🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hồi Ký Song Đôi
Ebooks
Nhóm Zalo
Huy Cận
Hồi Ký Song Đôi
Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách :
Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach
Mục Lục
Thông tin ebook
TẬP I
=A=
=B=
=C=
=D=
=E=
=F=
=G=
=H=
=I=
=J=
=K=
=L=
=M=
=N=
=O=
=P=
=Q=
TẬP II
=A=
=B=
=C=
=D=
=E=
=F=
=G=
=H=
=I=
=J=
=K=
=L=
=M=
=N=
=O=
=P=
=Q=
=R=
=S=
Bình luận 1
Bình luận 2
Bình luận 3
TẬP I
=A=
Trước hết tôi xin nói về quê hương nhỏ của tôi tức là xã Ân Phú, thuộc huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay thuộc huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh. Xã tôi là một xã bán sơn cước, nằm ở chân núi Mồng Gà, bên tả ngạn sông La, cảnh núi sông rất đẹp, nhưng trước cách mạng thì vắng vẻ và hắt hiu, mặc dù bên kia sông chợ Nướt, mỗi tháng họp chín kỳ (cứ ngày 3, ngày 6, ngày 9 âm lịch là phiên chợ) thu hút dân buôn bán và nông dân cả mấy huyện xung quanh thành một nơi tụ hội nổi tiếng. Anh Xuân Diệu khi nói về quê tôi đã viết “Cái làng nửa sơn cước, khuất nẻo bên sông vắng, có nhiều cây cọ - ở Hà Tĩnh gọi là cây tro - chao ôi, trước Cách mạng tháng Tám 1945 sao mà vắng vẻ hắt hiu đến thế! Nếu không thương bạn chưa chắc tôi đã về. Rất nhiều cá tính của đất đai, có thể nói mỗi mảnh đất đều tràn đầy xúc cảm, như tích tụ cái cổ sơ đâu từ hàng trăm năm trước. Làng quê hương đã cung cấp cho Huy Cận một cái vốn đất đai gì sâu thẳm như từ ruột của thời gian”. Sông núi đất đai ấy như đã làm ra xương thịt và tâm hồn tôi.
Tôisinh ra ở miền sơn cước
Có núi làm xương cốt tháng ngày
Đất bãi tơi làm ra thịt mát
Gió sông như những mảng hồn bay.
(Tôi nằm nghe đất)
Tuổi nhỏ tôi trùm trong nhớ thương
Cách sông chợ Nướt, bến đò sương
Làng quê sơn cước chiều về sớm
Bóng núi dài lan mát ruộng nương
Ở dưới chân núi, chạy dọc bờ sông là một cánh đồng dài đất khá mầu mỡ, một phần nhỏ là ruộng nước, phần lớn là nương, tức là ruộng cạn, trồng lúc trỉa, hoặc là trồng mía. Đầu xuân, khi ngô mới nhú mầm, lá non mịn tơ như lông tuyết, xanh sáng như ngọc bích, cả cánh đồng ánh lên như một thảm nhung rất đẹp, mát mắt, tưởng như có thể xén từng mẩu đất mà nhai nuốt được. Buổi chiều về, gió sông thổi mát, bóng núi Mồng Ga lan dài trên cánh đồng như một cái chăn mỏng đắp lên làng xóm. Chính cái buổi chiều sớm ấy ở làng sơn cước đã gợi lên một nỗi buồn man mác. Ngày bị rút ngắn lại, sông núi ở ngay bên cạnh nhà mà được màu xa vắng. Chính trên cánh đồng chân núi ấy, lúc bốn tuổi, năm tôi đã theo cha mẹ, o tôi, chú tôi đi bừa, đi nhặt cỏ, đi gieo hạt. Thú nhất là đứng trên cái bừa đạp cho bò kéo đi như là đứng trên một chiếc xe, nghe từng cục đất vỡ tơi dưới chân bừa, xông lên mùi cỏ úa. Có khi còn lấy roi tre quất cho bò chạy nhanh, chiếc bừa xông lên như một cỗ xe thắng trận. Nhưng có một lần hứng thú như vậy tôi đã bị ngã, con bò cứ lướt tới, và tôi bị chẹt giữa cái bừa bị bò lôi đi, may mà không bị xây xát gì. Từ đó về sau cha mẹ tôi không cho tôi đi đứng bừa nữa. Tôi lại cưỡi trâu, trời cuối năm se lạnh, ngồi trên lưng trâu ấm lắm. Cầm dây thừng (ở Hà Tĩnh gọi là chạc mũi). Tôi điều khiển trâu như cầm cương ngực, và lấy hai chân thúc vào hông trâu chạy thật nhanh như ngựa phi. Có lần trâu chạy đến dốc vực Trộ đó, đột ngột trâu dừng lại, và tôi ngã phía trong vườn. May mà trâu dừng và tôi ngã, nếu không thì cả trâu lẫn người đã rơi tòm xuống vực sâu ở dưới có đá ong. Ở xã tôi hồi ấy, có tục lệ: cuối năm, hần teat, cả làng xóm cho trâu bò lên núi hàng mười ngày, nửa tháng. Các anh trai cày cho trâu lên núi, chặt cây rừng và lá cọ làm một cái lán gọi là chòi trâu. Có một lần tôi được đi theo các anh trai cày ấy, như tham gia một cuộc phiêu lưu, tạm xa nhà chừng ba bốn cây số mà tưởng là xa ngái lắm. Chiều cuối năm, gió trở lạnh, sườn núi hoang vắng, những cây sim, cây thanh hao (tức là cỏ trện) lắt lay trong gió càng tăng vẻ lạnh lẽo của sương chiều đã phủ mờ mờ trên lưng núi va 2trên cánh đồng sát chân núi. Các anh lớn bảo chúng tôi:“Ta hãy làm cái trống đất để tế trời”. Tôi không hiểu làm một cái trống đất là làm thế nào, lấy đất mà vắn thành trống, hay lấy một cục đất to mà đẽo thành hình trống chăng? Các anh ấy cầm dao tày, dao dựa, đào một lỗ xuống đất khoét thành đất cho tròn, sâu chừng ba bốn mươi phân và đường kính cũng chừng hai gang tay. Xong rồi các anh đi chặt một sợi rừng, loại sợi dẻo dai, vắt ngang cái hố đã đào, và hai đầu dây buộc chặt vào hai cái cọc đóng sâu bên miệng hố. Đoạn, các anh lấy một thanh cây gọt tròn như cái khăng đánh vào sợi dây rừng và tự nhiên vang lên một tiếng bịch bịch: đó là âm điệu rất cổ sơ của chiếc trống đất, và tang trống là cả bề dày của đất triền núi. Một anh cứ thế ngồi “đánh trống đất” và mấy anh khác đứng lên hướng về chóp núi vái trời. Đó là lễ tế trời của đám trai cày chăn trâu trên núi:
Chiếc trống vang lên điệu cổ sơ
Rung từ lòng đất - Đến bây giờ
Tôi còn nghe rõ trong chiều lặn
Tiếng dội như là đất thở ra.
Cứ như thế “Vang động hoàng hôn một sợi rừng”. Tiếng nhạc cổ sơ ấy, như là hơi thở của đất ấy cứ vang thầm mãi trong tôi.
Hồn thở nghe trong chiều vời vợi
Đất trời gần gũi tiếng nguyên sơ...
Trước Cách mạng tháng Tám, thời gian ở quê tôi như ngưng đọng lại, như không nghe thấy bước đi của các thế kỷ, một số phong tục, tập quán cổ xưa đâu từ các đời trước truyền lại còn nguyên vẹn. Chẳng hạn phong tục đón giao thừa. Cứ đến đêm ba mươi tết, một số trai làng tập
hợp lại, bận áo quần teat, đầu chit khăn đỏ, khăn vải điều, và mang nhị, mang trống cơm, mang sanh tiền đi chúc teat khắp làng. Đến mỗi nhà các anh ấy tay vỗ vào trống cơm (cũng gọi là trống tầm vông) hát lên những bài hát điệu rất cổ sơ mà lời cũng rất cổ sơ, nói đến trời đất, nói đến “cây cỏ dương hoà” nói đến thần tài, thần mệnh, nói đến “con cháu đầy đàn”, nói đến âm dương, nói đến tạo hoá. Lời hát nửa đượm màu huyền bí, nửa rât hiện thực cuộc đời nằm trong một điệu nhạc trầm trầm, đều đều có một cai gì đó rất hấp dẫn, gợi lên bề sâu của sự sống ở nơi mảnh đất cổ xưa này. Cho đến hôm nay việt đoạn hồi ký này, tôi vẫn còn nghe trong tâm tưởng điệu nhạc ấy, giọng hát ấy, tiếng trống cơm ấy và còn thấy rõ những chiếc khăn điều tươi tắn hiện lên trong đêm như một tín hiệu thần tiên, hay nói đúng hơn như hé mở một thế giới nào vừa gần gũi vừa kỳ lạ mà tôi cảm thấy nhưng không nói rõ được ra lời. Cũng nói về phong tục tập quán, xin ghi thêm việc rước thần ở làng tôi vào rằm tháng giêng và rằm tháng bảy. Khi kiệu thần đi qua xóm tôi, mọi người đổ xô ra xem. Đối với tôi, lúc đó khoảng sáu, bảy tuổi, là một sự khám phá kỳ diệu. Ông thần (tức là ông đồng) mặc áo quần toàn đỏ, khăn cũng đỏ, ngồi trên kiệu hai tay khoát khoát, có lúc kiệu gặp đường gập ghềng nghiêng hẳn đi mà thần vẫn ngồi thẳng không có gì xiêu lệch. Thần là ông Giao, ở xóm Boòng, một người có học chữ Nho, dáng người đẹp và nét mặt thì cũng có vẻ gì như là thần, vừa nghiêm mà lại vừa tươi tắn. Các bà trong xã, trong làng cũng trầm trồ khen ông, chắc là có mê ông.
Nhân nói việc rước thần, tôi lại nhớ những lần theo cha tôi lên đình Trung, trên một ngọn đồi thấp, sự những buổi tế thần Thành hoàng của xã. Đêm trước ngày lễ chính, những chức sắc trong làng tụ tập ở đình để làm lễ tiến thường. Nhân dịp này, xã lại cho trần thiết đình làng với những lư hương và những cây đèn bạch lạp bằng đồng thau sáng choáng, và nhất là cho treo bộ tranh dân gian gồm 24 bức, tranh cổ kính rất đẹp. Nghe nói bộ tranh này do một vị quan người của xã có dịp ra thăm Thăng Long mua về hồi dời nhà Lê. Tranh vẽ những voi, ngựa hạc, các vị tướng... Tôi còn nhớ rõ những con voi phủ bành nỉ điều có thêu rất đẹp, các vị tướng thì đội mũ chóp nhọn có ngù như các vị tướng đời Tây Sơn mà ta thấy biểu hiện qua chân dung Nguyễn Quang Hiền (giả danh là Nguyễn Huệ sang thăm triều Nhà Thanh). Năm 1955, về thăm quê, tôi hỏi thăm các vị bô lão trong làng thì mới hay bộ tranh đã mất dần, chỉ còn lại 4 bức do bác Cù Hoàng Thự (thầy học khai tâm của tôi) còn cất giữ. Tôi đã xin 4 bức tranh ấy đưa ra Hà nội biếu cho bảo tàng mỹ thuật: hai bức vẽ hai con ngựa hồng và trắng có lộng che, dáng ngựa rất nghịch ngợm: một bức tranh hạc và một bức tranh tướng. Tất cả 4 bức tranh đều tô màu với chất liệu màu lấy từ thảo mộc. Anh Nguyễn Đỗ Cung đã xem kỹ 4 bức tranh này (lúc đó anh là giám đốc bảo tàng mỹ thuật) và xác định là tranh đời nhà Lê, có thể là do một phường vẽ tranh ở Thăng Long sản xuất, in hàng loạt bằng bản gỗ.
Đêm tiền thường ở đình Trung khói hương nghi ngút, đèn nến “lấp lánh như sao”, nhiều chức sắc ngủ tại đình, không khí rất tôn nghiêm mà lại có cái gì rất dân dã. Tôi cũng theo chú tôi ngủ tại đình, giấc ngủ chập chờn, mỗi lúc thức dậy lại thấy các ngựa, voi trong tranh như đang như đang đi dồn dập trong một đám rước. Luôn luôn cái cảm giác nửa truyền thuyết, bửa cuộc đời cứ chờn vờn trong tâm trí tôi. Gần sáng thì có tiếng lợn kêu bên cạnh sân đình: đang mổ lợn để tế thần. Còn xôi và thịt gà thì do các gia đình làm lướt (đến phiên phải làm cỗ cúng thần) bong đến. Ngày lễ chính, có rước sắc thần (cuộc tròn cất trong một cái hòm sắt dài, sơn son thếp vàng) từ đình đi qua các xóm, vào tận chân núi rồi trở về. Đám rước có ông tiên chỉ đi trước, có hàng cờ đại và cờ đuôi nheo đi theo, có trống chiên rền vang từng hồi một. Đám rước đi ngoằn nghèo trên đường làng, có khi đi tắt qua những bờ ruộng, hiện lên rất đẹp mắt với màu cờ đỏ viền màu tím thẫm trên nền xanh của những ruộng lúa, ruộng ngô, trên những bờ tre xanh mượt. Tôi không kể chuyện ăn uống ở đình làng mà nhiều người đã biết. Tôi chỉ ghi cái ấn tượng: lễ tế thần hoàng của xã đượm một tinh thần nhờ tổ tiên, nhớ cha ông đã khai hoang, lập ấp. Đường dây liên hệ giữa các thế hệ trước, sau thật là tươi thắm, tưởng như sờ mó được. Nhân dịp này những cụ cao tuổi nhất tropng làng lại kể sự tích của thần hoàng, con cháu ngồi nghe cảm động; cứ như thế truyền cho nhau những nét lịch sử của làng xã rất thực, rất đời, mang tính tráng ca dân gian.
Người dân xã An Phú của tôi cũng như nhiều xã trong vùng rất mê hát ví dặm, rất hay kể chuyện cổ tích, rất thích hát chèo và xem chèo. Trong xã tôi không có phường hát bội (hát tuồng) nhưng bà con thường rủ nhau lên xã Cẩm Trang xem hát bội vào dịp tết hoặc vào lễ
mừng lúa mới tháng 5 và tháng 10. Vốn văn nghệ dân gian rất giàu ở trong xã, được cất giữ trong những “bảo tàng sống” tức là những cụ già, cả những bậc trung niên. Tôi nhớ mãi ông bộ Căn (tên ông là cù Hoàng Trại) giỏi chữ nho, rất thuộc Kiều và ca dao. Những ngày nhàn rỗi ông cầm chiếc quạt mo đi chơi khắp làng và bình luận ca dao và truyện Kiều cho bà con nghe. Xóm tôi ở có một bãi cát khá rộng gọi là bãi Giang bên bờ sông La (đoạn sông của xã tôi gọi là sông Ngàn Su). Những đêm trăng tyhanh gió mát, nhiều bà con kéo nhau ra bãi Giang hát, hò, có khi suốt đêm. Trai gái hát đối đáp bằng ví dặm, ứng khẩu tại chỗ nhiều câu rất tài tình, có đôi khi vài cụ già đứng đằng sau gà hộ. Có lần đò dọc (gọi là đò Choèn), đi trên sông cũng hát ghé vào rất tình tứ. Chính trong những buổi hát đối đáp ví dặm trong cảnh trăng thanh gió mát như vậy đã có những mối tình nảy nở hoặc được củng cố giữa những lứa đôi. Có khi còn hát vọng từ bến bên này sang bến trước mặt kia thuộc xã khác (xã du Đồng) và những tình cảm bay qua dòng sông cũng không kém phần đằm thắm và bền chặt. Chính tôi đã có một người cô họ đi lấy chồng bên kia sông sau những buổi hát giao duyên thơ mộng ấy. Trong những dàn cảnh của đoàn nghệ thuật ca nhạc Nghệ Tĩnh, tôi cũng đã thấy hiện lên những cảnh nên thơ (như cảnh hát ví dặm “giận nmà giận mà thương thì thương”), nhưng chưa bao giờ tôi thấy một ai dàn cảnh đẹp mà lại rất thực như cảnh hát ví dặm ở bãi Giang quê nhà. Đó có phải là sức huyền diệu của kỷ niệm, hay chính bà con làng xóm của tôi đã sống rất thực mà rất mộng, rất thơ?
Dòng mạch văn nghệ dân gian thật là chảy dào dạt trong đời sống nhân dân làng xóm. Tuyệt đại đa số bà con là thất học, nhưng ai nấy cũng đều thuộc truyện Kiều và thuộc lòng ít nhất là dăm ba đoạn trong truyện thơ của Nguyễn Du. Có khi bà con cũng chả biết ai đã làm ra truyện Kiều, chỉ biết là những câu thơ ấy hợp với cuộc đời, thấu hiểu cuộc đời và tâm tình của họ nữa, và giữa thơ Kiều với ca dao có khi bà con cũng không phân biệt. Và dòng mạch văn nghệ dân gian ấy không chỉ chở những vốn cũ như ca dao hay thơ lục bát của Nguyễn Du, mà còn tiếp tục sinh sôi nảy nở trong cộng đồng thôn xóm ngày ấy. Có lúc chúng ta như là bắt được quả tang sự ra đời của những bài thơ dân gian, của những ca dao nói chuyện ngày nay mà đậm đà hương vị truyền thống. Đó là trường hợp mộyt anh làm vè ở quê tôi, ở bên làng Thị (phía hữu ngạn sông Ngàn Su gần chợ Nướt). Lúc còn nhỏ ở nhàtôi đã được nghe bà con truyền miệng những bài vè của anh đầy chất thơ. Những chuyện xảy ra trong làng xóm, những chuyện thời sự như ta nói ngày nay, anh thường đặt thành vè rất kịp thời: chuyện tâm tình của một lứa đôi, chuyện thất tình của một gã si tình, chuyện hào lý kiệu nhau, chuyện anh em nhà kia yêu thương nhau, đùm bọc lấy nhau sau khi cha mẹ từ trần, chuyện anh lính khố đỏ đi Tây về thì mất vợ, chuyện đi săn hươu, săn nai, chuyện phường hát bội ở làng trên xóm dưới, chuyện vợ chê chồng, chuyện vợ già chồng trẻ, chuyện bà già mà muốn ghẹo trai tơ, và có cả chuyện ngày cưới, ngày hội, ngày teat. Anh Giái Thụng làm vè hay đến nỗi có những người đến đặt hàng cho anh làm vè hay làm ca dao. Hoặc là để nói giùm tâm tình của mình, hoặc là để nhờ anh châm biếm, phê phán một sự bất công hoặc một việc lố lăng trong xã hội. Rõ ràng là nhà thơ dân gian này đã sáng tác “theo sự đặt hàng của xã hội” thời đó. Mẹ tôi và em gái tôi còn thuộc nhiều câu thơ, câu vè của anh, và anh làm thơ như người nông dân đi cày, mà bản thân anh cũng là một dân cày. Anh:
Gieo vần như thể tay gieo hạt
Nhịp sống làm nên những nhịp thơ
Có phải vì tinh hoa phát tiết ra ngoài mà anh chết sớm (lúc 37 tuổi) ai cũng thương tiếc? Một người như anh nếu gặp điều kiện tốt (được đi học văn hoá cao, gặp môi trường thuận lợi..) có thể đã trở thành một tài ba lỗi lạc. Tôi nghĩ trong nhân dân ta có vô số trường hợp như vậy: một số tài ba đâu lại, nảy nở và biết bao nhiêu những mầm đầy nhựa tươi tốt đã phải mòn lụi đi vì chẳng gặp môi trường...
Trở lại bãi Giang quê nhà. Những đêm trăng mà bà con ra bến hát ví dặm thì tôi cũng đi theo (lúc đó 6, 7 tuổi) vừa nghe người lớn hát, vừa chơi trò làm cối xay trên bãi cát. Bọn trẻ chúng tôi hay lấy tay đào thật sâu một cái hầm dưới cát, trên mặt hầm vẫn để nguyên một lớp cát dày chừng mươi phân, và lấy que xoi một lỗ giữa cái cầu cát ấy. Rồi lấy tay vốc cát khô cho cát chảy qua lỗ đã xoi. Cát xuống dần dần như cái đồng hồ cát cổ đại, như vậy chúng tôi gọi là cối xay cát. Trò chơi có đánh cuộc: xem thử côi xay nào chịu cát đổ xuống được lâu nhất cho đến khi
đầy cái hầm đã đào. Anh nào có cối xay bền nhất, chịu cát đổ lâu nhất là được cuộc. Cũng trên bãi Giang ấy hồi nhỏ tôi đã đi thả diều với chú tôi. Hai chú cháu hàng ngày trời công phu vót tre làm diều, giã quả cậy để phất giấy bản vào thân diều. Chú tôi là người rất khéo tay, đẽo ba cái ba sáo (sáo diều) rất đẹp và rất kêu. Nhìn cái diều với ba sáo, sáo to ở giữa và hai sáo nhỏ ở hai bên, mường tượng như một chiếc máy bay nhiều động cơ ngày nay. Lại còn làm dây diều bằng tre vót, và luộc cho chín, dẻo thou tre. Công phu chuẩn bị chẳng khác nào các nhà du hàng vũ trụ ngày nay chuẩn bị đi chinh phục không gian. Mà thật vậy, cũntg là một dòng hoài bão làm chủ và điều khiển không gian. Khó nhất và thú nhất là lúc phóng diều lên. Một người phóng diều, người kia cầm dây chạy, khéo chạy, khéo giật đầu dây: như vậy gọi là nuôi gió. Lúc diều lên lại rất nhẹ nhàng. Tay cầm đầu dây mà cảm giác nghe được gió đầu tay, không gian trên cao trở nên rất cụ thể, rất sống, rất nhạy trong tay người thả diều. Tôi và chú tôi thả diều không chỉ ở trên bãi Giang mà còn thả ở trên cánh đồng dưới chân núi Mồng Ga. Có lần tôi mê mải thả diều quên cả về ăn cơm trưa, cha tôi ra bean bãi tìm thấy, bắt tôi về, tôi nói chưa thu diều về được, thì cha tôi cắt dây diều rơi tận bên kia sông, rồi cha tôi đanh tôi một trận. Tôi nói:“Cha đánh thì cứ đánh, nhưng phải trả diều lại cho con”. Có lần chú tôi và tôi mang cái diều to đi thả, diều lên rất cao, “cao quá mặt trăng”, diều được gió cứ lên cao mãi và tiếng sao diều kêu vo vo nghe khắp cả một vùng. Tối đến chú tôi buộc dây diều vào một cây dúôi và cứ thế diều ở mãi trên không suốt đêm. Chú tôi là một tài tử:
Tâm hồn tài tử lâng lâng gió
Làm chiếc diều to ba sáo kêu
Thả tự ban chiều lên quá núi
Sang đêm diều lẫn với trăng cao.
Ôi những trưa hè trời xanh ngắt, vắng bóng mây, hai chú cháu chạy giữa cánh đồng rộng hay trên bãi cát dài ven sông! Có phải đó là những cảm giác không gian đầu tiên, cảm giác bát ngát về sau nó nhập vào thờ tôi thành một thứ ám ảnh, thành một hơi thở tự nhiên trong các bài thơ, cái hơi thở của bát ngát, của mêng mông, của trời đất. Dù sao thì thả diều cũng là một say mê lớn của tuổi nhỏ của tôi. Hiện nay tôi còn giữ được cái miệng một sáo diều, mà chú tôi đã gọt, làm kỷ niệm. Miệng sáo ấy cha tôi đã cất trên giàn bếp, đen mồ hóng. Lúc tôi đậu tú tài, nghỉ hè về thăm nhà, thì cha tôi đưa cái miệng sáo diều ấy cho tôi và nói:“bây giờ anh có thả diều thì tôi cũng không đánh anh nữa. Nhưng chắc ngày nay anh thích làm thơ hơn là thả diều. Làm thơ cũng là thả diều đó thôi”. Cha tôi nói xong, hai cha con cười với nhau; chú tôi đứng cạnh đó cũng cười theo và nói “Còn chiếc diều to gác bên nhà chú, hay là ta lại ra cánh đồng Cây Tran thả diều!”.
Chú tôi mất đã lâu. Nay ngồi viết mấy dòng kỷ niệm này, tôi tưởng còn chạy dưới cái nắng trưa hè với chú, tai còn nghe tiếng sáo vi vu làm vang động cả bầu trời và sông nước quê nhà. Tôi không chỉ theo chú tôi đi thả diều, mà còn nhiều lần theo chú đi trọi chim, nhất là trọi chim cu gáy. Chú làm một lồng chim rất đẹp, có cái bẫy lưới phía đằng trước. Chú quảy lồng chim trên một cái sáo dài. Đến nơi có nhiều chim về đậu thì chú lấy sào treo lồng chim lên một nhánh cây cao. Chim mái ở trong lồng gù mãi, như là ra tín hiệu cho chim trống ở xa bay về. Chàng chim trống bay sà xuống và nhảy vào cái bàn đạp phía trước lồng chim, thế là lưới sập, chim trống bị giữ lại trong đó. Thường khi bị vào bẫy như vậy thì cả chim trống lẫn chim mái hết gù hết gáy. Nhưng cũng có lần tôi thấy, tôi nghe thì đúng hơn, đôi chim có thể sau một phút bàng hoàng lại tiếp tục gáy với nhau. Quả thật là tình yêu bất chấp mọi sự nguy hiểm, chú tôi lại nói:“Về nhà tha hồ mà gáy!”. Tôi có lần hỏi chú tôi:“Tại sao cứ phải lấy chim mái làm mồi, mà không lấy chim trống cho vào lồng?”. Chú tôi trả lời:“Ờ, cũng chưa ai nghĩ ra điều đó. Có lẽ tại con trai hay tự mình đi ve con gái trước... Để rồi ta thử lấy chim trống làm mồi xem có ăn thua gì không”. Nói vậy, chứ cũng chẳng bao giờ chú tôi cho chim trống vào lồng để gọi chim mái. Những trưa hè đi trọi chim trong một không khí rất yên lắng, mây trên trời cũng ngừng bay, gió chỉ thổi hiu hiu, có khi cả hai chú cháu liu riu ngủ; đến lúc tỉnh dậy thì đã thấy một chim trống bị bẫy trên cao rồi.
Trò chơi tuổi nhỏ của tôi thật là phong phú. Tôi theo các bạn chăn trâu vào khe chân nuí lấy một thứ đất sét (tiếng Hà Tĩnh gọi là đất thó) rất dẻo, rất mịn để vắt thành hình con vịt, rỗng ở
trong và miệng vịt có lưỡi gà, đến lúc vịt khô thì thổi thành một thứ sáu. Con vịt đất như thế gọi là con tu huýt. Mỗi lần vào khe nuí tôi vắy được dăm bảy con tu huýt mang về cho các em. Tiếng tu huýt cũng như tiếng trống đất tôi đã kể trên kia đúng là hơi thở của đất, là sự rung động của đất, là sự rung động của thớ đất quê nhà. Trò chơi đơn sơ, mộc mạc nhưng có gì gắn với cội rễ đất đai, ăn sâu vào tâm tưởng của đứa bé. Một trò chơi phổ biến ở nhiều vùng quê mà tôi cũng đã chơi mê say là đánh con quay (tiếng Hà Tĩnh gọi là đánh gụ). Gụ của tôi gọt bằng gỗ ổi, hoặc bằng gỗ cây duối vừa nặng vừa bền thớ. Đánh gụ cũng chọi nhau, cũng ăn thua, và nhiều lần tôi cũng được chuộc. Gụ ngủ lâu nhất.
Tuổi thơ chơi gụ mê say
Đến khi gụ ngủ là quay tuyệt vời...
Mê chi mê lạ mê lùng
Đến sờn dây cuốn chưa chùng lòng mê...
Trước khi nói đến phong trào cách mạng xã tôi (vì xã Ân Phú quê tôi là một xã xô-viết trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh) tôi xin kể thêm vài nét về cuộc sống cũ của quê nhà. Chợ búa hàng tuần, hàng tháng để mua thức ăn vật dùng, để bán ít thóc, ớt, đậu, con gà, con lợn, hay để đi cắt thang thuốc bắc thì đã có chợ Nướt. Nhưng đến gần tết thì cả làng xóm đi chợ Thượng (tức là chợ ở huyện lỵ huyện Đức Thọ) là chợ to nhất của Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Sáng sớm bà con chung nhau thuê đò dọc đi chợ, và mãi đêm khuya đò mới trở về bãi Giang. Đó là thường phiên chợ 24 tháng chạp âm lịch. lúc nhỏ tôi chờ cha tôi, chú tôi, có khi cả bà nội tôi nữa đi chợ Thượng về, lòng háo hức. Chú mang về những bánh pháo “Điện Quang” nhãn rất đẹp, đốt lên rất kêu, bà mang về đôin chiếu hoa dệt rất mịn và rất thơm, bà còn mang về nhiều thứ sắm tết nữa: vải Tây cống (tức là vải trắng), the, lương đen để may áo dài, cái khăn xếp, tấm vải nhuộm nânu non, cái yếm nái nhuộm điều, cái dây lưng cũng bằng nái nhuộm màu xanh lá cây hay màu lá vàng... Chú tôi còn mua cả cái hộp đựng thuốc lào bằng sắt tây có gương ở trong và sơn vàng, lại có cả hộp dầu “côba” từ Sài gòn bán ra. Tóm lại chợ Thượng - đối với bà con và đối với tôi lúc đó là một thế giới “văn minh”. Ít người được đ đến Vinh, thành phố lớn của Ngệ An lúc đó, chỉ có thể đi chợ Thượng để mua sắm một ít hàng công nghiệp, để tiếp xúc với “cái mới” ở các thành thị đưa về. Những chuyến đi đò dọc về chợ Thượng, và từ chợ Thượng ngược về bãi Giang là những chuyến đi lý thú đối với chú tôi cũng như đối với bà con. Dọc sông các ả chèo đò lại hát vĩ dặm, có khi lời bâng quơ, nhưng cũng có khi là những lời hát nhắn gửi tình tứ rất cụ thể giữa những người sống trên bến nước. Sau này mỗi lúc về quê tôi thường ghé thăm các chợ Thượng, nhưng không tìm lại được cảm giác và ấn tượng say sưa của tuổi nhỏ. Điều đó cũng bình thường. Nhưng giờ đây tôi đang nhớ lại quá khứ, mà chợ Thượng đã là một quãng thời gian lẫn không gian của tuổi nhỏ xa xôi của tôi.
Xã Ân Phú, quê tôi là một xã xô viết trong phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh. Lúc xảy ra phong trào xô viết thì tôi đang học ở Huế (học lớp nhì tiểu học). Những sự kiện tôi kể sau đây là do bố mẹ, chú tôi và bà con trong họ, trong làng kể lại cho tôi nghe.
Dân xã An Phú từ xưa vẫn có tiếng là một dân cứng đầu, không dễ dàng tuân lệnh quan trên và thường hay bàn ngang những việc mà triều đình hay tỉnh, huyện đã quyết định. Thực dân Pháp sang, triều đình đầu hàng thì đã có một số người trong xã đi theo cụ Phan Đình Phùng lập căn cứ mười năm chống Pháp. Phong trào Cần Vương của cụ Phan kết thúc, mấy người đó người thì chết trận, người thì chết bệnh trong rừng, người thì mất tích, và có người đi biệt xứ. Trong làng vẫn kể lại sự tích của một vài ông “lính cụ Phan”, “môn sinh của cụ Đình Nguyên”. Tinh thần yêu nước sau đó lại được nuôi dưỡng bằng thơ văn cụ Phan Sào Nam (tức là Phan Bội Châu), thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải (Bút quan hoài, Duyên nợ phù sinh..) và thơ văn của nhiều nhà yêu nước khác. Tôi còn nhớ lúc tôi học lớp năm và lớp tư ở trường Tổng Dị Long, các thầy giáo đã đọc cho học sinh nhỏ tuổi của mình những bài của Á Nam như “Hai chữ nước nhà”, “Trưng nữ vương”. Tôi về nhà, các ông trong xóm bảo tôi đọc lại cho các ông nghe để các ông chép bằng chữ quốc ngữ, hoặc bằng chữ nôm, hoặc để các ông học thuộc ngay khi tôi đọc, rồi cứ thế các ông truyền cho nhau những vần thơ khêu gợi lòng yêu nước này. Bài hát “Anh Khoá” (theo điệu sa mạc) của Á Nam cũng được các cụ các ông trong làng rất thuộc và thường ngâm ngợi. Tôi còn nhớ rõ giọng khàn khàn, trầm trầm của ông phó Tiết ở đầu hồi nhà tôi cứ ngầm mãi
một cách thống thiết những câu như:
Giọt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Theo cha già lần bước dặm khơi
Từ đây đôi ngả đôi nơi
Con về hãy nhớ những lời cha khuyên:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy nghìn năm suy thịnh đổi thay...
Và những câu sau đây:
Giở lịch sử gương kia còn đó
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay xẻ nghé tan đàn vì ai...
Những ông thầy ở trường Tổng Dị Long đã truyền thơ văn yêu nước cho học sinh nhỏ tuổi, tôi đoán chắc đó là những đảng viên của đảng Tân Việt hồi đó, hay ít nhất cũng là những người cảm tình của tổ chức cách mạng này. Có một thầy tôi còn nhớ tên là thầy Kiên Giang, người nhỏ bé nhưng giọng đọc thơ thì sang sảng và đầy nhiệt huyết. Tôi cũng còn nhớ các thầy cô vận động phong trào dùng nội hoá, chẳng hạn có thể bận quần áo theo âu phục nhưng may bằng vải dệt ta, vải hơi thô nhưng mà mang nhãn hiệu Tiên Long (tên một hãng buôn của tư sản hồi ấy) gợi tinh thần dân tộc.
Thơ văn của cụ Phan Sào Nam cảng được phổ biến rộng rãi, nhất là trong đám các cụ ít nhiều suốt tháng cứ nghẫm ngợi những bài thơ thất ngôn bát cú của cụ Sào Nam mà ông cứ gọi tắt một cách đầy tôn kính là “cụ Phan”. Nhân đây cũng siêng ghi: ông ngoại tôi (“quê ở làng Tùng Ánh) cũng làm thơ, nhưng ít có bài hay. Sau khi tôi đậu Thành chung, ông biết tôi có làm thơ, và tỏ lòng quý tôi, ông có đọc cho ngh một số bài, tôi chỉ còn nhớ 4 câu:
Nhỏ đi đáy gọc là đồ Nghệ
Lớn bổ làm quan tựa cậu bồi...
Ông này già cả mèo khoanh bếp.
khuyên cháu nên voi đỡ nước nhà.
Chính vì nhớ ảnh hưởng của thơ Á Nam trong quê hương tôi như thế, nên tháng 5-1975, lúc vào tham gia tiếp quản Sài gòn, tôi và anh Xuân Diệu đã đến thăm ngay nhà thơ Trần Tuấn Khải. Lúc đó nhà thơ đã già yếu lắm, dọc đường tôi và anh Xuân Diệu đang nghĩ nên gọi nhà
thơ như thế nào: cụ, hay là ông, hay là ngài... nhưng đến nhà, thấy nhà thơ đang nằm trên giường, dáng mệt lắm, mắt lờ đờ, tôi liền đến đầu giường hỏi:“Anh Khoá có khỏe không?”. Nghe được câu chào là anh khoá nhà thơ Á Nam ngồi hẳn dậy, mặt tươi tỉnh, mắt long lanh cảm động đưa tay bắt tay tôi nắm chặt hồi lâu...
Sau này tôi và anh Xuân Diệu đã bàn với nhà xuất bản Văn học ra tuyển tập thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải, và anh Diệu đã viết bài nghiên cứu in ở đầu sách. Âu đó cũng là một cách trả món nợ tinh thần, tình cảm đối với một nhà thơ yêu nước...
Tôi sinh năm 1919 tại xã nhà, lúc mẹ tôi 24 tuổi sau khi mẹ tôi đi Thanh Hoá về. Còn ngày 31 tháng 5 là do cậu Bùi Vân của tôi sáng tạo ra lúc làm giấy khai sinh cho tôi để vào học trường huyện Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên), nơi cậu tôi làm hiệu trưởng. Họ Cù của tôi có nhiều nhánh, riêng ở trong xã thì có nhánh Cù Hoàng và Cù Huy, hai nhánh cùng chung một ông tổ hồi đời nhà Lê. Tôi có một ông can (trên bậc cố) đã làm thanh tra kho tiến của nhà vua, rất thanh liêm và đã được vua thưởng mấy quan tiền đồng gọi là “tiền dưỡng liêm”. Ông can đã chết dọc đường trong một chuyến đi kinh lý. Ông nội tôi là nông dân cày sâu cuốc bẫm, dần dần làm ăn khá lên, tu được ít ruộng và trở thành một nhà khá giả trong làng. Phân tích thàn phần như ta làm ngày nay thì ông cuối đời thuộc vào tầng lớp phú nông. Thật ra ông không giàu lắm, ruộng để lại cho các con chẳng bao nhiêu, nhưng cũng đủ sức để nuôi thầy học trong nhà (thầy chữ Hán) cho hai con trai ăn học là cha tôi và chú tôi. Ông tôi lâm bệnh mất sớm, mới ngoài 50 tuổi.
Ông tôi chết vào hồi tôi 5 tuổi thì phải. Ông đau chừng lâu lắm. Nằm liệt hai ba tháng. Giường ông nằm ở gian trong. Lúc mời danh y phải đem cáng đến đón, có mang cả cái gối tựa bọc lụa điều nữa, vì vị danh y cũng đã cao tuổi. Hồi đó nhà tôi đang thịnh vượng, ông tôi gây nên một cơ nghiệp bằng cả một cuộc đời làm lụng. Và than ôi, ngày ông tôi mất là ngày có dịp cho tôi
thấy nhà tôi có một vẻ gì cao quý lắm. Ông tôi lúc sống, người mập mạp, nói tiếng thì tiếng to, ồ ồ. Nhưng ông chết đi dường như sự thân mến, thương yêu trong nhà tôi cũng theo ông mà mòn lụi. Ông còn sống ấy là cột trụ, ấy là trung tâm của tình gia đình. Ông chết thì do Duẩn (lúc ấy còn là o Thiu) chưa gả cho ai. Vì là con út nên o được cả nhà chăm chút, thương yêu, nhất là ông tôi. Lúc ông hấp hối, ông gọi thầy tôi, chú tôi, bà tôi bvà mẹ tôi mà dặn, có cả o Ngoéch nữa: “Bay thành thân cả rồi chỉ còn con Thiu đang dại. Thương lấy nó với... Ông tôi tắt thở. Mẹ tôi kể lại chuyện đó cứ khóc và bảo tôi:“Ông dặn sao tao làm vậy; thế mà người ta ăn ở với tao vẫn bạc bẽo như thường”. Mẹ tôi muốn nhắc chuyện em Chúc bị o Duẩn đuổi về (lúc đó em ở trọ nhà o để đi học) vì hay đái dầm. Em Chúc phải bỏ học cũng chỉ vì thế. Lúc đưa đám ông, tôi là cháu đích tôn, được người ta để ý nhất, tôi không hiểu lắm, chỉ mờ mờ thấy ông đã chết. Lòng thương ông của tôi lúc đó gần như một bản năng hơn là một tình cảm. Tôi buồn không rõ rệt, chỉ mênh mang. Người ta bận áo xô đại tang và đội mũ rơm cho tôi. Tôi phải chống một cái gậy bằng gỗ vông. Dường như tôi ngã, nên sau có ông chắt Nguyện đến dắt tôi đi theo sau linh cữu. Tôi chỉ nhớ rõ ràng trong lúc đưa đám có một điều ông chắt Nguyện dặn đi dặn lại tôi rằng: “Khi người ta bỏ hòm (áo quan) xuống đất thì con nhớ khóc và nói câu này “Ông đi đâu rồi ông ơi? Ông bỏ cháu lại đây!” Tôi không nhớ rõ có khóc và có nói câu ấy không. Nhưng lần đầu tiên chịu tang và buồn về cái chết, tôi chừng như đã cảm thấy nỗi buồn và sự lặng im vĩnh viễn rồi. Chôn ông xong, người ta làm một cái nhà mồ trên mộ ông tôi. Trong ba đêm liên tiếp bà tôi và tôi ra ngủ ở nhà mồ “để cho ông khỏi buồn”. Bây giờ tôi nhớ lại vẫn còn ngửi thấy mùi đầt mới xới, hơi ẩm ướt, và nơi da tôi như còn rờn rợn những thanh nứa nhỏ, sắt đó là làm chiếu nằm cho bà cháu tôi nơi nhà mồ. Lúc ấu sao mà hồn tôi mông lung thế; lòng tôi như không phải là cảm nữa mà như bị dẫn theo những điều huyền bí lang thang trong nhà tôi. Ông tôi chết, bây giờ tôi chỉ nhớ mặt ông rất mơ hồ, chỉ nhớ là ông khỏe mạnh và dáng người phương phi. Tôi nằm ngủ nơi nhà mồ với bà thì bị kẻ trộm đến bẻ mất cái tói bạc (vòng bạc) đeo nơi cổ, đeo nơi cổ. Sáng mai dậy tôi vẫn không biết là mất tói. Về nhà bố tôi hỏi tôi mới biết là mất và khóc oà lên. Từ đó tôi không được ra nhà mồ ngủ nữa, nếu không thì cũng còn ngủ với “ông” nđến nửa tháng nữa. Bà ra ngủ một mình, bà sợ, rồi cũng thôi. Nhà mồ lúc cúng năm mươi ngày cũng phá. Mộ ông tôi lúc ấy vẫn còn ướt và cỏ chưa mọc được nhiều.
Bà chắt Nguyện kể lại với tôi rằng: Lúc ông sắp chết ông có gọi chắt Nguyện sang dặn dò về mẹ tôi:“Thôi ta chết thì chú thay ta bày vẽ cho con Cháu (tức là mẹ tôi), khi thằng Cháu (tức là bố tôi) có dại thì chú khuyên răn cho ta. Và những đêm khuya chú ở bên nhà thì nhớ coi nhà cho cháu với. Nhất là thương lấy con Cháu (mẹ tôi), tội nghiệp!”. Vì thế sau này mẹ tôi mỗi khi buồn chán về cảnh nhà, về chuyện thầy bỏ nhà đi chơi, bán ruộng, vẫn thỉnh thoàng nhắc lại lời dặn dò của ông là một lời an ủi. Ông quý mẹ tôi lắm. Bà tôi không phải ác nghiệt với nàng dâu mà ghét mẹ tôi, nhưng tính bà hơi trẻ nhỏ, hay riêng tây yêu hai o nhiều quá nên bà và mẹ ít khi thuận hoà. Chỉ có nàng dâu và ông gia biết quý nhau, an ủi cuối cùng của mẹ tơi là ở đó. Ông tôi lúc chết buồn lắm, ông chắt Nguyện nói lại với tôi như vậy. Có những giờ chỉ có hai người với nhau, ông tôi than thở:“Suốt đời ta mong lo sự nghiệp cho con thế mà không ra sao cả. Cháu thì còn nhỏ quá, ta chưa biết được”. Ông cần cù làm ruộng mà trở nên giàu có; ông hiền từ, cư xử rất tử tế quảng đại với mọi người. Thời ông sống ông rước thầy dạy học về dạy bố tôi và chú tôi. Hy vọng khoa cử. Cha tôi chỉ thi được vào tam trường; còn đến khi chú tôi lớn thì khoa cử theo lối xưa đã bỏ. Nhưng may, lúc ông chết ông chỉ buồn về chuyện bố tôi không đạt được ước nguyện khoa cử mà thôi. Nếu ông thấy được sau này bố tôi làm sa sút gia sản thì chắc ông cũng sầu mà chết. Ngày ông tôi chết là một ngày rất quan hệ trong gia đình tôi. Sự điêu tàn bắt đầu từ đó; sự suy vong chầm chậm đến và nhất là quang cảnh bình lạc khi xưa không còn nữa. Chỉ còn những cuộc cãi cọ, những điều xích mích và than ôi có cả những lần định đi kiện nhhau nữa (o Ngoéch và mẹ tôi định kéo nhau lên cửa quan). Tôi chưa hề thấy một lần nào có sự yên vui thật thà, sự thương mến nhàu nồng đậm trong nhà tôi từ khi ông tôi mất. Cảnh tâm lý trong nhà tôi khi nào cũng âm u, chỉ nắng héo với sương mù, chỉ có hắt hiu, chỉ có lạnh tẻ. Có lẽ vì sống trong cảnh ấy ngày nhỏ nên sau này vào tuổi thiếu nhiên, thanh
niên tôi mới hay buồn, hay sầu não về cuộc đời đó chăng?
Ông tôi chết, cái nhà ông làm ra cũng dần dần đổ nát: mọi ăn ván thưng, mối đùn lên từng đám, ăn thủng cột trụ và dần dà mái đã dột. Rồi đến lúc cả từng tấm cửa rã, từng xà nhà xiêu. Nhà hư, và tình gia đình cũng bạc nhựôc dần với gỗ, với tranh, với nền đầt càng ngày càng lũm xuống. Ông tôi chết năm nay đã hơn 60 năm. Bố tôi có tâm hồn yếu đuối, ham bỏ nhà đi chơi, có khi sa vào sòng bạc không đủ sức tinh thần để chủ trì gia đạo. Mẹ tôi, chỉ có mẹ tôi giữ bánh lái cho gia đình tôi. Nhưng sóng gió như thế, chỉ có lòng mẹ tôi làm sao mà giữ nổi! Bây giờ mộ ông tôi đã dời lên núi Mồng Ga cùng với mộ bà tôi, mộ bố tôi, mộ chú tôi, mợ tôi, mộ các em Chúc, em Dục của tôi. Mỗi lần về thăm quê, đi thăm mộ gia đình trên núi, lòng tôi không khỏi bùi ngùi thương ông, thương bà, thương bố, thương chú, thương các em. Tôi sinh trong một quê hương đẹp mà nghèo, trong một gia đình nghèo và buồn. Hồi nhỏ có người nói với tôi đó là số mệnh. Cũng có người an ủi tôi và nói rằng con ngọc trai không bị vết thương thì không kết thành ngọc! Nếu phải trả cái giá ấy để có một chút tài năng thì trả giá đắt quá! Giờ này không phải giờ triết lý, tôi chỉ ngồi nhớ lại những mẩu đời đã vùi trong quá khứ, và thương những người đã khuất...
=B=
Tổ ong “trại”
Ngày xưa ông tôi nuôi nhiều ong; đằng sau nhà có hai dãy đõ ong mật. Sau ngày ông tôi chết, cha và chú tôi còn nuôi một ít đõ, nhưng không “vượng” như xưa nữa. Sau nhà có hai đõ ong “sây” lắm. Chiều lỡ buổi (khoảng 4 giờ chiều) thì ong bay ra họp đàn trước đõ, và tôi hay ra xem, nhiều khi bị ong đốt nhưng mê xem không thôi. Buồn lắm, cái buồn xa côi vắng tạnh của chiều quê, của không gian mà tôi cảm nghe từ buổi ấy. Nhất là những lúc cả nhà đi vắng thì tôi buồn đến nỗi khóc một mình, nghe lòng bị ép lại, như trời hạ thấp xuống. Và bầy ong thì vù vù không thôi. Buồn nhất là mấy lần ong “trại”, nghĩa là một phần đàn ong rời xa, bỏ tổ nhà, mang theo một ong chúa. Nếu ong “trại” vào buổi trưa thì thường thường chú tôi biết được và hô lên cho cả xóm ném đất vụn lên không, thế là cả bầy ong mệt lử phải đậu lại ở một cây nào đó hay trở về đõ. Ong đậu lại trên cây, chú tôi hay người khác lại trèo lên bắt mang về đõ cũ hoặc cho vào một đõ mới. Nhưng đôi khi ong trại buổi chiều lỡ buổi vào một lúc chú tôi phải ra đồng cày tra (cày ải). Một lần, ở nhà một mình tôi thấy ong trại mà không thể làm gì được. Tôi cũng ném đất vụn lên không nhưng không ăn thua gì. Ong vù vù lên cao, bay mau và mất hút trong chốc lát. Tôi nhìn theo, buồn không nói được. Cái buồn của đứa bé rộng lớn đến bao nhiêu, các thi sĩ, văn nhân đã ai nói đến chưa? Nhìn ong trại đi, tưởng như một mảnh hồn của tôi đã san đi nơi khác. Nơi xa xôi nào đó đã nhận một phần cốt tuỷ của linh hồn nhà tôi với bầy ong trại? Một thi sĩ phương Tây ngày trước đã nói đúng lắm: những vật vô tri vô giác đều có một linh hồn nó vương vấn với hồn ta và khiến ta yêu mến. Cái tổ ong sau thềm nhà, cái giá đặt đõ ong, từng chậu nước con con ở chân giá xanh lè vì rêu bám: bao nhiêu vật nhỏ nhẻ, vụn vặt mà đã gom góp cho tôi những cảm giác đầu tiên, những cái nhìn ngó đầu tiên vào ý nghĩa cuộc đời và vũ trụ. Và ý thơ cuộc đời, ý thơ vũ trụ, cái xa xôi vắng vẻ sau này ám ảnh tôi, ngày thơ bé tôi đã nghe rồi, mỗi lần ong trại. Linh hồn của đất đá, có phải là một điều bịa đặt của bọn thi nhân đâu.
=C=
Vườn cau còi
Ngày trước ông tôi lập vườn, vườn rộng đất tốt. vườn cau xanh rờn, mạnh mẽ, như cả sinh khí tụ lại, trổ ra những ngọn huy hoàng. Như mạch đất của làng tìm nhà tôi mà đến, ấy là thời vượng. Sự giàu có lên nhịp đều, un un như cây cỏ, và cảnh gia đình ấm áp, ủ ôm. Thời bình lạc than ôi một ngày một suy; ông tôi mất đi là sự sụp đổ bắt đầu. Cái bàn tay gây cơ nghiệp của ông đã buông xuôi, thế là sự thịnh vượng cũng bỏ nhà tôi mà đi dần. Rồi vườn cũng bớt nhuỵ, cam bưởi bị sâu ăn, gãy nhánh. Cái nhà long thần sau nương bị lợn ủi, lở tứ phía, cột nghiêng, cửa mục, mái dột trăm chiều. Thần đất đã rời đi rồi, ai ở mà cầm cương, giữ mực nữa. Cau mỗi năm mỗi “rầy” (còi đi), lá vàng úa trông não lòng như thấy cái gì đang hấp hối. Vườn cau còi, cỏ mọc um, và dưới gốc cau, đất màu trôi tan, lòi ra rễ cau đỏ như những con trạch. Tôi nghe người ta nòi một vườn cau thường năm bảy mươi lăm mới cỗi, sao vườn ông tôi lập ra chưa được bao lâu mà đã héo còi? Thế rồi bón phân, xe đất, để cứu vãn lại một chút xanh tươi đang tàn héo. Lá vẫn úa, cau vẫn ngã, cội vẫn trơ trụi ra. Đất không nuôi nữa, đất lở hết màu, trôi hết nhuỵ, lấy gì mà chuyển nhựa như xưa. Cây cỏ tiêu điều, lây nỗi bạc nhược của người. Rồi chiều lỡ buổi đứng giữa sân nhìn quanh vườn, thấy mấy ngọn cau vàng úa lắc lư như tuyệt vọng thì buồn đến chết được. Não lòng biết mấy khi thấy bao nhiêu thịnh vượng cứ thoát nhà tôi từng chút, từng chút. Gốc cau lung lay cùng với nền móng nhà tôi một lượt.
=D=
Bà đốt nhà
Tôi kể đàn ong trại và vườn cau còi trên đây là cũng như để báo trước cho bạn đọc những bi kịch sắp xảy đến trong gia đình tôi, như một lời phi lộ cho những “xen” dữ dội trên sân khấu nhà tôi.
Tôi không nhớ rõ vì sao xảy ra chuyện đốt nhà. Lúc đó o Ngoéch bên sông về chơi. Mẹ và bà thì giận nhau luôn, cớ sâu xa chắc là ở lòng xung khắc đó. Bà ở bên chú, bà ghét lây cả con mẹ (nghĩa là cháu bà, than ôi!) làm mẹ mủi lòng, khiến mẹ dày vò thầy tôi đủ cách. Bố tôi thì hiền, hiền quá hoá quẫn. Mẹ mời bà về ở với mẹ, nghĩa là ở bên nhà lớn, nhà của ông để lại cho thầy là con trưởng. Chú mợ Cu ở nhà bên khi trước là nhà thầy mẹ ở, bây giờ sửa sang lại vững vàng hơn nhà lớn. Ai xui bà? Hay bà cũng vì khổ quá, thấy cảnh con dâu con không hợp bà buồn? Cãi cọ nhau lâu lắm, từ buổi chiều cho đến chập choạng tối. Mẹ lấy giọng không cần. Bà thì nhắc ông mà khóc. Thầy thỉnh thoảng cười nhạt với chú Cu. Mợ Cu, thật thà, chỉ đứng lo sợ xảy ra chuyện gì ghê gớm. Tôi còn nhỏ, thương bà khóc tôi ũng khóc theo. Các em tôi ngủ chiều dậy khóc oà cả lên. Bữa cơm chiều thì bỏ mặc chưa ai lo nấu nướng. Tôi sợ quá, tôi đoán, tôi cảm nghe thì đúng hơn sẽ có chuyện gì dữ tợn đang đến với nhà tôi. Tôi nhớ có cảm giác chém giết nữa kia.
Tôi không nhớ rõ đầu đuôi câu chuyện. Thấy bà cầm diêm đi trước, thầy theo sau. Mẹ đứng dưới bếp, bà xăm xăm lên thềm trước cửa lớn, nói to:“Đây, nhà của ông cháu để lại, không thuận hoà ở chung thì đốt đi!”. Bà nói với một giọng gì nghe rợn sau gáy tôi lúc ấy. Tôi không hiểu nữa, chạy lên bên thầy. Bố không can bà, và bà châm diêm, trời ơi! Mẹ run, nhưng mẹ không nói, mẹ uất người rồi chạy vào nhà bồng các em tôi ra, rồi đứng dưới bếp. Lửa bắt đầu lên mau, nhà lợp lá cọ cháy nhạy lắm. Hoàng hôn mới xuống, lửa đỏ nơi mái cọ, nhìn rợn quá! Im vài giây đồng hồ. Gia đình tôi như tan nát, tàn rữa, trôi cả hết rồi. Đốt nhà! Và đứng xem!
Hú vía! May mà còn chú tôi tỉnh táo, không khờ đi vì đau khổ, vì giận như bà như mẹ. Chú giơ hai tay đập vào lửa, rút nhanh tranh xuống và lửa tắt.
Dấu lửa đốt, sau này còn mãi ở mái nhà. Từ đó mẹ “bôi vôi vào mặt bà” (lời mẹ). Khi nào nấu nước chè tươi mới, hay có thức ăn gì thì mời bà (mít chín, gai, bưởi..), nhưng mẹ chỉ ngọt ngào bề ngoài. Mẹ giận bà chắc đến tận kiếp còn chưa nguôi. Và bà từ đó cũng ít về bên nhà thầy nữa, ở hẳn bên chú, và thường đi chơi với các o.
Mỗi kỳ nghỉ hè về nhà, tôi thấy bà tôi càng nhỏ đi, trắt người lại y như là những bà già tả trong bài thơ của Baudelaire. Bà tính nết rất hiền, nhưng hay hờn giận và đôi khi trẻ con. Vì vậy mà và và mẹ tôi giận nhau đời kiếp. Cái chùm số mệnh ấy, bà tôi, mẹ tôi, thầy tôi, các o tôi thật là
ngẩn ngơ đau đớn. Tôi cam đoan rằng không một ai ác hết; chỉ vì quẫn trí quẫn lòng và cảnh gia đình éo le mà họ quấy rối nhau làm khổ nhau. Không, tôi không tin ở sự ác được; nhưng tôi ngờ rằng có một sự tiền định nào đó của những số kiếp gặp nhau. Tiền định? Hay là hoàn cảnh xã hội trong cuộc đời cũ đã tạo ra những cảnh oái oăm mà ta tưởng hình thành số kiếp? Dù sao thì lúc nhỏ tôi sống giữa những người thân thích nhất của tôi với một cảm quan nặng nề về số mệnh. Tôi thương tất cả mọi người thân mà lại thấy những người thân dày vò nhau: có bi kịch nào đau đớn cho một đứa trẻ!
=E=
Lụt tháng tư
Năm đó (năm 1925 hay 1926) tôi còn ở nhà. Tháng tư nước lụt lên cao lút cả nhà. Bố đi vắng, chỉ nheo nhóc mấy mẹ con ở nhà. Nước lên mau, không kịp dọn đồ đạc; nước lấp xấp thềm nhà vào lỡ buổi xế chiều nước lút nửa cột. Mẹ ẵm các con lên chạn, nấu nướng ở trên ấy, rồi ló đầu ra đầu hồi gọi với ông chắt Nguyện, hỏi dò chừng nước nông sâu. Quanh xóm ngập cả, nhà này qua nhà kia chỉ có thuyền đi lại, bè chuối không dám dùng, sợ nước xoáy xiết đi. Mẹ nói:“Thôi mấy mẹ con ôm nhau ở đây, nước mà lên nữa thì ôm nhau mà chết”. Đã sắp phải bò lên mái nhà, nước xấp xỉ đến chạn, không còn liên lạc với ai được nữa. Nguy nan đến cổ, mẹ ấp lấy con như gà ấp trứng. Gọi với láng giềng lời mẹ dặn:
“Có chi, cứu giúp lấy con tôi!
Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng
Đáp lại từ xa một tiếng ời”
Trong lúc gian nan chỉ có ông chắt Nguyện là dò thăm đến mẹ con tôi, ơn ấy mẹ không khi nào quên. Sau này ông Chắt đau, thầy phải hết lòng thuôc thang trông nom như bậc cha chú. Mẹ có những câu nói hoà vào lòng tôi nhỏ máu: và đời mẹ bíu vào đời con, chỉ có sự liên quan ấy cứu sống lấy mẹ. “Ôm nhau mà chết”, nước lụt và đau khổ cũng thế. Mẹ tôi như bị nước lụt suốt
kiếp, đau khổ dồn dập từng ngày, chầm chậm mà đều đều, rồi cũng có lúc lụt đến cổ. Nhưng giữa chiều nước xoáy, chân mẹ bấu vững vào đất nhờ mang con trong lòng. Nước lụt tháng tư: trái thời như mẹ tôi sái kiếp.
“Con cá ngựa”
Có phải năm ấy là năm bố tôi suýt bị vào tù vì liên quan với các vị chức sắc trong xã về việc khai sắc thần đo không? (xin triều đình phong sắc cho thần làng). Lúc ấy mẹ tôi có thai em Thước, mà phải đi về, chạy ngược chạy xuôi để lo cho thầy tôi trắng án. Thầy được quan xét là “bắt oan” về nhà thẹn quá, không chịu xuống ông bà ngoại; mẹ bảo thế nào thầy cũng không đi,
mẹ giận và cho thầy là người không biết điều. Cùng cực mẹ khóc, mẹ bận một cái áo lương rách, đội một cái nón cời về thăm bà ngoại ở dưới Hạ (làng Tùng Anh, gần đồn Linh Cảm). Mẹ ở Hạ về thì đau đẻ, mẹ đau quặn, vì lo nghĩ quá, người mẹ đã gầy sẵn lại gần thêm. Người mẹ vốn đã mảnh khảnh lần này lại như khô tàn hẳn đi. Mẹ đau thai, báo bố đi mời ông lang. Bố đi lấy thuốc về nhưng thuốc không uống được. Nhưng điều đó chưa can chi, đằng này thầy lại còn bỏ nhà đi suốt mấy ngày. Trời ơi bố lại theo ông Quản Tốn xuống đò đánh bài. Mẹ uất người lên, nhưng mẹ không cho người đi gọi bố như mấy lần trước. Trong tủ ở nhà (cái tủ quang dầu, màu vàng vàng để giữa nhà) có một cái hộp quý lắm, trong hộp cất một con cá ngựa. Sao lại là cá ngựa? Tôi làm biết được! Nhưng lúc đó tôi nghe chuyện con cá ngựa như chuyện nửa ma quỷ tà thuật, nửa hoang đường thần tiên. Con cá ngựa! Nó làm bằng chất gì sáp ong, nhẹ, có nhiều vân rỗng và xốp ở trong; nó vàng vàng chói chói như từng ong; hình là con cá, thon thon dài. Con cá ngựa của mẹ tôi cũ lắm, đã sứt từng miếng, vảy nó đã loang lổ rơi gãy. Và chừng như nó đã gãy rơi một lần, phải lấy sáp ong gắn xít lại. Nhưng con cá ngựa còn linh thiêng lắm. Khi nào ai đau thai lâu mà không đẻ được thì chỉ cần để nó lên bụng vài giây đồng hồ là chuyển thai ngay. Và người nào muốn phà thai chỉ việc cầm lấy con cá ngựa trong tay một chặp, thế là xong! Còn thai chưa đã đủ tháng mà cũng cầm con cá ngựa trong tay, thế là thai chuyển mạnh, quá mạnh, và xong đời đứa bé trong bụng! Mẹ không thèm gọi bố nữa. Mẹ muốn trả thù bố bằng cách (trời ơi! Mẹ tôi đau khổ đến nỗi có ý tưởng ấy kia ư?) bằng cách... cầm con cá ngựa. Mặt mẹ quặn lại, mẹ mở tủ, mẹ sờ, mẹ mở hộp. Mẹ đi nằm, mẹ không nói gì nữa. Mẹ mở hộp: con cá ngựa nằm dài ở trong! Mẹ giơ tay, mẹ sắp ấn ngón xuống... mẹ ngừng lại. Thôi! Em tôi được sống rồi, mẹ đầy cái hộp ra rồi nmẹ khóc; mẹ khóc không thành tiếng được, mẹ chỉ ức nước mắt tràn trề mà thôi. Khi mẹ kể lại chuyện này thì tôi thấy mẹ hối hận rõ rệt. Bây giờ trong tình mẹ thương em Thước, có chút ngậm ngùi vì thế phải chăng? Đẻ em Thước xong mẹ vứt con cá ngựa đi thì phải... Đã lâu lắm mẹ không nhắc đến chuyện đau thai. Nhưng sau khi tôi đậu tú tài, không biết vì duyên cớ gì mẹ lại khóc và nhắc tới chuyện con cá ngựa. Mẹ đẻ em Thước khó khăn quá. Sau này em cứ yếu luôn, em ốm mấy trận tưởng chết, tội lắm! Sao miệng em Thước khi nào cũng như mếu, như khóc vậy? Em tôi sao lại mang buồn não trên môi trên miệng? Cả đến lúc em cười nữa cũng có cái gì đau đớn trong nét mặt của em và nụ cười của em không thật tươi mà hơi héo. Hay là con cá ngựa còn quanh quẩn đâu đó? Bố ơi, lỗi của bố đối với mẹ, đối với em con bố có thấy hết không?
Tôi còn nhớ khi mẹ mới đẻ em Chúc, ở bên nhà riêng thì tôi mới 5, 6 tuổi gì đó. Bố ham đi chơi năm sáu đêm suốt không về, nhắc năm bảy lần cũng không thấy tăm hơi. Mà mẹ thì đau, mẹ yếu quá, mẹ thổ huyết. Tôi nhớ mẹ đứng sau nương nhà, cạnh nhà bếp, bên cây mít cà. Mẹ cắn răng lại cho vững mình kẻo sợ ngã. Môi của mẹ thì mỏng, mà răng mẹ thì nhỏ và sắc, mẹ cắn lên môi có ngấn một đường. Mẹ rơm rớm nước mắt nhưng mẹ không khóc, mẹ nìn con, thấy con đứng bên cái vại sau bếp mẹ mới oà khóc lên, nức nở một hồi lâu. Sao mẹ phải khổ đến thế? Mẹ thổ huyết mà không một ai chăm sóc, không một ai hỏi han. Mẹ ngã khuỵu xuống bên cây mít cà, mẹ giơ tay với cái nồi đất vỡ để đi tiểu vào trong. Mẹ thấy máu ra, mẹ khóc, mặt mẹ quặn từng thớ thịt một. Mẹ mới đẻ em Chúc được mươi hôm thôi, mẹ nằm lửa chưa kỹ, người nhợt nhạt, gầ so, mà ở bên nhà riêng mẹ ở thì lạnh teo không ai bếp núc, lửa, củi cho. Có o Biên (con nuôi ông bà) nhưng o còn phải ra đồng làm lụng. Mẹ đau nhắn bố về, bố cứ liền nín mãi. Sau cùng mẹ phải nói” không về thì đi mời cho tôi một ông thầy thuốc, kẻo tôi chết đây!”. Mẹ yếu hai ba tháng phải không? Mẹ giận bố, mẹ oán trách bà. Mẹ muốn tự tử, mẹ muốn bỏ nhà mà đi. Sau này tôi mới biết mẹ cắn răng chịu khổ ở lai là vì mẹ thương tôi và các em tôi. Mẹ nói:“Tao về nhà mi, vì ông cháu ngày trước. Ông thương tao, biết trọng và nể người. Ông Chau chết rồi, còn ai hiểu gì nữa đâu! Cứ kể bà mi với bố mi thì tao bỏ nhà đi đã lâu rồi”, rồi mẹ khóc và mẹ nói luôn:“Thương con nên phải đi theo với chồng”. Mẹ chua chát với bố nhiều lần lắm, mẹ mếu máo, mẹ khóc và ngồi nhặt rau nấu canh mẹ cũng hát:
“Chót rằng tay đã nhúng chàm
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây...
Tiếng mẹ đau xé cả lòng tôi. Tôi còn nghe rõ tiếng khàn khàn (vì mẹ khóc nhiều qua) của mẹ lẫn với tiếng giã gạo sau hồi nhà. Mẹ đau mà bố như thường, đi chơi hàng ngày với ông Quản
Tốn. Tội nghiệp, sau có chú Cu đi lấy thang thuốc và về sắc thuốc cho mẹ. Trong gia đình mẹ chỉ phục có chú Cu về cách cư xử. Và dường như những cực khổ của mẹ, mẹ còn tâm sự với chú mợ nhiều hơn là với bố.
Mẹ đau lần ấy dậy mẹ yếu hẳn đi và từ đó, vai mẹ gánh nặng thì đau, và dông trời mẹ hay nhức xương. Tội của bố đối với mẹ tôi không kể xiết. Trời đã cho tôi nhiều nước mắt trong tuổi nhỏ cũng phải.
Tóc ngứa của mẹ
Mẹ có một hàng tóc ngứa, chính giữa đường ngôi trên trán. Hàng tóc ngứa bạc hẳn đi, ngắc và cứng. Nhổ rồi lại mọc, mà càng nhổ càng ngứa. Thường khi nhàn rỗi mạ bảo em Trà hoặc nhờ người hàng xóm lấy hai hạt thóc kẹp từng sợi mà dứt, cứ được một sợi mạ lại đưa lên mắt xem và lạ lùng như trẻ nhỏ. Tôi thường nhìn mặt mẹ thì tôi nghe đau chích trong lòng. Tôi đau nơi từng nét mặt của mẹ. Hai mắt mẹ cạn, nhỏ mà nhanh. Tôi nhìn mặt mẹ mà không biết nghĩ gì, chỉ băn khoăn đau xót, và chỉ biết có một điều, thấy có một chuyện: mẹ khóc! Có người trả miếng mẹ (vì sao?) nói rằng:“Kiếp còn nặng nợ, nên tóc ngứa còn dài”. Những lời nọc rắn ấy mẹ tôi chết từng mảnh hồn, từng chùm tin tưởng. Mẹ tôi đau khổ một cách đầy đủ quá, hết lòng hết dạ quá nên không kịp nghĩ đến đôi chút an lạc trong đời. Những lời an ủi mẹ nghe mát lòng, nhưng mà quên ngay, còn những câu châm biếm, trêu chọc thì để dạ mà tự nung nấu, thối gan thối ruột.
Mỗi bận tôi về nhà, nhìn mặt mẹ tôi đã biết trong khoảng tôi xa nhà bao nhiêu sự đau khổ đã đến với mẹ tôi, và những nếp nhăn không phải là nếp già; ấy là dấu số kiếp vồ lên mặt mẹ tôi.
Hầu đẻ
Lúc ấy mẹ tôi chưa sinh tôi; mẹ mới về làm dâu và bố tôi thì đang học thi cử. Ông tôi còn sống, cảnh nhà có vẻ “thế gia” và cao quý. Hai o tôi chưa lấy chồng. O Thiu còn đang nhỏ chưa biết gì, nhưng o Ngoéch đã lớn và đã biết đóng vai em chồng rất khéo léo. Bà tôi thì vô tâm nhưng có một lối cư xử tưởng là mực thước mà lại thành ra rất cay nghiệt. Mợ Giáo tôi đẻ, mẹ tôi về Hạ một tháng lo chăm sóc, khuya sớm thuốc thang cho mợ. Chỉ chăm sóc theo tình chị em mà thôi, chứ phải đâu là hầu hạ! Thế mà khi mẹ rửa bát đũa, không cho sờ đến mâm nồi, viện cớ rằng người đi hầu đẻ về không sạch sẽ. Phải chờ ba tháng mười ngày cho hết “phạm long” đã mới được mó tay vào đồ đạc ăn uống.
Mẹ tủi cực lắm nhưng cắn răng mà chịu. Vả lại mẹ cũng liều, cũng gan ruột lắm. Được thể mẹ càng bỏ bừa công việc, không chăm chỉ như trước nữa. Bà tuy gay gắt mà nhát gan không dám trị nàng dâu; các o chỉ nheo nhéo trêu tức chứ cũng không có gan chống cự với mẹ tôi. “Gái kẻ Hạ” chứ vừa đâu! Bà ngoai tôi biết chuyện, giận bà nội tôi mãi, nhưng không hề tỏ ra. Bà ngoại lượng rộng hải hà biết tha thứ và cho bà nội tôi là vô tâm mà làm khổ con dâu. Bà ngoại tôi; mặt trời vui tươi, ấm áp trong cái cảnh người u ám đó.
=F=
Đi kiện nhau
Có lần bố đánh bạc thua nợ bà Kế mấy chục bạc. Bà Kế là mẹ chồng o Đản, và là một chủ nợ đanh đá già mồm, ai đã vào tròng bà khó lòng mà thoát ra được. Thầy viết giấy khất nợ, bà ta không chịu, một hai đòi viết giáy gán ruộng trả nợ mới xong. Bố khi túng thế thường hay liều, nhưng lần này lại không dám, sợ mẹ biết làm lôi thôi, vỡ chuyện thì mất thể diện. Mẹ biết được tức tốc sang nhà o Đản và xin sẽ chồng tiền trả nợ cho chồng. Nhưng lúc đó cũng xin khất đã và
định lôi bố về. Nhà nợ nhất định không chịu, cả nhà đứng quây vòng lại canh bố sợ bố chạy thoát. Và trong những người canh gác ấy có cả o Đản nữa than ôi! Mẹ tôi chỉ giận nhất có thế. Bôi vôi mặt nhai đến nỗi anh em mà như bẫy nhau vào tròng! Mẹ đành phải để cho bố viết gán ruộng vào nợ bạc. Lúc ấy bà Kế và dượng Đản mới chịu yên mà buông cho bố về. Sau ít lâu, không hiểu sao lại định dắt nhau ra đi kiện về chuyện ruộng nương. May mà bố bàn êm chuyện, không thì nhà tôi đã dắt nhau đến cửa quan để bêu xấu sự suy vong, bạc nhược của tình cốt nhục.
Từ đó, dượng Đản không về thăm bên nhà tôi nữa. Vả lại dượng cũng đã bỏ o lên ở trại với một bà khác, nên tình ràng buộc cũng bớt thắm thiết hơn nữa giữa hai gia đình cũng không còn chặt chẽ như xưa. Còn o thì o tránh né mẹ, mẹ nói giọng quảng đại:“Họ đã sợ ta thì ta tử tế như thường”.
Nhân đây tôi kể thêm về đám ruộng dưỡng lão. Suốt đời bố tôi chỉ có một tội là đôi khi thua bạc rồi bán ruộng nhà, đến nỗi có lần viết giấy cầm ruộng dưỡng lão của bà nữa. Bà không hay, mẹ cũng không biết. Nhưng ông Lý Cầu không chịu áp triện nhận thực cho cái khế bán ruộng và lên tin cho mẹ biết. Thế là ruộng dưỡng lão không bán được, bố tiu nghỉu đi về nhà, bị mẹ đay nghiến cho thậm tệ. Bà cảm ơn mẹ. Tính những đám ruộng bố bán là hơn nửa gia tài ông để lại.
Cây mít cà
Cây mít cà là của bà tôi, cây nhỏ, trái nhỏ và tròn, múi nhỏ mà rất ngọt. Thường bà lấy sào nứa đâm thử, thấy trái chín thì bà gọi cháu leo lên cây bẻ trái xuống. Bà cháu xúm lại, bổ mít ra, lấy rơm lau mét (tức là nhựa). Múi sây, ăn mãi không hết, ngọt khay nên không ăn được nhiều. Mẹ kiêng cây mít cà ấy; mít chín cũng không chọc, chờ bà sang lấy không thì thôi. Sau này có cây
trầu leo bám cây mít, trầu của mẹ trồng. Do đó mẹ và bà gần nhau hơn một chút, nhờ thảo mộc bình tĩnh làm nguôi lòng quá “sôi nổi” của hai con người.
Hắt hủi
Ngày tôi còn nhỏ, tôi ở với bà và chú bên nhà lớn, còn bố mẹ ở riêng bên nhà nhỏ làm ra sau. Bà ít lai vãng đến nhà bố mẹ, và chừng như mẹ cũng ít sang bên này. Hai nhà sát gần nhau, không cách một hàng giậu một bức tường nào cả, thế mà thành hai thế giới riêng biệt. Dường như xa lạ hẳn đi. Bà tư vị, thương con không đều, có ý săn sóc đến o Ngoéch nhiều hơn cả, thương o Duẩn vừa vừa, vị nể chú Cu, còn đối vối bố tôi bà dường như dửng dưng, lãnh đạm. Bà nhẹ dạ, nhẹ lòng, ưa những lời ngọt ngào đường mật, mà tính mẹ tôi lại thẳng bà không chịu được, rồi sinh ra mỉa mai, soi mói nàng dâu như trẻ con. Tôi phải chép nguyên vẹn lịch sử nhà tôi dần có phải nói nặng nề về bà chăng nữa. Tôi cũng phải nhớ ghi điều này: một lần bà giận mẹ tôi đến nỗi bà đã thốt ra một lời ác nghiệt:“Ác thế mà trời không vật con nó chết đi!”. Bà đi nộp cháu! (tức là nói rủa). Mẹ tôi chết điếng cả người, tức uất đến tột cùng, cũng không khóc được nữa. Tôi không tin rằng lời nói ấy là biểu hiện đúng tâm địa bà tôi. Không, bà thương tôi lắm, thương các em tôi lắm. Giận dâu mà hoá ra rủa con cháu đó thôi. Có khi bà nuôi cháu như nuôi con, lẽ nào bà lại có thể độc địa được. Đến khi bố mẹ về nhà lớn, chú mợ Cu sang ở nhà con, thì bà ở lại với bố mẹ mấy năm. Nhưng bà hay qua lại bên nhà chú, coi lo bếp núc, nấu giùm nồi nước hay quét cái nhà, những chuyện vặt vãnh ngụ lòng thương con. Nhưng bà không sao nhãng chuyện nhà bên này cũng lo lắng sớm khuya với mẹ và mẹ tỏ ra quý trọng bà đến mực. Nhưng về sau bố tôi ra làm việc làng, có lần sa đà bài bạc, vắng nhà hàng tháng, cảnh nhà buồn và mẹ hay than thở. Bà cũng buồn nản mà bỏ sang nhà o hàng tuần, biệt tăm hơi. Có lúc bà dắt cả tôi đi theo bà sang thăm o. Sau đó ít lâu bà dọn sang ở bên nhà chú, “hủ hỉ” với chú mợ, bỏ bừa công việc nhà lớn cho mẹ con tôi. Mẹ tôi can đảm, không hề oán thán và chẳng một lần ngỏ ý mời bà về. Bà tôi như “con chim ưa vui rộn” nên ở đâu tấp nập thì về, thành thử ít lâu và lại về bên nhà lớn, mẹ chẳng nói gì. Sau bà lại đi, và ít lúc sau bà lại muốn trở về ở với bố mẹ cho vui cảnh già thì mẹ tôi nhất định từ chối. Mẹ hắt hủi bà cho đã cơn giận mấy năm xưa. Bà tủi cực trong lòng, chờ bố khuyên răn mẹ để mẹ mời bà về nhà. Nhưng mẹ đây đẩy một hai xua đổi bà ra. Mẹ nói:“May có chú Cu, không thì nhà đã cháy rồi, còn đâu nữa mà về với đến!”. Bà cũng hay mủi lòng dễ khóc như mẹ. Có điều mắt bà đã bắt đầu loà, “đã thành gương”, nên giọt
lệ già ảo não hơn! Cái thân khô tàn tiết ra những giọt đau thương cuối đời. Bố tôi nói với mẹ: “Người lạ đời quá, nhà bà thì bà muốn ở khi nào thì ở, cấm sao được!”. Mẹ không thèm cãi, chỉ cười trừ, mai mỉa cười, oán giận và tủi nhục. Bố yếu thế cũng cười và nhắm mắt, cong lưỡi hắt bã trầu như hắt những ý nghĩ rầy rà xui bố quẫn trí: sức phản ứng của bố xưa nay vẫn yếu như vậy mà!...
Tướng số
Mẹ tôi đi rất mau, bước ngắn nhưng hấp tấp, vội vàng. Đi thì hơi ẩy ra phía trước, tay đánh xa không đều, dáng đi hoá ra mệt nhọc. Họ hàng thường vẫn nói rằng cái dáng đi đứng thế chả trách số kiếp long đong, cả đời mẹ ít được lúc thong thả. Mẹ tôi nghe nói cười going, rồi nghĩ tủi thân lại ứa nước mắt khóc liền. Nhưng dần dần dáng mẹ đi càng khoan thai, thong thả lại; nhất là nước bước càng ngày càng đàng hoàng. Đời mẹ tôi về sau đã có một chút yên vui chăng? Một đôi lần muốn an ủi mẹ, tôi nhắc mẹ điều đó, và tỏ ý rằng tôi tin ở tướng số. Mẹ vui hẳn lên, cái vui nấy chỉ tôi mới nhận thấy được. Mắt mẹ sáng một cách ngậm ngùi, và mẹ liếm môi trên hai ba lần mới nói:“Chỉ có con hiểu cho mẹ, bố con thì có cũng như không”. Khi nào mẹ cũng có một lối tâm sự ấy, lòng tôi là một bình lệ sắp tràn, chỉ một lời mẹ buông ra là nghiêng đổ. Cuối năm tú tài nhất niên tôi bị cắt học bổng vì tham gia biểu tình đi đón Gôđa, đại diện của Chính Phủ Mặt trận bình dân Pháp đến Huế hồi tháng 4-1937. Tin về dưới Hạ (quê mẹ) ông ngoại tôi chửi mắng ầm lên. Mẹ tôi hay tin tướng số về nhà nằm liệt ba ngày không muốn làm lụng gì nữa. Bố đi vắng, mẹ khóc cay khóc đắng, như dứt từng mảnh thịt. Mẹ nghĩ đời mẹ làm một cái chết lăng trì. Hết hy vọng ở chồng, mẹ tin tưởng vào con. Nay con bị mất học bổng, liệu con có học đến nơi đến chốn không. Mẹ bảo:“Hy sinh hết cho con đi học như đánh số với trời. May trời thương mà con học đến nơi; nếu trời ghét, đoạ đầy thì thôi, thế là hết!”. Chưa bao giờ mẹ tôi lại chán nản đến nỗi bỏ cả công việc hai ba ngày như lần ấy. Thậm chí năm tôi học lớp ba (1928) tôi đau thập tử nhất sinh mà mẹ còn giữ bình tĩnh hơn. Lúc ấy mẹ sợ tôi chết đã hơi hối hận, nhớ lại ngày hai mẹ con xuống Hạ (đi theo mợ Vân vào Huế), vào ngày nước lụt. “Đi ngày con nước, thôi chắc là trôi nát hết rồi!”. Mẹ tôi lại quy cho số mệnh và cho là có điềm báo trước. Nhưng sau này tôi học mỗi năm một lên, năm tôi đậu tú tài toàn phần mẹ tôi nhớ ngày tôi ra đi mà nói:“Té ra điềm tốt, nước lụt càng ngày càng lên cao, cho nên con học mới ngày càng tấn tới”.
Trong buổi thanh niên tôi hay buồn, sầu não vô cớ. Bản nhất tôi có thực sầu chăng? Tôi không tin như vậy vì lòng yêu đời của tôi âm âm mà mãnh liệt. Dẫu sao nếu hồi đó không có một cớ mà bám vào đời nữa, thì tôi cũng phải sống, sống để mẹ tôi mát lòng một chút. Tôi là cuộc thử thách cuối cùng của mẹ tôi chọi với số mệnh. Các em tôi thành thân, mẹ tôi sung sướng lắm. Nhưng chỉ có tôi mới là câu trả lời.
=G=
An ủi
Lúc đó tôi mới đi học chưa đậu yếu lược có ông Nguyện Phiên mỉa mai mẹ tôi mà gọi đùa bằng Cụ. Bố tôi thì tự nhiên không lấy làm điều những câu xỏ xiên của thiên hạ. Nhưng mẹ thì xấu hổ, căm căm trong lòng. Đến khi tôi đậu tú tài phần thứ nhất thì cả làng đều tôn bố mẹ lên bậc Cụ. Ngày trước là bà (hoặc mụ) và ông. Nay nghiễm nhiên làm cụ mở mày mở mặt với hàng tổng hàng huyện. Mẹ tôi được chút an ủi, phơi phới trong lòng và mỗi khi mẹ gặp sung sướng thì lòng rộng lượng cố hữu của mẹ được bày tỏ rõ rệt. Mẹ quên cả các tị hiềm xưa và chào đón mọi người. Quên tị hiềm, nhưng cái khối tủi thì canh cánh trong lòng, gặp dịp là bùng ra. Ông Nguyện Phiên từ đó mắc cỡ, ít tới lui, sợ phải chào mẹ tôi bằng cụ. “Ai ngờ gọi chơi mà hoá thiệt!”.
Mẹ tôi yếu trước tuổi
Mẹ tôi yếu trước tuổi, xương mỏi, mắt mờ mà mới 45. Hai vai và lưng hay mỏi. Những lần đau nặng hậu sản, không ai thuốc thang, trách nào! Người mẹ teo lại, héo khô bởi đã mảnh khảnh sẵn. Khi nào mẹ lòi hai xương vai, nhìn mà não ruột. Thịt chỗ ấy chín đi mà hơi nổ vảy trăng trắng, như là “mắt” ngô. Chín tím đi một vùng quanh xương vai, thịt da nheo như là da con lạc đà bọc cái ống nhị. Hai ngón chân cái của mẹ thường đi phải bấu chặt vào đất cho khỏi trượt, nhất là khỏi xảy chân những lần có thai, hai ngón chân ấy chạng ra cong lên và hơi sưng. Đã nhắc thì nhắc cho luôn một ngón tay của mẹ móng thối thâm đi mà không mọc lại, đau nhức quanh năm. Mẹ phải đeo quả cà vào, song càng đau thêm. Cổ mẹ nhỏ, nhỏ lắm, có phải theo cách nói bây giờ lại ốm so. Ai biết cái cổ đó đã la gọi hết hơi để réo bố tôi về! Tôi có vẻ kể lể quá; thực ra chính mẹ tôi kể lể đó thôi:
“Chém cha cái kiếp má đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi”
Mẹ tôi tuồng như thuộc ca dao và Truyện Kiều chỉ để mượn những câu than thở về cuộc đời, về số kiếp chung qui chỉ có hai chữ ấy đè nặng lên tâm hồn mẹ tôi và nhà tôi.
Nghèo
Có năm mất mùa nhà tôi phải ăn củ khoai chuối. Khoai chuối ngọt và dẻo như khoai dong, nhưng vẫn là món ăn trừ bữa của kẻ nghèo. Có khi cả nhà ra đồng bứt rau trìu về luộc chấm tương, chấm nước cáy nhưng đó là một lần mùa mất kiệt, đói kém quá chừng. Còn thường về mùa rét, độ mùa cấy tháng 10 thì cơm nấu thường độn khoai lang, khoai khô cặt từng miếng tròn như đồng bạc. Ăn nhấm nhía thì bùi và ngon, nhưng ăn mau, ăn vội thì ngớn lắm tắc lại nơi cổ không tài nào nuốt trôi, lại còn ăn với nhút ngọn đậu nữa chứ! Ăn cơm bằng bát đàn, nơi cái mâm mươn. Tôi vừa ăn vừa lườm nhìn chừng mẹ, hễ mẹ lơ đãng là tôi lè lưỡi ra, đẩy miếng khoai xuống tay bưng bát, rồi hạ xuống dưới mâm cho con vàng chực sẵn. Cứ thế làm mãi cho đến khi mẹ tôi bắt gặp được; ấn đầu tôi xuống bắt nuốt hết khoai. Nghĩ lại những lúc phải ăn cả khoai hà, nước mắt trào ra mà cũng phải nuốt!
Trốn trong ngạch
Ngày nhỏ ở nhà mỗi khi giận mẹ giận bà hoặc giận bố, tôi thường bỏ cơm đi trốn dưới sập (cái sập to) đựng thóc, và các đồ đạc quý giá của gia đình hoặc trốn trong nghạch. Tối mò mò, tôi nằm im, nín thở để cho cả nhà đi tìm tôi suốt cả buổi tối. Nếu nhà tìm ra thì tôi khóc oà lên rồi hờn dỗi. Cũng có khi tôi trốn ngoài vườn rồi đêm đến về nằm sau thềm, gần mấy đõ ong. Bụng tôi lép xẹp, mà tôi chứ nghe trong nhà bàn nên để cơm cho tôi hay không. Tôi tủi uất cả người, nằm khóc một mình, có khi ngủ quên đến sáng. Nhưng thường thường, trong đêm khuya tôi lại vào tìm bà, và bà cháu lại lục đục dậy dọn ăn.
Tôi là cháu đích tôn được bà trọng bà thương nhưng tôi được chăm sóc về ăn uống hơn là về mặt học hành. Linh hồn tôi lúc đó hơi vơ vất một chút, dường như bị nhà bỏ mặc để nó đi hoang dại một dạo. Tôi hay thơ thẩn một mình, sau thềm sau nương. Bố bận việc hoặc bỏ nhà đi chơi để mặc con như cây dại trong vường. May mà có mẹ tôi lo lắng, và bản lĩnh của tôi mạnh và trong trẻo. Xung quanh tôi nhan nhản gương xấu, chơi bời lêu lổng. Tôi đã sớm biết sự quan hệ của ảnh hưởng xã hội, tôi tự tìm ra và tự biết phòng mình. Mặc dù tuổi nhỏ tôi đã biết cố gắng giữ cái mầm tốt nơi tôi được tươi tắn, cho đến lúc tôi được gặp cái khí hậu ấm áp của nhà trường thì đâm chồi, nở hoa.
Ăn cắp tiền của mẹ
Lấy tiền để làm gì tôi quên mất rồi, chỉ nhớ mang máng là để mua kẹo lạc. Tiền mẹ để trong
một cái nối đất treo nơi cái gióng thọng xuống lưng chừng trong buồng mẹ, một buồng tối tăm không cửa sổ. Dưới đất là khoai lang để lâu ngày đã lên mầm; bên một góc là áo quần đã mặc treo nơi một cái sào. Tiền để trong nồi lâu chưa đụng đến, nhiều đồng đã xanh lè, tanh đồng phủ lên khắp. Tôi thò tay bốc một nắm chừng được ba bốn tiền, mà không kịp đưa tay khoả lại cho bằng lỗ hỏm trong nồi. Mẹ không biết gì và không hề soát lại. Tôi cũng tự nhiên, như không...
Em Kiến và em Giới
Em Kiến tôi (em gái) đã chết năm em lên bảy tuổi. Nghỉ hè về nhà tôi cứ bế em chạy luôn, dạy cho em học cho em hát. Em Kiến hay thẹn ít nói, tôi hơi la thì em khóc liền. Khi sắp khóc thì em nhìn sững vào mặt tôi, em mếu thế là không dỗ được nữa. Anh em sao lưu luyến nhau thế, em hay đến cạnh tôi nhưng tôi nhìn thấy em thì em tránh. Mắt em yếu, ờ phải rồi, ánh mắt của em chừng như không nhận được ánh mắt của tôi và của các em Trà, Chúc, Thước, Điểu, Chữ, Dục. Trời đã báo trước rằng em sẽ chết phải không? Em Kiến mơ ước được ra Hà nội với tôi để làm “cô trợ” (cô giáo). Em chết khi tôi đang đi học ở Hà nội.
Em Giới, con chú Cu chết măn tôi học tiểu học ở Huế. Buổi trưa nắng, em Giới và em Chúc rủ nhau ra bến tắm, đúng ngọ. Bãi vắng vẻ chỉ có hai em thôi. Sông không sâu nhưng gần bến có vực, mà trên bến có đền thần. Một cây gạo to đã mấy đời lúc đó mới gãy. Ngày nhỏ tôi cũng đã một lần suýt chết đuối ở bến ấy. Tôi nhớ con đường đi xuống bến cứ lở dần, sau cùng người trong xóm phải đi lán vào sân đền. Buổi tối hôm ấy em Giới về em lên cơn sốt, em mê sảng và hai ngày sau em chết. Em Giới là con đầu của chú mợ Cu, em thông minh, và tính rộng rãi. Em Giới chết như là có ma dắt em đi. Cái bến Giang xóm tôi dần dần trở lên một cái bến thiêng. Chú mợ tôi tội nghiệp quá! Buồn mấy năm mà không nguôi. Gặp tôi là chú mợ tôi lại cứ nhắc em Giới. Em Giới và em Kiến đếu chết khi tôi đi xa nhà. Cứ sống đời tôi, theo thơ theo mộng của tôi, lắm lúc tôi quên hẳn nhà. Tôi là một lãng tử tự nhiên, anh Xuân Diệu đã không bảo tôi là ở dưới đất nẻ mà nên đó ư! Đôi khi sực nhớ đến, mới biết nhà tôi, cha mẹ anh em tôi vẫn ở đó, với những nỗi đau khổ không ngừng. Và tôi cũng có cái cảm tưởng rằng cha mẹ tôi tuy thương tôi lắm nhưng dường như cũng có khi quên tôi như thế. Mẹ ơi! Không, mẹ có quên con bao giờ đâu! Lời con mới viết là một câu vu vơ để tả cái vu vơ trong tâm lý con hồi đó thôi...
Tình trẻ thơ
Mấy đoạn hồi ký vừa viết trên nhắc đến nhiều đau khổ quá, nhiều ảo não quá, nhiều âm u quá và buồn thương quá. Cho nên tôi chen ngay vào đây một chút tươi mát, chút tình trẻ thơ. Lúc đó tôi khoảng 7, 8 tuổi, gần nhà tôi có một bạn gái cũng trạc tuổi tôi. Tự nhiên thấy quyến luyến nhau, và hay rủ nhau đi ra các góc vườn hái những hoa dại, hoặc là hái những dái mít chấm muối cùng ăn. Có khi hai đứa cùng đào củ gừng ở bụi gừng sau nhà, cũng để chấm muối ăn. Có lần hai đứa còn dám phiêu lưu đi vào tận chân núi Mồng Ga để ăn quả sim quá móc. Lúc đó tôi đã đi học trường tổng, mỗi khi về nhà cứ đi qua trước cửa nhà bạn để kể cho bạn nghe những chuyện hay ở trường. Bạn tôi không được đi học nghe tôi kể những việc ở trường thì rất thèm thuồng. Hai đứa cứ thủ thỉ hồi lâu, có khi nhà gọi về ăn cơm tối mới rời nhau. Đến ngày xuống trường học, tôi cứ nhơ nhớ, một sự nhớ mơ hồ, chưa thành tình cảm, nhưng cũng không phải chỉ thoáng qua. Mấy năm sau khi tôi còn học ở Huế được thư nhà cho biết bạn gái của tôi đã chết đuối trong một ngày đi gặt ở chân núi. Mối tình trẻ thơ, tôi có ghi lại trong bài thơ sau đây:
Cô gái thôn tôi...
Cô gái thôn tôi thuở xóm nhà
Rủ tôi đi nhởi rú Mồng Ga
Ăn sim quẹt tím hai tay áo
Chiều tối về im, sợ mẹ la.
Đi chợ ba mươi tết có năm
Mua con gà bột có mào bầm
Mang về cho bạn, gà thôi gáy
Tình trẻ thơ rồi cũng lặng câm
Đi học xa nhà tôi mải mê
Mấy năm đằng đẵng, bỗng thơ quê
Tin ai chết đuối mười hai tuổi
Gặt lúa chiều giông lội vượt khe
Thế giới nào nuôi hồn chết sớm
Những người con gái mãi thơ ngây?
Sao về quê cũ chân tôi bước
Nặng trĩu đồi kia vớisuối này.
Chút tình trẻ thơ ấy còn đọng lại trong tình cảm tôi qua một bài thơ nữa là bài: Hoa cà màu tím tuổi thơ
Hoa cà màu tím tuổi thơ
Hoa mua tuổi tím: bao giờ cho phai
Tuổi thơ tình nụ nhớ dài -
Ta còn, người mất, vườn hoai lá hồng
Tuổi qua, để lại tấc lòng,
Còn đây chân núi, khúc sông ngày nào
Sống rồi, cứ tưởng chiêm bao, -
Hoa chưa nở, mãi ngọt ngào mùa hương.
=H=
Ngủ chiều
Lúc nhỏ ở nhà, tôi hay ngủ trưa với bà nội, hoặc có khi ngủ một mình. Nhiều lần ngủ quá buổi, sang lỡ buổi chiều, hoặc chập choạng tối mới thức dậy. Ngủ chiều dậy thấy ánh đèn dầu đỏ đỏ một cách ma quỷ thì khóc ùa lên. Mỗi lần như vậy là một lần chết đảm, giật thột đến phần sâu
kín nhất của linh hồn. Cha mẹ tôi và mọi người đều nói là tôi bị mộc đè. Người lớn lại bảo tôi phả tránh ngủ gần cột nhà, nhất là cột lim hay cột dẻ, cột táu, nghĩa là các thứ gỗ hồng sắc, vì người lớn tin rằng từ các cột ấy toả ra một luồng không khí nặng, nó đè lên giấc ngủ của trẻ con. Dù sao thì lúc tôi tỉnh dậy đã hoàng hôn, tranh tối tranh sáng, mà trong nhà lai vắng người thì tim tôi như bị giật thót, tôi bàng hoàng như nửa tỉnh nửa mê. Bà tôi hoặc thầy tôi phải đến lay tôi dậy và bắt tôi đứng thẳng lên và đi cho ra khỏi cái luồng mộc đè. Có khi, vừa bị mộc đè, lại ra sân nhìn núi cháy đỏ rực một đám, lửa lườm lườm như cái lưỡi khổng lồ liếm hết cả cây cối một vùng. Ấn tượng bàng hoàng ấy lúc ngủ chiều dậy cứ ám ảnh tôi mãi cho đến lớn. Có lẽ không phải chỉ bóng cột nhà, mà cả bóng núi Mồng Ga, bóng rừng sau núi cũng đã đè lên giấc ngủ chiều của đứa trẻ. Cho nên tôi có thưa với các cụ bà cụ già không nên để các cháu ngủ chiều, tránh cho chúng nó cái giật thột, cái hoảng sợ khi bóng chiều dần yếu, khi bóng đêm đang lên, khi trời ở trong phút giờ chập choạng.
Con trẻ ngủ chiều hay giật thột
Khóc inh vỡ cả nắng ngày tàn
Bà ôm dỗ mãi, hờn không ngớt
Tiếng nấc nằm mê ngực vẫn ran.
Cát phừng ngoài bãi, bóng trong vườn
Gió chảy theo sông tự nước nguồn
Có phải đã vào trong giấc trẻ
Làm ra xao động của hoàng hôn
Bà ơi ngày hạ nhiều hương nắng
Chớ để say hương cháu ngủ chiều
Hồn trẻ chưa quen nghe vắng lặng
Trong từng hạt gió thổi ngày xiêu.
Thầy học Khai Tâm của tôi
Lúc tôi lên 6 tuổi thầy tôi đã cho tôi học chữ Hán. Tôi còn nhớ rõ mẹ đi chợ mua về cho tôi một xấp giấy bản trắng tinh, thầy tôi đóng thành quyển vở chữ Hán và lồng vào đó một cái thiếp chữ mẫu để tôi đề theo. Có khi thầy tôi hoặc ông thầy học trong xóm viết đầy trang giấy mấy hàng chữ mẫu với bút son, và tôi cứ thế mà đồ lại. Tôi thấy đi học như vậy cũng hay hay, cũng mấy bạn ê a suốt buổi. Nhưng lúc đó (1925) Hán học đã suy tàn, lớp học của tôi là một sự hấp hối của nền học cũ. Mấy tháng sau, lớp này cũng tự nhiên giải tán, vì các gia đình có con em học ở đó đều rút về cho đi học trường tổng (trường Pháp Việt) hoặc trường Phụng công ở bên kia sông. Tôi cũng ở trong trường hợp ấy. Tôi còn nhớ ông ngoại lên thăm bố mẹ tôi có gọi tôi đến gần mà hỏi:“Tại sao mi chưa đi học quốc ngữ”. Nghe ông hỏi tôi sợ quá, trả lời liều:“Thưa ông, tại con ăn phải trái khế rơi giữa bãi cứt trâu nên chắc là con tối dạ, không đi học được!”. Ông tôi nghe nói thì cười và bảo tôi:“Tối dạ, thì mi uống nước nhiều để rửa cứt trâu trong bụng đi rồi sẽ sáng dạ và phải đi học ngay lập tức”. Ông vừa nói vui nhưng nét mặt lại rất nghiêm, mắng tôi biếng nhác, và la rầy mẹ tôi.
Sau khi ông về, mẹ tôi và bố tôi đem tôi xuống nhà bác hương Thự, gửi cho bác nhờ bác dạy quốc ngữ cho tôi cùng một số trẻ khác tại nhà bác. Bác Thự (họ Cù Hoàng), kém thầy tôi vài ba tuổi, có học chữ Hán, và đã học qua tiểu học Pháp Việt. Bác là người thông minh và lấy việc dạy trẻ trong nhà là một niềm vui. Phương pháp dạy của bác thì cũng là bắt học thuộc lòng, và bắt viết tập nhiều. Bác rất nghiêm khắc khi bắt học trò đọc bài, đứa nào không thuộc thì bác bắt ngồi lại học cho kỳ thuộc, mới cho về. Về sau đông học trò bác chuyển lớp sang nhà bác Hợi là anh ruột bác. Tôi đã nhờ bác Hợi gái mua cho tôi gói phẩm tím ở chợ Nướt. Đem pha với nước chè xanh mực tím đặc quánh, viết lên mực ánh tím rất đẹp.
Tôi còn nhớ, mấy ngày đầu đến nhà bác Thự tôi lười học, cứ trốn về nhà. Sau đó mẹ tôi và chú tôi phải trói tôi lại gánh tôi bằng một cây tre như gánh lợn đi chợ, mẹ đi trước chú đi sau, đến giao cho bác Thự. Sau này gặp tôi bác Thự cứ nhắc mãi:“Đi học phải mẹ và chú gánh như gánh
lợn mà bây giờ lại giỏi thế nào! Âu cũng là cái số”. Bác Hợi gái khi còn sống, lúc đó răng rụng hết, mặt giăn gieo gặp tôi thì cứ hỏi:“Có nhớ cái lọ phẩm tím pha nước chè xanh không, anh Cận?... tôi học ở nhà bác chưa đầy nửa năm thì tôi được vào học trường tổng Dị Long (1926) bắt đầu học lớp năm, rồi tháng 9-1927 lên học lớp tư. Tháng 10-1927, mợ Vân về đón tôi đi vào
Quảng Điền (Thừa Thiên) để học với cậu tôi... Tôi rất biết ơn bác Thự thầy học khai tâm của tôi. Sau này mỗi kỳ nghỉ hè về thăm nhà bác. Mỗi lần tôi cũng có chút quà tặng bác, gọi là nhớ ơn thầy, bác rất cảm động và nói:“Tôi đã dạy hàng trăm học trò, nhưng chỉ có anh là người còn nhớ thầy, còn thương thầy”. Tình thầy trò bây giờ không như xưa nữa! Năm 1981, có người ở quê ra cho tôi biết bác Thự vừa mất, thọ 87 tuổi. Tôi có làm bài thơ viếng bác, đã in trong tập thơ Hạt lại gieo, xin trích đây vài đoạn:
Có người ở quê ra
Đưa tin thầy học chết
Bác Thự, thầy đầu tiên
Dạy tôi học, tôi viết.
Năm lăm năm trước mắt
Xã An Phú quê nhà
Một cuộc đời vụt tắt
Nghe lòng con xót xa.
Con lười đến nhà thầy
Mẹ và chú phải gánh
Lọ phẩm tím đeo tay
Pha chè xanh đặc quánh.
Cùng học chữ với bác
Tôi thuộc mỗi bờ cây
Mỗi một làn gió mát
Mỗi đồi cao, ruộng lầy.
Tôi thuộc mỗi con chim
Bay qua nhà lạnh hót
Thuộc giọt tranh quanh thềm
Những ngày mưa không ngớt.
Về sau tôi tập viết
Về sau làm thơ ca
Trong mỗi vần mỗi nét
Lại bâng khuâng quê nhà.
Được tin bác mất đi
Tôi bồi hồisuốt buổi
Bác, thầy học khai tâm
Cho hồn tôi có tuổi.
Chúa Bồn trên rú Trùa
Trên rú Trùa đằng sau núi Mồng Ga có chùa Bồn, cảnh chúa rất đẹp, xung quanh chùa có mấy cây sơn trà (một thứ cây muỗm trái nhỏ mà chua) có nhiều cây hoa trang (tức là hoa mẫu đơn), và sau lưng chùa có mấy cây hoa mộc. Hồi nhỏ tôi cùng chúng bạn đi trâu hay lên chùa Bồn hái trái sơn trà, và riêng tôi lại thích hái trộm hoa mộc của chùa bỏ vào túi áo, vì hoa mộc có một mùi hương mê mẩn. Mãi về sau này tôi vẫn thích ngửi mùi hoa mộc, và mỗi dịp đi thăm cảnh chùa nào là tôi cũng tìm xin hoa mộc của cửa Phật. Ở chùa Bồn cũng như ở nhiều chùa khác có xây hình địa ngục và thiên đường trong một gian khuất đằng sau, hơi u tối. Thiên đường thì ở trên cao, bọn nhỏ tôi không thấy rõ, nhưng địa ngục thì ở tận mặt đất thấy rõ ràng từng cảnh đày đoạ, người bị quăng vào vạc dầu, người bị chó ngao cắn, người bị cưa xẻ dọc làm đôi... Bôn tôi sợ, nhưng cũng sợ vừa vừa thôi, chỉ có tò mò xem thử các tội ác được trừng phạt như thế nào... Còn để thì giờ đi leo cây sơn trà hái trái chua lét:
Nhớ những trưa hè tuổi bé thơ
Trốn cha, theo bạn rủ lên chùa
Trèo nhăm quả muỗm chua chua lét
Phượng thắm, ve sầu nhịp mõ khua
Rồi kéo nhau vào trong hậu tự
Xem thôi địa ngục lại thiên đàng
Thiên đàng cao quá không nhìn rõ
Địc ngục phơi bày thật thảm thương...
Nhớ mãi đầu bươu thằng quỷ sứ
Mắt thòi ra nửa, lưỡi cong liềm
Tây cầm chày giã đàn bà chửa
Thai phọt ra ngoài đọng máu đen
Lại có những người bị lửa thiêu
Những dầu nhúng vạc cháy xèo xèo
Những thân cưa dọc như cưa gỗ
Cưa cả mắt nhìn, cả miệng kêu.
Bọn tôi nhìn kỹ mới hay rằng
Họ giống bà con trong xóm làng
Cũng áo quần nâu gầy guộc mặt
Ở đây không thấy kẻ giàu sang...
Tôisợ nhưng mà sợ ít thôi
Không bằng cáisợ của bà tôi
Đi qua địa ngục bà run gậy...
Đâu đó dường như đã thấy rồi...
Chùa Bồn bây giờ đã bị phá trụi, chỉ còn cái nền cỏ mọc xanh um; thiên đàng, địa ngục cũng không còn dấu vết. Cả mấy cây muỗm (cây sơn trà) cũng không còn, nhưng cảnh rú Trùa vẫn
đẹp, sườn núi vẫn tươi xanh. Mỗi lúc về quê, tôi lại lên thăm rú Trùa. Trong ánh nắng hè oi ả, gió thoang thoảng, tôi lại cảm nghe cái vị chua lét của trái sơn trà tuổi nhỏ...
Trèo lên cây mít
Lúc năm, sáu tuổi, tôi thường hay leo lên cây mít sau nhà. Cây mít này có một nhánh nằm ngang, và trổ nhánh đâm ra lại có một mặt bằng phẳng do trước đây bố tôi đã cưa một nhánh gãy. Mặt bằng ấy như cái bàn tròn cao quá mặt đất chừng ba thước. Tôi leo lên đất, ngồi suốt buổi, vắt đất làm đồ chơi, có khi mang lên đó những con giống ngũ sắc, bằng bột nếp mà mẹ hoặc bà đã mua ở chợ Nướt về cho tôi. Tôi cứ ngồi chơi tẩn mẩn một mình như vậy hàng giờ không chán. Tôi nhìn lên trời theo dõi từng đám mây bay, theo dõi những con chim bay qua vườn hoặc nhảy chuyền từ cành này qua cành khác. Có lúc tôi lại leo lên cây hồng bên cạnh nhà chú, cây hồng không có cái bàn như cây mít, nên tôi cứ đứng hàng giờ, lấy một chiếc gậy khèo những quả hồng chín, có khi cả quả hồng xanh nữa. Khi bố mẹ tôi về nhà, đã biết nơi “giải trí” của tôi, nên cứ ra gốc mít mà gọi tôi xuống. Bố mẹ6cũng chẳng la mắng gì, chỉ dặn leo lên leo xuống phải cẩn thận. Ở dưới gốc cây mít có một đám lá lốt rất tốt, mẹ tôi thường ra hái để nấu canh, nhất là nấu canh hôn (một thứ rùa mu trơn, ở trong ruộng). Có khi tôi cũng hái một nắm lá lốt vò đi cho vào nồi nấu, cho một tí nước mắm rồi xì xụp ăn rất ngon.
Lần đầu tiên nói láo
Tôi sáu, bảy tuổi gì đó, thường ở nhà coi nhà và bồng em. Đến khi bố mẹ về tìm đồ đạc không thấy thì hỏi dồn tôi” Con thấy đâu không?”. Thấy thì chỉ đã đành, nhưng thường tôi có để ý gì đâu, nên đụng đến là tôi lia lịa trả lời không. Rồi nói mãi như vậy tôi thấy ngượng, tôi thêm thắt vào:“Con không biết”. Nhưng gặp gì bố mẹ cũng hỏi tôi, mà ngụ ý rằng tôi phải biết. Tôi thấy người lớn tin ở tôi nhiều quá, tôi phải cáng đáng lấy một phần trách nhiệm mà người lớn giao cho tôi. Và từ đó tôi nói quanh:“Khi nãy con thấy nó chỗ này, bữa qua bố cất trong kia”. Nói láo mọc mầm từ đấy, lúc đầu chỉ là một cách thối thác, sau dần dần mới thành bịa đặt. Tôi nghĩ rằng trẻ con bắt đầu nói láo thường cũng ở vào cùng một trường hợp với tôi. Bắt chúng phải có trách nhiệm quá sức, là bày cho chúng tôi nói liều đắc sách nhất. Cũng như bao nhiêu người tầm thường mà thiên hạ có cho một công việc quá sức, phải khoác loác làm càn, hoặc quanh co trốn việc.
Mụ Giao và ông Đĩ Đoá
Chưa một lần nào mẹ tôi nghi ngờ bố tôi đi đánh bài bạc vì mê gái. Nhưng mối nghi ngờ hình như đã đến với cái tên mụ Giao đi cặp kè với ông Đĩ Đoá. Mụ Giao người nhà quê mà khí cốt giang hồ. Người mụ trắng, đẹp và hai con mắt của mụ rất quyến rũ. Người ta đồn rằng mụ hay nằm lang với nhiều người và vào sòng bạc là mụ chìa bắp đùi ra cho đàn ông gối đầu. Mê mẩn rồi tha hồ thua, lắm con bạc vì vậy mà bại sản. Bố tôi dạo ấy cũng có khi đi với đám mụ Giao, Đĩ Đoá có bị sức hấp dẫn của người đàn bà ma quái ấy chăng? Tôi nghe người ta nói đến mụ Giao một cách thì thầm bí mật như đụng đến cửa cấm. Mụ ta hay bận áo trắng, đuôi gà buông lượt thượt... người đàn bà ấy đi qua làng như một cái bóng ma mà có đủ sức ám ảnh của một con hồ tinh. Bố tôi biết đâu đã không bị hai con mắt của nó thu hút. Dẫu sao tôi cũng không khi nào nghe mẹ tôi cằn nhằn (đay nghiến) bố tôi về chuyện nghi kỵ đó. Vả lại một dạo rồi thôi, mụ Giao biến đi như cơn chiêm bao bối rối, ông Đĩ Đoá lại yên nghiệp làm ăn, buôn bò, làm chủ lái.
Ở nhà bác Nhỡn
Tôi học lớp năm ở trường tổng Dị Long thì ở trọ một người bà con là bác Nhỡn. Vợ chồng bác Nhỡn rất tử tế với nhà tôi, và chăm sóc cho tôi như con trong nhà, cho ăn uống tử tế, và giặt quần áo cho tôi tươm tất. Nhưng anh con cả của hai bác thì rất quái ác, cứ trêu chọc tôi, và như quấy rầy không cho tôi học. Lại có lần tôi đang ngủ anh lấy que tre dính một ít mủ nhọt nơi chân của người nhà và để trước mũi tôi. Tự nhiên tôi thức dậy, thấy mùi hôi thối quá, kinh
hoàng và la lên. Bác Nhỡn gái sau đó đem tôi đi tắm sạch sẽ và thay áo quần cho tôi. Tôi viết hồi ký phải công bằng, ơn ai tôi không quên, nhưng những trò trêu chọc quái ác tôi cũng phải ghi cho đủ tình tiết.
Lần đầu tiếp xúc với Truyện Kiều
Hồi đó tôi bảy tuổi đang học lớp năm ở trường tổng, và ở trọ nhà bác Nhỡn như đã nói ở trên. Bác Nhỡn nhà khá giả. Trong nhà có một ông quản gia là ông Văn, lúc ấy trạc sáu mươi tuổi, người khỏe mạnh da dẻ đỏ đắn, vẻ mặt phương phi, dáng dấp nho nhã. Ông Văn đem ngủ trong nhà thờ, nhà thờ nhỏ gối ngang đầu các nhà ở, có cửa chữ thọ. Sau nhà thờ có hai cây hoa mộc, thứ hoa thường trồng ở các chùa, hoa li ti như hạt tấm, rất thơm, mùi thơm thấm vào da thịt. Hương hoa mộc có chút gì như gợi tình, lại có chút gì như gợi một bầu trời thanh thoát. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà hoa mộc thường được trồng ở sân sau của các ngôi chùa. Tôi nằm trong phòng đầu nhà, liền với nhà thờ nhỏ nơi ông Văn ngủ. Mùi hương hoa mộc theo hơi gió nhẹ êm đềm đêm hè khía vào mũi tôi, cho tôi một cảm giác đê mê, lâng lâng mà rạo rực. Rồi thì cùng hương hoa mộc bay thoảng vào phòng tôi giọng ngâm Kiều của ông Văn. Lúc ấy tôi chưa biết Kiều là gì, chỉ nghe người này kể một câu, người kia kể một câu trong câu chuyện hàng ngày. Tôi nghe thích thích, nhưng không ai cắt nghĩa cho. Nhưng đêm đến nằm nghe ông Văn ngâm từng đoạn dài, giọ6ng sang sảng, tôi bắt đầu khám phá ra một cái gì mói lạ, một cái gì rung động trong tâm hồn thơ bé của tôi.
“Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con,
Tuyết in sắc ngựa câu giòn,
Có pha màu áo nhuốm non da trời...
Tôi nhớ mãi cái giọng ông Văn ngâm mấy câu này, giọng hào hứng nhuốm ánh trăng hè và hương hoa mộc... Một cảm giác rất trong, rất xanh. Mãi về sau, cho đến bây giờ nữa cứ ngâm nga lại mấy câu thơ trên, là tôi thấy gợi lại mùi hương hoa mộc trong ánh trăng khuya, và mỗi lúc tôi thăm chùa, thoảng mùi hương hoa mộc là tôi lại nghe văng vẳng giọng ông Văn lọt qua cửa chữ thọ ngâm Kiều:“Đề huề lưng túi gió trăng...
Tôi chẳng hiều đề huề là gì, lưng túi gió trăng là gì. Nhưng sao cứ thấy thích nghe, câu thơ cứ quyện vào tôi, vương vấn mãi. Tiếp xúc đầu tiên của tôi với Truyện Kiều, với thơ là như thế.
=I=
O Trà, em gái tôi
Viết về đời tôi, tôi phải ghi thật rõ công ơn của em gái tôi là o Trà, công ơn đối với gia đình, đối với riêng tôi. O Trà là em gái liền tôi, tức là con thứ hai của bố mẹ tôi. Trong lúc tôi đi học ở Huế, có những lúc bố tôi ham chơi, thì chỉ có em Trà gánh vác việc gia đình cùng mẹ tôi. Em đi cày, đi bừa, đi gặt hái, đi cấy lúa, làm đủ mọi công việc đồng áng, và ở nhà còn nuôi lợn, nuôi gà. Em rất thương tôi và các em tôi. Em Trà là biểu tượng của sự hy sinh âm thầm của một người con gái cho gia đình, chỉ biết lo cho bố mẹ, anh em mà không tính toán mặc cả một điều gì. Có lúc, mẹ tôi cần gửi tiền cho tôi sau khi tôi bị cắt học bổng vì tham gia biểu tình đón Gônđa, đại biểu Chính phủ bình dân Pháp (1937), em Trà còn chủ động đem bán đôi khuyên vàng (đôi hoa tai) giao tiền cho mẹ.
Em hai đời chồng, hai đời đều vất vả. Đời trước thì chồng phụ, đời sau thì chồng chết sớm. Sau ngày giải phóng miền Bắc, em theo mẹ tôi ra ở với tôi ở Hà nội, và em làm ca dao hò vè ở nhà ăn, được mọi người rất mến. Hai đời chồng cho em hai mụn gái, nay đã thành thân cả rồi. Cuộc
đời của o Trà cũng như là “Số phận một con người”. Tôi đã làm tặng em bài thơ “O Trà, em gái tôi” xin trích ra đây vài đoạn:
O Trà ơi, đêm qua
Chiêm bao thấy o chết
Sáng rồi mở mắt ra
Chiêm bao còn chưa hết
Hai đời chồng vô duyên:
Kẻ phụ, người chết sớm
O nằm khóc những đêm
Ban ngày còn làm lụng
Được cái o vô tâm
Lòng tin người mộc mạc
Sự sống kiên nhẫn thầm
Có thể nào sống khác!
Hay ca dao, ví hát
Đậm tâm hồn dân gian
Khi nấu cơm, rửa bát
Lúc dọn mâm, trực bàn...
Càng già càng giống mẹ
Giống mặt, giống đau phiền
Tấm lòng hay kể lể
Như truyện nôm trường thiên...
Cha con
Ngày nhỏ ở nhà, không lúc nào tôi dám nhìn thẳng vào mặt bố tôi. Và lạ quá, nhìn tôi, thấy tôi ngoảnh mặt đi thì bố cười, cái cười “hồn nhiên” quá. Bố tôi hiền, vậy mà có cái gì cản lại không cho tôi ngó thẳng vào mặt bố tôi. Dường như bố tôi cũng hiểu vậy, nên ít khi nhìn vào mặt con chăm chú. Tôi chỉ ưa nhìn nghiêng mặt bố, có một thứ e thẹn rất phức tạp giữa cha và con. Bà con, hàng xóm thường thấy tôi đi theo bố tôi thì cứ nói:“Cha nào con nấy, hiền như bụt”. Bố tôi cười và nháy mắt, quay lại nhìn con và không nói gì. Cha với con, sao mà tình ngỡ ngàng như thế! Tôi thương bố không bằng thương mẹ, và lạ nhất là bố như sớm tin ở tôi quá, cho rằng tôi hiểu mọi việc nhà mọi việc về tình cảm, cố nhiên. Tôi ít nói chuyện, ít bàn bạc với bố, trừ về bài học (ngày nhỏ tôi học với bố). Con mắt bố thông minh, sáng, nhưng cái sáng yếu dần, và đôi khi bố tôi nhìn nghiêng thì nét mặt rất buồn cũng có lúc mắt bố tôi hơi lạc đi, và những lúc ấy tôi thương bố quá đỗi. Chắc bố cũng có nhiều tâm sự, nhưng không bao giờ ngỏ ra ngoài cho ai biết. Sao cha con lại không nhìn thẳng vào nhau được? Có cái gì ngăn giữa hai linh hồn đó chăng? Tôi muốn dứt đi, muốn đi tới, muốn đến tận đáy hồn với tôi, nhưng rồi tôi cũng chịu thua, mắt bố dịu và hiền, sao tôi không chịu nổi?
Sau này tôi được nhiều lần nghiệm ra rằng hai người ghét nhau hay dửng dưng với nhau thì rất dễ nhìn nhau tận mặt. Nghiệm ra điều ấy tôi rất mừng, vì khi nhỏ có đôi lúc tôi tưởng tôi ghét bố tôi. Nhưng cha con thương nhau mà có một nỗi ngậm ngùi rất khó nói trong tình thương đó. Hay là tự sơ sinh trời sinh đã đánh dấu hai cha con chúng tôi? Làm sao cho tôi học thuộc lòng nét mặt bố tôi, cha xương thịt của tôi để tôi tìm ra cái lẽ sâu xa của lòng “e thẹn” ấy. Bâng khuâng bao nhiêu khi một người con đã khôn lớn nhìn lại mặt cha mình. Mặt cha già thêm, mỗi ngày càng cằn cỗi, nhưng cái đó chưa hẳn là điều ta nhận thấy đầu tiên. Nhiều lúc trái lại nữa. Ta vẫn thấy như xưa, vẫn y nguyên con mắt trừng mà ta sợ thuở bé, vẫn cái trán, đường mày và cái môi chận dưới hàm răng dường như dữ tợn. Không, lòng ta sắc sảo hơn mắt ta, và thấy những điều bí ẩn khác. Giữa mặt hai cha con cũng vẫn một lớp không khí, mà sao bây giờ không ấm áp, ủ ôm như xưa nữa? Ta lớn rồi, và chính ta thấy sự đổi thay của ta trên mặt hai người cha đứng trước ta. Mặt của những ông cha, đến một trạc tuổi nào đó, chừng như không thay đổi nữa, để giữ nguyên tuổi nhỏ giùm cho ta. Tôi không biết một người con sáu mươi tuổi đứng trước một người cha tám mươi tuổi có những cảm giác, cảm tưởng gì. Tôi đoán thấy một
cảm giác là lạ, đôi chút ngỡ ngàng. Tôi phân tích làm gì thế? Chỉ vì tôi chưa hết ngạc nhiên tại sao cha con tôi chỉ có thể nhìn nghiêng mặt nhau. Nhưng chắc rằng đời đã cho phép tôi được nhìn vào tâm hồn bố tôi theo lối thẳng.
Có một lần tôi về thăm nhà, bố tôi nói chuyện về gia phả, bố tôi bảo nên viết một quyển lịch sử gia đình, tường tận và đầy đủ. Viết theo kiểu người xưa nghĩa là ngoài chuyện ghi chép như biên niên sử còn thêm lời bàn nữa. Tôi cũng nói đùa tiếp theo lời bố:“Con sẽ viết để các em con sau này lớn lên biết cái thời “oanh liệt” của bố. Con sẽ bênh vực mẹ nhiều, chắc thế”. Bố tôi cũng đáp lại nửa đùa nửa thật, nhưng rất bâng khuâng cho tôi:“Phải, cứ chép đúng sự thật, nhưng bình luận thì nhớ công bằng”. Bố tôi đã đoán hiểu dự định của tôi chăng, và lời nói ấy như giật lòng tôi lại một phía. Vì quá thương mẹ tôi từ nhỏ, tôi quen hùa về phe mẹ lâu rồi, có chuyện gì xích mích giữa hai người là tôi cũng về một bè với mẹ. Bố không hề cải chính, không hề tỏ ý giận con về điều chênh lẹâch ấy. Nhưng bây giờ đã đến lúc tôi phải minh mẫn, sáng suốt mà xét lại. Giờ công bằng đã đến, xem suốt mấy trang trên tôi thấy tôi có ý mỉa mai bố tôi nhiều quá. Tôi có thể thương mẹ mà không oán bố chứ! Tôi mong rằng lòng thương mẹ không phải làm bằng lòng oán giận bố: Sao cho bố tôi âm thầm mà kín đáo thế! “Nhớ công bằng” Trời ơi! Tôi có làm quan toà mà phán xét lỗi của bố tôi đâu. Tôi chỉ là một đứa con nhìn thẳng vào mặt cha mẹ mình mà nói:“cha ta đó: một linh hồn yếu đuối, nhưng bảh tâm rất hiền từ. Mẹ ta đó: người đã khóc nhiều và đã khổ lắm. Cuộc đời hay số kiếp đã nối đời hai người lại để mà dày vò nhau như để làm tròn một ý định của trời đất”. Thưa bố, con sẽ công bằng: bố có bao nhiêu đức tính tốt mà con chưa nói đến...
Bố tôi tuy chỉ đậu tam trường nhưng là một nhà nho khá thâm thuý; đọc nhiều sách nhất là sách sử, và về sau lại nghiên cứu sách thuốc, trước hết là để chữa bệnh cho bà con và họ hàng làng xóm. Bố tôi cũng ham đọc thơ Đường của Trung Quốc, và rất ham ngâm ngơi các thơ văn của ta các đời trước, từ thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, cho đến thơ văn của Nguyễn Khuyến, Tú Xương sau này. Đặc biệt bố tôi ham bình luận truyện Kiều, ca dao và “Đại Nam quốc sử diễn ca” cho bà con nghe. Bố rất thuộc mười bài “Khuê phụ thán” của Thượng Tân thị, và những bài thơ yêu nước của cụ Phan Sào Nam và của Á Nam Trần Tuấn Khải như tôi đã kể trên kia. Bố tôi cũng có làm một số bài thơ thất ngôn bát cú, nhưng được ý mà lời không hay. Nhiều lần bố mẹ tôi giận nhau, thì ban đêm ông cụ ra ngủ ở nhà ngoài, và cứ một mình ngầm Kiều lên và một mình bình luận cái hay của thơ Kiều, giọng sang sảng, có khi réo rắt, có khi trầm bổng rất tâm tình... Mẹ tôi giận thì giận, nhưng nằm nghe không để lọt một câu. Và cũng nhờ những buổi “bình văn” độc tấu ấy của bố mà mẹ tôi càng thuộc thêm nhiều đoạn Kiều. Sáng hôm sau tôi thấy dường như tình hình căng thẳng giữa hai người có dịu đi một chút. Thật ra mẹ tôi vẫn phục và quý cái trí tuệ biết nhiều hiểu rộng của bố tôi, và cũng cảm những tình tứ của bố tôi trong lời bình luận nữa...
Đức lưu quang
Trên bàn thờ nhà tôi có bức tranh hoàng phi sơn son khảm chữ sành xanh, cổ kính. Ba chữ “Đức lưu quang” nét mặt thẳng xương xương, lối chữ của người thời trước. Sành đã rã đôi mảnh, ván đã bị mọt gặm vài nơi, nhưng nét chữ vẫn sáng và đẹp. Không biết ông tôi đặt lấy, hay có người đi mừng mà bức hoành phi ấy lưu lại đến giờ. Đức lưu quang: tích đức thành phước; đức lưu lại ánh sáng cho dòng dõi mai sau. Ánh sáng! Bố tôi chỉ giữ được chút tinh anh để vào đến tam trường đó ư? Ánh sáng đã yếu dần trong mắt bố tôi, nhưng mạnh và quả quyết mắt chú tôi nghĩ mà thương cho ông tôi, nhân từ và phúc hậu, một lòng gây cơ nghiệp cho con bằng mồ hôi nước mắt, cày sâu cuốc bẫm, nhân đức đến điều để gom góp một ít ánh sáng rạng mày mặt cho con cháu. May thay các em tôi đều sáng dạ, thông minh, may ra chúng tôi đắp lại lòng mong mỏi của ông tôi một đời tận tuỵ. Chúng tôi là dòng dõi con cháu nmhà cày, chúng t6i mọc ở đất lên, quen ngửi mùi đất, nhịp nhàng với thời tiết quê nhà. Nhửng cái mầm từ đất nảy lên ấy sau này lại gặp được không khí ấm áp của thời đại mới. Câu chuyện tâm tình gi74a các thế hệ xuyên qua số phận cụ thể của những con người. Con cháu nói chuyện với cha ông cũng hào hùng mà thầm thì, nói sao cho hết được!
Bàn tay mẹ tôi
Tôi muốn kết thúc phần hồi ký về tuổi nhỏ ở quê nhà của tôi bằng tiểu mục này. Mẹ tôi suốt một đời làm lụng, nên ở góc các ngón tay đều chai. Lúc còn con gái ở làng Tùng Ảnh, mẹ tôi dệt lụa, lụa Hạ nổi tiếng. Quanh năm hái dâu nuôi tằm và ngồi khung cửi, mẹ tôi có một vẻ “thanh lịch” riêng, cái thanh lịch của dân phường vải. Đến lúc bố tôi đi hỏi thì ông bà ngoại quý bố tôi là học trò nho, hay chữ, tính tình nho nhã nên ưng ý ngay. Mẹ tôi cũng theo lòng bố mẹ mà lấy bố tôi, nhưng lòng riêng cũng cảm phục và quý bố tôi, và đương nhiên cũng hy vọng ở khoa cử của bố tôi. Lúc về nhà chồng, mẹ tôi mang theo một khung cửi, đó là của “hồi môn” duy nhất. Khung cửi này còn để mãi trong nhà về sau; thỉnh thoảng mẹ tôi cũng có dệt vải, như để nhớ cái nghề con gái của mình. Lúc tôi 5, 6 tuổi, tôi còn thấy mẹ tôi chong đèn ngồi dệt, không phải dệt lụa mà là dệt vải thô khổ hẹp để nhuộm nâu may váy. Về nhà bố tôi, mẹ chuyển nghề dệt sang nghề cày, như tôi kể ở trên: đàn bà mà cũng cày cũng bừa, và tất nhiên là đi cấy đi gặt, đi gieo trỉa, đi bới khoai lang, bới lạc, chặt mía... Hai sương một nắng. Nếu chỉ vất vả về làm lụng chân tay thì đời mẹ cũng chưa phải là khổ lắm. Đằng này dồn dập bao nhiêu xung khắc, đau khổ trong gia đình làm cho mẹ héo hon. Nhưng chính hai bàn tay đầy chai ấy đã làm nên đời tôi, đời các em tôi. Người ta hay nói bàn tay số mệnh nhào nặn nên số phận mỗi con người. Đối với tôi và các em tôi số mệnh chính là mẹ tôi đã nuôi chúng tôi, đã giữ chúng tôi lại đời này và đã dắt chúng tôi từ những bước chập chững đến những bước vững chắc đi vào cuộc sống.
Tôi nhớ bàn tay của mẹ tôi
Chai năm gốc ngón, bởi già đời
Mẹ còn cày cuốc, còn vun xới
Gieo hạt tư mùa, chẳng nghỉ ngơi
Mà lạ lòng tay vẫn cứ mềm
Bởi quen gieo hạt hoá tươi êm
Mịn màng thương mến bàn tay mẹ
Như lá đầu cành tơ mượt thêm.
Tay mẹ cũng lau nhiều nước mắt
Và ôm trán nghĩ những đêm trời
Con đau mẹ mới cầm tay quạt
Ít quạt cho mình dẫu nắng oi.
Mẹ đã yên nằm, tay của mẹ’
Còn xương bám đất tợ ôm con
Suốt đời làm lụng tay không nghỉ
Tay bỏ xuôi rồi, mới ngủ ngon.
Hà nội - Mỹ Tho 1940
Hà nội, tháng 3-1986
Huy Cận
=J=
Xuân Diệu kể (1)
Đoạn hồi ký sau đây là do anh Xuân Diệu kể cho anh Hoàng Trung Thông nghe, có ghi vào băng ghi âm. Tôi đã viết lại cho gọn lời và mạch lạc.
(Huy Cận)
Tôi (Xuân Diệu) sinh ra năm Thìn, năm 1916. Má tôi bảo tôi sinh ra năm thìn, tháng thìn, ngày thìn; nhờ anh tra lịch tìm giùm cho tôi ngày sinh chính xác của tôi. Má tôi là người Bình Định, con của một nhà làm nước mắm. Ông ngoại tôi thường đi Phan Thiết, có ghe bàu riêng, làm nước mắm trở nên khá giả, và mua được chức bà hộ. Tôi là cháu ngoại một ông bà làm nước mắm ở vạn Gò Bồi, nơi làm nước mắm nổi tiếng. Tuổi nhỏ của tôi sống trong không khí của trại làm nước mắm; tôi và má tôi ở với ông bà ngoại. Cha tôi là cụ Ngô Xuân Thọ, quê làng Trão Nha, huyện Can Lộc, thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Cha tôi đỗ tú tài Hán học hai lần, gọi là ông Tú kẹp. Ông đi vào Bình Định dạy học rồi lấy má tôi ở đó. Má tôi đã có một đời chồng, nhưng lâu không có con nên bố mẹ chồng bắt buộc phải xa rời chồng. Cha tôi có đức tính của một ông đồ Nghệ nghĩa là học rất cần cù, học sâu, học hết sách vở. Cha tôi vốn là học chữ Nho nhưng lúc ấy đã thay sang tân học. Cha tôi vược đèo Ngang, đi vô Bình Định tìm thầy học tiếng Pháp, và mua tự vị về để học tiếng Pháp. Cuối cùng cha tôi cũng đã đổ bằng tiểu học (prime) và về sau thì làm hương sư, lương mỗi tháng mười lăm, mười sáu đồng gì đó. Đến khi cha tôi đã 45 tuổi thì tôi bị bệnh thương hàn rất nặng, may mà nhờ một ông lang chữa cho tôi khỏi bệnh. Từ đó cha tôi quyết tâm học thuốc bắc. Và cha tôi khi đã học thì học rất cần cù, rất kỹ. Chính tôi, năm, lúc ra Huế thi vấn đáp đíp-lôm (bằng thành chung), đã mua bộ Hải Thượng Lãn Ông (sách thuốc) ở phố Gia Hội, của Hoa Kiều bán, đến về cho cha tôi. Cha tôi ngồi ghi những bài thuốc và những phương thuốc thành thơ 7 chữ (thất ngôn bát cú chữ Hán). Thế rồi cha tôi trở thành ông thầy thuốc khá nhất của vùng Qui Nhơn và sau này ở Hà Tĩnh nữa. Tôi nhắc lại điều đó để nói lên đức tính cần cù của cha tôi. Tôi không ngờ rằng càng về già tôi càng giống cha tôi cái tính đổ Nghệ đó.
Cha tôi họ Ngô, trong dòng họ Ngô có cụ Ngô Đức Kế, và xa hơn nữa là Ngô Cảnh Hoàn, họ Ngô ở tại núi Nghèn cách đèo Ngang mấy chục cây số. Khi tôi lên khoảng hai tuổi thì bà vợ của cha tôi (tức là bà vợ cả) ở ngoài Hà Tĩnh vào và sinh ra đứa em tôi tên là Thuần. Đứa em tôi thua tôi hai tuổi nhưng tôi phải gọi nó bằng anh, đó là theo tục lệ phong kiến ngoài Bắc, chứ ở trong Nam thì đứa nào nhiều tuổi hơn làm anh thôi. Cho nên lúc nhỏ, một mặt tôi phải xa má tôi, vì thầy tôi không ở với má tôi nữa, mà ở với bà vợ lớn; mặt khác tôi phải gọi thằng em tôi bằng anh, nó thường doạ tôi “để tao vào mách với mẹ” và nó vu oan cho tôi nhiều lần trước bà vợ lớn của thầy tôi, đôi khi nó còn đánh tôi cho nên tôi rất sợ. Tôi vừa rất nhớ má tôi, vừa bị thằng em ăn hiếp. Tuổi nhỏ tôi đau đớn như vậy, cho nên cả đời tôi, cứ nhớ đến tuổi nhỏ là nhớ má, không nguôi đau xót.
Thầy tôi đi dạy học cũng nghèo thôi. Cho nên tôi phải đi chợ là lẽ dĩ nhiên. Nhưng ngày xưa con trai mà phải xách rổ đi chợ là một điều thật chướng, thật là ngượng. Nhất là khi mình đi chợ về mà gặp học trò trường công thì xấu hổ. Học trò trường công là con các ông hương, ông lý, lại có cả học trò con gái; gặp họ thì tôi cứ nép sát vào bụi, cứ muốn chui hẳn vào bụi. Những điều đó
tác động vào tôi, và trên một cơ sở một cái thiên bẩm, cha mẹ sinh ra thế nào đó, nó làm cho tôi có lòng thương người. Cũng như thằng em tôi nó đánh tôi, nó làm cho tôi suốt đời đứng về phía những người bị áp bức. Thế rồi từ Gò Bồi tôi đi xuống Qui Nhơn thi vào lớp nhì đệ nhị niên. Khi học trường Qui Nhơn thì tôi ở nhà với chú tôi là ông Ngô Soa, lúc đó làm thư ký ở sở thương chánh. Nếu về sau tôi viết hồi ký tôi sẽ có nhiều điều nói về mấy năm ở nhà ông chú, nó có tác động đến việc làm thơ của tôi. Mấy lúc này tôi cũng hay nhớ đến ông chú. Mỗi ngày tuổi thêm già, tôi càng thấy những kỷ niệm tuổi nhỏ là thấm thía. Từ nhà quê mà đi xuống một thành phố như thành phố Qui Nhơn có thể nói là một sự nhảy vọt trrong sự phát triển của
người tôi, của trí tuệ và tình cảm nữa. Được về thành phố, con người được giải phóng hơn, được tiếp xúc nhiều hơn với xã hội, và có thể nói mức sống được cao hơn và cuộc sống của mình gần với thế giới hiện đại hơn, mà tình cảm cũng được phát triển phong phú. Tất cả điều đó cũng làm cho tôi gần với chủ nghĩa lãng mạn, vì nghĩ cho cùng chủ nghĩa lãng mạn cũng khớp với thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển, và các thành phố phát triển. Chủ nghĩa lãng mạn còn đặt vấn đề cá nhân (individu). Chính sự tôi xuống Qui Nhơn nó làm cho individu của tôi có ý thức hơn và phát triển.
Trở lại tuổi nhỏ của tôi ở Gò Bồi. So với hồi ký của Nguyên Hồng, thì tôi kể về tuổi nhỏ của tôi còn ít quá. Em tôi, Tịnh Hà (tức là Ngô Xuân Sanh), nó có viết một tập lấy tên là “Gió cuốn bụi đời”, kể cuộc đời đi hoang của nó. Trong tập ấy có rất nhiều cảnh xã hội cũ, rất nhiều sự kiện về con người thời đó. Rất nhiều mảng xem rất bổ ích. Tôi nhắc tập văn hồi ký của em tôi vì tuổi nhỏ của nó cũng một phần phản ánh tuổi nhỏ của tôi. Tuổi nhỏ của tôi phải sống xa má nên rất buồn. Bây giờ xem lại những ảnh chụp khi tôi học lớp nhì trường Qui Nhơn, tôi thấy mặt người dưới thời Pháp thuộc rất buồn; mặt người nào như cũng có cái gì uất ức, bố tôi cũng thế, chú tôi cũng thế. Tôi quá hiền, bị thằng em con bà cả ăn hiếp, ai thấy tôi cũng thương. Khi tôi học ban thành ở trường trung học Qui Nhơn, tôi được học bổng; nhà tôi ở gần phố Jules Ferry (nay là đường Lê Hồng Phong) nên thỉnh thoảng về nhà cũng gần. Tôi vào ký túc xá thì những người dọn bạn thầy tôi cũng hiền là họ rất thương tôi. Cái hiền đó lại là một cái vốn của tôi. Nếu như tôi đanh đá thì có lẽ tôi không phải là tôi nữa. Nhân đây suy nghĩ về hồi ký;: nước mình như một thửa ruộng bắt đầu cầy; không ai, hay ít ai chịu viết hồi ký trong khi ở các nước Âu Tây người ta đào sâu từng li từng tí vào các kỷ niệm. Các nhà văn ở nước mình ít ai kể lại tỉ mỉ về mình, cũng như thể người ăn mía mới nhai dập dập đã nhả bã. Sống qua loa đại khái, chưa hút hết nước mía đã vứt bã rồi. Trở lại kỷ niệm của tôi. Tuổi nhỏ, tôi rất thương má. Trong tập hồi ký của Tịnh Hà, nó viết rất cụ thể và rất sâu. Tôi rất thương chị Bốn của tôi. Khi tiếp quản Plây cu (1975) tôi có viết bài thơ “Về thăm chị Bốn”, chị Bốn Nhữ. Chị là con của bà dì, tức là chị má tôi. Bà dì chết để lại chị Ba và chị Bốn. Chị Bốn ở với bà ngoại tôi cùng tôi khi còn nhỏ. Chị rất thương tôi và tôi còn nhớ kỷ niệm sâu sắc, chị chia ngọt xẻ bùi với tôi từng tí một. Tôi nhớ khoảng năm 1939 tôi có đến nhà anh Nguyễn Xuân Khoát ở phố Richaud (phố Quán Sứ bây giờ) hồi đó có trò vui là bói bài tây. Anh Huy Cận chia ra mấy con bài và anh Khoát bói cho Huy Cận. Anh Khoát lại bói chi anh Xuân Diệu thì nói rằng tôi thường được phụ nữ bảo trợ, hay là phò trợ. Thật vậy, mỗi khi tôi gặp một người phụ nữ nào mà tôi muốn nịnh đầm thì tôi nói trước đây anh Khoát có bói bài cho tôi là tôi được phụ nữ bảo trợ. Chị Bốn Nhữ là một người bảo trợ cho tôi khi nhỏ. Tôi thương chị lắm. Khi chị Bốn xuống Qui Nhơn để giúp dì Mười, thì tôi tưởng là chị bỏ tôi mà đi. Chị đã xuống đò rồi thì tôi đứng trên bờ tôi khóc:“Chị Bốn ơi, chị đi lấy chồng, chị bỏ em”. Tôi nghĩ rằng mỗi con người có nhiệm vụ phải đào sâu vào kỷ niệm của mình, vào quá khứ tình cảm của mình để làm giàu thêm cái vốn nhân đạo trong mỗi con cháu chúng ta. Vừa rồi tôi đến nói chuyện thơ ở trường Hoàn Kiếm, chị hiệu phó nói với tôi: “Bây giờ học sinh trường tôi nó không vui và nó cũng không buồn nữa”. Cái đó thật là nguy, cái gì đã làm khô cạn tình cảm của các cháu, tiêu diệt nội tâm, của các cháu? Chính nhà văn kể lại tuổi thơ ấu của mình sẽ làm cho các em thiếu niên có tâm hồn, nuôi dưỡng tình cảm. Tôi nhớ ngày mà tôi ở Văn Quang, nơi thầy tôi làm hương sự, trở về Gò Bồi thăm bà ngoại thì tôi thấy chị Bốn tôi ngồi may áo gối, áo dài. Chị tôi đột (tức là đường may theo tà áo) rất đẹp. Những mảnh vải may áo gối của chị tôi xanh xanh đỏ đỏ, kết những mảnh hàng, mảnh nhiễu... Nó gợi lên một cái gì thật phong phú. Chi may áo gối theo kiểu Nam Trung Bộ, kết những mụn vải rất nhỏ một cách rất công phu và nghệ thuật. Qua đời chị Bốn tôi thấy đời người phụ nữ ngày xưa khổ quá. Trong truyện “Cái hoả lò” (Trong tập “Phấn thông vàng”) tôi có viết là tôi thấy bà tôi lấy cán chổi đót đánh vào chị Bốn. Tôi thấy chị Bốn vừa xoa người vừa nói:“Tội quá, tội quá bà ơi!”. Tôi còn nhớ cùng với chị Bốn có mợ Thông. Tôi có làm bài thơ về mợ Thông nhưng còn dở dang, lại còn có vợ Nhứt, tức là vợ của cậu Nhứt tôi. Mợ chết rồi, chị Bốn ngồi kể lại trong một bầu không khí rất cổ sơ. Tôi còn nhỏ, ngồi nghe không hiểu sao cả, thì hoá ra mợ Nhứt của tôi bị xuất huyết não mà chết. Lúc đó tôi không hiểu được. Mợ không nói được thì chị bảo là mợ á khẩu. Chị Bốn kể rằng mợ Nhứt nằm mệt, trong lúc cậu Nhứt đang ăn cơm với khách. Mợ mới ra bới một bát cơm ăn. Cậu rất thương mợ, nhưng cậu cho như thế là thiếu lễ giáo và là suồng sã vì phụ nữ ngày xưa bị coi khinh cơ mà. Rồi cậu la mợ, từ đó mợ bị nặng thêm, rồi bị á khẩu,
rồi chết. Chị Bốn kể rằng mợ Giáo ở Plây-cu sau này bị chết vì đẻ. Chị Bốn cho biết có lần mợ Giáo đi ra vườn thấy có cây chuối có bắp chuối ở trong, thế rồi cây chuối chết, bắp chưa kịp trổ ra buồng. Mợ Giáo nhìn thấy cây như vậy cho là điềm báo hiệu mợ sắp chết và phải đưa cái thai ra.
Tôi thấy những kỷ niệm như thế là một thế giới rất phong phú, nếu mình kể cho con em mình nghe thì tâm hồn của chúng được giàu thêm. Chúng sẽ căm thù sự lạc hậu, nghèo khổ... Chúng ta chớ làm lòng người khô cạn, coi những tình cảm thường là tình cảm nhỏ. Có những cuộc đời
bình thường mà vĩ đại, nhưng cũng phải nói thêm: bình thường và sâu sắc nữa chứ. Nhắc tới thời thơ ấu của tôi, tôi thấy một lỗ hổng trong sự giáo dục của chúng ta ngày nay. Làm cho người ta giàu tình cảm nhân từ, nhân đạo cũng là một nhiệm vụ lớn của giáo dục chứ. Tôi hơi tiếc là tôi hầu hư không bỏ thì giờ vào việc viết hồi ký để nhớ lại cái thế giới rất phong phú của tuổi nhỏ, vì con người từ 7, 8 tuổi đến 20 tuổi là ở trong thời kỳ phong phú nhất của tình cảm. Tôi nghĩ rằng chúng ta xây dựng con người mới không chỉ xây dựng bằng tư tưởng, mà còn phải xây dựng bằng nội tâm nữa. Chính nội tâm mới đẻ ra tình cảm, mà tình cảm mới làm hậu thuẫn cho tư tưởng.
Hồi nhỏ tôi có may mắn ở với má tôi làm nước mắm ở Gò Bồi. Lớn lên chút nữa tôi lai theo thầy tôi đến làng Văn Quang xa Gò Bồi độ 10, 15 cây số. Hồi đó tôi học lớp tư, tôi sống trong không khí nông thôn. Nông thôn đã làm giàu tôi. Lớn lên tôi đi Qui Nhơn. Ngẫu nhiên mà cuộc đời đã phủ lên tâm hồn tôi từng lớp, từng lớp phù sa khác nhau. Trong một bài thơ tôi có nói về những người chết. Bài thơ đã hoàn thành trước cách mạng tháng Tám nhưng chưa hề đăng báo, ý nói những người chết đáng được ta nhớ đến họ. Ta có thiệt thòi gì đâu mà thỉnh thoảng không nhớ đến họ. Trong bài thơ đó có hai câu:
“Đêm đông trường gió xoay chuyển Gò cao
Và bóng tối làm run cây khủng khiếp”
Hai câu thơ này gợi cái không khí nông thôn ở Văn Quang: Cách nhà tôi không xa có một cái gò người ta chôn nhiều người chết ở đó. Có những cây gai có trái như con mắt mèo mà người ta gọi là cây mắt mèo, tất cả gợi lên một không khí hoang vu...
Trong hai câu thơ trên có sự khủng khiếp của một chú thiếu niên, chưa xa tuổi trẻ con là bao nhiêu, trong đêm ở nông thôn năm mươi năm về trước. Những cảnh ở nông thôn, thiếu niên đã tác động đến tôi. Tôi còn nhớ hồi tôi học lớp ba, từ Văn Quang lên thành Bình Định thi tiểu học yếu lược, phải đi qua một đầm sen. Lúc đó những người đi cùng đi thi tiểu học yếu lược với tôi, có người đã 19, 20, 21 tuổi. Mọi người cùng nhau dừng lại hái lá sen đội lên đầu... Lúc đó sen chưa có hoa. Tôi nhớ mãi cái mùi thơm của lá sen. Nông thôn đó cũng đã giúp cho tôi phát triển giác quan, nhất là khứu giác. Những cảnh xa xa, mờ mờ, buồn buồn, lãng mạn trong thơ văn của tôi là lấy ở nông thôn mà tôi đã sống. Khi tôi xuống Qui Nhơn học, thì tôi ở với chú tôi. Chú tôi làm thư ký nhà đoan. Nhà chú tôi ở là nhà thuê của ông Chín Cưỡng là một nhà giàu ở Qui Nhơn. Hai nhà ở sát nhau, nên chúng tôi được hưởng cái cảnh vườn của ông Chín Cưỡng. Xung quanh vườn có tường khá cao bao bọc. Ông Chín Cưỡng trồng hoa. Trong vườn có một cái giếng xây và một cây ổi. Đã nhiều lần tôi trèo lên cây ổi, thấy một cành xa ngợp. Lúc đó tôi học lớp nhì rồi, nhưng vẫn còn trẻ con, và trèo lên cây là cả một cái xứ mới lạ để mà khám phá. Trẻ con trèo cây là thi vị lắm: một khi nó đã trèo lên, quen hai cành, còn một cành xa kia thì đối với nó như là một xứ sở của phiêu lưu. Ở trước nhà tôi có một nhà gọi là Hội quán của Hoa kiều Triều Châu, bà con bình dân quen gọi lá nhà “Hội phán” (tức là hội quán), trong đó có một cái giếng rất sâu, nước rất trong và rất lành. Cạnh giếng có một cây đa, và sau nhà Hội quán có một cây me rất to. Muốn đi đến cây me phải trèo lên trên bờ thành đôi khi phủ rêu trơn. Tôi thấy một cậu bạn học lớp nhì dưới tôi, nhưng lớn tuổi hơn, một hôm trèo hái me non, về sau tôi cũng bắt chước và từ đó tôi tự đi một mình trèo lên cây me. Trèo lên cây me đối với tôi như “thượng thuý lâu”(***) ([Thơ Đường, bài Khuê oán: Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu - Xuân nhật ngưng trang thượng thuý lâu... ]) ấy. Tôi còn nhớ tôi hái được cả những chùm me chín, về nhà bị thím tôi la rầy. Nhưng một lần thím tôi lại bảo tôi lấy cho thím một ít me chín, và thím tôi đã đem me ngâm muối; mỗi khi nấu canh cá tràu (tức là cá quả) thì lấy vài quả me “do thằng Diệu hái” cho vào nồi canh. Tôi nhắc đến nhà và vườn ông Chín Cưỡng vì tôi đã tiếp xúc
với hoa từ buổi ấy. Hoa ở Trung, Nam Bộ tương đối hiếm hơn ở Bắc. Thế mà hoa thược dược ở vườn ông Chín Cưỡng, trước hết là thượng dược vàng, hoa lại to, cánh to, vì vậy trong bài Lạc quan tôi đã tả như sau:
“Vàng tươi thược dược cánh hơi xoà”
vì cánh to nên mới xoà được, nếu là thược dược bé thì không thể xoà được. Có bồn hoa lài ở cạnh cái giếng nhà ông Chín Cưỡng tạo cho tôi một cái mê ly. Lúc đó tôi khoảng 14, 15 tuổi; đêm trăng cái bồn hoa lài hiện lên như một cảnh kỳ ảo. Người ta đã đào một cái hố để lấy nước giếng ra tưới đều cho hoa lài, mỗi lần tưới có pha thêm nước cống. Vì cái vườn ở sau nhà tôi nên tôi cứ ngắm đi ngắm lại không chán. Có thể nói tôi chung chạ với từng đoá hoa một, và hoa vào trong thơ tôi:
“Vàng tươi thược dược cánh hơi xoà
Ửng rạng phù dung nghiêng mặt hoa”
Trong vườn ông Chín Cưỡng không có phù dung, nhưng về sau đến vùng Thanh Hoá tôi đã thấy cây phù dung rất đẹp vì nó đẹp dần dần. Ban sáng phù dung phơn phớt hồng, hồng nhưng chỉ là trắng, thế rồi càng về trưa nó càng hồng, đến buổi chiều thì nó tím lại, gần như tím tái lại để nó rụng. Cho nên tôi mới nói “ửng rạng phù dung nghiêng mặt hoa”. Hoa ở miền Bắc gọi là hoa
huệ thì ở Bình Định, Qui Nhơn gọi là hoa lan, cho nên trong thơ tôi có câu “Nhánh búp làm cho lan choáng ngợp” là vì cành huệ nó dài, hoa đứng trên một cành dài, tôi thấy nó choáng ngợp về không gian., về sau tôi muốn cho thơ của tôi người cả ba kỳ đều hiểu, tôi đã chữa lại câu thơ thành “Nhánh búp làm cho bông huệ ngợp”. Miền Bắc trồng hoa huệ dễ, chứ trong Nam trong chậu cảnh mà có nhành hoa huệ là quý lắm. Lại có câu “Lòng trinh giữ lại nửa bông trà”. Ở vườn ông Chín Cưỡng không có bông trà, nhưng trước cách mạng tháng Tám, anh Ngô Nhật Quang, bạn cũ của tôi, hồi đó là giám đốc nhà in Xuân Thu có hoa trà, thứ hoa cà chưa thoái hoá. Anh Quang chăm sóc tỉ mỉ chậu hoa trà của anh, và đến khi hoa nở anh mời tôi đến xem hoa, nhờ đó tôi mới có câu “Lòng trinh giữ lại nửa bông trà”. Tôi ở Qui Nhơn khoảng 5 năm trời, từ lúc thành phố còn chưa phát triển, cho nên những kỷ niệm ở đó in sâu vào tâm trí tôi. Sau khi giải phóng miền Nam tôi có bài “Tâm sự với Qui Nhơn” vì tôi nhớ lại tuổi thiếu niên của tôi gắn với thành phố.
“Qui Nhơn nhà cũ cạnh chùa Bà”
Đúng là nhà cũ của thầy tôi ở cạnh chùa Bà. Đêm đến thì thuyền cá mới về, thậm chí đến 9, 10 giờ đêm vẫn có người đi rao cá bán. Những người đi qua nhà tôi nói ghé vào:“Bà tú Thọ có mua cá không?”. Thế là mẹ tôi ra mua cá thu và nhất là cá bánh đường. Con cá bánh đường to bằng cánh tay người lớn, hồi đó chỉ một xu một con vì là loại cá bình dân. Nhưng cá này rán lên chấm với nước mắm ớt tỏi thì ngon tuyệt.
“Lanh lảnh nghe rao cá bánh đường”
Những chi tiết của cuộc sống đậm đà như vậy, tôi cho vào thơ tôi còn ít quá. Những sự việc mới chỉ là cái màng rất mỏng ở ngoài cái sự sống đó mà thôi. Tuy nhiên nếu không có bạn bè nhắc nhở thì tôi đã vứt cái màng đó đi, không phân tích nữa và như vậy sẽ là rất uổng. Hàng ngàn triệu người trên trái đất sống nhưng nói chung họ chỉ mới sống một cách “giai cấp tự tại”, chứ không phải “giai cấp tự giác”. Trong trường hợp đó người ta sống như một tế bào, một đơn vị của sự sống mà thôi. Chính nhờ có văn học nghệ thuật mà con người mới sống lâu, mới sống hết mình. Nhân đây tôi mơ61i thấy tôi nợ nhiều quá, nợ với đời tôi. Tôi chưa khai thác đời tôi, mà nhiệm vụ của tôi là phải khai thác bởi vì tôi chỉ sống có một lần. Tôi sống cho tôi, tôi còn sống cho người khác nữa. Tôi biết rằng có nhiều người khác không có sẵn sàng một công cụ phân tích để phân tích đời của họ.
Tôi kể hơi dài, vì cứ đi sâu vào xúc cảm. Qui Nhơn có một cái lợi thế, là có biển, có vai trò của
biển. Biển Qui Nhơn có dãy núi ở phía Diêu Trì, đi xuống, phía bên kia ở ngoài khơi có cù lao xanh. Lại có núi Phương Mai. Tôi còn nhớ hồi tôi học đệ tứ niên thầy Đoàn Nồng ở Huế vô dạy thì thầy có sáng kiến thuê hai chiếc thuyền dẫn mấy lớp học trò đi sang thăm cảnh núi Phương Mai. Hoàng hôn xuống, chúng tôi vẫn ở trên núi nhìn xuống biển, nhìn về thành phố Qui Nhơn rất đẹp, mãi 9, 10 giờ sau khi tiếp quản Thủ Đô, thầy Đoàn Nồng làm hiệu trưởng trường Bưởi (tức là trường bảo hộ ngày xưa, tức là trường Chu Văn An bây giờ). Thầy Đoàn Nồng có mời tôi đến nói chuyện với học sinh ở trường. Trong khi thầy giới thiệu tôi thì thầy có nhắc đến một điều mà chính tôi cũng quên:“Xuân Diệu có một cái xúc cảm rất là khác, rất là lạ. Có một chiều hoàng hôn xuống, sao bắt đầu mọc, thầy trò đang đi chơi ở núi Phương Mai, thầy có hỏi học sinh tại sao lại mọc đông dần, nó như ẩn như hiện, như thế có thể so sánh với gì nhỉ. Có một người học trò bảo:“Tôi có cảm tưởng như đít nồi rang ấy, vì nồi rang rang xong đít còn nóng, đặt úp xuống thì có những chấm đỏ li ti hiện lên như sao mọc trên trời đầu hôm”. Người học trò ấy là Xuân Diệu, và lúc đó thầy đã bảo “Anh học trò này có một cái năng khiếu lạ”. Nếu tôi viết hồi ký thì tôi còn cảm ơn thầy Trần Cảnh Hảo là thầy đã rất trọng quốc văn cho tôi. Thầy có sáng kiến là đáng lẽ đến giờ đọc thuộc lòng thì giao cho cả lớp làm một bài văn cho nhanh với những đầu đề thầy nghĩ ra tại trận. Chẳng hạn thầy bảo hãy làm một bài thơ mừng thầy giáo cũ lên tuổi thọ, hoặc làm một bài thơ “Đêm khuya một sách một đèn”. Đầu đề nên thơ biết bao. Tôi làm bài đó bằng thơ lục bát, bài kết thúc rồi mà vẫn còn hứng. Tôi làm luôn một bài Từ khúc điệu “nhất tiên mai”. Năm 1934 có trận bão làm nhiều người chết thì thầy Hảo lại ra đầu đề làm bài văn tế dân bị lụt ở Nam Trung Bộ. Về đầu đề này ông Thi Hán tức là cụ Phan Bội Châu có làm một bài. Thầy Hảo lại giao cho lớp đệ tứ đầu đề làm một bài phú “Ăn nên vóc, học nên hay”. Lúc đó tôi học đệ tam, nhưng tôi gà cho anh Phan Chi Khánh làm bài phú ấy. Về bài văn tế nạn dân bị lụt tôi còn nhớ đôi câu đối trong thân bài:
“Lòng xót thương mong đợi ba kỳ
Đã đành phận ủi an cùng chín suối”.
Về sau thầy Hảo có viết một bài tiểu luận, nghiên cứu về cái giá trị mà thầy gọi là các cái khuôn, tức là các khuôn âm thanh của tiếng Việt, như: ong, uông, ang, v. v... Tôi tiếc là không có bài đó trong tài liệu nghiên cứu của tôi, nếu có chắc là tôi sẽ rút được nhiều cái hay trong đó. Tôi cũng rất nhớ thầy Hoàng (thầy Hoàng về sau chết vì bệnh thương hàn), thầy Hoàng đã đọc thơ Musset cho cả lớp nghe và đặc biệt là thầy đọc và diễn giải bài “Đêm tháng 5”, đoạn con chim bồ nông mổ tim của nó ra cho bày con nó ăn. Những bài diễn giảng như thế tác động mạnh vào tâm trí tôi. Qui Nhơn có biển, nhìn rộng ra chân trời, nhưng dưới thời Pháp thuộc nó lại bị bưng bít. Hồi đó chưa lâu tôi hầu như chưa biết gì về các danh nhân Bình Định. Cũng chỉ nghe nói đến cụ Thượng Đào, cụ Đào Tấn, chứ không biết gì về tuồng. Tôi không hề biết đến những văn tài của đất Bình Định, không biết Bình Định là một tỉnh có truyền thống văn hoá phong phú. Ở tại Bình Định tôi đã dự đám xô giàn và từ đó tôi đã biết tìm đọc “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du.
Song song với ảnh hưởng của văn chương là ảnh hưởng âm nhạc đối với tôi. Ca cải lương đã tăng chất trữ tình cho thơ tôi. Nó giúp cho chủ nghĩa lãng mạn ở trong thơ tôi được phát triển, được mạnh. Xét cho kỹ chủ nghĩa lãng mạn đã vào trong âm nhạc (trong ca cải lương) trước khi xâm nhập vào văn chương. Do đòi hỏi của cả một xã hội, ca nhạc hồi đó không thể tự bằng lòng với các điệu ca ngoài Bắc, hay các điệu ca Huế nữa. Nhạc lúc đó, đặc biệt ở Nam Bộ đòi một cái gì hợp với chủ nghĩa lãng mạn là điệu rung cảm của giai cấp tư sản và nhất là của tiểu tư sản thành thị. Luồng nhạc mới ấy không phải là của nông dân, hay của hương lý nữa. Luồng cảm xúc mới đi vào âm nhạc, và đó là sự phôi thai, sự nảy nở dần dần của hát cải lương. Chẳng hạn cũng là điệu Hành vân nhưng hành vân trong ca Huế có tích cách chững chạc, đĩnh đạc. Khi chuyển sang hành vân Nam kỳ thì nó tăng chất trữ tình. Thế rồi những điệu lý con sáo, lý sang sông, lý ngựa ô là vốn ở Huế nhưng vào tay các thầy đờn Nam kỳ (ở đất Vĩnh Chi, đất chợ Giữa, ở đất Mỹ Tho màngười ta gọi đùa là Hôluýt của Nam Bộ) thì các điệu hát ấy mượt mà hơn, óng ả hơn, và chứa đựng nhiều chất trữ tình nảy sinh cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Quá trình ấy của âm nhạc rất điển hình, rất đáng được chúng ta trân trọng nghiên cứu...
Ở Mỹ Tho có rạp hát của thầy Năm Tú, khi tôi làm tham tá nhà đoan ở Mỹ Tho thì rạp hát của
thầy Năm Tú vẫn còn; những đĩa hát đầu tiên tôi được nghe hồi còn nhỏ là những đĩa ghi các bài hát của ban hát của thầy Năm Tú. Mở đầu đĩa hát có ghi câu “Đây là ban hát của thầy Năm Tú ở Mỹ Tho hát vài câu phô-nô nghe chơi”.
Ở rạp hát này đã sản sinh ra cô Năm Phỉ, cô Phùng Há, sau nảy là cô Bảy Nam, em cô Năm Phỉ, rồi cô Mười Chuyển, đều ở Mỹ Tho. Từ năm 1932, cải lương từ Nam Kỳ đi ra Trung kỳ và Bắc kỳ. Có người ở Qui Nhơn cũng lập gánh hát cải lương. Khi tôi ở Gò Bồi có một cái chợ nhỏ, chợ nông thôn. Khi gánh hát cải lương ở Qui Nhơn lên, nó đem đến không khí thành thị, một không khí phóng khoáng, và dường như nó đem đến một cái gì văn minh, một sức phát triển mới. Vì tôi nghĩ trong chủ nghĩa lãng mạn có một sức phát triển. Một đứa trẻ con đến tuổi dậy thì là có chủ nghĩa lãng mạn trong nó. Thuở ấy tôi mê hát cải lương. Khi tôi mới 13 tuổi, gánh hát của thầy Năm Của ở Qui Nhơn lên; hồi ấy theo lối phong kiến còn gọi là kép hát, đào hát (thậm chí kép còn gọi là thằng, đào là con). Anh kép là anh Sọ, mà cô đào là cô Thoả. Anh Sọ, cô Thoả là những người đào kép có tài lúc đó, họ hát những điệu hành vân, vọng cổ hay lắm (lúc đó vọng cổ mới có 4 nhịp thôi). Các điệu hát ấy truyền đến trường thầy tôi cách chợ có một cây số rưỡi. Thế rồi tôi nhớ điệu hát đầu tiên, nó rất trữ tình. Về sau này chị Ái Liên cũng học lại điệu hát từ lúc nó mới phôi thai là:“Vào ong ra bướm, xin đừng phụ nghĩa tào khang; Vào ra đứng trông tin bạn, ngày mỏi mòn như đá vọng phu. Tôi cũng tập hát bài “Vọng cổ hoài lang”. Khi tôi về Qui Nhơn có một cậu học sinh tên là Đức (mà ở nhà gôi là thằng chó). Đức xấu người, nhưng rất có duyên, kế thừa được cái duyên của mẹ là bà Thủ Thính. Bà Thính có một trại nước mắm như bà ngoại tôi. Thường các ghe bầu ở trong Phan Thiết ra muốn bán mắm phải nhờ người ngồi bán. Bà Thủ Thính được nhiều ghe bầu nhờ chuyên bán mắm, vì bà rất có duyên, và cửa hàng mắm của bà rất đắt khách. Sự ăn nói linh hoạt của bà truyền sang cho anh Đức và anh Đức trở thành hát cải lương rất hay. Thế là anh Đức được anh kép Sọ dạy cho bài “Tứ đại oán”. Tôi cũng học thuộc lòng bài ấy, vì nó rất trữ tình. Có thể nói một phần tính lãng mạn trong thơ tôi đã rút từ hồn của cải lương. Lúc đó cái cá nhân (individu) mới nhú ra. Nó mang cái phấn chấn, cái hào hứng phát triển, đồng thời nó cũng mang cái u sầu. Nó cũng mang nỗi mê ly, đây là nỗi mê ly của chủ nghĩa lãng mạn. Vấn đề là mình làm sao lái sự mê ly đó về phía tích cực. Nếu như thanh niên không có tâm hồn lãng mạn thì lấy ai mà đi bộ đội. Chính họ lãng mạn theo một nghĩa nào đó thì họ mới chịu hy sinh. Nếu nàng Kiều không lãng mạn thì nàng Kiều mặc kệ chuyện gia đình chứ không chịu bán mình cuộc cha. Trước khi cải lương ra đời, trong những bài ca Huế cũng đã đề cập đề tài nhớ người yêu. Chẳng hạn trong điệu Nam bình có câu “Gối loan trằn trọc năm canh, mối dầu đoanh”. Còn trong ca cải lương thì cũng diễn tả tình cảm cá nhân (individu), nhưng nó réo rắt hơn, vì nó có cái buồn mô-đéc. Nếu như anh Trần Văn Khê mà nói về những điệu hát cải lương, nhất là những điệu gốc lúc nó mới phôi thai thì anh sẽ giúp ta hiểu sâu thêm giá trị luồng nhạc dân tộc này. Riêng đối với tôi, luồng nhạc cải lương đã làm phong phú thêm cái hồn lãng mạn trong thơ tôi. Rồi tôi thuộc những điệu “trường tương tư”, “khóc hoàng thiên”, điệu “xằng xê”, điệu “xằng sừ líu”. Bài hát để lại ấn tượng sâu nhất trong tôi là bài “Tứ đại oán”. Nhân nói đến âm nhạc, trong quyển Bút ký văn xuôi mà Liên Xô in xuất bản tại An-ma A-ta người ta có chú thích rằng “Thơ Xuân Diệu rất nhiều âm sắc”. Khi tôi học ở trường trung học Qui Nhơn, tôi gần thành một anh đào hát của toàn trường. Bọn bạn học khi nào đói âm nhạc cứ gọi Xuân Diệu đến hát, và tôi hát cả cải lương, cả ca Huế, ngâm sa mạc và hát cả những bài hát Tây nữa. Tôi khám phá ra rằng có một mảng lãng mạn rất phong phú và rất phức tạp là lãng mạn trong ca Huế, nhất là trong các điệu có nguồn gốc Chiêm Thành. Chính bài thơ “Nguyệt cầm” tôi đã viết được là nhờ tôi yêu ca Huế và hiểu được cái hồn của ca Huế. Hơi thơ réo rắt như xé lòng là tôi lấy ở hơi ca vọng cổ, ở điệu trường tương tư, chứ không phải ở ca Huế như mấy câu của bài “Dối trá”.
Nói chi vậy tiếng buồn ghê gớm ấy
Để lòng tôisung sướng muốn tiêu tan
Tất cả tôi run rẩy tựa cây đàn
Nghe thỏ thẻ chính điều tôi giấu kỹ.
Còn những bài như “Buồn trăng” và “Nguyệt cầm” là tôi lấy cái đọng lại của một thứ lãng mạn “cao cấp”. Nó là giai đoạn tích luỹ, đọng lại, như đám mây đọng lại trước cơn mưa. Nhạc Nam ai
Nam bình là mây tụ lại, mà nhạc cải lương là mưa xuống rồi. Đến lúc ra Huế, sống giữa cảnh sông nước, và như có cả ánh trăng. Tôi thấy nhạc Huế có cái gì mê ly, lạ lùng lắm. Tôi thấy một số nhà thơ trẻ của ta, có thể là rất mới nhưng ít biết vốn của cha ông, nên khi học tập Mai-a cốp-xki thì phần lớn là học cái phần diễn thuyết, cái khía cạnh diễn thuyết của Mai-a (mà học cũng chưa đến nơi) chứ chưa học sâu tinh thần cốt lõi của thơ Mai-a. Tôi bảo đảm rằng cái mê ly trong tâm hồn con người mà ta nắm được cái tinh chất và diễn tả nó thì còn tiếp tục làm mê ly thế hệ này đến thế hệ khác. Tôi cũng rất mê điệu sa mạc. Hồi ở Qui Nhơn, chưa được ra Bắc bao giờ, tôi đã mê ngâm sa mạc. Mà những người dân ở Trung kỳ và Nam kỳ đều mê điệu sa mạc đến nỗi anh Năm Châu lên sân khấu cải lương cũng ngâm sa mạc cơ mà. Khi tôi nghe một đĩa hát nào có thoảng vài câu sa mạc là người tôi như mê, như lịm đi...
Xuân Diệu kể (2)
Những trang hồi ký tiếp theo đây nói về tuổi nhỏ Xuân Diệu, vẫn ghi theo lời anh Diệu kể vài lần cho em là Tịnh Hà và mấy người bạn nghe. Anh Tịnh Hà (tức là Ngô Xuân Sanh, em ruột anh Xuân Diệu) đã ghi chép những trang này, phục hiện tốt lời anh Diệu kể. Tôi có viết lại cho gọn lời văn và mạch lạc
(Huy Cận)
=K=
Khách thương hồ, vai xách nách mang khi đến bến đò trước chùa Bà (Qui Nhơn) rất gần nhà cha tôi, thì được các ông lái đầu quấn khăn bông trắng, mặt đỏ gay vì men rượu, đon đả chào mời:
- Quới (quý) ngài lên Vạn Gò Bồi phải không? Nếu đúng là khách đi Vạn Gò Bồi, xin mời xuống đò nằm và đi ngay. Nếu chậm trễ giây lát là do chờ hàng và đợi khách cho đủ chuyến. Tôi và anh Huy Cận cũng có lần đi chuyến đò đêm này về thăm quê ngoại tôi. Bà ngoại tôi, lúc bấy giờ đã gần bảy mươi tuổi, mắt đã mờ, nghe nói ông kỹ sư Huy Cận về thăm rất mừng và tự hào vì mình đã có một đứa cháu làm Tham tá nhà đoan Mỹ Tho, lại thêm một ông kỹ sư trẻ là bạn thân quý củacháu, vui quá!
Con trai ngoại tôi là cậu Thông; cậu Thông tôi là thầy phán sở Lục lộ, sau này chuyển làm quản đốc công trường Đồng Cam Tuy Hoà mà làng xã hết sức kính trọng, nể vì, bởi bà tôi có một người con trai khi về thăm nhà mặc âu phục tề chỉnh đường bệ với danh hiệu ông Thất (hàm Thất phẩm do mua bằng tiền), nên bà tôi rất hài lòng về cậu xếp Thông của tôi. Anh Huy Cận ở chơi nhà bà ngoại tôi chừng ba ngày; ngoại dặn má tôi là phải cơm nước tử tế, mua cá tôm tươi và nem chả để đãi khách.
Vạn, có nghĩa là làng đánh cá. Nhưng Vạn Gò Bồi không đánh cá nữa, mà nghề chính là làm nước mắm, ngoại tôi để đã mười tám năm, hương vị thơm ngon, nếm thử, cứ muốn nếm hoài, như ta nếm rượu.
Nghề đánh cá đã chuyển về làng Tân Giảng, phía dưới đường đá Gò Bồi, qua một luỹ tre xanh, ghe thuyền đi đánh cá về xếp hàng dài, trù phú, đông vui...
Ở Tân Giảng có một lăng thờ cá ông hàng năm đến tháng 5 âm lịch, có gió lớn, hội hè hát bội và vui chơi đủ trò...
Ở Vạn Gò Bồi lúc bấy giờ, những năm 30, tôi bắt đầu lớn khôn đã thấy những chiếc ghe bầu to lớn từ xa đến cất nước mắm... hoặc trao đổi các đặc sản địa phương cho các chủ vựa, như lu, khạp, mật ong, chiếu bông của Quảng Nam, đường phổi, đường thẻ nổi tiếng của Quảng Ngãi hoặc lãnh, lụa Ngân Sơn của Phú Yên, v. v...
Những chiếc ghe bầu có treo võng, tủ đứng và trai bạn mỗi ghe có vài chục người. Muốn lên bờ Vạn và xuống ghe, chủ ghe bắc một cây cầu gỗ chắc chắn.
Ngày tuổi nhỏ, tôi theo má tôi xuống ghe lấy tiền nước mắm cho ngoại tôi, có ông thầy Năm,
người Quảng Nam, cho tôi một phong bánh in rất ngon. Ông cầm chiếc quạt giấy phất phơ, giữa khoảng không, rồi mở nút áo cho mát và hỏi tôi:“Tại sao phải bận áo vạt hò?” (áo vạt hò là loại áo của người xưa thường mặc, gài nút từ bên trái, cổ đứng) và ông tự trả lời luôn: Mặc áo vạt hò để che ngực và che bụng đề phòng gió máy lúc đêm hôm, và rất ấm trong tiết đông hàn. Cháu về thưa má may cho cháu áo kiểu này.
Ngày giỗ từ đường, tôi về ăn giỗ với em trai tôi tại nhà bác Nghè Sáu, bác gái níu tôi vào lòng vừa cười vừa xoa đầu, vừa nói giọng ngọng trẻ em: chầm chờ (cầm cờ) cheo èn (treo đèn) i âu ông quá (đi đâu đông quá).
Bác nói là hồi 2, ba tuổi, tôi tròn như cục bột, mập mạp dễ thương, ai thấy cũng muốn ẵm hôn, nựng nịu. Ngày lễ Kỳ Yên của làng, các hộ ghe chài kết hợp đèn hoa, cúng tế rất long trọng, cầu mong mưa thuận gió hoà, thuận buồm xuôi gió, làm ăn phát đạt.
Bác nghè Sáu gái bỏ thêm một miếng trầu vào miệng, nhai dập dập rồi nói tiếp: - Cháu hồi nhỏ đẻ trong bọc điều, giờ thìn, năm thìn (Bính Thìn) chắc chắc sau này lớn lên cháu sẽ gặp nhiều may mắn, như chức phận cao sang, giàu có...
Theo bà ngoại tôi nói lại thì Vạn Gò Bồi xây dựng từ “những năm đồng bào” (tức là những năm có phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1907-1907), là lúc xuất hiện lần đầu tiên hai tiếng “đồng bào”).
“Đồng bào”, cũng theo ngoại tôi, lànhững năm đồng bào chống đạo Thiên chúa của ngoại bang đem lại.
Còn ông Cửu Cần, cha anh Viên, có họ hàng gần với ông ngoại tôi, trên 60 tuổi, cho biết những tảng đá núi to nặng lát đường hiện giờ là do một nhóm người khoa bảng chống thực dân Pháp mang về lát trong đó có các bô lão và dân tráng địa phương.
Hồi đó, con sông làng Tùng Giản ngày hai lần lên xuống theo nước thuỷ triều, ghe xuồng vào tuốt trong chợ đình, nhà cửa bằng tre lá đơn sơ nằm trên một cù lao, bao quanh là nước xà hai (1) dái cát bồi lên thành gò cho nên người ta gọi là Gò Bồi.
Đá tảng lấy từ hai dãy núi Kỳ Sơn và Phụng Sơn thuộc phủ Tuy Phước, rồi người ta cho xe bò kéo lần về bến sông Tùng Giản.
Con đường được lát đá, ngăn nước, rộng 7 thước, dài 800 thước, chạy từ đầu Vạn đến cuối Vạn Gò Bồi làng Tùng Giản là do công sức của nhân dân lao động ta xây nên.
Còn anh Viên, ngườo đã từng bị tù tội thời đế quốc phong kiến, thêm:
- Roi vọt dữ lắm. Chú biết không, đừng nói hồi phong kiến xưa, đến bây giờ lệ làng vẫn giữ, là khi có đi xâu, có việc gì nặng nhọc cần sức người, bọn hương dịch cầm hèo, cầm roi mây... Đi lùa dân nghèo khố rách áo ôm đến phục dịch. Còn con đường lát đá mà chúng ta thường qua lại hiện giờ, nỗi ức hiếp và bất công đầy rẫy...
Vạn Gò Bồi lúc bấy giờ có lầu Bà Huỳnh cao nhất, chứng tỏ sự giàu sang no ấm, đầy đủ. Người nghiện thuốc lá chỉ biết có thuốc Quản Chẹt. Tôi đã từng đi mua thuốc lá Quản Chẹt cho ngoại tôi, xỉa thuốc ăn trầu. Tôi thấy quán thuốc ở trong một đường hẻm sâu, tối đen hun hút, bề ngang độ một thước tây, hai người qua lại phải nghiêng vai tránh nhau mới lọt qua được. Bên trong quán thuốc lá từng xấp bề bộn, chồng lên với bàn xắt, với chảo gang thuốc, với mùi thuốc gắt nồng nặc, và người chủ quán là một ông già thâm nmho gầy ốm, râu tóc bạc phơ, suốt ngày chỉ ngồi đọc sách.
Và ông Lư, ông Thi, hai ông này sống bằng nghề vớt rong và câu cá chốt, nghèo túng nhưng lương thiện, chữ nghĩa khá, chẳng hiểu tại sao mà khổ vậy! Hai ông không có nhà, không có một thước đất cắm dùi, bao nhiêu năm rồi ngủ trong lều chợ Gò Bồi, và điếm canh làng Tùng Giản...
Mấy buổi trưa hè oi ả, anh Huy Cận và tôi ra ngồi dưới gốc cây vú sữa, trước sân nhà bà ngoại. Bên cạnh cây vú sữa, là một hàng đu đủ non xanh. Anh Huy Cận có lần viết thư cho tôi lúc tôi ở Mỹ Tho: Cận nhờ Gò Bồi, nhớ cây vú sữa nhà bà ngoại, trưa hè ngồi trên bệ gạch trước nhà, nhìn đu đủ rụng thì tuyệt...
Mấy buổi chiều, khi hoàng hôn xuống, tôi và anh Huy Cận đi ra phía sau Vạn Gò Bồi, nơi đó bắt đầu làng Lạc Điền, xa xa về hướng biển, có những đụn cát vàng thoai thoải chạm mây xanh, và ruộng đồng bát ngát.
Lúc về, đi ngang qua nhà ông Thủ Thính, một vựa nước mắm lớn nhứt Gò Bồi, cậu Đức con trai ông lúc đó 15 tuổi có học trường Qui Nhơn, thấy tôi và anh Huy Cận thì chạy ra chào, mời vào
chơi. Hai tôi dừng lại một lát, và tôi bỗng cười nhẹ, vì nhớ có bận vào nhà ông Thủ Thính, thùng để khít sát nhhau chỉ chừa lối đi cho một người múc nước mắm hay khiêng mắm xác, vây quanh có một mùi hôi thum thủm, dù tôi đã bước vào nhà trong, sát nhà tiếp khách và nhà thờ...
Mới vào mùi mắm rất khó chịu, nhưng ngồi một lát nghe ông Thủ Thính hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi, và sự học hành tiến tới của tôi, tôi quên đi cái mùi mắm... nước mắm... và lúc giã từ, cứ muốn dừng lại để ngửi cái mùi thân quen đó...
Cậu Đức lúc chưa xuống học trường Qui Nhơn, còn học với thầy tôi ở trường Tùng Giản, đã bị bạn bè chế nhạo:“Đức mắm xác”, vì từ quần áo, sách vở đều ngửi thấy mùi mắm xác thật, như một chiếc khăn lược nước mắm, khi giặt sạch rồi, vẫn còn mùi thum thủm... Tôi cảm ơn Đức, gửi lời thăm bà má Đức, rồi tần ngần nhìn qua bên kia Kim Trì, bến đò làng Kim Trì có một cây đa sống lâu có lẽ trên trăm tuổi thọ, đã gợi ý thơ cho tôi:
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm cây đa quấn quýt cả mình xuân
Không ai muốn đi ra ở mãi vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dưới đất...
Mặt tiền Vạn Gò Bồi ngó ra ông ghe thuyền, san sát, nhà ngói chằng chịt cao thấp không đều. Ông Xã T. giàu và uy quyền nhất làng Tùng Giản. Ông ngang nhiên xổ đề giữa ban ngày ban mặt, con đề để trong nhà, biên đề cũng tại nhà ông, đến chiều ông cho đàn em biết đề xổ con gì đó, loan báo ai trúng tới lãnh tiền, rõ ràng là tay bạc bịp. Vậy mà người có máu mê vẫn chơi đề và cháy túi.
Thầy nghề Bốn có hiệu thuốc Bắc rất đông khách, ông quen thân với thầy tôi là ông Tú Thọ, lâu lâu gặp mặt, hai người bàn chuyện thời thế và ngâm vịnh suốt buổi.
Nghe nói quan trên ra lệnh cho lý hương làng Tùng Giản theo dõi ông, vì trước kia ông có chân trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
Mỗi khi đi ngang qua nhà ông, tôi liếc nhìn thấy ông đăm chiêu... khăn áo chỉnh tề, hai tay chắp phía sau lưng, giấu trong vạt áo dài, thơ thẩn qua lại trong nhà. Thảng hoặc bắt gặp ông nhìn tôi, thì tôi vòng tay cúi đầu kính cẩn chào.
Làng Tùng Giản, Vạn Gò Bồi của tôi có trường hát cải lươngl, hát bội, có nhà chứa... Ôi! Cái phố chợ bề ngoài đông đảo, náo nhiệt, nhưng bên trong những gia đình, cuộc đời mỗi người có những gay cấn đau khổ mà chắc chắn tuổi nhỏ tôi nào có thông hiểu được! Và những tiệm buôn tàu bán thuốc phiện, bán rượu Công ty môn bài, bán bài tây, bài tứ sắc... những thứ dùng để tiêu sầu nguy hiểm, đã mang vào sẽ làm mất phẩm cách con người! Rồi nhà bà Ôn, túp lều rách tả tơi, bán bánh canh ngọt, mỗi khi gió thổi mạnh thì những tấm tranh che tạm bợ trên mái nhà tung lên như muốn bay.
Vạn Gò Bồi, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi là như vậy. Song mỗi lần xuống nằm thuyền nhớ Gò Bồi không nguôi.
Anh Huy Cận bạn tôi hẳn chắc là có nhiều ý nghĩ về Gò Bồi. Hôm ra đi, ngoại tôi sờ soạng tiễn hai tôi ra bến. Má tôi theo sau, sụt sịt khóc và má dặn, kèm theo một gói khô mực: - Hai anh em cầm theo ăn chung với nhau...
Chú thích:
(1) Nước lờ lợ, nửa mặn, nửa ngọt
=L=
Lụt hồ thuỷ
Từ bờ sông nước trong xanh như mặt hồ, nhẹ nhàng bò vào sân và dừng lại ngang tam cấp gạch.
Bà ngoại tôi đã già, tóc bạc như bông gòn vừa nở trắng ló ra ngoài chiếc khăn choàng hầu nhiễu phủ kín tai màu huyết dụ. Bà vén tà áo dài lụa màu đen cho khỏi vướng, co chân ngồi lên ghế, bỗng nhiên giọng bà sang sảng:
- Bầy trẻ ra dọn tiếp đồ gấp! Kê ván rồi thì ba bốn đứa hè nhau lên các bục gỗ... nước ào vô rồi... Nước tràn nhanh vô nhà, đã cao gần thước tây, lách tách vỗ vào vách mang theo những lá khô, rắc rều và củi mục. Chị Bốn Nhữ, thầy má tôi và cậu Nhứt, quần áo xắn gọn, lội bì bõm trong nhà.
Cậu Nhứt đẩy một chiếc thúng chai dùng làm xuồng, nước đã lên ngang bụng, cậu khó nhọc đặt lên chiếc phản rộng, đầy hơn tấc - nơi tôi ngồi co rúm vừa vui vừa ợ nước lụt - mấy cái sóng chén, vài chiếc hoả lò và nồi niêu đầy ắp cơm cùng thức ăn đã nấu sẵn.
Chị Bốn Nhữ cõng tôi từ phản sang mấy cà tăng lúa gần đó, và dặn:
- Ngồi đây chơi, để chỗ phản cho chị dọn cơm cho bà ăn. Không được lội nước. Nó trôi ra biển chết luôn đó nghe. Lát nữa, chị đem cơm cho mà ăn.
Ngồi đây là chỗ mấy cà tăng lúa kê trên chiếc sạp đất cao nện kỹ đã mấy đời, tôi nhìn rõ thấy má tôi và cậu Nhứt lúi húi múc nước mắm từ thùng con chuyển sang thùng mẹ. Má tôi quần vén lên quá gối, áo dài đen quấn quanh lưng rất gọn, trán lấm tấm mồ hôi, còn cậu Nhứt tôi thì mặc quần xà lỏn, đánh trần, đầu quấn một chiếc khăn bông trắng nhớp nhúa, bự như khăn của mấy ông lái ghe bàu ngoài Vạn Gò Bồi.
Những ngày không lụt lội, nắng ấm, cậu Nhứt không mấy khi ở nhà, cậu đi chơi quanh làng. Tôi thấy cậu mặc áo vải quyến (chúc bâu) trắng, cổ đứng, tà áo hơi dài gần chấm gối, xẻ nách cao không may túi, giặt ủi hồ lơ sang trọng như mấy ông giáo làng, quần lãnh bưởi màu đen, loại hàng đắt tiền và một sợi dây lưng lụa, màu xanh lục lòng thòng quá đầu gối, mỗi khi cậu bước, hai múi dây lưng màu phất phơ trông rất đẹp, như kép hát bội trên sân khấu tuồng... Cậu chải tóc vuốt, không đường rẽ, và trên đầu gần ót cài một chiếc lược nhôm sáng loáng, khiến chiếc trán dô, cao; cao thăm thẳm... Cậu không làm gì, chỉ đi chơi đánh bài kiệu, rồi về nằm ngủ trên chiếc tràng kỷ gỗ lim chạm xà cừ trước bàn thờ ông ngoại tôi, lơ mơ ngâm những bài thơ trong các tạp chí Nam Phong, Hữu Thanh... Khi trời nóng bức, cậu vén quần lên đến bẹn và hát theo giọng trọ trẹ Huế, một khúc hát Nam ai xưa cũ mà lúc đó, còn nhỏ tôi chưa hiểu gì, nghe buồn thảm đến nẫu ruột:
“Nước non ngàn dặm ra đi! Mối tình chi! Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly.”. Tôi rất sợ cậu tuy cậu không bao giờ đánh tôi. Thỉnh thoảng cậu đi chơi về còn mang nửa chai rượu “sông nguội” - như nước ngọt giải khát bây giờ, nhưng thơm ngon hơn nhiều - và gõ lên đầu trọc của tôi một cái cốp - nghiêm nghị bảo: Uống!
Rồi bây giờ lũ lụt, tôi thấy cậu đánh trần chèo thúng đem cơm cho tôi, tôi vừa sợ vừa thương cậu.
Chiều sụp xuống rất nhanh. Bà ngoại lẩm bẩm một mình chậm chạp đưa chén trà tàu “con nai” lên miệng, hương thơm nhẹ toả khắp nhà. Bà ngoảnh ra sau nhà nói:
- Con Bốn Nhữ nhớ hong cho khô cái áo đen tao giặt hồi sáng, đem lên cho thằng Bàng (1) nó bận kẻo lạnh. “Ổng” ngủ lạnh đêm nay tội nghiệp.
Xẩm tối, ngọn đèn dầu phộng le lói trên giường ngủ của bà ngoại. Cả nhà chuẩn bị bữa cơm chiều...
Hồi trưa cậu Nhứt, bây giờ đến lượt chị Bốn Nhữ chèo thúng đến vựa lúa, dịu dàng bảo tôi: - Cơm đây em. Áo đây em - Và má... cho em một cái bánh xèo ngọt.
Bữa cơm ngon lắm. Mực ống muối chiên dầu phộng. Và cái bánh xèo ngọt, thơm như bánh thuẩn của bà Huỳnh bán ngoài phố chợ.
Cơm xong rồi, trời tối mịt. Tôi trải áo ra, nằm cạnh hai bồ lúa cao to như hai trái núi đất. Tôi nghe những hồi mõ thúc giục, ồn ã... Ông Tịch mõ làng mới xẩm tối đã dõng dạc nổi lên ba hồi mõ để căn dặn bà con đề phòng lụt lớn...
Tôi bỗng nhớ thằng Mo con ông, và thương nó vì chiều chiều lúc tan chợ tôi thường bắt gặp nó cùng em trai tôi mò vào chợ lượm cá tôm rơi rớt, đem về nướng ăn. Tôi cũng đã có lần tranh với em tôi một con tôm nướng.
Tôi quay mặt áp sát vào chiếc bánh xèo ngọt mà má tôi cho, khóc sướt mướt, và linh cảm rằng.
Cuộc đời thằng em trai tôi sau này sẽ ra thân gió bụi...
Cậu Nhứt ngồi trong thúng chai, lờ mờ một ánh đèn hoa kỳ từ ngoài sân chèo vào nhà, lễ phép thưa với bà tôi:
- Thưa mẹ, trời vẫn không mưa hột nào. Theo bác mõ Tịch, thì có lẽ nước đứng cho tới canh ba giờ Tý, rồi rút...
Chú thích:
(1) Tên của Xuân Diệu hồi nhỏ
Giấc ngủ
Cơm nước xong, ngọn đèn hột vịt leo lét ở gian nhà ngoài, gió vù vù từ bụi tre trước nhà vọng lại, mùa đông đã đến.
Hai anh em tôi ngồi học bài trên chiếc bàn ăn cơm đã được lau chùi sạch sẽ. Em tôi co rúm người lại, vừa run, vừa đọc: Quy dit (thằng Qui nói) “C’est un livre” (Cái này là quyển sách). Đọc được vài lần, nó bỗng ngủ gục, rồi nằm lăn ra chiếc ghế dài ngồi học, ngủ khì. Tôi thương em nên đi lấy chiếc chiếu dài đắp cho nó. Tôi làm bài xong, vác chiếc ghế dài bên này bàn ghép lại. Một chỗ ngủ êm ấm cho hai anh em. Tôi ôm nó cho đỡ lạnh và kéo chiếu đắp chung. Gió càng dữ dội. Bờ tre trước nhà kêu lắc cắc...
Một lát thì tôi cũng ngủ vùi với em, không biết gì hơn nữa. Hơi ấm của hai đứa nhỏ truyền cho nhau... gần sáng, nó bỗng la ú ớ:
- Anh ơi, anh đừng đi xuống Qui Nhơn nghe anh. Ở nhà chơi với em, dạy em học. Em có đồng xu cột trong giây lưng rút đây nè. Rồi em mua chuối nấu ở quán chị Hai ngò cho anh ăn... Và rồi tôi cũng mộng thấy mình đang nằm trong ghe xuống Qui Nhơn học. Tôi đi đò trưa. Thằng em chạy bộ theo. Ghe căng buồm chạy xuôi dòng. Còn nó thì đuổi theo ghe. Trên bờ, nó vừa la, vừa khóc:
- Anh cho em theo với! Mấy ông đò ơi, làm ơn làm phước trả anh tôi lại cho tôi. Tội lắm mấy ông ơi!
Tôi cảm thấy nỗi khổ của em tôi, nó còn nhỏ mà đã xa má, xa anh, nó bơ vơ côi cút giữa cảnh đời - mà gia đình này (thầy mẹ tôi) không phải của nó... Tôi tỉnh dậy, trở mình, không ngủ được. Tôi lau nước mắt, nghĩ thầm:
- Anh phải đi học em ơi, để sau này lớn lên, nuôi má, nuôi em...
Đám tang chú Cự
Khi thảo xong, tôi lẩm nhầm đọc lại:
Cự Gravement malade prêter ông Hảo dix piastres venir immédiatement(1). Thầy tôi hối đi ngay vì chuyện rất gấp. Tôi cầm nón chụp lên đầu, cái nón nỉ màu da cam đã bèo nhèo, khiến tôi quay đầu sửa lại cho ngay ngắn. Phía sau nhà, anh Hai Bảnh, một người theo đạo Giòng, tay đang cầm một cuốn kinh đạo Thiên Chúa, cúi sát đầu giường chứ Cự nằm, ê a đọc to từng chữ một:
-... Maria, xin mẹ đứng cứu cho Phao lồ, Phao lồ là kẻ có tội lỗi, xin mẹ lòng lành tha tội cho Phao Lồ. Xin Phêrô cầm chìa khoá mở cửa thiên đàng cho Phao lồ đặng vào... Tôi đứng thừ người: Quái! Chú Cự đi đạo hồi nào?
Chú Cự có họ với nhà tôi. Ban đầu gặp chú ở Qui Nhơn (lúc đó tôi đã học lớp nhì lớn), chú chỉ là một thằng nhỏ đen đủi, đầu trọc, chân gầy, cao lỏng khỏng., mình mặc một bộ đồi màu nâu đã cũ, áo cụt tới rốn... nụ cười rất dễ thương. Chú về Gò Bồi ở với thầy tôi, làm việc vặt trong nhà và giữa em Như tôi.
Thấy chú có một bộ đồ nâu mặc trong mình, suốt tuần không giặt. Tôi thưa thầy mẹ nhường bớtl cho chú quần áo vải trắng hơi chật và đã cũ của tôi, chú Cự không muốn nhận bộ đồ của tôi trao. Chú nói:
- Choa(2) không quen mặc cái này.
Chú Cự lao động tốt, bửa củi khỏe. Tôi giơ cái rựa lên nện mạnh vài cái đã phồng tay; còn chú,
chú cứ từ từ làm, chẳng bao lâu đống củi đã bửa xong, chú sắp hành thành đống ngay ngắn. Vừa làm việc, chú vừa chạy vào nhà trong, đẩy võng đưa em Như ngủ, kèm theo câu hát dặm:
Chàng ơi, chàng ngồi lại
Cho thiếp dặn vài câu
Kẻo lòng thiếp lo âu
Cứ bàng hoàng trong dạ
Cứ nhớ hoài trong dạ,
Thiếp cứ thường buồn bã
Vì xem thấy trò đời
Nhiều việc thật buồn cười
Nào bất công, áp bức
Nỗi căm hờn áp bức...
Qua mấy câu hát dặm này, tôi bỗng nghĩ đến chú Đệ, cậu Tốn... các chú, cậu này đang bị đày ở Ban Mê Thuột, Lao Bảo, nghe đồn các chú cậu theo Xô-viết Nghệ Tĩnh... chú Cự thường nói chuyện với tôi về nhà thờ họ Ngô. Hằng năm, tôi và các em tôi đều được chia phần, sau khi cúng ở nhà thờ, dù vắng mặt.
Ở quê nhà nạn đói kénm, hạn hán mất mùa thường xảy ra, lại thêm sưu cao thuế nặng, có người uất quá, phát điên. Chú Cự méo miệng lại: Loạn! Loạn!...
Ông Hảo - bố chú Cự - đến Gò Bồi, còn kịp đưa đám tang chú Cự. Đó là một ông đồ nho già, khắc khổ, lùn thấp, mặc một áo dài đoạn đã bạc màu... Má hóp, răng đã rụng vài cái ở hàm trên, ông thở dài nói với thầy tôi:
- Sự vong như sự tồn.
Rồi ông cúi xuống, giấu hai hàng nước mắt tuôn tràn trên vạt áo trước ngực... Đám tang chú Cự ra đi vào lúc trời chạng vạng tối. Con đường làng ra nghĩa địa quanh co, chật hẹp. Bụi tre ào ào lá rụng. Ánh đuốc chập chờn dẫn lối. Sau lưng chiếc quan tài, tiếng cầu kinh rào rào liên hồi như suối chảy...
Ông Hảo đi trước đoàn người cầu kinh, sát quan tài chú Cự, lưng khòm khòm, cúi xuống, tay ông bíu chặt lấy nắp quan tài lạnh giá... Đêm đen chìm sâu trong ánh đuốc. Tôi đi sau cùng và thầm nghĩ rằng: Đám tang chú Cự không nên làm như vậy. Tại sao?
Chú thích:
(1) Cự đau nặng, cho ông Hảo mượn mười đồng, vào gấp
(2) Tôi
Anh em tôi và lễ chánh chung (14 Juillet)
Thôi đúng rồi. Nó trốn xuống Qui Nhơn coi lễ Chánh chung (14 Juillet). Mười một giờ, cả nhà chuẩn bị ăn cơm trưa, nhưng nó thì vắng mặt. Thầy tôi tay đập bàn, mặt cau lại có vẻ tức giận. Mẹ tôi thì nói “đồ mất dạy, con hoang”. Cả nhà quyết định tôi phải đi Qui Nhơn ngay để dẫn em tôi về.
Đúng là nói đi coi “lễ chánh chung” thật. Nó đang ngồi trong nhà dì Đồng Hoà tôi. Dì tôi thấy tôi, mừng rỡ, sai người nhà di mua mì cho ăn. Dì tôi dặn tôi “đừng đánh đập nó tội nghiệp”. Nó ở với bà Tú Thọ, khổ quá, nên nó khao khát tự do, mẹ ghẻ con chồng mà. Dù vợ lớn, hay vợ nhỏ cũng vậy. Không phải con mình đâu có thương. Thằng nhỏ (chỉ em tôi) gầy ốm và ăn mặc như ăn mày. “Tao mua cho nó một bộ quần áo mới, ngày mai đi xem lễ mới được bận”. Ăn mì xong, tôi dắt em tôi ra sau nhà dì Đồng Hoà hỏi nó:“Sao em to gan vậy? Em về sẽ bị treo lên àn nhà, đòn nứt đít”. Nó cúi đầu như chịu tội, một lát nó nói:“Em đi luôn. Không về Gò Bồi nữa”. Tôi lại khuyên bảo nó:“Em đừng bỏ đi mà tội nghiệp anh. Anh nhớ em. Vả lại, đi... Thì khổ lắm em à”.
Thú thật, tôi không thích lễ chánh chung (14 Juiller) chút nào. Của riêng người Pháp. Những trò chơi vô bổ, vô luân. Ví dụ: đập ấm; một hàng ấm treo trên xà ngang, có hai cây tre chống giữa sân vận động, trong mỗi ấm bỏ một con gà con hoặc ấm không chỉ toàn nước... bịt mắt, trẻ emc
ầm gậy huơ lên mò mẫm tới chỗ ấm treo, đập trật hoài, mọi người vỗ tay cười. Liếm chảo: bỏ xu và hào vào một cái chảo lọ lem, ai muốn có tiền tới hụp vào cái chảo đó... Trèo cột, mỗi cây cột bôi mỡ và lọ nghẹ (nhọ nồi), trên đầu cây cột là một cái tàn vòng tròn có treo các thứ: dù,
xấp vải, hộp bánh, cái khăn lông... không ai lấy được món gì, vì cột quá trơn, trèo lên nửa cột bị tuột xuống, vậy là “bọn nó” vẫy tay cười.
Thầy bói bắt heo: người lớn bị bịt mắt thật chặt, vài con heo con nằm trong một cái nong rộng, heo chạy vòng tròn, khó bắt lắm. Rồi thằng cò Tây hốt trong túi áo bành tôi ra một nắm xu và đồng hào vung ra tứ phía, người lớn và trẻ con xô nhau chụp giựt, đấm đá nhau đến tóe máu mũi.
Đếm đến, đấu võ đài. Treo một giải thưởng năm đồng, ai hạ được Tư Đừng thủ đài, thì lãnh thưởng. Không ai dám đấu với anh ta. Hôm sau lại treo thêm giải hai mươi đồng nữa. Người đông nghẹt bao vây lấy vũ đài hồi hộp chờ đợi. Bỗng có một thanh niên tên là Vĩnh T. vẹt đám đông, giơ tay xin đấu với Tư Đừng 6 hiệp. Đồng bào hiếu kỳ nhìn kỹ anh thanh niên. Khoảng hai mươi tuổi. Khỏe mạnh nhưng hơi lùn, tóc húi ngắn. Anh Vĩnh T. bước lên vũ đài. Những tràng vỗ tay hoan hô vang dậy cả khu phố.
Xin nói qua ông Tư Đừng. Ông chỉ là một người dân chài ở xóm biển, 40 tuổi, khỏe mạnh, nát rượu và liều lĩnh bạt mạng, chứ ông đâu biết võ nghệ gì.
Vĩnh T. Đã lên đài nhiều lần (poids mousse). Đánh võ tự do khá, báo có đăng. Lần đầu tiên, anh từ Huế vào Qui Nhơn. Tiếng cồng gõ.
Hiệp đầu, chỉ múa vài đường theo biểu diễn đẹp mắt. Hiệp hai, Tư Đừng nhào vô đá cú diện tiền, bị Vĩnh T. bắt chân xô ra ngã nhào. Đội đối thủ đứng dậy, anh bồi thêm một cú đấm thôi sơn vào quai hàm; Tư Đừng chới với thụt lùi, rồi bất thần đá tiếp một cú nữa. Vĩnh T. lách mình, thưởng một cú nốc ao... Tư Đừng bị đo ván. Tiếng vỗ tay, la ó, hoan hô liên hồi. Hết trận đấu, tôi dắt em tôi về nhà dì Đồng Hoà. Dọc đường, tôi hỏi nó có thích đấu võ không? Nó nói coi đấu võ hay quá. Riêng tôi, tôi ghét các trò đấu đá này. Ai lại đi hoan hô cổ vũ cho hai người đánh nhau, treo giải thưởng, như vậy là dã man.
Xong lễ, thằng em tôi không chịu về. Nó lạy dì tôi nuôi nó, để nó quét nhà, lau tủ, rửa chén, v. v... dì tôi năn nỉ nó:“Con hãy về nhà với anh con, cố gắng chịu khổ và học hành. Học giỏi thì ai cũng thương. Rồi từ đó mẹ lớn không hành hạ đánh đập con nữa.... Dì tôi gói cho nó bộ quần áo may sẵn mà dì tôi đã mua cho nó hôm mặc đi xem lễ, một gói bánh xuân thu, và cho thêm hai hào bạc. Dì tôi rơi nước mắt... khi hai anh em chào dì để về nhà.
Hai anh em tôi đi bộ. Tới chợ chiều An Nhơn, trời đã đứng bóng. Hai anh em ngồi xuống gốc cây bàng, mở gói bánh ăn thật no. Tôi thấy nó cầm miếng bánh Xuân thu nhơi nhơi, bèn hỏi: “Em ngán à?”. Nó nói:“Ở nhà dì ăn cơm thịt nhiều quá. Còn no, không muốn ăn”. Tôi bỗng nhớ những ngày ở Gò Bồi, nhà thầy mẹ, nó ăn đói. Vì nó ăn quá chậm. Bữa cơm, nó ăn mới một chén thì trong rá cơm đã hết. Nó đứng gần tôi, tôi bỏ cho nó một trái cà vào chén, rồi lấy chân khều nó như ra hiệu phải ăn nhanh kẻo hết cơm. Nhưng nó vẫn ăn chậm. Nhiều bữa tôi ăn theo kịp các anh lớn (vì thầy mẹ tôi nuôi cháu trai rất đông, các anh ấy vừa được thầy tôi dạy học và giúp mẹ tôi làm hàng xáo) rồi đứng đợi em ăn hết, xới bớt cho em nửa chén cơm. Tôi suy luận ra rằng: Nếu được no ấm, ăn học đàng hoàng, thằng em tôi đã đổi khác. Nó không như bây giờ. Nó còn nhỏ quá, bảy tuổi mà phải xa má tôi, nó nhớ...
Bỗng nhiên, tôi lấy vạt áo lau miệng cho em và hỏi em có muốn ngủ không, sao đôi mắt em lờ đờ vậy?
Qua khỏi gò thị đã tới bến đò Kim Trì, nhà thầy mẹ tôi nằm trước mặt sông. Thằng em tôi mặt buồn xo, nó vừa đi vừa ngủ gục. Tôi bảo nó nắm tay anh vừa đi vừa ngủ, hay là vào điếm canh bên đường hai anh em nằm ngủ một giấc, rồi hãy xuống đò về nhà. Nhưng lúc bước xuống đò, ghe vừa rời khỏi bến Kim Trì chừng 5 thước, thằng em tôi sợ “về nhà” quá, nó nhảy ùm xuống
sông. Người ta cứu nó lên. Tôi nắm chặt tay nó vì sợ nó nhảy xuống sông lần nữa. Có nhiều người trên đò biết nỗi khổ của anh em tôi, ai cũng rưng rưng nước mắt. Chị Phương chống đò, người đào hát cải lương, người bạn thân quý của tôi ôm nó vào lòng nựng nịu: - Thôi, em ở với chị, chị nuôi...
=M=
Gói bánh và xâu tiền kẽm
Thầy tôi đang chấm bài và quát tháo tôi về những lỗi nặng trong bài luận Pháp văn. Tôi ngó ra bụi tre trước nhà thấy bóng một người đàn bà thấp thoáng dòm vào. Đúng rồi. Má tôi. Má bận chiếc áo dài xuyến đen, đội nón Gò đăng, đang cầm một gói nhật trình buộc chỉ xanh toòng teng trên tay má. Má tôi xớ rớ chỗ hàng rào dâm bụt, đi lại gần giếng nước, rồi kêu: - Bàng ơi!
Tôi thấy thằng em tôi đang xách nước bên bờ giếng lộp bộp vòng dây vào chiếc gàu thiếc, rồi nó la lên:
- Má! Má đi đâu vậy má?
- Má đi đòi nợ cho bà ngoại. Trên Kiến Hàng.
Dứt lời, má tôi đút vào kẽ rào một gói bánh, nói:
- Dì Đồng Hoà dưới Qui Nhơn gởi cho các con. Thằng Bàng đâu?
- Ảnh đương bị thầy đánh vì làm bài... Sao đó.
Lúc em tôi đưa tay vẹt hàng rào dâm bụt để lấy bánh, má tôi giữ tay nó lại, nắn nhè nhẹ và hỏi: - Các con ăn cơm có no không?
Thằng em tôi không đáp lời má, nó thả gói bánh cạnh thềm giếng rồi vào chỗ tôi ngồi, ngang nhiên nói:“Có má...
Thầy tôi nghe nói “có má”, ông đặt bút xuống bàn, nét mặt vẫn cau có:“Cho nghỉ một lát”. Tôi không đứng ở kẽ rào mà chạy ra đường để gặp má; thấy má, tôi chạy đến ôm má, hôn vào vai áo má, má tôi thương con rưng rưng nước mắt...
Má tôi mở cái khăn gói trầu trao cho tôi một xâu tiền kẽm:
- Cho hai con. Lúc nào muốn ăn bánh, hai anh em mua mà ăn chung với nhau. Thằng em tôi cứ loay hoay phía trong hàng rào dâm bụt, hai chân nó dậm trên mặt đất, mắt nó đỏ hoe...
Má tôi quay mặt, không dám nhìn hai đứa tôi, má thở dài: Thôi má đi, kẻo chiều hung rồi. Má sợ về trễ bà rầy”.
Tôi cầm xâu tiền kẽm, nhìn theo má, tôi chỉ muốn chạy theo má...
Bạn Cúc
Trong xóm Đạo này chỉ có nhà cha con ông Cúc là nghèo nhất. Cúc nằm trên chiếc võng ngắn củn rách bươm, quanh nó ruồi bay từng đàn, tay nó cầm một nhánh lá xua ruồi. Tội nghiệp. Nó tên là thằng Cúc... Tám tuổi mà bé loắt choắt gầy ốm như đứa trẻ lên năm. Ba nó làm nghề đốt than. Không mấy lúc thấy ông ở nhà. Nhìn thấy bếp lạnh tanh dường như lâu ngày không nấu nướng gì, tôi hỏi nó:
- Bạn ăn cơm chưa?
Nó nín thinh không nói gì, cố gắng ngồi dậy kéo tấm áo rách che cái chân sâu quảng vì ruồi vây nhiều quá.
Tóc nó phủ tai, da xanh khô, nhăn nhíu như trẻ con bị lãi (sán) cắn. Đôi mắt sâu hỏm buồn rầu nhìn tôi. Nhưng thực tế nó không nhìn gì cả. Tôi hỏi lại:
- Cúc, bạn có nghe tôi hỏi gì không?
Vừa lúc đó. Thằng em tôi chạy vào. Nó khoe vừa tìm được một cái dái mít bự. Nó nhớn nhác nhìn vào bếp thằng Cúc để tìm muối hột. Úi chui cha! Dái mít mà ăn với muối hột, nhai rào rạo, vừa chát vừa mặn thì còn gì ngon bằng!
Bạn Cúc bỗng chìa tay về phía em tôi:“Cho tôi xin một miếng tôi ăn, tôi đói quá”. Em tôi nhìn tôi, rồi đưa cả dái mít bằng nắm tay cho nó. Tôi kéo em tôi ra ngoài, rỉ tai nói thầm với nó. Nó gật đầu, rồi vùng chạy...
Một lát sau, em tôi trở lại với hai túi áo bà ba đầy hạt gạo. Tôi hỏi:
- Nội nhà có ai thấy không?
Nó nhe răng cười:“- Ngủ trưa hết mà!”
Tôi cười vui vỗ nhẹ vào đầu em tôi, tôi thầm nghĩ thằng này giỏi... Vậy là bạn Cúc đã có gạo để nấu cơm ăn tạm để đợi cha nó về. Bạn Cúc chỉ cười, không biết nói cảm ơn. Ra về, tôi dặn Cúc: - Bạn đừng nói gạo của tôi cho nghe không. Nói... là tôi bị đòn nứt đít.
Chị Phương
Lúc tôi còn nhỏ ở nhà học với thầy tôi, chị Phương đã lớn và học lớp ba trường nữ Qui Nhơn, trường nữ duy nhất ở Thành phố biển này.
Học xong lớp ba, lên lớp nhì I, nhì II, lớp nhất, ba lớp này học chung với con trai Collège Qui Nhơn, mỗi lớp lèo tèo vài chị. Gia đình nào muốn cho con gái học thêm thì gửi ra trường Đồng Khánh ở Huế. Học xong lớp ba, chị Phương về nhà giúp chú Mền trong việc làm ăn buôn bán. Thỉnh thoảng đi tắm sông trưa, tôi gặp chị đi giặt quần áo... Chị xài tiếng Pháp hỏi tôi khi nào xuống Qui Nhơn học, và phần chị ở nhà buồn quá, ông bố nghiêm khắc, mẹ ghẻ ác nghiệt, chị muốn đi học trở lại mà không làm sao được...
Ông bố chị người Tàu tên là chú Mến. Ông làm nghề buôn gạo, cân gạo của những người làm hàng xáo miệt Luật Bình, Tùng Giản, Kim Trì rồi chở xuống Qui Nhơn bán lại cho những ông chủ lớn như Thoại Phát, Thái Hưng...
Chị Phương thường ca hát một mình trên bờ sông vắng để nhẹ lòng, vơi bớt nỗi buồn... Khi nào đò cập bến, chị chăm chú nhìn người qua lại, lên xuống đò... như muốn gửi gắm một niềm tâm sự gì...
Bến sông mà chúng tôi thường gặp nhau là bến đò trên, chợ Gò Bồi là bến dưới, làng Tùng Giản có hai bến đò. Chị cho tôi biết rằng, để trốn mợ Thanh, mẹ ghẻ, chị sẽ đi theo một đoàn cải lương ở Gò Bồi.
Tôi còn nhỏ, nhưng biết chị đẹp, dễ làm đào hát cải lương lắm. Mà chị đi thật. Chị ôm quần áo đi lên Kiến Hàng, vì gánh hát đang hát trên đó.
Hôm chị về hát Gò Bồi, tôi có đi xem chị hát. Mở màn dưới ánh sáng trong xanh các ngọn đèn măng-sông chị đẹp lộng lẫy trong bộ quần áo dài màu hồng, cùng những người khác hát bài ca Hành Vân, chào khán giả như sau:
“Hội ca cầm, hội ca cầm
Chúc cậu mợ giàu sang
Giàu sang, giàu sang, phú quý
Phú quý, vinh hoa
Sống bá niên trường thọ
Nhà đông con đông cháu
Trên ô tô, dưới lại ca nô
Nằm giường lèo đắp trên nệm gấm
Mang đôi giày ma mị(ba bi)
Ngồi dựa phòng loan
Bịt ba cái răng vàng
Giống mình quan ba, quan tư
Ngồi nhà lầu ngó xanh xung quanh
Ngó vô trong túi
Bốp phơi(porte-feuille) đầy những giấy cent (trăm)”
Tiếp theo đoàn hát diễn vở: Thoại Khanh - Châu Tuấn. Chị đóng vai Thoại Khanh, anh Cụ con bà Thơ đóng vai Châu Tuấn. Phải nói là hay theo cái nhìn của tuổi thơ của tôi. Đến đoạn Thoại Khanh cõng mẹ đi tìm chồng thì tôi nghe quanh rạp có tiếng khóc sụt sịt của các má, các chị. Tôi ngồi cạnh má tôi, má tôi cũng lấy vạt áo lau nước mắt, khi chị cất tiếng ca sầu thảm:
Tới Trường An tìm người Châu Lang,
Biết bao giờ gặp mặt chàng.
Vai thì cõng mẹ, mẹ ngồi trên lưng
Xin mẹ an lòng,
Con liều cắt thịt cho mẹ ăn, mẹ ăn
(Vọng cổ nhịp 4)
Rồi bẵng đi một dạo tôi không gặp chị. Nghe người ta nói mợ Thanh lên tận phủ An Nhơn (Bình Định) lôi chị về. Chị bị chú Mến bắt thằng em rể (con riêng mợ Thanh) đánh cho một trận nhừ tử. Xong, ông cạo đầu chị rồi đuổi đi... Tội nghiệp, sau khi đi học Qui Nhơn về nghỉ hè, tôi có gặp chị Phương nhưng chị mau già, ốm tong teo. Chị thế ông lão Thiệt già yếu, chống đò trên bến sông qua ngày. Tôi tắm bờ sông bên này làng Tùng Giản, nhưng không muốn về, nấn ná đợi chị chở chuyến đò qua để tôi chào chị, vì ngày mai tôi sẽ đi Qui Nhơn học lại...
Mợ Thông
Mợ Thông là dâu út của ngoại tôi. Cậu Thông tôi, chồng mợ, làm công chức Sở Lục lộ, nên có khá tiền, mợ ăn mặc rất sang trọng, quần áo toàn hàng lãnh bưởi và lụa lèo. Mợ xài tiền rộng rãi, bà con bên ngoại tôi, ai nghèo thì mợ giúp đỡ với lời nói khéo léo, để người được giúp vui lòng nhận. Mợ Thông nói với má tôi:
- Ồ chị không lấy, em cho chị mượn vậy.
Đó là lúc thấy tôi đã lớn, học tới lớp nhì 2, sắp thi lên lớp nhất mà quần áo lôi thôi cũ mèm, mấy áo dài đen, trắng đã rách cùi chỏ (khuỷu tay), quần vải trắng vàng khè ngắn trên mắt cá, mợ Thông tôi muốn may sắm cho tôi ít bộ quần áo, thì má tôi có vẻ chạnh lòng không muốn nhận. Má tôi nói:“Tôi còn mười lăm thùng lúa cho họ mượn ăn tạm, mùa sau lấy về, tôi sẽ may mặc cho cháu đàng hoàng”.
Tuy mợ nghỉ ngơi sang trọng lúc ở với chồng trong Tuy Hoà, chớ về nhà bà, tôi thấy mợ cùng má tôi và chị Bốn Nhữ đều vén áo vào lưng quần, múc nước mắm từ nhà bếp chuyển lên đến trại chính đổ vào thùng mẹ, và mợ còn xung phong bốc mắm xác vác ra sông đổ vào những đêm nước lớn. Bữa cơm, lấy tư cách con dâu, mợ ngồi cạnh nồi cơm, xới cho cả nhà, có món gì ngon, mợ gắp bỏ vào bát cho bà:“Thưa mẹ, cá chép tươi nấu ngót đó mẹ; thưa mẹ tôm thẻ lăn bột còn nóng, mời mẹ.... Bữa cơm lúc nào mợ cũng là người lên sau cùng, bưng lên nồi canh hoặc những thức ăn dư hâm lại. Bà ngoại tôi rất hài lòng về mợ...
Một hôm tối trời, mợ đi sông một mình, không biết loay hoay thế nào mà lọt tùm xuống nước, mợ không biết bơi, giãy dụa, chới với, càng lúc càng xa bờ, lúc bấy giờ mợ la lên kêu cứu, anh Bốn Tán, người đầy tớ trong nhà ông Cửu Thản nghe tiếng la, chạy ra nhảy xuống sông bơi nắm tay mợ kéo vô bờ... Mợ vừa thẹn, vừa trách mình vô ý... rồi mợ về giấu không nói cho bà hay. Nhưng rồi cả nhà cũng biết rõ là hồi hôm mợ bị té sông. Bà rầy không cho mợ đi sông một mình nữa, bắt chị Bốn Nhữ đi theo.
Đêm mợ nằm suy nghĩ thế nào mà trưa hôm sau, mợ đi tìm nhà anh Bốn Tán cám ơn, và đưa biếu vợ anh Bốn Tán một chiếc cà rá (nhẫn) vàng y một chỉ. Mợ nói:
- Được sống là quý. Vàng không có nghĩa. Cố gắng làm ăn, dành dụm, lâu năm sẽ có lại. Chị Bốn Tán nghèo, nhà tranh vách đất, thấy chiếc nhẫn vàng thì không dám cầm. Mợ tôi năn nỉ mãi, chị Bốn Tán vẫn không chịu lấy. Sau cùng mợ Thông mới đưa cho đứa con gái chị chừng sáu, bảy tuổi, rách rưới, lem luốc, đang nách em một đồng bạc(1). Đứa bé cũng không dám lấy tiền, mợ nhét vào túi áo cụt đen của nó, rồi mợ bước nhanh ra khỏi nhà, mợ chạy...
Chú thích:
(1) Một đồng bạc lúc bấy giờ lớn lắm, đổi ra 100 xu, một xu 14 đồng tiền điếu, một đồng điếu mua được một miếng kẹo nia bằng hai lóng tay
=N=
Hè ở Kim Trì
Tôi về tới Gò Bồi thì nghe tin thầy tôi đã được mời qua dạy ba tháng hè ở Kim Trì. Ông Nghè Hân mời thầy tôi dạy các con ông học tiểu học ở Qui Nhơn về, và bọn trẻ con quanh làng. Tôi ôm má hôn vào vai má, má rưng rưng nhìn tôi, bóp nắn tay tôi coi những ngày học Qui Nhơn, tôi có ốm đi không. Tôi cúi xuống mân mê túi áo, rồi đưa cho má đồng bạc giấy mới còn hôi mùi mực in mà chú tôi đã thưởng cho tôi ở Qui Nhơn trong dịp nghỉ hè. Má cầm tiền, má chảy nước mắt và nói:“Con hiếu thảo quá. Nhờ trời, lớn lên con sẽ nên người... Má giữ đây cho con, hôm nào con xuống (giã) Qui Nhơn học thì lấy để cần mua sách vở gì... Tôi về nhà thầy chào mẹ lớn, rồi đi qua Kim Trì ngay. Nhà ông Nghè Hân nguy nga rộng lớn, một tầng nhưng chứa có nhiều gian. Gian phòng tiếp khách của ông riêng biệt, rộng như một phòng họp, có tràng kỷ, bàn ghế gỗ tốt chạm xà cừ, một bộ phản gỗ láng bóng chiều dày hai tấc ta. Tường treo nhiều liễn đối, trướng thêu và đồng hồ quả lắc vào loại đắt tiền. Lúc đó vào khoảng hai giờ chiều. Ánh nắng vàng đậm giữa một vùng rộng lớn. Trước khi vào sân nhà ông Nghè Hân tôi không dám bước vào, mà đứng ngắm cái hàng rào duối xén thẳng băng... Tôi nghĩ rằng mình vào đây, ăn mặc phải sạch sẽ, và nhất là phải lễ phép.
Thầy tôi ngồi dạy trong một phòng rộng lớn, và bàn ghế thẳng tắp, có lẽ ông Nghè Hân cho khuân về từ ngôi trường làng. Thoạt đầu thấy tôi thầy tôi hạ mục kỉnh, và giới thiệu với ông Nghè Hân:“Thằng con trai lớn của tôi học ở Qui Nhơn về nghỉ hè”.
Ông ngoảnh nhìn tôi, gương mặc trầm tĩnh:
- Chào cậu. Cậu học giỏi nổi tiếng. Mừng cho cậu.
Tôi ngượng và cũng có vẻ sợ nữa. Tôi rón rén ngồi bên mép ghế của một cậu học trò nhỏ đang chăm chú làm bài. Thì ra ông Nghè Hân xuống phụ với thầy tôi thử sức học trò để phân chia theo lớp. Tôi ngồi im, lắng nghe: Thi toán và mấy câu địa lý.
Đề thi của toán:
“Một bầy chim sẻ 45, bắn trúng ăn ba, trật chung năm. Hỏi trúng mấy lần, trật mấy lần?”. Đề thi địa lý:
“Tại sao học trò phải học địa lý? Trò hãy kể một nước trên thế giới mà trò biết, bất cứ nước nào?”.
Thời hạn: Toán ½ giờ - Địa lý ½ giờ.
Đúng một giờ 15 phút, được thu bài giải đáp.
- Toán, đa phần trật, vì toán để mẹo, duy chỉ có một học trò lớp bảy trường Tổng em Thìn đáp số: trúng 10 trật 3.
- Về đề thứ 2: có một trò tên Điệp, con ông thợ mộc bến Kim Trì, trả lời một câu rất ngộ:“Em nghe nói trên thế giới, có nước Nga vì nước này hiện nay mọi người sanh ra đều bình đẳng, không bị ức hiếp, ai cũng có công ăn việc làm...
Tôi lạnh xương sống khi nghe thầy tôi đọc bài em Điệp. Ông Nghè Hân thì mặt mày tái mét. Ông nhìn thầy tôi dò xét, thầy tôi chỉ mỉm cười và im lặng...
Ông Nghè Hân, tôi nghe nói ông không đậu tú tài Hán học, trước kia, ông chỉ làm xã trưởng Kim Trì nhờ có tiền bạc... nên ông mua chức hàn lâm (nghè).
Lối suy nghĩ và hành động của ông đặc biệt phong kiến, tôi đã trông thấy ông đánh thằng Hải con út của ông chỉ vì nó đã đánh bạc, xúc trộm mấy giạ lúa bán. Ông cho hai thằng đè hai phía đầu và chân, nghĩa là bắt nó nằm sấp không cựa quậy được, rồi cho thằng thằng anh trai lớn vác roi mây nện, cây roi mây này là mây gốc, đàng đầu có những chai cục đặc sệt, trẻ con nhìn vào khiếp vía!
Thằng Hớn, con trai lớn thương em, đánh nhẹ, ông ngồi nóng mặt, cáu, đuổi cả ba đứa đi, một mình ông với thằng Hải ở lại, ông bắt thằng Hải quỳ và quất lia lịa, cấm thằng này chạy, rồi nó đau quá đổi chỗ, ông thét lên:“Qùi, tao bảo quì, không thì chết!”. Thằng Hải sợ quá, sợ ông hơn sợ cọp, nó phải quì chịu đòn cho đến khi máu chảy lênh láng trên nền gạch... Lần nữa là cô Chín. Cô Chín kêu ông bằng cậu ruột. Cha cô mất sớm, cô ở với mẹ. Nhà cô buôn bán lớn, cô ăn cắp vàng và tiền bạc đi theo trai, bị mẹ bắt được, giao cho ông xử giúp. Hồi mới qua Kim Trì, tôi ăn bữa cơm đầu đàng hoàng lắm, bỗng nghe thấy rục rịch một sợi dây xích kéo lê trên mặt sân nhà bếp, tôi quay ra thì thấy một cô gái khá đẹp, tóc bị cắt trụi lem nhem và bềnh bệch những vết đen như dầu hắc, tôi chẳng hiểu mô tê gì, rất lấy làm thương xót,
sau mới hiểu là cô bị ông Nghè Hân xiềng, cạo trọc đầu, nhốt trong nhà để củi... Tại trường Văn Quang
Chị Nho Văn
Tại sao khi nói đến trường Văn Quang, tôi lại nhớ chị Nho Văn tôi trước. Vì, chị Nho Văn là một người quê mùa chân chất, rất tốt, tình yêu thương của chị đối với tôi không bao giờ tôi quên được, dù bao lâu năm tôi vẫn nhớ và kính yêu chị như một người mẹ Việt nam muôn thuở. Chị Nho Văn là vợ của anh Nho Văn nhà tôi. Anh là con của bác tôi, gia đình họ Ngô, đậu tiểu học về đi dạy, sau đó ở quê nhà mất mùa hạn hán, kiếm bát cơm ăn với nhút là rất khó. Anh thương vợ, bỏ vào Nam tìm kế sinh nhai định bụng rằng sau khi làm ăn có tiền sẽ về quê đưa vợ vào sum họp. Tôi gặp anh qua một buổi chiều hè oi ả, anh dáng người chân chất hiền lành, chân đi giày bata, tay cầm một cây quạt xếp, giống hình vẽ chàng Kim Trọng trong tập Thuý Kiều truyện của Nguyễn Du. Anh nhìn tôi cười và rất quý mến tôi, bởi anh biết tôi đã đậu Primaire. Anh cho tôi biết là anh ghé thăm chú thím vài hôm, rồi đi thẳng Sài gòn, có người bà con nhắn là sẽ có một chân thư ký ở một hãng tư Khánh Hội, lương đủ sống. Biết thế, song lúc đó tôi còn nhỏ không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống là thế nào, im lặng, chỉ nghe anh nói...
Rồi thì tháng ngày qua, một buổi khi trời nhá nhaem tối, tôi gặp một chị phụ nữ bận váy, tới hỏi tôi có phải đây là nhà ông Hàn Ngô Xuân Thọ không? Tôi đáp:“Phải”. Rồi mẹ tôi ra đón chị. Tôi mới biết đó là chị Nho Văn, chị vào Nam tìm chồng. mẹ tôi tiếp đón chị không niềm nở cho lắm, và chị ở lại gia đình tôi từ đó.
Sáng, chị dậy quét dọn nhà cửa, nấu nước pha trà, trưa thổi cơm cho một lũ lóc nhóc trên mười đứa ngoài thầy mẹ tôi, còn một số các em ở trọ ăn cơm tháng và là học trò của thầy tôi. Sau khi thầy tôi đổi lên Văn Quang làm hương sư trường làng, chị Nho Văn cũng gánh nồi niêu, chén bát đi theo. Tôi chỉ nhớ mỗi bữa cơm chỉ có một rá cơm đầy, trộn bắp hoặc khoai, một tô mắm kho và một mớ rau chuối xắt nhỏ bỏ trên mâm. Tội nghiệp chị Nho Văn, bữa nào tụi nhóc ăn dư, thì chị chỉ ăn vào chỗ cơm và mắm thừa đó. Chị chăm sóc tôi và em tôi, giặt giũ quần áo và tắm rửa sau một ngày học tập, chơi đùa lấm láp...
Rồi mùa đông tới. Mưa xối xả tràn ngập ruộng đồng, đi lại khó khăn. Cơm nước thổi nấu khói mờ mắt vì củi ướt...
Chị Nho Văn không sợ mẹ tôi, nhưng chị né tránh một người đàn bà ăn to nói lớn, rạch ròi, không sợ mếch lòng người. Lắm lúc rỗi việc, hoặc đem chén bát ra rửa ở cầu ao sau trường làng, chị hay ngó về phía làng xa trong sương chiều ảm đạm... Tưởng nhớ quê hương của mình, và có lẽ chị nhớ chồng: anh Nho Văn...
Một buổi trưa, sau khi cơm nước xong, mùa đông không ánh mặt trời, tôi xách gáo ra bờ ao rửa mặt. Từ bếp xuống cầu ao đường xô dốc, tôi đi thế nào mà trượt ngã xuống ao, không kìm lại được. Lúc tôi trôi giữa lòng ao nước ngập chảy xiết, thằng em tôi đứng trên bờ nhìn thấy, nó khóc ré lên và la làng xóm:“Ôi làng xóm ơi, cứu anh tôi với, ơi bà con làng xóm ơi, anh tôi chết trôi rồi!.... Và nó chạy băng xuống dốc, trượt chân ngả, nhưng nó nắm được bụi cỏ và ôm cứng lấy và cứ la:“Ôi làng xóm ơi, cứu anh tôi chết trôi, ôi làng nước ôi...
Lúc đó có một già chăn vịt ghìm xuống chận đầu nước chảy và kéo tôi lên bờ. Tôi thất hồn, run lập cập. Ông bảo tôi ngồi lên xuồng và chở tôi về bến cầu ao sau trường. Thằng em tôi nó mừng quá, ôm chầm lấy tôi, nó run lập cập: - Anh còn sống là được rồi!
Tôi bỗng thấy chị Nho Văn cầm trên tay một bộ quần áo bà ba vải đen và đến thay quần áo cho tôi. Chị dặn. Chị dặn:“Ngồi đây chơi một lúc đã. Hai bác đang la dữ lắm!”. Và lúc đó tôi đi ngang qua nhà dưới để lên lớp học, tôi nghe mẹ lớn tôi nói:“Sao không chết rấp đi cho rồi! Không lý bắt tao nuôi báo cô mãi!....
Chị Nhiễm
Văn Quang là nơi tá túc nương tựa của tôi những năm lên bảy lên mười, tình yêu thương giữa bà con cô bác trong vùng đượm tình gia đình máu thịt.
Những trưa hè oi bức tôi lội qua những con mương nhỏ, những đường làng quanh co, quạnh
vắng để đi tìm xoài. Tôi nhớ chị Nhiễm, học trò lớp tư của thầy tôi, cứ trưa đứng bóng là chị ra đứng dưới bóng cây xoài trường chỉ, tay cầm sẵn một cái khèo nèo rất dài thậm thượt để chọn cho tôi những quả xoài tượng chín cây mà tôi rất ưa thích.
Tôi nhớ bà má Năm (mẹ anh Châu, Châu học cùng lớp với tôi) chú ý khi tôi đi qua nhà thì gọi vào, lúc cho khúc khoai mì nấu, tảng đường đen, hoặc khúc mía róc... Bà cười, ôm tôi vào lòng, hôn lên tóc tôi và khen tôi học giỏi quá, tướng này sau làm quan...
Ông Cửu Chân, ba anh Châu, thầy tướng số có nhiều sách chữ nho, nói:“Thằng này tướng ngũ đoản, sau sẽ có sự nghiệp lớn”...
Tôi không hiểu ông nói như vậy là ngụ ý gì?
Ôi cái trường Văn Quang nhỏ bé ơi, các bạn học trò chân chất hiền lành của tôi ơi, các bạn là những người bạn nhỏ rất dễ thương và ai cũng chăm lo học hành; ngày lễ tết thầy tôi, cha mẹ học trò không quên cho ông Trúc, phu trường, vài chén nếp, vài chục bánh tránh hoặc cân đường, vì ông là cố nông không ruộng đất, sống nhờ bốn đồng bạc lương mỗi tháng để nuôi con. Thằng Long, con ông mới 5 tuổi, cũng vào học lớp năm, nó thường ở trần vào lớp, mũi dãi lòng thòng, thầy tôi thường bắt tôi đi rửa mặt cho nó, và hỏi tôi có cái áo nào chật, mặc không vừa thì cho nó... Trưa nào đi chơi về, tôi cũng ghé vào nhà nó cho nó mấy trái sim hái được ngoài gò, nó mừng cười hi hí để lộ mấy cái răng sún... Ôi thằng Long, nhớ lại cảnh hẩm hiu của cha nó, vì mẹ nó chết khi nó mới lọt lòng, nhiều hôm vào nhà ông Trúc gặp cha con đang ngồi ăn cơm khoai chỉ có đĩa muối ớt... nhắc đến tôi chỉ muốn khóc...
Trước trường, một cái sân rộng, hai cây kẹo đã nhiều tuổi, đứng vững, trái lá xum xuê những ổ chim lòng thòng như những quả mướp lớn. Tiếng chim ca suốt ngày, hấp dẫn tuổi thơ, chim làm tổ rất nhanh và rất đẹp, chắc, bàn tay người vụng về khó lòng làm được. Ông phu trường cấm học trò không được bắt chim, không được lấy trứng chim, hoặc khèo một cái ổ chim dày làm banh để đá. Mấy trò biết không, động ổ, nó kéo đàn đi hết thì sân trường buồn lắm...
Sau ngày giải phóng (1975) tôi có ghé thăm làng Văn Quang. Ngôi trường không còn nữa. Và người thì lạ hoắc. Tôi đứng dựa lưng vào gốc bàng trước chợ, nghỉ mệt. Rất may là anh Thại con chánh Ba còn nhớ tôi, anh làm Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đem xe Honđa chở tôi đi thăm bà con trong vùng. Đến nhà chị Nhiễm, nghe con gái nói có khách, chị ùa ra, và khi biết tôi đến thăm chị mừng quá, giữ tôi và anh Thại ở lại ăn cơm cho bằng được. Chị cho ăn một bữa cá rô kho với lá nghệ, cá trê chiên dầm nước mắm xoài tượng, chấm với bông giờ, một thứ hoa tím mọc hoang hai bên bờ mương. Tôi bỗng nhớ những ngày xa xưa, tôi đi theo anh Châu đặt lờ, lờ đặt những chỗ ruộng sũng, nước xối, vài tiếng đồng hồ sau quay lại cá rô và cá trê đầy lờ.Bữa cơm lạ miệng và rất ngon.
Chị Nhiễm hỏi thăm thầy mẹ tôi, thằng em trao tôi, rồi chị nhìn tôi một chặp:“Ông Xuân Diệu nổi tiếng về thơ văn cả nước ai cũng biết. Vậy là ông đi theo cụ Hồ suốt ba mươi năm”. Chị cười buồn, như nhớ lại một kỷ niệm gì...
- Ờ, ờ, cái cây xoài ở nhà tôi bên Văn Quang vẫn còn. Vẫn như vậy. Trái sai lắm. Ông có muốn ăn xoài tượng chín cây không? Đây là nhà chồng tôi, tôi đã được ba cháu. Đứa lớn 25 tuổi, thợ sửa xe Honđa, đứa kế 24 tuổi, đi theo Giải phóng, hắn có gởi thư về, hiện bận công tác xa chưa về thăm nhà được, còn đứa út con gái còn đi học, mười bốn tuổi, nó đi lấy xoài cho ông kìa... Tôi nhìn ra cửa. Cháu bé gái đội trên đầu một rổ xoài tượng vàng ươm rất ngon. Tôi xin kiếu và rất cảm ơn chị Nhiễm đã cho ăn cơm và cho xoài.
Anh Thại dẫn tôi dạo loanh quanh làng... Trời! Cái bàu sau trường Văn Quang vẫn còn đó, hồi nhỏ mình thấy bờ bến này qua bờ bến kia rất xa, bây giờ nước chỉ tới đầu gối, vén quần lên lội vài bước là hết.
Qui Nhơn
Tuổi nhỏ, lúc lên 10, lần đầu xuống Qui nhơn, tôi ở nhà chú tôi. Ở phố Năm Căn nằm dựa mé sông, gần bót cảnh sát thành phố.
Chú tôi làm công chức nhà Đoan, nhà nghèo chẳng có gì, ngoài bộ bàn ghế ăn cơm và vài cái giường nằm ngủ, một chiếc tủ gỗ nhỏ đựng quần áo và giấy tờ làm việc của chú tôi.
Phố vắng. Xa xa có vài mái nhà tranh, chen chúc hèn mọn bên cạnh nhà thờ Thiên chúa giáo to lớn, đồ sộ, với con đường me dài rộng. Tuổi nhỏ nhìn thấy những hàng me nằm dọc hai bên đường, trĩu quả, tôi vô cùng thích thú. Chao ôi! Cứ mỗi trưa chú tôi ngả lưng nằm nghỉ, là tôi chạy ra con đường me. Vô số là quả me dốt chín rụng! Ban đầu gặp một vài quả chín rụng thì mừng bóc vỏ ăn liền, nhưng sau đó, qua một cơn gió bấc, vô số me chín thi nhau rớt lộp độp trên mặt đường dường như có ai ngồi trên cây thảy xuống.
Hai bọc áo bà ba đầy ứ, và cũng ngán me rồi, tôi lững thững về nhà - đem chia cho những đứa trẻ cùng xóm Năm Căm trạc tuổi tôi.
Trời vừa xẩm tối, một ông cụ già vác thang tựa vào cột đèn gỗ không cao lắm, tôi thấy ông đổ dầu vào ngọn đèn đường đoạn ông lấy diêm châm lửa cho đèn sáng lên. Cả dãy phố không tên đường, đều được ông thắp sáng như vậy.
Suốt ngày, không thấy xe hơi. Thỉnh thoảng một chiếc xe kéo ì ạch đi qua, vài ông lính cảnh sát đạp xe về Sở làm.
Ở thành phố Qui Nhơn, con đường Gia Long là lớn nhất. Các cửa hàng buôn lớn và nhỏ cùng tiệm ăn phần lớn là của người Hoa Kiều. Tiệm buôn lớn nhất thành phố lúc bấy giờ là tiệm Toàn Phát, xuất nhập cảng, rồi đến Đồng Nguyên, Thái Hưng...
Mấy ông chủ hiệu này đều nghiện thuốc phiện, tôi nghe người ta nói những người nghiện đa mưu túc trí, một đồng thành năm thành mười rồi cứ thế mà nhân lên... và trở nên giàu có. Thành phố Qui Nhơn có 4 bang Hoa Kiều là Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam, Phúc Kiến. Bang nào cũng có nhà hội quán và chùa thờ, chùa thờ lớn nhất chung của bốn bang là chùa Bà, nằm day mặt sông. Cứ hàng năm cúng tế lớn kéo dài hàng tuần, và đúng rằng tháng bảy thì cúng cô hồn, xô dàn đông vui, nhộn nhịp.
Người Hoa Kiều sống đoàn kết. Trong bang, ai làm ăn túng thiếu, họ vui lòng cho vay mượn làm vốn liếng mua bán, giúp đỡ nhau những cơn nguy ngặt.
Ngày 14 Juillet (lễ Chánh chung) múa lân, rước đèn dài hàng cây số, ban tổ chức người Hoa cho người mang theo dọc đường nước uống, và thuốc lá hút...
Ngày tuổi nhỏ, nghe tiếng trống múa lân sao ma vui thế, lòng trẻ háo hức muốn lên cao, lên cao, bay lên...
Cho đến năm mười bốn tuổi, tôi lại xuống Qui Nhơn lần nữa, lần này ở lại học luôn. Tôi học lớp nhì lớn (Moyen 2è année) và ở nhà chú tôi. Tôi học giỏi đến nỗi chú tôi tháng nào cũng vỗ đầu xoa tóc tôi và cho tôi đồng hào đôi (20 xu). Sau năm học lớp nhì lớn, chuẩn bị lên lớp nhất, học bạ ghi: Prix d’excellence. Bon élève, regrettable qu’il bégaie(1).
Chú tôi xem học bạ xong, rồi cười ngất. Con đứng đầu lớp như vậy là tốt. Còn cà lăm thì sửa được, dễ ợt. Chú bày cho, khi nói chuyện với bạn hay bất cứ ai, thủ sẵn một chiếc kẹo, ngậm trong miệng, cứ tự nhiên nói chậm đừng hấp tấp nói mau, lâu sẽ quen dần và hết. Chú thím tôi hết lời khen tặng. Rồi chú tôi nhìn thím tôi nói nhỏ gì đó, một lát thím tôi lấy một đồng bạc mới nguyên nhét vào túi tôi:“Con giữ lấy để nghỉ hè về thăm nhà, chú thím thưởng cho con đó”.
Chú tôi cho phép tôi đi rong phố, dạo biển... Một tuần lễ. Rồi về quê cho thầy mẹ tôi mừng. Tôi ghé thăm dì Đồng Hoà tôi ở Phố Gia Long trước khi về Gò Bồi. Dì tôi giới thiệu tôi với cô Hồng Loan, con gái út ông Bang Đồng Nguyên. Cô Hồng Loan học trường Đồng Khanh và cũng đương độ nghỉ hè. Cô đẹp bởi khuôn mặt trái xoan thanh tú không son phấn. Cô khép nép chào tôi và nói toàn tiếng Pháp, một thứ tiếng Pháp sành sõi, đúng giọng đúng văn phạm. Dì tôi mời cô ăn cơm với dì cháu tôi. Cô nhận lời. Bữa cơm toàn đồ chiên xào và lạp xưởng ăn chẳng hết. Tôi dạo quanh thành phố, trừ mấy nhà Tây cao tầng và biệt thự của ông thầu khoán T.S.T là đẹp nhất, còn thì vào loại thường bậc trung.
Chiều nào tôi cũng đi chơi biển. Biển Qui Nhơn đẹp và sạch sẽ. Hai bên đường biển, hai hàng thông cao vi vút gió. Gần nhà dây thép, cuối đường biển có một cây bàng đã nhiều tuổi, cao lớn, trái rụng đầy gốc, nhiều trái còn nguyên màu vàng đượm, da láng rất ngon, song tôi nghĩ mình đã lớn nên không dám lượm ăn...
Cầu tàu là chỗ Tây đầm tắm, không ai dám lại gần. Họ mặc đồ tắm đủ màu, rồi từng người ra cuối miếng ván gỗ, chụm hai tay lên cao đâm đầu xuống biển lặn, hụp. Phía trên, xa vài trăm thước là bãi tắm của công, tư chức, của học sinh, người rách rưới bần hèn không bao giờ thấy mặt ở đó. Tôi có cảm giác buồn buồn vì sự cách biệt của con người, giàu có và nghèo nàn.
Hết hè, tôi trở lại trường. Thầy mẹ tôi không ở Gò Bồi nữa, đã đem cả gia đình xuống Qui Nhơn. Tôi đã hết nói cà lăm, vì làm theo lời chú tôi dạy...
Tôi đã học gần xong lớp nhất rồi, mà thằng em trai tôi chưa đi học. Nó phải ở nhà gánh nước, rửa chén, dọn dẹp nhà cửa, vì mẹ lớn tôi nấu cơm tháng cho học trò ăn và ở luôn tại nhà. Đi học về bỏ sách vở ra, cởi áo dài, tôi phải phụ em tôi lau chén bát, xới cơm, và bưng mâm lên nhà hầu học trò...
Tối lại, mỗi khi rảnh rang ôn bài vở, nhìn thấy em tôi, tôi rất thương. Nó sợ mẹ lớn đánh đòn, nên nó phải chăm lo làm việc... Nó gánh nước rất khỏe. Làm việc cả ngày không nghỉ tay, nên tối đến, nó đã vác chiếu vào bếp nằm ngủ.
Các thầy dạy tôi là những giáo sư dạy giờ. Cứ xem thời khoá biểu, tiếng trống thay giờ là một giáo sư khác đến. Tôi sợ nhất là giờ toán hình học của thầy L. A..., lai rai lại bị điểm xấu. Thầy L. A thường chú ý trò nào kém toán nhất thì chiếu cố, nên bọn nhãi chúng tôi rất sợ thầy.
Hãy biết rằng anh lúc ở trường
Rất tồi toán pháp, khá văn chương.
Chàng trai đi học nghe chim giảng
Không thuộc bài đâu, ấy sự thường.
Bên cạnh nhà dì Đồng Hoà tôi có một tiệm vàng hiệu B. T. phố nhỏ thôi, nhưng sâu hun hút, có bàn ping-pong tập trung các thanh niên ăn chơi như con trai ông T. S. T., tay thầu khoán giàu có số một Qui Nhơn, có biệt thự gần bờ biển với vườn xoài, nhãn xum xuê trái, có xe hơi nhà, bọn tay sai vô ra nườm nượp, và mấy cậu học trò con nhà giàu ra Hà nội họ nghỉ hè về đứa nào cũng mặc tây đúng mốt, giày màu, đội mũ Fléchet, đi ngoài đường trên tay mỗi đứa cầm một hộp thuốc lá Tây. Thằng L. Tán chị Hồng Loan, cháu gái dì tôi, bị chị nẹt vì khinh nó dốt: Ra Hà nội nó chơi, ăn diện, đi nhảy nhót, chẳng học hành gì.
Câu chuyện thú vị dưới đây là do tôi được nghe anh X., bạn học cũ của L. nói lại:“Hôm đó bọn mình một tốp năm đứa đi nhảy về, giữa đường gặp mưa, bọn mình tạt vào bar Chí Thành uống nước. Bọn mình đang uống cà phê hút thuốc, thì bên cạnh đó một ông trung niên, người thấp, chắc, đầu hói, mặc ka ki vàng, nhưng túi áo trên có lòng thòng sợi dây đồng hồ vàng, ông đang dùng bữa cơm tối: bít-tết, xa-lát với rượu chát trắng...
Ông này thì mình còn lạ gì: Tham tá Toàn, kỹ sư cầu cống, hiện làm ở Sở Lục lộ. Ông ăn uống chậm chạp, không thèm nhìn bọn mình. Bỗng ông ngoắt tay gọi người phu xe kéo mà ông thuê giờ vào ngồi bên cạnh. Người phu xe kéo tưởng ông trả tiền xe, không dám ngồi. Ông đứng dậy ấn hai vai anh phu xe ngồi xuống, đoạn kêu bồi: - Một phần ăn như thế này nữa và bánh mì, cho thêm một cái ly. Anh kéo xe nhìn vào bộ áo dơ bẩn của mình với đôi dép vỏ xe đầy đất bụi, cứ nhổm người, không dám ăn uống tự nhiên. Ông rót rượu vang vào cốc, cụng ly với anh phu xe, cười:
- Ông xuất thân là giới bình dân mà, (ông giơ đôi chân mang giày ba ta cũ lên) ông thông cảm với các cháu. Ông rất mến nghề kéo xe vất vả của cháu. Do hoàn cảnh cả. Ông lại chúa ghét bọn công tử mà ăn bám vào cha mẹ, bọn nó dốt, học hành chẳng ra gì, mỗi thằng sắm được bộ cánh điện thì vì muốn le với đào, bọn nó đổi áo cho nhau. Còn giày thì nó sám giày tốt “peau de daim”. Nhưng thật ra đi chơi về, sợ chuột cắn, nó bỏ trong bao trêo lên vách... Bọn nó có cái “mã” ngoài, bên trong chẳng có gì. Còn ông thì mặc xuềnh xoàng, ka ki vàng, giày ba ta... Để tiện xê dịch, nằm đâu ngủ cũng được, có rách thì may bộ khác... cũng chẳng sao... Mấy thằng kia biết tay kỹ sư xỏ bọn mình, nên lặng lẽ chuồn.
Đi rồi chúng còn nghe anh phu xe kéo, biết có say rượu không, phá lên cười một tràng dài và chửi đổng: Mẹ kiếp!...
Lớp đệ nhất thành chung, tôi được học bổng ở ký túc xá, ăn và ở luôn trong trường. Chiều thứ bảy hôm đó, người phu xe trường đưa cho tôi bức thư, chị Hồng Loan dặn:“Anh ra ghé dì Đồng Hoà, tôi cần gặp anh để chia tay”.
Sáng chủ nhật, tôi từ ký túc xá đi thẳng về nhà dì tôi; tới nơi tôi thấy cô Hồng Loan đã bày sẵn bánh ngọt, cà phê và ngồi chờ... Cô vồn vã bắt tay tôi và cho tôi biết rằng: Cô sắp từ giã Qui Nhơn để đi Hồng Kông theo lệnh của ông Bang Đồng Nguyên, bố cô. Tôi nhớ đêm hôm đó trăng mười sáu... “Trăng rất trăng là trăng của tình duyên”.
Thật ra hai chúng tôi không có hứa hẹn một câu gì, mà cả hai đều thoáng buồn như đã có một lời nguyện ước. Cô Hồng Loan hơn tôi những ba tuổi, người con gái Tàu có đôi mắt xếch rất đẹp...
Chú thích:
(1) Giải thưởng loại ưu, tiếc rằng nói cà lăm
=O=
Truyền đơn cộng sản
Một buổi tối dạo chơi trước nhà, tôi lượm được một tờ giấy trắng khổ vở học trò, in thạch, gấp làm tư nằm vệ đường. Tôi cầm tờ giấy chạy vội vào nhà la lên: Anh em ơi, có cái này lạ lắm! Các bạn học trò ăn cơm tháng nhà tôi có anh Vi Cam học lớp đệ nhị, người Quảng Nam, dựt lấy tờ truyền đơn và mở ra đọc:
“Hỡi quốc dân đồng bào.
Thợ thuyền công nông đoàn kết đánh đổ bè lũ đến quốc thực dân Pháp và phong kiến thối nát...
Học trò xúm lại. Ai cũng nghe. Tôi cũng nghe và rất khoái. Có anh T. Đang làm bài., tay run bẩy bầy, mặt tái lét.
Thầy tôi nghe ồn ào phía trong phòng học, chạy ra, khi biết rõ sự việc, thầy tôi dựt lấy tờ truyền đơn kê vào bóng đèn dầu đốt liền. Nghe nói tờ truyền đơn do tôi đưa ra, thầy tôi nắm tay tôi lôi vào nhà sau quát mắng, rồi quật cho tôi một trận đòn cháy da bằng dây nịt, căn dặn từ nay không được lượm “cái gì” ngoài đường đem về nhà.
Nhân vụ này, tôi bỗng nhớ lại, tôi có người anh họ tên là Trần C. học năm thứ ba thành chung trường Qui Nhơn bị bắt và đã đi tù vì có dính líu đến vụ ném truyền đơn trong nhà trường. Vụ nữa, là anh Nguyễn X. V. cháu nội bà tôi, cũng bị bắt đi tù vì tội theo cộng sản phá rối trị an... Tôi có gặp anh V. Một lần tại Gò Bồi, ở nhà bà nội. Lúc đó nghe nói anh vừa đi tù về và đang bị quản thúc ở làng Tùng Giản, đầu tóc anh rụng gần hết, da mặt bủng rè. Anh mặc áo dài trắng, chân đi guốc gỗ trắng, gầy guộc, nhưng đôi mắt rất sáng, nhìn thẳng, miệng lúc nào cũng cười... Các cậu tôi không ai dám lên phủ Tuy Phước bảo lãnh nhận anh về, vì sợ liên luỵ gia đình, buộc lòng bà tôi phải lên phủ nhận anh về.
Quan phủ hỏi:“Sao bà bá hộ lại đi nhận?”
Bà ngoại tôi là bá hộ duy nhất Vạn Gò Bồi, vì bà ngoại có ghe bầu, vựa nước mắm và ruộng đất. Bà tôi lấy trầu ăn, bình tĩnh đáp:
- Bẩm quan phủ, nó là cháu nội tôi. Cha mẹ nó chết hết, vậy tôi xin quan phủ cho phép tôi được nhận nó về, tôi xin chịu trách nhiệm về việc làm của nó sau này...
Quan phủ gõ gõ cây bút lông trên bàn... rồi cho lính ra gọi xã trưởng làng Tùng Giản vào. Xã trưởng nói vòng vo một chặp. Đoạn, Nguyễn X. V. Được mời từ lao xá lên. Quan phủ đăm đăm nhìn người tù chính trị, suy nghĩ một lúc, chậm rãi nói:
- Thầy về (vì anh V. là hương sư trường làng). Bà bá hộ đã nhận lãnh. Thầy về nghỉ ngơi, an dưỡng và đừng nghe lời xằng bậy của bọn khiêu khích...
Lúc ra về, bà ngoại tôi không quên đặt một phong bì dày cộm trên bàn Quan phủ để đền ơn về việc nhận lãnh anh V., người hoạt động cộng sản những năm 1930.
Tôi xa anh V. Một thời gian dài. Chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp, anh V. Được lệnh đi Qui Nhơn xuống tàu tập kết ra Bắc. Còn anh T. C. Thì nay đã chết rồi...
Bài học cuối cùng của em tôi
Lúc tôi ra Huế học ít lâu, bỗng một hôm nhận được một bức thư của em tôi. Địa chỉ: XD Lycée Khải Định, Huế.
Em tôi viết thư dài đến tận bốn tờ giấy lớn. Nó nói nó đã thôi học luôn. Không hy vọng trở lại trường. Lý do: giờ địa lý. Vì nó không có tiền mua quyển Géographie Foncyn (Địa lý do Foncyn biên soạn) nên thường bị điểm không. Thầy Phạm Trường Xuân chú ý, nên tới giờ thầy Xuân là bị kêu lên bảng rồi đi phạt suốt những ngày chủ nhật. Nó bị phạt thì không ai làm việc nhà. Mẹ tôi la. Thầy tôi đánh mắng, khiến em tôi lo sợ. Buồn quá nó không biết tỏ nỗi lòng cùng ai. Rồi có một hôm ông Tú Thọ, thầy tôi dạy chữ Hán tại trường Qui Nhơn, tới dạy giờ tiếp mở sổ ra xem, thấy em tôi bị zéro, liền cáu tiết gọi lên bảng, rồi không hỏi gì, ông cầm ngay cái giẻ chùi bảng đánh và mặt em tôi một cái rất mạnh, tấm giẻ rớt, mặt mày em tôi lem luốc như một thằng hề, học trò thương hại không ai cười, nhưng em tôi xấu hổ quá lấy vạt áo dài lau mặt qua loa, rồi chạy ra phía sau cổng biến mất. Nó vĩnh viễn xa trường Qui Nhơn từ đó... Tôi biết nó sẽ bị đói rách dài ngày vì còn nhỏ quá, sức đâu lao động nổi để kiếm cơm sống qua ngày, khiến tôi buồn suốt mấy tuần lễ, giận nhà, tức em tôi, nhưng rồi vì lo bài vở học thi nên nguôi dần...
Cách đó vài tháng, tôi lại được một thư nữa, nó nói đã có việc làm, hàng ngày nó đội cá ngoài biển cho những người dân chài, người ta trả công bằng cá, nó đem vô chợ bán có tiền đủ mua cơm ăn, - nhưng nó đặc biệt, khuyên tôi đừng buồn, cứ tin hoàn cảnh nào anh em Diệu cũng sống được...
Rồi tôi may mắn gặp được Huy Cận, kết bạn, để chia sẻ nỗi buồn, tôi có viết một truyện ngắn đăng báo Ngày nay: Thằng ăn mày.
Tội nghiệp! “Thằng ăn mày” là em tôi. Không hiểu “Thằng ăn mày” bấy giờ còn ở Qui Nhơn hay lưu lạc phương nào. Một trưa hè, tôi đứng trong sân trường cảm thấy nhớ Qui Nhơn và em tôi một cách lạ lùng:
Rưng rưng hoa phượng màu thương nhớ...
(Thơ Huy Cận trong Lửa Thiêng)
Trong thư nó cho tôi biết rằng: Núi Xuân Quang có rừng thông có rất nhiều cây thị. Vào đó không sợ chết đói, vì thị chín rất nhiều. Nó ăn Tết trong rừng thị, rồi “tịch”(1) luôn ở đó. Xuân Quang cách thành phố Qui Nhơn chừng mười cây số đường chim bay. Thảm cảnh của em tôi là nằm ăn trái thị đón xuân sang rồi chết luôn ở đấy ư?
Chú thích:
(1)tiếng nhà Phật là chết
Người bạn tâm giao của thầy tôi
Ông Tú Huế, người ta gọi ông như thế. Ông từ Huế vào Qui Nhơn đã năm năm, làm nghề bốc thuốc nam và dạy trẻ em học chữ nghĩa. Lúc bấy giờ, cha mẹ thích cho con học tiếng Pháp, để may ra học giỏi, đậu cao thì làm thầy thông, ông phán, quan tham, tệ ra cũng làm được một chú long-toong (planton) hoặc người đưa thư trong thành phố.
Phần nhiều, người ta đã vứt chiếc áo dài, khăn xếp, để mặc tây, duy chỉ ông còn giữ lại cái áo the thâm tàn, cái khăn xếp, và đôi giày hạ đã vẹt gót.
Tôi học đệ tứ thành chung cũng là bạn gái áo dài với ông, nhưng khác ông là cái mũ và đôi guốc gỗ trắng nhẹ. Thầy tôi thì có lúc mặc tây, lúc mặc ta, nhưng mặc áo quần tây hay ta, thầy tôi vẫn sang trọng.
Ông Tú Huế đến ở nhà tôi đã trót năm. Lý do: dạy em Như tôi học chữ Hán. Thầy tôi đối xử với ông rất tử tế, trà, thuốc, cơm nước đàng hoàng.
Số là trước đó, luc tôi lưu trú trong trường tôi bị cảm thương hàn nặng, thầy tôi sợ tôi chết, vì tôi thường bị ướp nước đá, ướp nước đá có nghĩa là suốt ngày treo bịch đá trên trán người bệnh. Tôi nằm được năm ngày, thầy tôi xuống nhà thương đem tôi về. Bệnh đã bắt đầu trầm trọng. Người ta mách với thầy tôi rằng trong xóm Động có một ông thầy người Quảng Trị chữa
bệnh thương hàn rất hay, khắp nơi người ta mời ông vì ông bốc thuốc cho thân chủ chỉ năm mười thang là khỏi bệnh. Thầy tôi xem toa thuốc của ông thì chỉ thấy độc vị “Phụ Tử” là chính, vì vậy mà người ta đồn ông là thầy “Phụ tử”.
Uống thuốc ông, tôi ngày một thuyên giảm bệnh. Ông bốc thuốc cho mười thang nữa là tôi lành bệnh hẳn. Tôi đã bắt đầu ăn cháo và bạn bè đến thăm, tôi đã ngồi dậy tiếp chuyện được. Thầy tôi trọng đãi ông “Thầy phụ tử” như một vị khách. Khi khỏi hẳn, tôi trở lại trường học ôn bài để chuẩn bị thi thành chung.
Chủ nhật trở về thăm gia đình, tôi thấy thầy tôi vác về cả đống sách thuốc và thầy tôi bắt đầu nghiên cứu các vị thuốc...
Ngày thi lấy bằng thành chung đã đến. Thi viết tại Qui Nhơn, thi vấn đáp phải ra Huế. Tôi đậu Thành chung rất mừng. Cả nhà vui. Thầy tôi rất hãnh diện với bà con thành phố. Thế là sau đó, thầy tôi chính thức làm thầy thuốc bắc, ban đầu bốc thuốc cho những người thân quen biết, sau lan truyền cả thành phố và nông thôn vùng phụ cận, nhà ai có người đau đầu rước thầy tôi xem mạch và cho toa. Tiếng tăm ông Tú Thọ thầy thuốc bắc, nổi như cồn. Những lúc bưng nước lên nhà trên cho ông Tú Huế, tôi thường nghe em Như tôi vừa tập viết chữ Hán vừa lẩm nhẩm đọc:
Hoàng kỳ tánh ôn
Thâu hàn cố biểu
Thúc sản sanh cơ
Khí hư mạc thiểu...
Mùa hè năm ấy, vợ ông Tổng giám thị trường Qui Nhơn mất. Học trò lớn, nhỏ được nghỉ một ngày để chuẩn bị đưa người quá cố đến nơi yên nghỉ cuối cùng.
Thầy tôi được các giáo sư trường tới nhờ cho câu đối phúng diếu. Nhiều và vô cùng vất vả. Tôi và các bạn tôi mài mực cho thầy tôi viết câu đối đến mỏi nhừ cả tay...
Đến lượt mấy bà bạn của bà Tổng Gíam thị, gồm vợ các giáo sư, vợ công chưa các công sở trong thành phố đến nhờ thầy tôi cho chữ một câu đối phúng điếu.
Đã xế trưa, thầy tôi thấm mệt đang dùng trà giải lao, bỗng nghĩ ra một ý hay, thầy tôi mỉm cười và vỗ đùi nói:
- Thầy trợ, nhờ thầy nghĩ hộ một câu đối cho mấy bà...
Ông Tú Huế khoan thai vuốt chòm râu mép, xốc lại áo dài, kéo một hơi thuốc lào thật kêu, lúc thả cần thuốc, nét mặt ông rạng rỡ, vỗ trán mấy cái nhè nhẹ, ứng khẩu đọc lên câu đối nôm:
- Mới đây một mảnh gương trong
Bầu bạn chị em đều mến đức.
- Chi vội ngàn năm bóng khuất
Bà con bác mẹ luống đau lòng”.
Thầy tôi khen hay, cô giáo dạy trường nữ học Qui Nhơn, lấy khăn lau nước mắt... Rồi ông Tú Huế giục ông đưa nghiên mực Tàu sang phía phải, ông đưa ngòi bút lông cỡ bự (thức dùng viết liễn) lướt trên khung vải trắng chúc bâu; nét chữ rồng bay phượng múa thật sắc, và dáng vẻ tự hào, nét mặt ông Tú Huế rạng rỡ hả hê chưa từng thấy...
Cái nghề không bao giờ khá được
Thầy tôi thuê nhà ông Chín Cưỡng, mỗi tháng trả sáu đồng.
Ông Chín Cưỡng lai Tàu, lúc bấy giờ độ trên bốn mươi tuổi, không làm gì, ông chỉ ở nhà đánh bài, cho thuê nhà, cầm vàng và hút thuốc phiện.
Anh của ông là ông Bảy Cu, khoảng 60 tuổi, cao lêu đêu, gầy ốm, làm nghề gá bạc. Ông Bảy bán thuốc xác cho dân nghiền cùng cực, và cũng đặt bàn đèn hút.
Ông Chín Cưỡng có trồng trong vườn một cây khế ngọt của ông. Tôi ghét ông, nhưng rất thích những trái khế ngọt của ông. Độ mười một giờ đi học về, tôi hay ra vườn hái khế. Phải thật thà mà nói rằng, nhà ông không ai thèm ăn khế; nhà giàu, ông cũng không thèm hái khế bán. Khế
rụng đầy gốc. Bữa nào ra vườn xui xẻo gặp ông, ông không nói gì, nhưng cái nhìn của ông thật đáng sợ, hai con mắt sâu đầy tròng trắng chăm chú nhìn tôi, khiến tôi đang cầm trái khế trong tay mà run lên cầm cập như phát sốt.
Và ông Bảy Cu khó tánh, đến nỗi ai đến xách nước nhà ông, vô ý để gàu thiếc va vào thành giếng, là ông ỷ thế giàu chửi mắng thậm tệ. Trẻ con thì khỏi nói, cấm tiệt lảng vảng trước cửa ông. Trong xóm có thằng Kèn lại ra dùng ná thun bắn vào cửa ông, rồi biến mất. Ông đội mũ, mặc áo vào, tức giận đi tìm... nhưng không đứa nào chịu chỉ “chính danh thủ phạm”, dù nhiều khi ông ta cầm hào bạc giơ lên, tay huơ huơ dụ bọn trẻ con tìm hộ.
Tụi bạc bịp tay em của ông Chín Cưỡng rất đông, Sáu Gạo, Hải Tiểu... là những tên cò mồi nguy hiểm. Mấy ông nhà giàu, lý hương các xã miệt An Nhơn, Thiều Quang... xuống Qui Nhơn nạp thuế hay cất hàng, chẳng may sà vào các sòng bạc do ông và tay em tổ chức, thì có nước xách dù nhịn đói về không.
Nó là thế này: Dân các vùng quê tôi có máu mê đánh bong đôi. Bong đôi là hai đồng tiền bong vụ, lấy bát úp lại, mở bát ra chẵn hay lẻ là ăn thua. Đó là nói đánh ngay thật, đỏ đen. Còn bọn cò mồi bạc bịp, bong đôi là cặp tiền mài, cạnh của mỗi đồng tiền trét a dao, chẵn là tiền đi êm, còn lẻ thì tiền hai tiếng kêu trong bát không đều.
Sở dĩ tôi biết được việc này là do anh Chúc, người ở lâu năm nấu ăn tín cẩn của ông Chín Cưỡng nói lại.
Còn ông Bảy Cu thì gá bài, cù rủ mấy bà, mấy cô, mê bài bạc đánh tứ sắc, lắm người bán cả vàng vòng, đem thân dâng hiến cho người giàu có vì thua bạc.
Sáu Gạo và Hai Tiểu đi vòng ngoài coi lính và câu mồi cho ông Chín Cưỡng. Rồi đêm đến, tại nhà ông, các công chức có máu mặt như bác sĩ K., giáo sư T., trợ giáo L., thừa phái S... Đánh xì phế suốt đêm, thua bài bạc mặt... và sau đó những trò gì sẽ xảy ra ở bệnh viện nhà nước, ở công trường, ở các trường học trong ngày...
Sáu Gạo những ngày không tổ chức sòng bạc thì vào nằm với những bọn gái điếm xóm Động, Hai Tiểu đi chạy hàng lậu cho các thương gia thành phố.
Họ làm ăn hốt tiền như vậy, mà không hiểu sao, khi Nhật tới làm ăn buôn bán với Nhật thế nào mà bị sạt nghiệp. Bọn con buôn từ Hà nội vào tráo tiền giả. Sau đó họ buôn vàng lại vớ phải hàng giả từ Thượng Hải đem qua. Hiến binh Nhật nổi cáu vung gươm ra, vậy là bè lũ Chín Cưỡng đi đời.
Thầy tôi vẫn thường nói:“Cái nghề không lương thiện, bóc lột, dối trá, nghề này xưa nay có khá được bao giờ!”.
=P=
Từ lúc ra Huế học, lần đầu tiên gặp lại em tôi.
Tôi gặp em tôi ở đường Dayot trong lúc nó đang vác một bao quần áo lính thuỷ tàu Astrolabe về tiệm giặt của bà Tư Sáng. Nó thấy tôi mừng quá, vứt bao đồ ở vệ đường, chạy tới ôm chầm lấy tôi.
Tôi thương em, và thấy ngực mình tắc nghẹn. Câu hỏi đầu tiên của tôi:“Em làm gì?”. Nó nói nó làm thợ giặt, vừa giao đồ dưới tàu về, bao này là đồ dơ họ gửi giặt.
Nó mới 14 tuổi thì làm sao mà làm thợ giặt được? Tôi khẽ cúi đầu xuống, không dám nhìn cảnh cực nhọc của em.
- Em giỏi lắm. Ăn cơm có no không?
Nó cười hồn nhiên:
- Dạ, no hung.
Tôi nói cho nó biết rằng, tôi có nhận một thư của nó. Trong thư nó có nói, đã nhận được một gói quần áo, thấy túi áo lót veston để tên Huy Cận, nó hỏi tôi Huy Cận là ai, tôi đáp là bạn thiết cốt của anh.
Tôi móc túi cho nó bốn đồng bạc. Nó nói bốn đồng ăn được một tháng cơm. Lúc đó tôi thấy một người đàn bà trạc tứ tuần, dáng phúc hậu chạy ra nhận bao đồ và chào tôi. Bà là chủ tiệm giặt, đồng thời là bà bán cơm bình dân. Cơm bình dân chủ yếu cho phu xe kéo. Bà nói:“Hiện giờ nó làm công cho tôi, cơm no áo ấm, ông yên tâm. Trước kia tôi thấy nó đi kéo xe, sức yếu, thương quá, tôi bảo nó bỏ nghề xe kéo và làm việc cho tôi”.
Tôi bèn lấy bốn đồng bạc cho em tôi trao cho bà giữ giùm, và dặn khi nào cần thiết lắm thì bà giao lại cho nó chút ít để nó tiêu dần. Tôi không quên cảm ơn bà chủ khi giã từ. Bà hỏi tôi:“Cậu có phải con ông Tú Thọ, anh ruột nó không?”.
Hôm tôi sắp ra Hà nội, tôi có đi tìm gặp em tôi. Tôi cho nó một chiếc áo sơ mi hai da, ngoài hột mè, trong nỉ trắng, để mặc ấm, tôi dặn nó để dành mặc làm kỷ niệm, vì chiếc áo này của anh Huy Cận cho anh, anh thương em nên nhường lại cho em. Nó cầm áo hít hít cái mùi long não, thẫn thờ: Anh nói với anh Huy Cận là em xin cảm ơn anh Huy Cận nhiều lắm. Nó mặc áo vào: Áo rộng lùng thùng. Nó vén hai tay áo lên đến khuỷu tay và cười. Anh ăn với em một bát chè ngọt nghe. Tôi sờ túi sơ mi rồi nói:“Anh không mang tiền theo”.
- Không sao. Rồi nó chạy vào quán bưng ra một bát chè ngọt, nếp nấu với đậu đen. Thêm một cái muỗng. Hai anh em ngồi dưới trụ điện, cùng ăn với nhau. Tôi thương em và thấy ấm cúng quá! Tôi dặn nó:“Đừng bỏ việc. Dù sao có cơm ăn áo mặc vẫn hơn”. Nó đưa tôi đi dọc bờ sông, về tới chùa Bà, nó dừng lại đưa cho tôi một đồng bạc. Tôi từ chối. Nó nói: - “Đây là lương tháng của em vừa lãnh. Anh cho những bốn đồng, còn y nguyên, chưa tiêu gì mà...
Tôi nắm tay em tôi một hồi lâu không biết nói gì. Tôi rất mừng, hiện tại em tôi không đói rách.
Chú thích:
Người em trai nói đến trong đoạn hồi ký trên, phải bỏ học, và đã đi hoang một thời chính là anh Tịnh Hà (tức Ngô Xuân Sanh, em cùng mẹ cùng cha của anh Xuân Diệu), người đã ghi chép mấy trang hồi ký trên theo lời anh Diệu kể).
=Q=
Phụ lục: Xuân Diệu & tôi
Chúng tôi cùng chung một hoài bão thiết tha về văn hoá dân tộc, tâm niệm góp phần khiêm tốn của mình bồi đắp cho văn hoá nước nhà. Chúng tôi cùng một hoài vọng và quan niệm về thơ, là đi trên “con đường lớn của thơ: thơ của cuộc đời, thơ của con người”.
Huy Cận
Tôi cảm tạ cuộc đời đã độ lượng cho tôi một cuộc sống tình cảm đầy đủ, có cả tình yêu và tình bạn. Tình bạn chân chính thường hiếm, nó là thứ hương trầm toả từ những tâm hồn đồng điệu. Anh Xuân Diệu đột ngột từ giã chúng ta ra đi ngày 18-12-1985, lúc chỉ còn mấy tháng nữa thì tròn năm mươi năm của tình bạn chúng tôi. Đã 10 năm không còn thể phách Xuân Diệu trên đời này, tôi xin ghi về những chặng đường chính của đôi bạn Huy - Xuân. Tựu trường năm 1936, chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên ở trường “tú tài” Khải Định, Huế (Trường Quốc học cũ), anh Diệu (ở Hà nội về) học năm thứ ba, tôi vào học năm thứ nhất. Hai đứa đọc thơ cho nhau nghe, và “đồng thanh tương ứng”, kết bạn với nhau gần như tức khắc. Tình bạn của chúng tôi, ngay từ lúc đó, không chỉ đóng khung trong địa hạt văn chương. Tháng 4-1937, trong trường có cuộc vận động đón Gôđa đại diện của Chính phủ mặt trận Bình dân Pháp đến Huế. Anh Diệu cầm đầu đám học sinh ba lớp tú tài đi đón. Tôi còn nhớ rõ anh Diệu bảo người gác cổng trường khoá cổng lại, không cho những kẻ nhút nhát rút lui về. Sau cuộc
đón ấy, anh Diệu, tôi và một số anh em khác bị cắt học bổng, suýt nữa thì bị đuổi học. Tựu trường năm 1937 anh Diệu ra Hà nội học trường Luật và viết báo “Ngày nay”, tôi học năm thứ hai ban tú tài, làm gia sư ở một nhà hàng tuần và tôi gửi cho Diệu những bài thơ tôi vừa làm xong.
Tết năm Dần 1938, bài “Chiều xưa” của tôi được đăng cùng trong một khung với bài “Cảm xúc” của Xuân Diệu trên báo “Ngày nay”. Tết đó tôi từ Huế ra chơi với Diệu ở Hà nội, lần đầu tiên tôi làm quen với đất nghìn năm văn vật, và lúc trở về Huế mang theo một cành đào. Hè 1938, tôi ra sống với Diệu ở chân đê Yên Phụ. Ở đó Diệu viết truyện “Cái giường”, một số bài thơ, còn tôi thì viết “Buồn đêm mưa”, “Trông lên”, “Đi giữa đường thơm” và mấy bài khác. Hè 1939, Diệu viết bài giới thiệu thơ Huy Cận: sau một năm, tôi đã có thơ đăng đều đều trên báo “Ngày nay”. Tựu trường năm 1939, sau khi đậu tú tài toàn phần, tôi dạy tư hai tháng ở Vinh và tháng 10 ra Hà nội học Trường cao đẳng Nông Lâm. Diệu tiếp tục học Luật và dạy văn ở trường Thăng Long. Hai chúng tôi cùng sống ở căn gác nhà số 40 Hàng Than (“Phố không cây thôi sầu biết bao chừng”), ở tầng dưới là anh Lưu Trọng Lư. Chúng tôi dành dụm tiền học bổng và tiền lương dạy học để cho tái bản tập “Thơ thơ” và chọn dòng chữ “Huy - Xuân xuất bản” lên sách. Đầu năm 1940, Diệu đi làm tham tá thương chánh ở Mỹ Tho, vì kế sinh nhai (“Cơm áo không đùa với khách thơ”), cũng như tôi học cao đẳng Nông Lâm là cốt để có nghề tay trái. Chúng tôi tạm sống xa nhau, buồn đứt ruột, hằng tuần viết thư cho nhau, có tuần hai, ba lá thư. Từ cuối năm 1941, tôi đã tham gia hoạt động Việt Minh, nhưng chưa có dịp cho Diệu biết. Diệu thì chờ tôi đậu kỹ sư là “cuốn gói” trở về Hà nội. Hè 1942 tôi đậu kỹ sư canh nông và cuối năm bắt đầu đi làm ở Sở Nghiên cứu Tầm tang. Diệu điện hỏi tôi:“Diệu từ chức được chưa?”, tôi điện trả lời: “Từ chức ngay! Về ngay Hà nội!”. Chúng tôi sống trên gác phố Hàng Bông (số nhà 61), tiếp tục làm thơ, làm “Nhà xuất bản Huy - Xuân”. Thời kỳ này (cuối năm 1942), tôi hướng dẫn anh Diệu vào con đường hoạt động bí mật (trong Việt Minh và trong Đảng Dân Chủ). Cuối năm 1944, Diệu về thăm quê ở Can Lộc (Hà Tĩnh), về thăm gia đình tôi ở xã An Phú. Anh rất bí mật nói với mẹ tôi:“Anh Cận hoạt động cách mạng rồi bà ạ. Nếu cách mạng thành công thì không nói làm gì; nếu có điều gì chẳng may, thì con sẽ thay anh Cận cùng bà lo việc gia đình”. Mẹ tôi ứa nước mắt và anh Diệu đã giúp mẹ tôi một số tiền để trả nợ. Cuối tháng 7-1945, tôi đi dự Quốc Dân Đại hội họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), thì Diệu ở lại Hà nội, “giữ nhà”. Cách mạng tháng Tám thành công, chúng tôi chuyển về ở nhà số 50 phố Hai Bà Trưng (đằng sau Thư viện Quốc gia), Diệu hăng say hoạt động trong Hội Văn Hoá cứu quốc, tôi thì phụ trách công tác ở Bộ Canh nông và ở Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chúng tôi vào Hà Đông rồi lên Việt Bắc, tôi ở ATK (An toàn khu) của Chính phủ, Diệu ở Lục Giả, rồi ở Thanh Cù, làm báo Văn nghệ, nhưng cứ khoảng một tháng một lần, Diệu vai mang ba lô đi xe đạp và đi bộ về gặp tôi ở ATK. Lại những buổi thơ giữa sương đêm của rừng Việt Bắc. Cũng ở trong rừng Việt Bắc những năm đầu kháng chiến cả hai chúng tôi được kết nạp Đảng. Giải phóng miền Bắc chúng tôi về Hà nội, được bố trí ở nhà số 24 đường Cột Cờ, nay là phố Điện Biên Phủ. Chúng tôi lại hăng say công tác, hào hứng làm thơ, “đi thực tế”. Những năm chống Mỹ, cứu nước, hai đứa hơn mười lần đi Khu Bốn khói lửa, nhiều lần suýt chết dọc đường vì bom Mỹ. Dọc đường, chúng tôi đọc thơ cho bộ đội, cho dân công nghe, sống cuộc đời chiến sĩ, trong không khí hào hùng của đất nước. Giải phóng Sài gòn, Giải phóng Miền Nam, chúng tôi lại hăng say “đi thực tế” ở đồng bằng sông Cửu Long, ở Tây Nguyên, ở Khu Năm “Khúc ruột miền Trung”, nhất là Xuân Diệu ham đi miền Nam mà anh đã hiểu biết và mến thương nhiều từ trước. Và Diệu đi bình thơ, có tới gần một nghìn cuộc bình thơ cho đến ngày Diệu mất. Còn ở ngôi nhà số 24 Điện Biên Phủ thì:
“Đêm đêm trên gác đèn chong,
Cận ngồi cặm cụi viết dòng thơ bay.
Dưới nhà bút chẳng rời tay
Bên bàn Diệu cũng miệt mài trang thơ.
Bạn từ lúc tuổi còn tơ,
Hai ta hạt chín chung mùa nắng trong.
Ánh đèn trên gác, dưới phòng.
Cũng là đôi kén nằm trong kén trời”.
Chúng tôi cùng chung một hoài bão thiết tha về văn hoá dân tộc, tâm niệm góp phần khiêm tốn của mình bồi đắp cho văn hoá nước nhà. Chính theo tinh thần ấy mà gần suốt 30 năm, anh Diệu đã cặm cụi viết bộ sách đồ sộ “Các nhà thơ cổ điển Việt nam”. Chúng tôi cùng một hoài vọng và quan niệm về thơ, là đi trên “con đường lớn thơ: thơ của cuộc đời, thơ của con người”. Chúng tôi dùi mài học thơ cha ông, tiếp nhận chủ nghĩa nhân bản sâu sắc của cha ông, đồng thời học văn hoá cổ của phương Đông, Trung Quốc, Ấn Độ, và học văn chương phương Tây từ thời cổ cho đến hiện đại, đặc biệt là tâm đắc văn học thời Phục hưng và văn hoá thế kỷ 20. Không chỉ học văn hoá Pháp, mỗi chúng tôi đều có hai quê hương. Anh Diệu thì quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định (“Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong”). Tôi quê ở Hà Tĩnh, nhưng học 10 năm ở Huế (từ 10 đến 20 tuổi) nên Huế là quê hương thứ hai của tôi. Hai quê hương của Xuân Diệu, Huy Cận bổ sung cho nhau và cho mỗi chúng tôi hồn thơ đa dạng trong cái hồn thơ chung bám gốc dân tộc.
Cuộc sống và thơ đã cho tôi người bạn thân thiết nhất, cho tôi tâm hồn tri kỷ, tấm lòng tri âm nơi Xuân Diệu. Chúng tôi sống giữa đời như anh em sinh đôi, nhưng bản lĩnh và phong cách văn chương thì rất khác hẳn nhau, khác nhau mà bổ sung cho nhau thành một “quả đôi”. Anh Diệu ra đi mà chưa kịp viết hồi ký, chỉ để lại cái tên “Tôi cảm tạ cuộc đời” cho tập kỷ niệm đang chuẩn bị viết. Xuân mất đi, còn lại Huy. Tôi đang viết hồi ký chung cho cả hai người với nhan đề là “Hồi ký song đôi”. Anh Tịnh Hà (em ruột Xuân Diệu), các anh Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân sanh, Tế Hanh và nhiều bạn thân khác của chúng tôi giúp tôi viết đầy đủ về đời và đời thơ của anh Xuân Diệu.
Tôi nhớ lại: một tháng trước khi Diệu mất, một buổi chiều, Diệu ngồi trệt giữa phòng nói với tôi:“Trong hai đứa mình, đứa nào chết trước là sướng, đứanào ở lại sau chắc khổ lắm”. Tôi nghe, lặng người đi, không dám nói câu gì. Tôi cảm thấy nỗi đau trong lòng Diệu khi thốt ra câu đó. Nào ngờ đó là lời trối trăng của Diệu cho tôi. Quả thật, sau đám tang của Diệu, liền trong nửa năm, tôi nghe trong người tôi, trong tâm hồn tôi như hẫng đi, và thấy như cuộc đời hư lãng. Và rất nhiều lần Diệu về gặp tôi trong chiêm bao, cả lúc tôi ngủ trên máy bay đi công tác xa. Ngày Diệu mất, lúc 7 giờ 40 phút ở Hà nội thì đúng lúc ấy ở Dakar (Sénégal) là 12g40’ trưa, tôi bị xuất huyết nặng. Thần giao cách cảm: nhân điện của Diệu truyền thông cho tôi giây phút ấy. Ngày 19-12-1985, về đến Paris được Sứ quán ta báo tin Diệu mất, tôi sửng sốt, bàng hoàng, máu vẫn chảy vì xuất huyết nặng ở mũi. Tôi và con tôi (cháu Vũ) trong cơn đau đớn, cố trấn tĩnh để đi đổi vé máy bay về cho kịp đám tang, nhưng ngày 23 tôi về thì đã chôn Diệu ngày 21 rồi. Từ Paris tôi đánh 10 bức điện về Hà nội (cho Hội nhà văn, cho Liên Hiệp văn học nghệ thuật, cho Bộ văn hoá, cho anh Tố Hữu..) đề nghị chờ tôi về hãy chôn bạn tôi, nhưng không kịp. Nửa thế kỷ tình bạn, nói sao cho xiết! Diệu ơi, ở thế giới bên kia Diệu có còn nghe chăng Cận kể chuyện Huy - Xuân trong hơi thở ấm nồng của tiếng Việt, tiếng Việt mà chúng ta đã yêu tha thiết, yêu da diết như chính hồn của dân tộc, như chính hồn của mỗi chúng ta... Xin tặng độc giả bảy bài thơ về tình bạn Huy - Xuân của tôi.
DIỆU ƠI, DIỆU ĐÃ VỀ YÊN TỊNH
Diệu ơi, Diệu đã về Yên tịnh
Cận hãy còn đây trăm xốn xang
Cận mới về thăm quê Nghệ Tĩnh
Gặp tuần trăng sáng ngẩn ngơ trăng.
Cận ra Thanh hoá nằm bên bờ biển
Biển lại dồn xao không phút ngưng
Diệu đã đi xa về tới bến
Cận đang biển động sóng lừng dâng.
“Hồi ký song đôi” đang viết dở
Hai chương tuổi nhỏ chép xong rồi.
Đời ta trang khép, còn trang mở
Cận viết đầy trang, tay mới xuôi.
Biển lớn băng qua ấy biển đời
Biển vào vũ trụ ánh sao mời
Diệu dò thế giới bên kia trước
Khỏi lạ đường khi Cận tới nơi.
(Sầm Sơn 27-7-1986)
BÀI THƠ MẢNH VẢI
Diệu ở Mỹ Tho gửi thư cho tôi nói sẽ mua vải gửi ra cho tôi may bộ quần áo mùa hè. Tôi đáp lại bằng thư - thơ sau đây:
Cảm lòng ôm ấp phương xa
Nỗi niềm thương nhớ vì ta trải bày
Vải cầm mảnh nhỏ trong tay
Lòng kia dệt ấm trời mây mấy trùng.
Mở thư một sáng lạnh lùng
Hai chiều vải dệt tao phùng Huy - Xuân.
Dọc ngang tơ chỉ sát gần
Đi về mấy dạo hai thân một hồn.
Một mai ta chết xin chôn
Hai ta sát cạnh xương luồn qua xương
Đất già lạnh toát đêm trường
Huy - Xuân nằm dệt tấm thương muôn đời.
Mắt này gửi liễu đâm tươi.
Môi này lại mượn chim cười giao duyên.
Huy Cận
(Hà nội mùa thu 1942)
VIẾNG MỘ DIỆU
Lạnh lắm trời ơi! lạnh lắm không?
Cận về không kịp, chỉ còn trông
Đất vàng một nấm hoa vừa héo
Nằm một, giờ đây Diệu lạnh lùng.
Năm mươi năm trước thuở ra đời
Thơ của Huy Xuân trái kết đôi
Tình bạn Huy Xuân đời ấm áp
Tiếng ai thăm hỏi: Xuân đâu rồi?
Xuân vẫn còn đây, Xuân ở đây
Xuân đi, Xuân lại cắm đời này
Dọc đường tiễn Diệu về an nghỉ
Nghìn vạn bà con mắt lệ đầy.
24-12-1985
Huy Cận
Chiêm bao thấy Diệu
Trên đường công tác phương xa
Nửa đêm gặp Diệu, lại là chiêm bao!
Diệu rằng: “Tuyển tập ra sao?
Phải tay Diệu chọn cho dào mạch thơ”
Diệu ơi! Mới đó, đôi bờ
Âm dương đã cách, bao giờ lại chung?
Huy Xuân một cuộc tao phùng
Nửa trăm năm chửa thoả lòng tri âm
Hẹn cùng trời đất ta nằm
Bên nhau cho khỏi lạnh dằm Xuân ơi!
Bấy giờ liễu sẽ đâm tươi
Môi tàn lại mượn chim cười giao duyên.
(Trên máy bay từ TP. Hồ Chí Minh đi Paris, đêm ngay 13, rạng ngày 14-2-1986). Huy Cận.
Nằm bệnh viện, gửi Diệu
Tập đi tập đứng lại yên ngồi
Số một thân ta báo động rồi
Cận hứa từ đây thôi ỷ sức
Gắng theo hết thế kỷ hai mươi.
Cái dạ yêu đời không thể can:
Đàn bầu dây đã vặn lên cần
Hễ đời chạm đến liền vang động
Một tiếng vê là vạn tiếng ngân.
Hai đứa rồi ra nghĩ cũng kỳ
Thương nhau hơn ruột thịt dường ni
Mà đàn mỗi đứa riêng âm sắc,
Cuộc sống muôn màu lặp lại chi!
Không lặp trùng nhau, nhưng cảm nhau
Tử Kỳ xưa chết, Bá Nha sầu.
Nhưng ta hai đứa cầm đàn vững,
Xã hội tri âm, đàn lắng sâu.
Yêu bạn, Mông-te tự giải lời:
“Bởi vì là bạn, vì là tôi”
Vì là Diệu, Cận nên ta đã
Quyện với nhau làm một trái đôi.
Bệnh viện Việt Xô, Ngày 5-12-1974
Tặng khăn
Chiếc khăn đầm lệ cho Xuân
Lệ non sông, lệ trầm luân một nguồn
Mắt Huy trút một kiếp buồn
Xuân cầm mảnh vảisờ khuôn mặt sầu
Vảisờn từng ấp xương đau
Lòng tan trăm bận khăn nhàu là đây
1942
Huy Cận
TẬP II
=A=
Xin bạn đọc chú ý
Những sự việc tình cảm trong hồi ký phần lớn thuật lại theo thứ tự thời gian đã sống. Song có những trường hợp thuật lại theo thứ tự của dòng hồi tưởng, khớp với lô-gíc của trí nhớ. Hồi ký viết năm 1986.
Tháng 10-1927, tôi đã lên học lớp tư trường Dị Long được một tháng, thì một buổi chiều trời hơi mưa và gió lạnh, có người vào lớp cho tôi biết là có người nhà bà ngoại tôi ở dưới Hạ lên, muốn gặp tôi ngay. Tôi ra thì gặp cố Chắt Lượng người họ rất thân với mẹ tôi. Cố cho biết mợ
Vân tôi (cậu Vân là em trai mẹ tôi) sắp vào Thừa Thiên, và muốn đem tôi đi, cho tôi vào ăn học trong đó. Tin đột ngột này làm tôi bỡ ngỡ, nhưng tôi cũng khấp khởi mừng thầm được đi, nhất là được bảo đảm ăn học, vì nhà tôi nghèo lắm nếu tôi cứ tiếp tục học ở Dị Long thì chắc cũng chỉ đến lớp nhất, lấy cái bằng tiểu học rồi là về nhà... Tôi xin phép thầy nói là về nhà có việc trở vào chào bác Nhỡn, rồi tôi cùng cố Chắt Lượng đi nhanh về nhà tôi ở xã Ân Phú. Mấy hôm ở Dị Long và Ân Phú mưa ít, nhưng ở nguồn mưa to nước lũ đang đổ về. Từ xóm dưới làng tôi đi ngược về xóm nhà tôi nước đã lấp xấp ngang bắp chân. Tôi về đến nhà thì thầy mẹ tôi cũng đã biết tin do bà ngoại nhắn lên vài tiếng đồng hồ trước. Thế là cả nhà cấp tốc chuẩn bị cho tôi đi vào ngày hôm sau. Nói là chuẩn bị, sự thực thì chỉ gói vài cái quần áo, mấy quyển sách học và vài quyển vở. Trưa hôm sau, trời còn hơi mưa, tôi đứng nơi thềm nhà nhìn những giọt mưa từ mái tranh rỏ xuống rãnh sân nhà buồn đứt ruột. Tôi lại đi thờ thẫn quanh nhà một lần nữa, nhìn vườn rau còi, nhìn cây mít cà, nhìn đõ ong mà chậu nước dưới chân giá đã mốc meo, nhìn cây quế bên nhà long thần bị trâu cọ mình vào hơi nghiêng... Nhìn tất cả cảnh vật quen thân mà lòng tôi não ruột. Chú Cu tôi biết tôi sắp đi, cũng chạy sang đưa cho mẹ tôi mấy quan tiền, gọi là tiền đi đường cho cháu. Tôi đi chào bà con ở gần nhà nhất, và hơi xế trưa mẹ tôi dắt tôi đi bộ xuống xóm dưới, gọi là xóm Boóng. Ở bến xóm Boóng sẽ có dượng Nuôi Ty đem đò đón để đưa mẹ con tôi về bến bà ngoại ở làng Tùng Ảnh. Từ xóm nhà tôi đến bến xóm Boóng nước lụt đã lên cao hơn hôm trước, mẹ con phải bì bõm lội từng chặng dài, có nơi lút đến ngực tôi. Mẹ tôi phải đi rất thong thả, vì đường có bùn trơn ở dưới, và phải dò từng bước sợ tụt xuống hố, và tay phải dắt tôi từng bước một. Nước lụt thì lạnh, mà mẹ con tôi đều không có áo ấm, khi có gió lạnh thổi tôi run cầm cập. Mẹ tôi chỉ cắn răng lại và bảo tôi “Cố gắng lên con, về nhà bà ngoại sẽ ngồi bếp ấm”, “Cố gắng mà đi, may mà học nên người quay lại về nhà thì khổ lắm, và xấu hổ lắm.... Cứ như vậy hai mẹ con trườn từng bước cho đến bến xóm Boóng, lúc đó trời đã xế chiều, sông tạnh vắng. Dọc đường có gặp một vài người quen ở xóm dưới, họ đều hỏi:“Mẹ con đi đâu mà vất vả thế, sao không chờ cho nước rút hẳn hãy đi.... Mẹ tôi chỉ cười qua quít và đáp:“Về thăm bà ngoại...; mẹ tôi không muốn cho ai biết là tôi được đi học xa. Ra đến bến thì thấy dượng Nuôi Ty (chồng o Biên, con gái nuôi của ông bà nội tôi) chờ sẵn, đò buộc vào một gốc sung ở bến. Hai mẹ con lên đò, dượng Nuôi Ty một mình chèo đò xuôi.
Nước sông dường như đã chững lại, lụt bắt đầu rút nhưng cảnh sông nước mênh mông với những củi rều trôi giạt lềnh bềnh làm cho tôi đang buồn xa nhà lại bùi ngùi thêm. Mẹ tôi thì chỉ nóng ruột, mong sao cho mau đến bến bà ngoại, là bến Đình, dưới chân đê, quá đồn Linh Cảm chừng cây số rưỡi. Lúc đò qua đồn Linh Cảm, ở dưới bến là ngã ba Tam Soa (ngã ba sông, một
nhánh đi về Hương Sơn, một nhánh đi về quê tôi) tôi lại càng nhớ nhà, ứa nước mắt, vì bao nhiêu lần tôi đã theo mẹ tôi về thăm bà ngoại, ghé bến Tam Soa này lúc đi cũng như lúc về. Mẹ tôi lại giục dượng Nuôi Ty chèo thẳng về bến Đình...
Về sau, trong một bài thơ, tôi có nhớ cảnh ngã ba sông Tam Soa mà viết mấy câu sau đây:
Tới ngã ba sông nước bốn bề
Nửa chiều gà lạ gáy bên đê
Làng xa lặng lẽ sau tre trúc
Bến cũ thuyền em sắp ghé về...
Đò cặp bến Đình, thì mẹ con vội vàng chạy vào nhà bà ngoại, bên cạnh một cái đền thờ gọi là “nhà thánh”. Bà tôi mừng quá, vì bà đang lo mẹ con không về kịp thì mợ Vân đi mà không đem tôi đi được. Mợ Vân nói:“Hai vợ chồng tôi hiếm hoi (lúc đó mợ đã đẻ mấy lần sinh mà không nuôi được), anh chị lại túng bấn, nên tôi có bàn với bà là nói anh chị cho thằng cháu (tức là tôi) vào với chúng tôi, cháu sẽ ăn học cho đến đỗ Prime rồi sau sẽ tính.... Mẹ tôi sung sướng cảm ơn cậu mợ và ứa nước mắt... Sau đó, bà ngoại tôi ngồi bên bếp nói riêng với mẹ tôi:“Tội nghiệp nó hiếm hoi, tao cũng bàn mãi với nó để vợ chồng nó nhận cho thằng cháu vào ăn học... Thế là mẹ cũng yên lòng, vì mẹ thấy số kiếp con lận đận quá”, nói xong bà ngoại cũng ứa nước mắt. Lúc đó cậu giáo (là con trưởng của bà ngoại) đi vào thấy mẹ con tôi thì cậu nghiêm nét mặt hỏi: “Xuống làm chi đó?”. Mỗi lúc tôi gặp cậu, tôi cứ sờ sợ, vì tôi có cảm giác cậu không thương mẹ tôi lắm, và mẹ tôi hễ gặp cậu thì cũng né né, nhất là lần này sợ cậu phản đối việc mợ Vân đem tôi đi cho ăn học... Nhưng cậu hỏi qua thế thôi, vì hình như bà ngoại cũng đã nói qua với cậu việc này, và cậu cũng đã đồng tình, không có cớ gì để ngăn trở... Thế là qua phút hồi hộp của mẹ tôi. Tối hôm ấy tôi ngồi bên bếp của bà ngoại thấy thật ấm lòng. Bà ngoại thương mọi người con đều nhau, nhưng dường như thương mẹ tôi nhiều hơn một chút, vì gia cảnh nhà tôi nhiều chuyện buồn, vì mẹ tôi khổ trăm bề, mà bà ngoại cũng chưa có cách gì cứu giúp mẹ tôi. Về sau lớn lên, học ở Huế, học ở Hà Nội, mỗi kỳ nghỉ hè về quê, bao giờ tôi cũng ghé thăm bà ngoại trước. Dù tôi đã lớn, bà vẫn xem tôi như trẻ nhỏ, cho tôi ăn từng bát cơm nếp, từng củ khoai lang, khoai giong, từng bát lạc luộc... Khi về già, người bà nhỏ chắt lại cũng như bà nội tôi, nhìn bà tôi thương lắm.
Người bà nhỏ lại, nhưng giọng bà nói vẫn vang, vẫn rõ lời, vẫn ung dung thư thái. Lòng bà rộng lượng hải hà, thương người, ít giận ai lâu. Mẹ tôi cứ vừa đến cửa nhà bà là oà ra khóc, khóc vì tủi phận; mỗi lần thế bà lại phải an ủi, dỗ dành mẹ tôi. Đêm hôm ấy mẹ tôi mợ Vân và bà tôi ngồi nói chuyện với nhau lâu, câu chuyện xoay quanh việc cậu mợ Vân nuôi tôi ăn học. Mợ Vân lúc đó khoảng 26, 27 tuổi, người mảnh dẻ răng nhuộm đen, bít khăn nhung đen, tóc bỏ đuôi gà bận áo dài lụa đen... Nét mặt mợ không nghiêm nhưng cũng không tươi cười, mợ nói chuyện thong thả, lời rành mạch. Mợ chỉ mong thằng cháu (tức là tôi) ngoan chăm học. “Trước là giúp anh chị, sau cũng là đỡ buồn cảnh nhà tôi hiếm hoi. Và cũng vui lòng mẹ (chỉ bà ngoại tôi)”. Thái độ và lời nói của mợ cũng làm tôi yên tâm. Lúc đó tôi mới 8 tuổi, nhưng tôi đã có nhiều cảm giác về tình đời, tình người. Mợ chỉ dặn dò tôi:“Đi đường phải cho ngoan, phải đi theo sát mợ kẻo mà lạc. Muốn chi thì hỏi mợ, còn phải đi nhiều chặng đường, có đoạn đi xe hơi, có đoạn đi tàu hoả”.
Hôm sau hai mợ cháu tôi đi xuống Vinh, ghé nhà cậu Dương là em trai mẹ tôi, cũng làm giáo học ở Vinh. Ở Vinh một hôm, tôi chỉ ở nhà cậu Dương không đi đâu, chỉ sợ lạc thì mất đi học. Lúc bấy giờ tôi vẫn nhớ nhà nhưng lại háo hức sớm đi vào Quảng Điền (Thừa Thiên) để học
trường mới. Ở nhà cậu Dương được một hôm thì mợ Vân và tôi mua vé xe hơi của hãng Phạm Văn Phi đi từ Vinh vào đến bến đò Long Đại ở Quảng Bình. Lần đầu tiên được ngồi xe hơi, tôi thích quá nghe xe nổ máy, tôi xin mợ cho đổi chỗ ngồi sát cửa xe để xem cảnh bên đường. Lúc bấy giờ, mặc dù khá đông khách đi xe, chỗ ngồi trong xe vẫn tương đối rộng, không chen chúc lắm, xe chạy tốc độ vừa phải cho nên đi đường khá thoải mái, và là một cái thú đối với tôi. Tôi thấy hai người trẻ tuổi, một nam một nữ, ngồi gần nhau nói chuyện thủ thỉ, có vẻ rất thân mật thì tôi nói nhỏ với mợ tôi “Mợ ơi, chắc là hai người thương nhau (yêu nhau) lắm!”. Mợ tôi nghiêm nét mặt:“Mặc kệ người ta? Ngồi im, những đoạn xe lắc thì tay nắm chặt vào cửa cho
khỏi ngã.... Xe đi qua đèo Ngang có đừng lại một lúc. Mọi người xuống xe, người thì ăn cơm, người thì đứng ngắm cảnh, tôi và mợ tôi ăn cơm nắm với cá nục nướng... Tôi vừa ăn cơm, vừa nhìn cảnh; cây cối thì tôi quen rồi, cũng giống gần như cây cối ở núi Mồng Ga quê nhà. Nhưng một điều hết sức lạ lùng đối với tôi là biển mênh mông ở dưới chân đèo. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với biển, vừa choáng ngợp trước sự bát ngát không bờ của biển, vừa cảm thấy có cái gì thu hút tôi từ mặt nước xa khơi. Nắng ngả chiều, gió se lạnh những bụi cây thấp trên đèo rạt theo gió làm tôi nhớ đến những buổi chiều cuối năm chăn trâu trên núi... Lúc bấy giờ tôi chưa biết bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan nhưng nhìn xuống chân đèo, thấy một khóm nhà trong nắng chiều vàng yếu tôi cũng cảm thấy buồn man mác... Nghỉ xong một lúc, xe hơi lại tiếp tục xuống đèo rồi đi thẳng đến bến Long Đại (cũng gọi là bến Hàu, tức là bến đò sông Nhật Lệ). Lúc bấy giờ đường xe lứa từ trong Nam đi ra, mới đến bến Hàu. Ở ngoài Vinh đi vào bằng xe hơi, qua bến Hàu bằng phà và đáp xe lửa từ bến Hàu đi vào Nam. Mợ cháu tôi qua phà trời gần tối, nước sông Gianh nổi sóng khá to sóng vỗ vào mạn phà tung tóe lên, tôi ướt cả người. Mợ tôi nắm chặt tay tôi, cứ sợ tôi ngã xuống nước. Từ bé tôi chỉ mới quen với con sông La (cũng gọi là sông Thâm) hẹp và hiền ở quê tôi, nay lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một con sông lớn, sóng to, lại vào lúc hoàng hôn trong chuyến đi xa nhà... tất cả những điều đó làm cho tôi bàng hoàng và rợn ngợp.
Nhưng mặt khác lòng ham biết cái lạ, tính tò mò trước những cảnh mới cũng làm cho tôi nguôi bớt nỗi bàng hoàng... Qua bến phà Long Đại, mọi người tấp nập lên xe lửa (vé đã mua từ ở Vinh) đã đỗ sẵn chờ khách. Bậc lên toa xe lửa cao quá đối với tôi, mợ tôi phải nhờ một người hành khách kéo tôi lên và mợ tôi theo sau. Tôi nhìn dưới bánh xe lửa thấy đường đổ đá trắng và xám, như là còn mới, tôi rất ngạc nhiên...
Trước đây, có một lần tôi theo bà nội sang ga Phụng Công để xem bắc đường xe lửa tôi cũng đã trầm trồ như thế. Bước lên toa xe lửa, lại là một sự khám phá mới đối với tôi. Mái toa xe cao người có thể đi lại trong toa chứ không như trong xe hơi...
Xe lửa chạy qua Quảng Bình, vào đất Quảng Trị đường sắt sát cạnh những đụn cát trắng tinh rất đẹp nhưng cây cối lơ thơ và cằn cỗi... Xe vào đất Thừa Thiên thì cây cỏ xanh mượt hơn nhiều, ruộng đồng cũng tươi mát. Tôi nhìn hai bên đường thấy các bà, các chị ở dưới cánh đồng bận quần như đàn ông chứ không phải vận váy như ở quê tôi, đó là một điều ngạc nhiên đối với tôi lúc đó. Dọc đường, ở các ga đã có những người vùng Quảng Trị, Thừa Thiên lên xe, giọng nói nhẹ hẳn đi, không như giọng nói Hà Tĩnh quê tôi trầm và nặng. Lần đầu tiên tiếp xúc với tiếng Huế, với giọng Huế, tôi có cảm giác lâng lâng, êm ái mà lại thấm thía. Về sau, sống ở Huế mười năm trong cái tuổi lớn lên, từ 10 đến 20 tuổi (1929-1939) tôi càng cảm nhận và thấu hiểu cái giọng Huế nhẹ nhàng và ấm sâu thân tình và ân tình, cái giọng dường như lướt trên mặt nước, mà lại sâu thẳm trong lòng sông. Sau này tôi có viết tặng một người bạn gái quê ở Huế một bài thơ, chủ yếu là ca ngợi cái giọng Huế của bạn:
Giọng em vang vọng trời quê Huế
Nhẹ thoảng xanh veo mà xốn xang
Nồng cháy như mồi thống núi Ngự
Giọng em nửa thực nửa mơ màng.
Chỉ một lần nghe đủ nhớ đời
Huống chi anh được đón bao lời
Bâng khuâng em nói trong chiều lạnh
Ngơ ngẩn lòng ta Huế Huế ơi...
Trở lại tuổi nhỏ của tôi. Đến ga Văn Xá (thuộc huyện Quảng Điền), thì cậu tôi và anh Đông (người loong toong của trường) ra đón. Từ ga Văn Xá về huyện lỵ Quảng Điền, nơi cậu tôi làm hiệu trưởng trường tiểu học, cậu tôi và anh Đông đi xe đạp, mợ tôi và tôi ngồi xe kéo, mà anh Đông đã thuê trước.
Nhà cậu tôi là một ngôi nhà gianh ở giữa cánh đồng bên cạnh một con đường huyện đắp cao. Xung quanh nhà trồng hàng rào cây trà, trước nhà có sân đất khá rộng. Nhà cậu tôi bị mất trộm nhiều lần, nên cậu mợ đã mua hàng trăm bó củi chất ba phía nhà như là một thành trì kiên cố. Nhưng lần sau cùng thì kẻ trộm lại đào ngạch từ sân vào... Cậu mợ tôi có một cái rương (tức là
cái hòm) khá to đựng tất cả áo quần và vật quí. Trong nhà có một số học sinh ở trọ để học lớp nhì, lớp nhất (tôi nhớ là bốn, năm người) thì cậu tôi chia phiên các học sinh thức canh gác với ngọn đèn Hoa Kỳ, phòng kẻ trộm. Tôi cũng được chia phiên gác, và các anh học sinh lớn tuổi cho tôi gác giờ đầu hôm, hoặc giờ gần sáng... Từ đó nhà cậu tôi không bị mất trộm nữa. Cũng do bị mất trộm nhiều lần mà cậu mợ tôi có được thói quen rất cẩn thận về khoá và chìa khoá. Cậu tôi có một xâu chìa khoá, khoá hòm khoá cửa nhà. Lại còn bao nhiêu chìa khoá của các tủ nhà trường và các cửa nhà trường. Từ đó tôi cũng kế thừa được của cậu mợ tôi tính cẩn thận về khoá và chìa khoá. Anh Xuân Diệu lúc còn sống ở cùng nhà với tôi lại hay để mất chìa khoá, tôi la anh ấy, vì cứ phải đi làm lại chìa khoá cho anh. Có hôm anh Diệu bảo tôi:“Nếu có thể khoá được cái đời, thì chắc Cận cũng khoá nốt!”. Cậu tôi làm giấy tờ cho tôi vào học lớp tư trường Quảng Điền. Cậu phải làm lại giấy khai sinh cho tôi, tôi chỉ biết chắc là sinh năm 1919, còn ngày tháng thì tôi không biết. Cậu tôi suy nghĩ một lúc rồi ghi: Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh.
Về sau tôi hỏi mẹ tôi về ngày sinh, thì mẹ tôi nói là tôi sinh vào ngày 30 tết, không biết là tết trước hay tết sau tháng 5-1919. Dầu sao thì bây giờ tôi cũng đã có tuổi xê xích dăm bảy tháng trong khoảng thời gian vô tận cũng không có vấn đề gì lắm...
Tôi vào học lớp tư được thầy tôi là thầy Lưu Thành Công, người quê Quảng Trị, xếp cho tôi ngồi bàn đầu cùng với bốn bạn gái, trong đó có ba chị em ruột là cô
Tư, cô Năm, cô Sáu, con ông Cả Hối, một nhà giàu ở huyện Quảng Điền. Ba chị em cùng học một lớp với tôi thấy tôi hiền lành ngồi ở giữa, mà lại học giỏi các bạn gái rất mến tôi và hay cho tôi ăn kẹo. Trời rét lạnh các bạn còn mang quế gặm từng chút cho ấm và tôi cũng được chia phần quế. Ba cô có người chị là chị Ba đã học trường Đồng Khánh Huế, và đã có vài bài văn đăng ở tạp chí Thần chung. Tôi nghe nói đến chị Ba viết văn, có bài đăng báo, tôi rất lấy làm cảm phục. Bạn ngồi đầu bàn là bạn Toàn, mặt hơi rỗ, rất nhanh nhẹn, và hay nói đùa rất có duyên. Lớp học không rộng lắm tôi ngồi bàn đầu là rất gần bảng đen và gần bàn của thầy, muốn nghịch cũng không dám nghịch, nhưng vẫn có thể bày cho các bạn gái làm những bài toán khó. Dường như thầy cũng cho đó là một việc có ích, một thứ “phụ đạo”, nên thầy cũng không la mắng gì. Nhưng thi học kỳ thì thầy rất nghiêm, không cho học sinh “cóp” nhau. Tháng nào tôi cũng đứng đầu lớp (hiện nay tôi còn giữ được những giấy khen hàng tháng của trường Quảng Điền) nên thầy rất thương. Năm tôi đậu kỹ sư canh nông (1942), tôi có tìm thăm thầy, nhưng lúc đó thày Lưu Thành Công đã đổi đi trường khác, có người nói là thầy đã về hưu, tôi không gặp được. Sau đó tôi nhờ anh bạn học cũ gởi một thư cho thầy, thầy có nhận được và trả lời cho tôi, cảm động về tình nghĩa thầy trò của người học sinh cũ. Sân trường tôi học khá rộng lớn, có nhiều cây hoa đại, hè về hoa nở thơm phức. Giờ ra chơi, chúng tôi tranh nhau nhặt hoa bỏ túi vào lớp hoa thơm, có lúc chúng tôi như là say hương. Các bạn gái tôi thì cài hoa lên tóc, và gói hoa vào những mùi xoa vải mỏng cho vào cặp. Đến ngày kết thúc năm học, thầy trò các lớp xây dựng một cái bục cao vừa dài vừa rộng để làm lễ phát phần thưởng chúng tôi lại lấy từng chùm hoa đại kết cho lễ đài phát phần thường. Năm ấy tôi được phần thưởng nhất lớp, được một chồng sách cao toàn là sách học các lớp trên bằng tiếng Pháp: sách mẹo tiếng Pháp, lịch sử nước Pháp, sách địa lý Đông Dương, sách toán, sách tập đọc Di vòng quanh nước Pháp, sách Quốc văn giáo khoa thư do Trần Trọng Kim soạn, sách sử ký cũng do Trần Trọng Kim biên soạn, có cả quyển sách Năm đoá hoa của Jean Marquet (giới thiệu năm xứ của Đông Dương: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên)... Mùi thơm của giấy, của mực in, của bìa sách để lại ấn tượng sâu sắc trong bọn trẻ chúng tôi nhất là sau lần nhận thưởng ấy tôi lại phải rời Quảng Điền theo cậu tôi về Huế để học tại Huế. Ở Quảng Điền, cách trường khoảng 2 cây số có chùa làng Hạ Lang rất đẹp, chủ nhật tôi thường rủ các bạn đi chơi chùa. Chùa thấp, nhưng còn vững chãi, và được trông nom, quét dọn rất sạch sẽ. Trước cửa chùa có nhiều bông trang (tức là hoa mẫu đơn) “Bông trang tròn trăm chùm dâng Phật”. Phía sau chùa tôi lại gặp những cây hoa mộc, mà mùi hương rất quen thuộc với tôi mùi hương mê man, khía vào mũi và có thề nói khía vào tâm hồn không thể nào phai nhạt được. Khi ở nhà, tôi đã ham đi chơi ở chùa Bổn, bây giờ tôi cũng thích đến chơi ở chùa Hạ Lang. Lớn lên, mỗi lúc có dịp đi thăm cảnh chùa, tôi vẫn thấy có cái gì quyến luyến, cảnh yên tĩnh và như “thoát tục” của các ngôi chùa vẫn có sức hấp dẫn riêng đối với tôi. Sau này đi thăm chùa Tây Phương năm 1940 cùng anh Nguyễn Đỗ Cung và nhiều bạn khác, về nhà tôi cứ vương vấn mãi với hình ảnh các vị La Hán ngồi trong hậu tử
trong một ánh sáng mờ mờ, đã hết thế kỷ này sang thế kỷ khác. Tôi ghi trong vở nháp thơ:“Các vị La Hán, đau khổ của cha ông”. Tứ thơ đẩy ra từ đó nhưng trong 20 năm trời bài thơ không thành hình. Đến năm 1960, lúc tôi theo học lớp cao cấp ở trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, tôi lại đi thăm chùa Tây Phương về đêm đó, gần tết 1961, tôi viết liền một mạch bài thơ Các vị La Hán chùa Tây Phương. Có thể nói bài thơ đã nảy mầm ở chùa Bổn quê nhà, ở chùa Hạ Lang ngày tôi còn nhỏ. Hình ảnh các vị La Hán đã theo đuổi tôi từ những ngày thơ bé, nó đã vào trong “bộ nhớ” tiềm thức của tôi vậy.
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương
Há phải chăng đây là xứ Phật
Mà sao ai nấy mặt đau thương.
Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khóisương...
Đó là nói về cảnh chùa. Nay xin nói về cảnh nhà cậu mợ tôi. Cậu mợ hiếm hoi, mợ đẻ mấy lần không nuôi được. Mợ đành phải tìm cho cậu một nàng hầu con một gia đình nông dân ở làng Thanh Thuỷ, huyện Hương Thuỷ. Nàng hầu gọi là dì Em, vừa là vợ hai của cậu nhưng cũng vừa là người ở trong nhà. Dì Em người khoẻ mạnh, làm quần quật suốt ngày, nấu cơm, bửa củi giặt quần áo, nuôi gà vịt... Cậu tôi rất thương dì Em, vì nhiều lẽ, nhưng cũng phải “né” mợ tôi. Tất nhiên là mợ cũng muốn cho dì Em có con, nhất là có được con trai thì quí lắm. Nhưng cuộc đời nó oái oăm hơn tôi tưởng.
Có lần đêm cậu vào ngủ với dì, chắc là đã được sự đồng tình của mợ, nhưng sáng hôm sau nét mặt của mợ giận dỗi, chúng tôi tuy còn nhỏ, nhưng cũng hiểu được thứ tình cảm phức tạp này. Thế rồi không nói không rằng, mợ lùa dì Em vào trong cái phòng chật chứa củi và mợ cầm một thanh củi đánh dì Em túi bụi. Dì Em không dám chống lại, chỉ lùi dần vào cuối phòng, tay xoa vào chỗ bị đánh, vừa khóc vừa nói, mà cũng không dám nói to:“Đau quá mợ ơi, đau quá mợ ơi!”. Sau một chặp, xem chừng mợ cũng đã hả giận, mợ vứt thanh củi xuống đất và đi ra. Dì Em lại hối hả đi nấu cơm, giặt quần áo trong lúc đó thì ông cậu ở trên trường, đang dạy lớp nhất. Mà nếu cậu ở nhà, thì cậu cũng chả làm gì được càng can thiệp thì càng chết dì Em. Dì Em rất tốt đối với tôi giặt áo quần cho tôi rất tươm tất, và cho tôi ăn no. Bên cạnh hàng rào có cây mắm nêm, dì thường hái những quả mắm nêm chín cho tôi. Tôi chỉ có một cái áo dài bằng vải dù đen mặc từ lớp tư cho đến lớp nhì, lúc lớp tư thì áo dài gần mắt cá, lên lớp nhì thì áo đến đầu gối là vừa. Dì Em cứ vài ba chủ nhật một lần bắt tôi cởi áo dài ra cho dì giặt vì “có giặt sạch thì áo mới bền, áo còn phải bận mấy năm nữa, nghe chưa?”. Đến bây giờ dì đã già, mỗi lần tôi đến thăm dì vẫn nhắc cái áo dài dù đen của tôi mà đã biết bao lần dì mỏi tay xát giặt rất kỹ... Đến lúc về Huế, dì sinh được đứa con trai đầu lòng, cậu mợ rất mừng, và mợ từ đó cũng nể dì hơn một chút. Cậu con trai đầu này lớn lên học mau tiến bộ và nay đã trở thành một bác sĩ giỏi. Người con của dì biết chăm sóc chu đáo cả hai bà, và bà mợ tôi rất quí cậu ta, còn có phần quí hơn con đẻ của mình nữa.
Ở trong nhà cậu tôi, cũng có nhiều lúc vui. Chẳng hạn, khi cậu tôi đi ga Văn Xá nhận về một hòm hàng hoá từ bên Pháp gửi sang. Đó là một ít hàng hoá dùng hàng ngày mà cậu tôi đã gởi mua của hãng Saint Etienne gồm: cái cốc thuỷ tinh, cái bút máy, hộp bánh bích qui, mấy con dao, cái dao nhíp mấy hộp sữa bột, mấy hộp sữa đặc, cái kéo cắt vải cả cái mở nút chai nữa... Lúc cậu tôi mở cái thùng hàng ra, cả nhà xúm chung quanh như là dự một lễ khai mạc náo nức... Từ thùng gỗ dán xông lên mùi thơm của phoi bào vàng rực, mùi thơm của mấy quyển sách nữa, kể cả quyển sách chào hàng dày như một quyển tự vị, in màu, bìa rất đẹp... Các cốc thuỷ tinh thì cậu tôi xếp vào tủ rất cẩn thận, trước khi cho cốc vào tủ cậu còn lấy ngón tay thấm
nước vuốt trên miệng cốc để nghe vang lên tiếng vo vo của thuỷ tinh... Chúng tôi đứng xung quanh cứ trầm trồ. Và hồi hộp, chúng tôi chờ đợi lúc mợ mở hộp bánh bích qui mùi thơm phức, và chúng tôi được mỗi đứa một chiếc giòn thơm.
=B=
Ông huyện Q.
Ông huyện Q. là bà con xa với cậu tôi. Làm tri huyện ở huyện Phong Điền hay là Hương Thuỷ, tôi không nhớ rõ. Thỉnh thoảng ông có việc đái qua ghé thăm cậu mợ tôi. Ông đậu cử nhân Hán học, bận quần áo ta, áo lương đen, đội khăn xếp và đi giày Gái Định.
Ông ăn nói nhẹ nhàng, nho nhã, giọng rất thân tình nghe ông cứ thấy tình bà con ruột thịt trong mối quan hệ giữa ông với người trò chuyện với ông. Tôi cứ tưởng tượng ông là một ông quan liêm khiết, hiền từ, xứng đáng là bậc “dân chi phụ mẫu”. Thế nhưng, qua câu chuyện của cậu mợ tôi nói lại, bọn tôi mới biết ông là một tay bóp hầu, bóp cổ những người dân dưới quyền cai trị của ông. Một vụ làm tiền của ông đã suýt làm ông bay mất chức tri huyện nếu không có Chúa cứu. Số là ông tra khảo một bà bị kiện trước cửa quan, vì một vụ tranh chấp gia tài thế nào đó. Tra khảo mấy lần người đàn bà kia khăng khăng không chịu khai theo lời mớm cung của nha lại nơi huyện đường. Thế là quan huyện nhà ta có một sáng kiến: cho lấy kim châm vào hai núm vú của người đàn bà, lấy chỉ xâu kim và mỗi kim buộc một chiếc lông gà, và quan cho lính lệ thay phiên nhau “quạt mát” người đàn bà xấu số. Gió làm xoay hai chiếc kim và người đàn bà đau buốt kêu thét lên, có lúc ngất đi. Quan cho nghỉ một lúc, rồi lại trực tiếp hỏi cung người phụ nữ, cố rứt cho ra lời khai mà quan đòi hỏi. Người đàn bà xấu số van lạy xin quan tha cho, nhưng không thể nào khai như lời mớm cung được.
Lại quạt. Lại đau buốt. Lại kêu thét. Lại ngất đi. Và lại tiếp tục khảo cung với giọng ngọt ngào của quan huyện nhưng với nét mặt nham hiểm và như muốn vồ vào người ta như hổ đói vồ mồi. Cuộc tra khảo ghê rợn này tiến hành trong một phòng kín của huyện đường, nhưng tiếng kêu thét của người phụ nữ cũng lọt ra ngoài phố huyện, và gia đình người nạn nhân đã phát đơn kiện lên thừa phủ (cơ quan hành chính đầu tỉnh của Nam triều). Câu chuyện vỡ lở ra, khó lòng mà tỉnh dẹp yên đi được mặc dù vợ chồng quan huyện cũng đã long tóc gáy chạy chọt các cửa sau, cửa trước. Không những quan huyện có thể bị cách chức (điều ấy gần như chắc chắn), mà còn có thể bị ngồi tù nữa... Bà huyện bèn bàn với quan huyện một phương cứu chữa: Bà huyện và con gái sẽ cấp tốc đến nhà thờ xứ ở địa phận gần huyện và xin cha xứ rủ lòng thương, lấy phép Chúa cứu vớt gia đình. Bà huyện và con gái xin nguyện làm con chiên của Chúa ngay tức khắc, và xin cha làm phép rửa tội cho hai mẹ con được sớm trở về với Chúa. “Phép lạ” của bà huyện có hiệu quả gần như tức khắc. Cha xứ rủ lòng thương quan ông, quan bà, và quan cô, chạy lên gặp bề trên, và xin bề trên lấy lượng hải hà mà cứu vớt quan trong cơn nguy khốn. Thế rồi vụ án được dẹp ỉm đi; bà huyện, cô huyện, và quan huyện nữa đều đặn mỗi chủ nhật đi nhà thờ ăn bánh thánh, và riêng bà huyện thì gần như ngày nào cũng đi xưng tội với cha và được rửa tội. Còn người đàn bà xấu số kia mà hai vú đã sưng cứng lại thì được trả về gia đình, và được trám miệng bằng một số tiền... Tôi nghe nói về sau bà huyện đã chết, hay là nói cho đúng nghĩa, đã “có một cái chết rất đạo”... Bọn tôi nghe câu chuyện mà rùng mình. Trong tâm hồn trẻ con của tôi, thấy hiện lên những ma quỉ những quỉ sứ mà tôi đã thấy trong địa ngục ở chùa Bổn trên rú Trùa. Cảm giác ghê lạnh về cái ác ở đời qua câu chuyện ông huyện Q. cứ làm tôi bàng hoàng mãi. Mãi về sau, tôi lại thấy ông huyện đến thăm cậu tôi ở Huế, ông vẫn giọng ngọt ngào ấy, vẫn dáng nho nhã ấy, nhưng tôi nhìn vào mắt ông thấy sâu hoắm và đen như mắt cú vọ, và tự nhiên tôi thấy hoảng sợ, tôi bỏ chạy không dám nhìn ông nữa. Có lẽ ông đã biến thành quỉ sa tăng. Câu chuyện “quan huyện quạt vú” được người ta kể lại mãi ở vùng Thừa Thiên, và cho mãi gần đây, khi tôi trở lại thăm Quảng Điền vẫn còn có người nhắc đến như một câu chuyện ma quỉ. Bà huyện chết “rất đạo”, không có con trai, lúc chết người gầy guộc hẳn đi, chỉ còn da bọc xương, như “đã bị quỉ sứ róc thịt”.
Nuôi dế
Lúc ở nhà cậu tôi ở Quảng Điền, ngoài việc say mê đọc sách, tôi còn một cái mê say khác là
nuôi dế. Anh Hùng, cháu họ cậu tôi lúc đó học lớp nhì, thỉnh thoảng về Huế xin được của mẹ và của chị những hộp phấn (đã hết phấn) hình chữ nhật có một mặt kính, rất đẹp. Anh Hùng bày cho tôi nuôi dế trong các hộp ấy, mỗi hộp vừa nuôi một con bằng lá rau muống hoặc lá khoai lang. Rồi chiều chiều, sau buổi học anh Hùng và tôi cho những con dế vào một hộp giấy to và xem chúng đá nhau, chọi nhau. Mỗi con dế trước khi xông ra trận đều phát ra một tiếng kêu the thé và chân run rẩy, chúng tôi gọi tiếng kêu thé ấy là hồi còi, hoặc là hồi kèn ra trận của hai địch thủ. Tôi chăm sóc cho dế ăn no không quên để một ít nước trong cái nắp chai để trong hộp dế. Dế đực đánh nhau với dế đực, dế cái đánh nhau với dế cái, và có khi đực cái đánh nhau. Tôi lấy làm lạ là thường dế cái thắng trận, chứ không phải dế đực. Cùng ở với tôi có cậu Cục, cháu gọi mợ Vân bằng cô học kém, mà cũng kém sáng kiến trong các trò chơi. Thấy anh Hùng và tôi thích thú trong việc nuôi dế và chọi dế cậu có vẻ ghen, rồi một hôm tôi đi học về không thấy các hộp dế của tôi đâu nữa... Tôi tiếc mãi, nhưng cũng không dám mách với cậu mợ, còn anh Hùng thì an ủi tôi:“Anh sẽ xin cho em những hộp phấn to hơn, để nuôi những con dế to hơn, cho nó đánh những trận to hơn.... Nói vậy, chứ về sau tôi cũng không có hộp phấn nào to hơn, không thấy con dế nào to hơn. Năm 1975, vào Sài Gòn giải phóng, nghe tin anh Hùng ở lại chứ không di tản mặc dù anh đã giữ một chức quan trọng trong ngân hàng của chính quyền nguỵ. Tôi có ý muốn tìm thăm anh, trước là để thăm một người bà con, sau là để nhắc lại câu chuyện nuôi dế và chọi dế, và để hỏi anh đã thấy con dế nào to hơn những con dế hồi nhỏ của chúng tôi chưa. Nhưng mãi đến nay tôi vẫn chưa Um ra địa chỉ của anh. Mỗi lúc tôi thấy các em bé chơi trò chọi dế, tôi lại nhớ những hộp xinh xẻo thơm phức của tuổi nhỏ của tôi.
Anh Đông
Anh Đông là loong toong của cậu tôi ở trường Quảng Điền. Tôi gọi là anh, nhưng lúc đó anh cũng vào trạc tuổi chú tôi. Anh người cao, không vạm vỡ nhưng khỏe mạnh, tóc chải ngược có cái lược nhôm cài phía sau gáy. Mắt anh sáng, giọng nói sang sảng và bước đi rất nhanh. Anh làm mọi việc của một người loong toong rất mẫn cán: chạy giấy, đi ga Văn Xá gởi những bưu kiện của nhà trường hay của cậu tôi, quét dọn lớp, nhất là lớp cậu tôi trực tiếp làm giáo viên, đánh trống nhà trường. Nhưng cái việc anh Đông làm tôi khâm phục nhất là giặt là áo quần và là (ủi) áo quần tây cho cậu tôi. Chả biết anh làm thế nào mà áo quần anh giặt rất trắng, còn là thì anh đem sơ mi láng qua trong một chậu nước khuấy bột trắng (không biết là bột gạo hay là bột nếp, hay là bột gì tôi không biết), anh để cho sơ mi hơi se se rồi lấy bàn là nóng là mạnh lên áo, đặc biệt là là kĩ tấm pờ-lat-tơ-rông trước ngực và cái cổ, là thành cứng như một tấm bìa, có thể lấy ngón tay búng vào nghe kêu boong boong.
Còn bàn là thì phía trên là rỗng nhừ cái hộp sắt trong đó bỏ than hồng, quạt cho thật nóng rồi đậy nắp lại. Tô: cứ trầm trồ mãi trước cái tài là áo quần của anh Đông.
Có lẽ do anh khéo tay giặt là cho nên cậu tôi cũng năng thay áo sơ mi; đối với một ông giáo ở nông thôn như vậy là quá tươm tất, rất chuẩn. Các thầy giáo ở các lớp khác thấy ông đốc (tức là hiệu trưởng) chỉnh tề thường xuyên thì cũng theo nếp đó mà ăn bận rất ngay ngắn, tử tế. Khi cậu tôi đổi về Huế, muốn đem anh Đông đi theo nhưng hoàn cảnh gia đình không cho phép anh đổi nơi làm việc. Thỉnh thoảng có dịp đi Huế, anh vẫn ghé thăm cậu mợ tôi. Anh Đông rất tốt đối với bọn học trò chúng tôi trong nhà, luôn luôn vui cười, và riêng đối với tôi hình như anh biết cảnh nhà tôi nghèo nên anh có thương hơn. Có lần anh nói với tôi “Đem áo quần tao giặt luôn cho một thể”, nhưng tôi không dám, áo quần tôi tôi chỉ nhờ dì Em giặt mà thôi.
Đi xem máy dẫn thuỷ nhập điền
Gần nghỉ hè 1928 thì thầy Lưu Thành Công dẫn lớp chúng tôi đi xem máy “dẫn thuỷ nhập điền” ở gần ga Văn Xá. Lúc đó có một người, không hiểu là tung tích thế nào, ở xa về, mua được một cái máy bơm nước khá to, muốn làm công việc dẫn nước vào ruộng, chống hạn. Đây là một việc làm hoàn toàn tư nhân, một sáng kiến cá nhân, cũng không bị chính quyền thực dân và phong kiến cản trở. Tôi nhớ mường tượng cái máy bơm khá phức tạp, gần như cái máy để quay bánh lái của các ca nô lớn ngày nay. Cuộc đi tham quan kỹ thuật này đối với chúng tôi lúc đó là một kỳ quan. Người chủ của máy, cũng là nhà kỹ thuật, đứng cắt nghĩa tỉ mỉ cho chúng tôi cách hoạt
động của máy cách máy bơm nước vào ruộng. Tôi không nhớ rõ những chi tiết của sự giải thích kỹ thuật này, nhưng còn nhớ rõ cái ấn tượng “thường dân” của người chủ máy, cái ấn tượng “văn minh” mà máy móc in vào tâm trí non nớt của chúng tôi. Thầy Lưu Thành Công của tôi cũng rất hào hứng trong chuyến đi tham quan kỹ thuật này, dường như các thầy giáo lúc đó cũng đều náo nức mong mỏi có một sự tiến bộ trong cách làm ăn nghìn đời không đổi mới của dân quê ta. Về sau tôi không nghe cái máy dẫn thuỷ nhập điền này có hoạt động được hay không. Hay đó cũng chỉ là một thí nghiệm của lòng thương nước thương dân của một người trí thức tiến bộ, một sự thí nghiệm bị chết yểu...
Cùng ở nhà cậu tôi có một anh học trò lớp nhất vẽ rất giỏi, và rất thuộc thơ văn của các cụ ngày trước. Ngày nghỉ, chủ nhật anh thường đem hộp màu vẽ và cái bút lông ra minh hoạ những bài thơ. Tôi còn nhớ anh minh hoạ rất đẹp bằng nhiều cảnh bài thơ Cảnh chiều của Bà Huyện Thanh Quan:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đốn.
=C=
Đổi về Huế
Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba. Gia đình cậu tôi thuê một chiếc thuyền chở tất cả đồ đạc và người nhà đi qua Sình, Sịa rồi ngược sông đào Đông Ba đến ngay chỗ ở mới của cậu tôi. Đó là một căn nhà trong một dãy nhà cho thuê của nhà thầu khoán Tôn Thất Bằng. Căn nhà gồm 3 buồng chạy sâu vào phía sau kiểu như các căn nhà của phố Hàng Đào, Hàng Ngang ở Hà Nội. Dãy nhà này ở trong một khu phố dành cho người nghèo ở: những người buôn bán nhỏ, thợ cúp tóc, người làm thủ công, thợ nề, thợ mộc... Con sông đào Đông Ba (người ta bảo là đào từ thời Minh Mạng) ở ngay trước dãy phố Đông Ba, nối con sông Hương với ngã ba Sịa đi ra biển. Trước dãy nhà là hàng cột dây điện và những cây bồ hòn, cây không cao lắm nhưng lá rậm cho bóng mát quanh năm. Quả bồ hòn chín thì rụng xuống, và những người nghèo trong phố nhặt lấy để giặt áo quần. Tôi và mấy bạn học sinh trong nhà cũng có lúc dùng quả bồ hòn để giặt áo, bọt nước bồ hòn cũng như bọt xà phòng, ngâm kỹ áo quần vào thì giặt rất sạch và rất trắng. Tôi cứ nhớ câu “Quả bồ hòn ngoài tròn trong đắng” và cái câu ai cũng thuộc “Đắng cay ngậm quá bồ hòn”, và tôi đã nếm thử thì đắng thật, súc miệng mấy ca nước cũng không hết đắng. Tôi lại cũng nhớ câu “Khi thương trái ấu cũng tròn, khi ghét quả bồ hòn cũng méo”. Tôi nhắc vậy là vì cây bồ hòn trước nhà cậu tôi đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tuổi nhỏ của tôi, vì dưới gốc cây bồ hòn đã có bao nhiêu người nhắc lại những phương ngôn trên mỗi lần họ gặp điều cay đắng trong đời. Đó là mụ Lợn, đó là mẹ anh Hường, một người lấy lính Tây rồi bị nó ruồng bỏ, đó là bà mệ Chiều thương cháu, nhớ nàng dâu trước đã chết mà không vui lòng lắm với nàng dâu kế... Cây bồ hòn đã nghe bao nhiêu tâm sự của bao nhiêu người, của bao nhiêu cuộc đời Nó đã dần dần trở thành một nhân vật trong tuổi nhỏ của tôi, một chứng nhân bền bỉ trên dãy phố nghèo. Năm 1975, lúc mới giải phóng Huế tôi về thăm dãy phố Đông Ba, nhà cửa có đổi khác nhưng cây bồ hòn vẫn còn đứng đó. Những người từng gửi cho cây những lời cay đắng cũng không còn hoặc đã đổi đi nơi khác. Tôi có cầm một quả bồ hòn nếm thử, vẫn vị đắng ấy, vẫn mầu trong cánh gián ấy, vẫn dáng tròn như hòn bi ve ấy... Tôi như ngẩn người một lúc trước cây bồ hòn, vì bao nhiêu kỷ niệm ùa về trong tâm trí tôi. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà tôi nhắc đến cây bồ hòn khi bắt đầu viết về kỷ niệm những ngày tôi sống ở phố Đông Ba. Tôi đã sống giữa đám dân nghèo, chung đụng với họ trong một tình láng giềng thân thiết, gần như một thứ tình bà con ruột thịt. Đời họ có nhiều cái vui, nhiều lúc vui, và cũng có nhiều cay đắng. Có lẽ lớp năm tháng phủ dày trên kỷ niệm đã khiến tôi như thấy cay đắng nhiều hơn. Nhưng dù vui, dù buồn thì những cuộc đời của họ đều rất yên phận, đều trôi yên lặng như nước con sông
đào Đông Ba êm lắng chảy về Sình... Nói chung là một phố nghèo, nhưng cũng có vài nhà khá giả. Đó là trường hợp ông Cả Soạn, gia đình buôn gỗ và buôn một vài thứ gì khác từ nông thôn chở về mà tôi không nhớ rõ.
Bản thân ông Cả Soạn không phải làm gì, tất cả việc buôn bán đều phó mặc cho vợ và con. Ông sống cuộc đời phong lưu, mà phong nhã. Ông đánh cờ rất cao và đàn rất hay, nhất là đàn nguyệt. Ông nổi tiếng là cờ cao (cờ tướng) khắp cả Huế và có thể nói là cả tỉnh Thừa Thiên. Nhiều người đánh cờ ở các huyện hâm mộ ông, cũng xin “đến hầu ông một vài nước cờ” và để “học ông vài nước ngựa, nước xe, có khi nước tốt nữa... mà họ nói vậy không phải là nói khách sáo đâu vì có lần khách cờ đến, sau mấy nước đầu, hai bên dàn trận, thì ông đi ngay một nước rất hiểm rồi ông nằm ngủ để cho đối phương loay hoay đi thử nước này đến nước khác. Đến lúc bạn cờ thức ông dậy thì ông lại đẩy con pháo hay con xe một cách nhẹ nhàng rồi lại xin ngủ tiếp. Cứ thế ván cờ kéo dài cả ngày. Ông mời khách cờ ăn cơm với ông khá thịnh soạn, rồi lại tiếp tục điều khiển trận cờ như là một vị tướng đã nắm chắc chiến lược, chiến thuật trong tay, không một chút hấp tấp, không một nước sơ hở. Sau cùng bạn cờ thưa với ông:“Xin cụ cho chúng tôi được thua.”
Ông Cả lại cũng đánh đàn rất hay, đàn tranh đàn bầu, đàn nguyệt. Đặc biệt tiếng đàn nguyệt của ông như thoát khỏi dây tơ, cần gõ, như từ không khí mà vang lên, như từ những ngón tay tài tử của ông toát ra khi hoà vui, khi nức nở. Ông đàn nhịp rất thong thả, những bài đàn Huế, nhất là bài Nam bình, có khi nghe từng tiếng một, như những giọt nước, như những giọt trăng rơi trên một mâm ngọc trong một ánh trời trong vắt.
Ông thường đàn vào đêm khuya, lúc phố đã yên lặng, tưởng như ông cần sự thanh khiết của không gian cho tiếng đàn của ông được toả đi, cho giữa tiếng đàn và ông không còn sự cản trở của một tạp âm nào nữa.
Tôi không biết ngày xưa lúc Bá Nha đàn cho Chung Tử Kỳ nghe thì tư thế ngồi đàn như thế nào, và tôi cũng không biết ông Cả Soạn có bạn tri âm nào không nhưng thái độ trân trọng của ông khi nâng chiếc đàn khi đưa mấy ngón tay vê vào dây tơ, mà tôi đã được ghé mắt nhìn trộm thì quả thật là phong cách của một bậc tài tử, tri âm tri kỷ ngay với chiếc đàn của mình với cái nghệ thuật âm thanh mà ông cho là linh hồn của người và của trời đất. Đêm khuya thanh vắng tiếng đàn của ông Cả Soạn có phải là linh hồn của dãy phố nghèo hay không, mà những người láng giềng của ông nghe từng tiếng một, cho đến khi tiếng đàn mờ dần, “rơi tàn” vào lòng đêm thắm, cho đến khi tiếng đàn của ông cũng ngủ theo giấc ngủ của mọi người. Ông là người có thật, đã sống thật, mà tôi cứ nhớ đến ông như nhớ một nhân vật huyền thoại.
Phố Đông Ba của tôi ngày bé
Có ông Cả Soạn, đánh cờ cao
Lắm khi một buổi đi vài nước
Để bạn bè vây nghĩ nát đầu.
Ông lại đàn hay. Nguyệt tiếng tơ
Hồn ve dắng dỏi dưới trăng mờ
Ngón tay tài tử năm cung nhấn
Nghe cả trời thu nức nở mưa...
Tôi hãy nhắc luôn một người khá giả nữa ở phố Đông Ba là chú Xối, người Hoa kiều lấy vợ Việt Nam.
Thím Xối cũng buôn bán hàng nông sản, lạc, vừng một ít hàng tơ lụa, và thím cũng có một cửa hàng xén ngay ở phòng trước nhà mình. Hai vợ chồng chú Xối sống rất hoà thuận và cũng ăn ở hoà thuận với mọi người xung quanh, được láng giềng cảm mến. Chú Xối cũng giống ông Cả Soạn ở chỗ phong lưu, không phải làm lụng buôn bán gì, mọi việc kinh doanh và việc gia đình đều phó mặc cho bà vợ Việt Nam. Nếu chú không có cái phong nhã của ông Cả thì chú cũng được cái phong cách thảnh thơi, thư thái. Tôi nhớ rất rõ chú người hơi thấp béo nhưng không bệu, bận cái áo kiểu Hoa kiều tay rộng với hàng cúc vải trước ngực, nét mặt luôn luôn tươi cười, dáng dấp hoà nhã. Tôi nhớ mùa đông cũng như mùa hè, ngày tết hay ngày thường cũng thế, chú luôn luôn có sẵn hạt dưa đỏ trong túi và luôn luôn thong thả cắn ăn hạt dưa; hạt dưa đối với chú là đầu câu chuyện, cũng như đối với người khác là miếng trầu hay điếu thuốc.
À mà chú cũng ăn trầu, trầu quệt rất nhiều vôi và lúc ăn trầu mặt chú vốn đã hồng hào lại đỏ thắm thêm, nhìn rất cảm tình. Khi có những chuyện xích mích xảy ra giữa những người hàng xóm, thì thím Xối hay bảo chồng “có vài lời góp với bà con cho êm thấm”. Chú Xối thong thả
đến giữa cuộc cãi cọ, có khi là cuộc đấu khẩu gay gắt, miệng vẫn ăn hạt dưa tươi cười nói:“Pà con cả mà, pà con cả mà? Có gì thì vào nhà nói chuyện nhỏ với nhau, nếu pà con không muốn về nhà mình, thì xin mời vào nhà tôi uống nước và nói chuyện”. Thế mà thường thường các chuyện cãi cọ được kết thúc nếu không được thật êm đẹp, thì cũng im tiếng. Chú Xối nghiễm nhiên trở thành một ông trọng tài hay ít nhất cũng là một người phất cờ biên trong cái phố nhỏ của tôi.
Bây giờ tôi xin nhắc đến những người vất vả những người nghèo, láng giềng của tôi. Sát bên cạnh căn nhà của cậu tôi có gia đình ông Lạng. Thím Lạng hàng ngày đến lò sát sinh cách nhà chừng 300 thước mua huyết bò về phơi khô để bán cho những người nhuộm lưới và cho những người chế biến thuốc nhuộm (tôi nghe nói thế, còn chế biến thế nào tôi đâu có biết). Huyết bò lúc gần khô thì xông lên một mùi hôi khá nồng nặc, chúng tôi ở bên cạnh khi đầu không chịu được, nhưng sau cũng quen dần. Vả lại vợ chồng ông Lạng cũng tìm cách che kín được chừng nào hay chừng ấy cái khoảng sân xi măng dùng để phơi huyết.
Ông Lạng làm chuồng chim, một tháng vài lấn mang ra chợ Đông Ba, hoặc chợ Gia Hội để bán, mùa nào hơi ế thì gánh đi bán rong. Nhưng thường là khách nuôi chim đến đặt hàng tại nhà ông và cứ thế đúng ngày hẹn là khách đến lấy chuồng, không chê bai gì vì chuồng chim ông làm rất đẹp. Có thể nói ông làm chuồng chim để bán, nhưng làm một cách khá say mê tỉ mỉ, trau chuốt, nghĩa là với “máu mê” nghệ thuật.
Tôi đã từng hàng giờ đứng trông ông khoan, đục những mẩu tre nhỏ, những khúc mây trắng ngà và vót những nan tre thật tròn, thật trơn để làm chuồng chim.
Chuồng ông làm đủ cỡ và đủ kiểu: để nuôi chim bầy thì lồng chim to và vuông, để nuôi một con chim sâu hay một con chim vàng anh, hay một con vẹt thì có lồng chim nhỏ, tròn, mái lồng uốn cong như nóc những ngôi lầu cổ. Chính ông Lạng cũng nuôi vài con chim trong nhà trong hai cái lồng con. Có lần có người khách thấy chim đẹp lại có tiếng hót, muốn mua cả lồng lẫn chim. Ông Lạng cười và nói:“Thưa ông, tôi chỉ bán lồng, còn chim thì phải ở lại với tôi cho vui nhà”. Người khách chắc là cảm phục người thợ làm lồng chim nên nói tiếp:“Vậy thì khi nào ông gặp một đôi chim cũng hay hay như đôi chim này ông mua giùm cho tôi, và bây giờ xin gửi ông tiền trước”. Ông Lạng cười:“Gặp chim tôi sẽ mua giùm ông, nhưng tiền thì ông khoan đưa, vì cá nước chim trời biết khi nào bắt được mà dám hẹn”. Ông Lạng láng giềng của tôi là như thế đó. Ông lại còn tài đàn bầu, mà không biết sao ông thường gảy lên những bài não nuột.
Ông Lạng làm chuồng chim bán rong
Suốt ngày khoan đục giữa mây song
Đàn bầu một chiếc khi tiêu khiển.
Vừa gảy vừa ca thật não nùng.
Tiếp theo tiếng đàn bầu của ông Lạng là tiếng đàn tranh và đàn nguyệt của anh Cháu. Anh Cháu ở căn nhà cuối dãy, cách căn nhà cậu tôi hơn 100 thước anh làm nghề đàn chầu văn, và cũng có khi đi đàn hầu đò, tức là xuống đò dạo sông Hương đàn cho những khách làng chơi, hoặc những khách trong Nam ngoài Bắc ghé Huế vài hôm để thường thức cái thú chơi đò trên sông Hương. Đi chầu văn thì anh đàn nguyệt, nhưng đi hầu đò thì anh mang cả đàn tranh đi theo, lúc nguyệt
lúc tranh, tiếng đàn thánh thót giữa trăng nước đêm khuya. Anh Cháu mù một mắt, mà nhìn anh người ta không có cảm giác là anh chột, vì miệng anh tươi cười và có lẽ cũng vì người ta chăm chú vào tiếng đàn rất nội tâm của anh, và có lúc anh đàn thì đầu anh nghiêng nghiêng
xuống như để thỏ thẻ cùng dây đàn, cùng tiếng đàn. Cậu Vân tôi cũng đã nhờ anh dạy đàn nguyệt cho và tối thứ bảy, tối chủ nhật nếu anh không bận đi hầu cúng hay hầu đò thì anh đến hoà đàn với cậu tôi. Tôi không nhớ rõ là anh có vợ con không, chỉ biết anh ở cùng nhà với anh trai và chị dâu bán chả tôm và bún bò. Trong kỷ niệm của tôi anh Cháu là người nghệ sĩ đánh đàn, nghèo mà rất tài tứ, vui một cách âm thầm:
Anh Cháu đàn tranh mù một mắt
Khi thì hầu cúng, khi hầu đò
Hồn anh là mảng trăng khuya khoắt
Một nửa đen sầm, nửa ánh mơ.
Cậu tôi học đàn nguyệt với anh Cháu mấy năm trời, nhưng tiếng đàn vẫn không có nhuỵ bằng tiếng đàn của anh. Có lúc anh Cháu nói với cậu tôi “tiếng đàn của ông còn thật quá”. Lúc đó tôi không hiểu lời nhận xét này, bây giờ thì may ra tôi cảm nhận được ý sâu của anh “Cháu đờn”, như mợ tôi thường gọi anh.
Tiếng đàn của ông Cả Soạn, của anh Cháu là tiếng đàn thanh tao, còn như tiếng đàn của chú Kình thì lanh tanh vui nhộn, hoặc không vui nhộn thì cũng là tiếng đàn khuây khoả qua quít trong chốc lát. Chú Kình là thợ cúp tóc, mắt trái cũng bị mây kéo mờ đi nhưng mắt phải thì rất lanh lợi, mà cái nhìn rất tinh nghịch, có khi như soi mói nữa. Chú Kình và người anh là chú Kiên mở phòng cúp tóc phía trước hiên gần nhà ông Cả Soạn. Hai anh em thay nhau cúp tóc kiếm đủ ăn, và những lúc rỗi thì chú Kình đàn cái đàn đoản (tức là đàn tam), gọi là đàn đoản vì cái cần đàn rất ngắn.
Chẳng được phong lưu như bác Cả
Chú Kình cúp tóc cũng đàn khua
Lanh tanh đàn đoản cần trun cổ
Như chú Kình hay rụt cổ rùa.
Chú Kình cũng hay đánh cờ tướng, và có lúc rủ bọn tôi sang đánh với chú cho đỡ buồn. Bộ quân cờ của chú bằng sừng, mỗi lúc đến phòng cúp tóc (vì chú ở xa dưới xóm Mang Cá) thì chú mang quân cờ bỏ trong một túi vải treo đầu cần đàn đoản. Cứ thế chú ung dung tới trước cái bàn cúp tóc và treo đàn và cờ lên phía trên gương. Thật là thú cầm kỳ của một đời nghèo mà thanh thú.
Trong giới âm nhạc dân gian của tôi còn ông Xẩm chợ mù hai mắt cứ mỗi chiều chủ nhật lại đến trước cửa trường tôi học, dạo vài tiếng đàn bầu và kể vè Kinh đô thất thủ. Có hai con nhỏ dắt ông đi, và ngửa nón xin tiền mỗi khi ông kể xong một đoạn vè. Vè “kinh đô thất thủ” ai nấy đều thuộc, nhưng mỗi lần ông kể người ta lại xúm quanh ông để nghe, cốt để nghe giọng ông kể hơn là những chuyện xảy ra trong bài vè mà người ta đã nhớ. Mà giọng ông kể thì thống thiết, não nùng, có khi như uất nghẹn. Chắc rằng ông “sống” với những câu vè ông kể, mà những người nghe cũng “sống” với ông cái cảnh nước mất nhà tan. Sự đồng cảm ấy làm nên những buổi chiều xúc động, da diết:
Cuối phố gốc cây, chiều chủ nhật
Là ông xẩm chợ với hai con
“Kinh đô thất thủ” vè quen thuộc
Lớn, nhỏ ngồi nghe nặng trĩu hồn.
Những người nghệ sĩ dân gian ấy đã cho tôi cái mê say nghệ thuật, cũng như tủ sách của ông cậu tôi đã mở cửa cho tôi vào thế giới kỳ diệu của văn thơ.
Tôi vẫn thường nói với anh Xuân Diệu:“Mình biết ơn vô kể những người láng giềng tuổi nhỏ ở phố Đông Ba. Vốn đẹp của quê nhà, hồn đẹp của cha ông, chính những người ấy, những nghệ sĩ nghèo ấy đã mớm cho mình từ tấm bé”.
Ấy phố Đông Ba nghèo ảm đạm
Chút vui nghệ thuật cũng bồi hồi
Bốn lăm năm trước đời u ám
Trời nghẹn hoàng hôn trên phố tôi.
(Phố Đông Ba của tôi ngày bé, 1972)
Nhân nhắc đến anh Cháu đờn, tôi còn nhớ câu chuyện chị Th., gái làng chơi ở gần miếu “âm hồn” ở trong thành Huế, ở cửa Đông Ba đi vào. Chiều chủ nhật hôm đó, một buổi chiều mùa hè, có một ông hàn (chức tước mua bằng tiền của người giàu) ở Thanh Hoá vào ghé thăm nhà cậu
tôi. Ông hàn cũng muốn hường thú sông Hương, cậu tôi mời anh Cháu sang giúp tổ chức một đêm “đàn hát” trên sông. Anh Cháu không quen tổ chức đêm sông Hương, nhưng cũng thuê đò giùm, và ông hàn nói nhỏ với anh nhờ anh tìm cho một người hát “trông được”. Anh Cháu liền cho một người học sinh bà con đi tìm chị Th., gọi là chị “Th. miếu âm hồn”. Anh Cháu cũng bảo tôi đi theo cùng cậu học sinh kia để nhắc nhau về cho nhanh, vì chúng tôi đi bộ. Vào đến nhà chị Th., trời đã gần tối; may mà chị ở nhà. Tôi không nhớ trạc tuổi của chị, nhưng vẻ người chị còn trẻ, da dẻ mịn màng, nét mặt đầy đặn. Tôi không nhớ cảm giác đẹp, nhưng mà nhớ chị rất có duyên, và có vẻ gì rất e thẹn. Chị bảo:“Hai em chờ chị một chút”, rồi chị vào phòng trong son phấn qua loa, khi đi ra, chị bận một áo dài lụa, tay cầm quạt, và cầm cả dôi sanh bằng gỗ đen như sừng, đôi sanh để gõ nhịp hát. Chị thuê xe kéo, cho cả hai chúng tôi cùng ngồi với chị để đi về nhà cậu tôi. Ngồi lên xe, bất thần chị nói nhỏ với hai chúng tôi:“Hai em đừng cười chị nhé?”. Chị nói xong thấy chúng tôi ngồi im, chị cúi mặt xuống, nét buồn rõ rệt. Đêm hôm ấy, đêm thưởng ngoạn sông Hương của ông hàn dường như vui lắm, anh Cháu hôm sau nói lại thế, nhưng tôi cứ nhớ câu của chị Th. nói với chúng tôi và nét mặt buồn không thấm nước mắt của chị mà còn buồn hơn khóc. Về sau mỗi lúc vào hồ Tịnh Tâm để qua miếu “âm hồn” tôi lại nhớ lần gặp “chị Th.”. “Hai em đừng cười chị!”. Sao mà đau đớn thế, não nuột thế, cay đắng thế? Ở phố Đông Ba còn nhiều nhân vật lắm. Tôi xin kể tiếp đến mụ Lợn. Mụ Lợn ở đàng sau nhà cậu tôi, buôn thúng bán mẹt, khi buôn khoai lang, sắn mì, khi ngồi bán nước chè, bán bát chè đậu xanh, đậu ván.
Người mụ hơi có tật, đi hơi vẹo lưng, tay khua khua đàng trước như là luôn luôn sắp ngã. Không hiểu chồng mụ đã chết, hay là đã bỏ mụ, nhưng lúc đó chúng tôi chỉ thấy mụ sống một mình trong một căn nhà nhỏ lụp xụp phía đằng sau dãy nhà cho thuê.
Cũng có lúc thấy mụ gánh vôi đi bán, có lúc lại gánh cát thuê cho những người thợ nề cùng ở một dãy phố sau nhà cậu tôi. Rõ ràng là mụ Lợn sống một cuộc sống rất chật vật, vất vả. Tôi không khi nào gặp mụ ăn cơm, và không hiểu mụ có ăn cơm không. Thế rồi cũng có một anh lính “Tây đen” ở đồn Mang Cá che chở mụ, sống với mụ những tối thứ bảy, và cho mụ đủ tiền để cải thiện cuộc sống quá nghèo hèn của mụ.
Mà có cái lạ là hàng ngày mụ vẫn sống giữa bà con một cách tự nhiên, “như thường”, không có vẻ gì là “me Tây” cả. Dường như sự dan díu của mụ với anh Tây đen là ngẫu nhiên.
=D=
Lò sát sinh
Trường học Queignec của tôi ở sát cạnh lò sát sinh của thành phố Huế, và lò sát sinh cách nhà cậu tôi ở cũng chỉ hơn 200 thước. Lò sát sinh ở trên một khoảng đất rộng, có trồng cỏ xanh như bãi để bóng.
Lò sát sinh là một cái nhà rộng, dài kiểu như một nhà máy cơ khí, chỉ khác một điếu là trong nhà máy gắn với nền xi măng là những cỗ máy to bự; còn ở đây gắn với nền xi măng là những vòng kiềng sắt to, buộc vào xiềng là những sợi xích dài, những xiêng xích ấy là để buộc những con bò dể người ta giết. Lần đầu tiên, lúc đó tôi học lớp ba, 1929, tôi cùng mấy bạn học trong nhà vào xem lò sát sinh, và xem người ta giết bò, mổ lợn. Hồi nhỏ, lúc tôi 5, 6 tuổi, tôi đã thấy người ta giết bò, giết bê làm thịt vào dịp Tết hàng ngày rằm tháng 7, nhưng cách giết bò là buộc bốn chân bò và bê rồi lấy dao đâm thọc vào cổ con vật cho máu ộc ra, và máu chảy hết thì bò bê cũng tắt thở. Đối với tuổi nhỏ việc nhìn thấy giết con vật thân quen như thế cũng đã là một điều ghê rợn. Nhưng ở lò sát sinh thì cách giết lại khác. Tôi thấy người ta dắt những con bò vào và lấy xích buộc nó chặt vào các cái xiềng gắn ở nền xi măng. Không biết các con bò có linh tính gì không, nhưng tôi thấy chúng bước vào lò sát sinh đi từng bước nặng trĩu, đầu cúi rạp xuống, và hai con mắt của chúng buồn không thể tả được. Mà thực sự tôi đã thấy chúng khóc, khóc những giọt nước mắt không tràn trề, nhưng rõ ràng là những giọt nước mắt của
những con vật cảm thấy giờ tận kiếp sắp đến. Những giọt nước mắt bò, than ôi, cũng đau đớn, cũng xé gan xé ruột như những giọt nước mắt người. Thế rồi, những con bò đã bị xiềng xích đứng im, như yên phận chờ số mệnh của chúng. Và một người vạm vỡ, bận quần đùi, áo cộc, cả quần áo đều màu cháo lòng, bước vào, tôi sợ quá! Gọi người này bằng tên gì? Trong cảm giác thơ bé của tôi, anh ta là một đao phủ, đao phủ của những con bò tội nghiệp đứng chờ kia. Tôi không dám nhìn, nhưng rồi tôi cũng nhìn cho biết việc hạ thủ những con vật kia sẽ xảy ra như thế nào. Anh vạm vỡ kia đi tới trước con bò, dừng lại chừng nửa phút, dường như để ngắm dáng đứng của con bò đã khớp với tư thế đứng của anh chưa và trong nháy mắt anh giơ cái búa to, nặng cần không dài lắm, giáng mạnh vào gáy con bò. Tôi nhắm mắt không dám nhìn nữa. Bỗng nghe một tiếng xoạc đổ, rầm một cái: tôi mở mắt ra, con bò đã ngã khuỵu bốn chân xoài ra, hai mắt nó không còn nhìn nữa, cũng không khóc nữa, nó đã chết tức khắc sau nhát búa giáng mạnh vào gáy nó. Mỗi ngày, hoặc là mỗi tuần vài ba ngày, ở trong lò sát sinh ấy giết đến mấy con bò như vậy. Nhưng tôi chỉ xem phút hạ thủ bò chỉ một lần ấy mà thôi... Sau đó, tôi cũng tò mò xem người ta mổ bò, lột da bò và treo con bò đã lột da, đã lấy hết huyết, lên những đòn tay có xích kéo cao lên, để nhờ ông bác sĩ thú y đến khám xét xem thịt bò lành hay bị nhiễm bệnh. Sau này tôi có dịp xem bức tranh của Rembrand “Con bò đã lột da”, thì tôi thấy nó giống những con bò treo ở nhà sát sinh quá. Ông T. y sĩ thú y của thành phố khoảng 9 giờ đi xe kéo nhà đến, vào thẳng lò, cầm một con dao mổ “Scalpel” rất sắc và nhọn đi rạch vào từng mảng thịt của những con bò, để xem có sán hoặc có các ký sinh trùng nào khác ẩn trong cơ bắp của bò không. Dao ông sắc lém đến nỗi ông chỉ rạch qua mà đôi khi văng cả cục thịt ra ngoài, nhưng những người đi theo không ai dám nhặt, vì mắt ông còn sắc lém hơn. Có một lần ông N. cậu ruột của một người bạn học tôi, xớ rớ thế nào mà ông tưởng là nhặt cắp thịt văng ra ông liền phóng con dao theo ông N., may mà dao trượt qua lưng chỉ trầy da một chút thôi. Cái anh vạm vỡ đao phủ trên kia và cái ông thú y sắc lém này làm tôi khiếp đảm, từ đó mặc dầu trường tôi ở sát nách lò sát sinh tôi cũng không dám vào xem công việc mổ bò, mổ lợn nữa. Huyết bò đổ vào những cái chậu to bằng tôn, và huyết cũng lai láng trên nền xi măng. Các bà buôn huyết bò (như thím Lạng đã nói trên kia), vội vàng gánh thùng vào cho huyết đầy thùng và gánh đi thoăn thoắt, vì trễ giờ thì lò sát sinh sẽ đóng cửa, và mọi người đều sợ gặp ông thú y như sợ cọp.
Ông thú y này có một lần bị kiện vì hành động tàn bạo đối với người lao động trong lò sát sinh, nhưng được quan trên che chở nên ông cũng trắng án. Trong kháng chiến chống Pháp, tình cờ tôi có dịp gặp lại ông, tôi không nhắc lại chuyện cũ ở lò sát sinh, ông cũng không nhắc, nhưng cả hai người đều khêu gợi những kỷ niệm ở Huế. Thú vị cho tôi là nghe ông nhắc nhiều đến chùa Thiên Mụ, tả tiếng chuông chùa ngân vang mỗi sáng mỗi chiều, tiếng chuông Thiên Mụ mà tôi cũng rất mê nghe ngày tôi học ở trường Quốc học. Ông nói rất tự nhiên, như là bộc lộ một suy nghĩ thấm sâu, dai dắng của mình:“Thật ra ai cũng có Phật tâm, chỉ có lúc này lúc kia bị chuyện đời che lấp làm cho mờ ám cái Phật tâm kia.... Trong bụng tôi tự nghĩ:“Chắc hẳn rằng lúc ông phóng con dao vào thắt lưng ông N. là lúc Phật tâm kia của ông bị che lấp, tối mờ đi...
Từ lò sát sinh, xung quanh lò sát sinh, nầy nở nhiều nghề phụ: nghề buôn da và thuộc da, nghề buôn xương (để làm cúc, vạch...), nghề buôn huyết và chế biến huyết, nghề buôn lông lợn và chế biến lông lợn (làm bàn chải, làm những cái thông bóng đèn,...).
Người ta bảo với tôi là còn nghề buôn sừng trâu, sừng bò, móng trâu móng bò cũng được tiền lắm. Tôi ngây thơ tưởng rằng những người làm ở lò sát sinh mục kích hàng ngày việc giết trâu giết bò như vậy thì dễ sinh tính hung tợn, tàn bạo, và tôi cứ phàn nàn tại sao trường tôi lại xấu số ở sát cạnh lò sát sinh. Lại có người nhắc mẹ thầy Mạnh Tứ không muốn cho con ở gần chợ... Nhưng cuộc đời nó không theo cái lập luận ngây thơ của tôi. Vợ ông N. mà tôi đã nhắc đến trên
kia là một người rất hiền, rất thương người, rất thương cháu, đặc biệt là thương người cháu nghèo bạn học của tôi cùng lớp. Thậm chí bà nói nhỏ nhẹ, và không muốn người khác nói to tiếng trong nhà mình. Và người ta còn kể cho tôi nghe cái anh vạm vỡ đao phủ của những con bò, về nhà lại rất hiền, rất êm ái với vợ con và láng giềng, hàng xóm. Và biết bao nhiêu người hiền lành tôi đã được gặp, tôi đã được chung đụng trong cái xã hội nhỏ sống gần lò sát sinh như những người tôi đã nhắc đến trên kia: anh Cháu đờn ông Lạng, chú Kình, chú Xối, ông cả Soạn, mụ Lợn mệ Chiếu, v.v... Lò sát sinh: một chi tiết dữ dội trong kỷ niệm tuổi nhỏ ở phố
Đông Ba.
Trường Queignec
Trường tiểu học Queignec của tôi có 6 lớp: lớp năm, lớp tư, lớp ba, lớp nhì nhất niên, lớp nhì nhị niên và lớp nhất. Đằng sau trường có một sân khá rộng để học trò tập thể dục buổi chiều theo sự hướng dẫn của một ông cai lính khố áo xanh. Mỗi lớp của trường tương đối rộng, chứa được trên dưới 40 học sinh, bàn ghế của học sinh làm bằng gỗ lim, đã hàng chục năm, vẫn vững chắc. Bàn của thầy giáo là lối bàn ở các giảng đường, nghĩa là có che kín xung quanh và để trên một cái bục cao. Từ bàn đó, thầy nhìn xuống lớp thấy rất rõ từng bàn của học sinh, bàn cuối lớp cũng không lọt được con mắt kiểm soát của thầy. Áp vào tường là một cái bảng đen to tướng, mầu đen rất bền, viết phấn trắng lên, phấn rất cắn và rất nổi chữ... Năm tôi học lớp ba và lớp nhì thì cậu tôi là hiệu trưởng có sáng kiến giao cho thầy trò mỗi lớp trồng mấy cây bàng phía cửa sổ của lớp nhìn sang cái vườn của sở trứng (nhà máy làm bột trứng) mà chủ là một người Pháp. Những cây bàng mà chúng tôi trồng lớn khá nhanh và sau hơn một năm đã cho bóng mát vào lớp Năm 1975 sau khi giải phóng Huế, tôi về thăm trường, thì việc trước tiên là tôi thăm mấy cây bàng. Các cây bàng này không to lên bao nhiêu, có lẽ trồng trên đất sỏi gạch, nhưng lá vẫn mượt, và cây không bị sâu. Người cai trường, lúc tôi học ở đó, là ông Tộ, hơi nặng tai, nên ông nói với ai cũng nói thật to Cũng theo lẽ ấy, khi ông đánh trống trường ông cũng nện dùi trống thật mạnh và tất nhiên là tiếng trống vang to và vang xa, nhưng tội một cái là trống của trường mau thủng mặt trống, và ông hiệu trưởng là cậu tôi lại phải xin tiền ty học chánh Thừa Thiên để thay mặt trống. Sau này cậu tôi không giao ông Tộ đánh trống nữa, mà giao cho học sinh lớp nhất luân phiên nhau đánh trống. Ông Tộ rất tốt, đến giờ đóng cửa trường mà gặp học sinh đến chậm, ông vẫn mở cửa cho vào, có khi ông bày cho học sinh leo qua cửa sổ nhà ông mà vào lớp. Cả năm, ông không đi đâu nghỉ hè cũng vậy: trường thật sự là nhà của ông... Thầy Phan Tiên Nhắc đến những năm học ở trường Queignec, trước hết tôi nhớ và hết sức biết ơn thầy Phan Tiên. Thầy người quê ở Quảng Ngãi học ở trường đạo Pellerin (Huế), đậu bằng thành chung mùa hè 1928 và được bổ nhiệm về trường tôi vào kỳ tựu trường năm ấy, là lúc tôi học lớp ba. Thầy là người học giỏi, đọc rộng, tính tình rất sôi nổi, phong cách hào phóng. Tuy thầy không qua môn sư phạm, nhưng thầy dạy học trò mau tiến bộ dường như thầy rất tin ở sự thông minh của đám trẻ học với thầy, và một phần nào thầy giao cho lớp tự quản. Đặc biệt, thầy hay gợi ý cho học sinh đọc sách sách giáo khoa hoặc những sách tập đọc ngoại khoá. Thầy chú ý khêu gọi lòng ham đọc sách, hứng thú tìm cái hay cái đẹp trong sách cho học sinh. Hàng tháng thầy dành một vài tiết học cho học sinh kể lại những bài mình đã đọc, những truyện lý thú mà mình đã khám phá trong các sách đọc ngoài giờ học. Thầy cũng hay gợi ý cho học sinh trau dồi tình bạn với nhau, và thầy kể hồi nhỏ ở lứa tuổi của chúng tôi, nghĩa là 9, 10 tuổi, thầy đã kết bạn như thế nào với một bạn học con trai và một bạn học con gái. Thầy kể tình bạn tuổi nhỏ ấy với một giọng đầy xúc động, làm cho chúng tôi rất yêu thầy, và cũng làm cho chúng tôi thấy tình bạn đẹp quá Tôi và vài anh nữa, vào loại “đắc ý môn sinh” của thầy, vì chúng tôi học giỏi, và cũng giúp thầy chấm bài cho cả lớp: chấm toán chẳng hạn, thì thầy chấm bài chúng tôi trước, thầy phê đúng và cho điểm. Sau đó thầy giao số bài còn lại cho chúng tôi kiểm tra đúng thì đề đúng, sai thì đề sai còn điểm thì chúng tôi ghi bằng bút chì thường theo sự đánh giá chủ quan của chúng tôi, sau đó thầy xem lại và phê điểm bằng bút mực đỏ, thường là thầy đồng tình với những điểm chúng tôi đề nghị; tất nhiên cũng có trường hợp thầy gia giảm. Anh em học sinh cùng lớp cũng biết cách chấm này của thầy, nhưng không thắc mắc, một là vì sợ thầy, hai là thấy điểm cho cũng công bằng, không có gì là thiên vị hay trù úm. Thầy hay dẫn học trò đi chơi thăm những cảnh đẹp trong thành phố hay ngoài thành phố như đàn Nam Giao, chùa Từ Đàm, chùa Diệu Đế.
Thầy Tiên rất thương học trò, cuối mỗi năm học, thầy đòi mỗi học sinh cho thầy một ảnh nhỏ để thầy dán vào quyển sổ lưu niệm của thầy. Năm 1975, sau khi miền Nam được giải phóng, từ Sài Gòn đi ra bằng xe hơi, tôi ghé Quảng Ngãi tìm thăm thầy và tôi đã gặp thầy ở thị xã Quảng Ngãi (huyện Tư Nghĩa). Thầy đã già nhưng còn quắc thước, giọng nói vẫn sang sảng. Gặp tôi thầy nhớ ra ngay, và thầy cho tôi ăn kẹo lạc và đường phổi Quảng Ngãi, như hồi bé tôi vẫn được thầy cho sau khi thầy về quê ăn tết ở quê ra. Thầy đi vào phòng trong đưa ra một
quyển vở dày và mở ra cho tôi xem ở trang có dán ảnh học sinh lớp ba của thầy ở trường Queignec năm 1929. Thầy chỉ vào ảnh tôi (cái ảnh mà tôi còn giữ được trong căn cước đi thi tiểu học yếu lược) và đọc lại tôi nghe lời nhận xét của thầy về tôi “Cậu bé này có tương lai rực rỡ”. Lời nhận xét khích lệ của thầy, thầy lấy làm tâm đắc. Năm tôi lên lớp nhì đệ nhị niên lại gặp thầy Tiên. Tình nghĩa thầy trò từ bấy nay không hề phai nhạt, mỗi lần có cơ hội là tôi thăm thầy, và điều làm thầy sung sướng là mỗi lần tôi lại tặng thầy một tập thơ mới của tôi...
Tôi ốm thương hàn
Năm tôi học lớp ba, tôi bị ốm một trận thập tử nhất sinh, sốt liên miên nhiều ngày mà cậu mợ tôi không hiểu rõ là bệnh gì. Cậu mợ rất lo, một mặt đánh dây thép mời thầy (cha) tôi vào, mặt khác cậu tôi mời một ông ngự y quen biết đến bắt mạch cho tôi và cho toa thuốc. Uống thuốc của ông ngự y (thầy thuốc của nhà vua) được ba bốn hôm thì bệnh thuyên giảm, và lúc đó cũng vừa lúc thầy tôi ở Hà Tĩnh đi xe lửa vào. Thành ra thầy tôi được một dịp đi thăm kinh đô Huế, mà thầy vẫn ao ước, và ngồi đánh tài bàn tổ tôm với cậu tôi và mấy người quen nửa tháng rồi về.
Sau này tôi mới hiểu rõ lần ấy tôi bị bệnh thương hàn, và ông ngự y cũng đã cho tôi uống bài thuốc kinh điển về bệnh này, hình như có nhiều phụ tử. Lúc tôi gần khỏi, đầu cứ choáng váng, nằm thấy trần nhà cứ xoay tròn, và cố gắng đứng dậy đi lại thì người cứ nhẹ lâng, như không
còn sức hút của đất. Lúc tôi ốm, cả mợ Vân, cả dì Em đều chăm nom tôi hết lòng như mẹ chăm nom cho con. Có lúc mợ và dì tưởng tôi có thể chết thì đã hối hận “đem nó vào làm gì để cho cha mẹ nó sẽ oán hận.... Lúc đó tôi không hề có cảm giác là có thể chết, ý nghĩ về cái chết có lẽ không bao giờ lởn vởn trong đầu một đứa trẻ con. Tôi chưa làm một cuộc điều tra về điều này, nhưng tôi đoán chắc như thế. Trẻ con là mầm đang lên, chưa có cái cụp héo của tuổi già để mà lo sợ cái chết. Tôi khỏi bệnh rồi ăn cháo mấy ngày, cháo thịt bò, rồi ăn cơm bình thường mà cậu tôi vẫn nhờ ông ngự y làm cho một thẩu thuốc bổ, thuốc tễ (từng viên vuông như viên đường kính, mầu nâu) để ăn dần. Ăn hết thẩu thuốc tễ này thì tôi khỏe hẳn, và từ đó về sau tôi không ốm nữa. Qua trận ốm này, và một lần ốm nhẹ nữa năm 1936 (sau khi tôi đậu thành chung), tôi càng tin thuốc bắc, đặc biệt là các phương thuốc bổ nó ngấm lâu dài vào cơ thể của ta, và cho ta một cái vốn đề kháng rất lớn.
Cũng vì vậy tôi rất tin tưởng ở phương châm kết hợp y học phương Tây với y học dân tộc. Cũng là một sự ngẫu nhiên đẹp đẽ ở đời là thầy tôi và thầy anh Xuân Diệu, sau khi hai con của mình thoát chết vì bệnh thương hàn thì đều nghiên cứu đông y và trở thành những thầy thuốc “mát tay” chữa bệnh cho bà con họ hàng, làng xóm.
Xóm Mang Cá
Từ trường học Queignec của tôi đi xuôi về Sình, qua cầu Thanh Long, là đến xóm Mang Cá, ở gần đồn Mang Cá Đồn Mang Cá lúc đó là do lính Pháp và lính khố đỏ đóng, vì đây là một vị trí quân sự quan trọng, chính quyền thực dân không muốn giao cho lính khố xanh đóng, mà họ gọi là đội lính bản xứ (garde indigène). Đồn Mang Cá xưa kia, lúc Pháp mới sang, là nơi đã xảy ra cuộc chiến đấu ác liệt của nhà yêu nước Tôn Thất Thuyết chống cự (một cách tuyệt vọng nhưng rất anh hùng) bọn giặc Pháp lúc đó muốn củng cố nền đô hộ chưa ổn định của chúng. Xóm Mang Cá những năm 30 của thế kỷ là xóm của những người vợ lính Tây, cả Tây trắng và Tây đen (từ “tây đen” là chỉ những người lính châu Phi da đen ở trong quân đội Pháp). Một vài người bạn học cùng lớp với tôi (như bạn Côn, bạn Bảo) nhà ở dưới đó, có rủ tôi đi chơi ở xóm Mang Cá. Đó là những ngôi nhà tranh vách toócsi (đất nhồi rơm, có khi cả với phân trâu khô) sạch sẽ, trong mỗi nhà là gia đình của một anh lính. Các chị vợ Tây này có người có con, nhiều nhất là vài đứa, có người không có con. Lính Tây chỉ được sống với vợ con tối thứ bẩy và ngày chủ nhật trừ những anh cai hay đội thì thỉnh thoảng cũng được về nhà vài đêm “bổ sung”. Các chị vợ lính Tây thường nhàn rỗi, vì đã có tiền của anh chồng bao, chỉ đi chợ mua thức ăn, lo bếp núc, nhất là thứ bẩy và chủ nhật: Còn ngày giờ rỗi thì các chị đánh tứ sắc, hay là đánh chắn. Tôi còn nhỏ (10 tuổi), nhưng tại sao tôi có cảm giác các chị sống một cuộc đời dường như ngơ ngác, như giả tạo, và trên nét mặt của các chị tôi thấy một nỗi buồn phảng phất, kể cả những
khi các chị vui đùa. Có những anh lính Tây cũng thương vợ thật, đằm thắm nữa là khác, và lúc về Tây, không đem vợ theo được, thì để lại cho vợ một số tiền khá lớn, và sắm sửa cho vợ đủ thứ bàn ghế, giường màn, rương tủ, cả chậu cảnh nữa, về đến Pháp hay châu Phi còn gởi thư
sang, giọng đầy tình nghĩa. Nhưng cũng có những chị bị chồng Tây hành hạ, đánh đập như một người nô lệ, mà nó đánh thì không ai dám đến can. Số phận con người “me Tây” tuỳ may, tuỳ rủi. Nói số phận “me Tây”, tôi lại nhớ đến mẹ anh Hường cùng học lớp với tôi. Mẹ anh hai đời lấy Tây, chồng trước là một anh Tây trắng đối xừ với bà rất tàn tệ, thậm chí có lúc giam đói bà cả ngày chủ nhật vì cách chiều chuộng mơn trớn của bà không vừa ý nó. Đến lúc về Tây, nó chỉ thí cho bà được vài chục đồng bạc, và chẳng có thư từ hỏi han gì. Nhưng đời sau là một anh Tây đen, người Xênêgan, “đen như cột nhà cháy”, cao lêu nghêu nhưng rất hiền. Anh chồng này chiều chuộng bà đủ cách, muốn may áo là may áo muốn sắm giường là có giường, và không khi nào anh to tiếng với bà. Người cao to như ông hộ pháp mà giọng nói lại nhỏ nhẹ, tiếng Pháp bồi, đủ để trao đổi ý kiến về sinh hoạt hàng ngày, và để trao đổi những tình cảm cơ bản... Đến lúc anh này về nước, anh để lại không những một số tiền to, mà còn cả những thứ anh sắm mấy năm trời khi anh đóng ở trại Mang Cá. Ra về anh khóc sướt mướt, hai vợ chồng tiễn nhau đến Cửa Hàn tức là Đà Nẵng ngày nay, và còn cái đồng hồ nơi tay anh cũng cho vợ nốt. Anh Hường là con đời chồng Việt Nam của bà, đã chết trước khi bà lấy Tây. Bà rất thương anh Hường, và anh Hường cũng rất thương dượng Tây đen của anh. Hai đời chồng Tây không cho bà một đứa con nào, trắng cũng không mà đen cũng không.
Năm 1975 sau khi Huế giải phóng, tôi về thăm Huế, và đạp xe đạp xuống thăm xóm Mang Cá. Cảnh đã khác xưa, có nhiều nhà ngói xây thời Mỹ nguỵ, thay những nhà tranh vách toócsi xưa kia. Những bà vợ “me Tây” đã phiêu bạt đi đâu và cái cảnh ngơ ngác của các bà cũng không còn nữa. “Vang bóng một thời” Tây, tôi xin ghi vài nét trên đây làm chứng liệu. Tôi sẽ trở lại các chị “me Tây”, khi nói đến cái lớp học tiểu học dành cho bọn trẻ Tây lai trong trường trung học quốc học...
Các thầy thợ in của báo Tiếng dân
Báo Tiếng dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng cũng ở trên phố Đông Ba, cách nhà cậu tôi chừng nửa cây số.
Một ông cậu khác của tôi lúc đó học trường quốc học ham đọc báo Tiếng dân, và thỉnh thoảng viết một cái tin vặt (nhưng có ý nghĩa về đời sống của dân chúng) gởi đăng báo, và khi tin được đăng lên, cậu tôi rất sung sướng, có phần nào hãnh diện với những người xung quanh rằng ta có “bài đăng báo”. Báo Tiếng dân của cụ Huỳnh dùng toàn thợ in ở Hà Nội, ở ngoài Bắc vào. Các anh em thợ in này, ít người bận âu phục thường là bận áo quần ta, áo dài đen hoặc áo dài trắng, và đi giày vải trắng, đội mũ “cát” trắng. Bà con gọi anh em thợ in này là thầy, và cũng nể các thầy, vì anh em giữ tư cách đứng đắn, ăn nói lịch thiệp dường như anh em cũng giữ danh dự cho cả nhà in báo Tiếng dân của cụ Huỳnh nữa. Có mấy thầy quen nhà cậu tôi, chủ nhật thỉnh thoảng đến đánh tổ tôm, tài bàn với cậu tôi. Đánh bài thì có thua có được có thầy nướng hết vốn, phải vay, nhưng sau đó trả nợ đàng hoàng. Tôi không biết các thầy này có vợ không hay là có vợ mà để vợ ở quê. Duy có thầy Yên thì tôi biết đích xác là chưa có vợ và rất si tình. Thầy thường bận một áo lương đen, đội khăn xếp lượt, tay cầm một chiếc ô “lục soạn”, dáng đi nho nhã như một ông đồ nho. Thầy bắt tình với một chị làm công ở hiệu buôn Đức Thuận, ở phố Pônbe (Paul Bert). Chị cũng đẹp, tóc bỏ đuôi gà, nước da trắng mịn và đôi mắt rất tình tứ. Hai người dan díu đã lâu và rồi chị có thai với anh. Anh em đồng nghiệp thương thầy Yên, không những không chê cười thầy mà còn tìm cách giúp đỡ và nếu thầy và người yêu muốn nên vợ nên chồng thì anh em cũng sẵn sàng giúp tổ chức đám cưới. Thầy Yên cũng tâm sự với cậu mợ tôi, và còn mượn nhà cậu mợ tôi làm nơi gặp gỡ người yêu. Ai cũng tường đám cưới sẽ thành, chị rất thương anh không dấu giếm gì cả và anh cũng quyết tâm lấy chị, anh săn sóc chị săn sóc cái thai trong bụng chị như là một người chồng săn sóc vợ đã cưới... Thế mà, đám cưới không thành vì bà chủ của chị kiên quyết phản đối, kiên quyết bắt thầy Yên phải bỏ chị lấy cớ rằng chị là “người nhà” của bà, bà phải giữ chị làm ăn với bà rồi bà sẽ “kiếm tấm chồng cho”. Cuộc tình duyên phải chấm dứt, nhưng chị đẻ con ra thì thầy Yên nuôi với tất cả tấm lòng của một người cha.
=E=
Hồ Tịnh Tâm
Những năm tôi học lớp nhì, lớp nhất, tôi hay vào trong thành Huế chơi với bạn học cùng lớp. Nhiều lần tôi đã đến nhà anh Đặng Huệ gần cửa Đông Ba, nhà anh ở chân thành, có nhiều cây roi (ở Huế gọi là cây đào tiên), cả vườn xanh mắt. Cha anh làm việc ở một cơ quan Nam triều ở trong thành, tôi không biết rõ là cơ quan gì. Chỉ nhớ là ông rất niềm nở đón bạn của con và vào lúc roi chín, ông cho tha hồ chọc hoặc hái quả Gần nhà anh Huệ có một ông thợ khắc dấu gỗ và cái thú của tôi là đến thuê ông khắc một cái dấu tủ sách gia đình hình bầu dục, cái dấu này còn in rõ trong một số sách mà tôi còn giữ được từ trước cách mạng. Một nhà bạn nữa mà tôi thường đến chơi là nhà anh Đặng Ngọc Khuê (nay là bác sĩ về hưu) ở gần miếu “âm hồn”. Anh Khuê người gầy, da cứ sủi vẩy như da của kỳ đà, nhưng miệng cười rất tươi, mà giọng nói thì ỏn ẻn như giọng con gái. Đến nhà anh Khuê bao giờ chúng tôi cũng được bà anh ấy cho ăn bánh nậm, hoặc bánh ướt, hoặc bánh canh, các thứ bánh này bà mua ở một hàng cạnh nhà. Ở nhà anh Khuê có một hòn non bộ rất đẹp trong một cái bể cạn to và sâu ở giữa vườn. Trên hòn non bộ có đủ cảnh chùa, cảnh tiều phu gánh củi, cảnh Lã Vọng câu cá cảnh ông quan đi sứ có lọng vàng che, và dưới chân núi non bộ có cảnh thuyền bè, chợ búa... Bà anh Khuê mộ đạo Phật, đã đi cầu Phật ở nhiều chùa, nên mỗi lần trở về bà lại bảo anh Khuê làm thế nào chắp thêm vào hòn non bộ cảnh chùa bà vừa đến thăm.
Anh Khuê cũng có khiếu tạo hình, lại lấy đất vắt chùa, vắt bụt cho vào bếp nướng (nung) rồi gắn lên hòn non bộ. Bên cạnh nhà anh là miếu âm hồn. Miếu này được nhân dân lập ra sau ngày kinh đô thất thủ (1885), để thờ những người lính và những người dân đã chết trong những trận cuối cùng chống giặc Pháp của ông Tôn Thất Thuyết và những sĩ phu khác. Người ta bảo miếu được lập trên một ngôi mộ chung chôn nhiều người tử trận. Thường cứ rằm tháng bảy âm lịch là có giỗ cúng âm hồn, không ai bảo ai mà nhiều nhà đem cơm và trứng luộc và xôi đến cúng. Trên mỗi bát cơm có cắm một chiếc đũa mà phía trên có vót ngược lên thành một cái ngù, tượng trưng cho vũ khí của những người từ trận, theo lời dân gian kể. Mọi người đều bảo miếu âm hồn thiêng lắm. Thực dân Pháp biết đó là miếu thờ những người tử trận chống Pháp nhưng làm ngơ, không dám đụng chạm đến. Có vài vị quan, không biết vì lòng yêu nước, hay vì muốn lấy lòng dân mà đến ngày rằm tháng bảy cũng cho vợ con đem cơm xôi đến cúng miếu âm hồn. Và cụ Ngáo là người đao phủ của triều đình, và của chính quyền Pháp nữa, mỗi lúc được lệnh thi hành một án chém thì cụ cũng đến miếu âm hồn khấn vái xin âm hồn xá tội cho cụ và phụ trợ cụ. Tôi chưa thấy mặt cụ Ngáo bao giờ, nhưng người ta tả cho tôi thì rùng rợn lắm: hai chân cụ đi khập khiễng, trên mặt cụ nổi lên những cục, những u sần sùi mốc mốc như da cóc (người ta truyền nhau rằng mỗi u là biểu hiện một cái đầu cụ đã chém); mỗi lần phải đi chém cụ uống rượu thật say và múa thử chiếc gươm trong hàng tiếng đồng hồ, và cũng có khi cụ thử chiếc gươm bằng cách chém chó. Vả lại cụ Ngáo cũng thường ăn thịt chó hoặc mua ở chợ, hoặc do cụ tự tay làm lấy. Các bà mẹ ở Huế muốn doạ con trẻ thì cứ nói:“Im ngay không thì tao mời cụ Ngáo đến!”. Trẻ con chẳng biết gì, nhưng cứ nghe tên cụ Ngáo thì sợ. Nhưng cụ Ngáo lại rất sợ miếu âm hồn.
Từ “miếu âm hồn” đi vào chơi hồ Tịnh Tâm, nói là chơi nhưng nhiều lần tôi vào đó học ôn bài thi học kỳ hoặc thi bằng tiểu học. Trước hồ Tịnh Tâm có một cái hồ để hoang vu, và ở giữa có một ngôi nhà đã gần đổ nát là Quốc sử quán. Hồ Tịnh Tâm là một cái hồ nhân tạo khá rộng, một bề khoảng nửa cây số, và bề dài khoảng non cây số. Hồ được xây dựng từ đời Minh Mạng; nhà vua muốn tạo nên một cảnh yên tĩnh để nghỉ ngơi thư thái, lúc đi câu, lúc đi săn, lúc ngồi thuyền hái sen, lúc lên gò ngâm thơ, hóng gió... Ở giữa hồ có hai hòn đảo nhỏ, hòn bên tay phải để như cảnh hoang vu, hòn bên tay trái có xếp đá xây thành cảnh núi non thanh tú có trồng trúc, trồng hoa và nhiều cây cổ thụ. Từ ở ngoài vào đi qua một cái cầu dài, rồi lại qua một chiếc
cầu nữa mới đến hòn đảo có cảnh núi đá, hai cầu đều bằng gỗ sơn son. Ở trên hòn đảo núi đá có một cái nhà bát giác, mái lợp ngói men nhìn ra tám phía hồ rất đẹp. Trong nhà bát giác có nhiều ghế dài, đó là nơi chúng tôi học bài rất yên tĩnh, rất mát mẻ. Mùa hè hoa sen thơm ngào ngạt một mùi hương thơm mát tăng thêm vẻ vắng lặng, xa xôi của cảnh hồ vốn đã cổ xưa, yên ắng. Cậu mợ tôi đã có lần dẫn hai cháu là anh Cục và tôi vào chụp ảnh ở hồ Tịnh Tâm. Triều đình nhà Nguyễn có tái tạo sửa sang phong cảnh, gây mối quan hệ hài hoà giữa người và cảnh. Nhưng tái tạo cảnh này thành công nhiều hơn ở các lăng vua, đặc biệt là ở lăng Minh Mạng và lăng Tự Đức, một phần nào ở lăng Gia Long, chứ ở hồ Tịnh Tâm thì cái nhân tạo còn lộ rõ qua những nét chắp nối giữa nhân tạo và thiên nhiên chưa liền, không gây được cái thú vui “nhập cảnh”. Cho nên chơi dạo trong hồ Tịnh Tâm vẫn cho ta cái cảm giác đi chơi trên một hòn non bộ lớn.
Tôi cùng bạn học trong nhà một vài lần vào xem bảo tàng thủ công và mỹ nghệ, ở gần “tam toà” trong thành. Bảo tàng này do Pháp xây dựng lên để tập hợp các ngành nghề của dân ta trong xứ Trung kỳ hồi đó cùng nhằm phát triển thủ công, và nhất là mỹ nghệ để xuất cảng sang Pháp, và một phần nào sang các thuộc địa khác. Bảo tàng trình bày khá công phu và khá đẹp các hàng thủ công mỹ nghệ, tôi nhớ nhất là những hàng gỗ chạm, hàng ngà, hàng mây đan hàng mộc (có những bộ bàn ghế khảm xà cừ rất đẹp những cái giường bằng gỗ trắc cũng khảm xà cừ hình hoa lá tinh vi). Tôi còn nhớ trong bảo tàng này còn trình bày cả mô hình của những chiếc xe đạp nước, và cái guồng nước hình tròn thường ta thấy trên các con sông của Quảng Nam, Bình Định... Nhưng chúng tôi vào xem bảo tàng tam toà không phải chỉ bị thu hút bởi những mô hình thủ công, mỹ nghệ, mà còn bị thu hút trước mắt bởi những tấm đá ác-đoa (ardoise) còn chất đống ở một góc vườn, dưới chân cây muỗm hoặc cây nhãn. Đống ác-đoa này là số thừa hoặc phế phẩm của ác-đoa đã dùng để lợp cái bảo tàng trên kia và một số nhà khác trong khu vực tam toà. Ác-đoa chở từ bên Pháp sang. Chúng tôi lượm những mảnh ác-đoa ấy về làm bảng học sinh rất tốt, phấn viết lên ác-đoa rất rõ và lại dễ lau sạch, bóng đen... Hội đồng hương quyên tiền ở nhà cậu tôi, thỉnh thoảng có những ông người Nghệ Tĩnh, khăn đen áo dài đến thăm và nói chuyện thủ thỉ với cậu tôi. Các ông tự xưng là người của hội đồng hương đến quyên tiền để giúp dân Nghệ Tĩnh khi bị lũ lụt, khi bị bão... Tôi thấy cậu tôi hơi e dè nhưng cuối cùng thì cũng cúng một số tiền nhỏ nhưng xin các ông đồng hương đừng ghi tên vào sổ, vào danh sách quyên góp, và cậu tôi cũng không đòi một giấy biên nhận gì. Các ông hội đồng hương làm đúng theo yêu cầu của cậu tôi và ra về có nói một câu, nói vừa đủ cậu tôi nghe:“Đây là việc nghĩa cả, chúng tôi sẽ dùng đồng tiền cho có ích nhất, không phụ lòng hào hiệp của ông”. Các ông chào ra về, cậu tôi lễ phép chào nhưng không tiễn ra tận đường. Về sau tôi đoán hiểu những ông đồng hương này là người của một tổ chức cách mạng, không hiểu là của đoàn thể nào, đến gặp cậu tôi với mục tiêu tối cao là mời cậu gia nhập đoàn thể, và mục tiêu tối thiểu cũng là quyên góp tiền ủng hộ “nghĩa cả”, ủng hộ phong trào. Tôi có hỏi những đồng chí lão thành cách mạng có phải lúc ấy ở Huế có những người đi vận động như vậy không, thì các đồng chí cho biết là đúng như thế, lúc bấy giờ sau phong trào Xô Viết, các đồng chí ta phải dùng nhiều hình thức vận động để củng cố phong trào mà hình thức hội đồng hương là một hình thức tiếp cận với những người trí thức ít nhiều có lòng yêu nước. Cậu tôi mất rồi (năm 1946) tôi không hỏi được cậu sự thật trên điểm này, trên đây tôi chỉ ghi sự đoán hiểu của tôi. Dầu sao thì những ông hội đồng hương khăn đen áo dài này cũng đã để lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc, nhất là cái giọng Nghệ Tĩnh quê nhà của các ông cái giọng mà suốt đời đi đâu thì tôi vẫn giữ được nguyên vẹn. Cứ về đầu làng là tôi nói giọng Hà Tĩnh một trăm phần trăm, hơn thế nữa tôi nói đúng giọng của làng tôi, xóm tôi, không quên giọng đã đành mà cũng không quên những từ quen thuộc của địa phương nữa, cái giọng và những từ trong đó tôi đã sinh ra và được mẹ tôi ru hồi tấm bé.
Tuổi dậy thì
Có nên ghi vào hồi ký những năm tháng phức tạp này không? Nhưng tôi nghĩ cứ nên ghi, cứ nên kể vì đây là đời của mình, đời xương thịt nó chứa đựng cả đời tâm hồn và làm nền cho đời tâm hồn. Vả lại ai cũng chỉ sống có một đời, tôi không kể đời tôi trọn vẹn thì ai sẽ kể thay cho tôi trong thăm thẳm của thời gian. Người ta thường bảo “Nữ thập tam, nam thập lục”. Nhưng tôi
chưa đến thập lục, chỉ mới thập nhị thập tam cũng đã đến cái tuổi biến chuyển sinh lý, cái tuổi dậy thì. Tuổi đầy mơ mộng, mà đối tượng mơ mộng thật chưa rõ ràng, những tình cảm tả trong sách làm cho mình cảm nhiều hơn là những đụng chạm trong đời. Nhưng các giác quan đã thức dậy, có khi sắc nhạy, kể cả giác quan của dậy thì. Thế rồi chàng thiếu niên đang lớn lên cứ âm thầm tưởng tượng những tình duyên, những gặp gỡ, những cảm giác và những say sưa trong tình cảm. Tâm hồn và máu thịt đang cùng nảy nở một lần, đang làm giàu cho nhau trong cái buổi “khai thiên lập địa” của một con người. Chính những năm tháng này, cũng là những năm tháng bắt đầu nảy nở hồn thơ trong tôi, bắt đầu xao động cái khiếu thơ bấy lâu đang còn ấp ủ, như một cái mầm bắt đầu nhú lên, mở những cánh lá đầu tiên đón gió.
Lần đầu tiên đi gặp biển
Trên kia tôi đã kể lúc đi theo mợ Vân vào Thừa Thiên, tôi đã tiếp xúc với biển ở đèo Ngang. Nhưng lúc ấy chỉ thoáng thấy biển ở chân đèo, mặc dù cảm giác rất mới lạ, nhưng chưa phải là một sự chấn động sâu xa trong cảm giác và tình cảm của tôi. Thật sự tiếp xúc với biển lần đầu tiên là buổi đi chơi Thuận An với bạn Đồng Sĩ Hiền lúc chúng tôi học lớp nhì như tôi đã nhắc ở một đoạn trên. Lúc bấy giờ tôi 11 tuổi Hiền và tôi đi từ sáng sớm. Dọc đường từ Đập Đá qua Nam Phổ đã tiếp xúc với biển qua gió biển.
Quê tôi ở vùng sơn cước, ở chân núi Mồng Ga, chưa bao giờ tôi nghe thổi một ngọn gió mát và nhẹ như thế, một ngọn gió mà tưởng là hơi thở hiền hoà của đất của trời. Tuổi nhỏ, tôi cứ tưởng là gió dính liền với cây lá, với rừng, nơi nào không có cây thì không có gió. Tôi quen thấy gió từ cây từ cành lá rung rinh hoặc bạt theo một chiều. Đi dần về biển, tôi mới có cảm giác rõ rệt gió có thể rời cây, gió có thể riêng với cây gió là hơi thở của bầu trời rộng lớn. Cứ đi, cứ nghe gió, tắm mình trong gió. Rồi khoảng 8, 9 giờ sáng, nghe tiếng ào ào như mưa qua rặng phi lao: cảm giác như đến gần chợ Nước ở quê tôi. Cũng thấy lạo xạo, dào dạt mỗi lúc một to. Thỉnh thoảng lắng đi một tí. Rồi bừng lên trước mắt tôi cái mênh mông xanh của biển, thoạt nhìn thấy hơi cứng. Gió biển vù vù làm rợn cả người tôi. Tôi thấy mát cả nơi khóe mắt tưởng như mắt tôi mở to gấp mấy lần. Biển phồng lên, tôi thấy như một cái ngực hồi hộp. Khối xanh bát ngát ấy không cứng nữa như cảm giác ban đầu. Khối xanh ấy bây giờ cho tôi một cảm giác đùn lên đùn lên vô tận. Hơi ngợp. Tôi đứng nhìn say sưa. Biến và sông đều là khối nước, mà sao cho tôi cảm giác khác nhau quá? Biển hút tôi, biển đặt tôi vào một trạng thái tâm hồn dạt dào, rộng mở, mà lại lắng sâu. Tôi nhìn biển không chán cho đến trưa lúc mặt trời chói nắng. Đó là tình yêu đầu tiên của tôi với biển. Từ đó đến nay tôi mê biển như một nỗi mềm. Cứ có dịp là tôi về với biển. Có điều lạ là biển bát ngát, rộng mở lại làm tôi lắng về bên trong tâm hồn. Biển là khối lớn dào dạt, như chiếc võng lớn đưa cao làm tôi say mà lại yên tâm vô cùng. Trong đời làm thơ của mình tôi đã viết hàng chục bài thơ về biển, vì biển (có thể gần đến trăm bài), xin kể ra đây vài đoạn vào những năm khởi đầu của thơ tôi.
Trời thắm duyên rằm, vừng nhạc mờ
Chuông sao rung nhớ tiếng vàng bay
Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng
Biển rủ rê lòng nhập cuộc say.
(Lượng vui, 1941)
Ta, biển sinh đôi tự thuở nào
Sóng lùng bao đợt nhói lòng đau
Cái vui đầu sóng buồn chân sóng
Cùng lặn chiều hôm nét đỏ au.
(Ta viết bài thơ gọi biển về)
Trăng ru sóng vui tràn vũ trụ
Hồn ta ơi chớ ngủ nghe em!
Trăng cao gọi thúc nỗi niềm
Biển bằng phơi dậy bờ đêm trùng trùng...
(Triều nhạc, 1940)
Bãi biển cuối hè dần vắng lặng
Vô tâm biển vẫn đẹp tưng bừng
Mai đây ta vắng, đời không vắng
Vũ trụ điềm nhiên đẹp dửng dưng
Sóng trắng bờm phi hí gió mai
Mây bay tới tấp ngợp chân trời
Phải chăng vũ trụ thừa dư sức
Thỉnh thoảng chồm lên như trẻ chơi.
(Bãi biển cuối hè, 1974)
Rồi một ngày kia hết ở đời
Cho ta theo biển khoả chân trời
Điều chi chưa nói xin trao sóng
Lấp lánh hồn ta mặn gió khơi...
(1982)
Nếu bạn đọc hồi ký của tôi muốn hiểu thêm mối bình của tôi với biển, xin tìm đọc các tập thơ của tôi trong tập nào cũng có một số bài về mối tình dai dẳng ấy.
Tủ sách của cậu tôi
Cũng trong nhà cậu một điều vui lớn, ít nhất là đối với tôi là tủ sách của cậu tôi. Cậu tôi khá giỏi tiếng Pháp, nhưng rất hâm mộ văn thơ dân tộc, từ Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm cho đến những bài vè nổi tiếng lúc bấy giờ, ở Bình Định, Quảng Nam hay là Huế. Những ngày tháng ở Quảng Điền, là những ngày tôi bắt đầu ham mê đọc sách nhờ cái tủ sách của cậu tôi cái tủ sách kỳ diệu nó đã mở ra cho tôi thế giới thần kỳ của văn thơ đông, tây, kim, cổ. Tủ sách không to lắm, nhưng lúc đó tôi thấy nó sao mà bát ngát.
Sách tiếng Việt có các truyện Nôm (Thạch Sanh, Phan Trần, Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trừu, Nữ tú tài, Trê Cóc, và Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc...) và cả những bài vè của địa phương miền Trung mà cậu tôi đã công phu chép vào một quyển sổ đẹp: vè Thông Tầm, vè Thất thủ kinh dô... Trong quyển sổ đẹp ấy cậu còn chép cả những bài thơ nổi tiếng như Khuê Phụ Thán 10 bài (và bài Tục Khuê Phụ Thán nữa), thơ của Bà Huyện Thanh Quan, thơ Tú Xương, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Khuyến, thơ Hồ Xuân Hương và những câu đối hay những danh ngôn, những tục ngữ... Quá một nửa tủ là sách tiếng Pháp, tôi nhớ loại nhiều nhất là các truyện cổ tích của Pháp và của thế giới nhưng đã được soạn gọn lại cho thiếu nhi đọc, và các sách này đều có minh hoạ. Có truyện cổ tích của Perrault, nhiều tập truyện của Andersen (sau này tôi mới biết đó là sách của Andersen, vì sách mất bìa) có cả một tập truyện của Ấn Độ, và tập truyện Ba Tư (rút từ Nghìn lẻ một đêm) thuật lại bằng tiếng Pháp. Tôi nhớ mãi câu chuyện ông vua ở trần truồng ngự giá đi ngoài phố mà ai cũng ca ngợi là vua mặc quần áo đẹp quá (truyện của Andersen). Cậu tôi đọc và dịch các truyện và giải thích cho chúng tôi nghe. Thỉnh thoảng cậu tôi cũng thêm lời bình luận, có khi theo sát bình luận trong sách, nhưng thường là theo cảm nghĩ của ông. Ví như truyện ông vua vừa rồi thì cậu tôi nói “đó là vua phương Tây, chứ vua ở nước ta thì không dám liều thế đâu mặc dù có anh thợ may xảo quyệt lừa vua”. Cậu tôi còn xem Những người khốn khổ của Victo Huygô sách mượn của hội Trí Tri ở Huế, rồi kể hết tuần này sang tuần khác cho cả nhà nghe, như người ta kể truyện Tam quốc hay Thuyết dường diễn nghĩa vậy.
Tôi còn nhớ cái không khí náo nức, hào hứng mà bọn tôi chờ nghe tiếp hồi này qua hồi khác câu chuyện của Giăng Van giăng, chúng tôi hồi hộp theo dõi những bước đường của nhân vật anh hùng này, chúng tôi cũng ham mê theo dõi cuộc tình duyên của Côdét và Mariuýt. Cậu tôi kể sát truyện Victo Huygô, nhưng cách kể của cậu lại có phần kết hợp với truyền thống truyện nôm của ta nên rất hấp dẫn. Hết Những người khốn khổ cậu tôi lại kể tiếp sang Ba người ngự lâm pháo thủ của Dumas, cách kể cũng từng hồi từng đoạn hấp dẫn và mê ly như thế. Về sau học ở ban thành chung tôi đọc những tập truyện này trong nguyên bản tiếng Pháp thì như là
đọc lại, và như là gặp lại những người quen thuộc từ thuở nhỏ. Trong tủ sách của cậu tôi còn có nhiều tập thơ Pháp, tôi nhớ có một tuyển tập thơ Victo Huygô, một tuyển tập Lamáctin, và một tuyển tập thơ Pháp từ đầu cho đến cuối thế kỷ 19. Lại còn sách của Khổng Tử (dịch ra tiếng Pháp, trong đó có một tập Đại học, tập Trung dung...), quyển sách của Khổng Tử bìa đen này để trong một góc tủ cậu tôi không hề mó tới; sau này cậu tôi cho tôi quyển sách đen ấy, tôi cũng để một góc tủ không hề mó tới cho đến năm tôi đậu tú tài toàn phần tôi đem cho một người bạn ham nghiên cứu triết học Trung Quốc.
Trong tủ sách của cậu tôi còn có một số “tập san của Những người bạn của Huế cổ kính” trong đó có nhiều tranh in màu vẽ lăng miếu, cung điện ở Huế. Thỉnh thoảng cậu tôi lại trích trong tập san ấy những đoạn văn ngắn để đọc chính tả tiếng Pháp cho chúng tôi viết Tôi còn nhớ có cả quyển Bình yên của Dufresne.
Tủ sách của cậu tôi là trường học văn thơ đầu tiên của tôi. Tôi say sưa đọc văn thơ tiếng Việt, chẳng mấy lúc mà đọc hết; đọc hết lại đọc lại. Có những lúc tôi đọc cho mợ tôi nghe, nhất là đọc vè Thông Tằm, vè Kinh đô thất thủ, đọc truyện Thạch Sanh và các truyện Nôm khác. Rồi tôi tập đọc dần sách tiếng Pháp, tất nhiên là không hiểu hết; tôi hỏi cậu tôi, đề nghị cậu nói tóm tắt từng truyện rồi tôi mò tìm hiểu dần từng trang. Rõ ràng cái tủ sách của cậu tôi đã hé mở cho tôi cái thế giới kỳ diệu của văn chương, nghệ thuật. Cái thói quen hay mua sách, hay gom sách, hay tích luỹ sách hay của tôi cũng bắt nguồn từ đó. Tủ sách, và chính cậu nữa đã gây cho tôi cái thú ham đọc sách, cái thú tìm niềm vui thanh khiết trong sự đọc sách, trong sự tiếp xúc với những tâm hồn Đông, Tây kim, cổ. Cậu tôi chết sớm năm 1946 tại Thanh Hoá lúc đó cậu mới 47 tuổi. Tủ sách thân yêu của cậu và của tôi về sau bị phân tán, mất mát dần qua những lần cậu tôi đổi nơi làm việc, và cũng bị người này lấy đi một ít, người kia lấy đi một ít. Nhưng tủ sách ấy vẫn còn, còn ở trong tâm trí tôi; còn ở chỗ thân yêu nhất trong kỷ niệm của tôi. Nếu bác Cù Hoàng Thự đã khai tâm cho tôi về chữ quốc ngữ, thì cậu tôi và tủ sách của cậu đã khai tâm cho tôi về khiếu thẩm mĩ về nhận thức cái đẹp và cái hay trong sách và trong đời Vừa rồi tôi gặp mợ tôi, tôi nhắc đến tủ sách, mợ tôi cũng còn nhớ rõ các truyện, các vè mà tôi đã đọc cho mợ nghe. Mợ tôi nói:“Anh làm thơ hay, nhớ đến tủ sách, thì cũng thoả lòng cậu”. Khi quyển thơ đầu tiên của tôi, là tập Lửa thiêng ra đời năm 1940, tôi có gửi tặng cậu, mợ một bản đẹp, nghe nói cậu cũng cho vào tủ sách và đọc đi đọc lại nhiều lần. Nếu tập thơ đầu của tôi đã phần nào làm cậu hài lòng, làm cậu hứng chí trong những giờ rảnh rỗi thì nó cũng là mong muốn một tôi đáp lại cái công ơn đào tạo và khơi nguồn của cậu. Nhân nói tủ sách, tôi còn nhớ cậu có quyển tự vị Larousse khá mới, và chúng tôi hay mở từng trang xem các minh hoạ trong đó, nhân đó học thêm tiếng, học dễ nhớ nhờ có hình.
Hai tủ sách và hòm sách của tôi bị trôi sông và bị cháy trong kháng chiến
Như một đoạn trên tôi đã kể, trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946) tôi và anh Xuân Diệu đã chở cái tủ sách của chúng tôi về gởi nhà ông Trương Đăng ở Kim Bài (huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) gần phía Vân Đình. Những ngày đầu kháng chiến chúng tôi còn ở lại Kim Bài vài tuần, và vẫn đọc sách với nhưng vốn văn học cổ kim đông tây mà chúng tôi đã mua góp được vào tủ sách quý của mình.
Trong tủ sách có nhiều tác phẩm văn học cổ điển của ta như Truyện Kiều (nhiều bản khác nhau), Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, Tần cung oán Bái Công văn, 3 tập Văn đàn bảo giám, Đại nam Quốc sử diễn ca, Nam hải dị nhân, có cả Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Hán Việt văn khảo của Phan Kế Bính, nhiều sách của Tự lực văn đoàn... Đặc biệt có những truyện nôm dân gian mà tôi đã cóp nhặt mua ở phố Hàng Gai (như Thạch Sanh, Trương Viên, Trê cóc, Bích câu kỳ ngộ, Nữ tú tài, Trinh thử, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa, Trương Chi, Bần nữ thán, Nhị độ mai...) và tôi đã cho đóng thành 1 quyển dày bằng quyển tự vị Larousse, với gáy da đề dòng chữ vàng “Hồn cổ Việt”. Trong tủ sách ấy còn cả báo Ngày nay đóng thành 3 tập trong đó có đăng thơ của anh Xuân Diệu và của tôi lại còn tập hồ sơ xây dựng chính quyền nhân dân mà anh Nguyễn Thượng Đạt và tôi đã cất giữ sau khi giúp Bộ Nội vụ của ta xây dựng sắc lệnh 68 là sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp (người chủ trì việc soạn thảo sắc lệnh này là anh Võ Nguyên Giáp, lúc đó là bộ trường Bộ Nội vụ kiêm thứ trưởng Bộ Quốc phòng và kiêm tổng
chỉ huy vệ quốc đoàn). Đến sau Tết, chúng tôi lên Việt Bắc, thì tủ sách vẫn gởi lại nhà ông Trương Đăng, chúng tôi chỉ mang theo mình dăm ba quyển mà thường hay đọc lại. Thế rồi quân đội Pháp đánh rộng ra, chiếm đóng cả tỉnh Hà Đông, và từ các đồn bốt đóng ở các huyện ly, ở các ngã ba đường xung yếu chúng đi lùng sục các làng, nhất là các làng ven đường cái ven các trục giao thông quan trọng. Làng Kim Bài ở sát bên một trục giao thông ấy đi từ thị xã Hà Đông đến Vân Đình, và đi xuống khu Ba. Gia đình ông Trương Đăng hơi hãi, bèn nghĩ cách tẩu tán tủ sách của chúng tôi, vì bọn lính Pháp hay tay sai của chúng mà phát hiện được tủ sách thì chủ nhà sẽ bị vạ lây.
Tẩu tán bằng cách gì? Gia đình đã nghĩ cách đem sách ra đốt, nhưng đốt cũng lâu và khói um lên dễ bị bọn Việt gian nghi ngờ... Nhưng người nhà đang tính tới tính lui như vậy thì bọn lính Pháp và lũ tay sai ở huyện đã kéo đến đầu làng. Người nhà vội vàng khiêng cả tủ sách vứt xuống ao to phía đằng sau nhà. Từ nhà ra bờ ao cũng khá xa, nhưng cả nhà hì hà hì hục gánh tủ sách đông tây kim cổ và hồn cổ Việt của chúng tôi cho xuống đáy ao. Đó là về sau lúc kháng chiến thành công trở về Hà Nội, chúng tôi được nghe kể chuyện lại như vậy, chứ lúc tủ sách chìm nghỉm xuống đáy ao thì chúng tôi đã ở Việt Bắc rồi, đâu có biết? Những nhà văn, những nhà thơ đông tây kim cổ yêu mến của chúng tôi, những Nguyễn Du, những Victo Huygô, những nhà thơ Đường, những tác giả truyện nôm... Có biết cái nông nỗi bị dìm xuống ao vì cuộc xâm lăng của thực dân không? Còn cái hòm sách quý của anh Diệu và tôi toàn đựng tác phẩm của Huy Xuân (nhiều bản của Thơ thơ in lần thứ nhất và thứ hai, của Phấn thông vàng, mười mấy bản in giấy đẹp của Lửa thiêng, và một số bản thảo của chúng tôi), và đây chính là cái rương bằng gỗ thông mà tôi đã dùng trong suốt 7 năm học ở trường quốc học ở huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) và đã bị cháy theo cả cái trại nơi chúng tôi gởi không cứu được một chút gì. Về sau này anh Diệu và tôi phải công phu đi sưu tầm các tác phẩm đầu tay của mình, qua bạn bè và qua các hiệu sách cũ. May mà gia đình tôi ở Ân Phú còn giữ được một bản Lửa thiêng giấy đẹp và một bản Phấn thông vàng. Anh Lương Xuân Nhị thì đã tặng lại anh Xuân Diệu tập Thơ thơ mà anh Diệu đã tặng anh ấy lúc sách mới ra đời (chính Lương Xuân Nhị đã trình bày tập Thơ thơ). Khi mới giải phóng Sài Gòn, tôi vào công tác trong đó thì ông Nghiêm Thẩm, một người bạn yêu thơ, đã tặng lại tôi bản Lửa thiêng in trên giấy rất đẹp. Và sách của chúng tôi cũng được các nhà xuất bản trong Sài Gòn tái bản thời kỳ Mỹ nguỵ (dưới cái nhãn hiệu là sách tham khảo cho các trường đại học văn khoa trong đó) cho nên chúng tôi cũng thu lượm được một số bản in lại trong hoàn cảnh ấy. Một tủ sách bị dìm xuống sông, một rương sách bị lửa đất cháy, đó là số phận của sách, của văn thơ trong một trường hợp nhỏ là hai anh em làm thơ chúng tôi qua một chặng đường khói lửa của dân tộc. Từ đó chúng tôi ngẫm ra: qua bao nhiêu thời đại, bao nhiêu thế kỷ qua bao nhiêu biến cố lịch sử, qua bao nhiêu binh lửa trên nước nhà, thì ông cha ta đã mất mát biết bao nhiêu vốn sách vở, vốn văn hoá, văn nghệ. Ngày nay chúng ta có nhà in in sách ra nhiều bản, mà tìm lại những sách đã mất còn khó thay, huống hồ cha ông ngày xưa chỉ chép tay hay chỉ in được một số ít bản bằng mộc bản! Tôi cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ bản Lửa thiêng giấy Arches dày, đẹp và có kèm theo 12 bức minh hoạ của anh Tô Ngọc Vân vẽ bằng thuốc nước rất đẹp (anh Tô Ngọc Vân là hoạ sĩ đã trình bày bìa rất đẹp cho tập thơ Lửa thiêng của tôi). Bây giờ có Cục lưu trữ quốc gia là một nhiệm vụ là lưu trữ cả các tài liệu văn học, nghệ thuật. Với sự khuyến khích thúc giục của đồng chí Hoan, tổng cục trưởng lưu trữ tôi đã gởi một số tác phẩm in thành sách của anh Xuân Diệu và của tôi vào kho lưu trữ.
=F=
Cậu tôi lúc ở Quảng Điền phải chép bài luân lưu cầu nguyện cho thế giới khỏi tận thế Đầu năm 1928 lúc cậu Vân tôi đang còn làm hiệu trường trường tiểu học huyện Quảng Điền, và lúc đó tôi còn học lớp tư, một hôm cậu tôi nhận được một bức thư khá dài khoảng 3 trang viết tay. Thư không ký tên, còn nội dung thì đại khái nói là thế giới sắp đến ngày tận thế, và hễ ai nhận được bức thư này thì phải chép ra 20 bản gởi đi cho những người quen thân, như vậy là