất một dân tộc nói KONANG, nhưng KONỐU đã cứu vãn được xâu chuỗi. Quí vị sẽ biết rõ người Sơ Đăng ở những Chương sắp tới, họ gần gũi ta lắm, trong các nhóm Thượng, nhiều danh từ Việt, không nhóm nào có cả, trừ Sơ Đăng.
Thế ta vừa khám phá ra danh từ cổ Việt nó giúp cho cái xâu chuỗi danh từ thành hình rõ rệt, nhưng không phải là giả thuyết chút nào cả. Đó là hai danh từ O và CON.