🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình mĩ thuật và phương pháp dạy học mĩ thuật Ebooks Nhóm Zalo PHƯƠNGPHÁP DẠY HỌC MỈTHÚẬT NGUYÊN ỌC LIẸU NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC s ư PHẠM NGUYỄN QUỐC TOẢN G I Á O T R Ì N H l ĩ ỉ í t h u ậ t _1 _ __ ___r VÀ PHU0NG PHÁP DẠY HỌC M Ĩ THUẬT (D ành ch o sin h viên n g à n h G iáo d ụ c Tiểu học) (In lần thứ sáu) NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC sư PHẠM w U N I V E R S I T Y OF E D U C A T I O N P U B L I S H I N G HOU SE GIÁO TRÌNH Mĩ THUẬT VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MĨ THUẬT Nguyẻn Quốc Toản Sách được xuát bản theo chl đạo biên soạn của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội phụt vọ công iát. đào tfo sinh viên nyành Glốo dục Tiếu học Mả sách quổc tẻ: ISBN 978-604-54-0761-5 Bản quyén xuăt bản thuộc về Nhà xuát bản Đại học Sư phạm. Mọi hình thức sao chép hay phát hành mà khống có sự cho phép bâng v in bản của Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đều là vi phạm pháp luật. ( Chủng tôi luôn mong muón nhận được những ý kiến đóng góp của quý vi độc già để iách ngày cáng hoàn thiện hơn. Mọi góp ý vé iách, liin hệ về bàn thào và dịch vụ bàn quyén I xin vui lồng gửí vé địa chì email: [email protected]. vn Mả SỐ: 01.01.280/1095 - GT 2014 2 MỤC LỤC Trang Lời nói đẩu ...................................................................................................................... 5 A. Giới thiệu chương trìn h ........................................................................................... 7 B. Nội dung chương trình ........................................................................................... 7 Phẩn thứ nhất. MỘT SÔ VẤN ĐỀ CHUNG CỦA MĨ TH U Ậ T....................................7 Chương I. Mĩ THUẬT - sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRlỂN .......................................7 I. Đôi điều về “cải gốc" của mĩ thuật ....................................................................... 7 II. Vài nét về sự hinh thành và phát triển của mĩ thuật ..........................................8 III. Vài nét vê lịch sử mĩ thuật Việt Nam ...............................................................21 Chương II. Mĩ THUẬT VÀ c u ộ c SỐNG CON NGƯỜI...............................................45 /. Khái niệm ................................................................................................................. 45 II. Mĩ thuật và cuộc sống con ngư ời........................................................................51 III. Ngôn ngữ mĩ thuật ...............................................................................................53 IV. Chất liệu của m ĩ thuật ........................................................................................58 Chương III. CÁC LOẠI HÌNH c ơ BẢN CỦA Mĩ THUẬT .............................................63 I.Hộihoạ ................................................................... ............................................63 II. Điêu k h ắ c ................................................................................................ 65 III. Kiến trúc................................................................................................................. 67 IV. Mĩ thuật ứng d ụ n g ................................................................................................69 Phẩn thứ hai. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC MĨ THUẬT ở TIÊU HỌC .. .76 Chương IV. VẼ MẪU VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC VẼ THEO MẪU ở T]ỂU HỌC . . .76 I. Vẽ theo mâu ...........................................................................................................76 II. Phương pháp dạy - học vẽ theo mẫu .............................................................. 90 Chương V. VẼ TRANG TRl VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC VẼ TRANG TRÍ Ở TIỂU HỌC ............. .............................................................................. 103 I. Vẽ trang tr í............................................................................................................. 103 II. Phương pháp dạy - học vẽ trang t r í .................................................................119 Chương VI. VẼ TRANH VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC VẼ TRANH Ở TlỂU HỌC . . .129 /. Vẽ tra n h ..................................................................................................................129 II. Phương pháp dạy - học vẽ tranh ..................................................................... 139 Chương VII. THƯỜNG THỨC MĨ THUẬT VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC THƯỜNG THỬC Mĩ THUẬT Ở TIỂU HỌC ............................................146 I. Thường thức mĩ thuật............................................................................................ 146 II. Phương pháp dạy - học thường thức mĩ thuật .............................................. 151 Chương VIII. TẬP NẶN TẠO DÁNG VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC TẬP NẦN TẠO DÁNG.............................................................................. 161 I. Tập nặn tạo dáng .................................................................................................161 II. Phương pháp dạy - học tập nặn tạo dáng .....................................................164 Chương IX. sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIEN n g ô n n g ữ tạ o h ìn h Ở TRẺ EM (Mẫu giáo và Tiểu h ọ c )...........................................................173 /. Trẻ em, nhìn từ góc độ chung ............................................................................. 173 II. Trẻ em với mĩ thuật .............................................................................................174 III. Một vài điểm cần chú ý khi hướng dẫn trẻ v ẽ ...............................................183 Chương X. SÁCH GIÁO KHOA, SÁCH GIÁO VIÊN MĨ THUẬT ở TlỂU HỌC . . . .191 I. Sách giáo khoa ......................................................................................................191 II. Sách giáo viên mĩ thuật ở tiểu h ọ c .................................................................... 197 Tài liệu tham khảo ..................................................................................................... 200 LỜI NÓI ĐẨU Giáo trình M ĩ thuật và phư ơ ng pháp dạy học m ĩ thuật được biên soạn dào lạo sinh viền hệ Chính quy; Vừa làm vừa học và T ừ xa (giáo viên Tiểu học đã dược học chương trình M ĩ thuật 135 tiết hay 150 tiết à các trường Trung học Sư phạm , Cao đẳng Sư phạm ). Giáo trình tập trung vào những nội dung sau: - Cung cấp m ột sô'kiến thức cơ bản vê m ĩ thuật. - Giới thiệu cách học và làm bài tập. - Trình bày vê phương pháp dạy - học M ĩ thuật Ở Tiểu học. - Câu hỏi hướng dẫn tự học, các bài tập thực hành ở cuối m ỗi chương. N ội dung giáo trình gồm hai phần cơ bản: ~ Phần thứ nhất: M ột sô' vấn đê chung cùa M ĩ thuật. - Phần thứ hai: N ội dung và phương pháp dạy - học M ĩ thuật ỏ Tiểu học. Phần thứ hai gồm 7 chương, trong đó có 5 chương viết về các phân môn trong chương trình M ĩ thuật ở Tiểu học, đó là: V ẽ theo mẫu, V ẽ trang trí, V ẽ tranh, Thường thức M ĩ thuật và Tập nặn tạo dáng. C ác chương có cấu trúc thống nhất, gồm các nội dung sau: ~ Khái niệm - M ột sô' kiến thức cơ bản - Phương p háp tiến hành bài tập - Phương p háp dạy - học - Hướng dẫn cách học. Cấu trúc thống nhất của các chương giúp sinh viên d ề theo dõi, dể đọc và hiểu vấn dê m ột cách lôgic. Trong quá trình học, sinh viên cần nghiên cứu các tài liệu được giới thiệu ở phần hướng dẫn cách học và sưu tầm thêm tư liệu đ ể kiến thức phong phú, sáu sắc hơn. D ể dạy - học giáo trình này đạt kết quả tốt, cần chú ỷ: - Giáo viên cần bám sát chương trình cho từng đôi tượng sao cho sát nội dung và thời lượng. - Sinh viên cần có cách học mới: tự giác, nghiêm túc thực hiện yêu cáu cùa bài học, thực sự cầu thị đ ể có được kết quà tốt, đặc biệt là đối với môn M ĩ thuật, môn học nghệ thuật tạo ra cái đẹp. Cái đẹp vốn không có quy định khô cứng, công thức bất di bất dịch, càng không có đáp s ố cho tất cả, không sao chép, không rập khuôn... mà luôn biến ảo khôn lường đ ể có cái đẹp nhiều hình nhiêu vẻ, hợp với khả năng nhận thức, khả năng biểu hiện và cảm thụ riêng cùa m ỏi người. Đ ổng thời học m ĩ thuật chù yếu là thực hành, vì trên cơ sở thực hành, suy ngẩm, thể hiện và sáng tạo mới hiểu rỗ phần li thuyết. V ì vậy, khâu làm bài tập là vô cùng quan trọng. Trong điều kiện cho phép, giáo trình có những bài đọc thêm, những tư liệu cần thiết, m ột s ố tranh, ảnh, bài v ẽ đ ể minh hoạ cho giáo trình phong phú hơn. Đây là giáo trình đầu tiên vê M ĩ thuật và phương pháp dạy học m ĩ thuật đào tạo sinh viên hệ Chính quy; Vừa làm vừa học và T ừ xa nên có th ể còn những thiếu sót. Chúng tôi m ong nhận được sự góp ý của độc giả đ ể lấn xuất bán sau giáo trình hoàn thiện hơn. T ác giả 6 r ______________ A . M Ụ C TIẾU C Ủ A CH Ư Ơ N G TRÌNH__________ j - T rans bị cho sinh viên một số kiến thức phổ thông và cẩn thiết về mĩ thuật: các khái niệm, các loại hình, các kiến thức cơ bán nhất, phươne pháp tiến hành bài tập, khả năng tạo hình của học sinh. - Tạo điều kiện cho sinh viên hoàn thành được các bài tập quy định ở chương trình. - Cung cấp cho sinh viên phương pháp dạy - học Mĩ thuật, phươnc pháp dạy - học các phân môn, góp phần nâne cao hiệu quả giờ dạy mĩ thuật ờ Tiểu học ngày một tốt hơn. - Nâng cao nhận thức thẩm mĩ cho sinh viên, tạo điều kiện cho mọi người vận dụng nhữne hiểu biết về cái đẹp vào cuộc sống cá nhân, sia đình, cộns đồna, vào côn? việc dạy - học. B. IMỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH • • • PHẦN THỨ NHẤT * * » MỘT SỐ VẤN ĐÊ CHUNG CỦA MĨ THUẬT C ì B H Í B i l MĨ TH U Ậ T - Sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIEN I. ĐÔI ĐIỂU VỀ “CÁI GỐC” CỦA MĨ THUẬT Chịu khó quan sát thiên nhiên, ta thấy cỏ cây hoa trái, mây trời, núi sồng, biển, hang động, côn trùng, động vật và con người đều rất đa dạng về hình thể, phong phú về màu sắc, tất cả đều đẹp, cho ta cảm xúc bất tận. Rồi những hiện tượng nhơ gió, bão, sấm chớp, lụt lội, băng tuyết, sóng thần, núi lửa và động đất... đều rất bí hiểm. Ai đã sinh ra chúng? Thời xa xưa chưa lí giải nổi, người ta thường nói: Trời sinh ra thế, hoặc do chúa, do thánh thần sinh ra! Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển cao, những bí ẩn của tạo hoá ngày càng được hé mở, nhưng sự đa dạng của m uôn loài, sự hùng vĩ của vũ trụ có lẽ vẫn là trăn trở của loài người nhiều thế hệ nữa may ra mới làm sáng tỏ dần. Cũng từ những bí ẩn đó của vũ trụ mà con người sinh ra bao ngành khoa học: khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong đó có khoa học về nghệ thuẠt nói chung, mĩ thuật nói riêng. Chính nhờ vẻ đẹp muôn hình vạn trạng của tạo hoá m à mĩ thuật mới có cơ sở để xây dựng nên những lí luận của mình. Ví dụ: Luật xa gần, màu sắc, bố cục và các hình tượng... Có nghĩa là từ cơ sở thực tiền cùa tự nhiên, con người đã tạo ra nghệ thuật tạo hình, làm cho nó ngày một phong phú, đa dạng hơn để phục vụ cuộc sống ngày càng cao cùa mình. Chính vì thế, có thể nói: Thiên nhiên là “ông thầy” vĩ đại nhất cùa muôn loài, và nhờ có sự đa dạng phong phú của thiên nhiên mà loài người đã làm cho xã hội ngày càng tiến xa hơn, cao hơn. Nghệ thuật tạo hình cũng không nằm ngoài quy luật ấy, có nghĩa là: Thiên nhiên là người mẹ hiền giàu có đã ban phát cho nghệ thuật tạo hình đầy đủ những yếu tố cần thiết để con người suy ngâm, chắt lọc tạo nên tác phẩm. Ngược lại, tạo hình do con người tạo ra cũng tuủn theo quy luật phát triển của xã hội loài người. II. VÀI NÉT VỀ Sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIEN c ủ a m ĩ t h u ậ t X ã hội loài người đã trải qua nhiều phương thức sản xuất, đó là: cộng sản nguycn thuỷ, chiếm hữu nô lệ (hay cổ đại), phong kiến, tư bản chủ nghĩa1. Theo tiến trình lịch sử trên, Mác và Ả ngghen dự báo sẽ có phương thức sản xuất tiếp theo, đó là cộng sản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất đó đang và sẽ trở thành hiện thực trong tương lai, tuy nhiên không phải một sớm một chiều mà có được. Bởi sự ra đời và đổi mới một phương thức sản xuất như chúng ta đã biết phải trải qua inộl quú trinh lứu dùi, phủi m ất nhíổu nũm và phương thức sau được thai nghén từ phương thức trước. Đó là quy luật, là tất yếu. Đ ồng thời sự phát triển của một phương thức còn phụ thuộc vào tác động ở bản thủn con người - động lực chính của quá trình phát triển xã hội. Cũng như các ngành, các lĩnh vực khoa học khác, mĩ thuật sinh ra ở phưomg thức sản xuất nào sẽ mang tên và dấu ấn của phương thức sản xuất ấy. Vì thế quá trình hình thành và phát triển của m ĩ thuật đều mang tên và chịu sự tác động của các phương thức sản xuất. 1 Trong nhiều tài liệu còn thêm cụm từ: “C hế độ” hay “xã hội” hoặc “thời”, ví dụ: chế độ cộng sản nguyên thuỳ; xã hội phong kiến; thời tư bản chù nghĩa. 8 1. Mĩ thuật thời nguyên thuỷ Qua kháo cổ học, chúng ta đểu biết ờ bát cứ đâu có sự sống của người tiền sử, ờ đó déu có dấu tích của nền vãn hoá nói chung, m ĩ thuật nói riêng. Đó là những nét vẽ. net khắc, hình vẽ ờ nơi những người xưa trú ngụ - ở hang động, ờ vách đá, các tảng đá; những còng cụ lao động làm từ đá; dàn đá, những tượng đầu hay toàn thân; rồi đổ vật dùng cho sinh hoạt hằng ngày... Những "sản phẩm” tạo hình đầu liên ây của con người tuy có đơn gián hoặc thô sơ nhưng lụi có giá trị không chi về lịch sử, mà củ về tạo hình, hời tính biểu cảm cùa chúng - vừa thực vừa hư và sống động lạ thường. Đến ngày nay, khi khoa học còng nghệ phát triển cao, chúng ta vẫn còn đặt câu hỏi: Vì sao lúc bấy giờ trình độ nhận thức còn vô cùng hạn hẹp, cuộc sống vật chất còn muôn vàn khó khăn và luôn bị thièn nhiên đe doạ... thê mà người nguyên thuý lại có những sàn phẩm tạo hình đẹp như vậy? Nhưng đó lại là sự thực sinh động ngày càng được chúng ta phát hiện ra. Điều đó có thê lí giải thê này chăng: T hú nhứt: Thiên nhiên xung quanh đều đẹp và phong phú về hình thể, màu sắc và rất “lạ”, đổng thời rất bí ẩn. Người tiền sử đều thấy cả nhưng do chưa có tiếng nói, chưa có chữ... nên phương tiện hữu hiệu nhất để tìm hiểu, để “nói” với nhau về mọi sự vật, hiện tượng diễn ra hàng ngày tốt nhất là vẽ, khắc, đẽo. Như danh hoạ Pi-cát-xô đã nói đại ý: Những gì ta chưa nói được thì phải vẽ! Ngay cả ngày nay cũng vậy. Đó phải chãng là tác dụng đặc biệt của tạo hình? Lúc đầu thấy vạch cái que trên nền đất “sinh ra nét”, vạch viên sỏi có màu thấy “nét có m àu”; hết vạch ngang đến vạch dọc, cong queo, loằng ngoằng thấy giống cái này, cái nọ càng kích thích con người hoạt động. Dần dần nó thành trò chơi trong khi nhàn rỗi, con người bắt đầu thấy quả có dáng tròn, chiếc lá có nét cong cong, Ihấy con này con kia rất lạ... và họ bắt đầu trò chơi mô tả thiên nhiên - Họ đã vẽ, đã khắc, đã đẽo những gì nhìn thấy ở xung quanh mình. T hứ hai: “Lao động” của con người có “sản phẩm” càng kích thích trí tò mò, và họ làm ra sản phẩm là do ý thích, tuyệt nhiên không có “đơn đăt hàng”, không có “áp lực” từ bất cứ ai. Vì thẻ hình vẽ, hình khắc... sống động lạ thường, mặc dù còn đơn sơ, chưa có nhiều chi tiết. Các nhà nghiên cứu lịch sử, nghệ thuật hiện nay cho rằng một bức vẽ, bức khắc của người xưa có lẽ là của tập thể, vì thấy “hay hay”, mỗi người vẽ mội nét, một hình cho “vui”. Do đó đa số các sản phẩm vẽ, khắc của người nguyên thuỷ chưa có bố cục - tức sắp đặt theo ý tưởng như người sau này. Nhưng về dáng hình, nét khắc và màu sắc lại có sức diễn cảm lạ thường - có đậm, nhạt, có hoà sắc.... Phải chăng là do húng thú tạo nên? Trong nghệ thuật nói chung, tạo hình nói riêng, yếu tố hứng thú góp phần quan trọng đưa đến thành công trong sáng tạo. 9 Thứ bu: Nhờ có nét vẽ, nét khắc các hình mà chữ của loài người ra đời. Đó là chữ tượng hình. Lịch sử đã chứng minh: bất cứ dân tộc nào cũng có chữ viết của mình, nhưng chữ đầu tiên là chữ tượng hình - chữ xuất phát từ các nét, các hình khắc đơn sơ ban đầu. Có thể nói, nguồn gốc của chữ viết là do tạo hình mà có. Cùng vái sự phát triển trí tuệ, tạo hình của người nguyên thuỷ đã để lại dấu ấn khó quên. Họ đã chế tác ra màu vẽ - đỏ và đen từ sỏi đá, màu vàng từ đất; biết dùng chất dính là nhựa cây, mỡ hoặc tuỷ sống động vật. Họ không chỉ vẽ bằng que mà dùng tay để bôi, quét màu lên vách đá; làm tượng nhỏ bằng đất, đá, từ những mảnh xương, những cái sừng của súc vật... Từ đó ta thấy rằng ngay từ thuở sơ khai con người đã “làm” ra nghệ thuật bời lẽ đơn giản nghệ thuật lúc nào cũng bắt nguồn từ cuộc sống và là một trong những nhu cầu không thể thiếu được của cuộc sống con người. Cho dù còn đơn sơ nhưng nghệ thuật tạo hình thòi nguyên thuỷ rất chân thực, trong sáng và sinh động, cho đến nay chúng ta còn phải tìm hiểu, nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn giá trị nhiều mặt của nó. 2. Mĩ thuật thời chiêm hữu nô lệ Trải qua thời gian dài tổn tại, phương thức sản xuất nguyên thuỷ suy tàn, bời con người “lớn” dần, họ không chịu chế độ cùng làm, cùng hưởng nữa. Xã hội nảy sinh ra của cải và ý thức chiếm hữu của một số “kẻ m ạnh” đã dần dẩn hình thành. Ban đầu là một nhóm, sau thành tập đoàn rồi trờ thành tổ chức có "vai vế” , có trên dưới rõ ràng. Đó là sự ra đời nhà nước cổ đại, mà tiêu biểu là Ai Cập, Hi Lạp, La Mã... Nếu tính về thời gian cũng đã cách chúng ta khoảng 5000 năm. Khi phưcmg thức sản xuất mới hình thành đã kéo theo mọi lĩnh vực phát triển. Thời kì này nghệ thuật nói chung, mĩ thuật nói riêng có thể nói là phát triển rực rỡ, đầy đủ mọi ngành mà lịch sử ngày nay đánh giá rất cao, coi đó là sự “đột biến”, bao gồm: 2.1. Nghệ thuật kiên trúc thời cô dại Nghệ thuật kiến trúc thời kì này phát triển có thể nói là đạt tới đỉnh cao, để lại cho nhân loại những công trình vĩ đại, mang dấu ấn khó phai mờ, tiêu biểu là các kì quan thế giới cổ đại, như: - Đền Pác-tẻ-nông (Hi Lạp) làm bằng đá cẩm thạch tráng lệ, cao tới 14m, chạm khắc hoa văn rất công phu. Đường diêm phù điêu dưới mái đền dài tới 276m, mô tả lễ tôn vinh nữ thần A-tê-na với hàng trăm nhân vật nhịp nhàng, uyển chuyển làm cho ngôi đển thêm uy nghi, linh thiêng. Tiếc thay, hiện nay đền chí còn những hàng cột vừa khoé khoắn, vừa thanh nhã và duyên dáng như thách thức với thời gian. - Kim tự tháp K ê-ốp (Ai Cập) với kích thước to lớn: Đ áy là hình vuông, có cạnh là 228 mét, chiều cao 146 m é t1, được xếp bằng 2,5 triệu phiến đá, mỗi phiến nặng ít nhất là 2,5 tấn. Xếp các phiến đá như thế nào mà đỉnh của Kim tự tháp lại nhỏ đúng điểm gặp nhau của các đường chéo ở đáy? Đưa các phiến đá lớn như vậy bằng cách nào lên chiều cao và có độ chính xác như vậy vẫn còn là dấu hỏi đến tận ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển cao, trong khi Kim tự tháp Kê-ốp được xây vào 2900 trước Công nguyên, cách thời đại ngày nay chúng ta sống khoảng 4900 năm. Việc chuyên chở khối lượng đá lớn như vậy từ xa về, rồi làm sao để tháp khỏi bị lún trên nền cát, đục đẽo thế nào đế xếp chổng lên nhau không cần chất kết dính... cũng còn là những trăn trở của các nhà khoa học. - Đ ấu trường Cô-li-dê (La Mã) có hình e-líp với đường kính bên ngoài là 188m X 156m, sân đấu là 86m X 54m, có sức chứa 50.000 người, chiều cao đấu trường là 49m và có 3 tầng, mỗi tầng có 80 cửa vòm cuốn tạo cho công trình vẻ thanh ihoát. Ngoài ra, còn có các công trình kiến trúc đồ sộ khác như: Đền thờ Kác-nác (Ai Cập) có diện tích trên 5000m 2, với 134 hàng cột, những cây cột to có đường kính 3,6m và cao 21 m; Đền A-bu-sim -ben (Ai Cập) xây dụng từ thế kỉ XIII trước Công nguyên bằng cách đục chìm vào núi đá ngay sát bờ sông Nin; Khải hoàn môn Sép-ti-rni-út (La Mã) xây dựng vào năm 203, cao 20m, rộng 25m và dày 1 lm , bằng gạch, đá vôi và bọc bằng đá cẩm thạch. Mặc dù các công trình trên không còn nguyên vẹn bởi thời gian và sự khắc nghiệt của thời tiết, nhưng chúng vẫn giữ được vẻ đẹp tráng lệ và huy hoàng, khiến mọi người phải khâm phục về kĩ thuật xây dụng, vể tạo dáng và cách tạo không gian hợp lí, sáng tạo... 2.2. Nghệ thuật diêu khác thời cô dại Nghệ thuật điêu khắc thời kì này cũng đạt được những thành tựu “ngang tầm ” với nghệ thuật kiến trúc và chịu ảnh hưởng của quan niệm tôn giáo tín ngưỡng. Vì thế trong điêu khắc xuất hiện nhiều cách diễn tả khác nhau, khi thì dáng tĩnh nghiêm trang, thường là nhìn chính diện, hoặc tượng các vị thần thể hiện ý tường tôn giáo, siêu hình và thần bí. Ví dụ: 1 CÓ tài liệu: Kim tự tháp Kẻ-ốp cao l3Km, cạnh đáy là 225m. 11 • Ớ Ai Cập: Tượng thần thường phối hợp miêu tả giữa hình tượng người và thú, như: - Tượng Nlưin S I/ đẩu người mình sư tử, có cánh, được tạc từ một khối đá nguyên khổng lồ, cao khoảng 20m, dài khoảng 60m. Từ xa đã nhìn thấy pho tượng sừng sững in trên nền trời oai phong, tượng trưng cho uy quyền của thần linh. - Tượng Thần HO-I us: đầu chim ưng, thân người. - Tượiig Thần Anu-bít: đẩu chó sói, thân cò... - Tượng Viền thư lụi (thư kí, người ghi chép) lại có cách diễn tả rất thực với thân hình cân đối, ngồi xếp bằng chững chạc, nhưng nét mặt và nhất là đôi mắt mở to, nhìn thẳng, tập trung suy nghĩ cho công việc và nghiêm nghị; tay giữ sỏ, tay chuẩn bị ghi chép một điểu gì. Ngoài ra còn tượng Ra-lìô-tép, Nô-phrét, Pha-M -ông Ram-xét II. • Ớ Hi Lạp: Tượng thần được diễn tà với dáng vẻ hoàn thiện của con người, với những tỉ lệ vàng1 của người Hi Lạp lúc bấy giờ. Tượng được mô tả với ti lệ chuẩn mực, thường trong tư thế động. Tượng nam là khoả thân, ngược lại tượng nữ đều “m ặc” trang phục. Tuy tượng được làm bằng đá nhimg các nhà điêu khắc đã tài tình “thổi” hồn vào đá làm cho ta cảm giác đấy là da thịt, là nếp vải mềm mại, uyển chuyển đế phô ra những nét đẹp của cơ thể, của cơ bắp bên trong. Các pho tượng tiêu biểu là: - Tượng Vệ nữ M i-lô (tìm thấy ờ đảo Mi-lô, 1820); - Tượng Người ném đĩa của Mi-rông. - Tượriq Thần D ớt của Phi-đi-át. - V ệ nữXni-ílơ của Pờ ra-xi-ten... Tượng và phù điêu của Hi Lạp cổ đại đã đạt tói đỉnh cao của sự cân đối hài hoà, dáng sinh động, không có vẻ thần bí, không dung tục và trở nên mẫu mực cho nghê thuât điêu khắc các thời kì sau này. • Ở La Mã: Tượng chân dung phổ biến nhằm suy tôn các hoàng đế. Vì thế các tác phẩm chân dung mang tính cách nhân vật rõ rệt, sống động và biểu cảm. Ví dụ: Plio tượtìg Ô-guỷt ờ Pri-ma Poóc-ta theo phong cách hiện thực, nét mặt cương nghị, tự tin, cơ thể cường tráng của một vị tướng đẩy vẻ kiêu hùng. Đổng thời với tượng chân dung, ờ La Mã thời kì này đã khai sinh ra tượng đài kị sĩ, tiêu biểu là tượng Hoùng đ ể M ác 0-1 en trên litng ngựa. 1 Ti lệ vàng: ti lệ cân đối vé vé đẹp cùa con người. 12 2.3. Nghệ thuật hội hoạ thời cỏ dại So với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, nghệ thuật hội hoạ của thời kì này có phán “khiêm tốn” hơn, có nghĩa là chưa xuất hiện những tác phẩm “bề thế” hoặc là chưa được phát hiện, hoặc cũng có thể bị huý hoại bởi thời gian. • o Ai Cập: Tranh tường được vẽ trong các lăng mộ, đền thờ, đề tài liên quan đến những vị thần với đường nét đơn giản, khúc triết, màu sắc hài hoà, làm tăng vẻ đẹp của các công trình kiến trúc. Nhiều bức ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Ví dụ: Tranh ờ mộ của Sen-ne-ger được vẽ theo kiểu trang trí: hình ảnh là những dây nho trĩu quả, ảnh của Sen-ne-ger được vẽ trên CỘI hoặc tranh vẽ ông cùng ba bà vợ bằng các gam màu vàng - nâu - đen hài hoà và sống động. Vể lạo hình, người Ai Cập tuân theo ước lệ tạo hình cổ sơ, đó là: nhân vật theo hướng nghiêng 3/4; mật và bàn chân theo hướng nghiêng; mắt, vai ở tư thê nhìn thảng; hai chân chếch 3/4. Cách diễn tả như vậy đế tranh được cảm nhận ờ khống gian hai chiều, hình dàn trên mặt phẳng, nhờ đó đặc điếm nhân vật bộc lộ rõ ràng và tạo được hướng chuyển động cho nhân vật. • ơ Hi Lạp: Tranh còn lại nguyên vẹn thấy ở đồ gốm - đó là bản sao các tác phẩm hội hoạ, là những tranh kiệt tác. Đề tài thường là các trận đấu thể thao với cách vẽ hình, bố cục, màu sắc rất sinh động. • Ớ La Mã: Phổ biến là tranh ghép mảnh trên tường lớn, sinh động, vẽ theo lối hiện thực (ờ thành phố Pom-gre-i và Ec-quy-la-num). Tác phẩm tiêu biểu: Trận ỉ-xốt: Tuy không còn nguyên vẹn nhưng những gì còn lại cũng cho ta cảm nhận được không khí và thế trận giữa đội quân cùa A -lếch-xăng đại đế và quân Ba Tư trước sự chỉ huy của vua Đa-ri-út. 3. Mĩ thuật thời phong kiên 3.1. Thời kì dầu Thời kì phong kiến đến sớm hơn ờ các nước phương Đông, từ khoảng mấy thê ki trước Công nguyên. Thời kì phong kiến châu Âu đến muộn hơn, nhimg thời kì này nặng nể bời tôn giáo - chúa trời và các thánh thần ngự trị tất cả. Vì thế kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ đều hướng tới và phục vụ cho tôn giáo. a. Về kiến trúc Nhà thờ, thành quách, lâu đài “m ọc” ở khắp nơi với quy mô lớn, kiên cố và có 13 vẻ đẹp lộng lẫy. Trong đó kiến trúc nhà thờ giữ vị trí quan trọng và có thành tựu cao nhất. Ví dụ: - Nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri (Pháp) xây dựng từ 1163 - 1250. - N hà thờ Sác-tơ-rê, khởi công xây dựng năm 1194. - Toà thánh Sô-phi-a: Vòm chính có đưòng kính 33m, cách mặt nền 51,8m. Nóc vòm thường được dát vàng hoặc kim loại, đá quý để tăng hiệu quả sang trọng và thu hút thị giác. b. Vé điêu khắc Nghệ thuật điêu khắc được phát triển mạnh và gắn với kiến trúc: Phù điôu phát triển manh giữ vai trò trang trí trong các nhà thờ. 3.2. Thời kì cuối Vào cuối thời kì phong kiến, khoa học phát triển mạnh, đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt, mà cao trào cùa nó là phong trào vãn hoá Phục hưng. Ảng-ghen đã nói: Thời kì Phục hưng là thời kì sinh ra những con người khổng lổ trên mọi lĩnh vực, trong đó có mĩ thuật, v ề nội dung, các tác phẩm mĩ thuật vẫn phản ánh tôn giáo, thán thoại. a. Về kiến trúc Kết hợp hài hoà giữa kiến trúc cổ đại và kiến trúc trung cổ, do đó mang vẻ đẹp bình dị, mực thước, trang nhã, trở thành khuôn mẫu cho kiến trúc của thời đại. b. Về điêu khắc Miêu tả hình tượng con người với tỉ lệ mẫu mực về giải phẫu cơ thể. Ví dụ: - Tượng Đ a-vít của Mi kcn lăng giơ, bằng đá cổm thạch, cao 5,5m , là hình ảnh cậu bé chăn cừu đã giết tên khổng lồ Gô-li-át: với dáng đứng, tư thế của hai bàn tay và ánh mắt tạo cho pho tượng thêm sống động. - Tượng M ôi-dơcùa M i-ken-lăng-giơ, bằng đá cẩm thạch, có thân hình khoẻ khoắn. Dáng ngồi, những tư thế của hai chân, bàn tay và mắt nhìn chăm chú lại cho chúng ta thấy điều gì đó sẽ xảy ra tức khắc. c. Về hội hoạ Hội hoạ thời Phục hưng phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ, thể hiện ở các đề tài, ờ minh hoạ hình ảnh con người trong tác phẩm mang tính trí tuộ, 14 bác học như những quy luật về xa gần, về giải phẫu học, về cách phối hợp đường nét đậm nhạt, các m ảng sáng tối của màu sắc để giải quyết vấn đề không gian cùa tác phẩm. Nhưng quan trọng là cái thần thái của tác phẩm - vừa sống động, vừa bộc bạch được nội tâm của nhân vật, đúng như người xưa đã nói: Ngôn tại ý ngoại! Những danh hoạ và các tác phẩm tiêu biểu của thời Phục hưng: - Ti-xiêng: tranh L ễ thăng thiên và gia đình Đức mẹ. - Bốt-ti-xen-li: tranh M ùa xuân; Ngày sinh của Thẩn Vệ nữ... ~ Lê-ô-na đờ Vanh-xi: tranh Đức mẹ và Chúa Hài đồng; M ôn-na Li-da (Lư giô-công-đơ); Bữa tiệc biệt li (Buổi tiệc hội kín, Bữa ăn cuối cùng cùa chúa Giê-su); Đức mẹ trên núi; Quý bà với con chồn... - Ra-pha-en: Đ ức mẹ đổng trinh và Chúa hài đồng; Trường học A -ten; Ma-đôn-na; Đức mẹ Xch-xtin; Thiếu nữ và em bé; Hạ chúa Giê-su từ trên thánh giá... - Mi-ken-lãng-giơ: Thánh gia đình; Sự phán xét cuối cùng; Chúa tạo raA-đam... - Gioóc-giôn: Vệ nữ ngủ... 4. Mĩ thuật thời tư bản chủ nghĩa Cuối thòi phong kiến, một loạt các cuộc cách mạng nổ ra ở Anh (1642 - 1689); chiến tranh giành độc lập ở Bắc M ĩ và sự thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kì (1783); Cách mạng tư sản Pháp (1789)... báo hiệu sự ra đi của chế độ phong kiến và sự hình thành chù nghĩa tư bản. Đến thời kì này, nghệ thuật tạo hình phát triển theo các xu hướng, trường phái khác nhau và tập trung vào các nước có cơ sở vững vàng như: Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, xứ Phờ-lăng-đrơ và Pháp. Đây là thời kì xuất hiện các xu hướng, các trường phái nghệ thuật, đó là tất yếu của quá trình phát triển lịch sử nói chung, nghệ thuật tạo hình nói riêng, và đó mới là đặc trưng của nghệ thuật — tìm tòi phát triển và sáng tạo khổng ngừng. Sự xuất hiện các xu hướng, trường phái khác nhau được thổ hiện ở: - Sự tôn thờ, sùng bái mĩ thuật cổ đại - M ĩ thuật đề cao sự mẫu mực, lí tưởng và tuyệt đối vai trò lí trí, trí tuệ - tạo hình là cốt lõi của tác phẩm, còn màu sác chỉ là yếu tố phụ. Do đó tác phẩm thời kì này hình hoạ được chú trọng: xây dựng chắc chắn theo mẫu mực cổ đại, mà tiêu biểu là Ni-cô-la Pút-sanh (1594 - 1665). - Để cao nghệ thuật Ba-rốc - M ĩ thuật tìm đến vói cảm xúc sống động, mạnh mẽ bằng nhiều yếu tố: màu sắc, hình, sự chuyển động trong tranh và cách vẽ khoáng đạt, phóng khoáng. Đại diện cho xu hướng, trường phái này là: Pôn Ru-ben-xơ (1577 - 1640); Ca-ra-va-giô; Vê-lát-skê và Rem-brăng. - Xu hướng nghệ thuật duyên dáng dễ thương, khuyến thiện - tập trung diễn tả và ca ngợi cuộc sống của quý tộc, phong kiến mang đậm chất trữ tình. Các hoạ sĩ tiên phong cho xu hướng nay là Oát-tô; Grô-dơ và Sác-đanh. - Xu hướng nghệ thuật Tân cổ điển - Nghệ thuật của các nghệ sĩ này lại hướng về nghệ thuật cổ đại một lần nữa để tìm cảm hứng từ hào quang của nghệ thuật La Mã, Hi Lạp, đại diện là Giắc-cơ Lui Đa-vít (1748 - 1825). Tuy nhiôn, trong tác phẩm của hoạ sĩ có đề cập đến những vấn đề đương thời, như M a-ra bị ám sát hay L ễ đăng quang cùa Na-pô-lê-ôn. - Chủ nghĩa hiện thực - Tranh nghệ thuật hiện thực phản ánh cuộc sống đương thời của người lao động - công việc và sinh hoạt của họ. Ban đầu bị sự phản đối của dư luận trong giới nghệ sĩ, vì nó “khác thường” trong đề tài, trong việc xây dựng hình tượng và màu sắc... mà các xu hướng, trường phái nghệ thuật trước chưa ai đề cập đến. Tiêu biểu, đi tiên phong là hoạ sĩ Gút-sta-vơ Cuốc-bô với các tác phẩm Những cô kéo sợi ngủ quên; Chị sàng lúa; Những người thợ đập đá; M ột đám tang ở Oóc-năng;... - Nghệ thuật Ấn tượng, Tân Ấn tượng, Hậu Ấn tượng - Trường phái này tìm cách tách hội hoạ với nhiếp ảnh, bởi theo họ, hội hoạ phải khác nhiếp ảnh vể cách bố cục, xây dựng hình tượng và xử lí màu sắc,... có nghĩa là không phản ánh cuộc sống nguyên hình, khuôn mẫu, mà phải thể hiện trực tiếp đối tượng bằng cảm xúc của mình. Đi tiên phong trong trường phái này phải kể đến: Xê-dan (1839 - 1906); Van Gốc (1853 -1890); Gô-ganh (1848 - 1903). Tuy cùng quan điểm nhưng ba hoạ sĩ này lại có cách vẽ khác nhau. Ví dụ: Xê-dan: Chú trọng sự chắc chắn của hình khối, bố cục tạo ra nhiều diện và xử lí mối tương quan đậm - nhạt, nóng - lạnh để tả không gian. Van Gốc: Biểu hiện cảm xúc, tâm trạng của m ình qua nét bút cuồn cuộn, quằn quại và hoà sắc màu mạnh mẽ. O ô-ganh: Lại say sưa với am hưửng và sự liuyền b í kl cliẹu của m àu sác ilé diễn tả nét hoang sơ của cuộc sống, con người ở Ta-hi-ti. i ệ 0P> Ma-dỏn-na Tranh sơn dầu của Ra-pha-en Môi-dơ Tượng đá cẩm thạch của Mi-ken-lăng-giơ Mùa xuân. Tranh sơn dầu của Bốt-ti-xen-li 17 Chân dung tự hoạ Hai cô gái bên bờ biển Tranh san dầu của Van Gốc Tranh sơn dầu của Gỗ-ganh Hoa diên v ĩ - Tranh sơn dẩu của Van Gốc 18 Vuivyii iVĩAi 5. Mĩ th u ậ t th ê kỉ XX Thế kỉ XX có nhiều biến động lớn về lịch sử nói chung nên nghệ thuật cũng bị cuốn hút theo, đặc biệt là phong cách nghệ thuật - nhiều xu hướng nghệ thuật mới ra đời một cách “ổn ào” liên tục và chỉ tổn tại trong thời gian ngắn. Mỗi xu hướng có một quan điểm về nghệ thuật, nảy sinh những cách biểu hiện khác nhau, tạo nên sự phong phú đa dạng cho mĩ thuật. Phải chãng đều là sự chuyển biên có lôgic của m ĩ thuật để hoà đồng với sự chuyển mình của xã hội trong thời kì mới đang được hình thành? Các trường phái tiêu biểu: 5.1. Trường phái nghệ thuật Dá thú (Trường phái Dá thú) Đạc điểm của trường phái này là cách dùng màu nguyên chất, chói lọi (không pha màu như trước) và đơn giản về hình cũng như luật xa gần. Nghĩa là họ bỏ qua các quy ước của mĩ thuật thời trước đó. Tên “Dã thú” là do các nhà phê bình nghộ thuật đạt ra khi xem phòng tranh của trường phái này. Vì dã thú là động vật có sức mạnh, tàn ác, hung dữ (như hổ, báo, sư tử). Phải chàng các tác phẩm của trường phái này mới và lạ quá làm người ta sửng sốt, ngạc nhiên, hãi hùng? Đứng đầu nhóm nghệ thuật Dã thú là hoạ sĩ M a-tít-xơ (1869 - 1954), sau đó là M ác-kê; Đơ-ranh; Brắc-cơ và Đuy-phi... Trường phái này đều chịu ảnh hường phong cách nghệ thuật của Van Gốc, Gô-ganh và Xê-dan trước đó. Trường phái Dã thú chỉ tổn tại trong thời gian ngắn nhưng nó là “ngòi nổ” cho các trường phái nghệ thuật sau này. Vũ diệu - Tranh sơn dầu của Ma-tit-xơ s 19 y 5.2. Chú nghĩa Lập thể Có nhiều cách lí giải khác nhau về chủ nghĩa Lập thể. Ví dụ: - Biến đổi cảnh vật, con người... bàng những phác thảo hình học, những hình lập phương, và cho rằng như thế là coi thường hình thổ (nhà phê bình m ĩ thuật Lui Vô-sen). - Các hoạ sĩ trường phái Lập thể không sáng tạo được gì mới, đó chỉ là quy trình vẽ, vẽ phác bằng các nét, hình (vẽ bao quát) sau đó mới đi vào chi tiết... - Nghệ thuật Lập thể chịu ảnh hưởng của nghệ thuật c ổ đại, dặc biệt là nghệ thuật điêu khắc châu Phi. - Nghệ thuật Lập thể là tiếp nhận kinh nghiệm sáng tác tranh của Xê-dan: Tất cả mọi vật trong thiên nhiên đều hình thành theo những khuôn của hình cầu, hình nón, hình trụ, cần phải vẽ trên những hình thể đơn giản đó rồi mới làm được những gì mong muốn. Tác phẩm của trường phái này từ bỏ không gian quy định từ thời Phục hưng hoặc chỉ thấy dáng người mà không rõ mạt mũi chân tay. Tiêu biểu cho xu hướng này là: Brắc-cơ; Pi-cát-xô (1881 - 1973). Bức tranh đầu tiên nổi tiếng của Pi-cát-xô là Những cô gái A-vi-nhông bị phê phán, không được chấp nhận kéo dài tói 12 năm sau. Có nhiều xu hướng nghệ thuật xuất hiện trong thế kỉ XX. Ví dụ: Vị lai, Đa đa, Trừu tượng, Siêu thực, Biểu hiện, Cực thực, Bình dân, Cụ thể... Với các xu hướng này thì nội dung đề tài không phải là vấn đề quan trọng, cái mà các hoạ sĩ quan tâm là cách tiếp cận và xử lí đề tài ra sao. Có nghĩa là sự biểu hiện mới là quan trọng - đấy là ý tưởng, nội dung chỉ là “cái tôi” trong tác phẩm, là sự cảm nhận. Về chất liệu, không bó hẹp trong m ột chât liệu mà là sự tổng hợp và còn gắn các vật thể lên mặt phảng tranh. Nhũng cô gái A-vi-nhóng Tranh sơn dầu của Pi-cát-xô 20 5.3. Nghệ thuật sáp dặt, nghệ thuật biểu dién, Video A rt - Nghệ thuật sắp đặt sử dụng vật liệu có sẵn, động, thực vật sống,... trên cơ sở dó sãp xếp, bài trí và có kết hợp với ánh sáng, âm thanh tạo nên tác phẩm ờ trong phòng hay ngoài trời. - Nghệ thuật biểu diễn chính là sự biểu diễn của nghệ sĩ vói vật liệu, con người, âm thanh và ánh sáng. - Video Art là sự phối hợp kĩ thuật ghi hình và tiếng đê the hiện ý tường tạo hình của tác giả. Các loại hình nghệ thuật Irên đòi hỏi người xem phải tư duy, tường tượng, phân lích, tổng hợp để hiểu ý định của tác giá theo cách hiếu của mình. Vì thế thướng thức các tác phẩm của các loại hình nghệ thuật trên [hường không giống nhau, dôi khi dối lập nhau. III. VÀI NÉT VỀ LỊCH sử MĨ THUẬT VIỆT NAM Sự phát triển của xã hội loài người có những “m ốc” chung, có tính quy luật. Tuy nhiên, có thế sớm hay muộn hơn, không giống nhau. Ví dụ, ngày nay nhiều công trình vể kháo cổ đã cho thấy nguổn gốc con người sớm nhất là ờ châu Phi. Và trong quá trình phát triển, loài người đều trải qua các thời kì như thời kì đồ đá, đồ đồng, đồ sắt... như là một quy luật. Cũng như quá trình phát triển của lịch sử nói chung, lịch sử m ĩ thuật Việt Nam có quá trình hình thành và phát triển như sau: 1. Mĩ thuật Việt Nam thời ki cổ đại Dựa vào kết quả khảo cổ học, thời kì này được chia ra các mốc sau: 1.1. M ĩ thuật thời ki đố dá ủ lliời k;ì này, COI1 người đa che' lác ra các cOng <;ụ sản xuất, đò vạt bàng gốm, đồ trang sức bằng vỏ ốc, đã tạc hình trang trí trên rìu đá, đồ gốm; khắc hình mặt người, các con vật trên vách đá, trên đá cuội... Những di vật trên được tìm thấy ờ núi Đọ (Thanh Hoá), hang Đ ồng Nội (Hoà Bình), Bắc Sơn, Ọuỳnh Vãn (ven hicn miền Trung)... (xem hình ở chtrơng II). 1.2. M ĩ thuật Việt Nam thời kì đó dồng, đố sát Thời kì này, con người đã biết sử dụng đồng, sắt để tạo ra mọi thứ vật dụng cho cuộc sống của mình, song có thể chia sự phát triển của m ĩ thuật ra các giai đoạn như sau: 21 a. M ĩ thuật Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gó Mun * Phùng Nguyên (Phú Thọ), khoảng nửa đầu thiên niên kỉ II trước Công nguyên (TCN). * Đồng Đậu (VTnh Phúc), khoảng nữa sau thiên niên kỉ II TCN. * Gò Mun (Phú Thọ), khoảng nửa đầu thiên niên kỉ I TCN. Giai đoạn này, các công cụ lao động, các đồ trang sức bằng đổng, bằng đá được đẽo, gọt tinh vi, loại hình phong phú, hình khắc sinh động. Đồ gốm có dáng đẹp, chắc khoẻ, hình trang trí phong phú, đa dạng. Hoa văn trang trí đơn giản, là nhũng hình tròn đồng tâm, hoa văn hình chữ s đơn hay kép được cách điệu và sắp xếp thành hàng dài hoặc thành các hình tam giác, chữ nhật, hình tròn theo cách nhắc lại, xen kẽ hoặc đối xứng, tạo cho đồ vật thêm đẹp mắt. b. M ĩ thuật Đóng Sơn, khoảng thế kì VII đến thế k ỉ thứ II TCN Mĩ thuật Đông Sơn phát triển rực rỡ, được thể hiện qua các di vật như: đồ trang sức, đổ gốm và nhũng đồ vật bằng đồng (rìu, dao găm, mũi tên, trống, thạp, đổ gia dụng...) tìm thấy ở Duy Tiên, Kim Bảng (Hà Nam), Đông Sơn (Thanh Hoá), làng Vạc (Nghệ Tĩnh), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Dốc Chùa (lưu vực sông Đồng Nai)... và khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Đặc điểm của m ĩ thuật Đông Sơn là đa dạng về thể loại, trang trí tinh tế, mà đỉnh cao là trống đồng Đông Sơn, đó là khả năng chế tác, cách tạo dáng và nghệ thuật trang trí khắc chìm. Hoa văn trang trí có tính biểu tượng, ước lệ, cách điệu cao, đường nét khúc chiết. Đó là các hình hoa văn hình học, hình chữ s, hình chim thú, nhà, thuyền và hình người. Hình người được diền tả: đầu và chân trong tư thế nghiêng, ngược lại, thân ở tư thế chính diện; Các con vật đều ờ tư thế nhìn nghiêng. - Trống đồng Đông Sơn cao 63cm, có 4 quai to, đường kính mặt trống là 86cm. Trên mặt trống và tang trống đều có hình khắc chìm mang tính khái quát, ước lệ và cách điệu cao. Đường nét hoa văn khúc chiết, khoẻ khoắn, đơn giản nhưng sinh động, tự nhiên. Ở giữa mặt trống là hình ngôi sao với 14 cánh, tượng trưng cho mặt trời toả sáng. Xung quanh có 12 đường diềm đổng tâm đểu được trang trí hình người và vật, phản ánh nét sinh hoạt của người Việt cổ. Hình người và chim đểu trong tư thế rất động. Cái hay và tài nghệ thuật của người xưa là ờ chỗ: Mặt trống gôm những đường diềm đồng tâm, dù kích cỡ to nhỏ, hoa văn khác nhau nhưng sẽ gây sự nhàm chán bởi sự đổng điệu. Vì thế hình mặt trời ở giữa chiếu sáng bằng các tia sắc nhọn toả ra sẽ phá được thế đơn điệu của những đường diềm này. Hơn thế, đây là mặt trống, khiến người ta liên tường như vừa có tiếng trống và âm thanh của nó đang âm vang, lan toả. 22 - Tượng tròn: Tượng có kích thước nhỏ và thường gắn với công cụ lao động, dồdùng sinh hoạt hàng ngày. Ví dụ: + Chiếc muôi, tìm thấy ờ Việt Khê (Hải Phòng), dài 17,8 cm. Cán muôi có tạc pho tượng nhó là người đàn ông búi tóc, đang thối khèn. + Tượng người quỳ làm giá đỡ đèn, ờ Lạch Trường (Thanh Hoá). + Tượng người cõng nhau, cao 8,8cm ờ Đông Sơn (Thanh Hoá). - Kiến trúc: + Nhà sàn: Nhà sàn thời đó được xem như là nhà công cộng dành cho sinh hoạt, lễ hội của cộng đồng cir dân Lạc Việt. + Thành luỹ, tiêu biêu là thành c ổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) hiện chi còn dấu vết của ba vòng thành đất với tổng chu vi là 16,5km, là thành luỹ cổ nhất CÙ.1 Việt Nam. Trống dồng Ngọc Lũ và mặt trông dồng Ngọc Lũ (văn hoá Đông Sơn) 23 Giai đoạn Phùng Nguyên Giai đoạn Đổng Đậu Giai đoạn Đông Sơn Hoa văn trên gốm thời ki đố đóng (hình trong tài liệu Lịch sử mĩ thuật Việt Nam, tác giả Nguyễn Phi Hoanh) Hình khắc trên trống đóng Ngọc Lũ 1 (văn hoá Đông Sơn) 24 Người quỳ dỡ toà sen Muôi đống có pho tượng nhỏ (Tượng gỗ - Chùa Thái Lạc) hình người đang thổi kèn (văn hoà Đông Sơn) 2. M ĩ thuật thời ki phong kiến Thừi kì này, tiêu biểu của mĩ thuật phải kể đến mĩ thuật thời Lý - Trần - Lê - Nguyền. M ĩ thuật thời kì phong kiến phục vụ cho tín ngưỡng tôn giáo mà chủ yếu là đạo Phật, đồng thời khẳng định được ý thức dân tộc, lòng tự hào về bản sắc mang đậiĩi nét vãn hoá Việt, vừa có thể sánh vai với các nền vãn minh trên thế giới và khu vực, đó là nền văn minh Đại Việt. 2.1. Kiến trúc a. Kiến trúc kinh thành Kién trilc kinh Iliầnli dưục chú ý Iihư: — Thành Thăng Long (Hà Nội), di chỉ vừa được khai quật với ba tầng lịch sLý - Trần - Lê. Đó là kho báu vật về lịch sử và m ĩ thuật của người Viêt Nam. Thành Thăng Long xây dựng từ năm 1010 đời vua Lý Thái Tổ (l 010 - 1025) và hai lần xây dựng thêm vào năm 1029 và 1203 đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210). Thành gồm hai vòng: Tử Cấm Thành - Hoàng Thành dài khoảng 25km. Vòng ngoài có sông bao bọc (sông Hổng, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu). Trong Hoàng Thành xây dựng nhiều cung điện, điện thờ... và được trang trí lộng lẫy. 25 - Cung điện Thiên Trường (Nam Định); - Cung điện Lam Kinh (Thanh Hoá). - Kinh đô Huế (Thừa Thiên - Huê): Kinh đô H uế được xây dựng vào thời Nguyễn (1802 - 1885), gồm có Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, đàn Nam Giao, cung điện và lăng tẩm (lăng Gia Long (1814 - 1820), lãng Minh Mạng (1840 -1843), lãng Tự Đức (1864 - 1867). Kinh đô Huế được UNESCO (Tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc) công nhận là di sản văn hoá thế giới (1993). b. Kiến trúc tôn giáo (đình, chùa, tháp) Phật giáo ở thòi Lý (1009 - 1225), thời Trần (1226 -1400) phát triển mạnh, vì thế nhiều công trình kiến trúc phục vụ cho tín ngưỡng như: chùa, tháp, đình được xây dựng nhiều, ờ mọi nơi. - Chùa Diên Hựu (hay chùa Một Cột, Hà Nội): xây dựng năm 1049 dưới triều nhà Lý, là ngôi chùa không chỉ có lối kiến trúc độc đáo ở Việt Nam mà cả trên thế giới, chỉ có “một cột” có đường kính 1.25m, toàn cảnh chùa như một bông sen đang nở giữa hồ, xung quanh có lan can bao bọc. Đường cong mềm mại của mái, nét khoẻ khoắn của cột, cách tạo dáng các con sơn1... làm cho chùa hài hoà giữa các khoảng sáng tối, ẩn hiện, với không gian yên tĩnh. - Chùa Phật Tích (Bắc Ninh, thế kỉ XI); - Chùa Bối Khê (Hà Nội); - Tháp Chương Sơn (Hà Nam, thế kỉ XI - XII); - Tháp Bình Sơn (VTnh Phúc); - Tháp Phổ Minh (Nam Định, thế kỉ XIII - XIV); - Chùa Keo (Thái Bình) là một trong những đỉnh cao cùa nghệ thuật kiến trúc Phật giáo thời Lê. Toàn bộ khu chùa có 154 gian (hiện còn 128 gian), có tường cao bốn phía. Công trình kiến trúc nối tiếp nhau trên đường trục: Tam quan nọi - Khu Tầm báo thờ Phạt; Khu t)iẽn thờ Thánh; cuoi cùng là gác chuông 4 tầng, cao 12m bằng gỗ, lắp ráp kết cấu chính xác và đẹp về hình dáng. - Chùa Thầy (Hà Nội, thế kỉ XIX); - Chùa Tây Phương (Hà Nội, thế kỉ XIX); - Chùa Thiên Mụ (Huế, thế kỉ XIX). Đặc điểm của kiến tníc chùa là đằng trước thường có cùa tam quan, hoặc gác chuông. Kiến trúc tháp cao tầng, càng lên cao càng thu nhỏ. Đường nét, hình khối hài 1 Con sơn: tay đỡ chùa lừ cột. 26 hoà, trang trí đặc sắc. Vật liệu xây dụng chủ yếu là vôi vữa, gạch và gỗ. Chùa tháp thường xây dựng nơi yên tĩnh, có cày cổ thụ phù hợp với sự tĩnh lặng cùa đạo Phật. c. Kiến trúc đình làng Đình làng - nơi thờ Thành hoàng làng, đồng thời là nơi tổ chức hội hè, đình đám ờ địa phương, thường xây dựng ờ giữa làng thuận tiện cho sinh hoạt cộng đồng. Đình làng thường có mái đồ sộ, chiếm khoảng 2/3 chiều cao của đình, có dáng đẹp, xoè rộng với bốn đầu đao cong vút lên, sân rộng; chạm khắc hoa văn phóng khoáng, có độ nông sâu huyền ảo. Đình làng thường xây dựng bằng gạch, vôi vữa và gỗ. - Đình Đình Bảng (Bắc Ninh, thế kỉ XVIII), dài khoảng 20m, rộng 14m, cao 8m, gồm 7 gian chính, hai gian phụ và gian bái đường. Các gian khác lát gỗ cao hơn bái đường 0,7m. Bộ khung đình bằng gỗ lim được chạm trổ hình rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu... rất tinh vi. - Đình Thố Hà, đình Lỗ Hạnh (Bắc Giang); - Đình Tây Đằng, đình Chu Quyến (Hà Nội)... là nhũng ngôi đình tiêu biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam. 2.2. Điêu khác Điêu khắc ở thời kì phong kiến phục vụ cho tôn giáo, tín ngưỡng, tác phẩm là tượng Phật, hổ, ngựa, voi và chạm khắc ờ đình chùa. Chất liệu chủ yếu của điêu khắc là gỗ, đá. Tượng Phật thường đặt trên bệ, phong cách tà thực, ít chi tiết, không rườm rà nhung diẻn tả tỉ mỉ, đường nét mềm mại, thanh thoát, có tính khái quát cao, hình khối khoẻ, dứt khoát. Chạm khắc trên đá, gỗ điều luyện, tinh vi và cách điệu cao với các con vật như hổ, rồng, phượng, tạo cho công trình kiến trúc vừa đẹp, lộng lẫy, vừa uy nghiêm. Có thể nói. cùng với kiến trúc đình. chùa, tháp (hì điêu khắc đã đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật và kĩ thuật, được thế giới đánh giá cao. V í dụ: a. Tượng - Tượng Phật A-di-đà (chùa Phật Tích, Bắc Ninh, đá, thế kỉ XI); - Tượng Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay (chùa Bút Tháp, Bắc Ninh, gỗ, thế kỉ XII). Với 42 tay lớn và 952 tay nhỏ, toạ lạc trên toà sen cao 2m (cả bê cao 3,7m). Tượng thể hiên tư thế thiền định, các cánh tay đưa lên như bông sen nở, vòng ngoài là những tay nhỏ. Trong mỗi bàn tay có một con mắt tạo thành vòng hào quang toả sáng xung quanh tượng. 27 - Tượng Tuyết Sơn (chùa Trăm Gian, Hà Nội, gỗ, thế kỉ XVIII); - Tượng Hiếp Tôn Giả (chùa Tây Phương, Hà Nội, gỗ, thế kỉ XVIII); - Tượng Người quỳ đỡ toà sen (gỗ, chùa Thái Lạc, Hưng Yên); - Tượng Hò (đá, lãng Trần Thủ Độ, Thái Bình)... b. Điêu khắc trang tri (phù điêu, chạm nổi) Điêu khắc trang trí ở chùa, đình, tháp đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, thể hiện ở: đề tài phong phú đa dạng phục vụ cho sinh hoạt đời thường như: lễ hội, sản xuất, các con vật linh thiêng, hoa lá, sóng nước... mang đậm nét dân gian; hình dáng sinh động, bố cục độc đáo, đường nét, mảng khối chắc khoẻ, có tính cách điệu cao; kĩ thuật chạm khắc điêu luyện thể hiện ở độ nông sâu tạo nên sáng tối ẩn hiện làm cho tác phẩm vừa mềm mại, vừa lung linh huyền ảo. Các tác phẩm tiêu biểu: - Hình con rồng và hoa dây (chùa Phật Tích, Bắc Ninh); - Tiên nữ đầu người mình chim đang dâng hoa (chạm khấc gỗ, chùa Thái Lạc); - Trò chơi trồng người (gỗ, đình Tây Đảng, Hà Nội); - Trai gái vui dùa (gỗ, đình Hương Lộc, Nam Định); - Đầu đao (đình Phù Lão, Bắc Giang); - Chạm khắc bên trong đình Chu Quyến (Hà Nội); - Uống rượu (đình Chu Quyến, Hà Nội); - Cảnh sinh hoạt cùa người dân (đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc). Con rồng là hình tượng xuất hiộn nhiẻu trong điêu khắc và chạm khắc, có mật ở hầu hết các chùa, đình Việt Nam, là một trong tứ linh (Long - Ly - Quy - Phượng), là biểu tượng cho quyền uy, linh thiêng, cao cả. Ở châu Á nói chung, ở Viột Nam nói riêng, con rồng đã đi vào văn hoá hàng nghìn năm trước, như: Con rổng cháu tiôn; rỗng lã tượng trưng cho vua: chi có áo bào cùa vua mới có hình rồng; ngai để thờ cúng; kiộu rước... đều có hình rồng được sơn son thếp vàng rực rỡ. Hình con rồng trong chạm khắc gồ, đá các thời Lý, Trẩn, Lê đểu không giống nhau nhung nhìn chung, đó là tượng trimg cho khí thế vươn lên cùa dân tộc: thân rồng có vảy, có vây uốn cong uyển chuyén, mểm mại, mắt lồi to, mang nở, mào dài uốn lượn, sừng cong chắc khoẻ, có móng cong, nhọn. 2.3. Gốm Gốm có hai loại: gốm kiến trúc và gốm gia dụng. 28 a Gốm kiến trúc: ngói, gạch... thường được trang trí đa dạng, sau đó nung (không phủ men) nên có màu đỏ au của đất. Ngược lại, gốm có trang trí hình rồng, phượng cách điệu và tráng men màu đẹp thường được gắn vào gờ mái, đầu đao. Gốm kiến trúc có màu được sử dụng nhiều trong trang trí ở cô' đô Huế. b. Gốm gia dụng: bình, choé, đôn, chậu, ang, bát đĩa, ấm chén, bát hương, chân đèn... đều có tạo hình đa dạng, nhẹ nhàng thanh thoát, trau chuốt mang vẻ đẹp sang trọng, phong phú về hoạ tiết như: hình kỉ hà, rồng, phượng, hoa sen, hoa cúc, hoa chanh, hoa phù dung, tôm, cua, cá, chim thú. Hoạ tiết được dập nổi, khắc chìm hoặc vẽ và cách điệu cao, sau mới phủ men. M àu men của gốm gia dụng vừa chắc khoẻ, vừa thanh nhã, phù hợp với từng đồ vật. Các sản phẩm tiêu biểu: + Bình gôm; + Thạp gốm (Thanh Hoá, thế kỉ XVIII); + Liễn (men xanh đồng, thế kỉ XV - XVII); + Lư hương (gốm men rạn, thế kỉ XVII); + Choé (gốm men rạn, thế kỉ XVI). Tháp Chàm Cột cờ Hà Nội • *v * 4 ' Ị • • , * l> , ■ «v, ' C 'yf ĩ v\ ' ‘ĩ 1 __ -> ij : *5- 1 ^ V ỉ T ượng Phật A-di-dà (chùa Phật Tích, Bắc Ninh - đá, TK. XI) TưọtigPhật bà Quan Âm nghìn mát nghìn tay (chLa Bút Tháp, Bắc Ninh, gỗ, TK XVII) Gác chuông chùa Keo (Thái Binh) 31 2.4. Hội hoạ Về hội hoạ, các tác phẩm thời kì phong kiến còn lại không nhiều, có thể do chiến tranh, thời gian hoặc do loại hình này không phát triển mạnh như kiến trúc, điêu khắc gốm. Tác phẩm còn lại đến ngày nay rất ít, đó là: - Chán dung Nguyền Trãi (Lụa, chùa Bộc, Hà Nội) và một số tranh chân dung về triều Lê, chúa Trịnh và những người có công với nước. - Hình vẽ trên gốm... Tuy nhiên, hội hoạ thời phong kiến đã để lại cho nền m ĩ thuật Việt Nam di sản rất quý giá, đó là: tranh dân gian. Tranh dân gian xuất hiện hẩu như ở mọi miền đất nước, như: tranh dân gian của các dân tộc Mường, Dáy, Cao Lan, Nùng, Tày; của Kim H oàng (Hà Nội), Làng Sình (Huế)... đặc biệt phát triển mạnh và phổ biến là hai dòng tranh lớn: tranh Đông Hổ (Làng Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh) và tranh Hàng Trống (phố Hàng Trống, Hà Nội). + Nguồn gốc: Tranh dân gian ra đời từ bao giờ, đến nay vẫn còn là câu hỏi để ngỏ cho các nhà nghiên cứu mĩ thuật. Có ý kiến cho rằng: tranh dân gian ra đời vào thời kì có kĩ thuật làm giấy, có in ấn văn tự và tiền giấy. Chỉ biết rằng tranh dân gian không có tác giả, bởi nó được cả cộng đồng cùng nghĩ, cùng làm và cứ thế trải qua từ đời nay sang đòi khác, rất tự nhiên (dân là do người dân tạo ra, gian là thời gian). + Đề tài: Tranh dân gian có để tài rất phong phú, phản ánh mọi mặt của đời thường, cảnh đẹp của đất nước qua những hình ảnh gẩn gũi, quen thuộc như cỏ cây hoa trái, đất nước mây trời, côn trùng, các con vật... Đặc biệt là phản ánh sinh hoạt của con người, như chãn nuôi, trổng trọt, vui chơi, lễ hội. học hành, tín ngirỡng. phê bình thói hư tật xấu trong xã hội,... truyện tích về các vị anh hùng dân tộc có công với đất nước. + Nội dung: Nội dung bao trùm tranh dân gian là ước vọng cuộc sống no đủ, sống trong tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Vì thế tranh dân gian “đến” được với mọi ngưòi, “vào” được từng gia đình, nhất là dịp Tết đến xuân sang, nên tranh dân gian còn có tên gần gũi thân thương, đó là tranh Tết. Có thể nói, hiếm có thể loại tạo hình nào có được vinh hạnh ấy. 32 + Hình thức thể hiện: * Thế loại: Tranh dân gian thuộc thể loại đổ hoạ - nghĩa là dựa vào các bản khắc “gốc” có thê in ra bao nhiêu bản tuỳ ý. Khác với hội hoạ - tranh vẽ lần đầu, gọi là bản chính, nếu sao lại, dù có giống 100% vãn gọi là “tranh chép”, khòng có giá trị như bản gốc, nếu chụp lại, gọi là phiên bản, cũng chỉ là ảnh chụp tranh mà thôi. * Khắc tranh: Từ phác thảo, nghệ nhân dùng đục, tràng (dụng cụ đê khắc) khắc hình lên gỗ. Gỗ thường là gỗ mề, ít cong vênh, không bị nứt nẻ; gỗ mít, gỗ thị là tốt nhất. Tranh dàn gian Đông Hồ có bao nhiêu màu là có bấy nhiêu bản khắc. Mỗi bản chỉ khắc hình mảng của một màu. Mảng đó được đê nguyên so với mặt phẳng tấm gỗ, còn các máng hình khác đều phải đục, khoét sâu, lõm xuống (đê chỉ in một màu). * In tranh: Pha chê màu theo phác tháo (số lượng màu và độ đậm nhạt), mỗi người chi in một màu theo quy định cho từng công đoạn (trước, sau) và chuyền nhau in màu khác. Bán in cuối cùng là nét đen viền hình máng. Đến đây xem như hoàn thành tranh. Đó là cách làm tranh dân gian Đông Hồ. Với tranh dân gian Hàng Trống, cách làm tranh lại khác: Chí có một bản khãc nét (bản gốc), sau khi in nét viền bằng màu đen, nghệ nhân mới vẽ màu vào các màng theo ý định. + Màu sắc: * Tranh dân gian Đông Hồ được in bằng các màu tự chế từ nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương. Ví dụ: màu vàng từ củ nghệ, hoa dành dành, cây gỗ vàng; màu đỏ từ son; màu nâu từ sỏi, đất; màu xanh từ lá chàm; màu đen từ than rơm, than lá tre... và in trên nền giấy dó (làm từ cây dó) có phủ điệp (vỏ sò, hến, nung cho tơi. nghiền nát. hoà với hồ nếp và màu (tuỳ chon) sau đó quét lên nền giấy. Vì thế nền tranh dân gian Đông Hồ chì có một màu, phẳng, (không có đậm nhạt) nhirng xốp và có chất óng ánh rất gợi cảm. Màu sắc tranh dân gian Đông Hổ đậm đà, chân chất, phản ánh được tính cách của người nông dân quê mùa đôn hậu và phóng khoáng. * Tranh dân gian Hàng Trống sử dụng màu phẩm nên màu sắc của tranh nhẹ nhàng, tươi tắn và có đậm có nhạt, phù hợp với phong cách người dân thị thành. + Đường nét, hình mảng: * Tranh dân gian Đông Hồ có hình mảng phảng, đường nét chắc khoẻ, có đậm có nhạt. 33 * Tranh dân gian Hàng Trống có nét mảnh mai tinh tế, trau chuốt, hình mảng có đậm nhạt ẩn hiện. + Bố cục tranh dân gian: * Bố cục tranh dân gian thuận mắt, hình to, nền thoáng, dễ hiểu. N hiều tranh như kể diễn biến của nội dung, có đầu có cuối, có trước có sau, như: Tranh Thầy đỗ cóc, Bái tổ vinh quy (Đám cưới chuột), hay Bản đồ canh IIÔHIỊ... * Chữ là một phần của bố cục tranh, gồm có chữ đê giới thiệu tên nhân vật như: Mèo, cống lễ, thổi kèn, chuột già, giữ thần (hàng trên); chú rể, nghênh hôn (hàng dưới) ở tranh Đám cưới chuột. Hoặc là đề thơ: “Khen ai khéo dựng nên dừa. Đ ấy trèo đây hứng cho vừa một đôi” (tranh Hứng dừa); hay: “Thôi thôi nuốt giận làm lành. Chi điều sinh sự nhục mình nhục ta” (ở tranh Đánli ghen). Trong trường hợp thơ ờ tranh, hiện có hai giả thiết: Một là nghê nhân vẽ theo ý của nhà thơ. Hai là nhà thơ làm thơ tặng khi xem tranh của nghệ nhân. + Hình tượng: Hình tượng trong tranh dân gian rất gần gũi, cò đọng, súc tích, đổng thời lột tả được tính cách của từng nhân vật. Ví dụ: Người vợ cả (trong Đ ánh ẹhen) - tóc búi ngược, váy xắn “quai cồng”, tay chống nạnh vào hông, tay vung cao cái kéo xăm xăm tiến tới... biẻu hiện sự căm giận tột độ, quyết một phen “gọt đầu bôi vôi” kẻ tình địch! Người vợ hai, cũng không kém phần quyết liệt: váy xắn quai cồng, tay chống nạnh rồi ào tới, tay đưa lọn lóc như thách thức. Ông chồng tỏ ra là người khôn ngoan, biết xử sự trong tình huống “nước sôi lừa bỏng” này, thể hiện ở tư thế hơi cúi, tay trái như vỗ về người vợ hai, tay phải hơi run run (xem các ngón tay) khuơ khuơ về phía trước như van xin người vợ cả. Cái dáng khuơ tay sao phù hợp với luyến ngữ “thôi thôi” làm vậy! Thật là ngôn ngữ vãn học - hội hoạ hoà đồng, như hai mà một. Rồi Hửng dừa, vì sao nghệ nhân ờ Bắc Ninh lại xây dựng hình tượng cây dừa, trong khi dừa không phái là cây điến hình ờ xứ Băc Kì lúc bấy giờ. Song, tranh này ngoài cây dừa ra, không có cây nào khác để nghê nhân khai thác được tính dí dỏm , hóm hỉnh, tự nhiên của cảnh trai gái thuận tình, tự do tìm hiểu lo cho hạnh phúc của mình trong xã hội thời ấy - Cha mẹ đặi đâu con ngồi đấy. Hãy nhìn vào chùm dừa mà chàng trai tặng cô gái: nó chỉ có hai quả, một cái cuống ở giữa và những cái tóc dừa ờ xung quanh. Trên cây có chùm ba quả, chùm bốn quả, sao anh ta lại hái tặng cô gái có hai quả? Cố gái cũng tinh ranh đáo để, thấy vậy, cô hiểu ngay anh chàng này xỏ xiên trêu ghẹo, đùa cợt quá clà, nên cô cũng không đưa tay lên đỡ, mà tung váy lên hứng cho “đã”. Sự việc sau khi chùm hai quả dừa rơi xuống thế nào niia có “trời” mà biết! 34 Tranh Thầy đồ cóc, lựa chọn hình tượng con Cóc (Cóc thầy, Cóc trò) để nêu lên đặc điểm cùa trường học “tại gia” xưa kia, cách học cùa trò, cách dạy của thầy - ông đồ. Đ ặc biệt là hình ảnh “Thầy Cóc” chỉ hoạt động trong phạm vi nhò - cái sập: Xưa kia thầy ngồi dạy, chấm bài, hòi bài, đánh học trò, trưa tối ngủ ở đ ấ y .. Vậy còn hình tượng nào phù hợp hơn hình tượng con cóc? (“cóc chết ba năm quay đầu về núi”, hoặc “cóc bôi vôi”...). Khi xem tranh dân gian, cần tìm hiểu về bố cục, cách xây dựng hình tượng như giới thiệu ở trên, cần nhớ lại hoàn cảnh ra đời, trong đó có xã hội, sinh hoạt, phong tục tập quán, rồi cách dùng từ sao cho hợp với “thời”, với ngữ cành... thì niới thấy được cái hay, cái đẹp, cái dí dỏm mà các nghệ nhân thời bấy giờ đã dày còng tìm kiếm, sáng tạo. 2.5. Một sô bức tranh dân gian tiêu biểu a. Tranh Đông Hố - Gù Đại Cút, Đám cưới Chuột (Bái tổ vinh quy), Đánh vật, Hữnq dừa, Đánh tỊlien, Qiianq TruníỊ, Gù mái, L ợii nái... b. Tranh Hàng Trống - Ngì1 Hổ, H ắc Hổ, Bù cliúu tliượng ngàn (tranh thờ), T ố nữ (tứ bìnli), Chợ I/Ill’, LÝ ngư vọng nguyệt (cá chép vờn trăng), T ứ quỷ (Xiiân - H ạ - Thu - Đô//ẹJ, Thầy dồ cóc... c. Tranh các dân tộc miền núi (tranh thờ) - Ô/HỊ Ác, Ông Thiện, Tam Thanh (dân tộc Nùng), Tùng Dửỉìg Sựi (Thần Mưa, dân tộc Cao Lan)... 35 Lý ngư vọng nguyệt Hứng dừa (tranh Hàng Trống, Hà Nội) (tranh Đồng Hố, Bắc Ninh) TỐ nữ (tranh Hàng Trống, Hà Nội) 36 V____J 3. Mĩ thuật Việt Nam thời ki cận dại Từ ' 858 nước Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Mãi tới năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đáng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Bác Hổ kính yêu, toàn dân ta đã làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời vào ngày 2/9/1945, trở thành nước Việt Nam độc lập. Trong thời gian đô hộ, thực dân Pháp đã mờ một số trường trong đó có Trường Mì thuật G ia Định (1913), Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đòng Dương (1925), đào tạo ra lớp nghệ sĩ đẩu tiên và họ đã sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị cho đến ngày hôm nay. Đó là: - Tô Ngọc Vân với Thiêu nữ bên hoa huệ (1943, sơn dầu), H a i thiểu nữ rà em bé (sơn đầu), Thuyên trên sông Hươiiẹ (1935, sơn dầu). - Trần Văn c ẩ n với Em Tliuý (1943, sơn dầu), Gội đâu (khắc gỗ màu). - Nguyễn G ia Trí với Vườìi xuân Trung Nam Bắc (sơn mài), Tliiếu nữ bên hoti phù ílung (sơn mài). - Nguyễn Phan Chánh với Rửa rau cầu ao (lụa), Bé cho chim ăn (lụa), Chơi ô ủn quan (lụa)... Các hoạ sĩ thời kì này đã sử dụng chất liệu mới - sơn dẩu của phương Tây vào tác phẩm m ột cách thuần thục mang phong cách Việt Nam. Đưa chất liệu sơn m ài - thường sử dụng trong m ĩ nghệ vào tác phẩm hội hoạ một cách thành công, tạo cho nghệ thuật lụa phát triển lên tầm cao... Đó là những sáng tạo, đạt nền m óng cho sự phát triển nền m ĩ thuật hiện đại Việt Nam sau này. 4. M ĩ thuật Việt Nam thê kỉ XX Mĩ thuật thời kì này có thể chia làm ba giai đoạn sau: 4.1. M ĩ thuật từ 1945 - 1954 ITiời kl chóng Ihực dan Pháp xam lược, nước la gạp ia'i nliièu KliO Klian vẻ mọi mặt. Trường Cao đẳng M ĩ thuật Trung ương thành lập nãm 1950 phải sơ tán lên chiến khu Việt Bắc, vị hiệu trưởng đẩu tiên là hoạ sĩT ô Ngọc Vân (1906 - 1954). Trong hoàn cảnh khó khăn đó, các hoạ sĩ vừa sáng tác, vừa tham gia kháng chiến và thâm nhập vào cuộc sống, do vậy chưa có điều kiện xây dựng các tác phẩm tầm cỡ, vì thế kí hoạ lấy tư liệu và các tác phẩm nhỏ có lợi thế trong giai đoạn này, là cơ sờ cho những tác phẩm lớn mai sau. V í dụ: - C ô gái Thái đi dạy học, C hị cốt cán, Con trâu quà thực, Đ i học đêm... của Tô Ngọc Vân. 37 - Bác H ồ với thiếu nhi ba miền Trung, N um , Bấc (1947, vẽ bằng máu trên vải) của Diệp Minh Châu. - Gặp gỡ của Mai Văn Hiến... 4.2. M ĩ thuật từ 1954 - 1975 a. Hội ho ạ Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, song miền Nam còn dưới ách nô dịch của đế quốc MT, cuộc chiến đấu vì miền Nam ruột thịt và chống chiến tranh phá hoại miền Bắc diễn ra rất khốc liệt, các hoạ sĩ lại vào chiến trường... Tuy nhiên, thời kì này của m ĩ thuật cũng là thời kì đơm hoa kết trái. Nhiều tác phẩm đã nung nấu, ấp ủ trong hai cuộc kháng chiến được các hoạ sĩ thể hiện thành công cả vể nội dung, đề tài, thể loại và chất liệu. Ví dụ: - Sơn mài là chất liệu truyền thống được các hoạ sĩ tìm tòi và sáng tạo không ngừng, mỗi người một vẻ. Ví dụ: T út nước đồng chiêm , M ùa thu, Thảng cu đất m ỏ của Trần Văn cẩn ; Bình minh trên nông trung của N guyễn Đức Nùng; T ổ đổi công miền núi của H oàng Tích Chù; N ông dân đấu tranh chống th u ế của N guyễn Tư Nghiêm ; Tre của Trần Đình Thọ; N h ớ m ột chiêu Tủy Bắc của Phan K ế An; Trái tim vù nòng súng của Huỳnh Vãn Gấm; Nhà tranh gốc m ít của Nguyền Vãn Tỵ; K ết nạp Đ ủng ở Đ iện Biên Phủ của Nguyền Sáng... - Khắc gỗ và sơn khắc đã kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc với cách diễn tả phong phú, đa dạng: Thổn Vĩnh M ốc của Huỳnh Văn Thuận, M ùa xuân của Nguyền Thụ, M ẹ con của Đinh Trọng Khang, Ba th ế hệ của Hoàng Trầm. - Lụa qua quá trình phát triển, các hoạ sĩ đã tìm tòi, đổi mới về kĩ thuật thể hiện và nội dung đề tài: Bữa cơm mùa thắng lợi, Sưu giờ trực chiến, Trăng lu, Trăng tỏ của Nguyễn Phan Chánh; Lủng ven núi của Nguyễn Thụ; Ghé thăm nhà của Trọng Kiệm; Được mùa của Nguyễn Tiến Chung; Vê'nông thôn sàn xuất cùa Ngô Minh Cầu... - Sơn dầu là chất liệu mới từ phương Tây du nhập vào nhưng được các hoạ sĩ Việt Nam sử dụng thành thạo và có hiệu quả, mang đậm tính dân tộc. Ví dụ: Công nhân cơ khí, Tan ca mời chị em ra họp đ ể thi chọn thợ giỏi, Học hỏi lẫn nhau của Nguyễn Đỗ Cung; M ột buổi cày của Lưu Công Nhân; Đồi cọ của Lương Xuân Nhị; Băng chuyên trên mỏ Đèo Nai của Nguyễn Tiến Chung; Tiếng đàn bầu của Sĩ Tốt; Phô Hàng Mắm của Bùi Xuân Phái; Thanh niên thành đồng, Giặc đốt làng tôi, Thiểu nữ bên hoa sen của Nguyễn Sáng... - Màu bột là chất liệu phổ biến và phù hợp với điều kiộn của Việt Nam, có 38 khả nâng diễn tả phong phú: Đền Voi phục của Văn Giáo; M ùa xuân trên bản của Trần Lưu Hậu; Ao làng của Phạm Thị Hà... b. Điêu khắc thời kì này có nhiều tác phẩm tẩm cỡ, phản ánh được hiện thực xã hội với chất liệu đa dạng. Ví dụ: Nắm đất miền Nam (thạch cao) của Phạm Xuân Thi; L iệt s ĩV õ T h ị Sáu (đồng) của Diệp Minh Châu; Chiến thắng Điện Biên Phủ (đồng) của Nguyễn Hải; Ván D ại của Lê Thành Công; Vót chông của Phạm Mười... là những tác phẩm được đánh giá cao về chất lượng nghệ thuật. 4.3. M ĩ thuật từ 1975 đến nay Phát huy và kê thừa những thành tựu của mĩ thuật thời kì trước, đổng thời hoà nhập với sự phát triển chung, một số hoạ sĩ muốn đi tìm con đường riêng cho mình. Do vậy xuất hiện các quan điểm sáng tác khác nhau thể hiện ở các m ảng đề tài với phong cách: hiện thực, siêu hình, trừu tượng, iập thể, siêu thực... Các hoạ sĩ còn thể hiện các chất liệu tổng hợp trong tác phẩm. Đó mới là bước đầu của sự phát triển m ĩ thuật Việt Nam trong giai đoạn mới. Khẳng định được các xu thế, cần có thời gian trải nghiệm và sự đánh giá của công chúng yêu nghệ thuật. Các tác phẩm trong thời kì này: Sự sống và cái chết của Bửu Chi; Giai điệu vùng cao của Lê Anh Vân; Sức sống của Nguyễn Đình Tài; Tâm linh của Vũ Tiến... Kết nạp Đáng ở Điện Biên Phủ - Tranh sơn mài của Nguyễn Sáng 39 m Tát nước đống chiêm. 1958 - Tranh sơn mài của Trần Văn cẩn Bác Hồ với thiếu nhi ba mlển Trung, Nam, Bắc Tranh lụa của Diệp Minh Châu 4 0 Nám đất mién Nam Tượngthạch cao của Phạm Xuân Thi Bữa cơm mùa tháng lợi Tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh Nhớ một chiểu Tây Bác. Tranh sơn mài của Phan Kế An Phong cánh nông thôn. Tranh sơn mài của Nguyễn Văn Bình 4 2 HƯỚNG DẪN HỌC CHƯƠNG I Đê’ học chương này có hiệu quả, mỗi người cần nhớ lại kiến thức đã học ở môn Lịch sử để thấy được sự phát triển của lịch sử loài người “kéo” theo sự phát triển của mọi ngành khoa học tự nhiên, xã hội, trong đó có m ĩ thuật. 1. Sự ra đời của m ĩ thuật? Vì sao có sự ra đời đó? 2. Nêu các giai đoạn hình thành và phát triển của: - Mĩ thuật thời nguyên thuỷ? - MT thuật thời chiếm hữu nô lệ? - NTĩ thuật thời phong kiến? - Mĩ thuật thời tư bản chủ nghĩa? - Mĩ thuật thế kỉ XX? 3. Nêu lên đặc điếm của m ĩ thuật các thời kì trên. 4. Kế tên các công trình, tác phẩm mĩ thuật tiêu biểu của các thời kì đó (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc). 5. Sưu tầm thêm các công trình, tác phẩm đã giới thiệu hoặc chưa giới thiệu của các thời kì này. 6. Nêu lên các thời kì phát triển của m ĩ thuật Việt Nam, đồng thời tìm hiểu các công trình, tác phẩm chưa được nêu ờ giáo trình này. 7. Bằng sự hiểu biết của mình và cùng đổng nghiệp, hãy phân tích các công trình, tác phấm đã giới thiệu trong giáo trình. 43 ----------------------------------------------------------------- M Ĩ THUẬT VÀ CUỘC SÔNG CON IVIGƯÒI I. KHÁI NIỆM 1. Mĩ thuật là gì? Có nhiều cách hiểu về m ĩ thuật, mỗi cách diễn giải theo lối riêng. Có cách ngắn gọn, có cách giải thích dài, dù sao cũng cung cấp những thông tin bổ ích, giúp chúng ta chắt lọc, tổng hợp đê hiếu khái niệm này theo cách của mình. Chúng tỏi xin giới thiệu tóm lược để tham kháo. 1.1. Diễn giải theo cách diễn tà Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật tạo nên các sản phẩm trên mặt phẳng (tranh...) bằng đường nét, hình máng, màu sắc, đậm nhạt; trong không gian (tượng...) bằng hình khối, sáng tối, đậm nhạt. Mĩ thuật sử dụng nhiều chất liệu khác nhau như: giấy, chì, các loại màu, vải sợi, (hội họa, trang trí); đất, thạch cao, đá, gang, đồng, xi m ăn g ... (điêu khắc), cao su, đồng, n h ô m ... (tranh khác, tranh gò). Có thể nói vắn tắt: Mĩ thuật là nghệ thuật của mặt phẳng, của không gian. 1.2. Diễn giái theo cấu trúc nội dung NTĨ thuật là loại hình nghệ thuật gồm các ngành cơ bản như: Hội họa, Điêu khắc, Kiến trúc và M ĩ thuật ứng dụng. 1.3. Diễn giải theo chức nâng, tác dụng, dặc điếm Mĩ thuật là nghệ thuật của con mắt - nghệ thuật của thị giác (nhìn, nhận ra cái đẹp bằng con mắt). Cũng như nói âm nhạc là nghệ thuật của tai - nghệ thuật của thính giác (nghe thấy cái h ay cái đop b ằng tai). 1.4. Diễn giải theo ngữ nghĩa Theo hoạ sĩ lão thành Nguyễn Phan C hánh1, mĩ thuật là cách tạo ra cái đẹp. Cách diễn đạt này ngầm nói là có nhiều cách để tạo ra cái đẹp, tùy thuộc vào khả năng tu duy, sáng tạo, thị hiếu thẩm mĩ và cảm thụ của người tạo nên nó và người thường thức. Cũng như vậy, cách diễn đạt này còn làm sáng tỏ hơn cho phương 1 Nguyển Phan Chánh (1892 - 1984) chuyên vẽ tranh lụa, là một trong những hoạ sĩ có nhiểu đóng góp cho nén hội hoạ hiện đại Việt Nam. Ồng được tặng Giải thường Hồ Chí M inh vể vân học - nghộ thuật đợt đáu tiên (1996). 45 pháp dạy - học mĩ thuật ở trường phổ thông: dạy học sinh cách sáng tạo ra cái đẹp theo khả năng, ý thích của mình chứ không phải áp đạt, rập khuôn, sao chép theo công thức chung nào đó. 2. Cái dẹp và thê' nào là cái đẹp Có nhiéu cách hiểu khác nhau vé cái đẹp, bởi nhận thức, khuynh hướng, sở trường, quan niộm và cảm thụ của con người, cùa cộng đồng ờ mỗi thời đại không giống nhau. 2.1. Về hình thức và nội dung - Có người cho rằng cái đẹp do hình thức quyết định, đó là hình dáng, màu sắc mà không chú ý đến tương quan của chúng trong chỉnh thể, do vây, thường bị sự hào nhoáng, màu mè săc sỡ bên ngoài cuốn hút, đánh lừa. - Ngược lại, có người thiên vể nội dung mà bỏ qua hình thức biểu hiện nên thường rơi vào tình trạng diễn tả luộm thuộm hoặc tùy tiện. Cả hai cách nhìn nhận, đánh giá đểu không đúng bản chất cùa cái dẹp. Cái đẹp của một chỉnh thể thống nhất giữa “cái ngoài” (hình thức) và “cái trong” (nội dung). Khi nói vể giá trị của một tác phẩm nghệ thuật, cô' Thù tướng Phạm Văn Đổng đã đưa ra nhận xét: Một tác phẩm hay, đẹp là tác phẩm phải đạt 100% về hình thức và 100% về nội dung, tuyệt nhiên không lấy nội dung bù đáp cho hình thức nghèo nàn, đơn điộu và ngược lại cũng không cho phép lấy hình thức loè loẹt che đậy cho nội dung rỗng tuếch. Nội dung và hình thức của một tác phẩm phải bổ sung hỗ trợ cho nhau, tạo nên sự hoàn thiện - tạo nên cái đẹp của tác phẩm. Từ xa xưa, cha ông chúng ta có những nhận xét về sự thống nhất giữa cái bên ngoài và cái bên trong như: “Trông mặt, đăt tên”; “Người hién nó hiện ra mặt, người què quặt nó hiện ra chân tay”; “Con lợn có béo, cỗ lòng mới ngon” ... Một tác phẩm nũ thuật như: tranh, tượng... đẹp cần có hình thức đẹp - bố cục, hình dáng, đường nét, hình khối, màu sắc, đâm nhạt đẹp, từ hình thức ấy nói lên được điểu gì đó hoặc gợi cho người xem suy nghĩ, cảm nhận vể cuộc sống và cái đẹp. 2.2. Thời đại và cái đẹp Mỗi thời đại có quan niệm và chuẩn mực vể cái đẹp khác nhau. Chảrg hạn, thời phong kiến, người ta quan niệm cái đẹp của thiếu nữ là: tóc đen dài, chít khăn mỏ quạ, hoặc tóc vấn đuôi gà, cổ kiêu ba ngấn, lông mày nét nganỊ, răng đen rưng rức, ngực, mông nở nên măc áo chiết li và xẻ tà, tay búp m ăng, áo tứ thân, ruột tượng xanh, yếm đào, nón quai thao...; Đối với nam giới thì: khăn xếp, áo lương, quần tay cống, giầy Gia Định, ô lục soạn... 0 Trung Quốc thời xưa, người con gái đẹp phải có đôi bàn chân nhỏ, thon thả nên các cô phải bó chân từ khi còn bé. Ở các nước phương Tây thì eo phải nhỏ, nên các cô phải bó, thắt hông, váy phải may sao cho thật rộng, thật x ò e... Thật ra đây không chỉ là vẻ đẹp mà còn là vấn đề sinh nờ - thiên chức của người phụ nữ: “Những người thắt đáy lưng ong. Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con”. Trong hoàn cành khó khãn, thiếu thôn đủ bề thì người lao động lại cho rằng: ăn lấy chắc, mặc lấy bền và béo - khỏe, to - bền... Qua mỗi thời đại, quan niệm và tiêu chuẩn vể cái đẹp được bổ sung, thay đổi cho phong phú, phù hợp với thời đại. Giữ lại và phát huy những nét đẹp truyển thống là vô cùng cần thiết đối với mọi dân tộc và mọi quốc gia. Không quá lệ thuộc vào quá khứ, nhưng không khinh bạc. Tiếp thu qua khứ một cách có chọn lọc, tôn trọng những giá trị truyền thống. Đó là thái độ đúng đắn nhất của người có văn hóa - hiểu biết về cái đẹp, về giá trị chân chính của nó. 2.3. Dân tộc và cái đẹp M ỗi dân tộc sinh sống ở một khu vực khác nhau vé địa lí, khí hậu, phong tục tập quán không giống nhau, nên quan niệm về cái đẹp đều có những nét riêng, v ể trang phục, Việt Nam có 54 dân tộc có 54 cách may măc khác nhau vể kiểu dáng và m àu sắc. Riêng về màu: người Tây Nguyên ưa dùng màu đỏ, màu đen - những gam màu mạnh. Đ ổng bào Thái ở phía Bắc thích màu đỏ, xanh, trắng - những màu tươi sá n g ... Các dân tộc trên thế giới cũng có quan niệm về cái đẹp khác nhau, vì thế trang phục của họ cũng rất đa dạng về hình dáng và màu sắ c... Đó là cái đẹp mang bản sắc dân tộc. Có thể mình không thích nhưng cần phải tôn trọng. Bời sự đa dạng đó làm cho nền văn hoá của mỗi dân tộc, cùa cả nhân loại thêm phong phú. 2.4. Giới tính, lún tuổi và cái dẹp Nam giới, nữ giới, già, trẻ đều có nhu cầu riêng về cái đẹp, do đó hình thành quan niệm riêng của mỗi người. Không nên áp đật, phải hiểu để điểu hoà, sao cho tất cả đều đẹp nhưng không lẫn lộn, xoá nhoà ranh giới giữa cái đẹp của nam giới với nữ giới, của người già với người trẻ. 2.5. Tâm lí và cái đẹp Mỗi người có tính cách khác nhau: người trầm tư, người sôi nổi, người lầm lì, bộc trực, nóng nảy, thẳng thắn, kín đáo... chưa kể lúc vui, lúc buồn... Như vậy, 47 nhận thức về cái đẹp sẽ không giống nhau. Ta thường nghe nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đó là sự thống nhất giữa cái “trong” và cái “ngoài”. Con người và thế giới xung quanh luôn tác động ảnh hưởng qua lại, tạo cho nhau cùng đ ẹp ... Con người phải hòa hợp với môi trường sống, với đồng loại, với cảnh trí thiên nhiên. Biết như vậy ta sẽ thấy mình cần ăn mặc, đi đứng, nói nàng thế nào cho đẹp khi ở nhà, ở nơi công cộng, trong ngày hội, lễ, những cuộc vui và ờ đám tang. Như vậy, vẻ đẹp cũng có nơi, có chốn của nó, cái đó do con người quyết định và thể hiện là người có văn hoá hay thiếu văn hoá. 2.6. Địa vị xá hội và cái dẹp Trong xã hội có nhiều giai tầng và nhiều địa vị xã hội khác nhau. Do vậy, ăn mặc như thế nào cho phù hợp với công việc, vói hoàn cảnh thực tế mà vẫn giữ được vẻ đẹp đặc trưng, không pha trộn, lẫn lộn là điều cần thiết. Chẳng hạn, ưong quân đội, mỗi binh chủng có những trang phục riêng phù hợp vói môi trường chiến đấu và rèn luyện, v ẻ đẹp của họ là sự gọn gàng, thống nhất, biểu hiện sự khoẻ khoắn, nhanh nhẹn. Nhà sư cũng có trang phục riêng của m ình là áo cà sa màu nâu hoặc vàng, cạo trọc đầu... v ẻ đẹp của họ là sự giản dị, khiêm nhường, thống nhất và hòa hợp với cuộc sống của chúng sinh. Học sinh từng trường có đổng phục riêng trong mùa hè, mùa đông. Nhân viên hàng không, khách sạn, mậu dịch viên cửa hàng đều có những quy định riêng về kiểu cách và màu sắc của trang phục. Nét đẹp của giáo viên ở trang phục là cẩn gọn gàng, đứng đắn, thể hiện sự nghiêm trang, mẫu mực của nghề nghiệp. 2.7. Sự đơn giản và cái dẹp Đ ơn giản không phải là sự nghèo nàn, cẩu thả hay tùy tiện. Đ ối với nghệ thuật nói chung và m ĩ thuật nói riêng, đạt được “cái đơn giản” phải suy ngẫm , thử nghiệm , tìm tòi để lược đi những gì không cần thiết, ít tác dụng, là sáp xếp lại cho hợp lí, đế còn lại cái cốt lõi, tinh túy, điến hình nhất mà vẫn giữ được giá trị thực của đối tượng. M ác-xim Goóc-ki từng nói: “Tôi không có thời gian để viết ngắn” . Mới nghe tưởng như “ngược” vì viết ngắn đâu cần nhiều thời gian, nhưng càng nghĩ càng thấm ý của ông: Viết ngắn nhưng lại có tất cả những điều m uốn nói, cần nói. Viết như vậy quả là khó, cần rất nhiều thời gian đổ quan sát, để tư duy. Với văn học nghệ thuật thì thường là: nói ít hiểu nhiều, nói bóng nói gió, nói đông hiểu tây, dùng một bộ phận đổ nói lên tất c ả ... Hình tượng trong văn học nghệ thuật giữ vai trò quyết định đối với hiộu quả thẩm mĩ của tác phẩm. Hình tượng phải ngắn gọn. 48 súc tích, đơn giản. P i-cát-xô1 tài năng như vậy m à khi vẽ con bò, ông thận trọng trong quan sát, nghiên cứu từ thực tế, lược bỏ dần những gì không cần thiết: từ hình 1 (5/12/1945) đến hình 11 (17/1/1946), ông liên tục vẽ, nghiên cứu, sáng tạo trong 1 tháng 12 ngày để vẽ thành con bò chỉ có mấy nét, tưởng như dễ dàng, đơn giản, ai cũng có thể vẽ được (Hình 1). Hinh 1. Hình vẽ nhũng con bò của Pi-cát-xô 2.8. Tính đồng bộ và cái dẹp Cái đẹp không đơn điệu mà phải có tính đồng bộ - bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngôn ngữ để tạo nên chỉnh thể hài hoà, thuận mắt, cho người xem cảm xúc về thđm mĩ. Đó là sự phối hợp một cách hài hoà giữa nét cứng với nét mềm, nét đạm với nét nhat, giữa nét vói m ảng, giữa m ảng to vóri m ảng nhỏ, dáng khoè ch ắc với thanh thoát uyển chuyển, giữa tĩnh và động, giữa màu đậm và màu nhạt; giữa hình (mảng đăc) với khoảng trống (nền); giữa trên và dưới; giữa trong và ngoài, giữa trái và p h ải... Câu ca dao: “Trúc xinh trúc mọc sân đình. Em xinh em đứng một mình cũng xinh!” quả như vậy: Cây trúc thân thẳng, màu vàng, lá xanh phải hội tụ với mái đình cong, màu nâu đỏ của ngói và không khí tĩnh lặng mới tạo nôn vẻ đẹp riêng. Em xinh là em cũng có đầy đủ những tiêu chuẩn về hình dáng, 1 Pi-cát-xô (1881- 1973), người Tây Ban Nha, sống ờ Pháp. Ông là một trong những hoạ sĩ vĩ dại nhất ờ thế ki XX. Ông được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới. 49 nước da, cách ăn m ặc, đi đứng, nói năng... Tất cả đều biểu hiện tính đồng bộ thẩm m ĩ - cùng làm cho nhau đẹp. 2.9. Thuận mát và cái đẹp Tranh dân gian cho ta cái nhìn “thuận m ắt” ờ bô' cục, cách xây dựng hình tượng và cách dùng màu: rõ ràng, khúc chiết mà không bật, tách bạch, khó nhìn, ngược lại ta cảm thấy dễ chịu; vô lí m à có lí, như hư mà lại thực - thực mà hư, đấy là cái tài của các nghệ nhân xưa khi sáng tạo ra tranh dân gian. 2.10. Cám xúc và cái đẹp Cái đẹp nói chung và cái đẹp do m ĩ thuật tạo nên đem lại cho con người khoái cảm thẩm m ĩ - niềm vui, tình yêu đối với cuộc sống, sự thanh thản trong tâm hồn, đồng thời cũng đem đến cho con người nỗi buồn, niềm thương nhớ... tác động đến tâm tư tình cảm , khiến con người phải suy nghĩ, hành động theo quy luật cùa cái đẹp: yêu mến, trân trọng, bảo vệ cái đẹp, chống lại tất cả những gì xấu xa, ác độc. Vì vậy m ĩ thuật có tác dụng rất to lớn trong việc giáo dục con người - lấy cái đẹp để giáo dục. Cảm thụ vẻ đẹp ờ mỗi người một khác. Vì vậy vẻ đẹp của một tác phẩm không thể phù hợp với tất cả mọi người. Có tác phẩm đẹp với người này nhưng lại bình thường với người khác. Hoặc không phải tác phẩm đẹp treo ờ đâu cũng mang lại hiêu quả thẩm m ĩ cùa nó: tranh phong cảnh, tranh chân dung, tranh tĩnh vật chỉ đẹp khi treo ở nơi làm việc, phòng nghỉ. Ngược lại, tranh sinh hoạt, tranh lịch s ử ... treo ở phòng khánh tiết, viện bảo tàng; tranh cổ động treo ở nơi công cộng nhiều người qua lại. 2.11. Suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo cái đẹp Cái đẹp có những quy định chung, nhưng không thành công thức cứng nhắc, không có khuôn m ẫu cho tất cả m ọi người mà luôn được thể hiộn ở nhiều hình vé khác nhau, tùy thuộc vào từng người và khá năng suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo của họ. M uốn có cái khác, cái mới, cái lạ - cái đẹp đòi hỏi người tạo nên nó phải kiên trì suy ngẫm , tìm kiếm , dám bỏ qua cái cũ, tránh đường mòn, không lập lại chính mình. Do đó m ĩ thuật tạo điều kiộn cho con người có khả năng làm việc khoa học: làm việc có suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo để có năng suất lao động cao, có sản phẩm đẹp. Đ iều đó rất có lợi cho học sinh - con người lao động trong tương lai. 50 II. MĨ THUẬT VÀ CUỘC SỐNG CON NGƯỜI 1. Nguốn gốc của mĩ thuật Từ xa xưa con người chưa có tiếng nói và cũng không có chữ viết, họ giao tiếp VỚI nhau trong cuộc sống hàng ngày bằng động tác (chi trỏ kết hợp với nhũng tiếng hú), sau đó bàng các nét, các hình, lúc ban đẩu còn sơ lược, sau đó rõ dần, gần giống với thực, như quả cây, các con vật. Q ua những hình vẽ, họ đã chỉ cho nhau những quả cây nào, con vật nào có thể ãn được và hái lượm, săn bắt bằng cái gì, như thế nào. Như vậy, ngôn ngữ m ĩ thuật đầu tiên đã xuất hiện, nảy sinh từ nhu cẩu sinh tổn cùa con người một cách rất tự nhiên. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều dấu vết của người xưa ở các hang động: hình vẽ bò rừng ờ hang La-xcô (Pháp), nhữrlg con vật ở hang A n-ta-m i-ra (Tây Ban Nha) cách đây 5000 năm không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có giá trị về nghệ thuật, bởi hình vẽ rất sinh động, diễn tả rất rõ đặc điểm cùa con vật. Người xua chưa biết ý nghĩa, chưa được “học” về mĩ thuật, chưa có ý thức rõ ràng, họ vẽ trong lúc nhàn rỗi - vẽ để chơi, vẽ theo sự thôi thúc tự tại, từ chính sự cần thiết của bản thân. Mũi giáo và dao găm Hình khắc ở hang Đồng Nội Đá cuội có hình mạt ngưởi ỏ Na-ca (Thanh Hoá) (Hoà Binh) (Thái Nguyên) Hinh 2. Hinh vẽ và chạm khác ở hang động xưa 51 Chữ viết ngày nay của loài người cũng bắt đầu từ những nét vẽ, hình vẽ có tính chất kí hiệu của người xưa. Qua quá trình sống, bằng thực tế, con người đã cải biên, bổ sung, biến những kí hiệu đó thành chữ với nhiều loại, kiểu dáng phong phú, đáp ứng mọi nhu cầu phát triển văn hóa, khoa học của dân tộc mình. 2. Mĩ thuật và cuộc sống con người Chỉ có con người mới phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên và cảm thụ trọn vẹn vẻ đẹp của nó. Cũng chỉ có con người mới tìm ra, vận dụng và làm phong phú ngôn ngữ mĩ thuật tạo cho cuộc sống ngày một tươi đẹp hơn. Ngược lại, cũng sinh ra và sống trong thế giới muôn hình muôn vẻ, nhưng loài vật chỉ thừa hường những gì tạo hóa ban cho một cách bản năng, chúng không thể làm thay đổi hay cải tạo cuộc sống mà chúng vốn có. Bởi vậy, nói chung, loài vật vẫn giữ nguyên hình dáng, màu sắc và cách sống từ thuở nguyên sơ. Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn tiếp xúc vối ngôn ngữ mĩ thuật, đó là đường nét, m àu sắc, hình mảng, hình khối... Có thể nói, xung quanh ta “đầy ắp” ngôn ngữ m ĩ thuật. Con người đã biết sử dụng m ột cách thông m inh ngôn ngữ m ĩ thuật vào cuộc sống của m ình làm cho chuyên ăn, ở, mặc và mọi phương tiện cần dùng khác đều đẹp - đẹp về hình khối, kiểu cách, màu sắc, đẹp về cách sắp xếp. Cái đẹp làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa và trờ thành một trong những nhu cẩu không thể thiếu được, nó gắn bó vối con người suốt đời: từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt xuôi tay, mọi thứ cần cho cuộc sống đều phải đẹp - từ thứ nhỏ như cây kim, sợi chỉ đến những phương tiện giao thông như tàu xe, những công trình vãn hóa lớn quy mô đồ sộ như công viên, nhà hát, quảng trường... Ngày nay, vẻ đẹp của hàng hóa không chỉ đem lại cho con người khoái càm thẩm mĩ, mà còn tạo nên sức mua, thúc đẩy sản xuất. Có thể nói rằng, cái đẹp do m ĩ thuật tạo ra góp phẩn đáng kể vào sự phát triển nền kinh tế quốc dân, đồng thời nâng cao dần trình độ thẩm mĩ của nhân dân 1. 1 Mác nói: Bao bì là hàng hoá. Bao bì không chi là “cái áo" để bảo vệ hàng hoá đơn thuán. Bao bì đẹp là “bộ mặt” cùa hàng hoá, nó cố sức lỏi cuốn hấp dẫn người tiêu dùng, và nó chiếm một phán giá trị cùa hàng hoá. 52 III. NGÔN NGỮ MĨ THUẬT Mì thuật có ngôn ngữ riêng của mình, đó là: 1. Đường nét 1.1. Quan niệm Nét vẽ được thực hiện trên các mặt phảng, như giấy, bâng, tường và ở những bài vẽ trang trí. Ớ các bài vẽ theo mẫu, vẽ tranh thì nét vẽ biểu thị chỗ tiếp giáp giữa các mặt phảng trong klióng gian - các mặt của hình hộp, hình trụ, hình c ầ u .. Nét vẽ của mĩ thuật khác với nét vẽ của toán học, của kĩ thuật, nó không thực hiện bằng thước hay compa, mà chỉ vẽ bằng tay. Do vậy nét vẽ của mĩ thuật chỉ tư