🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hiện Tình Kinh Tế Việt Nam Quyển 1 Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : HIỆN-TÌNH KINH-TẾ VIỆT-NAM QI : HẦM MỎ – CÔNG KỸ NGHỆ Tác giả : NGUYỄN HUY Nhà xuất bản : LỬA THIÊNG Năm xuất bản : 1972 ------------------------ Nguồn sách : tusachtiengviet.com Đánh máy : tu051290 Kiểm tra chính tả : Nguyễn Xuân Huy, Nguyễn Văn Huy Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 27/12/2018 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả NGUYỄN HUY và nhà xuất bản LỬA THIÊNG đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC CHƯƠNG I : CÁC GIAI-ĐOẠN KỸ-NGHỆ HÓA VIỆT-NAM Tiết 1 : Nền kỹ nghệ dưới thời Pháp Tiết 2 : Thời kỳ kinh tế được hoạch định từ năm 1954 đến năm 1963 1) THỜI KỲ 1955-1957 2) THỜI KỲ 1958-1963 a) Kế hoạch Ngũ Niên I (1957-1961) b) Kế hoạch ngũ niên II 3) THỜI KỲ TỰ DO KINH DOANH TỪ NĂM 1964 ĐẾN NAY Tiết 3 : Cơ cấu kỹ nghệ hiện tại 1) VỐN ĐẦU TƯ 2) HÌNH THỨC XÍ NGHIỆP Tiết 4 : Các khu kỹ nghệ 1) SONADEZI a) Thành phần b) Hoạt động c) Nhượng đất đã chỉnh trang lại cho các kỹ nghệ gia d) Điều kiện xin gia nhập khu kỹ nghệ e) Khó khăn của Sonadezi 2) KHU KỸ NGHỆ BIÊN-HÒA a) Nguyên nhân lựa chọn địa điểm của khu kỹ nghệ Biên-Hòa b) Các tổ chức trong khu kỹ nghệ c) Hiện trạng khu kỹ nghệ Biên-Hòa 3) KHU KỸ NGHỆ PHONG-DINH 4) KHU KỸ NGHỆ AN-HÒA a) Sự thành lập b) Vấn đề kỹ nghệ hóa c) Vấn đề đầu tư thực hiện d) Các giai đoạn thực hiện CHƯƠNG II : ĐIỆN-LỰC VÀ HẦM-MỎ Tiết 1 : Nhiệt điện 1) QUÁ TRÌNH 2) ĐIỆN LỰC VIỆT-NAM 3) SAIGON ĐIỆN LỰC CÔNG TY 4) VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT SỰ KHAI THÁC ĐIỆN NĂNG 5) TỔNG CỘNG CÔNG XUẤT THIẾT TRÍ TẠI VIỆT-NAM Tiết 2 : Thủy Điện-Đập Đa-Nhim 1) DỰ ÁN 2) CÁC THÀNH PHẦN CỦA ĐẬP 3) VỐN ĐẦU TƯ Tiết 3 : Mỏ và tinh khoáng kỹ nghệ 1) MỎ a) Nhiên liệu đặc b) Quí kim : vàng c) Kim khí kỹ-nghệ 2) TINH KHOÁNG KỸ NGHỆ a) Tinh khoáng của phún xuất thạch b) Tinh khoáng của đá biến tính c) Tinh khoáng của đá trầm tích CHƯƠNG III : CÁC NGÀNH CÔNG KỸ NGHỆ Tiết 1 : Kỹ nghệ thực phẩm 1) KỸ NGHỆ ĐƯỜNG 2) KỸ NGHỆ THỨC UỐNG 3) KỸ NGHỆ THUỐC LÁ 4) NGÀNH NƯỚC MẮM 5) TÀU VỊ YỂU 6) KỸ NGHỆ ĐỒ HỘP Tiết 2 : Kỹ nghệ dệt 1) KỸ NGHỆ BÔNG VẢI 2) KỸ NGHỆ DỆT HÀNG TƠ HÓA HỢP, TƠ BÓNG 3) CÁC NGÀNH DỆT PHỤ THUỘC Tiết 3 : Kỹ nghệ kim khí và cơ khí NHÓM A : LUYỆN KIM, ĐÚC VÀ CÁN KIM LOẠI a) Kỹ nghệ luyện kim b) Kỹ nghệ đúc c) Kỹ nghệ cán sắt, thép, đồng NHÓM B : KỸ NGHỆ CHẾ PHẨM KIM KHÍ a) Kỹ nghệ sản xuất đinh, lưới kẽm, dây kẽm gai b) Kỹ nghệ sản xuất đinh ốc, bù loong, con tán c) Kỹ nghệ chế tạo tôn tráng kẽm d) Kỹ nghệ chế tạo các loại thùng, hộp, lon NHÓM C : KỸ NGHỆ CHẾ TẠO VẬT DỤNG BẰNG NHÔM NHÓM D : NGÀNH KỸ NGHỆ CƠ KHÍ NHÓM E : KỸ NGHỆ RÁP a) Ráp xe scooter và xe ba bánh b) Ráp máy may Tiết 4 : Kỹ nghệ cao su 1) NGÀNH SẢN XUẤT VỎ RUỘT XE 2) NGÀNH SẢN XUẤT GIÀY DÉP CAO SU 3) NGÀNH SẢN XUẤT NỆM XỐP (MOUSSE) 4) NGÀNH CHẾ TẠO VẬT DỤNG LINH TINH BẰNG CAO SU 5) NHẬN XÉT TỔNG QUÁT VỀ NGÀNH CAO SU Tiết 5 : Kỹ nghệ xi măng 1) NGUYÊN LIỆU 2) NHÂN-CÔNG VÀ KỸ-NGHỆ 3) SẢN LƯỢNG Tiết 6 : Kỹ nghệ thủy tinh 1) NGUYÊN LIỆU a) Nguyên liệu nội địa b) Nguyên liệu nhập cảng 2) NHÂN-CÔNG VÀ KỸ-NGHỆ 3) SẢN LƯỢNG Tiết 7 : Kỹ nghệ giấy 1) SẢN LƯỢNG 2) KỸ THUẬT VÀ NHÂN CÔNG 3) NGUYÊN LIỆU Tiết 8 : Kỹ nghệ hóa học 1) KỸ NGHỆ HÓA PHẨM CĂN BẢN 2) KỸ NGHỆ NHỰA DẺO (PLASTIC) 3) KỸ NGHỆ XÀ BÔNG 4) KỸ NGHỆ ÂU DƯỢC 5) KỸ NGHỆ BỘT NGỌT Tiết 9 : Ngành thuộc da Tiết 10 : Kỹ nghệ điện 1) QUẠT ĐIỆN 2) PILE ĐÈN 3) DÂY VÀ CÁP ĐIỆN 4) BÓNG ĐÈN ĐIỆN 5) KỸ NGHỆ CHẾ TẠO BÌNH ĐIỆN PHỤ LỤC NGUYỄN HUY Giảng-viên Đại-học Văn-Khoa Đà-Lạt – Vạn-Hạnh HIỆN-TÌNH KINH-TẾ VIỆT-NAM Quyển I : HẦM MỎ – CÔNG KỸ NGHỆ LỬA THIÊNG XUẤT BẢN 1972 TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN CÙNG MỘT TÁC GIẢ ĐÃ IN : - Une agglomération de sampans habités à Saigon, « LES CAHIERS D’OUTRE-MER », Bourdeaux 1962. - Les formations latéritiques à Binh-Duong, B.S.E.I. 1968. - Nguyên nhân khô hạn của miền Phan, Sử Địa số 14 và 15. SẼ IN : - Luận về Chủ-Nghĩa Quốc-Gia - Kinh-tế nông-nghiệp Việt-Nam CHƯƠNG I : CÁC GIAI-ĐOẠN KỸ-NGHỆ HÓA VIỆT-NAM Ngày nay, tại mỗi quốc gia, nhất là các quốc gia chậm tiến, giới lãnh đạo đều cố gắng tìm mọi phương cách để phát triển kỹ-nghệ. Đối với quần chúng, chương trình kỹ-nghệ hóa là tượng trưng cho uy tín của giới lãnh đạo, là niềm hãnh diện của quần chúng về nền độc lập, là phương thức hữu hiệu nhất để nâng cao mức sống nhân dân và tránh lệ thuộc ngoại bang. Cho nên, từ sau Thế Chiến II, ý chí kỹ-nghệ hóa đã trở thành vấn đề chính trong khuôn khổ phát triển kinh tế toàn diện. Kỹ nghệ hóa trở thành thước đo giá trị tiến bộ kinh tế xã hội, nền độc lập chính trị kinh tế của mỗi quốc gia. Từ ý chí tạo lập và phát triển một nền kỹ nghệ quốc gia đó mà các giới lãnh đạo quốc gia, nếu muốn có uy tín với quốc dân đều phải cố gắng thúc đẩy công cuộc kỹ nghệ hóa. Với nhận định trên, từ ngày chính thức dành lại được độc lập đến nay, Chính Phủ Việt-Nam đều chú trọng đến việc xây dựng kỹ nghệ nhằm : - Hỗ trợ nông nghiệp như sản xuất phân bón, biến chế nông phẩm… - Sản xuất nhu yếu phẩm để tránh lệ thuộc ngoại bang về kinh tế, sau đó là chính trị. - Khai thác những tài nguyên sẵn có như cát trắng Ba Ngòi, than Nông-Sơn, thủy điện… - Giải quyết vấn đề áp lực nhân khẩu, nhất là ở nông thôn do dân số gia tăng và nâng cao mức sống của dân chúng. Nền kỹ nghệ Việt-Nam đã trải qua hai thời kỳ rõ rệt : - Thời kỳ kinh tế được hoạch định : 1954-1963. - Thời kỳ tự do kinh doanh : từ 1963 đến nay. Trong giai đoạn đầu, Chính Phủ đã hoạch định hai kế hoạch ngũ niên để hướng dẫn công cuộc kỹ nghệ hóa. Vì giới tư nhân không đủ khả năng về cả hai phương diện tài chánh và kỹ-nghệ nên Chính Phủ đã xuất ra một ngân khoản lớn thành lập một số xí nghiệp quốc doanh và hợp doanh để đầu tư vào các ngành kỹ nghệ quan trọng như : Công Ty Đường Việt-Nam, Công Ty Thủy-Tinh Việt-Nam, Cogido, nhà máy xi măng Hà-Tiên… Trước thành quả tốt đẹp của các công ty quốc doanh và được Chính Phủ tích cực giúp đỡ, giới tư nhân đã hăng hái xuất vốn đầu tư vào nhiều ngành kỹ nghệ như : chế tạo dược phẩm (Tenamyd, Roussel…), hóa chất căn bản (Vicaco, Namyco…), nhựa dẻo (Ufiplastic), fibro xi-măng (Eternit)… Trái lại, trong thời kỳ tự do kinh doanh từ sau năm 1963, giới tư nhân chỉ đầu tư vào các ngành có lời mau và dễ thực hiện. Sau 1963, chiến tranh bùng nổ khốc liệt làm đình trệ công cuộc phát triển kỹ nghệ vì mọi năng lực của quốc gia đều phải dành ưu tiên cho cuộc chiến và giữ vững mức sinh hoạt của dân chúng. Vì vậy nền kỹ nghệ đã phát triển lúc thăng lúc trầm tùy theo tình hình chính trị, tài chánh và quân sự, theo chính sách nhập cảng vá víu của Bộ Kinh Tế. Cũng vì tình hình bất ổn mà nhiều khu kỹ nghệ qui mô như khu An- Hòa làm phân bón hóa học, nhà máy lọc dầu Cam-Ranh, nhà máy chế tạo tơ bóng và làm acide sulfurique Biên-Hòa, v.v… dù đã sẵn dự án và tiền vốn và riêng nhà máy làm phân bón An Hòa thì máy móc về tới Sàigòn rồi mà cũng chưa thực hiện được. Trái lại, tình trạng bất an làm phát triển mạnh những kỹ nghệ biến chế ít vốn lời nhiều, cơ sở nhỏ, kỹ thuật đã phổ thông, thiết lập được ở ngoại ô các châu thành có an ninh… thí dụ như ngành chế tạo dược phẩm, thực phẩm, điện khí, ngành dệt… và các loại kỹ nghệ này đều lệ thuộc vào nguyên liệu bán tiền chế nhập cảng : dược liệu, hóa phẩm, đường mía, sợi bông… Những xí nghiệp này thuộc loại biến chế không có giá trị kinh tế lớn lại lệ thuộc hoàn toàn vào sự cung cấp nguyên liệu ngoại quốc làm hao hụt ngoại tệ sở hữu. Thực sự, đường lối tự do kinh doanh đã thất bại nặng nề vì thiếu một chương trình xây dựng thực tế, không tận dụng tài nguyên quốc nội và không đầu tư vào các ngành kỹ nghệ căn bản nhằm bổ sung cho nông nghiệp và ngư nghiệp là hai ngành cần phát triển song song với kỹ nghệ. Trong thời kỳ này, vì thiếu một kế hoạch xây dựng một cơ cấu kinh tế thiết thực nên tư nhân hoạt động thiên về thương mại hơn là kỹ nghệ, theo thị hiếu và tư lợi cá nhân để rồi sau cùng không còn nhận thức được nhiệm vụ quan trọng của họ trong cuộc xây dựng một nền kinh tế vững bền cho đất nước. Tóm lại, trong giai đoạn đầu của nền kỹ nghệ, vì tình trạng chiến tranh và lệ thuộc ngoại viện nên những cơ sở kỹ nghệ căn bản như lọc dầu, đúc thép, nấu gang hoặc kỹ nghệ hỗ trợ cho nông nghiệp (chế tạo phân bón, nông cơ…) vẫn chưa có và chỉ có nền kỹ nghệ biến chế ít vốn nhiều lời là phát triển được. Để có một nhận định rõ rệt về nền kỹ nghệ Việt Nam, chúng ta hãy phân tích diễn biến của nền kỹ nghệ và cơ cấu kỹ nghệ hiện tại. Tiết 1 : Nền kỹ nghệ dưới thời Pháp Trong thời kỳ đô hộ, Pháp đã du nhập vào Việt-Nam một nền « kinh tế thuộc địa » có tính cách khai thác các tài nguyên thiên nhiên để xuất cảng. Công cuộc kỹ nghệ hóa bị hạn chế đến mức tối thiểu dù là do các tư bản người Pháp chủ xướng. Từ sau Đệ Nhất Thế Chiến, nền kỹ nghệ bản xứ mới được phát triển chậm chạp trong sự e dè và dọ dẫm. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đều được thiết lập tại Bắc Phần ; ở Nam Phần các xí nghiệp kỹ nghệ của tư nhân Pháp đều tập trung ở Sàigòn Chợ-Lớn như : - Kỹ nghệ đồ uống : BGI, Hãng rượu Bình-Tây. - Kỹ nghệ thuốc lá : MIC, MITAC, BASTOS… - Kỹ nghệ đường mía : nhà máy Hiệp-Hòa, Khánh Hội. - Kỹ nghệ cơ khí : CARIC, ASAM. - Kỹ nghệ sản xuất các đồ dùng bằng cao su thiên nhiên. Hiện nay các cơ sở trên đã trở thành những xí nghiệp đồ sộ và gần như nắm giữ ưu thế trên thị trường. Còn người Trung-Hoa gần như chiếm độc quyền về kỹ nghệ xay lúa, thủy tinh, tiểu công nghệ dệt, làm giấy. Và người Việt chỉ chú trọng đến thủ công nghệ có tính cách gia đình như : đồ gốm, nước mắm, v.v… Nhìn qua thực trạng đó, chúng ta nhận thấy nền kỹ nghệ bản xứ thời Pháp thuộc mang những đặc tính sau : - Các xí nghiệp quan trọng đều do ngoại nhân (người Pháp và Trung Hoa) khai thác còn lãnh vực hoạt động kinh tế người Việt rất bị hạn chế bởi điều kiện tài chánh eo hẹp và chính quyền thuộc địa. Hậu quả là nền kinh tế bị lệ thuộc vào ngoại nhân mà cho đến nay Việt-Nam vẫn chưa thu lại được hoàn toàn chủ quyền kinh tế. - Nền kỹ nghệ mang sắc thái trục lợi cho giới tư bản mẫu quốc. Thay vì dùng để đầu tư hay khuếch trương xí nghiệp, một số lợi tức khổng lồ phỏng độ 300 đến 450 triệu đồng được hàng năm chuyển về chính quốc. - Chính quyền Pháp cấm đoán các ngành kỹ nghệ có tính cách cạnh tranh hay làm phương hại đến cơ cấu sản xuất của chính quốc. - Vì không muốn phát triển nền kỹ nghệ bản xứ nên dù Bắc Phần có đủ các quặng mỏ để thiết lập nền kỹ nghệ căn bản (industrie de base), chính quyền thuộc địa chỉ cho phép thiết lập hạn chế một số kỹ nghệ nhẹ với máy móc trang bị nhập cảng từ Pháp. - Nền kỹ nghệ bản xứ cách biệt hẳn với nông nghiệp vì kỹ thuật thiếu tính cách hỗ trợ nông nghiệp như sản xuất phân bón, nông cụ… nhằm cải thiện và phát triển đời sống nông thôn. - Năm 1940 các xí nghiệp chỉ xử dụng có 120000 công nhân (khoảng 0,5% dân số Việt-Nam) ; như vậy, sự xuất hiện của kỹ nghệ không nhằm giải quyết nạn nhân mãn trầm trọng trên đồng bằng Bắc Phần và Trung Phần, mà lại có cơ hội tốt để bóc lột sức lao động thừa thãi tại đó. Tóm lại cho đến năm dành được độc lập, năm 1954, nền kỹ nghệ Việt-Nam còn là một hoạt động phụ, nông nghiệp và tiểu công nghệ vẫn là nền tảng của toàn bộ hệ thống kinh tế Việt-Nam. Tiết 2 : Thời kỳ kinh tế được hoạch định từ năm 1954 đến năm 1963 Trong thời kỳ độc lập này, sự kỹ nghệ hóa quốc gia được chia làm 2 giai đoạn sau : 1) THỜI KỲ 1955-1957 Với sự hiện diện một số lớn thợ chuyên môn và các nhà kinh doanh di cư từ Bắc vào, đồng thời Chính Phủ lại ban hành nhiều biện pháp nhằm khuyến khích và nâng đỡ giới thương mại và kinh doanh Việt-Nam nên một số người Việt đã nhẩy ra kinh doanh để thay thế hoặc chia sẻ với người Pháp và Trung-Hoa nhất là ngành công nghệ như dệt, ráp xe, dược phẩm, đồ nhôm, đúc, thuộc da… Theo Bộ Kinh Tế thì tổng số vốn đầu tư vào kỹ nghệ chế biến năm 1957 chỉ vào khoảng 12 tỷ Việt-Nam. 2) THỜI KỲ 1958-1963 Từ năm 1958, nền canh nông được coi như đã phục hồi và đang trên đà phát triển để xuất cảng, Chính Phủ mới tập trung nỗ lực để thúc đẩy kỹ nghệ hóa miền Nam trong khuôn khổ của hai kế hoạch ngũ niên. Nhờ đó, phần lớn các xí nghiệp quan trọng hiện nay đang hoạt động đều được thiết lập vào thời kỳ này. Khởi đầu từ 1958 là việc thành lập các xí nghiệp hợp doanh và quốc doanh như Công Ty Đường Việt Nam, Công Ty Kỹ Nghệ Giấy Việt-Nam, Công Ty Thủy-Tinh Việt-Nam, nhà máy vôi Long-Thọ, Công Ty Vĩnh-Hảo, công quản khai thác nhà máy Tân-Mai. Từ 1959 đến 1963 một số lớn tư nhân bỏ vốn đầu tư vào việc thiết lập các kỹ nghệ lớn về âu dược, thực phẩm, dệt nhuộm… Vai trò tư bản Pháp lu mờ dần trước sự bột phát này và họ bán lại cho Chính Phủ Việt-Nam một số công ty như Đường và Bông Vải, tuy nhiên vai trò người Việt gốc Hoa vẫn chính yếu trong công cuộc kỹ nghệ hóa này. a) Kế hoạch Ngũ Niên I (1957-1961) Kế hoạch này được soạn thảo theo sự khuyến cáo của phái đoàn nghiên cứu kinh tế Liên-Hiệp-Quốc. Tháng 8-1957, Nha Tổng Giám Đốc Kế Hoạch đệ trình dự án kế hoạch Ngũ Niên I nhằm hàn gắn những đổ vỡ do chiến tranh gây ra và phục hồi mức sản xuất thời tiền chiến. Bản văn Kế Hoạch Ngũ Niên I gồm 4 chương, trình bày căn bản lý thuyết và các mục tiêu : - Chương I : Hiện tình kinh tế Nam Việt Nam năm 1956. - Chương II : Các mục đích chính của kế hoạch. - Chương III : Ấn định các mục tiêu đại tượng như dân số, sản lượng quốc gia, đầu tư, nhân dụng… - Chương IV : Chỉ định các tiêu chuẩn quyết định đường lối đầu tư. Tóm tắt các chương trên, ta nhận thấy các khuyết điểm của hiện tình kinh tế Nam Việt-Nam năm 1956 như sau : - Ngân sách quốc gia bị thiếu hụt. - Cán cân thương mại quá khiếm hụt. - Mức đầu tư gộp quá thấp. - Giá thành các sản phẩm còn cao, không thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Từ các nhận xét này, Kế Hoạch Ngũ Niên I ấn định mục tiêu chính sau : - Tăng lợi tức quốc gia lên 16% tức lên 87 tỉ bạc vào năm 1961. Dựa vào thống kê về tỷ số trung bình tư bản sản lượng của các quốc gia chậm tiến khác như Ai Cập 3,35, Mễ-Tây-Cơ 3,65… Ủy Ban Thiết Lập Kế Hoạch ước tính tỷ số trung bình tư bản sản lượng của Nam Việt-Nam là 3,50, sản lượng gộp quốc gia năm 1956 là 75 tỉ và tổng lượng tư bản là 250 tỉ. Do đó, với số gia tăng đầu tư là 20 tỉ, sản lượng quốc gia sẽ gia tăng khoảng 12 tỉ, tức 16% trong thời gian thực thi kế hoạch (1957-1961) hay 3% mỗi năm. Số gia tăng này được xử dụng để gia tăng đầu tư (4,5 tỉ), duy trì mức tiêu thụ đầu người (4 tỉ), bù đắp cán cân thương mại (3 tỉ), gia tăng cộng phí (0,5 tỉ). - Tăng vốn đầu tư hàng năm lên gấp đôi. Từ mức đầu tư 4,5 tỉ năm 1956, mức đầu tư sẽ lên tới 9 tỉ vào năm 1961 tức gấp đôi mức đầu tư năm 1956. - Giảm thiểu khiếm hụt ngân sách và ngoại thương. - Kiếm công ăn việc làm thêm cho 400.000 người. Theo ước lượng của Kế Hoạch I, dân số hoạt động lúc đó là 5 triệu và trung bình mỗi một nhân công có một số tư bản là 50.000$. Tỉ số dân hoạt động gia tăng hàng năm là 1,2%, tức 6% từ 1956 đến 1961 hay 300.000 người. Cộng thêm số giảm bớt khiếm dụng là 100.000 người thì Kế Hoạch I phải trù liệu tư bản để thu hút 400.000 nhân công trong năm. - Duy trì mức sinh hoạt của dân chúng năm 1956 đạt được các mục tiêu trên, nên Chính Phủ phải áp dụng chính sách bắt dân chúng thắt lưng buộc bụng mặc dầu không thích hợp với tình trạng hậu chiến lúc bấy giờ. Về tỷ lệ gia tăng sản lượng của từng ngành từ 1957 đến 1961 Kế Hoạch I ấn định như sau : - Canh nông + 27% - Ngư nghiệp + 70% - Công kỹ nghệ + 20% - Giao thông, thương mại, nghiệp vụ ngân hàng + 15% - Các ngành khác + 5%. Trong tổng số đầu tư được trù liệu là 20 tỉ, chính phủ trù liệu sẽ gánh vác 75% tức 17,5 tỉ, còn lại 2,5 tỉ sẽ do tư nhân đảm nhiệm. Để có 17,5 tỉ tài trợ khuếch trương kế hoạch, Chính Phủ trông cậy vào ngoại viện (90%), vay các cơ quan ngoại quốc, ngân khoản bồi thường chiến tranh của Nhật Bản, còn thuế khóa chỉ đóng góp một phần không đáng kể. Số tư bản đầu tư (17,5 tỉ) do chính phủ gánh vác được phân chia cho từng ngành như sau : - Canh nông : 3 tỉ (17,2%) - Công chánh : 5,5 tỉ (31,5%) - Điện lực và thủy nông : 2,3 tỉ (13,1%) - Xã hội : 1,7 tỉ (9,7%) - Kỹ nghệ : 1,6 tỉ (9,1%) - Linh tinh : 3,4 tỉ (19,4%) Trong kế hoạch đầu tiên này, nông nghiệp được dành ưu tiên vì những lý do sau : - Việt-Nam có nhiều khả năng phát triển nông nghiệp hơn kỹ nghệ và có thể gia tăng mức sản xuất nhanh chóng, hơn nữa sự phát triển nông nghiệp đòi hỏi một số vốn đầu tư ít so với kỹ nghệ. - Nếu cải thiện phương pháp canh tác như chọn hạt giống, cơ giới hóa, dùng nhiều phân bón, nghiên cứu đất đai… thì năng suất sẽ gia tăng cao bằng các nước khác. - Nông nghiệp phát triển sẽ trực tiếp nâng cao đời sống vật chất dân nông thôn, chống lại được tuyên truyền cộng sản, hơn nữa năng suất tăng thì số lợi tức cũng gia tăng và số tiết kiệm sẽ nhiều hơn ; ngoài ra thị trường của các sản phẩm công kỹ nghệ được mở rộng song song với sự mở mang của nông nghiệp. - Trong tình trạng hiện hữu, khuếch trương nông nghiệp còn nhằm thu hút một số lớn nhân công khiếm dụng mà các ngành đầu tư khác chưa sử dụng đến. - Ngoại tệ sở hữu sẽ gia tăng nhờ xuất cảng nông phẩm chính như cao-su, gạo… để có thể trang bị máy móc cho các ngành khác. - Các địa phương sẽ được mở mang nhờ nông nghiệp phát triển. Theo dự trù của kế hoạch thì diện tích canh tác nông nghiệp sẽ gia tăng qua những dự án nhỏ sau : dự án « Cái-Sắn » khai tác thêm 87.000 Ha và định cư một số lớn đồng bào ; dự án « Bạc-Liêu Cà-Mau » tăng 136.000 Ha, dự án « Đồng-Tháp-Mười » 75000 Ha ; dự án khẩn khoang 30.000 Ha đất cao nguyên để trồng cây kỹ nghệ (cà-phê, thầu dầu…). Về trang bị công cộng, sẽ xây xa lộ Saigon-Biên Hòa (kinh phí 120 triệu), lập đường Xuyên-Việt, phát triển hàng không dân sự, cung cấp nước uống cho các thành phố như hệ thống Đồng-Nai Saigon, lập nhà máy thủy điện Đanhim với công xuất 160.000Kw cung cấp 780 triệu Kw/giờ với ngân khoản đầu tư 1 tỉ 723. Trong địa hạt xã hội và giáo dục, có dự án chống nạn mù chữ, phát triển trung tiểu học và kỹ thuật, xây dựng bệnh viện, diệt trừ sốt-rét, xây ký nhi viện… Trong lãnh vực kỹ nghệ, Tổng-Thống Ngô-Đình-Diệm cũng có lưu tâm đến qua thông điệp đọc ngày 6-10-1958 : « Trong địa hạt kỹ nghệ, nỗ lực trước hết của chúng ta là lập những kỹ nghệ nhẹ, để cung cấp cho thị trường trong xứ, và kỹ nghệ biến chế nông sản ». Tiếp theo là thông điệp đọc ngày 3-10-1960 : « Nguyên tắc căn bản để phát triển là tiết kiệm ngoại tệ nhờ gia tăng xuất cảng và giảm nhập cảng. Ưu tiên trong chương trình kỹ nghệ hóa dành cho việc chế tạo những sản phẩm tiêu thụ thông dụng ». Như vậy, chương trình kỹ nghệ hóa trong Kế Hoạch Ngũ Niên I là phát triển kỹ nghệ nhẹ và bán chế. Kế hoạch đã dự trù các dự án sau : - Dự án khai thác mỏ than Nông-Sơn dự trù sản xuất 20.000 tấn năm 1958 để tăng lên 140.000 tấn năm 1961. - Về kỹ nghệ đường, chính phủ mua lại nhà máy đường Hiệp-Hòa của Pháp và thiết lập nhà máy Khánh Hội để sản xuất mỗi ngày 120 tấn đường trắng, 100 tấn đường vàng. - Kỹ nghệ dệt : thiết lập 2 nhà máy dệt tại Biên Hòa với sự trợ giúp 234 máy dệt tự động của Hoa-Kỳ. - Chính phủ mua lại xưởng chế tạo vôi Long-Thọ của Pháp với giá 20 triệu quan và những nhà máy cưa gỗ ở Biên-Hòa với giá 20 triệu bạc. Ngoài ra còn một số xí nghiệp khác được thiết lập như Công Ty Thủy Tinh Việt-Nam, Kỹ Nghệ Nhuộm, hóa chất, bao bố, các nhà máy xay lúa mới. Nhận xét về Kế Hoạch Ngũ Niên I : Về kỹ thuật hoạch định, chúng ta nhận thấy Tổng Nha Kế Hoạch đã áp dụng phương thức suy luận, ấn định mục tiêu, phương thức nhân dụng, v.v… của Kế Hoạch Ngũ Niên I của Ấn-Độ, Kế Hoạch I Việt-Nam gặp khuyết điểm ở chỗ thiếu căn bản lý thuyết cho việc phân chia thành phần đầu tư cho từng ngành và ước tính thành phần sản lượng gia tăng cho từng ngành. Lý do chính là mô thức HARROD-DOMAR quá giản dị không đủ yếu-tố để phân định. Nhưng hiện tình nước ta lúc đó không cho phép áp dụng một mô thức kinh toán phức tạp để hoạch định kế hoạch cho chính xác là vì chúng ta thiếu chuyên viên, cán bộ, thiếu một Viện Thống Kê cung cấp cho những bản điều tra, con số chính xác, chi tiết, v.v… Tuy bản văn kiện kế hoạch có đủ các phần ấn định đường lối, mục tiêu, phương tiện thực hiện cùng dự án cho từng khu vực, Kế Hoạch Ngũ Niên I không được chính thức công bố. Trong thực tế nội dung Kế Hoạch I chỉ là một tài liệu đúc kết các dự án của từng khu vực. Việc soạn thảo kế hoạch gồm 3 giai đoạn sau : - Giai đoạn 1 : Cơ quan hoạch định trung ương thiết lập một kế hoạch bố cục (plan cadre) có tính cách hướng dẫn căn cứ vào chính sách tổng quát của chính phủ, tình hình kinh tế trong và ngoài nước, số nhân công và tư bản khả dụng… Cơ quan trung ương cũng ấn định rõ các mục tiêu, số lượng sản xuất phải đạt tới như bao nhiêu tấn lúa, chiều dài của xa lộ… Sau đó Kế Hoạch bố cục được gửi về cho cán bộ, cơ quan và địa phương. - Giai đoạn 2 : mỗi cơ quan hay địa phương lập một dự án riêng biệt để rồi chuyển về cơ quan hoạch định trung ương để phối hợp hay sửa đổi lại nếu cần. - Giai đoạn 3 : Cơ quan trung ương sẽ tổng kết các dự án chuyên biệt để thiết lập ra Kế Hoạch Ngũ Niên I sát với thực tế hơn ; vì thế Kế Hoạch I chỉ có giá trị một bản văn chỉ hướng giúp cho các cơ quan công quyền hay tư nhân có một đường lối để tiến hành các công tác liên quan đến phát triển kinh tế. b) Kế hoạch ngũ niên II Tuy không được chính thức công bố nhưng Kế Hoạch đã được thi hành và đã thâu lượm được một số kết quả cụ thể. Để tiếp tục công trình phát triển kinh tế trên, Kế Hoạch Ngũ Niên II được soạn thảo và áp dụng sau khi Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia chấp thuận ngày 31-3-1962. Kế Hoạch II nhằm tiếp tục các công trình dài hạn của Kế Hoạch I mà chưa hoàn tất như : - Tăng gia sản lượng quốc gia bằng sự giải trừ tình trạng thiếu hụt của cán cân chi phối, gia tăng số ngoại tệ sở hữu để tiến tới độc lập kinh tế, thoát ly sự lệ thuộc vào ngoại viện. Kế hoạch II cố gắng giải quyết vấn đề khiếm dụng nhân công và nâng cao mức sống của dân bằng cách gia tăng sản xuất nhiều sản phẩm nội hóa thay thế cho hàng nhập cảng. - Mở mang diện tích trồng cây kỹ nghệ song song với việc khuếch trương tiểu công nghệ và kỹ nghệ nhằm hỗ trợ giữa các ngành sản xuất trong nước. - Các địa phương mở mang đồng đều để tránh sự chênh lệch giữa các trung tâm kinh tế. - Canh tân và tạp bác hóa canh nông để tăng gia sản xuất tạo điều kiện nâng cao mức sống của người dân. Về lúa, mỗi năm ước lượng sẽ gia tăng 20.000 tấn để đến năm 1966 sẽ dư 600.000 tấn gạo và phó sản để xuất cảng. Diện tích đồn điền cao-su cũng sẽ gia tăng lên 200.000 Ha vào năm 1966. Kế Hoạch Ngũ Niên II khởi diễn trong một khung cảnh kinh tế thuận lợi về những kết quả của Kế Hoạch I như số sản xuất nông phẩm gia tăng, hệ thống kiều lộ được cải thiện, số kỹ nghệ chế biến thành hình… Trái lại khung cảnh chính trị, xã hội làm trở ngại Kế Hoạch II rất nhiều. Tháng 10 năm 1961 chính quyền ban hành tình trạng khẩn cấp để đối phó với chiến tranh du kích cho nên ngân sách an ninh gần bằng ngân sách dân sự, làm cho phát triển kinh tế bị ảnh hưởng. Năm 1961 bốn tỉnh miền Cửu-Long bị lụt tàn phá nặng nề làm đình trệ việc xuất cảng gạo. Tình trạng trên thúc đẩy chính quyền phải tăng thâu cho ngân sách (bằng thuế) làm giá cả hàng hóa tăng theo và hối xuất đồng bạc bị sửa đổi gián tiếp bằng đảm phụ quốc phòng (bằng 5/7 hối xuất chính thức 35$ = 1 US$) tức sản xuất và tiêu thụ đều bị ảnh hưởng. Tiếp tục đường lối Kế Hoạch I, Kế Hoạch II cố hoàn tất những dự án đã đề ra. Chiều hướng phát triển đồng đều dành cho cả nông nghiệp lẫn kỹ nghệ. Tư bản trang bị công cộng không còn được ưu tiên đầu tư như trong Kế Hoạch I. Về nông nghiệp thì tiếp tục chương trình dinh điền, công tác thủy nông để gia tăng sản xuất. Năm 1962 diện tích trồng trọt là 2.595.000 Ha, dự trù tăng lên 3.064.000 Ha cho năm 1965, dự định tăng năng xuất bằng chương trình nông tín và cải thiện kỹ thuật canh tác. Về công kỹ nghệ, Kế Hoạch I chủ trương chế biến nông sản và Kế Hoạch II nhằm lập thêm những kỹ nghệ căn bản vừa sản xuất cho tiêu thụ vừa nhằm xuất cảng cho tương lai, thí dụ như hoàn tất khu kỹ nghệ An-Hòa Nông-Sơn với số than sản xuất dự trù 250.000 tấn cho năm 1966, một trung tâm điện lực 25.000 Kw, một xưởng chế tạo chất bón sản xuất mỗi năm 42.000 tấn urée, 48.000 tấn sulfate d’ammonium, một xưởng chế tạo đất đèn cho 8.000 tấn/năm, nhà máy xi măng Hà-Tiên được thiết lập song song với việc mở mang kỹ nghệ đường gồm 3 nhà máy tối tân, lập nhà máy lọc dầu, phát triển kỹ nghệ cơ khí kim loại, điện, dệt, cao su, biến-chế nông phẩm. Trang bị công cộng tập trung vào việc hoàn tất đập Đanhim có năng suất 160.000 Kw, cung cấp hàng năm 780.000.000 Kw giờ, xây thêm hai nhà máy nhiệt điện cho khu kỹ nghệ An-Hòa (25.000 Kw) và Thủ-Đức (33.000 Kw) mở mang hải cảng và phi cảng tại nhiều tỉnh ; việc cung cấp nước uống cho Đô-Thành Sàigòn sẽ được giải quyết với dự án lấy nước sông Đồng-Nai của Sàigòn Thủy Cục. Hệ thống đường xá, nhất là tỉnh lộ hương lộ sẽ được tăng cường. Đặc biệt là Kế Hoạch II chú trọng nhiều đến vấn đề giáo dục, y tế, xã hội, lao động. Về giáo dục, Kế Hoạch nhằm phát triển cả lượng lẫn phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của sĩ số trong ba bậc Tiểu, Trung, Đại-Học. Cố gắng thích ứng hóa mọi ngành học và chuyên nghiệp để đáp ứng nhu cầu về cán bộ cần thiết cho mọi ngành sinh hoạt trong nước. Kế Hoạch trù liệu việc đào luyện 2.500 giáo chức và xây 2.500 lớp học mỗi năm ; kinh phí trong năm năm lên đến 3.925.000.000$. Mỗi quận sẽ có một trường trung học đệ nhất cấp và mỗi tỉnh một trường trung học đệ nhị cấp. Kế Hoạch cũng trù liệu hoàn tất khu Đại Học Thủ-Đức, một Trung Tâm Y Tế gồm có 3 ban Y, Dược, Nha, và một bệnh viện thực hành đồng thời khuếch trương Viện Đại Học Huế. Trong lãnh vực y tế sẽ thiết lập nhiều cơ sở và nhiều cơ quan mới để thỏa mãn nhu cầu về phương diện phòng bệnh cũng như trị bệnh. Còn về xã hội và lao động, Kế hoạch dự trù thiết lập hai Trung Tâm giáo dục trẻ bất túc ở Sàigon, Huế, Viện Dưỡng Nhi, Quốc Gia Nghĩa Tử, tu chỉnh chế độ phụ cấp gia đình hiện hữu, huấn nghệ… Trên nguyên tắc Kế Hoạch Ngũ Niên II được thi hành từ năm 1962 đến năm 1966 nhưng kết quả không được kiểm điểm vì ảnh hưởng chiến tranh. Dầu sao chúng ta cũng có vài nhận xét sau về Kế Hoạch II : nguyên tắc căn bản vẫn là tự do kinh doanh, chính phủ chỉ can thiệp trong những dự án kiểu mẫu hay những công ty hỗn hợp. Chính phủ chỉ hỗ trợ cho tư nhân về phương diện tài chánh, kỹ thuật và sự can thiệp có tính cách hướng dẫn vô hạn chế. Tuy nhiên chính quyền cũng chưa có qui định rõ rệt đường lối tham gia và phối hợp đối với tư doanh và trong thực tế khuynh hướng tư doanh hóa bị lãng quên vì sự hệ thống hóa. Sự hoạch định kế hoạch có tính cách tập hợp các dự án lẻ tẻ và nhược điểm quan trọng nhất là dữ kiện thống kê rất thiếu sót và không sát thực tế, các dự án lại không đặt những phương tiện để thực hiện mục tiêu ; cơ quan hoạch định không theo dõi kiểm soát sự thi hành các dự án. Sau hai Kế Hoạch trên, Tổng Nha Kế Hoạch còn lập một dự án Kế Hoạch tứ niên (1968-1971) nhưng chưa được hoàn thành. Và hiện nay thì chúng ta có kế hoạch kinh tế hậu chiến. 3) THỜI KỲ TỰ DO KINH DOANH TỪ NĂM 1964 ĐẾN NAY Chính sách kỹ nghệ hóa đã thay đổi hẳn căn bản, từ kinh tế hoạch định sang tự do kinh doanh. Chính sách kinh tế thay đổi luôn vì tùy thuộc vào tình hình an ninh, ngoại viện và biến cố chính trị nội bộ. Trong thời kỳ phát triển hỗn độn này không có những kỹ nghệ đại qui mô mới nào sử dụng nguyên liệu nội địa như gỗ làm bột giấy, mía, đá vôi… được thiết lập. Các dự án kỹ nghệ với số vốn hoàn toàn tư nhân được thiết lập chỉ là những kỹ nghệ biến chế nặng tính cách thương mại. Đặc tính chung của những kỹ nghệ này là : - Máy móc trang bị trị giá không quá 300.000 Mỹ kim. - Không cần vốn đầu tư lớn lao. - Phần lớn nguyên liệu xử dụng được nhập cảng. - Kỹ thuật đã phổ thông - Kiếm được lời nhiều, mau, chắc chắn. Các kỹ nghệ biến chế đó tập trung vào các ngành sản xuất : dược phẩm, ngành điện (Vidico, Tân Á chế tạo giây, Vabco, bình điện), tôn tráng kẽm (Vinaton), sữa hoàn nguyên (Foremost), vật dụng bằng nhựa dẻo, lưới đánh cá, đũa, hàn điện, ngành dệt (nhà máy kéo sợi DONAFITEX, nhà máy dệt nhuộm Phong Phú) ngành ráp xe gắn máy, máy thâu thanh… Ngoài ra còn có một số xí nghiệp cũ xin khuếch trương như COGIDO, VICACO (hóa chất)… Tổng kết thì sau 10 năm xây dựng (đến cuối năm 1967) nền kỹ-nghệ Việt-Nam đã có tiến-triển. Số vốn đầu tư vào nền kỹ nghệ đã lên đến 24 tỉ bạc. Sự tăng trưởng đó được thể hiện trong bảng vốn đầu tư sau đây : Tiết 3 : Cơ cấu kỹ nghệ hiện tại Theo tài liệu Viện Thống Kê, năm 1960 Việt-Nam có 7.398 xí-nghiệp hoạt động về kỹ nghệ biến chế thâu dụng 59.306 nhân công. Nam phần có khoảng 70% số xí nghiệp này xử dụng 88% số nhân công. Riêng khu vực Saigon, Gia Định, Biên Hòa có 3.123 xí nghiệp (12%) và 36.493 nhân công (61%). Bảng tổng kê tài nguyên vật lực của Bộ Kinh Tế năm 1966 cho biết Việt-Nam hiện có 1.783 xí nghiệp kỹ nghệ biến chế và 12 xí nghiệp sản xuất điện năng. Tuy tài liệu thống kê không chính xác, nhưng ta cũng nhận thấy hầu hết cơ sở kỹ nghệ hiện tại đều tập trung ở Saigon Biên-Hòa. 1) VỐN ĐẦU TƯ Theo tài liệu của nhóm nghiên cứu kế hoạch hậu chiến, ta có bảng cơ cấu của kỹ nghệ biến chế chính yếu ở Việt-Nam ở trang sau trong năm 1967. (Về số thương vụ và sản lượng không được chính xác vì khai báo sai để tránh thuế, không kể các nhân công của các xí-nghiệp nhỏ không khai báo với bộ Công kỹ nghệ hoặc gia nhập Tổng đoàn Công kỹ nghệ Việt Nam. Tổng số nhân công ghi trong bảng chỉ bằng nửa số kiểm kê được theo tài liệu bộ Lao Động). 2) HÌNH THỨC XÍ NGHIỆP Dựa vào tổng số xí nghiệp thì đa số xí nghiệp hoạt động dưới hình thức cá nhân còn công ty chiếm một số nhỏ, nhưng nếu tính theo giá thương vụ thì vai trò các công ty lấn át hẳn các xí nghiệp cá nhân. Trong các ngành có vốn đầu tư lớn và phát triển mạnh đều có chính quyền tham dự vốn. Riêng ngành đường và xi măng do chính quyền quản trị. Chính quyền cũng có đa số cổ phần trong các công ty hỗn hợp dệt vải bông, dệt bao bố, chế tạo giấy, thủy tinh. Đến cuối năm 1967, chính quyền đã đầu tư vào kỹ nghệ 5.732 triệu $VN tức là 24,2% tổng số vốn đầu tư. (Phụ lục 1, 2, 3) Tiết 4 : Các khu kỹ nghệ Sau kế hoạch Ngũ Niên I, khuynh hướng phát triển kinh tế mới của chính phủ ta là làm sao phù-hợp-hóa các hoạt động của nông-nghiệp lẫn kỹ-nghệ : có nghĩa là hoạt động của cả hai ngành có tính cách bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển song song. Do đó, ngoài mục tiêu kỹ nghệ hóa nước nhà, sự thiết lập khu kỹ nghệ còn gián tiếp hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động nông nghiệp nhằm đạt các mục đích sau : - Thúc đẩy đầu tư kỹ nghệ : Phần lớn giới tư bản Việt Nam tập trung ở thành thị thiên về thương mại kiếm lời nhanh hơn là đầu tư vào kỹ nghệ vì họ chưa quen với hoạt động kỹ nghệ lại phải đầu tư trong một tình thế bất ổn. Ngoài ra, sau cuộc cải cách điền địa, để hướng dẫn một số đại điền chủ bị truất hữu vào hoạt động kỹ nghệ, chính phủ đã cho thiết lập các khu kỹ nghệ dành nhiều ưu đãi cho giới tư bản dám mạo hiểm đầu tư lâu dài như được hưởng một giá rẻ về điện nước, đất xây cất, được miễn các sắc thuế, được hưởng sẵn một hạ tầng cơ sở (đường, cống…), v.v… Chính vì được tích cực giúp đỡ lại hưởng nhiều ưu đãi nên giới tư bản Việt Nam đã hăng hái tham gia khu kỹ nghệ Biên-Hòa ngay từ đầu. - Kiểm soát được hoạt động kỹ nghệ trong nước : Các xí nghiệp kỹ nghệ được tập trung vào từng khu sẽ giúp cho chính phủ kiểm soát dễ dàng mọi hoạt động, chắc chắn đảm bảo được an ninh chung, hướng dẫn và dự đoán được sự phát triển kỹ nghệ trong tương lai nhằm tránh cảnh kỹ nghệ gia bị phá sản, hoặc ứ đọng thị trường, v.v… Ngoài ra, sự tập trung thành khu giúp chính phủ cung ứng dễ dàng mọi nhu cầu cho xí nghiệp như điện thoại, hệ thống giao thông, điện nước, nhiên liệu… - Kỹ nghệ kêu gọi kỹ nghệ : Sự tập trung các xí nghiệp thành khu sẽ lôi cuốn sự phát triển các loại « kỹ nghệ dây chuyền » để hoàn tất chế phẩm. Kỹ nghệ lọc đường lôi cuốn theo nhà máy rượu, làm bột ngọt, ngành trồng mía… Ngành nhuộm và hoàn tất sẽ chạy theo các xí nghiệp dệt. - Giải quyết nạn khiếm dụng nhân công : Các khu kỹ nghệ sẽ giải quyết được ổn thỏa vấn đề tập trung tại thành thị các công nhân kỹ nghệ miền Bắc di cư vào và một số lớn dân chúng đến từ các vùng nông thôn bất an. Ta có thể lấy ví dụ vùng Sàigon – Chợ-Lớn, dân số năm 1958 là 1.219.000 tăng lên 2.500.000 năm 1969. Sự gia tăng trung bình hàng năm là 200.000 mà phần lớn thuộc thành phần dân tản cư tới. Sự gia tăng mau lẹ đó gây ra nạn thất nghiệp, thiếu nhà cửa, vệ sinh công cộng, giá sanh hoạt tăng nhanh. - Tạo điều kiện trao đổi và hỗ trợ kỹ thuật, tư bản giữa các xí nghiệp : Trước kia, sự thiết lập rải rác các xí nghiệp kỹ nghệ đã tạo nhiều khó khăn cho xí nghiệp nhất là về phương diện kỹ thuật và tư bản. Hiện nay với sự giúp đỡ của trung tâm khuếch trương kỹ nghệ (SONADEZI), khu kỹ nghệ là nơi tập trung các kỹ thuật gia, kỹ sư, nhà tư bản để trao đổi ý kiến, kinh nghiệm nhằm tạo nên một bầu không khí hợp tác hữu hiệu về kỹ thuật và tư bản trong công cuộc phát triển xí nghiệp. - Phát triển hợp lý các địa phương : Tùy theo điều kiện kinh tế mỗi vùng, nhiều khu kỹ nghệ sẽ được thiết lập để thích ứng và khai thác hữu hiệu các tài nguyên địa phương. Khu kỹ nghệ An-Hòa sẽ dùng than đá Nông-Sơn, vôi Long Thọ để sản xuất nhiệt điện, phân hóa học và nhiều hóa phẩm khác. Khu kỹ nghệ Cần-Thơ sẽ tích cực sản xuất phân hóa học, chế tạo thực phẩm gia súc, v.v… để hỗ trợ cho nông nghiệp và chăn nuôi. Chính vì những lý do thiết yếu trên mà chính phủ Việt Nam đã quyết tâm xây dựng các khu kỹ nghệ. Và để hỗ trợ và hướng dẫn công trình kỹ nghệ hóa này, chính phủ cho thành lập SONADEZI (Société nationale du Développement des zones industrielles). 1) SONADEZI (Công ty quốc gia khuếch trương khu kỹ nghệ) Sonadezi được thành lập ngày 26-12-1963 để thực hiện dự án thành lập các khu kỹ nghệ. a) Thành phần - Quản trị : Sonadezi là công ty nặc danh, có tư cách pháp nhân, tự trị về hành chánh, tài chánh, được quản trị bởi một Hội Đồng có nhiệm kỳ 2 năm. Tổng trưởng kinh tế là chủ tịch Hội Đồng gồm 6 hội viên. Hội Đồng bổ nhiệm một Tổng Giám Đốc để điều khiển Công Ty. Bên cạnh có một ủy viên chính phủ lo đôn đốc, kiểm soát. Công ty có 4 sở chánh : sở hành chánh, sở tài chánh, sở khai thác và sở kỹ thuật. - Tài chánh : Sonadezi có vốn ấn định là 40 triệu bạc, chia làm 1000 cổ phần. Số vốn này có thể được tăng bằng cách góp thêm phần hùn bằng tiền mặt. b) Hoạt động - Thủ đắc đất để thiết lập khu kỹ nghệ : Nghị định về thủ đắc đất đã ấn định như sau : « sẽ phải nhường lại cho công ty quốc gia khuếch trương khu kỹ nghệ theo thủ tục trưng thâu về công ích, các thửa đất tọa lạc trong phần đất đã ấn định để lập khu kỹ nghệ. Sonadezi sẽ chiếm cứ những bất động sản trên và được làm sở hữu chủ sau khi bồi thường thiệt hại cho các địa chủ ». - Chỉnh trang khu đất kỹ nghệ : 1) Đo đạc, lập bản đồ cao độ, khảo sát địa chất để biết sức chịu đựng nền móng của các xí nghiệp. Khai quang : ủi bằng đất mô, rừng cây và dùng xáng thổi đất các vùng trũng. 2) Thiết lập hệ thống đường xá với đèn đường, cây mát, cống rãnh… 3) Thủy lộ : lo xây cất giang cảng, vét rạch. 4) Thiết lập hệ thống điện thoại, điện, nước… c) Nhượng đất đã chỉnh trang lại cho các kỹ nghệ gia Sonadezi cho các xí nghiệp thuê đất dài hạn là 99 năm với giá như sau : 60$/1m2 cho các xí nghiệp lập trước ngày 29-7-1966. 200$/1m2 kể từ 12-1-1968. d) Điều kiện xin gia nhập khu kỹ nghệ Muốn được gia nhập khu kỹ nghệ gia phải : - Có một dự án được Bộ Kinh Tế chấp thuận. - Hồ sơ xây cất phải được cứu xét bởi ủy ban tư vấn về kiến trúc, y tế, an ninh, xã-hội, vệ sinh… (Vị trí quan-trọng vì xí nghiệp thực phẩm không ở cạnh xí nghiệp hóa-học có chất độc). Sau đó Sonadezi sẽ giúp kỹ nghệ gia để chọn lô đất thích hợp, lập họa đồ, xây nền, cho vay tiền, cử chuyên viên để giúp đỡ kỹ thuật như ráp máy, nghiên cứu thị trường. e) Khó khăn của Sonadezi - Mua lại đất trên đó có đất hương hỏa hay mồ mã. - Thiếu nhân viên và tài chánh. - Không tiên đoán được chính xác số kỹ nghệ gia tham dự vì tình trạng an ninh hiện nay. - Nhiều xí nghiệp xây cất chậm trễ vì an ninh, làm cản trở công tác của Sonadezi, hàng ngoại quốc cạnh tranh, lạm phát… 2) KHU KỸ NGHỆ BIÊN-HÒA Khu kỹ nghệ Biên-Hòa được thiết lập theo sắc-lệnh ký ngày 21-5-1963 nhằm xây dựng và phát triển các ngành kỹ nghệ ưu tiên. Trung Tâm Khuếch Trương Kỹ nghệ (SONADEZI) phụ trách thiết lập và quản trị khu kỹ nghệ Biên-Hòa rộng 511 Ha nằm sát bên trái xa-lộ Sàigon – Biên Hòa, giáp với Đồng-Nai và sông Cái ở phía Nam và Tây Nam. a) Nguyên nhân lựa chọn địa điểm của khu kỹ nghệ Biên-Hòa Hệ thống chuyển vận thuận tiện : Về đường bộ, khu kỹ nghệ nằm cạnh các trục giao thông huyết mạch : - Biên-Hòa – Sàigon (Thương cảng và Miền Tây Nam Phần) - Sàigon – Đà-lạt (Cao nguyên) - Sàigon – Phan-Thiết (Trung Phần) - Sàigon – Vũng-Tàu (Hải cảng tương lai) Ngoài ra, một đoạn thiết lộ dài 3 cây số được dự trù thiết lập nối liền khu kỹ nghệ với đường xuyên Việt. Còn về đường thủy, giang cảng của khu kỹ nghệ nằm trên sông Đồng-Nai thông thương dễ dàng bằng tàu nhỏ và xà lan loại 200 tấn với thương cảng Sàigon và biển để nhận tiếp tế nguyên liệu và phân phối hàng hóa đi các nơi. Ngoài ra khi hòa bình vãn hồi, phi trường quân sự Biên Hòa với 2 phi đạo tối tân hạng A sẽ trở thành phi cảng quân sự giúp cho khu kỹ nghệ liên lạc nhanh chóng với quốc nội và quốc ngoại bằng đường hàng không. Như vậy về phương diện tiếp vận nguyên liệu và sản phẩm kỹ nghệ, khu kỹ nghệ Biên-Hòa đã tọa lạc tại một địa điểm thuận tiện về giao thông : - Nằm gần một thị trường tiêu thụ và công nhân rộng lớn : Sàigòn, Chợlớn, Giađịnh : Thị trường tiêu thụ này đông tới 3 triệu dân tức 1/5 dân số Việt-Nam mà đa số có mức sống cao, mãi lực mạnh nên sẽ tiêu thụ một phần lớn sản phẩm của khu kỹ nghệ. Hơn nữa, cộng thêm với số dân 200.000 ở Biên-Hòa trong đó có nhiều công nhân Bắc di cư, cần cù khéo léo, thì vùng đông dân Sàigòn-Chợlớn, Gia-định, Biên-Hòa sẽ cung cấp đầy đủ công nhân cần thiết cho khu kỹ nghệ. - Nằm dưới đường dây thủy điện Đa-Nhim : Sau khi hoàn tất, với công xuất 160.000 Kw, đập Đa-Nhim sẽ cung cấp đầy đủ với giá rẻ điện năng cho Sàigòn và khu kỹ nghệ Biên-Hòa. Nguồn điện năng rẻ tiền này sẽ là động lực thúc đẩy sự bành trướng nhiều ngành kỹ nghệ tân tiến như ngành hóa học, nhôm, v.v… Trong trường hợp đường điện Đa-Nhim bị gián đoạn, thì nhà máy nhiệt điện Thủ-Đức với công xuất 55.000 Kw sẽ giúp cho khu kỹ nghệ hoạt động liên tục. - Yếu tố địa chất và kỹ thuật : Khu kỹ nghệ tọa lạc trên vùng đất sét một phần bị đá ong hóa nằm trên lớp basalte rắn chắc (dưới 12m). Nhờ đó sự xây cất nền móng các cơ sở ít tốn kém lại không sợ lún sụp. Ngoài ra nhờ nằm gần Sàigon, trung tâm phổ biến khoa học kỹ thuật và huấn luyện các kỹ thuật gia, thợ chuyên môn nên khu kỹ nghệ có thể thụ hưởng dễ dàng các hạ tầng cơ sở kinh tế, xã-hội và kỹ thuật của thủ đô. - Giải quyết vài vấn đề khó khăn của Thủ Đô : Khu kỹ nghệ Biên-Hòa sẽ nhằm giải tỏa một số xí nghiệp kỹ nghệ nằm rải rác trong Sàigon-Chợ-lớn làm dơ bẩn khí trời, đường xá, có hại cho sức khỏe dân chúng, giải quyết một phần nạn kẹt xe tại Thủ-Đô vì công nhân di chuyển, nạn gia cư « ổ chuột » làm giảm năng suất công nhân và tạo thành vùng bất an của Thủ-Đô. b) Các tổ chức trong khu kỹ nghệ Khu kỹ nghệ Biên-Hòa gồm 4 khu vực : - Khu hành chánh trung ương rộng 5Ha nằm giữa khu kỹ nghệ với văn phòng của SONADEZI, chi nhánh các ngân hàng, bưu cục, trạm y tế, cứu hỏa, lớp huấn nghệ. - Khu giang cảng rộng 10 Ha nằm gần cầu sông Đồng-Nai để tiếp nhận các tàu, xà lan cập bến. - Khu cư xá rộng 65 Ha dành xây cất gia cư cho công nhân và chuyên viên. Hiện khu cư xá đã có 200 đơn vị gia cư và tổng số đơn vị gia cư dự định xây là 3.000 với đầy đủ tiện nghi cộng đồng. - Khu dành cho xí nghiệp được chia thành 82 lô, mỗi lô rộng từ 5.000 đến 100.000m2 tùy theo tầm quan trọng và dự án bành trướng trong tương lai của mỗi xí nghiệp. c) Hiện trạng khu kỹ nghệ Biên-Hòa Hiện có 34 nhà máy đang hoạt động, xử dụng lối 3.000 công nhân và 32 nhà máy đã hoặc đang thiết lập cơ xưởng. Tổng số vốn đầu tư đã lên tới 12 tỉ bạc VN trong đó chính phủ đã cho vay tới 75% để bồi hoàn trong 10 năm. Vốn đầu tư ngoại quốc chiếm 1/5 tổng số gồm các quốc gia Nhật (Công ty hỗn hợp Việt-Nhật ráp nông-cụ và máy diesel), Pháp, Hoa-Kỳ, Úc, Đài-Loan, Gia-Nã-Đại, Phi-Luật-Tân. Sonadezi phụ trách thiết lập và quản trị khu kỹ nghệ Biên-Hòa rộng 511 mẫu (289 mẫu dành cho việc xây cất các xí nghiệp). Tính đến cuối 1967 đã có 107 xí nghiệp gia nhập khu kỹ-nghệ, diện tích đất đã cấp phát là 176 mẫu chia cho 90 xí nghiệp. Tình trạng khu kỹ nghệ tính đến ngày 23-9- 1969 : - 24 xí-nghiệp đã hoạt động (mà một phần lớn được xây cất tại đây trước khi thiết lập khu kỹ nghệ Biên-Hòa). - 13 xí-nghiệp xây cất xong cơ xưởng nhưng chưa hoạt động. - 13 xí-nghiệp đang xây cất. - 7 xí-nghiệp chuẩn bị xây cất. - 19 xí-nghiệp bị thâu hồi đất hay đáo hạn xây cất. - 8 xí-nghiệp mới gia nhập. Nếu trừ các xí-nghiệp rút lui và 1 trong 2 nhà máy của Công Ty Đường Việt-Nam, thì khu kỹ nghệ có 101 xí-nghiệp được phân loại như ở trang sau. Theo Sonadezi, khu kỹ-nghệ Biên-Hòa có thể cung cấp đủ đất cho 200 xí nghiệp như hiện tại nhưng một phần đất còn là ruộng thấp phải chỉnh trang như đổ đất, làm đường xá rất tốn kém. Từ 1968, Sonadezi dự trù cấp đất cho các xí-nghiệp mới gia nhập mà chưa có đất đồng thời thâu-hồi lại đất đã cấp phát từ lâu mà chủ nhân chưa xây cất. Từ 1963 đến nay việc xây cất xí-nghiệp tư nhân tiến triển rất chậm chạp, chỉ riêng các công tác xây cất hạ tầng cơ sở của Sonadezi thì được xúc tiến đều vì ngân quỹ đã có sẵn. (Phụ lục 4) 3) KHU KỸ NGHỆ PHONG-DINH Được thiết lập năm 1967, rộng 151 mẫu, cách Cần Thơ 10 km, nằm dọc theo sông Hậu-giang. Khu kỹ nghệ Phong Dinh đang được Sonadezi lo việc đoạn mãi số đất trên của tư nhân và sửa soạn công tác chỉnh trang. Phí tổn dự trù là 500 triệu VN$. Còn các công tác khác sẽ được xúc tiến giống như khu Biên-Hòa. Trong tương lai, khu Phong-Dinh sẽ chứa đựng các kỹ nghệ liên quan đến nông nghiệp. 4) KHU KỸ NGHỆ AN-HÒA a) Sự thành lập Vào khoảng 1959, theo lời khuyến nghị của một số chuyên viên Liên-Hiệp-Quốc, chính phủ Việt-Nam đã xin được chính phủ Pháp gởi một phái đoàn chuyên viên (phái đoàn Mercier) sang nghiên cứu thị trường sản phẩm hóa học để lập nhà máy hóa học tại Việt-Nam. Qua tài liệu thống kê của quan thuế về số lượng tiêu thụ sản phẩm hóa-học, phái đoàn đã đề nghị lập nhà máy chế tạo phân bón có chất đạm (engrais azoté), đất đèn (carbure de calcium), soude. Muốn chế tạo các sản phẩm này, nhà máy cần nguyên liệu sau : than hay dầu cặn (fuel oil), đá vôi (calcaire) muối (sel). Vì vậy, chính phủ quyết định thành lập khu kỹ nghệ hóa học tại An-Hòa vì những lý do sau : - thuận tiện vì nguyên liệu tại chỗ : than và nước ; việc xử dụng than Nông-Sơn thay dầu cặn sẽ tiết kiệm được 2.2 triệu US$/năm. - Khu kỹ nghệ cần tiêu thụ khoảng 2.000m3 nước/giờ, sông Thu-Bồn có thể cung ứng số nước đó và trở thành thủy đạo thuận tiện cho thuyền bè chuyên chở. - Quảng-Nam là khu đông dân cung cấp dễ dàng một số nhân công rẻ và siêng năng làm việc. - Có thể sử dụng được vôi « Long-Thọ » từ Huế chở vào. b) Vấn đề kỹ nghệ hóa Nguyên liệu chính được xử dụng là than, nước, khí trời, v.v… Than Nông-Sơn được đốt để tạo ra năng lực cho khu kỹ nghệ và vùng lân cận rồi nhà máy áp dụng phương pháp phân trưng và phân tách những thành tố không khí (liquéfaction et séparation de l’air) để lấy chất đạm dưỡng khí. Sau đó, chất đạm và dưỡng khí được pha trộn gửi đến xưởng chế tạo ammoniaque. Dưỡng khí lấy trong không khí được trộn với diêm sinh lấy được từ than đốt ở nhà máy nhiệt điện cùng với diêm sinh nhập cảng để chế tạo ra acide sulfurique. Urée được làm từ ammoniaque và thán khí (CO2). Vì cách thức chế tạo trên mà khu An-Hòa có 7 nhà máy chính : nhà máy nhiệt điện, nhà máy cao thế và những trạm biến thế, nhà máy khí hóa (atelier de gazéfication et de purification), nhà máy chế tạo urée ammoniaque, acide sulfurique và nhà máy phân trưng không khí. Ngoài ra còn có những nhà máy phụ như trữ nước, sữa chữa, phòng thí nghiệm… c) Vấn đề đầu tư thực hiện Ban đầu, dự án xây cất khu An-Hòa trong một qui mô nhỏ với nhà máy nhiệt điện 16.000kw, chế tạo khoảng 30.000 tấn urée và 8.000 tấn carbure. Nhưng sau, vì nhu cầu phân bón trong nước và sự cần thiết gia tăng mức lời, nên cơ quan quản trị quyết định đại qui mô hóa khu An-Hòa với một nhà máy nhiệt điện 25.000 kw và chế tạo được 100.000 tấn phân bón mỗi năm. Sau đây là nguồn gốc và sự phân phối về tiền tệ đầu tư : Nguồn gốc vốn đầu tư : Ngân sách quốc gia : 989 triệu $VN Tiền vay bằng ngoại tệ : 70 triệu francs của Pháp (840 triệu $VN), 50 triệu marks của Đức (750 triệu $VN), 3.6 triệu $ US của chính phủ Việt-Nam (216 triệu $VN). Tổng cộng : 2.795 triệu $VN Xử dụng vốn đầu tư (triệu $VN) : - Bằng ngoại tệ : nghiên cứu và cung cấp dụng cụ (1690 triệu $VN), chuyên chở Âu-Châu qua Việt-Nam (55 triệu $VN), nhân viên Âu-Châu ráp máy (61 triệu $VN). Tổng cộng : 1.806 (triệu $VN). - Bằng bạc Việt-Nam : = công tác hạ tầng cơ sở và xã hội (200 triệu $VN), xây cất và ráp nhà máy (419 triệu $VN). Tổng cộng : 619 triệu $VN = đầu tư tổng cộng (2425 triệu $VN), trả tiền lời (126 triệu $VN), vốn luân chuyển (100 triệu $VN), dự trù linh tinh (144 triệu $VN). Tổng cộng : 2.795 triệu $VN. Số sản xuất dự trù hàng năm : 42.000 tấn urée, 48.000 tấn sulfate (phân diêm), 48.000Kw, tiết kiệm được hàng năm 7 triệu $ US. d) Các giai đoạn thực hiện Theo dự án, đây là khu kỹ nghệ đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, được thiết lập qua 3 giai đoạn xây cất các xưởng sau : - Giai đoạn 1 : 1 trung tâm điện lực 25.000 Kw, 1 xưởng chế tạo phân bón 42.000 tấn/năm phân urée và 48.000 tấn/năm phân sulfate. 1 xưởng làm carbure calcium 8.000 tấn/năm. - Giai đoạn 2 : 1 xưởng làm bột giấy, 1 xưởng chế chất CO2rắn, 1 xưởng làm phân cyanamid calcique, 1 xưởng chế tạo soude và chlore, 1 xưởng chế tạo nhựa dẻo loại formica, 1 xưởng xi-măng, 1 xưởng thủy tinh, 1 xưởng chế tạo nhựa dẻo loại PVC. - Giai đoạn 3 : các xưởng nấu quặng và luyện kim. Nhận xét : Sau khi dự án khu kỹ nghệ An-Hòa Nông-Sơn được hoàn tất thì đây là vùng kỹ nghệ đầu tư lớn nhất Việt Nam. Khu kỹ-nghệ này sẽ mở mang Trung Phần, nâng cao mức sống dân nghèo, thu hút số nhân công quá đông ở Trung Phần, và sau cùng là làm cho bản đồ kinh tế quốc gia được cân đối tức cán cân phát triển kinh tế không bị chênh lệch giữa Trung Phần và Nam Phần. Ngoài ra khu kỹ nghệ An-Hòa còn hưởng được nhiều điều kiện thuận tiện sau : Quảng-Nam là cửa ngõ thiên nhiên của Ai-Lao và trung tâm của các đồng bằng duyên hải Trung Phần. Vị trí đó sẽ giúp cho sự tiêu thụ phân bón và năng suất ruộng sẽ gia tăng nhiều. Trung Phần còn có nhiều hầm mỏ khác như đá vôi, graphite, vàng, bạc, sắt, than đá… khu kỹ nghệ An-Hòa sẽ là động cơ thúc đẩy sự phát triển các ngành kỹ nghệ lân-cận. (Phụ lục 5, 6) CHƯƠNG II : ĐIỆN-LỰC VÀ HẦM-MỎ Tiết 1 : Nhiệt điện Điện là một năng lực có tính cách đa dụng và có hiệu năng cao nhất trong các thứ năng lực. Đối với hiện tình Việt Nam hiện nay thì điện năng là nhu cầu tối cần thiết trong đời sống dân chúng nhất là ở thành thị và đồng thời là nguồn sinh lực của nền kỹ nghệ quốc gia. Do đó, điện năng phải được phát triển tối đa để bảo đảm việc cung cấp điều hòa liên tục cho dân chúng và các ngành kỹ nghệ. 1) QUÁ TRÌNH Dưới thời Pháp thuộc, sự khai thác điện năng tại các đô thị và tỉnh lỵ được các công ty Pháp đảm trách dưới hình thức đặc nhượng công vụ (vì dịch vụ công cộng) ; giá cước được ấn định song phương bảo đảm việc quân bình tài chánh cho công ty để có thể phục vụ hữu hiệu và liên tục cho ích lợi chung. Sau Thế Chiến II, vì tình hình an ninh đen tối, các công ty Pháp có khuynh hướng giải đầu tư tại Việt-Nam để tái đầu tư ở các thuộc địa khác. Đường lối này được chính quyền Pháp hỗ trợ bằng hai biện pháp : - Công ty thu nhượng được thâu thêm trong giá điện một khoản gọi là canh tân, mặc dầu đã được chiết cựu kỹ nghệ trong giá vốn. - Cơ quan Trùng Tu Điện-Lực (ORDEE) được thiết lập năm 1948 đánh thuế phụ thu 0.2$/Kwg trên số điện tiêu thụ để tài trợ các công ty tái thiết các cơ sở bị chiến tranh tàn phá (mỗi năm CEE chuyển 100 triệu đồng tiền lời về Pháp theo báo Aux Écoutes des Finances). Trên thực tế, trong suốt mười năm (1948-1959) CEE (Compagnie des Eaux et Electricités) không hề đầu tư để gia tăng công xuất, trái lại sự gia tăng là nhờ viện trợ Hoa-Kỳ với 4 bộ Nordberg ở Tân-Sơn-Nhất. CEE chờ đợi quĩ Trùng Tu đưa tiền mới gia tăng công suất còn khoản « canh tân » được coi như số thâu hoạch của Công Ty. Năm 1953 cơ quan Trùng Tu Điện Lực đổi tên là ONDEE (Organisation nationale pour développement des Eaux et Electricités) nhằm giúp đỡ các công quản địa phương và đứng ra thành lập các ty điện lực đảm nhiệm vụ khai thác tại những nơi công ty Pháp trả lại đặc quyền khai thác và công quản bị lỗ lã, thí dụ như nhà máy ANKROET (1958), Qui Nhơn, Ban-Mê-Thuột (1959) Quảng-Ngãi, Tuy-Hòa (1960), Vĩnh-Long (1961), Mỹ-Tho (1962), v.v… Song song với việc xây dựng đập Đa-Nhim, cơ quan Trùng Tu Điện Lực vay 12 triệu $US của DLF (Development Loan Fund) để thiết lập nhà máy nhiệt điện Thủ-Đức có công xuất 33.000 Kw (trong thời gian đó, cúp điện liên miên ở Saigon Cholon vì Đa-Nhim bị phá hoại). 2) ĐIỆN LỰC VIỆT-NAM Điện lực Việt-Nam được thành lập năm 1964, là một cơ quan tự trị có tư cách pháp nhân, hoạt động để đạt các mục tiêu sau : - Mục tiêu công ích chứ không vụ lợi. - Thống nhất công cuộc khai thác điện năng trên toàn quốc bằng cách sát nhập cơ quan Trùng Tu Điện Lực vào chương trình Đa-Nhim, Thủ-Đức, thay thế các nhà đèn công quản và chuẩn bị thu hồi các công ty đặc nhượng Pháp khi khế ước mãn hạn (31-12-1967). - tận dụng quĩ Trùng Tu, khai thác tài nguyên thiên nhiên và viện trợ ngoại quốc để điều hòa, phát triển công cuộc điện hóa toàn quốc. Đến cuối năm 1967, Điện Lực Việt-Nam đã đạt được những thành tích sau : hoàn tất nhà máy nhiệt điện Thủ-Đức (3 nhà máy diesel, và gaz turbine) nên có tổng số công xuất là 73.800.000kw (1968) bán lại cho CEE, thiết lập được 14 ty điện lực tại các tỉnh và tái cung cấp điện cho Bình-Dương ; điện hóa được trên 100 quận xã ; hỗ trợ ba thí điểm hợp tác xã điện nông thôn tại Tuyên-Đức, Đức-Tu, An-Giang ; thâu hồi các nhà máy đặc nhượng CEE Đàlạt, SCEE và UNEDI của miền Tây và Đông Nam Phần : khách hàng từ 14.654 lên 36.022, điện tiêu thụ bán từ 33.321.000 kwg lên 54.934.000. Kwg. Trái lại việc quản trị xí nghiệp bị sa sút trầm trọng vì tình hình chính trị, thay đổi Tổng Giám Đốc gây tranh chấp nội bộ, thủ tục hành chánh, tài chánh quá nặng nề, CEE làm áp lực mua rẻ lại điện (CEE mua 0.83 $/Kwg của nhà máy Ankroet để bán lại 3.5 $/Kwg cho dân Đà-Lạt. Ở Saigon CEE mua 1.8 $/Kwg của Điện Lực Việt-Nam để bán lại 4.5 $/Kwg) và mua thiếu (CEE thiếu Điện Lực Việt-Nam 777 triệu $ tính đến khi thâu hồi đặc nhượng). (Phụ lục 7, 8, 9) 3) SAIGON ĐIỆN LỰC CÔNG TY Năm 1967, dựa theo khuyến cáo của nhóm chuyên viên Hoa-Kỳ (Management Advisery Team) Saigon Điện Lực Công Ty được thành lập do sắc lệnh số 103/SL/CC ngày 30-6-1967 dưới hình thức công ty nặc danh với số vốn 100 triệu đồng Việt-Nam. Đa số cổ phần đều do các công, tư chức đứng tên với danh nghĩa cá nhân ; Saigon Điện Lực đã mua lại tất cả tài sản của CEE trị giá 974 triệu $VN và cho phép CEE chuyển ngân một nửa số tiền trên theo hối xuất chính thức (đồng thời thông qua số nợ của Điện Lực Việt-Nam là 777 triệu $VN), đương nhiên thâu nhận các cơ sở của Điện Lực Việt Nam tại Thủ-Đức và vùng kế cận Đô-Thành để tránh việc mua bán điện với Điện Lực Việt-Nam. Sàigòn Điện Lực cũng tiếp nhận 32 triệu $US của viện trợ Hoa-Kỳ để mở mang, khai thác điện lực tại Đô Thành. Theo khuyến cáo của các chuyên viên Mỹ thì sau này, Sàigòn Điện lực sẽ thâu nhập nốt phần còn lại của Điện Lực Việt-Nam ở địa phương để thành lập Việt-Nam Điện Lực Công Ty rập theo Sàigòn Điện Lực tức CEE. Tới đây thì mục tiêu công ích đã chuyển qua mục tiêu trục lợi, do đó Sàigòn Điện Lực bị các hội chuyên viên điện lực (Hội Điện Học, hội Kỹ Sư, Nghiệp Đoàn Chuyên Viên Điện Lực…) Thượng Viện chỉ trích và khuyến cáo Hành Pháp thống nhất ngành điện lực Việt-Nam để nằm trong chiều hướng phục vụ công ích, phát triển điện hóa nông thôn. Do đó, chính phủ ban hành sắc lệnh số 175/SL/CC-GTVT ngày 24-12-1968 cho phép Điện Lực Việt-Nam hùn góp các tài sản quốc-gia hiện đặt dưới quyền quản-trị của Điện-Lực Việt-Nam vào Sàigòn Điện-Lực Công-Ty. Ngày 21-1-69, các cổ động của Sàigòn Điện – Lực nhóm Đại Hội bất thường biểu quyết tăng số vốn Công Ty đến 5 tỉ bạc VN bằng phát hành thêm cổ phần mới. Hiện nay, diện tích khai thác điện năng của Sàigòn Điện Lực bao gồm 11 quận Đô Thành, tỉnh Gia-Định (trừ quận Quảng-Xuyên, Cần-Giờ) tỉnh lỵ Biên-Hòa, quận Lái-Thiêu tỉnh Bình-Dương. Tổng cộng Sàigòn Điện Lực phục vụ khoảng 3 triệu dân Đô Thành và vùng phụ cận, xử dụng 1.500 nhân viên mà phần lớn từ CEE chuyển qua kể từ ngày tiếp thâu, sản xuất được 325.733.450 Kwg năm 1968, và mua lại 261.866.884 Kwg của Điện Lực Việt-Nam để phân phối cho các nhà thuê bao điện năng. Chương trình hoạt động tân công tác 3 năm (1969-70- 71) của Sàigòn Điện Lực gồm hai phần : phần sản xuất và phần phân phối. Ngân quĩ tài trợ chương trình trên được cung cấp bởi 32 triệu $US của Viện Trợ Hoa-Kỳ và bởi Quĩ canh tân tăng cường được trích trên giá điện tiêu thụ. Về phần sản xuất với viện trợ Hoa-Kỳ, Sài-gòn Điện Lực sẽ thiết lập trong 3 năm 1969-70-71 một nhà máy điện ở Thủ-Đức có công xuất 132.000 Kw. Quĩ canh tân tăng cường sẽ dùng để canh tân nhà máy Chợ-Quán bằng trang bị hai lò hơi cao áp 40kg/cm2 công suất 40 tấn/giờ, một máy phát điện « contre pression » (sử dụng hơi nước cao áp HP và hạ áp BP để dùng cho máy khác). Còn về phần phân phối, các ngân khoản trên dùng để thiết lập các trạm biến điện (6’/15 Kv), đặt đường cáp vận chuyển, cáp phân phối, đường dây không trung, đường dây hạ thế, trang bị phòng biến điện. 4) VẤN ĐỀ THỐNG NHẤT SỰ KHAI THÁC ĐIỆN NĂNG Trong công cuộc khai thác điện năng tại Việt-Nam hiện nay, Điện Lực Việt-Nam và Saigon Điện Lực tượng trưng cho hai khuynh hướng khai thác công ích và trục lợi. Trước công cuộc phát triển toàn diện quốc gia trong đó sự điện hóa nông thôn nặng tính cách phục vụ nông thôn, hơn là kiếm lời và trước nhu cầu phải điều hòa và phục vụ liên lục đồng bào nên Chính Phủ đang cố gắng thống nhất ngành điện Việt-Nam tức sát nhập Điện Lực Việt-Nam và Sàigòn Điện Lực. Công việc thống nhất không gặp khó khăn đối với một số công quản hoặc đặc nhượng tư nhân nhỏ như ở Rạch-Giá, Long An… và công ty SIPEA mà khế ước khai thác đến năm 1975 mới hết hạn. Trái lại, Chính Phủ đang gặp khó khăn trong việc thống nhất Saigon Điện Lực và Điện Lực Việt-Nam vì nhiều lý do sau : - Về khía cạnh pháp lý, Saigon Điện Lực là một công ty nặc danh do tư nhân nắm giữ cổ phần mặc dầu tất cả tài sản đều thuộc quyền sở hữu của quốc gia, nay Điện Lực Việt-Nam góp vốn với Saigon Điện Lực tức là một pháp nhân hùn vốn với một số tư nhân nắm giữ tài sản quốc gia, gây nên một sự kiện pháp lý khó chấp thuận (giải pháp là giải tán Saigon Điện Lực, hoàn lại cơ sở cho chính phủ : nhưng Saigon Điện Lực được thành lập bởi sắc lệnh, quốc hữu hóa Saigon Điện Lực sẽ làm tư nhân ngoại quốc sợ). - Về khía cạnh quản trị, điều hành : Sàigòn Điện Lực muốn duy trì lề lối làm việc của CEE nặng tính cách tự trị và trục lợi. Nguyên tắc chính là tự hoạt động và tự kiểm soát có nghĩa là vấn đề thâu chi thuộc quyền kiểm soát nội bộ, việc cấp phát điện kế, gia tăng điện năng, canh tân máy móc tùy thuộc vào đường lối thương mại của công ty. Trái lại, nếu theo qui chế của cơ quan tự trị Điện Lực Việt-Nam thì chính phủ và Quốc Hội kiểm soát chi thâu, nhân viên tham nhũng sẽ chịu tội đại hình chứ không chịu biện pháp kỷ luật nội bộ (cảnh cáo, sa thải). 5) TỔNG CỘNG CÔNG XUẤT THIẾT TRÍ TẠI VIỆT-NAM Năm 1969 số công xuất thiết trí tại Việt-Nam là 528.679 Kw và số sản xuất 1.045.886 Kwg. Riêng công xuất thiết trí tại địa phương mới có 217.664 Kw do các công ty đặc nhượng tư nhân, Điện Lực Việt-Nam khai thác. Con số công xuất đó quá nhỏ so với số dân khổng lồ của địa phương (12 triệu dân). Hơn nữa các máy phát điện cũng như hệ thống nhân phối điện quá cũ nên hiệu xuất thấp. Vì vậy tại nhiều địa phương, nhu cầu điện năng không được đáp ứng đầy đủ, thí dụ như tại Vũng-Tàu có 5.896 nóc gia chưa được điện hóa so với tổng số 9.107 nóc gia của thị xã. Nhận xét : Hiện nay hầu hết số điện lực tiêu thụ được các nhà máy nhiệt điện cung cấp. Nhiên liệu than đá, dầu cặn chạy nhà máy đều được nhập cảng vì vậy giá sản xuất cao nên các ngành kỹ nghệ xử dụng điện năng rất khó phát triển. Ngoài ra, Điện Lực Việt-Nam đang gặp những khó khăn sau : - Về kỹ thuật, Điện Lực Việt-Nam còn thiếu nhiều chuyên viên và máy móc. Để giải quyết Điện Lực Việt-Nam đã phải nhờ Trường Phú-Thọ và Hội Điện Học mở nhiều khóa huấn luyện kỹ thuật gia để đóng góp vào chương-trình phát triển điện hóa nông thôn. - Về tài chánh, Điện Lực Việt-Nam hàng năm thất thu 1 số tiền quan trọng vì chính quyền không chịu trả nợ. - Nhân sự : chưa có một đường lối điều hành nhân viên, ấn định lương bổng rõ rệt để gia tăng năng xuất làm việc. - Thương vụ : nạn câu điện và ăn cắp điện đã làm tiêu hao 20% số điện sản xuất. Ngoài ra Điện Lực Việt-Nam chưa quân bình được giá cả theo mức trung bình giữa các địa phương. - Khai thác, các nhà máy nhiệt điện địa phương rất cũ, thiếu phụ tùng tu bổ, thủ tục tiếp liệu lại quá rườm rà, chậm chạp nên công xuất đã giảm sút nhiều. (Phụ lục 10, 11, 12, 13) Tóm lại vấn đề hiện tại của ngành sản xuất điện lực là : - Thống nhất sự khai thác điện năng. - Đào tạo thêm chuyên viên và canh tân các nhà máy cũ. - Khai thác ngành thủy điện. Tiết 2 : Thủy Điện-Đập Đa-Nhim Chảy từ vùng Đơn-Dương, thung-lũng sông Đa Nhim được mở rộng ra giữa hai dãy núi cao hoa cương hướng Đông Bắc-Tây Nam. Dọc theo chân núi và đổ xuống đồng bằng Phan-Rang là địa thế hình nấc thang (relief en gradin) với nhiều « phay ». Chính nhờ địa thế này, vị trí thung-lũng treo (trên 1000m) của sông Đa-Nhim đối với miền đồng bằng Trung Phần mà sự thực hiện đập thủy điện Đa-Nhim rất thuận lợi bằng cách lấy nước sông Đa-Nhim đưa về Krong Pha làm động lực cho máy phát điện. 1) DỰ ÁN Tuy vị trí của sông Đa-Nhim tại Đơn-Dương đã được đề cập đến từ 30 năm nay nhưng phải cho đến sau khi được độc lập 1954, chính phủ Việt-Nam mới dựa vào hai dự án của hãng SOGREATH (Pháp) và hãng NIPPON KOEI (Nhật) để thiết lập dự án xây cất đập thủy điện Đa-Nhim. Thỏa ước ngày 13.5.1959 ký tại Sàigon giữa hai chính phủ Việt Nhật ấn định thể thức bồi thường chiến tranh và cho vay (7.5 triệu $US) nhất là để thực hiện đập thủy điện bởi các chuyên viên Nhật với sự cộng tác của chuyên viên Việt-Nam. Đập được khởi công xây cất từ ngày 1.4.61 với 3.000 nhân công (300 chuyên viên Nhật) và chia làm hai đợt : đợt thứ nhất đập được đắp cao 25m qua đợt nhì cao thêm 30m. Khi hoàn tất xong hai đợt thì đập sẽ cho một công xuất 160.000Kw. Đến tháng 9/1964 đập đã được hoàn tất tới 90% (sớm hơn dự định gấp đôi). Sang đến đợt ba thì dự trù lập khu Đa-Nhim gồm sông Đa-Nhim, Đa Dung, thác Prenn, Gougah. 2) CÁC THÀNH PHẦN CỦA ĐẬP Kích thước của đập : dài 1.460m, cao 38m, bề ngang đáy đập 180m, bề ngang mặt đập 6m, khối đất để đắp đập : 3.600.000m3. Đập nằm chắn ngang thung lũng Đa-Nhim tạo thành « Hồ chứa nước » nhân tạo rộng 10km2 và chứa được 169.000.000m3 nước giúp cho máy phát điện hoạt động liên tục quanh năm. Lưu lượng sông Đa-Nhim : từ 5m3/giây tăng lên 2.500m3/giây vào mùa mưa. Đập đất gồm hai phần : phần chính bằng đất đồng chất, trồng cỏ tránh xâm thực và đập tràn bằng béton (nhỏ và thấp hơn đập đất 16,30m) dài 51,5m có 4 cửa sắt để bảo đảm lưu lượng tràn (capacité de décharge) đến 6.468m3/giây vào mùa mưa. Đường hầm thủy áp (tunnel de pression) đào xuyên qua lòng núi dưới đèo Ngoạn-Mục, dài 4.878m, đường kính 3,40m dẫn nước từ hồ nhân tạo Đơn-Dương đến đỉnh núi chế ngự đồng bằng Phan-Rang. Từ núi này nước được dẫn xuống nhà máy phát điện nằm dưới chân núi bằng 2 ống thép thủy áp (2 conduites forcées) dài 2.340m, đường kính 2m và nhỏ dần lại 1m trước khi vào nhà máy phát điện. Mỗi ống theo một lưu lượng tối đa là 13,2m3/giây. Nhờ cao độ cách biệt khoảng 900m trên một khoảng cách ngắn độ 7.5km giữa hồ nhân tạo Đơn-Dương và nhà máy phát điện Krong-Pha, nên sức ép của nước lên tới 80 kg/cm2. Nhà máy phát điện gồm có : 4 máy turbines, 4 máy phát điện, 4 máy biến điện, v.v… Máy phát điện sản xuất điện hạ thế 13.2 kv được biến thành điện cao thế 230 kv rồi chuyển về nhà máy biến điện Thủ-Đức bằng 3 đường dây cao thế trên đoạn đường 252 km từ Krong-Pha đến Thủ-Đức. 3) VỐN ĐẦU TƯ Tất cả các phí tổn công tác xây cất đều do khoản tiền sau đài thọ : 3 tỷ rưỡi của Nhật bồi thường chiến tranh và 1 tỷ rưỡi vay của Nhật. Tiết 3 : Mỏ và tinh khoáng kỹ nghệ Trên lãnh thổ Việt-Nam, phần lớn các hầm mỏ quan trọng đều tập trung ở Bắc-Việt. Đã từ lâu các mỏ chì, kẽm, thiếc, đều đã được thợ mỏ Trung-Hoa khai thác. Họ chú ý nhiều đến mỏ galène (sulfure de plomb) thường chứa chất bạc để pha với kẽm và chất blende (sulfure de zinc) để lấy kẽm đúc tiền. Thường quặng mỏ khai thác được đều đem nấu tại chỗ hay chở đến vùng có than gần đó. Hiện nay vẫn còn những vết tích các tiểu cơ xưởng nấu quặng mỏ xưa kia của người Trung-Hoa ở gần Thái-Nguyên và hải cảng Tràng-Bạch trong vùng Đông-Triều. Đến thời Pháp thuộc các hầm mỏ được khai thác một cách qui mô và khoa học dưới sự hướng dẫn của « Service de mines » thiết lập năm 1902. Ban đầu, tất cả quặng mỏ khai thác được đều đem xuất cảng sang Âu-Châu nhưng sau 1920 vì phí tổn chuyên chở quá cao nên một số quặng như kẽm, thiếc được nấu ngay tại Bắc-Kỳ rồi mới xuất cảng. Trong thời Pháp thuộc, người Pháp không mấy chú trọng đến sự tìm kiếm và khai thác quặng mỏ ở Trung-Kỳ và Nam-Kỳ. Tuy nhiên hiện nay, sự cấu tạo địa chất của VNCH cho phép hy vọng rằng nếu miền Nam không đặc biệt giàu về khoáng sản thì chúng ta cũng có một số tài nguyên cần thiết cho sự phát triển kỹ nghệ tương lai. Nha Tài Nguyên Khoáng Sản đã ghi nhận được khoảng 100 dấu hiệu khoáng sản trong đó có lối 30 dấu hiệu về quặng sắt, của molybdenite, mỏ dầu lửa trên thềm lục địa Cửu-Long, v.v… Trong những năm vừa qua, Nha Tài Nguyên Thiên Nhiên đã chú trọng nhiều tới các khoáng sản cần thiết cho các kỹ nghệ cần khuếch trương trong giai đoạn đầu của công cuộc phát triển như kỹ nghệ xi măng, thủy tinh, phân bón, đồ gồm, hóa học… 1) MỎ a) Nhiên liệu đặc Than đá Nông-Sơn : Trước kia là người Trung-Hoa sau đến tư nhân Pháp đã khai thác mỏ than Nông-Sơn từ 1881. Mỏ nằm cách Đà-Nẵng 30 cây số phía Tây Nam, ngang với cửa Hội-An, cách xa bờ biển 50 cây số và khu kỹ nghệ An Hòa 12 cây số, trên sườn núi đổ xuống sông Thu-Bồn. Sau khi đào hết mạch than lộ thiên dài độ 1 cây số dày 6 đến 20m, người Pháp tạm ngừng khai thác vì phải đào hầm tốn kém, lưu lượng sông Thu-Bồn bất thường, thị trường than đá thế giới ứ đọng, chuyên chở nhân công khó khăn, hơn nữa than Nông-Sơn kém than Đông-Triều cả lượng lẫn phẩm. Than Nông-Sơn thuộc loại anthracite bị dồn ép nhiều nên lượng khí bốc hơi tiêu mất khiến than lâu cháy nhưng cháy lâu. Sở dĩ than Nông-Sơn là than gầy vì lượng khí bay hơi có từ 5 đến 10%, lượng tro từ 10 đến 16.5%, riêng lượng lưu huỳnh rất cao (2 đến 4%) làm than khó ngửi nên chỉ thích nghi với việc xử dụng trong kỹ nghệ. Gần đây với những công tác đào xới để khảo cứu nhằm khai thác lại người ta mới biết rõ về mỏ than hơn. Mỏ nằm trên một nền đá bị xáo trộn và gẫy sụp nhiều nơi khiến cho chỗ thì than nằm thành nhiều lớp, có chỗ lớp than lại nhập với nhau làm cho sự khai thác gặp nhiều khó khăn. Sự xếp nếp tại đây cũng làm cho mạch than trồi lên sụp xuống, chỗ than trồi lên tức mạch lộ thiên giúp cho sự khai quật dễ dàng còn mạch nằm dưới mặt đất thì phải đào hầm tốn kém mới khai thác được. Từ 1956 chính phủ VNCH đặc biệt chú trọng đến mỏ than Nông-Sơn là nơi duy nhất có thể sản xuất than đá. Mỏ Nông Sơn có diện tích 1 cây số vuông và một số lượng dự trữ lý thuyết là 8.100.000 tấn trong vùng đã được khảo cứu ; nhưng thực sự Nông-Sơn chỉ là một phần nhỏ của một than trường rộng lớn. Nếu tình trạng an ninh cho phép các công tác khoan và đào sâu gia tăng thì chu vi hoạt động của mỏ sẽ được mở rộng và con số dự trữ ước lượng sẽ lớn hơn với mạch than có phẩm chất tốt hơn. Thành lập và khai thác : Mỏ thuộc quyền đặc nhượng của Ngân Hàng Đông Dương được chính phủ mua lập thành Công Quản Quốc Gia vào ngày 6-5-1959 nhằm mục đích cung cấp than cho nhà máy nhiệt điện Thủ-Đức và nhà máy xi măng Hà-Tiên. Và từ năm 1959 số sản xuất gia tăng đều như sau : - Năm 1959 sản xuất 19.929 tấn - 1960 : 27.310 tấn - 1961 : 57.351 tấn - 1962 : 71.000 tấn - 1963 : 104.090 tấn - 1964 : 76.959 tấn - 1965 (không khai thác vì mỏ bị nạn lụt làm hư hại). Cuối năm 1961 chính phủ quyết định không dùng than Nông-Sơn cho nhà máy phát điện Thủ-Đức và nhà máy xi- măng Hà-Tiên ở Thủ-Đức nữa, cho nên số sản xuất của 1963 bị hạn chế ở 100.000 tấn để tránh ứ đọng than gây tốn kém cho quỹ công quản. Sở dĩ than Nông-Sơn không được dùng ở Thủ-Đức vì những lý do sau : - Bãi bỏ dự định làm một lò chaudière xử dụng được cả hai nguyên liệu than Nông-Sơn và dầu cặn cho nhà máy nhiệt điện Thủ-Đức và làm một lò chỉ xử-dụng dầu cặn để tiết kiệm được khoảng 2 triệu Mỹ kim nếu không làm lò xử dụng hai nguyên liệu. - Đến cuối năm 1962, nhà máy xi-măng Hà-Tiên quyết định dùng dầu cặn (fuel oil) thay than Nông-Sơn vì lý do chuyên chở dầu cặn đỡ tốn kém và nhà máy có lời hơn. - Ban quản trị mỏ than Nông-Sơn cũng công nhận về khía cạnh thương mại sự chuyên chở than tới Saigon rất tốn kém không cạnh tranh với dầu cặn được. Vậy than Nông-Sơn nếu được dùng tại chỗ sẽ có lợi hơn. Vì lý do này mà chính phủ quyết định lập khu kỹ nghệ « Electro Carbochimique » An Hòa Nông-Sơn vào năm 1962 để xử dụng tại chỗ than Nông Sơn. Theo dự án đại quy mô này thì số sản xuất than phải tăng lên 350.000 tấn một năm để đủ cung cấp cho nhà máy nhiệt điện (25.000kw) và các nhà máy hóa học sản xuất 48.000 tấn sulfate d’ammonium và 42.000 tấn urée mỗi năm, v.v… Sự thực hiện chương trình : vốn đầu tư từ ngày lập công quản đến 1963, tổng số tiền chính phủ cho luôn hay cho vay cộng với trợ cấp kỹ thuật của Pháp và Huê-Kỳ đã lên tới 235.455.063 bạc Việt-Nam gồm các khoản sau : Cho tới cuối năm 1963, kết quả về sự quản lý như sau : Than bùn : Than bùn được tích tụ nhiều nhất ở Cà-Mau, phía Tây châu thổ Cửu-Long ; nhưng vì việc sản xuất than đước, than củi còn dễ dàng và dồi dào nên than bùn Cà Mau chưa được khai thác qui mô mặc dầu than bùn cung cấp một nguồn nhiệt rất rẻ tiền sau rơm, rạ… Phần lớn số than bùn đã khai quật chỉ được các nhà tiểu công nghệ dùng để nung lò gạch ngói, lò gốm. Vùng than bùn ở U-Minh rộng tới 60.000 Ha thuộc 2 tỉnh Kiên-Giang, An-Xuyên. Than bùn còn trong đất chứa đến 70% nước, nếu phơi khô, than bùn ở U-Minh gồm : độ ẩm 11,9, chất bay hơi 42,5 thán khí 41,8, lưu huỳnh 0,21, tro 3,5, nhiệt năng 4.978 calories. Than bùn là những khối đen dưới lớp đất sình lầy chừng 1 đến 2 thước do những loại thảo mộc nhỏ như lau sậy, tràm, đước… tạo nên pha lẫn với bùn cát. Than bùn được khai thác từ dưới những lớp đất lên đem phơi vào mùa nắng. Than mềm, dẻo hay bở tùy theo tỷ lệ đất sét chứa trong than. Sau 2 hay 3 ngày phơi khô ánh nắng làm nước trong than bốc hơi, than trở nên xốp nhẹ và mới xử dụng để đốt được. Trong tương lai than bùn có thể xử dụng để sản xuất ammoniaque và phân đạm, nhưng nếu khai quật hết số than bùn này thì lại một vấn đề canh tác nông nghiệp được đặt ra là chất phèn hoặc muối tích trữ ở dưới lớp than từ lâu nay sẽ nổi lên mặt đất. b) Quí kim : vàng Hai vùng ở VNCH có vàng là Bồng-Miêu (Quảng-Ngãi) và miền núi Bạch-Mã (Thừa-Thiên), nhưng từ sau thế chiến I vàng mất giá, phí tổn khai thác lại cao và hiện nay vì lý do an ninh nên việc tìm kiếm khai thác phải đình hoãn. Xưa kia mạch vàng ở Bồng-Miêu Quảng-Ngãi đã được khai thác gồm có galène (PbS) và pyrite (FeS2) nằm lẫn với vàng. Tất cả mạch vàng đều nằm trong các mạch thạch anh. Trong mạch vàng giầu, mỗi thước khối đá có thể chứa tới 100mgr vàng. Còn vàng của miền núi Bạch-Mã (Thừa-Thiên) thì nằm lẫn trong cát của suối vàng. Theo Bộ Kinh Tế việc khai thác vàng ở đây rất dễ dàng nên khuyến khích tư nhân đầu tư vì theo phỏng định mỗi thước khối cát có thể chứa từ 2 đến 5 mgr vàng. Ngoài 2 mỏ vàng trên, một số nông dân ở Long-Xuyên còn tìm được ở Định Mỹ cách núi Sập 3 cây số về phía Tây Bắc ở sâu dưới đất 10 đến 25cm trong những lớp đất cát xám và một số vàng khác ở vị trí Óc Eo gần núi Ba-Thê. Họ đào được những mảnh vàng vụn hoặc những đồ vật nhỏ bằng vàng, có lẽ là di tích của thành phố Phù-Nam xưa kia. Gần đây trong cuộc hướng dẫn sinh viên Văn khoa đi khảo sát vùng Óc-Eo, chúng tôi có đi qua một vùng đào vàng trước kia nay chỉ là một vùng rừng lớn vì số vàng tìm được không tương xứng với công lao tìm bới hoặc nếu tìm được đồ vật bằng vàng lại hay bị một vài viên chức địa phương tước đoạt với giá rẻ ( !) vì vậy không còn ai đi tìm vàng tại đây nữa ( !) c) Kim khí kỹ-nghệ Sắt : Rất nhiều dấu hiệu của quặng sắt đã được tìm thấy trên lãnh thổ VNCH. Trên cao nguyên Vo Ong Diên ở đảo Phú-Quốc, Pelilon tìm thấy sắt kết tinh màu đen trong đá ong và ở các đảo Hải-Tặc, ông Mansuy ghi nhận quặng sắt trong các khối thạch anh. Trên quần đảo Balua, một số quặng sắt khá lớn ở những đảo Hòn Heo, Hòn Con Dé, Hòn Doi Trung, nằm giữa đá thạch anh và rhyo-lite, dày tới 10m và chứa khoảng 55% sắt. Ông E. Aubert ước lượng số dự trữ quặng sắt tới 400.000 tấn, nhưng theo ông C. Bassa thì tới 20 triệu tấn. Trong những lớp đá biến tính ở Thừa-Thiên, Quảng-Nam, Quảng-Ngãi, người ta tìm thấy quặng sắt dưới dạng thể hồng thiết khoáng (hematite) và bạch thiết khoáng (oligiste). Trong vùng Hòa-An có cả quặng từ thiết khoáng (magnétite). Ngoài ra đá ong (latérite) nhất là ở miền Đông Nam phần từ Biên-Hòa lên Bình-Long chứa tỷ lệ sắt tới 70%, (xem Nguyễn Huy, Les Formations latériti-ques à Bình-Dương, S.E.I. Nouvelle série, Toma XLIII, n01, 1er Tri. 1968) ; nhưng sắt trong đá ong chỉ làm được gang xấu chứ không nấu thành thép được, hơn nữa việc luyện chế lại rất tốn kém. Cho đến nay, chúng ta chưa sản xuất sắt từ những dạng thể quặng mỏ trên. Quặng Molybdenium : Trước 1945, quặng molybdenium đã được khai thác tại vùng Đơn-Dương (Dran), Krong-Pha, Phan-Rang và hiện nay molybdenite đang được tìm kiếm tại miền núi Sam (Châu-Đốc) trong một chu vi khai thác định giới là hình vuông mỗi cạnh 3 cây số ; mỏ này có 1 diện tích chừng 900 Ha, giấy phép khai thác 30 năm. Molybdenite là một tinh khoáng nhẹ, màu đen bóng và mềm như than chì. Trong kỹ nghệ luyện thép, nếu trộn thêm 0.2% molybdenite thì thép sẽ rất cứng, dẻo không bị sét rỉ. Hiện nay, các hầm khai thác ở núi Sam đã ngừng hoạt động và người ta chỉ còn khai thác đá hoa cương như ở núi Sập để cung cấp vật liệu cho ngành kiến trúc và công chánh. Titanium : Khi đá núi lửa mủn ra, chất titanium kết tụ lại trong cát dưới dạng thể của những hạt đen (ilmenite : Fe Ti O3). Các dạng thể ilmenite này được tìm thấy ở bờ biển Qui Nhơn, Vũng-Tàu. Trong năm 1959, có 3 số quyền khai mỏ tianium trên 1 diện tích 2700 Ha. 2) TINH KHOÁNG KỸ NGHỆ a) Tinh khoáng của phún xuất thạch Tràng thạch (feldspath) : Tràng thạch là vât liệu kết tinh của phún xuất thạch bởi chất silice và alumine, ngoài ra còn chức K hoặc Na hoặc Ca. Tại Bình-Thuận, Ninh-Thuận, Khánh-Hòa, Tuy-Hòa, Krong-Pha, Đà Lạt, Quảng-Nam, tràng thạch được tìm thấy trong đá hoa cương thô hạt với những tinh thể có đường kính 1-4 phân. Trong ngành công nghệ đồ gốm và gạch ngói bột tràng thạch trộn với đất sét sẽ giúp cho độ nóng chảy thấp nhờ có chất soude và potasse nên tiết kiệm được nhiều than đốt. Hơn nữa độ cứng và chịu đựng của các đồ gốm, ngói sành được gia tăng nhờ tính chất của thủy tinh, bên trong tràng thạch. Còn đối với kỹ nghệ thủy tinh chất soude của tràng thạch giúp cho thủy tinh rắn chắc và chịu đựng. Trong những năm vừa qua số sản xuất của tràng thạch là 766 tấn (1969), 949 tấn (1955), 878 tấn (1966). Vẫn tràng (nepheline) : Vẫn tràng thường xuất hiện chung với tràng thạch và có nhiều tính chất giống như tràng thạch tức có chứa nhiều alumine (Al2O3), soude (Na2O), potasse (K2O). Vẫn tràng được tìm thấy ở phía Tây Khánh Hòa, chung quanh Đà-Lạt và được xử dụng trong kỹ nghệ thủy tinh làm chai, lọ, bình, men đồ gốm… b) Tinh khoáng của đá biến tính Than chì : Việt-Nam Cộng-Hòa có nhiều vùng đá biến tính chứa đựng than chì. Hiện nay than chì đã được khai thác từ lâu ở Quảng-Ngãi và mới đây ở núi Sam, núi Sập, phía Tây đồng bằng Cửu-Long. Than chì được cấu tạo bởi sự kết tinh các chất hữu cơ trong nham trầm tích. Than chì gồm toàn bằng carbon hợp trong một dạng thể bở, mềm, trơn có màu đen nhánh. Thường trong đá biến tính, than chì đóng thành vảy có xếp lớp. Hiện nay trong ngành công kỹ nghệ Việt-Nam than chì được khai thác để làm ruột (tim) bút chì. Tùy theo chất keo trộn với than chì mà ruột bút chì đen có độ mềm cứng khác nhau. Ngoài ra, than chì có đặc tính dẫn điện tốt nên được xử dụng nhiều trong kỹ nghệ điện-giải, làm bình điện, làm điện cực, dây đốt ở bóng đèn, v.v… Trong tương lai, nếu kỹ nghệ sắt thép Việt-Nam phát triển thì than chì sẽ là một khoáng sản rất quan trọng nhờ đặc tính dẫn điện, không biến tính bởi nhiệt độ cao (30000C) và bởi bất cứ hóa chất nào. c) Tinh khoáng của đá trầm tích Muối (ClNa) : Với một bờ biển dài trên 1000 cây số và sức nóng của mặt trời nhiệt đới, hàng năm Việt-Nam Cộng Hòa đã sản xuất được một số muối đáng kể trên những ruộng muối dọc theo bờ biển nhờ sự bốc hơi của nước biển. Phần lớn số muối sản xuất có tỷ lệ NaCl dưới 90%. Đặc biệt các đồng muối Cà-Ná rộng 563 Ha có khả năng sản xuất khoảng 56.000 tấn/năm là sản xuất được muối tốt có tỷ lệ ClNa trên 90%. Do đó muối Cà-Ná có thể dùng xuất cảng và xử dụng trong kỹ nghệ nhờ điện giải để lấy Cl dùng trong kỹ nghệ hóa học như kỹ nghệ tẩy màu. Ngoài ra với phương pháp Solvay, muối trộn lẫn với than và vôi để điều chế Na2CO3, sau đó Na2CO3 được dùng để điều chế soude và các hóa chất khác dùng trong kỹ nghệ giấy, xà bông, nước tẩy, ClH… Hiện nay Việt-Nam có 3 công ty khai thác ngành này là NAMYO, VICAINCO, VICACO. Muối : diện tích và sản xuất năm 1968 (niên giám thống kê 1969) Đá vôi : Từ nguyên đại thứ nhất, lãnh thổ Việt-Nam nhiều lần chìm dưới biển nên Việt-Nam Cộng-Hòa có một số lượng đá vôi rất quan trọng nằm trong một số tỉnh duyên hải như Thừa-Thiên, Quảng-Trị, Khánh-Hòa, Hà-Tiên. Khoáng chất này có rất nhiều công dụng trong nền kỹ nghệ Việt Nam. Đá vôi vụn được xử dụng trong kỹ nghệ xây cất như đúc nền bê tông, xây cột, sàn… Còn đá vôi khối, dày, đều đặn thì được đục đẽo thành cột, bệ (nhà Bưu Điện Saigon). Đá vôi Hà-Tiên và Long-Thọ được Công Ty Thủy Tinh Việt Nam trộn với cát để nấu chế tạo thủy tinh, và trong kỹ nghệ làm CaC2, điều chế acétylène, đá vôi trên cũng được xử dụng. Nhưng công dụng quan trọng nhất của đá vôi Việt-Nam hiện nay là dùng chế tạo xi măng và khử phèn trong nông nghiệp. Dọc theo duyên hải Việt-Nam, các khối đá vôi quan trọng nằm trong các vùng sau : - Đá vôi ở Thừa-Thiên : Khoáng sản này đã được khai thác tại Long-Thọ và khảo sát tại Văn-Xá-Thượng, Hòa-Mỹ, Thanh-Tân. - Đá vôi Long-Thọ : có màu đen và rất nhuyễn hạt vì đá vôi chứa nhiều than và đất sét. Đá có từng lớp mỏng bị nứt nẻ nhiều và gấp nếp thẳng. Hiện nay có một nhà máy đang khai thác đá vôi Long-Thọ. Số lượng dự trữ tại đây ước lượng độ 5 triệu tấn nhưng nếu đào sâu xuống dưới mặt đất độ 20m thì số lượng dự trữ có thể là 6.840.000 tấn. Đá vôi Long-Thọ nổi tiếng là tốt nhưng lại đang cạn dần nên một số hầm đá vôi ở phía Bắc Huế đã được khai thác trong một tương lai gần đây. - Đá vôi Văn-Xá-Thượng : nằm cách Huế 17cs, về phía Bắc, vùng này có một số đá vôi dự trữ khoảng 25 triệu tấn. - Đá vôi Hòa-Mỹ, Thanh-Tân : Ở đây có một vĩa đá vôi rộng chừng 200m chạy dài từ Thanh-Tân đến Hòa-Mỹ trên khoảng 8cs. - Đá vôi Hà-Tiên, Rạch-Giá : Tại đây đá vôi nổi trên mặt đất thành những đồi lớn chạy dọc theo bờ biển Rạch-Giá, Hà Tiên và kéo dài đến Kampuchia. Số đá vôi dự trữ ước lượng tới 500 triệu tấn tức có thể đủ cung cấp cho nhà máy xi măng Hà-Tiên hiện tại trong 1500 năm. Đá vôi Hà-Tiên gồm có nhiều loại nhuyễn hạt và đen. Xưa kia đá vôi này được dùng để làm vôi Càn-Long và nay được khai thác để sản xuất clinker cho nhà máy xi-măng Hà-Tiên (đá vôi đều chứa vết sinh vật). - Đá vôi Quảng-Trị : Một số lượng đá vôi rất lớn mà số dự trữ ước lượng 1500 triệu tấn đã được tìm thấy ở vùng Tân Lâm, thung-lũng sông Cam-Lộ chạy dài đến biên giới Lào Việt, vùng Dakrong, Calu. Chỉ có một khối đá vôi nhỏ ở Tà Niên là chìm dưới đất còn tất cả đều nổi thành đồi thấp như ở Hà-Tiên. - Đá vôi san-hô Khánh-Hòa, Ninh-Thuận : Từ Quảng-Ngãi trở vào Nam, chỉ còn có khối đá vôi san hô nằm dọc bờ biển tỉnh Khánh-Hòa và Ninh-Thuận là quan trọng. Khối đá vôi san hô này chiếm một diện tích khoảng 1140 Ha và dày chừng 2m tức có thể cung cấp tới 22 triệu tấn đá vôi. Số lượng nhỏ này không đủ cung ứng nhu cầu cho một nhà máy xi-măng dùng nhiều đá vôi, nhưng có thể dùng vào một số kỹ nghệ dùng ít đá vôi như ngành chế tạo carbure de calcium. Tuy đá vôi san hô ở đây có tỷ-lệ Co3Ca cao nhưng lại thường chứa cát và bùn, do đó việc xử dụng đá vôi san hô trong kỹ nghệ sẽ gặp khó khăn trong công việc rửa đá vôi cho sạch. Sau khối đá vôi san hô thì miền Nam Trung Phần cũng khai thác những vĩa đá vôi nhỏ như ở Cheo-Reo, Ban-Dun để nấu vôi, khử phèn… dùng tại địa phương. - Đá vôi chứa magnesium : Loại đá vôi có magnésium đã được tìm thấy ở núi Con-Nai thuộc Hà-Tiên với tỷ-lệ MgO từ 8 đến 20% tại quận Hiệp-Đức tỉnh Quảng-Tín với tỷ lệ MgO khoảng 13 đến 34%, vùng Cam-Lộ có tỷ-lệ MgO từ 14,8 đến 18,5%. Đá vôi này không thích hợp cho việc sản xuất xi măng, vì muốn có xi-măng tốt, đá vôi không thể chứa trên 3% magnésium. Nhưng trái lại, đá vôi chứa magnésium trên lại rất quan trọng cho ngành kỹ nghệ thủy tinh Việt-Nam. Cát trắng : Cát trắng là những vật liệu cứng rắn do nước biển hay nước sông bào mòn tạo ra. Công Ty Thủy Tinh Việt Nam và các lò thủy tinh ở Sàigòn và lân cận tiêu thụ lối 15.000 tấn mỗi năm. Kỹ nghệ hóa học dùng cát trắng để chế ra silicate de soude dùng vào các công tác giặt tẩy… Cát trắng để chế thủy tinh phải thật sạch, không được chứa các chất bẩn có quá dung lượng sau : 0,06% oxyd sắt ; 0,0002% cobalt ; 5% oxyd nhôm. Sau đây là số sản xuất trong những năm vừa qua tính bằng ngàn tấn : - Năm 1960 : 69 tấn -1961 : 86 tấn - 1962 : 112 tấn - 1963 : 164 tấn - 1964 : 214 tấn - 1965 : 104 tấn - 1966 : 12 tấn - 1967 : 95 tấn Đa số cát sản xuất đều do hầm cát Thủy-Triều và dùng để xuất cảng. Có hai hầm cát lớn là hầm cát Thủy-Triều và hầm cát Nam-Ô. - Cát trắng Thủy-Triều : Nằm ở 32km phía nam Nha Trang gồm những đồi cát và đồng cát rộng chạy dọc theo bờ bể. Loại cát đồi tốt hơn cát đồng và rất ít chất dơ. Về số lượng dự-trữ cát trắng tại Thủy-Triều ta phân biệt hai loại sau : Số lượng cát đồi : 1.552.425m3. Số lượng cát đồng : 4.807.500m3. Như vậy, tổng số dự trữ lên đến : 6.359.925m3. Về phương diện phẩm chất, các kết quả phân tích đặc biệt là qua Nhật-Bổn (năm 1964 xuất cảng được 230.000 tấn). - Cát trắng Nam-Ô : Nhìn dọc theo bờ biển cách phía Bắc Đà-Nẵng 8km có diện tích khoảng 700 Ha gồm cát trắng phẩm chất rất tốt, với thành phần SiO2từ 99,0 đến 99,7%. Theo những khảo cứu từ trước thì cát này ở dưới độ sâu 20m vẫn có tính chất không thay đổi và các phân tích về độ lớn các hạt cát thực hiện tại Nhật-Bổn cho thấy 84% cát này có kích thước rất thuận tiện cho kỹ nghệ thủy tinh. - Cách khai thác : Tại các công trường lớn, cát được múc lên bằng xáng hay máy cạp tối tân. Còn tại các công trường nhỏ thì dùng sức người múc cát đổ lên ghe rồi chở đến bán cho các nhà thầu. Đất sét : Trên các đồng bằng phù sa lắng tụ, chúng ta gặp rất nhiều loại đất sét nhưng phần lớn thuộc loại đất sét vàng hay xám dùng để nung gạch ngói. Còn loại đất sét trắng dùng trong kỹ nghệ đồ gốm giá trị thì chỉ tập trung nhiều tại Lái-Thiêu (Bình-Dương), Biên-Hòa và ở Đà-Lạt. Người Việt dùng danh từ « đất sét » vì trong đất chứa các vật màu sét rỉ. Trái lại, nếu đất sét màu trắng, nhuyễn hạt thì gọi là « đất sứ » (kaolin) dùng để chế các đồ sứ, sành. Đất sứ được cấu tạo bởi 1 tinh khoáng gibbsit và một tinh khoáng silic sắp xếp theo 1 thứ tự đặc biệt giúp cho đất sứ có tính hút nước, không thấm nước và dẻo. Phần lớn số đất sét khai quật tại VN được xử dụng nung gạch ngói, đồ gốm (chén, lu, vại, bình…) và kỹ nghệ xi măng. Loại đất sét kaolinile chứa nhiều chất bẩn được dùng để đúc gạch ngói màu đỏ. Còn đất sứ màu trắng được dùng trong các lò gốm để sản xuất các « đồ sứ », « đồ kiểu ». Trong kỹ nghệ xi măng, đất sét được trộn với vôi thay cho diệp thạch để chế tạo xi măng. Ở Biên-Hòa, đất sét để nung gạch ngói được đào ngay trên đồng ruộng cạnh đường lộ hay sông Đồng-Nai để chuyên chở dễ. Vì thiếu nhân công nên các chủ lò gạch ngói phải dùng nhiều xe ủi đất. Còn ở Bình-Dương đất sét và đất sứ được đào bằng xẻng cuốc trên những đồi thấp, dưới lớp đá ong. Đất sét chứa nhiều sỏi đá ong nên phải rửa bằng sức người hay máy bơm để lọc lấy hồ, đem phơi rồi mới bán được. Ở Phú-Văn, người dân phải đào sâu xuống đất như hang chuột để khai thác đất sứ. * Sau khi xét qua hiện trạng của mỏ tinh khoáng kỹ nghệ liên quan đến nền kỹ nghệ hiện tại, chúng ta nhận thấy VNCH nghèo nàn về quặng mỏ cần thiết cho một nền kỹ nghệ căn bản nhưng lại dồi dào về tinh khoáng kỹ nghệ như đá vôi, tràng thạch, cát trắng, v.v… Giá sản xuất các tinh khoáng này thấp vì nhờ tinh khoáng hiện diện ở nhiều nơi lại gần trục giao thông và thị trấn. Hiện nay công cuộc khai thác tinh khoáng kỹ nghệ phần lớn đều dựa vào kinh nghiệm địa phương và cá nhân. Ngay cả phẩm chất của đất đá cũng chỉ được suy xét theo thói quen. Thí dụ như các hầm đất sét ở Lái-Thiêu (Bình-Dương) đều do các thôn dân chiếm cứ mỗi người một mảnh đất để tự tìm kiếm khai thác, phát mại theo kinh nghiệm và phương tiện cá nhân chứ không có một cơ quan khảo cứu theo một đường lối khoa học nào hướng dẫn về lượng tính và phẩm tính cả. Tuy nhiên, may mắn là đa số các loại tinh khoáng kỹ nghệ như đất sét, đá vôi, cát trắng… đều có phẩm lượng tốt và số dự trữ phong phú nên VNCH có triểnvọngtốtvềnhiềungànhcôngkỹnghệnhưxi măng, thủytinh,gạchngói,đồgốm,v.v… CHƯƠNGIII:CÁCNGÀNHCÔNGKỸ NGHỆ Tiết 1 : Kỹ nghệ thực phẩm Tại Nam phần hãng kỹ nghệ thực phẩm xuất hiện đầu tiên vào năm 1927 với hãng B.G.I rồi tiếp theo là nhà máy thuốc lá (1929-1939) nhà máy đường, v.v… Đến năm 1967 Việt-Nam đã có 28 xí nghiệp kỹ nghệ thực phẩm có tổng số vốn đầu tư gần 8 tỉ VN$ và trị giá sản phẩm là 25 tỉ VN$. Ngày nay kỹ nghệ thực phẩm đã mang lại nhiều lợi ích kinh tế thiết thực cho Việt-Nam như : - Tiết kiệm ngoại tệ khoảng 170 triệu US$/năm. - Thỏa mãn một phần lớn thị trường quốc nội. - Xử dụng 1 số lớn nhân công và nguyên liệu nội hóa. Trong những năm sắp tới, với kho nguyên liệu nội địa dồi dào, nhân công đầy đủ, cần mẫn và rẻ, kỹ nghệ thực phẩm sẽ có nhiều triển vọng để xuất cảng được một khi an ninh vãn hồi trên quê hương. Trong kỹ nghệ thực phẩm, chúng ta sẽ đề cập đến các ngành sau : - Kỹ nghệ đường - Kỹ nghệ thức uống - Kỹ nghệ nước mắm, tầu vị yểu - Kỹ nghệ thuốc lá - Kỹ nghệ đồ hộp 1) KỸ NGHỆ ĐƯỜNG Các nhà máy đường ở Việt-Nam gồm các nhà máy luyện tinh từ đường bổi nhập cảng, nhà máy làm đường từ ép mía. Tất cả có 4 công ty. Ngày 13-12-1957, chính phủ cho thành lập « Công Ty Đường Việt-Nam » có vốn sơ khởi 35 triệu đồng VN gồm phần hùn của chính phủ và hội SREIEO (chủ nhân người Pháp của hai nhà máy Hiệp-Hòa và Khánh-Hội). Đến năm 1965, chính phủ mua lại tất cả các cổ phần của tư nhân Pháp và nay Công Ty đã trở thành Công Ty Quốc Doanh với vốn đầu tư gần tỷ bạc. Công Ty Đường Việt-Nam hiện quản-trị 3 nhà máy : - Nhà máy Khánh-Hội : lọc đường bổi thành đường trắng, mỗi ngày sản-xuất 120 tấn đường trắng tinh và 50 tấn đường ngà. - Nhà máy Hiệp-Hòa ở tỉnh Hậu-Nghĩa có khả năng ép mỗi ngày 1500 tấn mía cho 120 tấn đường. Vì chiến tranh thiếu mía nên đã ngừng hoạt động từ tháng 4 năm 1966. - Nhà máy Biên-Hòa trong khu kỹ-nghệ Biên-Hòa được trang bị bằng máy móc của nhà máy Hiệp-Hòa, hoạt động từ giữa năm 1966, mỗi ngày sản xuất 120 tấn đường trắng ngà từ đường bổi nhập cảng. Nhà máy này sẽ rỡ đi khi có nhà máy mới sản xuất 60.000 tấn trong một năm. Ngoài ra, chính phủ mới cho lập thêm hai xí-nghiệp quốc doanh là Công Ty Đường Quảng-Ngãi năm 1964 với vốn đầu tư 500 triệu đồng VN và Công-Ty Bình-Dương, năm 1966, với vốn đầu tư 600 triệu đồng VN, gồm khoản đầu tư của chính phủ, các ngân-hàng, tư nhân và quĩ khuếch trương kỹ nghệ đường. Nhà máy đã cất xong nhưng chưa hoạt động vì thiếu mía. Công Ty Vĩnh-Phú, vốn đầu tư 52 triệu đồng VN được thành lập qua hai giai đoạn : Năm 1960 cất nhà máy lọc đường thẻ và đường bổi nhập cảng. Năm 1965 nhà máy ép mía. Nguyên liệu : Đường Việt-Nam được sản xuất từ mía và ta có khoảng 30.000 Ha mía sản-xuất lối 1 triệu tấn mía ; theo ước tính của các chuyên viên thì số mía sản xuất được tiêu thụ như sau : 15% để sản-xuất đường trắng ; 35% để sản-xuất đường tiểu công nghệ ; 50% để tiêu-thụ trực-tiếp. (Phụ lục 14) Hiện nay chỉ có Công Ty Đường Việt-Nam và các lò đường tiểu công nghệ là sản xuất đường từ mía ra, mỗi năm khoảng 10.000 tấn. Vì số mía sản xuất đường đỏ không đủ nên hàng năm ta phải nhập cảng đường bổi để nhà máy Khánh-Hội luyện-tinh. Ngoài mía ra, kỹ-nghệ đường còn cần dùng một số hóa chất phụ không đáng kể như vôi, acide phospho-rique, than lọc. Kỹ nghệ và nhân công : Máy-móc Công Ty Đường Việt Nam và Vĩnh-Phú đã cũ kỹ, riêng hai Công Ty Quảng-Ngãi, Bình-Dương được trang-bị máy móc tối tân. Kỹ-nghệ đường xử dụng lối 1500 nhân công, trong số này thợ chuyên môn chiếm 9% (Công Ty Đường Việt-Nam có 15 kỹ-sư), số nhân công trực tiếp dùng vào việc sản xuất là 20%, còn lại là văn phòng, lao công. (Phụ lục 15) Sản lượng và tiêu thụ : Dân Việt tiêu thụ 2 loại đường : đường cát (tinh luyện) và đường tiểu công nghệ chưa kết tinh, sản-xuất ở thôn quê như đường thẻ, hũ, phổi, tán, cát mỡ gà… Từ sau năm 1966, các cơ sở trồng mía bị phá hủy nặng nề, các lò đường tiểu công nghệ đều đóng cửa. Số đường tiêu thụ ở Việt-Nam đều được cung cấp bởi đường tinh luyện nhập cảng và đường cát sản-xuất từ đường bổi nhập cảng. Số đường tinh luyện nhập cảng gia tăng đột ngột từ 25 tấn năm 1965 lên 45.042 tấn năm 1966 và 163.000 tấn năm 1969. Song song với tình trạng bi thảm của ngành sản xuất đường nội địa, mức tiêu thụ đường trung bình mỗi người đã gia tăng gấp 2 lần trong năm : 8kg,80 năm 1964 tăng lên 16kg,68 năm 1969. (Phụ lục 16) Hiện nay Công Ty Đường Việt-Nam độc quyền nhập cảng, lọc và phân phối đường tại Việt-Nam nên năm 1967, số thương vụ của Công-Ty lên đến 3.6 tỉ trong đó một nửa là do dịch vụ nhập cảng đường về bán lại. Sau gạo, sữa, nhu yếu phẩm cần thiết là đường. Mặc dầu chính phủ dành độc quyền nhập cảng, sản xuất, phân phối nhưng số cung vẫn không đủ, thường có nạn chợ đen. Tình trạng này sẽ kéo dài cho tới khi chính phủ hoàn tất các dự án sản xuất đường tinh luyện, trồng mía và cải thiện giống mía để nâng cao năng xuất. Nếu so sánh với các quốc gia trồng mía khác thì năng xuất đường chế tạo từ mía ở Việt-Nam rất thấp.