🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Hàm cá mập
Ebooks
Nhóm Zalo
HÀM CÁ MẬP
Tác giả: Peter Benchley
Dịch giả: Nguyễn Việt Long
Nguyên bản: Peter Benchley. "JAWS" 1974. Dịch theo bản tiếng Nga của I. I. BXAVINA Tạp chí: "Inostrannaya literatura" Số 7, 8 -1984.
Nhà xuất bản Hội nhà văn - 1998
Đánh máy: 4DHN, ICT, nguoimedocsach, Michelia
Chỉnh lý và soát lỗi chính tả: Michelia Tạo eBook: 4DHN
http://www.thuvien-ebook.com
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
LỜI GIỚI THIỆU
Ba mươi lăm năm trước "Hàm cá mập" (Jaws) ra đời và lập tức trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết ăn khách nhất với hơn 20 triệu bản ấn hành, phút chốc đưa sự nghiệp của nhà văn kiêm nhà thám hiểm Mỹ - Peter Benchley - vụt sáng và thăng hoa. Cuốn sách đã được ông vua phim giả tưởng và phiêu lưu mạo hiểm, đạo diễn lừng danh Steven Spielberg mà khán giả Việt Nam từng biết đến qua những bộ phim như "Công viên kỷ Jura", "Indiana Jones" hay "Bản danh sách của Schindler", dàn dựng thành phim với cùng tựa đề vào năm 1975. Bộ phim sau đó đã giành được 3 giải Oscar (cho biên tập, thu âm và tiếng động), và đã lập kỷ lục doanh thu tại thị trường Mỹ khi thu về tới hơn 100 triệu USD, thậm chí bộ phim còn tạo nên một cơn sốt trong công chúng mà báo chí đặt tên là "Jawsmania".
Nội dung cuốn sách kể về một con cá mập trắng lớn gây họa cho một cộng đồng ven biển của đảo Amity - New England (Mỹ), với những cảnh cá mập tấn công người rất rùng rợn, được miêu tả rất chân thực. Song song với mối họa từ tự nhiên đó, tác giả cũng đồng thời tố
cáo một mối họa khác, to lớn hơn, tàn ác hơn và lạnh lùng hơn, đó là sự vô trách nhiệm với tính mạng con người của giới chức địa phương - "những kẻ không vì lợi ích xã hội mà chỉ vì lợi lộc cá nhân" - sẵn sàng bưng bít thông tin về hiểm họa để kiếm tiền từ việc không đóng cửa bãi tắm nhưng lại không chi ra một đồng ngân sách nào để bảo vệ người dân. Cuốn sách vì thế không chỉ dừng lại ở sự hấp dẫn ly kỳ của tiểu thuyết kinh dị mà còn lấp lánh giá trị nhân văn, điều khiến độc giả vẫn bị cuốn hút tới trang truyện cuối cùng.
Cuộc sống của một nhà thám hiểm đại dương cộng với những trải nghiệm phong phú của Benchley từ vùng biển miền nam Australia tới những dải san hô tuyệt mỹ của Bahamas đã đem lại cho ông nhiều tư liệu quý giá, tạo nên một phần không nhỏ thành công của "Hàm cá mập"; và điều đặc biệt thú vị là cuốn sách của Peter Benchley, thay vì gieo rắc nỗi kinh hoàng và căm ghét đối với sinh vật ghê gớm này của đại dương, lại làm dấy lên một sự quan tâm sâu sắc và rộng rãi trong cộng đồng về việc bảo tồn loài cá mập…
1
Con cá to lớn cắt làn nước đêm một cách êm ái và khẽ nguẩy cái đuôi hình lưỡi liềm. Hàm nó hé mở cho những dòng nước tự do trôi qua mang. Thân nó có vẻ như không nhúc nhích. Chỉ khẽ nâng lên hay hạ xuống một trong các vây ngực là nó dễ dàng đổi hướng bơi, giống như một con chim khẽ nâng một cánh lên hoặc hạ cánh kia xuống để đổi hướng bay. Mắt nó không nhìn thấy gì trong đêm tối, còn các cơ quan cảm giác khác thì không phát một tín hiệu cảnh báo nào lên bộ não nhỏ sơ khai. Có thể tưởng rằng con cá đang ngủ, nếu như không có chuyển động trườn êm ái - bản năng sinh tồn được hun đúc từ không biết bao nhiêu triệu năm nay. Vì không có bong bóng hơi như vẫn có ở các loài cá khác và không có các vây cạnh mang để lùa nước chứa đầy ôxy qua mang, nó buộc phải chuyển động liên tục. Nếu như nó dừng lại thì sẽ chìm xuống dưới đáy và chết vì thiếu ôxy.
Trên trời trăng không lên, nên bờ biển có vẻ cũng tối như mặt nước. Chỉ một dải bãi tắm bằng phẳng là sáng. Từ cửa sổ ngôi nhà ở phía
sau đụn cát mà cỏ mọc lác đác, những vệt sáng vàng vàng hắt xuống cát.
Cửa chính của ngôi nhà vừa mở ra, một người đàn ông và một người đàn bà bước ra hàng hiên gỗ. Họ đứng nhìn đại dương chừng một phút, rồi ôm nhau và chạy xuống các bậc lối đi. Người đàn ông còn chếnh choáng hơi men, ở bậc cuối cùng anh ta bị vấp. Người đàn bà phá lên cười, nắm lấy tay anh ta và kéo ra bãi tắm.
- Trước tiên ta tắm cái đã, - người đàn bà nói, - cho đầu óc anh tỉnh táo ra.
- Kệ cha cái đầu, - người đàn ông đáp. Vừa cười anh vừa lăn ra cát, kéo người đàn bà lăn theo. Họ vội vã trút bỏ quần áo và lao vào ôm chầm lấy nhau.
Sau đó người đàn ông nằm ngửa và nhắm mắt lại. Người đàn bà liếc sang anh ta rồi mỉm cười.
- Ta tắm chứ? - cô ta hỏi.
- Em cứ đi đi. Anh đợi.
Người đàn bà đứng dậy và đi ra ven bờ, sóng nước lăn tăn vỗ vào chân. Nước còn lạnh hơn không khí buổi đêm, - vào giữa tháng sáu thường là vậy. Người đàn bà quay lại nói to:
- Anh có xuống tắm không nào?
Cô không nghe thấy tiếng trả lời, người đàn ông đã ngủ. Người đàn bà toan quay trở lại, nhưng rồi lại chạy xuống nước. Cô ta chạy một cách lẹ làng, duyên dáng, cho tới khi những con sóng nhỏ vỗ lên đầu gối. Người đàn bà lạng đi, nhưng đứng vững được và bước vào con sóng sau còn cao hơn. Nước bây giờ đã lên đến đùi. Cô hất những sợi tóc xõa xuống mắt ra phía sau và bước tiếp. Khi nước đã phủ ngập vai thì cô bắt đầu bơi, đầu nhô khỏi nước, cử động mạnh như người bơi chưa thạo.
Con cá đang bơi cách bờ một trăm yát[1], cảm thấy được sự thay đổi trong nhịp độ điều hòa của đại dương. Nó không trông thấy người đàn bà, không ngửi thấy mùi cô ta, nhưng dọc toàn thân con cá căng dài vô số kênh tín hiệu li ti, chứa đầy chất nhầy, ở đó các tế bào nhạy cảm tóm bắt được những dao động nhỏ nhất trong nước và phát tín hiệu lên não. Con cá quay hướng bơi vào bờ.
Người đàn bà vẫn tiếp tục bơi ra xa bờ, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn những cửa sổ sáng ánh đèn của ngôi nhà. Dòng chảy yếu nên cô không bị dạt sang một bên. Khi đã thấm mệt, cô nằm ngửa nghỉ ngơi chút ít rồi quay vào bờ.
Dao động của nước giờ đã trở nên mạnh hơn, con cá đã cảm thấy mồi. Những cái quẫy đuôi tăng mau, thân hình to lớn lao về phía trước với tốc độ đến mức những sinh vật phát ánh lân tinh nhỏ li ti trong nước sáng rực lên, - tưởng chừng như con cá đang phóng mình về phía trước trong chiếc áo bào tóe lửa.
Nó trườn ngang gần chỗ người phụ nữ, cách khoảng mười hai bộ. Người phụ nữ chỉ cảm thấy sức dồn của sóng trồi lên rồi lại thụt xuống. Cô lặng người trong giây lát và nín thở, nhưng không phát hiện ra điều gì khác thường cả nên lại bơi tiếp, tay vươn mạnh về phía trước.
Con cá lúc này đã cảm thấy được cả mùi người; dao động của nước dồn dập không đều, giúp nó định được phương hướng. Nó bắt đầu bơi nổi lên theo vòng tròn. Cái vây lưng của nó đã thò ra khỏi mặt nước, do những cú quật đuôi mạnh mà mặt nước sôi sục. Toàn thân nó rung lên.
Bỗng dưng một nỗi sợ hãi không cơn cớ chụp xuống người đàn bà. Nồng độ ađrênalin trong máu tăng vọt, tay chân cô đã cảm thấy một luồng ấm bứt rứt, cô bèn bơi nhanh vào bờ. Đến bờ chỉ còn năm chục bộ. Cô đã trông thấy cái vệt bọt trắng ở nơi sóng đánh lên cát,
đã nhìn thấy ánh đèn trong ngôi nhà, thậm chí còn có cảm tưởng như có một bóng đen thấp thoáng sau cửa sổ. Điều ấy khiến cô hoạt bát lên.
Con cá bơi cách người phụ nữ khoảng bốn chục bộ, rồi bỗng quay ngoặt sang trái, lặn sâu xuống và sau khi lấy sức quật mạnh đuôi: nó lao tới người đàn bà.
Trong khoảnh khắc đầu tiên người đàn bà tưởng rằng chân mình va phải đá hoặc một khúc cây. Thoạt đầu không thấy đau, chỉ cái chân phải bị giật mạnh. Người đàn bà quyết định sờ thử bàn chân trong khi chân kia vẫn làm việc để giữ người nổi. Cô dùng tay trái quờ quạng trong nước tối om nhưng không tìm thấy bàn chân mình, sau đó cô tay lên cao hơn và chỉ còn thiếu nước ngất đi. Các ngón tay chạm phải đầu xương lồi ra và những bắp thịt lùng nhùng. Cô hiểu rằng các tia chảy âm ấm phập phồng mà bàn tay cô cảm thấy trong nước lạnh chính là máu của mình.
Khiếp hãi và đau đớn siết lấy cô. Ngửa đầu ra sau, cô tuôn ra tiếng rú tuyệt vọng. Con cá bơi về một bên. Giần giật nuốt xong bàn chân, nó quay trở lại, lúc này bơi theo mùi máu tứa ra từ chân người đàn bà. Đối
với con cá thì đấy là một vật định hướng cũng rõ ràng và chính xác y hệt ngọn hải đăng vào những đêm không mây mù. Lần này con cá tấn công từ dưới lên. Nó vọt thẳng vào nạn nhân của nó, hàm ngoác rộng. Cái mõm nhọn to tướng đập vào người đàn bà mạnh đến nỗi làm cô bắn ra khỏi nước. Hai cái hàm hung hãn bập ngay vào thân mình cô, nghiền xương thịt thành một khối nhầy đặc. Không nhả con mồi ra khỏi hàm, con cá thả bịch người xuống nước, phun một vòi gồm bọt, máu và các sinh vật li ti phát sáng. Con cá quay đầu dùng những chiếc răng nhọn hình tam giác cứa đứt các đường gân trên mình người phụ nữ. Thân cô bị xẻ làm đôi. Con cá hau háu nuốt những miếng thịt. Các tín hiệu về một con mồi ở gần vẫn truyền lên não, nhưng nó chưa thể xác định được nguồn gốc những tín hiệu ấy và lăng xăng lượn hết bên này đến bên kia trong đám mây máu và bọt, quai hàm mở ra đóng vào, quơ liên tiếp mọi thứ. Khi đám mây đã tan ra, một phần lớn thân thể đã biến đi đâu mất. Một số miếng thịt từ từ lắng xuống đáy cát, ở đó dòng nước lay lay chúng một cách biếng nhác. Những miếng khác nổi lên ngay trên mặt nước, và những lớp sóng đẩy chúng dạt vào bờ.
Người đàn ông tỉnh dậy, run run vì cái lạnh của buổi sớm tinh mơ. Trong đầu anh ta mọi cái còn hòa trộn lẫn lộn vì uýt-xki và vốtca ngồi uống lúc trước. Mặt trời còn chưa dậy, nhưng những ráng hồng ở chân trời đã mách với anh rằng hừng đông đã gần. Những ngôi sao vẫn còn lấp lánh yếu ớt trên nền trời đã ngả màu nhợt nhạt. Người đàn ông đứng dậy và bắt đầu mặc quần áo, vừa mặc vừa bực vì người đàn bà đã không đánh thức anh mà lại bỏ về nhà một mình, nhưng anh lại thấy lạ là cô ấy bỏ quần áo lại trên bãi tắm. Anh thu đồ lại và rảo bước về nhà.
Rón rén đi qua hàng hiên, anh thận trọng mở hé cánh cửa, vì biết rằng nếu mở mạnh, nó sẽ kêu cót két... Phòng khách tối không người, trên bàn là những cốc vại chưa uống hết, những cái gạt tàn chứa đầu mẩu thuốc và những chiếc đĩa bẩn. Anh đi ngang qua phòng khách, rẽ sang phải dọc theo hành lang, bỏ qua hai cánh cửa đóng kín. Cửa vào căn phòng của họ mở ngỏ, trên cái bàn con đầu giường có ngọn đèn đang sáng. Cả hai chiếc giường đã được trải sẵn tinh tươm. Anh ném mớ quần áo của người đàn bà lên một chiếc giường rồi quay ra phòng khách bật đèn. Cả hai chiếc đi văng cũng không người.
Trong nhà còn có hai phòng ngủ khác. Một phòng thì chủ nhà ở, phòng kia có khách thuê - cũng một cặp nữa. Cố không gây tiếng ồn, người đàn ông khẽ mở hé cửa vào căn phòng khách đang ở. Ở đây có hai cái giường, trên mỗi giường chỉ có một người nằm. Anh đóng cửa lại và tiến vào căn buồng tiếp theo. Hai vợ chồng chủ nhà ngủ trên chiếc giường lớn - ai ở chỗ nấy. Người đàn ông khép cửa lại rồi về phòng mình, xem đồng hồ. Đã gần năm giờ.
Anh ngồi xuống xuống và nhìn chăm chăm vào đống quần áo ở giường bên cạnh. Anh hiểu rằng người đàn bà không có trong nhà. Khách khứa khác thì không có tại bữa ăn tối, cô ấy chẳng thể đi đâu với ai được, trừ phi đã gặp ai đó ngoài bãi tắm trong lúc anh ngủ. Nhưng nếu cô ấy có đi, anh nghĩ, thì chắc cũng phải lấy ít ra là một hai thứ gì trong mớ quần áo chứ.
Chỉ đến lúc này ý nghĩ về một tai nạn mới nảy ra trong đầu anh. Giả định này chẳng mấy chốc đã trở thành sự tin chắc. Anh trở lại phòng ngủ của chủ nhà, đứng phân vân chừng một phút ở mạn đầu giường rồi cẩn thận đặt nhẹ tay lên vai người chủ.
- Jack ơi, Jack! - anh gọi.
Người chủ thở một hơi sâu rồi mở mắt ra. - Cái gì?
- Tôi đây, Tom đây. Tôi chẳng muốn đánh thức anh tí nào, nhưng có vẻ như xảy ra tai ương.
- Anh bảo cái gì cơ?
- Anh có thấy Chrissie không?
- Có thấy nghĩa là thế nào? Cô ấy ở với anh mà.
- Cô ấy không ở bên tôi nữa, tôi muốn nói là không tài nào tìm thấy cô ấy.
Jack ngồi dậy bật đèn. Vợ anh xoay người nằm nghiêng và lấy vải trải giường trùm lên đầu. Jack nhìn đồng hồ.
- Trời, mới năm giờ sáng mà cậu đã mất cô bạn gái của mình rồi.
- Ừ, hiểu rồi. Xin lỗi nhé. Lần cuối cùng anh trông thấy cô ấy vào lúc nào?
- Tớ ấy à? Để nhớ xem đã. Cô ấy bảo là các cậu đi tắm, thế rồi các cậu kéo nhau ra ngoài hiên. Thế cậu trông thấy cô ấy lần cuối cùng là vào lúc nào?
- Ở ngoài bãi tắm. Rồi tôi ngủ thiếp đi. Thế ra cô ấy chưa quay về nhà à?
- Ít ra thì tớ cũng chưa trông thấy, chúng tớ đi ngủ quãng một giờ.
- Tôi tìm thấy quần áo của cô ấy.
- Ở đâu? Ngoài bãi tắm à?
- Đúng vậy.
- Cậu đã xem ở ngoài phòng khách chưa? - Rồi. Cả trong phòng vợ chồng Henkels nữa.
- Cả trong phòng vợ chồng Henkels nữa?! Tom đỏ mặt.
- Tôi mới quen cô ấy chưa lâu. Theo những xét đoán của tôi thì tính khí cô ấy cũng hơi ẩm ương. Nhà Henkels cũng thế. Tôi muốn nói là... tôi không ám chỉ cái gì đâu. Chẳng qua tôi chỉ quyết định xem xét toàn bộ ngôi nhà, trước khi đánh thức anh.
- Vậy thì cậu đang nghĩ đến điều gì? - Tôi bắt đầu nghĩ là có chuyện gì xảy ra với cô ấy rồi hay sao ấy. Có lẽ cô ấy bị chết đuối. - Tom nói.
Jack nhìn Tom một lát, rồi lại nhìn đồng hồ. - Tớ cũng không biết đích xác khi nào thì cảnh sát bắt đầu làm việc, - anh nói. - Nhưng
tớchorằngcóthể làmsángtỏchuyệnnày ngaybâygiờ.
2
Viên cảnh sát Len Hendricks đang ngồi sau bàn viết trong đồn cảnh sát Amity đọc cuốn truyện trinh thám "Nỡm ơi, em là của anh". Vào đúng lúc chuông điện thoại vang lên thì nữ nhân vật Whistling Dixie của cuốn tiểu thuyết đang sắp bị một bọn đi mô tô hãm hiếp. Hendricks không thèm nhấc điện thoại lên cho tới khi Dixie xỉa dao vào tên đầu tiên xông tới cô - con dao dùng để cắt linôlêum[2] cô đã khéo léo giấu trên mái tóc.
Cuối cùng Hendricks cầm lấy ống nghe. - Trạm cảnh sát Amity, cảnh sát viên Hendricks nghe đây, - anh ta nói. - Tôi có thể giúp gì được đây?
- Tôi là Jack Foote, sống ở đường Old Mill. Tôi muốn báo là có một người vừa mất tích. Hay ít ra theo tôi thì cô ấy đã mất tích.
- Đề nghị ông nhắc lại, - Hendricks đã phục vụ ở Việt Nam trong binh chủng thông tin liên lạc nên thích cách nói kiểu điều lệ.
- Có một cô gái đến ở trọ nhà tôi, - Foote nói. - Cô ta đi tắm biển quãng một giờ đêm.
Nhưng đến giờ vẫn chưa về. Cái cậu cùng đi với cô ấy đã tìm thấy quần áo của cô ấy ngoài bãi tắm.
Hendricks liền ghi vội vào cuốn sổ.
- Họ tên?
- Christine Watkins.
- Tuổi?
- Tôi không rõ. Đợi một chút nhé. Cứ cho là quãng hăm lăm. Cậu bạn cô ta cũng đoán thế. - Chiều cao và cân nặng?
- Đợi một phút nhé, - một khoảnh khắc im lặng tiếp theo. - Chúng tôi ước khoảng năm bộ bảy insơ[3]. Cân nặng quãng trăm hai trăm ba pao[4].
- Màu tóc và mắt?
- Này, anh cần gì tất cả những cái đó? Nếu một người đàn bà bị chết đuối, thì ắt hẳn đối với các anh là người duy nhất, ít ra là trong ngày hôm nay chứ. Hay là ở đây người ta chết đuối hàng mớ?
- Ông Foote ạ, ai nói là cô ấy chết đuối? Biết đâu cô ấy đi chơi.
- Cởi trần cởi truồng đi chơi lúc một giờ đêm? Anh đã nhận được thông báo là có người
phụ nữ trần truồng đi dạo ngoài bãi tắm rồi hay sao?
Hendricks sung sướng vì được dịp biểu thị sự điềm tĩnh.
- Không, ông Foote ạ, hiện giờ thì chưa. Nhưng hễ mùa hè bắt đầu thì có trời mà biết được sẽ có chuyện gì. Tháng tám năm ngoái những người theo trường phái tắm truồng đã tổ chức nhảy cởi truồng ở ngay trước câu lạc bộ của họ. Màu tóc và mắt?
- Tóc cô ấy... hình như màu sáng. Đúng hơn là hơi hung hung. Tôi không rõ mắt cô ấy màu gì. Tôi phải hỏi anh bạn của cô ấy đã nhé. Không, anh ấy cũng không biết. Cứ coi là màu nâu sẫm.
- Thôi được rồi, ông Foote ạ. Chúng tôi sẽ xem xét việc này. Hễ có gì sáng tỏ, chúng tôi sẽ liên lạc với ông.
Hendricks treo ống nghe vào chỗ rồi nhìn đồng hồ. Năm giờ mười. Phải ít ra là một tiếng nữa thủ trưởng mới dậy, mà Hendricks thì không muốn sốt sắng đánh thức thủ trưởng chỉ vì mỗi cái chuyện là có ai đó đêm khuya không về nhà. Có nhiều khả năng là cô nàng đã gặp được một anh chàng nào đó ngoài bãi tắm và bây giờ họ đang hú hí với nhau trong bụi cây
đâu đó ở gần đấy. Còn nếu như thân thể cô ta bị sóng đánh dềnh lên thì sao? Thủ trưởng Brody vốn ưa giải quyết nhanh gọn trước khi một bà bảo mẫu nào đó họa may đi chơi với mấy đứa trẻ đụng phải người chết đuối. Chứ không thì dư luận thị trấn sẽ phẫn nộ.
"Có cái nhìn tỉnh táo đối với sự vật, - nhiều lần thủ trưởng đã nhắc anh, - đấy là điều cần thiết trước nhất đối với một cảnh sát viên". Nếu muốn làm việc trong ngành cảnh sát thì phải động não. Chính vì thế mà Hendricks đã quyết định vào ngành cảnh sát sau khi từ Việt Nam về. Lương bổng cũng khá hậu: thoạt đầu là chín nghìn đô, sau mười lăm năm phục vụ là mười lăm nghìn, cộng với các khoản ưu đãi khác. Phục vụ trong ngành cảnh sát hứa hẹn một tương lai bảo đảm, ngày làm việc định chuẩn, thỉnh thoảng lại có cái gì đó hấp dẫn - đâu phải lúc nào cũng nện bọn du côn và tóm cổ áo lũ say rượu, mà còn phải biết gỡ một vụ án cướp bóc, biết bắt kẻ hiếp dâm, tức là, biểu thị một cách thanh nhã hơn, công vụ này tạo khả năng để có thể trở thành một con người được kính trọng trong xã hội. Thêm nữa làm cảnh sát viên ở Amity cũng không nguy hiểm lắm, không như làm việc trong ngành cảnh sát ở một thành phố lớn. Trường hợp bi thảm gần
đây nhất với một cảnh sát viên ở Amity trong khi đang thực hiện công vụ xảy ra năm 1957, khi người này toan bắt một tay lái xe say rượu đang lao vun vút trên đường quốc lộ Montauk. Chiếc ô tô đã húc vào viên cảnh sát làm anh ta bắn người vào bức tường đá.
Hendricks cầm chắc rằng chỉ cần anh thoát khỏi những giờ trực buồn tẻ này, kéo dài từ nửa đêm đến tám giờ sáng thì công vụ của anh sẽ thú vị hơn nhiều. Hiện giờ nó đơn điệu hết sức. Anh thừa hiểu rằng tại sao người ta lại chỉ định anh trực đêm như thế này. Brody muốn đưa các cộng sự trẻ tuổi của mình nhập việc dần dần, cho họ có dịp phát huy những phẩm chất cần cho một cảnh sát viên - cái nhìn tỉnh táo đối với sự vật, sự chín chắn, điềm tĩnh, tính lịch sự, - vào thời điểm này của ngày đêm, khi họ không bị bận bịu công việc thái quá.
Trực từ tám giờ sáng đến bốn giờ chiều là căng thẳng nhất, nó đòi hỏi kinh nghiệm và sự tế nhị. Ca này có sáu người trực. Một người điều chỉnh giao thông ở ngã tư các phố Main và Water. Hai người đi tuần các phố bằng xe cảnh sát. Người thứ tư trả lời các chuông điện thoại gọi đến đồn cảnh sát. Người thứ năm lo công việc văn phòng. Còn thủ trưởng thì tiếp
xúc với công chúng: nào các bà đến phàn nàn là họ không thể ngủ được vì tiếng ồn thường xuyên - hai quán bar của thị trấn là "Gấu Randy" và "Saxon’s" về đêm cũng không đóng cửa, nào các chủ nhà bất bình về việc trên bãi tắm đầy những bọn ma cà bông đủ loại vi phạm trật tự an ninh; nào các chủ nhà băng, những người môi giới buôn bán và các luật gia đang nghỉ ở thị trấn - họ đến để nói về việc làm thế nào giữ Amity ở dạng nguyên khởi và đồng thời bảo đảm cho nó tiếng tăm của một nơi nghỉ mát mùa hè tuyệt vời.
Trực từ bốn giờ chiều đến nửa đêm thật là vô bổ, đấy là thời gian mà lũ thanh niên vô công rồi nghề của một trong các "Hampton"[5] thường tụ tập ở quán "Gấu Randy" và gây sự đánh nhau hoặc nhậu nhẹt thả cửa đến mức sau đó, khi đã ngồi vào tay lái, trở thành một hiểm họa không nhỏ trên đường, đó là thời gian mà (không thường xuyên nhưng cũng vẫn xảy ra) bọn cướp từ Queens[6]từng tụi hai ba đứa tấn công khách qua đường trong những hẻm phố tối tăm và cướp bóc họ; cũng vào thời gian này, một tháng hai lần, sau khi đã thu thập được kha khá chứng cớ, cảnh sát lại vây ráp một trong những ngôi nhà bên bờ biển
để tịch thu marijuana[7]. Sáu người trực từ bốn giờ đến nửa đêm, sáu con người lực lưỡng nhất của cảnh sát, tất cả đều ở quãng tuổi từ ba mươi đến năm mươi.
Từ nửa đêm đến tám giờ sáng theo lệ thường là yên ả. Nhất là sau khi mùa nghỉ hè kết thúc. Sự kiện lớn nhất vào mùa đông năm ngoái là cơn giông, vì nó mà hệ thống tín hiệu nối bốn mươi tám hộ giàu nhất Amity với đồn cảnh sát bị hỏng. Thông thường vào dịp hè từ nửa đêm đến tám giờ sáng có ba cảnh sát trực. Nhưng hiện giờ một trong số đó, anh chàng thanh niên Dick Angelo, đã nghỉ phép hai tuần trước khi mùa nghỉ lên đến cao điểm. Còn người kia, Henry Kimble, đã tại ngũ trong quân đội ba chục năm, giờ thích trực từ nửa đêm đến tám giờ sáng, vì như thế thì anh ta có cơ ngủ đẫy giấc trước giờ làm một công việc khác - ban ngày anh ta đi làm ở quán "Saxon’s". Hendricks cố bắt liên lạc bằng vô tuyến với Kimble, để tay này đi tuần dọc bãi tắm ven đường Old Mill nhưng, như anh đã dự đoán, cố gắng của anh đã không đem lại kết quả. Kimble, như mọi khi, đang ngủ say trong chiếc ôtô cảnh sát đậu ở phía sau hiệu thuốc. Bởi thế nên Hendricks nhấc máy và quay số điện thoại nhà ở của thủ trưởng mình.
Brody đang ngủ, nhưng đấy là trạng thái thính nhạy nửa ngủ nửa thức, lúc mà các hình ảnh thay đổi kế tiếp nhau và sắp sửa đến lúc tỉnh giấc. Khi hồi chuông điện thoại đầu tiên vang lên thì Brody đang mơ thấy mình hồi còn đi học và đang xô lấn một cô bé nào đó trên ô cầu thang. Hồi chuông thứ hai cắt đứt cơn mơ. Brody nhào dậy và nhấc ống nghe lên.
- Thưa thủ trưởng, Hendricks đây ạ. Tôi rất không muốn quấy nhiễu thủ trưởng sớm thế này, nhưng...
- Mấy giờ rồi?
- Năm giờ hai mươi ạ.
- Leonard, chắc là cậu không đánh thức mình vì một chuyện vớ vẩn chứ?
- Có lẽ chúng ta sẽ phải giải quyết vụ một cô trôi nổi, thủ trưởng ạ.
- Trôi nổi? Trời ạ, thế là cái đếch gì vậy? Từ "trôi nổi" Hendricks lôi từ cuốn tiểu thuyết trinh thám của mình ra.
- Một cô chết đuối, - anh ta lúng túng giải thích kể cho Brody nghe chuyện cú điện thoại của Foote. - Tôi nghĩ có thể anh muốn kiểm tra việc này trước khi người ta kéo nhau ra bãi tắm. Có vẻ như hôm nay đẹp trời lắm đấy.
Brody cố tình thở dài nặng nề.
- Kimble đâu? - anh hỏi và lại mau chóng nói tiếp: - Vả lại, có họa ngốc mới hỏi câu ấy. Sẽ có lúc đến phải lắp vào cái đài trong chiếc ôtô của anh ta một thiết bị khiến anh ta không thể tắt đài đi được ấy.
Hendricks đợi một lát rồi tiếp tục nói: - Thưa thủ trưởng, như tôi đã nói, tôi rất không muốn làm phiền thủ trưởng... - Ừ tôi biết rồi, Leonard ạ. Cậu gọi điện thoại thế là đúng. Một khi tôi đã tỉnh giấc rồi thì tôi cũng có thể dậy được. Tôi sẽ cạo râu, tắm một cái, uống cà phê rồi trên đường đến đồn, tôi sẽ ghé vào bãi tắm ở đường Old Mill và đường Scotch xem cái cô "trôi nổi" của cậu có tình cờ ló mặt ra không. Sau đó, khi nào bắt đầu phiên trực ban ngày, tôi sẽ lại nhà nói chuyện với Foote và anh bạn của cô gái. Thế nhé.
Brody đặt ống nghe xuống và vươn vai. Anh nhìn vợ đang nằm cạnh mình trên chiếc giường đôi. Chuông điện thoại đã làm chị thức giấc, nhưng khi biết là không có chuyện gì đặc biệt thì chị đã lại đắm mình vào giấc ngủ.
Ellen Brody ba mươi sáu tuổi, chị trẻ hơn chồng năm tuổi, nhưng nguyên chuyện nom
chị chỉ suýt soát ba mươi đã gây cho Brody đồng thời cảm giác hãnh diện lẫn bừng bực: hãnh diện bởi vì sắc đẹp và sự trẻ trung của vợ chứng tỏ anh là một người đàn ông có thẩm mỹ và chưa mất đi sự hấp dẫn; bừng bực bởi vì chị biết giữ sắc đẹp và sự trẻ trung, tuy đã có ba mặt con trai rồi, còn Brody thì đang lo lắng về huyết áp và cái bụng bắt đầu phình ra của mình, tuy thực ra anh chưa thể gọi là béo được, cân nặng mới chỉ hai trăm pao với chiều cao sáu bộ một insơ. Thỉnh thoảng vào dịp hè Brody có bắt gặp mình đang thèm thuồng nhìn những cô gái tươi trẻ, chân dài, tung tăng trong thị trấn với vẻ hãnh diện, bộ ngực không có gì nịt đỡ rung rung dưới lần vải mỏng. Nhưng chưa bao giờ anh được khoan khoái nhẹ nhõm khi nhìn các cô gái ấy, bởi lẽ còn bị dằn vặt vì nỗi thấp thỏm là không biết Ellen có bị sự khích động ấy choán lấy không trước cảnh những chàng thanh niên cân đối, da rám nắng, đi bên cạnh những cô gái chân dài kia nom rất nổi. Chỉ cần nghĩ tới đó là anh thấy cụt hứng ngay, bất giác anh lại cảm nhận được một cách sâu sắc rằng anh đã ngoại bốn mươi, và phần lớn cuộc đời đã trôi qua rồi.
Mùa hè là mùa nặng nề đối với Ellen Brody, cứ hễ đến là những ý nghĩ mà chị vẫn thường
xuyên xua đuổi lại ùa đến chi phối chị với một sức mạnh mới, - những ý nghĩ về những cơ hội đã tiêu tan và về một cuộc sống mà đáng lẽ chị phải có. Ở đây chị đã gặp những người đã cùng khôn lớn với chị: những bạn học cùng lớp, - giờ họ đã lấy những ông chủ ngân hàng và những người môi giới chứng khoán, mùa hè họ ở Amity, mùa đông thì ở New York, - những phụ nữ đẹp, tự tin, chơi tennis thanh thoát và thoải mái, những người vẫn đùa cợt với nhau (điều này thì Ellen không còn bán tín bán nghi chút nào) về chị: Ellen Shepherd đã buộc phải lấy chính cái tay cảnh sát đã ban cho nó một đứa con ở ngay ghế sau của chiếc xe "Ford" đời năm 1948 ấy.
Nhưng sự việc hoàn toàn không phải như vậy. Ellen vừa bước vào tuổi hăm hai khi cô làm quen với Brody. Cô còn phải học nốt một năm nữa ở Wellesley, cô đến Amity nghỉ hè với cha mẹ. Sau khi hãng quảng cáo nơi bố cô làm việc đã chuyển ông từ Los Angeles lên New York, thì gia đình cô vẫn tới đây trong suốt mười năm. Khác với các cô bạn của mình, Ellen Shepherd không vội lấy chồng, tuy cũng không loại trừ khả năng là sau khi tốt nghiệp đại học một hai năm, cô sẽ tìm cho mình một tấm chồng từ cùng một môi trường, một vị trí
xã hội và vật chất như cô. Nghĩ đến chuyện đó, cô chẳng cảm thấy hân hoan hay buồn bã gì cả. Cũng như mẹ cô, cô thỏa mãn với sự phong lưu tàm tạm mà bố cô, người chủ gia đình đã bảo đảm cho mẹ con cô. Nhưng cô chẳng hề ước muốn sống một cuộc đời giống hệt như của cha mẹ cô. Nhiều vấn đề sinh hoạt bình thường mà cô đã có dịp chạm phải, đã gieo vào trong cô một nỗi buồn man mác. Bản tính Ellen là thẳng thắn và cởi mở, cô vẫn tự hào rằng năm 1953, hồi còn học phổ thông tại Miss Porter’s School, cô đã được biểu dương là học trò trung thực nhất và điều đó đã được ghi vào sổ lớp.
Họ gặp nhau lần đầu tiên vào lúc Brody đang thực thi công vụ. Anh đã giữ cô lại, nói đúng hơn là giữ chàng hiệp sĩ của cô lại, người đang chở cô về nhà. Lúc ấy đã khuya rồi. Anh bạn cô, sau khi đã nốc nhiều rượu, phóng xe với tốc độ lớn trên các phố rất hẹp. Anh cảnh sát đã ra cản đường xe. Sự trẻ trung, vẻ ngoài dễ chịu và sự lịch thiệp đã gây được ấn tượng với Ellen. Sau khi nói rằng họ đã vi phạm luật giao thông, anh cảnh sát đã giữ chìa khóa xe của họ lại rồi đưa cả hai người ai về nhà nấy.
Hôm sau Ellen đi mua sắm trong thị trấn và hoàn toàn tình cờ lại tới ngay cạnh ngôi nhà
đóng đồn cảnh sát. Tinh nghịch, cô bước vào tòa nhà hỏi xem ai trong số cảnh sát viên đã trực quãng gần nửa đêm hôm qua. Thế rồi khi về nhà, cô đã viết một mẩu thư cho Brody cám ơn anh, đồng thời cô cũng viết cho đồn trưởng cảnh sát khen ngợi chàng thanh niên Martin Brody. Brody đã gọi điện cho cô bày tỏ lòng biết ơn.
Khi anh mời cô đi ăn tối và đi xem phim, cô nhận lời mời phần nhiều vì hiếu kỳ. Trước kia, hãn hữu lắm cô mới có dịp trò chuyện với một cảnh sát, còn chuyện hẹn hò với một cảnh sát thì quả là chưa hề có bao giờ. Brody cảm thấy không được tự nhiên, nhưng Ellen có vẻ biểu lộ sự hứng thú chân thành đối với anh và công việc của anh đến mức làm anh trở nên tự tin hơn, rõ ràng anh đã thấy thích cô. Vả lại, Ellen cũng thấy anh đáng yêu: cường tráng, khiêm nhường, tốt bụng, chân thành. Anh làm cảnh sát đã sáu năm. Brody bộc bạch rằng mơ ước của anh là trở thành cảnh sát trưởng Amity, có các con trai để mùa thu anh dẫn chúng đi săn vịt, rồi dành dụm được đủ tiền để hai ba năm một lần có thể đi nghỉ ở đâu đó.
Họ lấy nhau vào tháng mười một năm ấy. Bố mẹ Ellen một mực bảo cô hãy học xong đại học đi đã, Brody cũng sẵn sàng chờ đến mùa
hè sang năm. Nhưng Ellen quyết không chịu hiểu rằng thêm một năm học nữa thì có ý nghĩa gì trong đường đời mà cô đã chọn cho mình.
Vào những năm đầu chung sống đôi khi lại nảy ra những tình thế khó xử. Chả là bạn bè Ellen vẫn mời họ đến ăn cơm hoặc đi picnic bên bờ biển và họ thường nhận lời, nhưng Brody cảm thấy khó chịu, lạc lõng khi nhận thấy thái độ kẻ cả đối với mình. Còn khi hai vợ chồng gặp gỡ với bạn bè của Brody thì những người này tỏ ra giữ kẽ, như thể sợ lỡ có điều gì đó không phải. Dần dà sự lúng túng cũng mất đi, quan hệ thân tình được củng cố. Nhưng hai vợ chồng không bao giờ xuất hiện trong đám bạn bè cũ của Ellen nữa. Và tuy chị đã gột bỏ được nhãn hiệu "dân đi nghỉ" và chiếm được cảm tình của dân gốc Amity, chị cũng khó mà từ bỏ được hết những gì chị đã quen trước khi lấy chồng. Đôi lúc Ellen có cảm tưởng như là chị đã chuyển sang ở một đất nước khác.
Ấy thế nhưng mãi đến gần đây sự đoạn tuyệt với quá khứ bắt đầu gây băn khoăn cho chị. Chị hết sức hạnh phúc và quá bận việc giáo dục con cái để có thể cho phép mình nghĩ nhiều đến các cơ hội mà chị đã bỏ qua. Nhưng khi cậu con trai út bắt đầu đi học, thì bỗng
nhiên chị cảm thấy quanh mình một nỗi trống rỗng và bắt đầu hay để tâm tư hồi tưởng lại xem thì giờ trong ngày của mẹ chị đã được lấp đầy như thế nào khi con cái đã bắt đầu rời bà: đi cửa hàng (việc này đem lại sự khoan khoái vì tiền có đủ để mua mọi thứ chỉ trừ những vật đắt nhất), ăn uống với bạn bè, chơi tennis, tổ chức các buổi cocktail, picnic vào cuối tuần. Và những gì trước kia đã gieo nỗi buồn man mác vào lòng chị, những gì có vẻ nhỏ mọn và nhàm chán, trong tâm tưởng của chị bây giờ lại hiện ra như cuộc sống thiên đường.
Ellen toan nối lại các mối liên hệ với những người bạn mười năm nay chị không gặp, nhưng chẳng còn đâu những nỗi niềm quan tâm hứng thú chung nữa. Ellen say sưa kể về xã hội ở đây, những sự kiện các loại ở thị trấn, về công việc hộ lý của mình ở bệnh viện Southampton - về tất cả những gì mà đám bạn bè cũ của chị, có nhiều người mùa hè nào trong hơn ba chục năm cũng đến Amity, ít biết, vả lại cũng không muốn biết. Còn họ thì nói về những sự kiện của đời sống New York, về các bảo tàng tranh, về các họa sĩ và các nhà văn mà họ đã quen biết. Sau đó họ nhớ lại một chuyện gì đó từ thuở hoa niên, nhớ đến những bạn bè cũ - giờ đang ở đâu nhỉ? Đa số
các câu chuyện chấm dứt ở đó. Lần nào khi chia tay, ai nấy đều thề thốt, hứa hẹn sẽ gọi điện cho nhau và sẽ lại tập họp cùng nhau.
Thỉnh thoảng Ellen đã thử bắt quen với những người bạn mới trong khách sạn vãng lai, nhưng những cuộc làm quen này gượng gạo và không bền. Lẽ ra những cuộc làm quen ấy có thể tiến triển thành tình bạn, nếu như Ellen ít ngại ngùng về ngôi nhà của mình, về công việc của chồng với đồng lương ít ỏi. Bao giờ chị cũng cho tất cả những người quen mới của mình hay rằng hồi trước khi lấy chồng chị đã có một vị trí khác trong xã hội. Chị hiểu rằng đúng ra chị không nên làm như vậy, và tự ghét mình về việc đó, vì chị da diết yêu chồng, thương quý con cái và đa số thời gian trong năm chị thấy hoàn toàn hài lòng với số phận của mình.
Bây giờ chị không còn xông xáo vào đám những người đi nghỉ, không cố trở về với cái tôi ngày xưa nữa, nhưng sự bực dọc và nỗi buồn bã vẫn không tan hết. Chị cảm thấy mình bất hạnh và quy tình trạng không toại nguyện của mình chủ yếu cho chồng, người hiểu tâm trạng của chị và đã kiên nhẫn chịu đựng tất cả những sự làm mình làm mẩy của chị. Hàng
năm chị những muốn quên đi cả mùa hè bằng một giấc ngủ say.
Quãng sáu rưỡi, Brody ngoặt sang đường Old Mill. Mặt trời đã lên khá cao. Nó đã đánh mất ráng hồng trước lúc bình minh và đã chuyển thành màu da cam. Trên trời không một gợn mây. Chủ các ngôi nhà bên bờ đại dương không có quyền cản trở lối đi giữa các ngôi nhà. Lối ra biển phải được thông tự do. Nhưng trong đa số các trường hợp những lối đi này bị chiếm giữ hoặc bị chắn bởi các bụi cây râm[8]làm hàng rào. Từ đường cái không trông thấy bãi tắm. Brody chỉ có thể trông rõ đỉnh các đụn cát thành thử cứ cách trăm yát anh lại phải dừng xe và chui ra xem xét bãi tắm.
Chẳng chỗ nào anh trông thấy người chết đuối cả. Trên cả khoảng trắng mênh mông có vài mẩu cành cây cong queo, một hai lon đồ hộp và một dải dài, chiều rộng hơn một yát, toàn cỏ lá, rong rêu biển mà ngọn gió nam đưa trôi vào bờ.
Đại dương yên tĩnh, nếu có thi thể nào nổi trên mặt thì ắt anh phải thấy. "Còn nếu như nó nằm dưới nước, - Brody nghĩ, - thì chỉ còn cách đợi đến khi nó dạt vào bờ".
Đến bảy giờ thì Brody đã xem xét toàn bộ bãi tắm dọc đường Old Mill và đường Scotch, nhưng chẳng thấy có gì khác thường, anh chỉ chú ý đến chiếc đĩa giấy trên có đặt ba cái cốc, miệng hình răng cưa, cắt từ vỏ cam ra, - dấu hiệu chắc chắn của việc vào mùa hè này đám dân đặc biệt thanh lịch đã đổ đến Amity. Brody đi ngược trở lại đường Scotch, sau đó quặt vào thị trấn theo con đường Bayberry và tới đồn cảnh sát lúc đã quá bảy giờ. Khi Brody bước vào, Hendricks đang viết những dòng nhận xét cuối cùng để giao ban. Dường như anh ta ngán ngẩm vì Brody không lôi về được một cái xác nào.
- Không may nhỉ, thủ trưởng? - anh ta hỏi. - Điều đó còn phụ thuộc vào việc cái gì cậu cho là may, còn cái gì là không may, Leonard ạ. Tôi chưa tìm thấy xác. Kimble đã ló mặt đến chưa?
- Chưa ạ.
- Thôi được. Hy vọng là cậu ta đã tỉnh ngủ rồi. Tôi đang mường tượng ra cái cảnh: thiên hạ người ta đã đi cửa hàng rồi, mà thằng cha cảnh sát vẫn còn khò khò trong xe.
- Anh ta sẽ vác mặt đến đây vào lúc tám giờ, - Hendricks nói. - Anh ta bao giờ cũng lái
xe đến vào giờ ấy.
Brody rót cho mình một tách cà phê, vào phòng làm việc của anh và bắt đầu xem các báo buổi sáng - số sớm tinh mơ của "New York Daily News" ("Tin hàng ngày New York") và tờ báo địa phương của Amity "Leader" ("Thủ lĩnh"), mùa đông ra hàng tuần và mùa hè thì ra hàng ngày.
Kimble đến lúc tám giờ kém năm. Bộ dạng anh ta như thể anh ta đã để nguyên quân phục mà ngủ. Kimble ngồi xuống cạnh Hendricks và uống cà phê đợi cho hết ca trực. Hendricks được thay ca vào tám giờ, anh khoác chiếc áo da vào người toan ra về thì Brody từ phòng làm việc của mình bước ra.
- Mình đánh xe đến chỗ Foote đây, Leonard, - Brody nói. - Cậu có hứng nhập bọn với mình không? Cũng chả nhất thiết, nhưng mình nghĩ có lẽ cậu cũng muốn giải quyết đến ngọn ngành cái vụ với... cái cô "trôi nổi" ấy? - Brody mỉm cười.
- Tất nhiên là sẵn lòng rồi, - Hendricks nói. - Hôm nay tôi chả có việc gì nữa, mà ngủ cho đẫy giấc thì để đến trưa cũng được.
Họ lên xe của Brody. Khi xe đã dừng lại trước nhà Foote, Hendricks bảo:
- Xin cuộc với thủ trưởng là họ còn đang ngủ. Tôi còn nhớ chuyện hè năm ngoái có một phụ nữ gọi điện vào lúc một giờ đêm, yêu cầu sáng tôi đến, đến sơm sớm vào, vì chị ta áy náy dường như là một phần đồ trang sức quý giá đã biến đâu mất. Tôi bảo với chị ta là có thể đi ngay lập tức được, nhưng chị ta không đồng ý, nói là còn ngủ. Tóm lại đúng mười giờ sáng tôi có mặt ở nhà chị ta thì chị ta ấn tôi ra khỏi cửa. Chị ta kêu: "Tôi có bảo anh đến vào cái giờ sớm bảnh mắt này đâu".
- Để rồi xem, - Brody trả lời. - Nếu quả thực họ đang lo lắng cho tính mạng của tiểu thư kia thì chưa chắc họ đã ngủ.
Cánh cửa mở ra ngay.
- Chúng tôi vẫn đợi tin của các ông, - một người đàn ông trẻ tuổi nói. - Tôi là Tom Cassidy. Các ông đã tìm thấy cô ấy rồi chứ?
- Tôi là Brody, trưởng đồn cảnh sát. Còn đây là cảnh sát viên Hendricks. Ông Cassidy ạ, chúng tôi chưa tìm ra cô ấy. Có thể vào được chứ?
- Ờ được được. Xin lỗi các ông. Các ông vào phòng khách đi. Để tôi gọi vợ chồng Foote nhé.
Sau quãng chừng năm phút thì Brody đã biết hết tất cả những gì theo ý anh là cần thiết. Tiếp đó anh đề nghị cho xem mớ quần áo của người phụ nữ đã mất tích - không phải vì hy vọng khám phá thêm được điều gì mới, mà chẳng qua chỉ muốn biểu thị cho họ biết, những người cảnh sát thực thi trách nhiệm của mình một cách tận tâm như thế nào. Anh được dẫn vào phòng ngủ và anh xem xét đống quần áo để trên giường.
- Cô ấy không mang theo áo tắm à? - Không, - Cassidy đáp. - Nó còn nằm ở ngăn kéo trên kia kìa. Tôi đã xem rồi. Brody im lặng trong giây lát để lựa lời, sau đó nói:
- Ông Cassidy ạ, tôi không muốn tỏ ra bất lịch sự, nhưng cô Watkins này không có chút tính khí kỳ quặc nào chứ? Chẳng hạn, có thói quen ra khỏi nhà giữa đêm khuya... hoặc đi chơi mà cởi truồng?
- Không, theo chỗ tôi được biết, - Cassidy nói. - Nhưng tôi cũng không biết rõ cô ấy lắm. - Rõ rồi, - Brody nói. - Đã vậy thì tôi cho rằng chúng ta nên vòng ra bãi tắm lần nữa. Ông cũng chả nhất thiết phải đi. Tôi với Hendricks là được rồi.
- Nếu các ông không phản đối thì tôi sẽ đi với các ông.
- Tôi không phản đối đâu. Tôi lại cứ nghĩ có lẽ ông không thích đi.
Ba người đi ra bãi tắm. Cassidy chỉ cho hai cảnh sát chỗ anh đã ngủ thiếp đi - trên cát còn in hình thân anh - và chỗ để quần áo của người phụ nữ. Brody đưa mắt nhìn bãi tắm một lượt. Quãng hơn một dặm, cả phía bên này lẫn phía bên kia, bãi tắm vắng tanh, chỉ có những mớ rong biển tụ thành những đốm đen trên nền cát trắng.
- Ta đi dọc đây một chút, - anh đề nghị. - Leonard, cậu đi sang phía đông, đấy, đến chỗ doi đất kia kìa. Ông Cassidy, tôi với ông sẽ đi về phía tây. Cậu có cầm theo cái còi đấy chứ, Leonard? Để phòng sẵn.
- Vâng, - Hendricks đáp. - Tôi cởi giày ra được không? Đi như thế trên cát ẩm dễ hơn, mà giày cũng khỏi bị ướt.
- Đối với cá nhân mình thì thế nào chả được, - Brody lên tiếng, - ca trực của cậu đã hết rồi. Cậu có thể cởi cả quần áo ra, nếu cậu muốn. Nhưng lúc ấy mình sẽ bắt phạt cậu vì hành vi không đứng đắn.
Hendricks bước về hướng đông. Cát ẩm mềm cứ lành lạnh dưới chân. Hendricks vừa đi vừa cúi đầu và cho tay vào túi, mắt nhìn những vỏ ốc và những búi rong rêu. Những loại
côn trùng nào đó, giống như những chú nhện đen be bé, bay dưới chân anh, còn khi sóng dềnh lên thì anh trông thấy từ các lỗ con con do giun dế đào dưới cát, lại sủi lên những bọt tăm không khí. Anh khoan khoái với cuộc đi dạo này. Kể cũng lạ, anh nghĩ, là mình sống ở đây cả đời rồi mà hầu như không làm cái việc mà vì nó khách du lịch đã đến đây, tỉ dụ như không lững thững đi dạo bãi tắm, không thả mình xuống tắm ở đại dương. Anh không còn nhớ đã tắm biển lần cuối cùng vào dạo nào. Thậm chí không rõ là có còn quần bơi nữa không hay đã đánh mất rồi. Cũng giống như anh nghe kể về dân New York - đâu như một nửa trong số họ chưa bao giờ leo lên mái nhà chọc trời Empire State Building[9], hay chưa lần nào đến bên tượng Nữ thần Tự do.
Chốc chốc Hendricks lại ngẩng đầu lên xem còn cách xa doi cát không. Đã mấy lần anh quay lại, - nhỡ đâu Brody và Cassidy đã tìm ra cái gì đó. Họ đang ở cách anh quãng nửa dặm. Đi thêm được một đoạn nữa, Hendricks trông thấy ở phía trước một đống cỏ
rả rong rêu có vẻ quá to. Khi còn cách ba chục yát, anh nghĩ: chỗ rong rêu kia chắc là phải quấn vào cái gì đó. Tới đống rong rêu ấy rồi, Hendricks cúi người xuống để gỡ tí rong rêu ra, thì bất thình lình sững người lại. Anh nhìn không rời mắt trong mấy giây, toàn thân cứng đờ vì khủng khiếp. Sau đó lục trong túi quần ra cái còi, anh đặt lên môi toan thổi mà không tài nào thổi được. Hendricks muốn lộn mửa. Anh lảo đảo rồi khuỵu đầu gối xuống.
Trên cát, quấn trong mớ rong rêu là một cái đầu đàn bà. Còn nguyên cả hai vai, một phần tay và khoảng một phần ba khúc thân. Khắp da lốm đốm những vết thâm, các bắp thịt lầy nhầy từng nhúm. Trong khi ruột gan Hendricks đang lộn tùng phèo, anh nghĩ bụng - và điều này lại gây nên cơn buồn nôn mới, - rằng phần ngực còn lại của người đàn bà phẳng chẳng khác nào bông hoa ép trong sách.
- Hượm đã, - Brody vừa nói vừa với tới tay Cassidy. - Tôi nghe như có tiếng còi ấy. Nheo mắt lại vì ánh nắng buổi sáng, anh dõi nhìn cái đốm sẫm trên cát, đó rõ ràng là Hendricks, và anh lại nghe tiếng còi, giờ đã rõ hơn.
- Ta chạy nhé, - anh nói.
Hendricks vẫn còn đang quỳ khom khom khi hai người chạy tới. Anh không còn buồn nôn nữa, nhưng đầu cứ ngật ngưỡng trên vai, miệng thì ho ra, anh thở to, đứt quãng. Brody chạy vượt lên trước Cassidy mấy bước.
- Ông Cassidy, hãy đợi một chút nhé, được không? - Brody lên tiếng, sau khi đã vén lớp rong rêu đi. Trông thấy đó là cái gì rồi, anh bắt đầu có cảm giác như cổ họng tắc ứ lại. Brody nuốt nước bọt và nhắm mắt lại. Một phút sau anh mới nói: - Giờ thì ông có thể xem được rồi, ông Cassidy ạ. Hãy nói xem có phải cô ấy không nào?
Cassidy đứng im không nhúc nhích. Anh ta lúc thì nhìn Hendricks đang kiệt sức trong tư thế quỳ, lúc thì nhìn đám rong rêu.
- Đây à? - Anh ta vừa nói vừa chỉ cái đống bầy nhầy rồi bất giác lùi lại. - Ông muốn nói là...
Brody vẫn ra sức nén cảm giác buồn nôn. Anh đáp:
- Tôi nghĩ rằng đây là tất cả những gì còn lại của cô ấy.
Cassidy miễn cưỡng tiến lại gần. Brody vạch lớp rong rêu để anh ta có thể nhìn rõ
khuôn mặt màu xám với cái miệng há hốc. - Trời ơi! - Cassidy thốt lên rồi lấy tay áp chặt vào miệng.
- Có phải cô ấy không?
Cassidy gật đầu, mắt vẫn không rời bộ mặt người chết. Sau đó anh ta quay đi và hỏi: - Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy nhỉ? - Tôi cũng không biết đích xác, - Brody đáp. - Theo tôi thì cô ấy bị cá mập tấn công. Đầu gối Cassidy xiêu xiêu, và sau khi đã bệt người xuống cát, anh ta lẩm bẩm: - Hình như tôi sắp nôn thì phải. - Anh ta rũ đầu xuống và nôn.
Brody ngửi thấy mùi nôn mửa, đã hiểu rằng có cưỡng lại cũng vô ích.
- Tôi cũng nhập hội với các anh đây, - anh vừa nói xong là nôn thốc ra.
3
Mấy phút sau Brody đứng dậy và tiến lại chiếc ôtô. Phải gọi xe cấp cứu từ bệnh viện Southampton mới được. Một tiếng sau chiếc xe tới. Thi thể, nói đúng hơn là phần trên của nó, được bỏ vào cái bị cao su và được chở đi.
Đúng mười một giờ Brody đã ngồi trong phòng làm việc của mình và lập biên bản về vụ tai nạn.
Anh đã viết xong hết, chỉ còn điền nốt mục "nguyên nhân chết" nữa thôi, thì có tiếng chuông điện thoại vang lên.
- Carl Santos đây, Martin đấy phải không? - Brody nhận ra ngay giọng của điều tra viên tư pháp.
- Phải, Carl ạ. Ông muốn nói với tôi cái gì nào?
- Nếu ông không có căn cứ để cho rằng đã xảy ra một vụ giết người, thì tôi có thể nói rằng đó là tại cá mập.
- Giết người ư? - Brody hỏi lại.
- Cá nhân tôi thì không nghĩ như thế. Nhưng tôi có thể giả định, tuy rất khó tin, rằng
một kẻ rồ dại nào đó đã đàn áp nạn nhân bằng rìu và cưa.
- Không, đấy không phải một vụ giết người, Carl ạ. Không có lý do để giết, không có công cụ để gây tội ác, và không có kẻ bị tình nghi, nếu xét đoán một cách lý trí.
- Thế thì là cá mập. Lại phải là đồ to khỏe lắm đấy. Đây cũng không phải là chân vịt tàu thủy chuyên tuyến. Phải nó thì nó đã chẻ đôi cô gái ra cơ, nhưng đằng này...
- Đủ rồi, Carl, - Brody cắt ngang. - Ta sẽ không thảo luận chi tiết. Không thì ruột gan tôi lại tùng phèo lên bây giờ.
- Xin lỗi Martin. Thế thì tôi sẽ ghi là cá mập tấn công. Tôi cho là giả thuyết này hợp với ông nhất, nếu như ông không... có những ý kiến đặc biệt.
- Không, - Brody nói. - Lần này thì không. Cám ơn ông đã gọi điện, Carl ạ.
Anh đặt ống nghe xuống, điền vào mục "nguyên nhân chết" mấy chữ "Bị cá mập tấn công" rồi ngả người ra lưng ghế.
Ý nghĩ rằng trong việc này có thể có những dự kiến đặc biệt trước kia chưa nảy ra trong đầu anh. Những dự kiến đặc biệt này đôi khi đặt anh vào những tình thế tế nhị khó xử, khi
anh buộc phải tìm kiếm phương pháp bảo vệ lợi ích chung để khỏi làm hại đến thanh danh cả của mình lẫn của pháp luật.
Mùa nghỉ chỉ vừa mới bắt đầu, và Brody hiểu rằng: sự yên ổn của Amity trong suốt cả năm tùy thuộc vào việc ba tháng hè này sẽ trôi qua như thế nào. Một mùa nghỉ thành tựu sẽ tạo cho thị trấn khả năng sống không đói kém cho đến những tháng hè năm sau. Mùa đông, dân số Amity là một nghìn người, còn vào một mùa hè tốt đẹp số lượng người tăng đến chục nghìn. Và chín nghìn người đi nghỉ đảm bảo cho sự sinh tồn của một nghìn dân sở tại trong cả năm.
Chủ các cửa hàng kim khí, hàng thể thao và chủ hai trạm tiếp xăng, chủ dược phẩm - ai ai cũng trông cậy vào mùa hè lời lãi sẽ giúp họ đứng vững được qua mùa đông. Vợ đám thợ mộc, thợ tiện, thợ sửa ống nước đến hè là lại làm phục vụ ăn uống hoặc làm nhân viên các công ty bán bất động sản để nuôi sống gia đình trong mùa đông. Ở Amity chỉ có hai cơ sở có quyền buôn bán rượu quanh năm, cho nên đối với đa số các hiệu ăn và quán bar thì ba tháng hè có ý nghĩa quyết định. Còn đám dân đánh cá cho thuê tàu thuyền, thì cần có thời
tiết tốt và sự cắn câu mau mắn, nhưng trước hết là cần có khách hàng.
Ngay cả sau những dịp hè thuận lợi nhất thì mùa đông ở Amity cũng vẫn khó khăn. Cứ mười gia đình thì có ba sống bằng tiền trợ cấp. Nhiều kẻ nam nhi mùa đông buộc phải lên bờ bắc đảo Long Island để gia công các mái chèo con con cốt lĩnh được vài đôla một ngày.
Brody biết rằng: chỉ cần một mùa hè không ăn nên làm ra là số người sống vào tiền trợ cấp sẽ tăng gấp đôi. Nếu tất cả các ngôi nhà không được thuê đầy kín, thì người da đen ở Amity sẽ không có việc làm, mà vốn nhiều người trong số họ phục vụ tại các khách sạn, được thuê làm người làm vườn, phục dịch các bar. Hai ba mùa hè khốn khó kéo liền nhau - mà điều này thì ơn Chúa, hai chục năm nay chưa bị - có thể bóp chết thị trấn. Nếu con người ta không có tiền để may sắm quần áo, nhiên liệu và thực phẩm, nếu như họ không có tiền sửa chữa nhà cửa và các tiện nghi sinh hoạt thì các nhà buôn và các công ty dịch vụ công cộng sẽ thua lỗ và không thể trụ đến mùa hè sang năm được. Các cửa hàng sẽ đóng cửa, dân chúng Amity sẽ phải đi mua thực phẩm ở các nơi khác. Thu nhập thuế sẽ đình lại, các cơ quan hành chính sẽ sa sút và sẽ bắt
đầu tràn lan một cuộc bỏ chạy bán xới khỏi thị trấn.
Thành thử dân chúng Amity phải nâng đỡ lẫn nhau, từng người có nghĩa vụ cống hiến phần mình vào sự thịnh vượng của thị trấn. Brody sực nhớ chuyện vài năm trước có hai anh em, hai thanh niên đến Amity và mở xưởng mộc tại đây. Anh em Felix đến vào mùa xuân khi mà công việc có nhiều - người ta đang sang sửa các nhà ở cho du khách, nên họ niềm nở đón tiếp hai anh em. Trong công việc hai anh em này tỏ ra rất thành thạo, thế là nhiều thợ mộc của địa phương san sẻ các đơn đặt hàng với họ.
Nhưng đến giữa hè thì bắt đầu lan ra những tin đồn xấu về hai anh em. Albert Morris, chủ cửa hàng kim khí nói rằng bọn họ mua đinh thép thường, nhưng sau lại tính tiền như đinh tráng kẽm. Ở Amity khí hậu ẩm ướt, mang tính chất biển, nên đinh thép chỉ sau vài tháng là gỉ. Dick Spitzer chủ hộ vật liệu gỗ, đã đưa chuyện với ai đó, rằng anh em nhà Felix đã đặt mua một đợt gỗ chất lượng kém để dùng cho một ngôi nhà ở đường Scotch. Các cửa tủ bị vênh gần như ngay sau khi mắc vào bản lề. Có lần trong quán, Felix anh, tên là Armando đã huênh hoang trước các bạn rượu
của mình rằng hắn khéo léo lừa người đặt hàng ra làm sao: công việc theo hợp đồng chỉ thực hiện hai phần ba mà tiền thì lĩnh cả. Còn Felix em - người ta gọi gã là Danny và mặt gã đầy trứng cá - thì thích trưng với bạn bè các cuốn sách khiêu dâm, đã thế lại còn khoe khoang rằng gã đánh cắp được ở các nhà mà gã đến làm việc.
Thợ mộc sở tại không còn san sẻ đơn đặt hàng với anh em Felix, nhưng tới lúc này hai anh em đã phát tài và có thể ung dung sống qua mùa đông. Chính khi ấy thì tính đoàn kết của dân chúng Amity đã thể hiện ra. Thoạt đầu người ta chỉ nói bóng nói gió với họ rằng họ đã ở lại thị trấn hơi lâu rồi đấy. Armando nghe đến đó chỉ ngạo mạn cười khẩy. Chẳng bao lâu sau đủ thứ khó chịu lặt vặt bắt đầu. Tự dưng tất cả các lốp xe của chiếc ô tô tải nhà hắn xì hết hơi, mà khi hắn gọi điện cho trạm bảo dưỡng thì người ta trả lời là cái máy bơm nén của họ hỏng rồi. Khi hắn cần thay một bình hơi thì các công ty địa phương dây dưa tới những tám ngày. Đơn đặt hàng của hắn đối với vật liệu xây dựng hoặc các vật liệu khác hoặc là không tới đúng địa chỉ hoặc là được thực hiện sau cùng. Tại các cửa hàng trước kia hắn vẫn mua khất thì bây giờ người ta đòi tiền
mặt. Đến cuối tháng mười hãng "Anh em Felix" đã phải cuốn cờ và hai anh em hắn bỏ đi. Phần đóng góp của Brody vào tình đoàn kết hiện tại của Amity - ngoài việc anh duy trì pháp chế và thông qua những quyết định tỉnh táo, chín chắn - còn ở chỗ ngăn chặn mọi tin nhảm, mà nếu ở Amity có xảy ra các tai nạn sự cố gì thì, sau khi thảo luận với Harry Meadows, chủ bút báo "Leader", phải đưa chúng trong mục "Tin tức" dưới ánh sáng cần thiết.
Nếu cảnh sát chặn xe của ai đó trong đám nhà giàu đi nghỉ đang lái xe trong trạng thái có hơi men thì trong sổ ghi chép Brody thích nhận xét - ngay lần vi phạm đầu tiên, - rằng lái xe không mang theo bằng và ở tờ "Leader" tin ấy được đăng tải ngay. Brody luôn luôn cảnh cáo lái xe rằng lần sau, nếu người đó còn dám lái xe trong trạng thái không tỉnh táo thì họ sẽ lập biên bản và đưa ra truy cứu trách nhiệm pháp lý.
Sự hợp tác giữa Brody và Meadows mang tính chất hết sức tinh tế. Nếu có nhóm thiếu niên nào từ thị trấn lân cận đến gây ra ẩu đả ở Amity thì Meadows luôn nắm được thông tin đầy đủ: họ tên, tuổi tác và các lời buộc tội kèm theo. Còn nếu chính đám thanh niên của thị
trấn Amity lộng hành thì trên tờ "Leader" theo lệ thường, chỉ gói gọn một mẩu tin nhỏ không có họ tên và địa chỉ, trong đó thông báo với các bạn đọc rằng ở đâu đó trên đường Old Mill dã xảy ra một vụ vi phạm trật tự xã hội, do đó mà cảnh sát đã được gọi đến.
Bởi vì một vài người đi nghỉ coi "Leader" là tờ báo lý thú và đặt mua quanh năm, nên vấn đề cướp bóc và trấn lột mùa đông ở các biệt thự thanh vắng đã đạt tới mức tế nhị đặc biệt. Đã nhiều năm Meadows bỏ qua vấn đề ấy, dành quyền cho Brody chăm lo việc thông báo cho các chủ biệt thự bị cướp, trừng trị những kẻ phạm pháp và loại trừ các thiệt hại. Nhưng mùa đông năm 1963, trong vòng một tháng đã có mười sáu nhà bị cướp. Brody và Meadows đi đến kết luận rằng đã tới lúc tiến hành trên tờ "Leader" một chiến dịch rộng rãi chống các hành vi phá hoại xã hội. Kết quả của chiến dịch này là tại bốn mươi tám nhà đã lắp hệ thống tín hiệu với đồn cảnh sát, và bởi vì bọn côn đồ không biết nhà nào có hệ thống tín hiệu, nhà nào không nên các vụ cướp gần như chấm dứt. Điều ấy làm nhẹ gánh công việc cho Brody nhiều lắm và nâng uy tín của Meadows lên.
Đôi khi giữa Brody và Meadows cũng nảy sinh những bất đồng. Meadows thì kịch liệt chống bọn ma túy. Thêm nữa ông ta lại có một linh cảm nhạy bén khác thường của anh ký giả, hễ đánh hơi có chuyện gì là ông ta lần theo dấu vết như một con chó săn lão luyện, dĩ nhiên là nếu như không có "những dự kiến đặc biệt" kèm theo. Mùa hè năm 1971, con gái một nhà giàu ở địa phương khi tìm ra thì đã chết. Ở bãi tắm, ngay sát mép nước, gần đường Scotch. Theo quan điểm của Brody thì không có chứng cớ nào về một cái chết do bạo hành cả và vì gia đình cô ta phản đối việc mổ tử thi nên người ta đã chính thức tuyên bố rằng cô gái bị chết đuối.
Thế nhưng Meadows có cơ sở để cho rằng cô gái đã sử dụng ma túy và số ma túy ấy do con trai một chủ nông trại trồng khoai tây cung cấp. Meadows phải mất đến gần hai tháng để gỡ nút vụ này, cuối cùng ông ta đã đòi được mổ tử thi, và phát hiện ra cô gái bị chết đuối sau khi mất tri giác vì một liều hêrôin lớn. Ông đã lần ra kẻ buôn bán hêrôin và cả một băng chuyên tung các chất ma túy ra thị trấn. Vụ này đã làm hại nhiều đến danh tiếng của Amity, còn nặng hơn nữa đến cả bản thân Brody. Kể ra Brody cũng đã tổ chức một
hai cuộc bắt bớ, nhưng việc này có dính dáng đến vấn đề vi phạm pháp luật, nên anh không hoàn toàn ém nhẹm được thiếu sót trong công tác của mình. Còn Meadows thì đã hai lần được tặng các giải thưởng đặc biệt của các nhà báo.
Bây giờ đến lượt Brody khăng khăng đòi tờ báo phải đăng chuyện vừa xảy ra. Anh định đóng cửa bãi tắm trong hai ba ngày cho cá mập có thời gian đi xa khỏi bờ. Anh không rõ là sau khi đã nếm mùi thịt người rồi, cá mập có đâm ra nghiện hay không (ở hổ thì anh nghe nói là có), nhưng lòng anh đầy quyết tâm bảo đảm an toàn tính mạng cho nhân dân. Lần này anh muốn loan báo công khai, muốn mọi người cảnh giác: phải lo tránh xa mặt nước ra. Brody hiểu rằng anh sẽ phải đụng độ với phái đối lập hùng mạnh chống lại việc đăng báo vụ này. Cũng như các thành thị khác, Amity tiếp tục bị khổ sở vì những hậu quả của suy thoái kinh tế. Đầu mùa hiện giờ còn chưa hứa hẹn tốt đẹp gì. Người thuê nhà nhiều hơn năm ngoái, nhưng chủ yếu là loại "tép riu": những đám thanh niên mươi mười lăm người một đoàn từ New York đến và thuê chung nhà. Ít nhất mười hai ngôi nhà bên bờ biển giá từ bảy đến mười nghìn đôla cả mùa và vô vàn những
ngôi nhà khác giá quãng năm nghìn đôla cho đến giờ vẫn chưa có khách. Cái tin chấn động về cá mập có thể sẽ đưa lại thảm họa cho Amity. Lại nữa, Brody hy vọng rằng một trường hợp rủi ro vào giữa tháng sáu, khi làn sóng những người đi nghỉ còn chưa tràn đến, sẽ bị mau chóng quên đi. Tất nhiên, một tai họa sẽ ít để lại ấn tượng hơn hai hoặc ba. Rất có thể là cá mập đã bỏ đi rồi, nhưng Brody dầu sao vẫn không muốn mạo hiểm với tính mạng con người.
Anh quay số điện của Meadows.
- Chào Harry, - anh nói.. - Hay là ta đi ăn với nhau nhé?
- Tôi cũng đang chờ ông gọi điện đây, - Meadows đáp. - Nhất trí thôi. Ăn ở đằng ông hay đằng tôi nào?
Brody chợt thấy ngay ra rằng anh không nên nói chuyện ăn uống vội. Dạ dày anh vẫn còn sủi réo ùng ục, chỉ nội nghĩ đến ăn là đã thấy buồn nôn rồi. Anh nhìn tấm lịch tường. Thứ năm. Cũng như tất cả những người quen biết khác sống bằng đồng lương eo hẹp, vợ chồng Brody vẫn mua những thứ bán rẻ vào ngày này ở siêu thị. Thứ hai mua thịt gà, thứ ba thịt cừu và cứ thế mà tiếp, sự đa dạng duy
nhất trong thực đơn của họ là rắn đẻn và cá rô - nếu như một ngư dân quen nào đó cho họ. Vào thứ năm bán giá hạ thì có món bít-tết băm. Nhưng thịt băm thì hôm nay Brody trông thấy đã quá đủ rồi.
- Ở đằng nhà ông nhé, - anh nói. - Cứ để cho người ta bưng cho chúng ta món gì đó ở hiệu. Ta sẽ ăn trong phòng làm việc của ông.
- Xong ngay, - Meadows nói. - Gọi cho ông món gì nào?
- Xalát với trứng và một cốc sữa. Tôi sẽ lại đằng ông ngay bây giờ đây. - Brody gọi điện cho Ellen báo sẽ không về ăn cơm nhà.
Harry Meadows người mập thù lù, ngay đến một hơi thở sâu cũng đòi hỏi ở ông ta không ít sức lực đến nỗi những giọt mồ hôi toát ra trên trán. Ông ta gần năm mươi, ăn rất nhiều, hút xì gà rẻ tiền, uống uýt-xki và như ông bác sĩ đã nói, chiếm chỗ hàng đầu trong số các ứng cử viên của bệnh nhồi máu cơ tim lan tràn trong thế giới phương Tây.
Khi Brody bước vào, Meadows đang phẩy khăn mặt xua những cụm khói xì gà về phía cửa sổ để ngỏ.
- Cứ xét theo các món ăn ông gọi cho bữa trưa thì sức khỏe của ông tồi lắm rồi đấy, - ông
ta nói. - Tôi đang thông khí căn buồng đây này. - Cám ơn sự săn sóc của ông.
Brody đưa mắt nhìn cái phòng nhỏ chất đầy báo chí, giấy má để tìm chỗ có thể ngồi được.
- Ông cứ hất khỏi ghế cái mớ lăng nhăng này đi - Meadows nói. - Toàn báo cáo đủ loại đấy mà. Báo cáo từ quận, báo cáo từ bang, báo cáo của ủy ban đường ô tô và của ủy ban cấp nước. Có dễ tốn đến hàng triệu bạc, mà xét về quan điểm thông tin thì chẳng được tích sự gì.
Brody nhấc chồng giấy đặt lên thiết bị lò sưởi. Sau đó anh kéo ghế lại bàn viết và ngồi xuống. Meadows rút trong túi giấy lớn ra bao sữa và miếng bánh mì kẹp nhân bọc giấy bóng rồi đẩy lại phía Brody. Sau đó mới lấy phần ăn của mình ra: bốn gói riêng; ông giở chúng ra và tựa như người thợ kim hoàn trưng bày những đồ châu báu hiếm, ông lần lượt bày một cách nâng niu trước mình khoai tây rán, thịt viên tẩm nước sốt cà chua, dưa chuột ngâm cỡ như quả bí con và một phần tư cái bánh chanh. Ông lôi từ tủ lạnh đặt sau lưng ra một lon bia lớn.
- Rõ ra trò, - Meadows vừa nhìn khắp mặt bàn đồ ăn vừa nói.
- Tuyệt thật, - Brody nuốt cái ợ chua rồi nói. - Tuyệt hết chỗ nói. Tôi đã ăn với ông có dễ đến nghìn lần rồi mà vẫn chưa thể quen với cảnh tượng này được, Harry ạ.
- Mỗi người đều có chỗ yếu của mình, ông bạn ơi, - Meadows vừa vớ lấy miếng bánh mì kẹp nhân vừa nói. - Có kẻ chạy theo vợ người ta. Có kẻ lại thích rượu nặng. Tôi thì tìm lạc thú trong việc vỗ béo cho cơ thể mình.
- Ông nghĩ xem, Dorothy sẽ cảm thấy "lạc thú" như thế nào, khi đến một ngày kia quả tim ông không chịu được nữa phải bảo: vĩnh biệt nhé, anh chàng phàm ăn tục uống, với tôi thế là đủ rồi!
- Tôi đã nói chuyện này với Dorothy, - sau khi tống đầy mồm, Meadows lên tiếng, - và đã đi đến kết luận rằng một trong những ưu việt ít ỏi của con người so với các sinh vật khác là ở chỗ anh ta có thể tự chọn cho mình một cái chết. Sự ăn uống có thể sẽ giết chết tôi, nhưng nó là cái cho tôi lạc thú ở đời. Vả lại, chết vì tham ăn vẫn còn hơn là chết trong bụng cá mập. Sau cái chuyện xảy ra sáng nay thì tôi tin rằng ông sẽ đồng ý với tôi.
Brody chưa kịp nhai hết miếng bánh mì, anh phải nỗ lực lắm mới nuốt nổi.
- Ông thật chẳng biết thương người tí nào, - anh nói.
Họ im lặng ăn trong vài phút. Brody ăn hết phần bánh của mình, uống xong sữa, vo giấy lại thành cục rồi nhét nó vào cái cốc con bằng nhựa. Ngả người ra ghế, anh lấy thuốc hút. Meadows vẫn còn ăn, Brody biết rằng không có gì có thể làm mất sự ngon miệng của bạn mình được. Anh nhớ có một lần, Meadows, khi đã tới nơi xảy ra tai nạn ô tô chết người, vừa hỏi han các cảnh sát và những hành khách còn lành lặn, vừa nhai kẹo.
- Nhân cái chết của cô Watkins, - Brody vào đề, - trong đầu tôi mới phác ra những ý nghĩ như thế này, tôi muốn ông nghe tôi. - Meadows gật đầu. - Thứ nhất là về nguyên nhân cái chết, theo cách nhìn của tôi thì không thể có hai ý kiến. Tôi đã nói với Santos rồi...
- Tôi cũng thế.
- Vậy là ông cũng biết anh ta nghĩ gì. Đó là do cá mập tấn công. Rõ như ban ngày rồi. Nếu như ông có trông thấy thi thể, ông cũng phải nói như vậy
- Tôi đã trông thấy thi thể rồi.
Brody sửng sốt. Không lẽ con người hôm nay vừa mới trông thấy cái đống lầy nhầy ấy, bây giờ lại có thể ung dung ngồi mút nhân bánh chanh ở ngón tay?
- Nghĩa là ông đồng ý với tôi?
- Ừ. Tôi đồng ý rằng cô ấy chết vì bị cá mập tấn công. Nhưng có một loạt những tình tiết mà tôi chưa rõ.
- Ví dụ?
- Ví dụ, tại sao cô ấy lại đi tắm vào thời gian ấy. Ông biết nhiệt độ không khí lúc nửa đêm là bao nhiêu không? Sáu chục độ[10]. Còn nhiệt độ nước? Quãng năm chục[11], phải là người không bình thường mới đi tắm vào cái lúc lạnh như thế.
- Hoặc là người say rượu, - Brody đệm vào. - Có thể. Ừ, mà có lẽ ông nói đúng. Tôi đã cho hỏi rồi: vợ chồng Foote không xài marijuana và các loại cây cỏ tương tự. Tôi đang lo điều khác kia.
Brody cảm thấy bực dọc.
- Thôi, Harry ạ, ông thì chỉ chực đuổi theo những bóng ma thôi. Thật ra thì thỉnh thoảng con người ta cũng chết vì tai nạn.
- Tôi không nói chuyện ấy. Chẳng qua khó mà tin được rằng ở chỗ chúng ta đây lại xuất hiện cá mập, nước hãy còn lạnh kia mà.
- Có thể một số cá mập thích nước lạnh. Chúng ta nào đã biết gì về cá mập? - Có loài cá mập Greenland, nhưng chúng chưa bao giờ bơi về phương nam xa đến như vậy, mà nếu có bơi thì thông thường là chúng không động đến người. Chúng ta biết gì về chúng ư? Tôi xin nói với ông rằng: lúc này đây tôi biết về chúng kỹ hơn nhiều so với ban sáng. Sau khi tôi trông thấy phần thi thể còn sót lại của cô Watkins, tôi đã gọi điện cho một cậu người quen của tôi tại Viện Hải dương học Woods Hole. Tôi đã mô tả cái xác cho cậu ấy nghe, cậu ta bảo rằng cứ theo mọi khía cạnh mà suy thì chỉ có một loại cá mập có thể làm được như vậy thôi.
- Loại nào?
- Cá mập trắng lớn. Có những loài khác cũng tấn công con người, chẳng hạn cá mập hổ, cá mập búa, và có thể cả cá macô và cá mập xanh lơ, nhưng cái cậu này, cậu Hooper - Matt Hooper - đã nói với tôi rằng muốn cắn người phụ nữ làm đôi thì hàm con cá mập phải nặng thế này này, - Meadows giang tay ra một
khoảng chừng ba bộ, - mà loài cá mập duy nhất có hàm như thế và tấn công con người là cá mập trắng lớn. Chúng còn được gọi bằng tên khác nữa.
- Còn tên khác nữa? - Brody đã bắt đầu mất hứng thú. - Tên gì?
- Cá ăn thịt người. Những cá mập khác đôi khi cũng tấn công người vì nhiều lý do khác nhau - khi chúng đói hoặc hoảng sợ một cái gì đó. Hoặc là chúng đánh hơi thấy máu trong nước. À mà này, cái cô Watkins kia đêm hôm qua có thấy tháng không nhỉ?
- Tôi làm thế quái nào mà biết được? - Tò mò thì hỏi vậy thôi. Hooper khẳng định rằng trong trường hợp như thế thì nguy cơ bị cá mập tấn công tăng vọt lên.
- Tất nhiên rồi.
- Cậu ấy bảo rằng cá mập trắng bơi trong nước lạnh ung dung lắm. Mấy năm trước cá mập đã lao vào một thằng bé ở bờ biển San Francisco. Nhiệt độ nước là năm mươi độ.
Brody rít thuốc lá, một hơi sâu. Anh nói: - Quả thực ông đã biết được không ít về chúng.
- Tôi được chỉ đạo bởi... ta gọi đó là ý nghĩ lành mạnh và tôi muốn biết đích xác chuyện gì đã xảy ra và nó có thể lặp lại hay không.
- Vậy thì cái mối nguy hiểm ấy nó có lặp lại không?
- Không. Gần như không tồn tại. Từ đó tôi rút ra kết luận rằng đây là tai họa có một không hai. Cá mập trắng lớn rất hiếm khi gặp, đấy là cái điều tốt duy nhất mà ta có thể nói về chúng. Hooper cho là như vậy. Có đầy đủ cơ sở để coi rằng con cá mập tấn công cô nàng Watkins đã bỏ đi lâu rồi. Ở đây không có đá ngầm. Không có nhà máy cá hộp hay lò mổ súc vật để mà có thể làm rơi rớt máu và ném lòng ruột xuống nước. Tóm lại, không có cái gì có thể hấp dẫn cá mập. - Meadows im lặng và chăm chú nhìn Brody, anh chịu đựng được cái nhìn của ông ta. - Cho nên, Martin ạ, tôi cảm thấy có lẽ không việc gì phải làm mọi người nhốn nháo vì một sự kiện hầu như chắc chắn là sẽ không lặp lại nữa.
- Còn xét xem từ phía nào đã, Harry ạ. Nếu tai biến vừa rồi khó lòng lặp lại, thì tại sao không nói cho mọi người hay là nó đã diễn ra có một lần?
Meadows thở dài.
- Có thể ông nói đúng. Nhưng Martin ơi, đây là một trong những trường hợp mà chúng ta phải được chỉ đạo không phải bằng những quy tắc, mà bằng sự chăm lo đến mọi người. Tôi nghĩ rằng thông báo sự kiện này không đáp ứng gì cho lợi ích của dân chúng. Tôi không ngụ ý dân chúng địa phương. Họ sẽ dược biết tin này khá nhanh, nếu còn chưa biết tin. Còn những người đọc báo "Leader" ở New York, Philadelphia, Cleveland kia thì sao?
- Ông tự phỉnh bản thân nhỉ.
- Đừng có ấm ớ nữa, ông hiểu tôi muốn nói gì rồi. Ông cũng biết sự thể việc cho thuê nhà của chúng ta hè này ra sao. Chúng ta chính là đang bên bờ mép của thảm họa, cũng như dân Nantucket, Vineyard và East Hampton ấy. Chả là nhiều người còn chưa quyết định hè sẽ đi nghỉ ở đâu. Họ biết rằng năm nay tha hồ mà chọn. Nhà cho thuê thì muốn bao nhiêu cũng có. Nếu tôi cho đăng bài báo về chuyện một phụ nữ bị con cá mập khổng lồ cắt đứt đôi người ở bờ biển Amity thì các chủ nhà sẽ không thể cho thuê được lấy một cái biệt thự. Martin này, cá mập cũng chả khác nào bọn cướp, bọn giết người, trong đấy có cái gì đó dã man, độc ác không tránh được và người ta phản ứng với cả loại này lẫn loại kia đều như
nhau. Nếu chúng ta đăng báo về con cá mập giết người thì như thế là vĩnh viễn mất hy vọng vào một mùa hè lời lãi.
Brody gật đầu:
- Tôi khó lòng phản bác ông được, Harry ạ, mà tôi cũng chẳng dễ chịu gì lắm khi phải loan báo với mọi người chuyện bên bờ biển của ta có một con cá mập giết người đang lượn lờ. Nhưng thử đứng vào vị trí của tôi mà xem. Tôi không định bác bỏ những lý lẽ của ông. Phần nhiều là ông đúng. Rất có khả năng là con cá mập này đã bơi khỏi đây hàng trăm dặm rồi và không bao giờ ló mặt về nữa. Nhưng Harry này, hãy hình dung lấy một phút thôi, rằng ông nhầm. Ta giả sử - chỉ giả sử thôi - là chúng ta ỉm biến cố này đi và con cá mập sẽ lại tấn công một người nào đó. Khi đó thì sao? Tôi sẽ phải gánh chịu tất cả. Tôi có nghĩa vụ phải lo cho an ninh của mọi người đang sống ở đây, và nếu tôi không thể bảo vệ họ được thì ít ra cũng phải cảnh báo về nguy cơ đang đe dọa họ. Tôi một mực yêu cầu ông in chuyện đó. Tôi định đóng cửa các bãi tắm chỉ hai ba ngày để phòng xa thôi. Cũng chả có ai bất tiện gì lớn lắm. Thiên hạ còn chưa kéo đến đây nhiều, với lại nước cũng lạnh. Nếu chúng ta nói thẳng cho mọi người biết những gì đã xảy ra và giải
thích hành động của chúng ta thì chỉ có lợi mà thôi.
Meadows ngả người ra ghế nghĩ ngợi. - Tôi không biết ông sẽ hành động thế nào, chứ còn phần tôi thì quyết định đã được quyết rồi.
- Thế nghĩa là thế nào?
- Sẽ không có một mẩu tin nào về vụ này trên tờ "Leader" hết.
- Ông nói nghiêm túc đấy chứ?
- Khá nghiêm túc. Không thể nói là bản thân tôi quyết định như vậy, nhưng nói chung thì tôi đồng ý với quyết định này. Tôi là chủ bút và đồng chủ nhiệm tờ báo này, nhưng cổ phần khống chế không ở tôi, nên tôi không thể đối chọi được với áp lực nhất định nào đó.
- Áp lực nào?
- Sáng hôm nay người ta đã gọi điện cho tôi sáu lần: Năm nơi chuyên thuê đăng quảng cáo - tiệm ăn, khách sạn, hai công ty bán bất động sản và tiệm cà phê, kem. Họ hỏi tôi có định đăng mẩu tin về cô Watkins này không và bằng mọi cách ra sức cho tôi hiểu rằng, theo ý kiến của họ, nếu câu chuyện này không lan truyền công khai thì sẽ hay hơn cho Amity. Cú
điện thoại thứ sáu là của ông Coleman từ New York, - người nắm trong tay năm mươi lăm phần trăm cổ phần báo "Leader". Hình như ai đó đã gọi điện cho ông ta. Ông ta tuyên bố với tôi là không được có một thông báo nào trên tờ "Leader" hết.
- Không biết quyết định của ông ta có bị chi phối bởi sự kiện là vợ ông ta làm người môi giới của hãng mua bán bất động sản không nhỉ? Ông ta có nói cho ông hay chuyện ấy không?
- Không, - Meadows đáp. - Chẳng nói năng gì cả.
- Hẳn thế mà lại. Vậy là tình hình như thế nào rồi, Harry? Ông không định đăng cái tin ấy vì theo ý kiến của các độc giả có thế lực của tờ "Leader" thì chẳng có chuyện gì khác thường xảy ra cả. Còn tôi, tôi sẽ đóng cửa các bãi tắm và sẽ đặt một vài biển báo nguy hiểm.
- Tùy thôi! Martin ạ, đấy là việc của ông. Nhưng xin nhắc ông một điều. Ông đang ở trên một chức vị được bầu lên đấy chứ nhỉ?
- Ừ, thì cũng như tổng thống thôi. Một nhiệm kỳ bốn năm ròng rã.
- Đã là chức vị được bầu lên cũng có thể không được bầu lại.
- Đấy là lời đe dọa phải không Harry? Meadows mỉm cười.
- Ông biết xếp loại các câu nói tài hơn. Với lại, tôi là cái thứ gì mà đe dọa? Chẳng qua tôi muốn ông suy nghĩ về những hậu quả của những hành động của mình trước khi dấn thân vào việc chống lại lợi ích của dân chúng Amity, những người đã bầu ông lên...
Brody đứng lên:
- Cám ơn Harry. Tôi đã nghe nói nhiều lần: kẻ nào nắm trong tay quyền lực thì bao giờ cũng cô độc. Tôi phải trả bữa ăn bao nhiêu cho ông?
- Chẳng phải trả giá gì cả. Tôi không thể lấy tiền của một người mà gia đình anh ta sắp sửa phải nì nèo ăn các phiếu ăn không mất tiền.
- Đừng có trông chờ điều đó. Chẳng lẽ ông không biết rằng làm cảnh sát là một đảm bảo cho sự sung túc đó sao? - Brody phá lên cười.
Brody chưa kịp về đến phòng làm việc của mình thì người ta đã thông báo cho anh qua hệ thống loa: "Thị trưởng đang ở đây, ông ấy muốn gặp thủ trưởng".
Brody cười khẩy. Thị trưởng. Chứ không phải là Larry[12] Vaughan tạt vào thăm hỏi anh. Không phải là Lawrence Vaughan, một trong các chủ công ty bán bất động sản "Vaughan & Penrose", ghé vào đây phàn nàn chuyện những người thuê nhà làm ầm ĩ quá. Mà là thị trưởng Lawrence P. Vaughan - đại biểu của dân, người đã thu được bảy mươi mốt phiếu trong cuộc bầu cử vừa qua.
- Hãy mời đức ông ấy vào đây - Brody nói. Larry Vaughan là một người đàn ông cân đối, đẹp đẽ ngoài năm mươi một tí. Màu trắng bạc chỉ mới khẽ chạm vào mái tóc dày. Ông là dân Amity gốc, cùng với năm tháng, trong phong cách của ông đã xuất hiện sự điềm tĩnh, tinh tế. Vaughan gom được của cải cho mình bằng việc đầu cơ bất động sản ở Amity và là đồng chủ chính của một công ty đang phát đạt nhất trong thị trấn (một số người cho rằng ông ta là người chủ duy nhất, bởi vì trong văn phòng của Vaughan chưa bao giờ có ai gặp một người nào họ Penrose cả). Ông ta ăn mặc trang nhã và giản dị, thiên về các áo vét mốt Ănglê, các loại sơ mi đứng đắn và giầy da mềm. Nếu như Ellen Brody, rơi từ môi trường dân đi nghỉ vào môi trường dân gốc, thế nhưng
vẫn không trở thành "người nhà" trong đám dân gốc, thì Vaughan, vốn gốc Amity, lại dễ dàng, mà không mất đi vẻ đĩnh đạc, vươn lên ngang tầm đám nhà giàu đi nghỉ. Họ không nhìn thấy ở ông kẻ bằng vai phải lứa, dù sao ông cũng chỉ là một thương gia địa phương, và chưa bao giờ mời ông về nhà chơi ở New York hay Palm Beach. Nhưng ở Amity, ông giao tiếp thoải mái với tất cả mọi người, trừ những đại diện giàu có và kiểu cách nhất của tầng lớp nghỉ hè, và sự giao tiếp này tạo điều kiện rất nhiều cho thành công trong sự nghiệp của ông. Vaughan thường được mời dự các buổi tiếp kiến, và bao giờ ông cũng đi một mình. Trong đám bạn bè của ông ít ai biết rằng ở nhà ông có một người vợ chất phác yêu chồng hết mực và phần lớn thời gian dành vào việc may vá bên cái máy thu hình.
Brody có cảm tình với Vaughan. Mùa hè họ ít gặp nhau nhưng sau ngày lễ lao động[13], khi cơn cao điểm mùa hè đã lui, Vaughan và vợ thỉnh thoảng vẫn mời Brody đến xơi cơm với họ ở một trong những hiệu ăn ngoại ô sang trọng. Những lần ấy khiến Ellen mãn nguyện lắm, và chỉ riêng điều ấy cũng làm Brody thấy hạnh phúc. Có vẻ như Vaughan hiểu Ellen. Với chị, bao giờ ông cũng thân thiện và bao dung.
Vaughan bước vào phòng làm việc của Brody và ngồi xuống.
- Tôi vừa mới nói chuyện với Harry Meadows, - ông ta mở đầu câu chuyện. Vaughan rõ ràng là đang bồn chồn, điều ấy khiến Brody quan tâm. Anh không ngờ một phản ứng như vậy. Anh nói:
- Tôi thấy là Harry không bỏ phí thời gian tí nào.
- Anh định nhận được sự cho phép đóng cửa các bãi tắm ở đâu?
- Larry, anh hỏi tôi với tư cách là thị trưởng hay là chủ công ty bán bất động sản, hay chẳng qua vì chỉ vì sự tò mò bè bạn?
Vaughan căng toàn thân lên. Brody thấy ngay là ông ta đang tự kiềm chế một cách khó khăn.
- Tôi muốn biết là anh định xin được sự cho phép ấy ở đâu? Tôi muốn biết điều đó ngay bây giờ.
- Tôi không chắc là mình có phải xin xiếc gì hay không, - Brody đáp. - Có những điều khoản nhất định mà chiểu theo đó thì tôi có thể quyết bất cứ những hành động nào mà tôi xét thấy cần, trong trường hợp nảy sinh những
hoàn cảnh khẩn cấp và tôi cho rằng các ủy viên quản trị thị trấn phải tự ban bố tình trạng khẩn cấp. Nhưng tôi không rõ anh có muốn bày ra sự việc nhiêu khê ấy không.
- Điều ấy bị loại trừ.
- Được rồi. Nếu nói một cách không chính thức đến sự việc đã xảy ra, thì tôi coi trách nhiệm của mình là làm hết sức để bảo đảm an toàn cho những người sống trong thị trấn, và vào thời điểm này, theo ý tôi, muốn thế thì phải đóng cửa các bãi tắm hai ba ngày. Còn nếu có ai đó vẫn cứ nhất quyết ra tắm, thì chưa chắc tôi có thể bắt người đó về tội vi phạm điều cấm. Họa chăng, - Brody cười khẩy, - là tôi chỉ có thể quy kết cho người đó tội ngu ngốc đến mức tội ác.
Nhưng hiển nhiên điều đó đã không làm Vaughan chú ý mấy.
- Tôi không muốn anh đóng cửa các bãi tắm, - ông ta nói.
- Tôi đã hiểu điều đó.
- Anh có biết tại sao không? Ngày mồng bốn tháng bảy[14]chẳng còn bao xa nữa, và nhiều cái phụ thuộc vào mấy cái ngày lễ ấy
lắm. Chúng ta đang tự chặt chân mình đấy[15].
- Tôi hiểu những lý lẽ của anh, nhưng anh cũng phải hiểu tại sao tôi lại muốn đóng cửa các bãi tắm.
- Tôi không mưu đồ một lợi ích cá nhân nào cả.
- Phải, ở đây chẳng có chút hơi hướng lợi ích cá nhân nào của anh cả. Mà ngược lại thì đúng hơn. Nghe này, Martin, thị trấn ta không cần đến cái chuyện giật gân kiểu ấy.
- Nhưng nó cũng không cần những nạn nhân mới.
- Trời ơi, chẳng có nạn nhân nào nữa hết! Mà anh đóng cửa các bãi tắm để đạt cái gì? Chỉ tổ làm bu đến đầy một bầy phóng viên đâu cũng sục sạo và chọc mũi vào những chỗ không nên chọc.
- Thế thì đã sao nào? Nếu bọn họ có đến chăng nữa thì cũng chẳng tìm thấy cái gì đáng giá và sẽ lại kéo nhau đi. Tôi không nghĩ rằng "New York Times" ("Thời báo New York") quan tâm gì lắm đến một cuộc picnic dã ngoại hoặc một bữa ăn ở một câu lạc bộ nào đó.
- Cái lũ nhà báo ấy chẳng được tích sự gì hay ho cho ta cả. Nhỡ đâu bọn họ moi móc ra cái gì đó thì sao? Bọn họ sẽ làm rùm beng lên, mà ta cần gì sự rùm beng ấy?
- Larry, thế bọn họ có thể moi móc được cái gì nào? Tôi đây chẳng hạn, chẳng có gì phải giấu cả. Còn anh?
- Tôi cũng chẳng có gì phải giấu. Chẳng qua tôi nghĩ là... có thể là... những vụ hiếp dâm ấy, chẳng hạn. Những chuyện xấu xa nào đó.
- Chuyện vặt, - Brody lên tiếng, - tất cả những cái ấy đều là chuyện từ đời nảo đời nào rồi.
- Khỉ gió nhà anh, Martin ạ! - Vaughan ngừng giây lát, cố kìm mình. - Thôi được, anh chẳng buồn nghe theo tiếng nói của lý trí gì cả. Thế thì hãy nghe tôi đây, như nghe một người bạn. Tôi bị các bạn hàng gây sức ép ghê gớm. Đối với chúng tôi mọi chuyện có thể xoay ra chiều hướng xấu.
Brody cả cười:
- Larry, té ra anh còn có bạn hàng nữa kia? Lần đầu tiên tôi nghe thấy đấy. Tôi cứ tưởng rằng anh độc tôn cai quản cái cửa hàng của anh.
Vaughan lúng túng như thể đã nói ra những lời thừa. Ông ta lại nói:
- Công chuyện của tôi đâu phải đơn giản. Có khi chính tôi cũng khó lần. Hãy làm điều tôi yêu cầu nhé, Martin.
Brody nhìn sang Vaughan cố tìm hiểu xem động cơ của ông ta là gì.
- Tôi lấy làm tiếc, anh Larry ạ, nhưng không thể. Tôi có những trách nhiệm công vụ và tôi phải thực hiện chúng.
- Nếu anh không nghe lời tôi thì không loại trừ khả năng là chẳng bao lâu nữa anh sẽ mất cương vị này.
- Tôi không thuộc quyền anh. Anh không thể sa thải được nhân viên cảnh sát nào trong thị trấn cả.
- Anh có thể không tin tôi, nhưng tôi có những thẩm quyền nhất định đối với một viên cảnh sát trưởng.
- Tôi không tin điều đó.
Vaughan rút từ túi áo vét ra bản quy chế chức năng của hội đồng quản trị thị trấn Amity. - Tôi nhường cho anh tự hiểu ra vấn đề, - ông ta vừa nói vừa lật nhanh quy chế. - Đây này, - ông ta đã tìm được trang cần xem và
chìa cuốn sách qua bàn cho Brody, - ở chỗ này có nói rõ ràng rằng, tuy cảnh sát trưởng là do dân bầu lên, các ủy viên hội đồng quản trị có quyền truất bỏ anh ta.
Brody đọc hết mục Vaughan đã chỉ cho. - Thì cứ giả sử là như vậy đi, - anh nói. - Nhưng tôi muốn được biết anh sẽ đưa ra cái gì làm "lý do xác đáng và có căn cứ"?
- Tôi mong mỏi rằng không phải dùng đến biện pháp đó. Tôi không nghĩ là câu chuyện của chúng ta sẽ đi quá xa. Tôi trông cậy vào sự hiểu biết của anh, bởi vì ý kiến của tôi và ý kiến của các ủy viên hội đồng quản trị thị trấn thì anh biết rồi.
- Của tất cả các ủy viên?
- Của đa số.
- Của ai mới được chứ?
- Tôi không có ý định liệt kê tên họ ra với anh. Tôi không nhất thiết phải làm điều đó. Anh chỉ phải vỡ vạc ra một điều: nếu anh không làm theo ý chúng tôi thì chúng tôi sẽ đặt vào vị trí của anh một người khác biết điều hơn.
Brody chưa bao giờ thấy Vaughan ở trạng thái hung hăng như vậy. Anh lấy làm kinh ngạc
với điều đó.
- Thực tình là anh cứ khăng khăng đòi như vậy phải không, Larry?
- Phải, - Vaughan cất giọng điềm đạm, khi đã cảm thấy trước thắng lợi. - Hãy tin tôi đi, Martin. Anh không phải hối tiếc đâu. Brody thở dài. Anh nói:
- Sự việc thổ tả thật. Tôi rất không thích tất cả những cái đó. Nhưng một khi đã quan trọng đến mức ấy thì...
- Phải, đây là việc quan trọng, - lần đầu tiên trong suốt thời gian nói chuyện, mới thấy Vaughan mỉm cười. - Cám ơn Martin, - ông ta nói rồi đứng dậy. - Bây giờ tôi còn một sứ mệnh không lấy gì làm dễ chịu cho lắm là đến gặp vợ chồng Foote.
- Anh muốn họ không bép xép với tờ "Times" hoặc "News" chứ gì? Hay thật, anh định tác động đến họ ra làm sao?
- Tôi sẽ kêu gọi ý thức nghĩa vụ ở họ, - Vaughan nói, - cũng như đã kêu gọi anh ấy. - Cái tiết mục này không ăn thua đâu. - Ở đây có một điều có lợi cho chúng ta. Cô Watkins này chẳng qua chỉ là một cô nàng tiện dân lang thang không hơn không kém. Chẳng
có gia đình, bạn bè gần gũi cũng không. Cô ta nói rằng cô ta đến bờ biển miền Đông từ bang Ohio theo vé tham quan bằng ôtô, chứ chẳng có ai rước đến cả.
Brody về tới nhà quãng năm giờ. Dạ dày anh đã trở lại trạng thái bình thường đến mức anh đã có thể uống bia trước bữa tối. Ellen trong đồng phục hộ lý màu hồng đang làm bếp, tay chị vục trong mớ thịt đã nghiền.
- Anh đã về, - vừa nói chị vừa chìa má ra để nhận cái hôn. - Chuyện gì xảy ra thế? - Em chưa nghe thấy gì à?
- Chưa. Hôm nay là ngày tắm của các bà già. Em không ra khỏi bệnh viện lấy một phút nào cả.
- Một cô gái bị chết ở gần đường Old Mill. - Chết vì sao?
- Cá mập. - Brody sục vào tủ lạnh lấy ra lon bia.
Ellen ngừng nhào thịt và ngạc nhiên nhìn chồng.
- Cá mập à?! Thật cả đời em chưa bao giờ nghe đến chuyện ấy cả. Có thể ở đây cũng có người trông thấy cá mập, nhưng chúng có động đến ai dâu.