🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình Luật Hợp đồng (Phần chung)
Ebooks
Nhóm Zalo
LỜI MỞ ĐẦU
Luật hợp đồng là nơi chứa đựng nhiều kỹ thuật pháp lý nhất trong khoa học pháp lý. Do đó việc học tập và nghiên cứu luật hợp đồng thực sự hữu ích cho việc phát triển tư duy pháp lý.
Hợp đồng là một phương tiện quan trọng để tạo lập nên đời sống của con người, giúp con người đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của mình thông qua việc trao đổi các sản phẩm, dịch vụ và các lợi ích khác. Nó là một phương thức quan trọng để tổ chức đời sống chung và thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. Vì vậy các qui định về hợp đồng luôn luôn chiếm đa phần trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư.
Đất nước ta đã trải qua nhiều truyền thống pháp luật trong suốt chiều dài lịch sử. Có thể chưa có một sự chắp nối và tinh lọc thật sự giữa các truyền thống pháp luật này hoặc chưa có sự lựa chọn tinh tế và khoa học giữa các truyền thống pháp luật đó, nên luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay thiếu tính kế thừa và thiếu đồng bộ. Trước khi thực dân Pháp chiếm đóng, ở Việt Nam chưa phát triển lĩnh vực pháp luật hợp đồng. Các qui tắc liên quan tới hợp đồng thường dưới dạng các điều cấm theo truyền thống pháp luật Viễn Đông. Khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, pháp luật của Pháp theo đó mà xâm nhập. Luật hợp đồng được pháp điển hóa theo truyền thống Civil Law. Tới khi thống nhất đất nước, pháp luật hợp đồng của Việt Nam được pháp điển hóa theo truyền thống Sovietique Law. Hiện nay luật hợp đồng Việt Nam được thể hiện qua nhiều đạo luật. Những các đạo luật này chưa có một luận thuyết chung thống nhất, do đó có sự mâu thuẫn, chồng chéo gây khó khăn cho việc thi hành. Hơn nữa pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay thiếu nhiều qui định cụ thể và cũng thiếu nhiều qui tắc có tính cách tổng quát, nên gây khó khăn không nhỏ cho thực tiễn tư pháp, trong khi các quan hệ xã hội đang ngày càng phát triển theo định hướng kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1
Suy ngẫm từ các vấn đề đó, giáo trình này hướng tới xây dựng một tư duy pháp lý có tính cách nền tảng cho người học để trên cơ sở đó góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng, và cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Vì giáo trình này sử dụng cho đào tạo sau đại học chuyên ngành luật dân sự và chuyên ngành luật kinh tế, do đó không cung cấp các kiến thức thông thường mà tập trung vào việc cung cấp các kiến thức chuyên sâu, đặc biệt giới thiệu cách thức tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu, đồng thời gợi mở cho người học các hướng nghiên cứu cụ thể. Giáo trình giúp cho người học có cái nhìn đa chiều và thấy được bức tranh toàn cảnh của luật hợp đồng nói chung từ quá khứ cho tới hiện tại và phần nào mường tượng được bức tranh đó trong tương lai.
Tác giả của giáo trình này rất mong người đọc góp ý, phê bình để giáo trình được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 01 tháng 07 năm 2013
2
Chương 1
KHÁI NIỆM HỢP ĐỒNG
Mục 1.1
Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng
Nói không quá, nhìn từ góc độ pháp lý, cuộc sống của con người trong xã hội được tạo lập nên bởi các hợp đồng. Sắm đồ vật, mua dịch vụ, vay tiền, thuê nhân công, thuê tài chính, nhập lớp học, kết hôn, tham gia vào một hội hay thành lập công ty… đều được xem là hợp đồng. Thậm chí Hiến pháp cũng được coi như hợp đồng bởi nó là sự thống nhất ý chí của toàn dân tạo lập nên một cộng đồng chính trị nhất định (tuy nhiên hậu quả của nó có nhiều điểm khác biệt).
Trong cuộc sống hàng ngày, hợp đồng là một phương tiện quan trọng giúp con người thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt. Có nhận định đúng đắn rằng: “Việc phân phối hầu như tất cả các nhu cầu thiết yếu của con người đều dựa trên cơ sở của hợp đồng mua bán”, và “việc liên kết và sử dụng sức lao động không thể thực hiện được nếu không có sự đồng ý của các bên, nghĩa là không có hợp đồng thuê lao động”1. Trong lĩnh vực kinh doanh, rõ ràng tất cả các toan tính làm ăn rốt cuộc đều được thể hiện dưới dạng hợp đồng. Nói cách khác, hợp đồng là phương tiện để
biến các dự định hoặc kế hoạch kinh doanh trở thành hiện thực. Một người có một ý tưởng kinh doanh, muốn biến nó thành hiện thực, trước hết cần phải nghiên cứu tính khả thi, sau đó phải tập hợp nhân, vật, tài lực cho việc thực hiện và lo đầu ra cho sản phẩm hay dịch vụ... Để làm được những việc đó, chủ nhân của ý tưởng có thể phải nhờ cậy tới hay tham dự vào rất nhiều hợp đồng như: thuê luật sư, thuê chuyên gia nghiên cứu, vay tiền, mua sắm tài sản, thuê trụ sở, thuê nhân công, tiếp thị, thiết lập các đại lý… Bởi vậy “Người ta thường nói rằng luật hợp đồng là nền tảng của luật kinh doanh và tìm hiểu luật hợp đồng là thiết yếu đối với những
1 Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 341
3
người mong muốn tiến hành kinh doanh”2. Nhiều luật gia Australia khi nghiên cứu về lịch sử của pháp luật mua bán hàng hóa có nhận định: Tổ chức kinh doanh hiện đại đã được mô tả như “một mớ hợp đồng” (a bundle of contracts), và sản xuất và tiếp thị hàng hóa được tiến hành bởi các hợp đồng kế tiếp nhau3. Vậy có thể hiểu hợp đồng có vị trí quan trọng vô cùng trong kinh doanh ở các nước có nền kinh tế
thị trường.
Nói đơn giản, kinh doanh luôn nhằm mục đích làm tăng trưởng khối tài sản của thương nhân. Do đó họ luôn luôn phải tính toán nhằm sử dụng số tài sản hiện có hoặc vay mượn một cách hiệu quả để kiếm lời. Đối với thương nhân, mọi tài sản đều cần thiết và quí giá, nhưng vì mục tiêu về một khối tài sản lớn hơn, nên có một số tài sản cụ thể cần phải được đưa ra để đầu tư hoặc chuyển dịch… Điều này khác hẳn với quan niệm: “Hợp đồng giải phóng các chủ thể khỏi các của cải không cần thiết đối với mình để đổi lấy tiền hoặc các của cải cần thiết cho mình”4. Qui kết được trích dẫn này có thể chỉ phù hợp với một nền kinh tế trao đổi sản phẩm trực tiếp hoặc trong một số trường hợp như bán phế liệu...?
Nhìn rộng hơn trên bình diện xã hội, con người cần phải biết hợp tác, chia xẻ và kiềm chế. Một trong những phương thức quan trọng để thực hiện sự hợp tác, chia xẻ và kiềm chế chính là hợp đồng. Vì vậy có thể nói hợp đồng là một phương thức tổ chức đời sống xã hội. Khi các bên giao kết hợp đồng, có nghĩa là họ đã mong muốn cùng nhau hợp tác để đáp ứng cho các nhu cầu của chính mình, cùng nhau chia xẻ các lợi ích, và cùng nhau kiềm chế không xâm phạm vào các lợi ích của nhau, của xã hội. Hợp đồng cho phép con người gánh chịu những trách nhiệm và sự tận tuỵ trên cơ sở có đi có lại, đưa ra lời hứa mà người khác có thể tin tưởng,
2 Daniel Khoury, Yvonne S Yamouni, Understanding contract law, Butterworths, Sydney, Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart, Melbourne, Perth, 1989, p. 8
3 J. E. Smyth, D. A. Soberman, J. H. Telfer, R. Johanson, Australian business law, Prentice- Hall of Australia Pty. Ltd., Australia, 1980, p. 191
4 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 346
4
loại bỏ một số thứ không chắc chắn, và tạo lập những ước vọng hợp lý cho các công việc trong tương lai5.
Ở phạm vi quan hệ quốc tế, hợp đồng góp phần vào việc giữ gìn một nền hòa bình và ổn định, bởi xét cho cùng các điều ước hay thoả ước quốc tế có bản chất hợp đồng.
Còn trong khoa học pháp lý, từ thời cổ đại Gaius đã nhận định “Phàm nghĩa vụ đều do các khế ước hay các dân sự phạm phát sinh ra”6. Kế thừa sự đúng đắn này, ngày nay Bộ luật Dân sự 1808 của Tiểu bang Louisiana (Hoa Kỳ) định nghĩa: “Hợp đồng là một sự thoả thuận của hai hoặc nhiều người mà theo đó nghĩa vụ
được tạo lập, sửa đổi hoặc huỷ bỏ”. Bộ luật Dân sự Đức 1900 qui định: “ Nhằm tạo lập nghĩa vụ bởi giao dịch pháp lý, và nhằm sửa đổi căn bản một nghĩa vụ, thì hợp đồng giữa các bên là cần thiết, trừ khi pháp luật qui định khác” (Điều 305). Điều đó có nghĩa là hợp đồng là một nguồn gốc quan trọng của nghĩa vụ, mà có thể hiểu: chính nó- nghĩa vụ, là một trọng đề của pháp luật, là một chế định (hay tiểu phân ngành luật) đứng ở vị trí trung tâm của luật tư. Các ngành luật khác ít hay nhiều đều có sự vay mượn các kỹ thuật pháp lý có được từ việc nghiên cứu hợp đồng. Nhấn mạnh hơn tới ý nghĩa pháp lý của hợp đồng, Boris Starck định nghĩa hợp đồng là sự thống nhất ý chí nhằm xác lập các nghĩa vụ hay chuyển giao các quyền sản nghiệp (như các quyền đối vật, quyền đối nhân hay quyền sở hữu trí tuệ hay các quyền vô hình khác) từ người này sang người khác7.
Có lẽ vì thế các luật gia trước hết phải có những tri thức căn bản và hệ thống về luật hợp đồng. Các thương nhân, cũng như các nhà kinh tế học cũng cần phải có tri thức về hợp đồng ở mức độ nhất định, bởi “hợp đồng là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường”8. Để có được những thứ đó, đầu tiên cần
phải nghiên cứu hợp đồng là gì. Tuy nhiên việc nghiên cứu khái niệm hợp đồng
5 Edward Younkins, Freedom to contract, Liberty Free Press, June 15, 2000,
[http://www.quebecoislibre.org/younkins25.html], 2/2/2008
6 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 53
7 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 3 8 Edward Younkins, Freedom to contract, Liberty Free Press, June 15, 2000,
[http://www.quebecoislibre.org/younkins25.html], 2/2/2008
5
nói riêng và việc nghiên cứu hợp đồng nói chung đối với trình độ sau đại học là một công việc nằm ngoài khuôn khổ của việc mô tả các qui định của pháp luật, mà việc mô tả này người ta thường thấy trong các giáo trình dành cho đào tạo cử nhân luật học.
Mục 1.2
Định nghĩa hợp đồng
Hợp đồng có những tên gọi khác như thỏa thuận, khế ước, giao kèo, thoả ước, ước định, hiệp ước mặc dù rất gần gũi, thiết yếu và quen thuộc với tất cả mọi người, nhưng khi hỏi nó là gì thì không phải ai cũng có thể định nghĩa được về nó. Thậm chí các luật gia cũng có những định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên tất cả các định nghĩa đó đều có chung một hạt nhân hợp lý.
Trong “Deluxe Black’s Law Dictionary” (cuốn từ điển pháp luật nổi tiếng của Hoa Kỳ) đưa ra hai định nghĩa khác nhau về hợp đồng. Định nghĩa thứ nhất: “Hợp đồng là một sự thoả thuận giữa hai hoặc nhiều người mà tạo lập nên một nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc cụ thể”. Định nghĩa thứ hai: “Hợp đồng là một sự hứa hẹn hoặc một tập hợp sự hứa hẹn mà đối với việc vi phạm nó, pháp luật đưa ra một chế tài, hoặc đối với sự thực hiện nó, pháp luật, trong một số
phương diện, thừa nhận như là một trách nhiệm”9.
Bộ luật Dân sự Québec (Canada) 1994 định nghĩa: “Hợp đồng là một sự thoả thuận của các ý chí mà bởi nó một hoặc một số người tự ràng buộc mình với một hoặc một số người khác để thực hiện một cam kết” (Điều 1378).
Theo Bộ luật Dân sự Pháp 1804, “Hợp đồng là sự thoả thuận theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một việc nào đó” (Điều 1101). Với cách thức này, các Bộ luật Dân sự cũ của Việt Nam như Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 và Bộ luật Dân sự
9 Deluxe Black’s Law Dictionary, West Publishing Co, 1990
6
Trung Kỳ 1936 cũng có các định nghĩa tương tự tại Điều thứ 644 và Điều thứ 680 tương ứng10.
Bộ luật Dân sự Liên bang Nga 1994 cho rằng: “Hợp đồng được thừa nhận như một sự thoả thuận được giao kết bởi hai hoặc nhiều người về việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự” (Điều 420, khoản 1).
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định nghĩa: “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” (Điều 388). Với định nghĩa này cần phải giải thích thêm, có lẽ (nhưng không chắc chắn11) nhà làm luật Việt Nam đã sử dụng từ “dân sự” theo nghĩa rộng gắn vào trước thuật ngữ “hợp đồng” để chỉ tất cả các loại hợp đồng được điều chỉnh bởi luật tư, mặc dù chỉ riêng thuật ngữ “hợp đồng” đã đủ nói lên điều đó. Bình luận sâu hơn sẽ được đề cập tới ở các chương sau. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể
dễ dàng nhận thấy sự giống nhau giữa Bộ luật Dân sự Liên bang Nga 1994 và Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 trong cách thể hiện nhận thức về hợp đồng. Có lẽ các định nghĩa ngắn nhất về hợp đồng được tìm thấy như sau: (1) Daniel Khoury và Yvonne S Yamouni viết: “Thực chất, hợp đồng là sự thỏa thuận mà tòa án cưỡng chế thi hành”12; (2) Robert W. Emerson và John W. Hardwick cho rằng: “Hợp đồng là một thoả thuận có thể được thi hành về mặt pháp lý, rõ ràng hoặc ngầm định”13; (3) Thuật ngữ hợp đồng còn được hiểu là “một sự trao đổi các lời hứa bị ràng buộc pháp lý hoặc sự thoả thuận giữa các bên mà pháp luật cưỡng chế”14. Thuật ngữ “hợp đồng” ngày nay người ta có hai cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất xem “hợp đồng” như một “thỏa ước”, có nghĩa là sự thỏa
10 Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 định nghĩa: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để tặng cho, để làm hay không làm cái gì” Điều thứ 644, đoạn 2). Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 định nghĩa: “Khế ước là một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì” (Điều thứ 680, đoạn 2) 11 Đây chỉ là phỏng đoán của tôi vì chưa tìm thấy một tài liệu nào đáng tin cậy để hiểu rõ ý đồ của nhà làm luật Việt Nam khi sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự” trong Bộ luật Dân sự 2005 12 Daniel Khoury, Yvonne S Yamouni, Understanding contract law, Butterworths, Sydney, Adelaide, Brisbane, Caberra, Hobart, Melbourne, Perth, 1989, p. 7
13 Robert W. Emerson, John W. Hardwick, Business Law, Barron’s educational series Inc., USA, 1997, p. 65
14 Wikipedia, the free encyclopedia, Contract, [http://en.wikipedia.org/wiki/Contracts], 7/10/2007
7
thuận. Cách hiểu thứ hai xem “hợp đồng” là một quan hệ pháp luật15. Tuy nhiên phải hiểu hợp đồng là một căn cứ hay nguồn gốc làm phát sinh ra quan hệ pháp luật hay hậu quả pháp lý. Thuật ngữ hậu quả pháp lý được hiểu là việc làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi hoặc một quan hệ pháp luật hoặc quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
Qua các khảo sát trên có thể thấy các định nghĩa hợp đồng đều thể hiện hai vấn đề lớn: Thứ nhất, sự trao đổi và thống nhất giữa các ý chí hay sự thoả thuận; thứ hai, việc tạo lập ra một hậu quả pháp lý. Vậy cần phải tìm hiểu hai vấn đề này để hiểu rõ hơn khái niệm hợp đồng.
Rất ngắn gọn, Robert W. Emerson và John W. Hardwick giải thích “Thoả thuận là một sự gặp gỡ của các ý chí”16. Sự ngắn gọn đó có thể đưa mọi người tới nhận thức rằng các bên trong một quan hệ cụ thể tự ý mình thống nhất với nhau nhằm tới một đối tượng cụ thể. Sự gặp gỡ này được xét tới ở hai thành tố là “đề nghị” và “chấp nhận” mà Chương 7 sẽ đề cập tới. Tại đây tạm thời chấp nhận, sự thoả thuận nếu đáp ứng được các điều kiện của pháp luật có thể tạo ra nghĩa vụ dân sự. Nhưng trước hết sự thoả thuận phải nhằm tới việc tạo ra một hậu quả pháp lý mới có khả năng tạo thành hợp đồng. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản trong khi giảng giải về Bộ luật Dân sự Nhật Bản có đưa ra một giải thích khoa học rằng: “Hợp đồng là một hành vi pháp lý được tạo lập bởi sự thoả thuận dựa trên các tuyên bố ý chí tương hợp của nhiều bên mà có mục đích làm phát sinh ra một quan hệ trái vụ”17. Giải thích này cho thấy hợp đồng ít nhất có hai bên chủ động cùng nhau tạo lập một quan hệ nghĩa vụ pháp lý cụ thể. Vấn đề này sẽ được bàn luận thêm ở các chương sau. Nếu phân tích hợp đồng từ các lời hứa hay sự cam kết, thì hợp đồng có thể được xem là một phương thức mà theo đó người này thương lượng với người khác để có thể tạo ra sự bảo đảm rằng những lời hứa hay cam kết
của họ có đời sống dài hơn so với những trạng thái dễ thay đổi trong suy nghĩ của
15 Quỹ pháp luật Châu Âu lục địa, Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb Từ điển bách khoa, tr. 24 16 Robert W. Emerson, John W. Hardwick, Business Law, Barron’s educational series Inc., USA, 1997, p. 65
17 Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh- Việt, p. 184
8
họ18. Điều này tức là khi đã cam kết thực sự và mong muốn tạo lập ra một hậu quả pháp lý thực sự, những người cam kết bị ràng buộc vào cam kết của mình (trừ một số truờng hợp đặc biệt) mà pháp luật gọi đó là nghĩa vụ.
Người La Mã cổ đại đã phân chia nghĩa vụ (quan hệ đối nhân) thành các loại: Nghĩa vụ đạo đức, nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự19. Nghĩa vụ tự nhiên không có tố quyền trước toà án. Phỏng theo quan niệm này, Bộ luật Dân sự Bắc kỳ 1931 qui định:
“Điều thứ 641.- Nghĩa- vụ là mối liên- lạc về luật thực- tế hay luật thiên nhiên, bó- buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó.
Người bị bó- buộc vào nghĩa- vụ gọi là người mắc nợ, người được hưởng nghĩa- vụ gọi là người chủ nợ.
Điều thứ 462- Nghĩa- vụ về luật thực- tế là những nghĩa- vụ mà có thể dùng các cách về luật- pháp và quan- pháp, nhất là cách tố- tụng trước toà án để bắt người mắc nợ phải thi- hành.
Nghĩa- vụ về luật thiên- nhiên thì không thể tố- tụng trước toà án được. Luật- pháp không can- thiệp vào sự thi- hành các nghĩa- vụ về luân- lý cùng về tôn- giáo”.
Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 (Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật) cũng có các qui định tương tự tại Điều thứ 676 và Điều thứ 678. Bộ luật Dân sự 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ cũng qui định tương tự như vậy tại các Điều thứ 650 và Điều thứ 651.
Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 qui định:
“Điều thứ 676. Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tế hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó.
18 Edward Younkins, Freedom to contract, Liberty Free Press, June 15, 2000,
[http://www.quebecoislibre.org/younkins25.html], 2/2/2008
19 Vấn đề phân loại nghĩa vụ sẽ được đề cập tới cụ thể ở Chương 3
9
Người bị bó buộc vào nghĩa vụ gọi là người mắc nợ, người được hưởng lợi về nghĩa vụ gọi là người chủ nợ.
Điều thứ 678. Nghĩa vụ về luật thực tế là những nghĩa vụ mà có thể dùng các cách về luật pháp và quan lệnh nhứt là các cách tố tụng trước toà án để bắt người mắc nợ phải thi hành.
Nghĩa vụ về luật thiên nhiên thời không thể tố tụng trước toà án được. Luật pháp không can thiệp vào sự thi hành các nghĩa vụ về luân lý cùng về tôn giáo”.
Bộ luật Dân sự 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ qui định:
“Điều thứ 650. Nghĩa vụ là sự liên lạc thuộc về luật thực tại buộc một hay nhiều người phải làm một việc gì hay không được làm một việc gì đó để làm lợi cho một người hay nhiều người khác.
Người bị bó buộc là người mắc nợ hay trái hộ; người được hưởng là chủ nợ hay trái chủ.
Điều thứ 651. Nghĩa vụ thuộc luật thực tại có thể cưỡng bách thi hành bằng một tố quyền; nghĩa vụ thuộc luật thiên nhiên là những nghĩa vụ không thể cưỡng bách thi hành”.
Các khảo sát này cho thấy, người Việt Nam trước đây, khi đã tách khỏi hệ thống pháp luật Viễn Đông, cũng quan niệm về nghĩa vụ giống với quan niệm của Họ pháp luật La Mã- Đức có nguồn gốc từ Luật La Mã. Quan niệm về nghĩa vụ hiện nay ở Việt Nam được thể hiện trong luật thực định, cũng như trong lý thuyết, nhìn một cách tổng quát, không khác biệt nhiều với các quan niệm nói trên.
Lý thuyết về nghĩa vụ tự nhiên được người La Mã cổ đại xây dựng trên căn bản sự thi hành các khế ước do nô lệ thiết lập. Về sau nghĩa vụ này được hiểu rộng ra, chẳng hạn trong trường hợp con nợ vì thua bạc đã tự ý trả nợ, thì không thể đòi lại bởi đã thi hành một nghĩa vụ tự nhiên; còn nếu con nợ thua bạc không trả nợ, thì chủ nợ không thể kiện đòi bởi không phải là trái quyền dân sự20. Giải thích về
20 Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 47- 48
10
nghĩa vụ tự nhiên có ba quan điểm khác nhau. Quan điểm khách quan lập luận việc xác lập hay chấm dứt nghĩa vụ này không ảnh hưởng gì tới trật tự công cộng. Quan điểm chủ quan cho rằng nó mang tính đạo đức, ràng buộc về mặt tinh thần, nhưng không được thừa nhận về mặt pháp lý. Có quan điểm khác nhìn nhận nó là một nghĩa vụ pháp lý khiếm khuyết, có yếu tố nghĩa vụ thực hiện, nhưng thiếu yếu tố quyền thực hiện21.
Khác với loại nghĩa vụ này, nghĩa vụ dân sự được phát sinh từ hai nguồn gốc (căn cứ) là hành vi pháp lý (juridical acts) hoặc sự kiện pháp lý22 (juridical facts). Hành vi pháp lý23 ngày nay được chia thành hai loại là hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương. Sự kiện pháp lý bao gồm các sự kiện, hoặc tự nguyện (như vi phạm) hoặc không tự nguyện (như chuẩn vi phạm hay gần như vi phạm), hoặc hợp pháp (như chuẩn hợp đồng hay gần như hợp đồng) hoặc bất hợp pháp (như vi
phạm hoặc chuẩn vi phạm) mà hậu quả pháp lý cụ thể của chúng được xác định không phải bởi các bên mà bởi pháp luật. Ở đây cần lưu ý, tự nguyện trong sự kiện pháp lý chỉ là tự nguyện đối với hậu quả thiệt hại, chứ không tự nguyện đối với hậu quả pháp lý. Ngược lại với sự kiện pháp lý (việc làm phát sinh ra hậu quả
pháp lý ngoài ý chí của đương sự), hành vi pháp lý bao gồm một tập hợp hoàn cảnh mà ý chí được bộc lộ ra bên ngoài của một bên hoặc các bên như nguồn gốc của nghĩa vụ24.
Hành vi pháp lý là một sự thể hiện ý chí nhằm làm phát sinh ra một hậu quả pháp lý, có nghĩa là làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quyền lợi. Sự thể hiện ý chí có thể là đơn phương (như lập di chúc, thiết lập một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, đơn phương chấm dứt một hợp đồng, đề nghị giao ết hợp
21 Corinne Renault- Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb Văn hoá- Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 12- 13 22 Lưu ý: Thuật ngữ hành vi pháp lý và sự kiện pháp lý mà thế giới sử dụng trong nghiên cứu dân luật không đồng nghĩa với hành vi pháp lý và sự kiện pháp lý được nói tới trong lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Việt Nam
23 Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam gọi hành vi pháp lý là giao dịch dân sự và qui định tại Điều 121 như sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phưong làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”
24 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 384
11
đồng, xác nhận lại một hợp đồng vô hiệu, nhận một đúa con ngoài giá thú…), hoặc có thể là đa phương, hay còn gọi là sự thống nhất ý chí, có nghĩa là sự thoả thuận, mà sự thoả thuận có mục đích xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền lợi được gọi là hợp đồng. Vậy hợp đồng thường được định nghĩa là sự thoả thuận giữa hai hay nhiều người nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền lợi (có nghĩa là nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật hoặc quyền và nghĩa vụ giữa các bên).
Hợp đồng thực sự là luật giữa các bên trong một quan hệ hợp đồng cụ thể. Christian Atias diễn giải nguyên lý này theo một cách khác:
“Hợp đồng là nguyên tắc pháp lý có đủ khả năng bắt buộc một người nào đó, theo giả thuyết, có năng lực tự định ra cách xử sự. Khi hợp đồng thì các bên thu hẹp quyền tự do của mình lại; họ cam kết làm, không làm một việc gì đó, hoặc chuyển giao quyền sở hữu một tài sản và tự cấm việc xoá bỏ lời giao ước mà không bị trừng phạt”25.
Các vấn đề này diễn giải về ý chí giao kết hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng, các bên biểu lộ và thống nhất ý chí về một đối tượng cụ thể nào đó. Mặc dù trong sự thoả thuận đó, có thể họ không bày tỏ rõ các qui tắc xử sự, không tuyên bố thu hẹp quyền tự do của mình cho lợi ích của người khác, hoặc không tuyên bố tự cấm mình vi phạm hay tự cấm mình phớt lờ lời hứa hoặc cam kết, hay tuyên bố chịu chế tài khi vi phạm hoặc phớt lờ lời hứa đó, nhưng với nhận thức của một con người bình thường ai ai cũng nhận thấy cần phải tôn trọng lời hứa, nên phải xử sự
thích hợp với lời hứa của mình, và khi vi phạm cam kết hay lời hứa, thì việc phải gánh chịu một chế tài là hợp lẽ phải và thích đáng. Điều đó có nghĩa là khi giao kết hợp đồng, các bên đã ngầm chấp nhận những lẽ thông thường đó. Có thể các lẽ thông thường này được ghi nhận trong pháp luật hoặc trong tập quán. Lưu ý rằng pháp luật hay tập quán đúng đắn đều phải xuất phát từ những lẽ thông thường hay những nguyên lý tương tự như những lẽ thông thường đã nói. Có thể lỗi được suy
25 Christian Atias, Luật dân sự, Nguyễn Thu Hồng dịch từ tiếng Pháp, Nxb Thế giới, 1993, tr. 112
12
đoán ra từ “reasonable man” thuộc Common Law có điểm xuất phát giống như vậy.
Bộ luật Dân sự Pháp 1804 đã thể hiện các tư tưởng trên trong các qui định: “Điều 1134:
Hợp đồng giao kết hợp pháp có giá trị như luật đối với các bên giao kết. Hợp đồng chỉ có thể huỷ bỏ theo thoả thuận chung hoặc theo những căn cứ do pháp luật qui định.
Hợp đồng phải được thi hành một cách thiện chí.
Điều 1135:
Hợp đồng có tính chất bắt buộc không chỉ về những gì đã được nói rõ, mà còn cả về những hậu quả mà sự công bằng, thông lệ hoặc pháp luật coi là thuộc về nghĩa vụ theo bản chất của nó”.
Việc tìm hiểu quan niệm được thể hiện qua Bộ luật Dân sự Pháp 1804 có ý nghĩa quan trọng trong việc hiểu biết một hình mẫu pháp luật dân sự mà gây được nhiều sự chú ý từ trước tới nay trên thế giới, và rất có ích cho việc cải cách pháp luật dân sự ở Việt Nam, bên cạnh đó còn giúp cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về
lịch sử pháp luật Việt Nam trước khi thống nhất đất nước.
Trong một công trình nghiên cứu so sánh các nguyên tắc của luật hợp đồng của một số nước Châu Á, một học giả Pháp có kinh nghiệm về pháp luật Châu Á cho rằng: Nguyên tắc chủ đạo của pháp luật Việt Nam là tự do hợp đồng được thể hiện tại Điều 389, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 rằng “Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội” thể hiện quan điểm giống với quan điểm của pháp luật Pháp về tự do giao kết hợp đồng; tuy nhiên điều kiện “không được trái pháp luật và đạo đức xã hội” có thể tương ứng với khái niệm “trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục” trong pháp luật của Pháp26. Qua sự so sánh như vậy có thể thấy sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hệ thống pháp luật, và
những gì là sự khác biệt trong hệ thống pháp luật của Việt Nam so với các hệ
26 Roland Amoussou- Guénou, “Triển vọng phát triển các nguyên tắc pháp luật hợp đồng Asean (hoặc Châu Á)”, Hội thảo hợp đồng thương mại quốc tế- Tham luận, Hội thảo do Nhà pháp luật Việt- Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 13- 14 tháng 12 năm 2004, tr. 10
13
thống pháp luật khác để nghiên cứu và giải thích sự khác biệt đó là sự hợp lý do nhà làm luật chủ động lựa chọn một cách có ý thức. Tuy nhiên phải nói thêm rằng cách thức viện dẫn các qui định của luật thực định để đánh giá các giải pháp được các quốc gia lựa chọn là chưa đầy đủ. Để đánh giá được một cách đầy đủ cần phải phân tích được các hoàn cảnh liên hệ hay sử dụng một cách đầy đủ các phương pháp và đáp ứng đầy đủ các điều kiện của luật so sánh.
14
Chương 2
TỰ DO Ý CHÍ- CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA HỢP ĐỒNG
Mục 2.1
Khái niệm và nội dung của tự do ý chí
Trải qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Một trong những khiếm khuyết lớn nhất có tính tư tưởng hay tính triết lý của Bộ luật này là chưa thể hiện được đầy đủ, hay nói cách khác, chưa tiếp nhận được đầy đủ học thuyết tự do ý chí. Do đó khi xây dựng Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thay thế, những người soạn thảo Bộ luật này có quan điểm xuyên suốt là: “Tăng cường quyền tự do hợp đồng thông qua việc các bên được quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp đồng, hình thức, nội dung của hợp đồng và trách nhiệm của các bên đối tác khi có vi phạm”27.
Hiểu rằng hợp đồng là một loại giao ước mà có đặc điểm chung là sự thống nhất ý chí. Vậy ý chí có vai trò cực kỳ quan trọng đối với hợp đồng. Nó được xem là cực kỳ quan trọng bởi nó là yếu tố cơ bản, không thể thiếu được để hình thành hợp đồng, từ đó làm phát sinh ra các nghĩa vụ pháp lý28. Không thể nghi ngờ được rằng thương mại không thể phát triển nếu các thoả thuận được lập ra một cách tự do mà không được thi hành một cách bình thường29. Vì vậy dù ở hệ thống pháp luật nào, người ta đều thừa nhận nền tảng của luật hợp đồng là tự do ý chí, có nghĩa tự do ý chí là vấn đề trọng yếu của hợp đồng.
Học thuyết tự do ý chí đã phát triển mạnh mẽ ở Pháp vào Thế kỷ XVIII, theo đó cá nhân chỉ có thể bị ràng buộc bởi ý chí của chính mình được tuyên bố một cách trực tiếp thông qua các hợp đồng hay gián tiếp thông qua pháp luật. Học
thuyết này cho rằng pháp luật thể hiện ý chí chung của các cá nhân trong xã hội,
27 Đinh Trung Tụng (Chủ biên), Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005, tr. 175
28 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 3 29 Edward Younkins, Freedom to contract, Liberty Free Press, June 15, 2000,
[http://www.quebecoislibre.org/younkins25.html], 2/2/2008
15
nên các qui định của pháp luật có giá trị thúc buộc chung mà các cá nhân đã gián tiếp ưng thuận. Học thuyết này nhằm tới mục đích công bằng giữa các cá nhân thông qua tự do thương thuyết, và phát triển kinh tế thông qua tự do cạnh tranh (laisser faire),30 có nghĩa là “để cho muốn là gì thì làm”. Tư tưởng này được người ngày nay hiểu rằng, chủ nghĩa tự do kinh tế thời đó là một chế độ tự do không giới hạn mà tại đó sự công bằng là kết quả tự nhiên có được từ luật nghĩa vụ thích hợp được xây dựng trên nền tảng đặt biệt của sự bình đẳng thích hợp. Hệ quả là các lý thuyết về luật tư ở Thế kỷ XIX đều lấy tiền đề từ sự thống trị của quyền tự do cá nhân vô giới hạn31. Các tư tưởng từ đó đã ảnh hưởng lớn tới Bộ luật Dân sự Đức 1900. Như vậy cả hai Bộ luật Dân sự (Bộ luật Dân sự Pháp 1804 và Bộ luật Dân sự Đức 1900) mà làm hình mẫu cho các Bộ luật Dân sự khác đều bị ảnh hưởng sâu sắc bởi học thuyết tự do ý chí.
Với Common Law tự do hợp đồng là một học thuyết trung tâm của luật hợp đồng cổ điển. Học thuyết này nở rộ và phát triển đầy đủ vào khoảng nửa cuối Thế kỷ XIX. Tại đây pháp luật được tạo ra bởi các thẩm phán và các học thuyết pháp lý bị ảnh hưởng bởi: (1) Ý tưởng khế ước xã hội từ thời của Locke; (2) Tư tưởng kinh tế cổ điển; và (3) Quan niệm về sự liên kết tự nguyện giữa các chủ thể của quan hệ hợp đồng32. Học thuyết này có nguồn gốc từ Thời đại khai sáng với tư tưởng của Locke được thể hiện trong công trình “Hai luận thuyết về chính quyền” chống lại quyền lực tối thượng thần thánh của các nhà vua. Theo ông xã hội vận hành tốt nhất khi các khế ước xã hội đã được định rõ điều chỉnh hành vi của con người, và là cách thức tốt nhất để bảo vệ đời sống, tự do và tài sản của cá nhân họ
mà được gọi là các quyền tự nhiên33.
30 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 84
31 Andreas Abegg and Annemarie Thatcher, “Review essay- Freedom of contract in the 19th Century: Mythology and silence of the sources”, German Law Journal, No. 1 (1 January 2004) 32 Lee Boldeman, The Cult of the Market: Economic Fundamentalism and its Discontents, [http://epress.anu.edu.au/cotm/mobile_devices/index.html], 2/7/2008
33 Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contract,
[http://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_contract], 2/2/2008
16
Các lý thuyết gia về hợp đồng ở thời kỳ cuối Thế kỷ XIX trong một sự nỗ lực đã tiến hành các quá trình trìu tượng hoá, khái quát hoá và hệ thống hoá các vấn đề liên quan tới hợp đồng để xây dựng nên một lý thuyết duy nhất dựa trên các giá trị đạo đức thay thế cho các tín ngưỡng truyền thống có nền tảng là đạo đức đang bị xói mòn. Kết quả là việc xem hợp đồng như luật giữa các cá nhân. Điều đó có nghĩa là họ quan niệm nghĩa vụ hợp đồng phát sinh từ các ý chí của các cá nhân trong một mối quan hệ hợp đồng cụ thể, chứ không phát sinh từ các chế định pháp lý đã được xây dựng có tính lịch sử và xã hội. Theo Lee Boldeman, các tư tưởng này rất giống với các tư tưởng của Locke về tài sản. Nghĩa vụ thực hiện lời hứa là vấn đề trung tâm của luật hợp đồng và cũng là trái tim của luật tự
nhiên theo trường phái Locke, nhưng là một luật tự nhiên mà ngày càng làm mất đi nền tảng trừu tượng của nó34.
Ở Hoa Kỳ vụ Lochner v. New York, 198 U.S. 45 (1905) là một dấu mốc quan trọng đánh dấu phán quyết của Toà án Tối cao Hoa Kỳ hướng tới quyền tự do hợp đồng. Đây là một vụ việc gây tranh luận nhiều nhất trong lịch sử của Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Nó tạo ra một kỷ nguyên được gọi là kỷ nguyên Lochner. Vào năm 1896, cơ quan lập pháp của Tiểu Bang New York nhất trí ban hành một đạo luật mang tên Bakeshop Act cấm các cá nhân làm việc tại các cửa hàng bánh mỳ làm việc hơn mười giờ một ngày hoặc hơn sáu mươi giờ một tuần. Năm 1899, Joseph Lochner (người chủ của một cửa hiệu bánh mỳ ở Unita) bị phạt 25 đô la Mỹ vì sử dụng một người lao động làm quá thời gian qui định nói trên. Lần vi phạm thứ hai vào năm 1901, ông ta bị phạt 50 đô la Mỹ tại Oneida County Court. Sau nhiều lần kháng cáo tại Toà án Tối cao của New York bị thất bại, ông ta đưa vụ việc lên Toà án Tối cao của Hoa Kỳ. Vụ việc này được xét xử trên căn bản “Bổ
sung thứ mười bốn” của Hiến pháp Hoa Kỳ với nội dung: “…không một Tiểu bang nào được tước bỏ của bất kỳ người nào đời sống, tự do, hoặc tài sản mà không theo một qui trình pháp luật thích hợp”. Trải qua hàng loạt vụ việc trước đó, Toà
34 Lee Boldeman, The Cult of the Market: Economic Fundamentalism and its Discontents, [http://epress.anu.edu.au/cotm/mobile_devices/index.html], 2/7/2008
17
án Tối cao Hoa Kỳ cho rằng nguyên tắc này không chỉ là một bảo đảm về luật thủ tục, mà còn là một giới hạn về luật vật chất cho các hành xử của chính quyền đối với người dân. Việc giải thích Hiến pháp này của Toà án Tối cao Hoa Kỳ đã in một dấu ấn chắc chắn vào các học thuyết pháp lý ở cuối Thế kỷ XIX. Trong vụ việc của mình, Lochner lập luận rằng quyền tự do hợp đồng là một quyền được bao hàm bởi qui trình thích đáng của luật vật chất. Mặc dù trước đó trong các vụ Allgeyer v. Louisiana (1897) và vụ Holden v. Harly (1898) Toà án Tối cao Hoa Kỳ đã thừa nhận tự do hợp đồng, nhưng trong vụ Lochner v. New York này Toà án Tối cao Hoa Kỳ phải đối diện với vấn đề rằng liệu Bakeshop Act có đưa ra được các hành xử hợp lý của chính quyền hay không. Rốt cuộc Toà án Tối cao Hoa Kỳ đưa ra phán quyết, việc giới hạn thời gian làm việc tại các cửa hiệu bánh mỳ không tạo nên các hành xử hợp pháp của quyền lực cảnh sát35.
Ngày nay các điều kiện của hợp đồng được giải thích căn bản trên cơ sở học thuyết tự do ý chí. Người ta thừa nhận rằng: ý chí là tự do, và ý chí của các bên là yếu tố duy nhất hình thành hợp đồng và làm phát sinh các hậu quả pháp lý36. Nhưng với sự phát triển của xã hội, vì đời sống chung của cộng đồng, nên tự do ý chí bị hạn chế trên các phương diện như ký kết, không ký kết, và xác lập hay thay đổi nội dung của hợp đồng. Tuy nhiên trong bất kể một công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về hợp đồng vấn đề tự do hợp đồng hay tự do ý chí đều được đề cập đến một cách thích đáng. Cũng như vậy các đạo luật hay các bộ pháp điển hóa về hợp đồng đều có các qui định về nguyên tắc tự do hợp đồng hay tự do ý chí.
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định ra nguyên tắc: “Quyền tự do cam kết, thỏa thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội” (Điều 4). Tiếp đó Bộ luật này qui định cụ thể hơn “Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” (Điều 389, khoản 1).
Luật Thương mại Việt Nam 2005 cũng có nguyên tắc:
35 Wikipedia, the free encyclopedia, Lochner v. New York, [http://en.wikipedia.org/wiki/Lochner_v._New_ York], 2/7/2008
36 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 4
18
“Các bên có quyền tự do thỏa thuận không trái với các qui định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền đó” (Điều 11, khoản 1).
Các nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004 qui định tại Điều 1.1 rằng: “Các bên được tự do giao kết hợp đồng và thỏa thuận nội dung của hợp đồng”. Cũng như vậy, nhưng có phần thận trọng hơn, Các Nguyên tắc của luật hợp đồng Châu Âu qui định: “Các bên tự do giao kết hợp đồng và xác định nội dung của hợp đồng, phụ thuộc vào các yêu cầu về thiện chí và công bằng, và các qui tắc bắt buộc được thiết lập bởi các Nguyên tắc này” (Điều 1.102).
Qua các qui định này, có thể nhận thấy tự do hợp đồng là một nguyên tắc hết sức quan trọng của luật hợp đồng mà nếu không có nó thì các thỏa thuận sẽ trở nên vô nghĩa vì không một quan hệ nghĩa vụ nào có thể được tạo thành. Tuy nhiên nguyên tắc này bị hạn chế trên một vài phương diện mà sẽ được nghiên cứu ở mục sau của Chương này.
Các học giả thường xem xét tự do ý chí trên ba phương diện: triết học, đạo đức, và kinh tế.
Về mặt triết học, học thuyết tự do ý chí dựa trên nền tảng của tự do cá nhân, có nghĩa là không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một việc gì đó ngoài ý muốn của họ.
Về mặt đạo đức, học thuyết tự do ý chí dựa trên quan niệm rằng không ai có thể bị ép buộc làm hay không làm một công việc mà không xuất phát từ lợi ích của họ. Do vậy, hợp đồng được xem là sản phẩm của ý chí được hình thành từ lợi ích của các bên tham gia giao kết.
Về mặt kinh tế, học thuyết tự do ý chí dựa trên nhận định rằng, lợi ích cá nhân là động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế. Do đó tự do ý chí phải được đề
19
cao để con người vì lợi ích của mình trong xã hội tự do cạnh tranh mang lại những lợi ích chung37.
“Tự do hợp đồng là một tư tưởng mà theo đó các cá nhân được quyền tự do thoả thuận giữa họ với nhau về các điều kiện của hợp đồng, không có sự can thiệp của chính quyền. Bất kể những gì khác hơn các qui định tối thiểu và thuế có thể xem là sự vi phạm nguyên tắc. Nó là trụ cột của học thuyết kinh tế tự do (the theory of laissez- faire economics). Các nhà kinh tế học xem xét nó như một lợi ích đối với xã hội bởi làm tăng sự lựa chọn và làm giảm thất nghiệp gây ra bởi các qui định chẳng hạn như tiền lương tối thiểu”38.
Triết lý này được đề xuất bởi Adam Smith và Thomas Hobbes nhằm ủng hộ cho các cá nhân sử dụng xã hội như một công cụ để thủ đắc tài sản. Các ông xem nhà nước thông thường như một phương tiện để đạt mục đích, chứ không phải là “người qui định”, và phản đối sự kiềm chế nhân định đối với ý chí tự do của cá nhân trong việc theo đuổi lợi ích riêng của anh ta. Hobbes đã gọi tự do ý chí là luật tự nhiên tự do (liberal natural law)39.
Học thuyết tự do ý chí đã dẫn đến một hệ quả trước tiên coi hợp đồng là một loại nguồn quan trọng nhất của nghĩa vụ pháp lý. Bởi vậy, hợp đồng có nhiệm vụ bảo đảm sự tự do và ngay thẳng của ý chí của các đương sự. Từ đó pháp luật về hợp đồng phải có các qui định loại bỏ những trường hợp không bảo đảm sự tự do và ngay thẳng của ý chí. Những người giao kết hợp đồng phải chín chắn về suy nghĩ và ở trạng thái minh mẫn bình thường. Các trường hợp giao kết hợp đồng do nhầm lẫn, do lừa dối hay do bạo lực sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu. Do đó có thể nói chế định vô hiệu của hợp đồng hoàn toàn không trái với vấn đề tự do ý chí40. Tuy nhiên, về sự vô hiệu của hợp đồng cũng được các nhà lập pháp nhìn từ giác độ của trật tự công cộng, có nghĩa là hợp đồng sẽ vô hiệu, nếu chống lại trật tự
37 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 4-5 38 Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contract,
[http://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_contract], 2/2/2008
39 Wikipedia, the free encyclopedia, Freedom of contract,
[http://en.wikipedia.org/wiki/Freedom_of_contract], 2/2/2008
40 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième Édition, Litec, 1989, p. 6
20
công cộng. Tuy nhiên nhận thức hay giải thích khái niệm trật tự công cộng cũng có những khác biệt nhất định trong các nền tài phán khác nhau, ở những thời điểm lịch sử khác nhau. Chẳng hạn: Trong Quốc Triều Hình Luật của Việt Nam trước kia, mặc dù đã có những qui định buộc thi hành hợp đồng (có nghĩa là có khuynh hướng tự do ý chí), nhưng cũng đã đưa ra nhiều qui định hạn chế tự do ý chí của các thần dân thể hiện tại Điều 41, Chương Tạp luật với qui định “Người Kinh không được cho người Man Liêu vay nợ, trái luật thì xử biếm hai tư; số tiền cho vay phải xung công”.
Các qui định như vậy nhằm bảo đảm đời sống chung của cộng đồng, nhưng đôi khi được giải thích theo hai hướng khác nhau. Một khuynh hướng cho rằng sự duy trì các qui định như vậy nhằm hạn chế bớt một phần của tự do cá nhân vì một lợi ích lớn hơn là sự tồn tại và phát triển của xã hội. Một khuynh hướng khác lại lập luận, khái niệm trật tự công cộng được hình thành từ Thế kỷ XIX nhằm bảo đảm tự do cá nhân và sở hữu cá nhân trong trường hợp cần thiết.
Qua các nghiên cứu trên có đi đến nhận định học thuyết tự do ý chí có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhằm biến các dự định hoặc kế hoặch trở thành hiện thực- một trong những chức năng quan trọng của pháp luật nói chung, bởi học thuyết này giúp cho các chủ thể hợp đồng ý thức được sự cưỡng chế của toà án đối với các nghĩa vụ hợp đồng, do đó các dự định hay kế hoặch của các chủ thể đã được toan tính trước và thể hiện phần nào đó qua hợp đồng được thực hiện.
Mục 2.2
Những giới hạn và hệ quả của tự do ý chí
Dù sao cũng phải nói, học thuyết tự do ý chí có những nhược điểm nhất định. Nó không thể giải quyết được một cách thoả đáng những mối quan hệ xã hội phức tạp ngày nay khi mà con người sống trong sự phụ thuộc lẫn nhau, khi mà vị thế kinh tế, xã hội của mỗi người không hoàn toàn ngang bằng, khi mà một nền
21
kinh tế tự do hoàn toàn không thể duy trì được nữa. Chính vì vậy, nhà làm luật phải vào cuộc để đưa ra khá nhiều các qui định có tính chất bắt buộc, dù chúng điều tiết các quan hệ tư, có nghĩa là tự do ý chí bị hạn chế. Theo Boris Starck ngày nay nhiều loại hợp đồng thực chất được nhà làm luật soạn thảo như: hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng lao động, hợp đồng thành lập công ty…, có nghĩa là họ chi tiết hoá các điều kiện của hợp đồng tới mức có thể trong văn bản pháp luật và đòi hỏi sự tuân thủ của các bên giao kết41. Tỉ lệ những nghĩa vụ phát sinh từ nguồn gốc hợp đồng giảm xuống đáng kể so với những nghĩa vụ phát sinh từ các nguồn gốc khác như hành vi pháp lý đơn phương, vi phạm, nghĩa vụ pháp định. Người ta còn có nhận xét rằng, chủ nghĩa ưng thuận được xây dựng trên nền tảng của tự do ý chí xem sự thống nhất về ý chí là đủ để làm phát sinh nghĩa vụ, không kể tới hình thức của nó, đã phải nhường bước phần nào cho chủ nghĩa coi trọng hình thức. Có thể nói, hình thức văn bản của hợp đồng ngày nay được chú trọng ở Việt Nam, nhất là đối với các hợp đồng liên quan tới quyền sử dụng đất, bất động sản khác, cũng như thành lập công ty. Ngoài ra các hình thức ràng buộc khác cũng thường xuyên được tìm thấy hơn trong các đạo luật tư. Tuy nhiên đây là một vấn đề pháp lý vẫn còn được tranh luận khá sôi nổi không chỉ ở Việt Nam hiện nay, mà còn ở các nước khác trên thế giới.
Thuật ngữ “tự do ý chí” được viết bằng tiếng Anh là “will autonomy” mà trong đó từ “autonomy” có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp cổ đại bao gồm từ “nomos” có nghĩa là luật (một người định ra luật cho bản thân anh ta). Vì vậy “autonomy” thường được hiểu là quyền của một người tự điều chỉnh bản thân mình42. Thuật ngữ này được sử dụng trong các lĩnh vực đạo đức, triết học, luật học, và chính trị
học. Tuy nhiên tự do ngày nay được nhắc tới với những hạn chế nhất định phụ thuộc vào sự tự nguyện của chính chủ thể, vào quyền lực lớn hơn hoặc khả năng thực hiện của chủ thể…Vì vậy tự do không có nghĩa tuyệt đối mà được giải thích phù hợp với hoàn cảnh. Nên hạn chế tự do ý chí cũng có nghĩa tương đối, nhưng là
41 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 9 42 Wikipedia, the free encyclopedia, Autonomy, [http://en.wikipedia.org/wiki/Autonomy], 2/2/2008
22
một lẽ phải trong nghĩa đối lập với tự do. Dù sao người ta cũng hy vọng ý chí được thể hiện ra một cách tối đa mà pháp luật quy định cho mỗi cá nhân. Song nói rằng ý chí là hoàn toàn độc lập thì điều đó có nghĩa là chúng ta đang sống mà không cần có pháp luật43.
Trong việc phán xử vụ Lochner v. New York như trên vừa trình bày không phải tất cả các thẩm phán liên quan đều nhất trí với phán quyết rằng “Qui định của New York về thời gian làm việc của những người làm bánh mỳ không phải là sự hạn chế chính đáng quyền tự do hợp đồng theo Sửa đổi thứ mười bốn về bảo đảm tự do”. Người đưa ra ý tưởng cho phán quyết này là thẩm phán Rufus Wheeler Peckham. Ý tưởng được ủng hộ bởi các thẩm phán Melville Fuller, David Josiah Brewer, Henry Billings Brown, Joseph McKenna. Những thẩm phán bất đồng quan điểm bao gồm: thẩm phán John Marshall Harlan được ủng hộ bởi các thẩm phán Edward Douglass White và William R. Day. Thẩm phán Oliver Wendell Holmes bất đồng ý kiến theo hướng khác. Phán quyết được đưa ra với một phiếu chênh lệch44, tức là không phải ai cũng sẵn sàng cho tự do kiểu đó, kể cả khi đã cân nhắc kỹ lưỡng. Điều đó cũng có thể được hiểu là có những ý tưởng hạn chế tự do ý chí tiềm ẩn ngay cả khi học thuyết này được thừa nhận rộng rãi nhất.
Đi khá xa khỏi trào lưu tự do hợp đồng vô giới hạn ở Thế kỷ XIX, quyền giao kết hợp đồng vẫn được duy trì như một nguyên tắc cơ bản ở Hoa Kỳ hiện nay, nhưng bị bao bọc bởi sự gia tăng các hạn chế do pháp luật qui định đối với tự do hợp đồng. Hai loại hợp đồng bị hạn chế tự do hợp đồng điển hình là hợp đồng lao động bị kiểm soát bởi pháp luật liên bang và pháp luật tiểu bang với các qui định về tiền lương tối thiểu, thời gian và điều kiện làm việc, và bảo hiểm xã hội; và hợp đồng bảo hiểm bị kiểm soát bởi các văn bản pháp luật với các qui định về các điều kiện của hợp đồng45.
43 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 8 44 Wikipedia, the free encyclopedia, Lochner v. New York, [http://en.wikipedia.org/wiki/Lochner_v._New_ York], 2/7/2008
45 John D. Calamari, Joseph M. Perillo, The Law of Contracts, Third edition, West Publishing Co., USA, 1987, p. 6
23
Hạn chế tự do ý chí đồng nghĩa với sự can thiệp của nhà nước vào khu vực quyền lợi tư. Nhưng sự can thiệp này lại là một sự cần thiết trước hết vì đời sống chung của cộng đồng. Chủ nghĩa can thiệp còn được thể hiện trên một bình diện rộng hơn, đó là toàn bộ nền kinh tế. Đầu tiên, nhà lập pháp chỉ quy định việc bảo vệ đối với những người giao kết hợp đồng yếu thế trước các đối tác mạnh hơn họ. Những người làm công được trả lương, các bảo đảm đối với họ với tư cách là một tính chất của trật tự công được pháp luật về lao động quy định; sau đó tất cả mọi người đều được bảo hộ thông qua các hợp đồng đặc thù đối với từng lĩnh vực, chẳng như người thuê, người chủ trang trại, những người đi vay, những người được bảo đảm đối với các thảm họa tự nhiên46.
Sự cần thiết hạn chế bớt tự do ý chí có thể được xem xét bởi ba lý do sau: Lý do thứ nhất là nhu cầu cân đối giữa lợi ích của cá nhân thông qua ý muốn của họ với lợi ích chung của cộng đồng, bởi (1) một mặt con người cần được tự do để phát triển đầy đủ và toàn diện đúng với mục đích sống của mình; (2) mặt khác cộng đồng cần phải được duy trì và phát triển để trở thành cái nôi nuôi dưỡng thực sự cho các ước vọng chung của con người và của mỗi cá nhân. Lý do thứ hai là nhu cầu bảo vệ những người yếu thế trong xã hội hay trong một giao dịch cụ thể. Lý do thứ ba là nhu cầu phát triển kinh tế có trật tự và đúng hướng theo sự lựa chọn chung. Tuy nhiên có quan điểm chỉ quan tâm tới lý do lợi ích công cộng trong việc hạn chế quyền tự do giao kết hợp đồng47. Đây là một cách nghĩ đơn giản, thiếu thuyết phục về mặt khoa học cũng như về mặt tâm lý của con người.
Hạn chế tự do ý chí được nghiên cứu trên nhiều phương diện. Về phương diện pháp lý, người ta thường nghiên cứu hạn chế tự do ý chí trong vấn đề như tự do giao kết hợp đồng, tự do không giao kết hợp đồng, tự do ấn định nội dung của hợp đồng.
Hạn chế tự do giao kết hợp đồng
46 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p. 10 47 Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 401
24
Sự hạn chế này thường được nghiên cứu trong phạm vi của các hành vi pháp lý bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, và thể hiện rõ nét nhất qua chế định hành vi pháp lý vô hiệu. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, các qui định về hành vi pháp lý vô hiệu tập trung tại Chương VI của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005. Ngoài ra còn nhiều qui định khác nằm rải rác ở các chương khác của Bộ luật này và các văn bản pháp luật khác trong cả lĩnh vực luật công và luật tư.
Sự hạn chế trước tiên được diễn đạt dưới giác độ pháp lý là nhằm bảo vệ trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Hiểu rằng linh hồn của pháp luật (giống như các học thuyết về xã hội) luôn luôn và bao giờ cũng có một hạt nhân quan trọng nhất hay một vấn đề duy nhất, suy cho cùng cần phải giải quyết- Đó là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Có học thuyết quá đề cao cộng đồng. Ngược lại có học thuyết quá đề cao cá nhân. Dù sao cộng đồng và cá nhân cùng phải được tồn tại và phát triển một cách lành mạnh và thích đáng. Vậy người ta cần phải cân đối giữa chúng, tuy nhiên rất khó và không hoàn toàn giống nhau ở mọi nơi, mọi lúc. Mối quan hệ này và sự cân đối này, về mặt hình thức, được thể hiện ở mối quan hệ
và sự cân đối giữa nhà nước (đại diện cho cộng đồng) và cá nhân. Các nghiên cứu ở trên cho thấy, học thuyết tự do ý chí có nguồn gốc từ trường phái luật tự nhiên nhằm bảo vệ tự do của cá nhân con người chống lại sự can thiệp của nhà nước. Vậy nói tới sự hạn chế tự do ý chí đồng nghĩa với nói tới việc cân đối giữa cá nhân và cộng đồng. Nhưng sự hạn chế này chỉ chính đáng khi nhà nước (người đại diện cho cộng đồng) có được lý do chính đáng từ phía cộng đồng. Bảo đảm trật tự công cộng và đạo đức xã hội có lẽ là các lý do chính đáng đó.
Pháp luật Việt Nam hiện nay có lẽ nghi ngại thuật ngữ “trật tự công cộng”, có thể bởi tính trừu tượng của nó, nên đã làm cho phức tạp hơn trong việc sử dụng lý do chính đáng này. Điều 389, khoản 1, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 qui định: “Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Theo Roland Amoussou- Guénou điều kiện “không được trái pháp luật và đạo đức xã hội” trong tự do giao kết hợp đồng của các qui định này có thể tương ứng với
25
khái niệm “trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục” trong pháp luật của Pháp48. Có lẽ đó chỉ là cách phê phán bóng bẩy, bởi nhiều khi “trái” hay “khác” với các qui định pháp luật trong lĩnh vực luật tư không có nghĩa chống lại trật tự công cộng.
Điều 6, Bộ luật Dân sự Pháp 1804 qui định: “Không thể, thông qua các giao ước cụ thể, làm trái với pháp luật liên quan tới trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục”. Theo cách thức này Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 qui định: “Không ai được lấy tư- ước mà làm trái với pháp- luật thuộc về trật- tự và phong- tục chung” (Điều thứ 10). Trong khi đó Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 lại qui định: “Phàm dân ta giao- ước với nhau sự gì mà làm trái với pháp- luật, với trật- tự hay là với phong- tục đều cho là vô- hiệu” (Điều thứ 10). Các điều luật trích dẫn này có thể
được phân làm hai loại khác nhau căn cứ vào nội dung của lý do ngăn cấm. Loại thứ nhất bao gồm các qui định trong Điều 6 của Bộ luật Dân sự Pháp 1804 và các qui định trong Điều thứ 10, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931. Trong loại này hạn chế tự do ý chí chỉ dừng lại ở lý do chống lại trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục. Loại thứ hai bao gồm các qui định trong Điều 389, khoản 1, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 và các qui định trong Điều thứ 10, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936. Hai Bộ luật này (trong lời văn) đã mở rộng phạm vi hạn chế tự do ý chí bằng lý do “không cho phép làm trái với pháp luật”. Tuy nhiên Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 có phân loại rõ hơn các lý do hạn chế là “trái pháp luật”, “trái trật tự”, và “trái phong tục”. Còn Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 không có sự phân biệt giữa “trái pháp luật” và “trái trật tự công cộng”. Nói cách khác, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 không nhắc tới thuật ngữ “trật tự công cộng”. Chưa cần xét đến hoàn cảnh ra đời, có thể thấy lời văn của Điều thứ 10, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 bộc lộ sự bị áp bức, do đó “dân ta” bị hạn chế tối đa các quyền tự do.
Nhìn trong tổng thể, chúng ta thấy những người xây dựng Bộ luật Dân sự
Việt Nam 2005 chưa có tư tuởng nhất quán trong việc thể hiện nguyên tắc tự do ý
48 Roland Amoussou- Guénou, “Triển vọng phát triển các nguyên tắc pháp luật hợp đồng Asean (hoặc Châu Á)”, Hội thảo hợp đồng thương mại quốc tế- Tham luận, Hội thảo do Nhà pháp luật Việt- Pháp tổ chức tại Hà Nội từ ngày 13- 14 tháng 12 năm 2004, tr. 10
26
chí và hạn chế tự do ý chí. Trong khi thu hẹp nguyên tắc tự do ý chí tại Điều 389, khoản 1, thì lại mở rộng tự do ý chí tối đa tại Điều 122, khoản 149 bằng cách thu hẹp tối thiểu lý do hạn chế tự do ý chí. Theo tinh thần của Điều 122, khoản 1 này, chúng ta có thể hiểu nhà làm luật chỉ tuyên bố vô hiệu đối với các giao dịch có “mục đích và nội dung” “vi phạm điều cấm của pháp luật” và “trái đạo đức xã hội”. Lẽ dĩ nhiên pháp luật chỉ cấm khi có khả năng chống lại trật tự công cộng. Điều luật này cho thấy chỉ “mục đích và nội dung” của giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật mới bị tuyên bố vô hiệu, còn các vấn đề khác của giao dịch chống lại điều cấm của pháp luật không thể bị tuyên bố vô hiệu. Điều luật này đã dẫn tới các giải pháp được qui định tại Điều 128 và các điều khoản khác của Bộ luật này. Chúng ta sẽ có dịp bàn lại vấn đề này ở Chương 7 và Chương 8 dưới đây.
Chưa bàn đến sự đúng sai, có thể thấy Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 đã dễ dàng định nghĩa điều cấm của pháp luật50, và người dân dễ dàng biết được các điều cấm bởi các điều cấm thường được qui định một cách minh thị trong các văn bản pháp luật hoặc nếu không được chứa đựng trong các văn bản thì chúng luôn luôn được truyền bá công khai. Nhưng đối với “trật tự công cộng” thì khó có thể đưa ra một định nghĩa và cũng khó có thể nhận biết được một cách rõ ràng. Hội đồng Bảo hiến của Pháp thường nhắc tới trật tự công cộng, song chưa bao giờ định nghĩa nó. Tuy nhiên các giải thích về trật tự công cộng thông qua các phán quyết của Hội đồng Bảo hiến này rất dễ nắm bắt khiến bất cứ ai cũng hiểu mà không cần định nghĩa chính xác51. Vũ Văn Mẫu cho rằng Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 và Bộ luật Dân sự Pháp 1804 đã thừa nhận ý niệm trật
49 Điều 122 qui định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có qui định”
50 Điều 128, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định nghĩa: “Điều cấm của pháp luật là những qui định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”
51 Conseil constitutionnel, “The main criteria for restricting human rights in the judicial practice of constitutional law”, Human Rights and Public Order, Eighth seminar of constitutional courts, Erevan, 2 to 5 October 2003
27
tự công cộng và thuần phong mỹ tục mà các khế ước cá nhân cần phải tôn trọng, nhưng nhà làm luật không định nghĩa rõ ý niệm này, do vậy toà án sẽ có nhiệm vụ hoạch định giới hạn của hai ý niệm này tuỳ theo nhu cầu và tình trạng xã hội. Ông còn nói rõ, nhờ có quan niệm mền dẻo như vậy án lệ của Pháp đã ngăn cản không để cho sự tự do kết ước của cá nhân xâm phạm tới lợi ích chung. Thực tế án lệ của Pháp có xu hướng mở rộng dần ý niệm trật tự công cộng, ngay cả những qui định liên quan tới tài chính và tín dụng công cộng đều được xem là trật tự công52. Các quyết định của Hội đồng Bảo hiến của Pháp có khuynh hướng xem trật tự công cộng như tấm lá chắn bảo vệ một số quyền tự do cơ bản nhất của con người và tuyên bố: “Ngăn chặn các vi phạm trật tự công cộng là cần thiết để bảo vệ các quyền hiến định”53.
Đối với hạn chế tự do giao kết hợp đồng, ngoài vấn đề hạn chế bởi trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục, việc hạn chế lựa chọn người giao kết hợp đồng cũng được chú ý nghiên cứu và thể hiện trong luật thực định. Thông thường người ta có quyền tự do lựa chọn người giao kết hợp đồng với mình. Tuy nhiên để bảo vệ người yếu thế hoặc người thứ ba, hoặc bởi các lý do khác, pháp luật có thể qui định ngăn cản việc giao kết hợp đồng với một số người nhất định hoặc phải ưu tiên giao kết hợp đồng với một số người nhất định. Chúng ta thường bắt gặp các qui định này trong các vấn đề pháp lý như ưu tiên mua nhà đang thuê, chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty đối nhân, bảo vệ cổ đông thiểu số hay bảo vệ người ít vốn trong các công ty, thuê mướn người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá, vận chuyển hành khách… Tuy nhiên các qui định như vậy ở Việt Nam chưa được chú ý đến một cách thích đáng với một ý tưởng xuyên suốt.
Hạn chế tự do không giao kết hợp đồng
52 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 86
53 Conseil constitutionnel, “The main criteria for restricting human rights in the judicial practice of constitutional law”, Human Rights and Public Order, Eighth seminar of constitutional courts, Erevan, 2 to 5 October 2003
28
Tự do hợp đồng được xem xét ở hai khía cạnh khác nhau của sự lựa chọn của chủ thể. Ở khía cạnh tích cực, chủ thể có quyền lựa chọn người giao kết hợp đồng với mình, và có quyền lựa chọn ấn định hay thay đổi các điều kiện của hợp đồng trong sự thoả thuận với bên kia. Ở khía cạnh tiêu cực, chủ thể có quyền lựa chọn không giao kết hợp đồng, và có quyền lựa chọn rút lui khỏi hợp đồng sau khi đã cân nhắc tới các hậu quả bất lợi cho việc đó (tuy nhiên đây có thể là một điểm tranh luận). Khi nói tới tự do hợp đồng là nói tới các khía cạnh đó. Nên nói tới hạn chế tự do hợp đồng thì phải nói tới sự hạn chế trên các khía cạnh đó. Tuy nhiên việc rút lui hay bỏ mặc hợp đồng luôn luôn bị hạn chế bằng các chế tài vi phạm hợp đồng để bảo đảm cho hợp đồng có nghĩa đúng với nó.
Việc từ chối giao kết hợp đồng bị hạn chế trong nhiều trường hợp. Đối với người cung cấp dịch vụ công cộng không được từ chối giao kết hợp đồng nếu còn khả năng cung cấp dịch vụ và phải mở ra cho tất cả mọi người đều có cơ hội như nhau trong việc mua hoặc sử dụng dịch vụ. Người giao kết hợp đồng không được từ chối giao kết hợp đồng vì lý do sắc tộc, tôn giáo hay quốc tịch… Thương nhân phải cung cấp hàng hoá hay dịch vụ đã quảng cáo54.
Hạn chế tự do ấn định nội dung của hợp đồng
Tự do lựa chọn nội dung của hợp đồng bao gồm tự do ấn định các điều kiện của hợp đồng và tự do thay đổi các điều kiện của hợp đồng. Các tự do này ngày nay bị hạn chế rất rõ rệt. Sự phát triển của các hợp đồng gia nhập đã dẫn tới việc thủ tiêu phần lớn sự tự do thoả thuận các điều kiện của hợp đồng và dẫn tới cách thực hành tư pháp có sự khác biệt trong việc giải thích các điều kiện của hợp đồng nghiêng về phía người yếu thế về kinh tế. Pháp luật cũng đòi hỏi phải ấn định các điều kiện bắt buộc cho nhiều loại hợp đồng như: hợp đồng lao động, hợp đồng công ty, hợp đồng bảo hiểm, và các loại hợp đồng có đối tượng là quyền sử dụng đất... Trong việc thực hiện hợp đồng, nguyên tắc pacta sunt servanda cũng bị điều
54 Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 401- 402
29
giảm với nhiều trường hợp liên quan tới khó khăn kinh tế của người thụ trái hoặc lưu cư đối với người thuê nhà55…
Mục 2.3
Ý nghĩa của tự do ý chí
Có lẽ ai cũng nhận thức được rằng: trước khi có sự phát triển của chủ nghĩa tự do ý chí, hợp đồng (với tính cách là một chế định pháp lý và với tính cách là một phương tiện thực tiễn) đã tồn tại và phát triển theo suốt chiều dài lịch sử của xã hội loài người kể từ khi họ bắt đầu biết tổ chức thành cộng đồng; và ngày nay khi vai trò của tự do ý chí bị giảm sút, thì hợp đồng vẫn giữ một vị trí quan trọng và không giảm đi ý nghĩa to lớn của nó đối với đời sống con người. Vậy giá trị của tự do ý chí lắng đọng ở đâu? Có lẽ tự do ý chí có một giá trị nổi bật là hạn chế sự can thiệp của chính quyền vào tự do của công dân, bên cạnh những giá trị quan trọng khác. Ý tưởng tự do ý chí ra đời thực sự nhằm tới mục tiêu mở rộng tối đa các quyền tự do đối với tài sản và các lợi ích của tư nhân và thu hẹp tối đa sự can thiệp của chính quyền vào khu vực tư nhân. Theo Common Law tự do hợp đồng là quyền tự do tối đa của các chủ sở hữu trong việc quản lý và định đoạt những gì của họ56. Từ đây chúng ta nên cân nhắc việc sử dụng học thuyết tự do ý chí một cách thích đáng phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam.
Thoát ra từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp nơi mà nhà nước cố gắng can thiệp tối đa vào mọi quan hệ xã hội, Việt Nam hiện nay đang xây dựng nền kinh tế thị trường với những ý tưởng tốt đẹp về tự do kinh doanh. Cho nên đề cao tự do ý chí có ý nghĩa thực tiễn rất lớn trong việc xoá bỏ cơ chế kinh tế cũ, thúc đẩy tự do kinh doanh. Việc hạn chế tự do ý chí cần phải được
55 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 90
56 Harry N. Scheiber, The State and the freedom of contract, Stanford University Press, Stanford California, USA, 1998, pp. 3; 123
30
cân nhắc một cách nghiêm túc, tỉ mỉ và chỉ sử dụng khi thật cần thiết, tránh chạy theo khuynh hướng của những nước phát triển. Tự do ý chí là một lĩnh vực thuộc tư tưởng luật tự nhiên- nền tảng của Nhà nước Pháp quyền (một mục tiêu mà Việt Nam đang hướng tới). Vậy việc sử dụng nó là một trong những nấc thang để vươn tới mục tiêu này. Ai cũng biết nhà nước vốn mạnh hơn nhiều so với cá nhân. Vì thế để bảo đảm cho cơ sở đạo đức của pháp luật (chính là sự bênh vực kẻ yếu thế
hơn trong một quan hệ nhất định- cái triết lý sống ở đời), và hơn nữa xét từ cái logic thông thường cộng đồng được tạo dựng nên từ các cá nhân và pháp luật thì áp dụng cho tất cả mọi người, nên người ta thiết lập một hệ thống các phương tiện kiềm chế hay giới hạn quyền lực của nhà nước, trong đó có tự do ý chí. Do đó điểm quan trọng nhất cho cải cách pháp luật là nhận thức và thể hiện đầy đủ các phương thức của nhân dân giới hạn quyền lực của nhà nước để bảo đảm cho nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Dù là một nguyên tắc bao trùm, song tự do ý chí còn phụ thuộc vào một số ngoại lệ mà cũng được xem là các nguyên tắc. Chẳng hạn, các ngoại lệ được người Mỹ nhấn mạnh bao gồm thiện chí, chuyên cần, hợp lý và thận trọng, ngoài ra còn sự loại trừ những khác biệt dứt khoát và ngầm định giữa các qui tắc của luật thương mại và hợp đồng57. Những nguyên tắc này phát triển hạn chế tự do ý chí khi mà xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của các dạng hợp đồng gia nhập và đòi hỏi sự bảo đảm trật tự công cộng, đạo đức xã hội. Ý thức được một cách đầy đủ các nguyên tắc có tính cách khác biệt này là rất cần thiết và có ý nghĩa lớn trong việc tiếp nhận học thuyết tự do ý chí ở Việt Nam hiện nay.
Cùng với các nguyên tắc trên, pháp luật phải thể hiện được một cách nhuần nhuyễn nguyên tắc tự do kinh doanh. Tại Việt Nam, Hiến pháp 1992 tuyên bố nguyên tắc này trong Điều 57 và Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 cũng nhắc tới nó tại Điều 50, tuy nhiên có sự sai biệt đôi chút giữa chúng về sự nhận thức. Phải nhận định rõ rằng sự bảo đảm tự do kinh doanh bằng các tố quyền chưa được nhắc
57 Bradford Stone, Uniform Commercial Code, Third Edition , ST. Paul, Minn. West Publishing Co., 1989, p. 8
31
đến trong các luận giải của hai điều luật nói trên. Sự bảo đảm bằng tố quyền là đặc trưng quan trọng của pháp luật giúp cho các quyền được thực thi nghiêm chỉnh trên thực tế. Bên cạnh đó, nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế có ý nghĩa rất thiết thực cho việc bảo đảm các nguyên tắc kể trên.
Tóm lại, cần lưu ý tới tự do ý chí một cách thích đáng phù hợp với hoàn cảnh và các mục tiêu của Việt Nam như đã phân tích ở trên, đồng thời có những qui định thích hợp hạn chế vừa đủ tự do ý chí nhằm bảo đảm trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Tuy nhiên tự do kinh doanh và sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế phải được nhấn mạnh.
32
Chương 3
NGHĨA VỤ
Mục 3.1
Khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ
Vì hợp đồng là nguồn gốc của nghĩa vụ hay căn cứ phát sinh nghĩa vụ, nên việc nghiên cứu nghĩa vụ rất quan trọng và cần thiết cho việc hiểu sâu sắc về hợp đồng. Tuy nhiên truyền thống Civil Law và truyền thống Sovietique Law có sự khác biệt với truyền thống Common Law về luật nghĩa vụ. Common Law không có khái niệm luật nghĩa vụ. Dù vậy, nhưng ngày nay nhiều luật gia thuộc Common Law cho rằng law of obligation bao gồm law of contract, law of tort và law of restitution58. Nếu xét từ cách nghiên cứu của các luật gia thuộc Họ pháp luật La Mã- Đức và các luật gia thuộc Họ pháp luật Xã hội chủ nghĩa, thì Họ pháp luật Anh- Mỹ không nghiên cứu tổng quát về nghĩa vụ nói chung mà nghiên cứu từng nguồn gốc cụ thể của nghĩa vụ. Do vậy họ có sự phân biệt tương đối rõ về các yếu tố cấu thành nên trách nhiệm pháp lý trong vi phạm hợp đồng với các các yếu tố
cấu thành nên trách nhiệm pháp lý trong vi phạm khác.
Vấn đề cần nghiên cứu trước tiên ở đây là định nghĩa về nghĩa vụ. Điều này tưởng chừng đơn giản, nhưng thực tế lại có nhiều rắc rối riêng trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Tuy nghĩa vụ có lẽ được hiểu không khác nhau về mặt nội dung, nhưng nó lại được định nghĩa đôi khi khác nhau không chỉ về ngôn từ, mà cả từ
xuất phát điểm. Việc làm rõ định nghĩa về nghĩa vụ có ích cho việc hiểu rõ hơn các nguồn gốc của nghĩa vụ hay căn cứ phát sinh ra nghĩa vụ và có ích cho việc nghiên cứu các đặc điểm của nghĩa vụ.
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
58 Andrew Burrows, Understanding the Law of Obligation- Essays on Contract, Tort and Restitution, Hart Publishing, Oxford, 1998, pp. 1-3
33
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)” (Điều 280).
Định nghĩa này đã nhắc tới các bên trong quan hệ nghĩa vụ và liệt kê các đối tượng của nghĩa vụ. Qua phân tích sơ bộ như vậy, có thể nói, định nghĩa này không mang tính khái quát cao. Nhưng điều đáng bình luận hơn là định nghĩa này không xuất phát từ việc xem nghĩa vụ là một quan hệ mà trong đó có hai loại chủ
thể trái ngược nhau về mặt lợi ích: (1) Một bên có quyền yêu cầu; và (2) một bên khác (bên có nghĩa vụ) phải thực hiện yêu cầu của bên kia. Định nghĩa như Điều 280 nói trên chỉ xuất phát từ hành vi của bên phải thực hiện yêu cầu của bên kia. Sự định nghĩa thiếu chính xác này có lẽ là do sự nhầm lẫn về thuật ngữ. Nghĩa vụ
có hai nghĩa. Một nghĩa chỉ hành vi phải thực hiện của một bên theo yêu cầu của bên kia (nghĩa hẹp). Một nghĩa khác chỉ một quan hệ mà theo đó một bên có quyền yêu cầu, còn bên kia phải thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu đó, có nghĩa là chỉ mối quan hệ giữa trái chủ và người thụ trái xác định (nghĩa rộng). Với nghĩa thứ hai này vì vậy khi nói hợp đồng là căn cứ phát sinh ra nghĩa vụ, thì có nghĩa là hợp đồng làm phát sinh ra quan hệ giữa trái chủ và người thụ trái xác định.
Nghĩa vụ mà tiếng Anh và tiếng Pháp đều viết là “obligation” có nguồn gốc từ danh từ “obligatio” của tiếng Latin. Nó có rất nhiều nghĩa khác nhau59. Vì vậy khi sử dụng nó, cần thận trọng. Có thể khảo sát một số định nghĩa khác về nghĩa vụ để làm rõ hơn cho các bình luận nêu trên.
“Nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật được xác lập giữa hai chủ thể theo đó một chủ thể (Chủ thể quyền- Người có quyền) có quyền yêu cầu chủ thể kia (Chủ thể nghĩa vụ- Người có nghĩa vụ) phải hoàn thành một yêu cầu nhất định”60. Ở đây các đặc điểm chính của quan hệ nghĩa vụ được đề cập tới; và đối tượng của nghĩa vụ được trừu tượng hóa để làm rõ bản chất là yêu cầu. Cũng vậy trong khi bình
luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản 1896, Xaca Vacaxum và Tori Aritdumi 59 Deluxe Black’s Law Dictionary, West Publishing Co., USA, 1990
60 Corinne Renault- Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb Văn hóa- Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 11
34
nêu bật bản chất của nghĩa vụ là “quyền của một người nhất định yêu cầu một người khác thực hiện các hành vi nhất định”61. Cuốn từ điển pháp luật của Pháp mang tên “Petit Dictionnaire de Droit” định nghĩa: “Nghĩa vụ là một mối quan hệ pháp lý theo đó một người, được gọi là trái chủ, có thể sử dụng phương cách cưỡng chế của quyền lực công theo sự lựa chọn của anh ta để buộc người khác,
người thụ trái xác định, chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm việc gì đó”62. Về pháp luật thực định, các đạo luật, nếu đưa ra định nghĩa về nghĩa vụ, đều định nghĩa như trên nhấn mạnh đến bản chất của nghĩa vụ là quyền yêu cầu. Bộ luật Dân sự Đức 1900 qui định:
“Hiệu lực của nghĩa vụ là việc trái chủ có quyền yêu cầu sự thực hiện từ người thụ trái. Sự thực hiện này có thể bao gồm việc không hành động” (Điều 241).
Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan 1992 cũng có qui định tương tự như Bộ luật Dân sự Đức 1900 như sau: “Bởi một nghĩa vụ, trái chủ có quyền yêu cầu sự thực hiện từ người thụ trái. Sự thực hiện có thể bao gồm việc không hành động” (Điều 194).
Chúng ta cũng bắt gặp các định nghĩa có cùng một xuất phát điểm trong nhiều công trình nghiên cứu của nhiều học giả Việt Nam. Ví dụ, trong cuốn “Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước”, Vũ Văn Mẫu định nghĩa: “Nghĩa vụ là mối liên hệ pháp lý giữa hai người, nhờ đó một người là trái chủ (hay chủ nợ) có quyền đòi người kia là người phụ trái (hay con nợ) phải thi hành một cung khoản có thể trị giá bằng tiền”63. “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” của Học viện Tư pháp, mặc dù không nói thẳng, nhưng đã ngụ ý không đồng ý với định nghĩa tại Điều 280, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, và đã đưa ra
61 Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 343
62 Roger Réau, Jean Rondepierre, Édouard Bourrel, Michel Lerolle, Maurice Esmein, Paul Sumien, Petit Dictionnaire de Droit, Librairie Dalloz, Paris, 1951
63 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 13
35
một định nghĩa khác hẳn in chữ nghiêng để nhấn mạnh dù hơi dài và có phần gây tranh luận như sau:
“Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể, theo đó chủ thể mang quyền có quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải chuyển giao một tài sản, thực hiện một việc hoặc không được thực hiện một việc vì lợi ích của mình hay lợi ích của người thứ ba, phải bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của bên có quyền. Chủ thể mang nghĩa vụ dân sự có nghĩa vụ thực hiện quyền yêu cầu của chủ thể mang quyền. Các quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ theo qui định của pháp luật hoặc theo thoả
thuận của các bên xác lập quan hệ nghĩa vụ dân sự”64.
Không thể đồng ý hoàn toàn với định nghĩa này (mà sẽ bàn tới sau), nhưng có thể nói nó là sự bộc lộ dụt dè một phản ứng trong nhiều phản ứng đối với định nghĩa về nghĩa vụ dân sự tại Điều 280, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005.
Tuy nhiên có một số Bộ luật Dân sự của một số nước trên thế giới không đưa ra định nghĩa về nghĩa vụ mà chỉ nêu rõ đối tượng và nguồn gốc của nghĩa vụ. Chẳng hạn Bộ luật Dân sự Tây ban Nha 1889 qui định:
“Điều 1088. Mọi nghĩa vụ đều bao gồm chuyển giao, làm, hoặc không làm gì đó.
Điều 1089. Nghĩa vụ được xác lập bởi luật, bởi hợp đồng, bởi chuẩn hợp đồng, và bởi hành vi bất hợp pháp và sự quá thất hoặc bởi những hành vi mà trong đó bất kỳ loại lỗi hoặc sự cẩu thả nào xen vào”.
Bộ luật Dân sự Tây Ban Nha đã được áp dụng ở một số nước thuộc địa và ảnh hưởng đến một số thuộc địa khác. Theo hình mẫu này, có sự sửa đổi thích hợp, Bộ luật Dân sự Philippines 1950 qui định:
“Điều 1156. Nghĩa vụ là sự ràng buộc pháp lý nhằm chuyển giao, làm. Điều 1157. Nghĩa vụ pháp sinh từ:
(1) Luật;
64 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 256
36
(2) Hợp đồng;
(3) Chuẩn hợp đồng;
(4) Hành động hoặc sự quá thất bị trừng phạt bởi luật; và
(5) Chuẩn vi phạm”.
Có thể có nhiều lập luận cho rằng định nghĩa tại Điều 280, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 kể trên là một sự kế tiếp truyền thống định nghĩa về nghĩa vụ đã từng có trong Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936, và Bộ luật Dân sự Việt Nam 199565. Có ý tứ như vậy, sau khi đã phân tích các định nghĩa về nghĩa vụ của các Bộ luật Dân sự nói trên, “Giáo trình luật dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội có một đoạn văn như sau: “Như vậy, nếu so sánh định nghĩa về nghĩa vụ dân sự của BLDS nước ta hiện nay với các bộ dân luật trước đây, chúng ta thấy rằng dù có khác nhau về ngôn từ nhưng các bộ luật đều có sự thống nhất khi nhìn nhận nghĩa vụ dân sự…”66.
Điều thứ 67667, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 định nghĩa: “Nghĩa vụ là cái dây liên lạc về luật thực tế hay luật thiên nhiên, bó buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó”. Điều thứ 641, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 định nghĩa: “Nghĩa- vụ là mối liên- lạc về luật thực- tế hay luật thiên- nhiên, bó- buộc một hay nhiều người phải làm hay đừng làm sự gì đối với một hay nhiều người nào đó”68.
Thật đáng tiếc, qua hai điều luật định nghĩa vừa dẫn trên trong các Bộ luật Dân sự cũ, có thể dễ dàng thấy ngay khái niệm “nghĩa vụ” được định nghĩa trong đó được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả nghĩa vụ dân sự và nghĩa vụ tự nhiên mà ai cũng hiểu rằng nghĩa vụ tự nhiên không thể mang ra tố tụng trước toà án. Điều
65 Điều 285, Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo qui định của pháp luật, thì một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (gọi là người có quyền)” 66 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam- Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 7
67 Lưu ý “Giáo trình luật dân sự Việt Nam” (Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007) tại Tập II, trang 6 đã cho rằng “Điều 675” của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 định nghĩa về nghĩa vụ, nhưng thực ra là “Điều thứ 676” định nghĩa về nghĩa vụ, còn “Điều thứ 675” là Điều cuối cùng nói về quyền địa dịch. 68 Xem các Điều liên quan của Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 và Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 đã dẫn tại Chương 1 của sách này
37
đó có nghĩa là không có sự cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ tự nhiên. Việc này cũng đồng nghĩa với việc không có “chủ thể có quyền yêu cầu” trong quan hệ nghĩa vụ tự nhiên bởi sự cưỡng chế của toà án dành sự ủng hộ cho người có quyền hay lợi ích bị vi phạm. Vì thế không thể định nghĩa về nghĩa vụ theo nghĩa rộng như vậy với sự xuất phát từ bản chất của nghĩa vụ dân sự là quyền yêu cầu như trên đã phân tích, nên có lẽ những người xây dựng các Bộ luật Dân sự cũ ở Việt Nam mới đưa ra định nghĩa như vậy. Đáng tiếc hơn, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 gọi nghĩa vụ nói tới trong đó là “nghĩa vụ dân sự”, có nghĩa là đã loại bỏ nghĩa vụ tự
nhiên ra khỏi sự quan tâm của nó, nhưng lại định nghĩa về “nghĩa vụ dân sự” giống với các Bộ luật Dân sự cũ đã nói. Để làm rõ hơn cho sự phân biệt giữa nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự trong pháp luật của các chế độ cũ ở Việt Nam, có thể khảo sát các giải nghĩa về chúng trong một cuốn từ điển thuật ngữ pháp lý Việt- Pháp đối chiếu và giải thích như sau:
“Nghĩa vụ thiên nhiên là một nghĩa vụ không do pháp luật bắt buộc thi hành mà vì lẽ công bằng người mắc nợ phải trả. Thí dụ: trả món nợ cờ bạc. Nghĩa vụ dân sự là một nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thi hành. Thí dụ nghĩa vụ cấp dưỡng”69.
Tại đây cần nhấn mạnh thêm: khi xây dựng Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 có khá nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu cho rằng không nên sử dụng thuật ngữ “nghĩa vụ dân sự” mà nên sử dụng thuật ngữ “trái vụ” để thể hiện rõ hơn mối quan hệ giữa những trái chủ và người thụ trái xác định, nhưng những ý kiến này đã không được chấp nhận. Cuốn từ điển thuật ngữ pháp lý Việt- Pháp đối chiếu và giải thích nói trên đã nhấn mạnh tới một thuật ngữ có cùng nghĩa với thuật ngữ “nghĩa vụ” và cũng thường xuyên được sử dụng trong luật thực định và các công trình nghiên cứu- đó là “trái quyền”70, và giải nghĩa: “Ta có thể gọi nghĩa vụ hay trái quyền mối quan hệ pháp lý giữa hai người theo đó người trái chủ có thể buộc
69 Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp- luật lược- giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, tr. 754 70 Nếu xét “nghĩa vụ” theo nghĩa hẹp chỉ hành vi của người thụ trái phải thực hiện vì lợi ích của người khác, thì “trái quyền” là thuật ngữ đối lập với thuật ngữ “nghĩa vụ”, có nghĩa là mỗi trong số chúng chỉ một mặt đối lập trong một quan hệ xác định.
38
người phụ trái hoặc phải trả một khoản tiền, phải trao một món hàng hoặc phải làm việc gì hay không được làm việc gì”71.
Các định nghĩa về nghĩa vụ dân sự có tính cách khoa học thực sự xuất phát từ bản chất của nghĩa vụ dân sự là quyền yêu cầu cho thấy nghĩa vụ dân sự (sau đây gọi tắt là nghĩa vụ, trừ khi có yêu cầu đặc biệt trong việc dùng thuật ngữ) có ba đặc điểm quan trọng:
Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý. Đặc điểm này nói lên sự cưỡng chế thi hành của pháp luật đối với nghĩa vụ và phân biệt nó với nghĩa vụ tự nhiên. Nó bao gồm hai thành tố: (1) Pháp luật công nhận; và (2) Có giá trị cưỡng bức thi hành.
Thứ hai, nghĩa vụ là một quan hệ đối nhân (quyền đối nhân). Đặc điểm này cho thấy quyền của trái chủ chỉ được thi hành đối với người thụ trái chứ không được thi hành trên bất kỳ tài sản cụ thể nào, có nghĩa là trái chủ chỉ có thể yêu cầu người thụ trái thực hiện nghĩa vụ. Ở đây cần phải phân biệt giữa quyền đối vật và quyền đối nhân. Sự phân biệt này ít được nói tới trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay bởi hình mẫu của nó là Sovietique Law. Vắn tắt về sự khác nhau giữa quyền đối vật và quyền đối nhân, một số học giả Nhật Bản nói: “Đối lập với quyền đối vật, quyền đối nhân là một quyền tương đối không có yếu tố loại trừ”72. Tại đây cần phải lưu ý quyền loại trừ được xem là xương sống của quyền sở hữu. Deluxe Black’s Law Dictionary giải nghĩa:
“Quyền đối nhân (right in personam) là một quyền áp đặt một nghĩa vụ đối với một người xác định. Quyền đối vật (right in rem) là một quyền áp đặt một nghĩa vụ đối với mọi người nói chung; có nghĩa là hoặc đối với tất cả thế giới hoặc đối với tất cả thế giới trừ một số người xác định. Như vậy, nếu tôi có quyền loại trừ tất cả mọi người từ một thửa đất xác định, thì tôi có quyền đối vật đối với thửa
71 Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp- luật lược- giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn, tr. 754 72 Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh- Việt, tr. 162
39
đất đó; và, nếu có một hoặc nhiều người, A, B, và C, mà tôi không có quyền loại trừ từ thửa đất đó, thì quyền của tôi vẫn là quyền đối vật”73.
Từ điển pháp luật của Pháp định nghĩa: “Quyền đối nhân là quyền đối với một người xác định mà là người thụ trái trong quan hệ nghĩa vụ”; Còn “quyền đối vật là quyền có thể được thực hiện chống lại tất cả mọi người”74. Pháp luật dân sự ở Việt Nam trước kia75 quan niệm:
“Quyền đối vật = quyền đem đối kháng được với mọi người, cho phép người chủ- tể hành xử quyền mình trên một tài sản. Thí dụ: quyền tư hữu, dụng ích, địa dịch.
Quyền đối vật phụ thuộc (droit réel accessoire) là quyền cho một trái chủ được bảo đảm trên một tài sản nào cho phép trái chủ ấy có ưu quyền và quyền truy tuỳ. Thí dụ: quyền để đương, thế chấp”76.
Quyền đối nhân và quyền đối vật được phân biệt cụ thể hơn về chủ thể và đối tượng, có nghĩa là trả lời cho các câu hỏi tối thiểu về từng loại quyền này như: ai là người được thụ hưởng quyền, ai là người chịu sự tác động của quyền, và quyền đó nhằm tới cái gì.
Về chủ thể: Quyền đối nhân có hai loại chủ thể là trái chủ và người thụ trái. Họ là những người xác định trong từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà trong đó trái chủ là loại chủ thể tích cực có quyền yêu cầu người thụ trái phải thi hành một nghĩa vụ nào đó; còn người thụ trái là loại chủ thể tiêu cực phải thi hành nghĩa vụ vì quyền lợi của trái chủ hoặc của người khác mà đã được xác định cụ thể trong quan hệ nghĩa vụ cụ thể. Việc yêu cầu và thực hiện yêu cầu dẫn tới hệ quả khác nhau đối với sản nghiệp của trái chủ và của người thụ trái. Đối với trái chủ, nghĩa vụ là phần làm tăng tài sản (tích sản). Còn đối với người thụ trái, nghĩa vụ là phần làm giảm tài sản (tiêu sản). Ví dụ: Trong quan hệ mua bán hàng hoá giữa Phình và
73 Deluxe Black’s Law Dictionary, West Publishing Co, 1990
74 Roger Réau, Jean Rondepierre, Édouard Bourrel, Michel Lerolle, Maurice Esmein, Paul Sumien, Petit Dictionnaire de Droit, Librairie Dalloz, Paris, 1951
75 Pháp luật Việt Nam (ở cả nước trong thời kỳ Pháp thuộc, và ở Miền Nam trước khi thống nhất đất nước) theo truyền thống Civil Law và được xây dựng theo hình mẫu pháp luật Pháp
76 Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp- luật lược- giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn
40
Phệt, người mua Phình có quyền yêu cầu người bán Phệt phải chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho Phình. Vậy quan hệ này là phần làm tăng tài sản của Phình và làm giảm tài sản của Phệt. Ngược lại Phệt có quyền yêu cầu Phình phải trả tiền mua hàng hoá cho Phệt. Vì thế quan hệ ngược lại này là phần làm tăng tài sản của Phệt và làm giảm tài sản của Phình. Trong những hợp đồng hữu thường như vậy các bên đều có lợi ích về tài sản trong đó. Với đặc tính này, trái chủ chỉ được thi hành quyền của mình đối với người thụ trái, không được thi hành quyền của mình trên bất kỳ một tài sản cụ thể nào. Việc thi hành quyền yêu cầu của trái chủ phụ thuộc vào tài sản đang có hoặc sẽ có trong tương lai của người thụ trái. Vì vậy, nếu thiếu sự tin tưởng lẫn nhau, trái chủ thường đòi hỏi việc bảo đảm khoản nợ
của mình bằng biện pháp đối vật hay đối nhân, mà trong đó bảo đảm đối vật là các vật quyền phụ thuộc, bao gồm cầm cố, thế chấp, để đương77. Các vật quyền phụ thuộc này cho phép trái chủ được ưu tiên lấy nợ trên tài sản cụ thể đã dùng để bảo đảm. Nếu tài sản này đã bị chuyển nhượng, thì trái chủ vẫn có quyền yêu cầu sai áp hay tịch biên và bán đấu giá để lấy nợ. Tuy nhiên, quyền ưu tiên lấy nợ trên tài sản này còn phụ thuộc vào những đặc quyền (có nghĩa là những quyền ưu tiên cao hơn78) bởi tính chất đặc biệt của những trái quyền như vậy của chủ nợ. Bảo đảm đối nhân được xem là bảo lãnh, có nghĩa là một người khác cam kết thi hành nghĩa vụ thay cho người thụ trái, nếu người thụ trái không thi hành được nghĩa vụ của mình.
Về đối tượng: Quyền đối nhân có ba loại đối tượng là chuyển giao tài sản, làm hoặc không làm một việc nào đó. Theo định nghĩa về nghĩa vụ tại Điều 280 của Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam thì quyền đối nhân có năm đối tượng: (1) Chuyển giao vật; (2) chuyển giao quyền; (3) trả tiền hoặc giấy tờ có giá; (4) thực
77 Thế chấp và để đương có sự khác nhau trong pháp luật Việt Nam dưới các chế độ cũ. Đối với thế chấp, có chuyển giao tài sản để trái chủ chiếm hữu thực tế hay danh nghĩa. Còn đối với để đương thì không có sự chuyển giao. Bên cạnh thuật ngữ thế chấp vẫn có thuật ngữ cầm cố, nhưng sử dụng khác nhau cho động sản và bất động sản. Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, cầm cố và thế chấp không khác nhau rõ rệt, và không sử dụng thuật ngữ để đương.
78 Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 hiện nay không có một chương hay một mục riêng dành cho các đặc quyền, mà các đặc quyền đựoc qui định rải rác, thiếu thốn, đôi khi mâu thuẫn ở các văn bản pháp luật khác nhau
41
hiện công việc nào đó; (5) không được thực hiện công việc nào đó. Có thể nói, chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền và giấy tờ có giá có các yêu cầu cụ thể khác nhau, nhưng ở mức độ độ trừu tượng cao hơn có thể nhóm họp chúng trong cùng một nhóm. Suy nghĩ từ phân loại nghĩa vụ có thể thấy: Nếu phân loại nghĩa vụ theo đối tượng thành nghĩa vụ chuyển giao, nghĩa vụ làm (hành động), và nghĩa vụ không làm (không hành động), thì sự phân loại có tính khái quát cao hơn phân loại nghĩa vụ thành năm loại theo Điều 280 đã nói. Thông thường định nghĩa cần nêu được các vấn đề chung nhất để có thể phân biệt được khái niệm đang được định nghĩa với các khái niệm khác, chứ không thể diễn giải dài dòng, quá chi tiết các đặc điểm của khái niệm. Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 đã gần gũi với nhận thức chung về phân loại đối tượng của nghĩa vụ hơn khi qui định: “Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải làm hoặc không được làm” (Điều 287, khoản 1). Đặc biệt hơn, nhưng không đúng hơn, định nghĩa về nghĩa vụ trong “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” đã nói của Học viện Tư pháp cho rằng nghĩa vụ có bốn đối tượng: (1) chuyển giao một tài sản; (2) thực hiện một việc; (3) không được thực hiện một việc; và (4) “bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của bên có quyền” (định nghĩa có chứa đựng quan niệm bất thường này về các đối tượng của nghĩa vụ đã được nêu nguyên văn ở trên). Ba đối tượng đầu của nghĩa vụ trong quan niệm này không có gì khác lạ. Nhưng “bồi thường một thiệt hại về tài sản hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của bên có quyền” thật khác lạ. Sự khác lạ này thấy được bởi đó không phải là đối tượng của nghĩa vụ mà là một loại nghĩa vụ (nhưng sự mô tả của quan niệm này về loại nghĩa vụ đó không đầy đủ) có nguồn gốc phát sinh hay căn cứ phát sinh từ một sự kiện (không phải do ý chí của đương sự). Bản thân loại nghĩa vụ này cũng nhằm tới đối tượng là chuyển giao một tài sản, làm hoặc không làm một việc gì đấy như: trả tiền, xây lại bức tường bị đổ, không sử dụng tên thương mại nhất định… Bản thân sự liệt kê các đối tượng của nghĩa vụ trong định nghĩa này của “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” đã nói của Học Viện Tư pháp cũng đã mâu thuẫn với ngay các giảng giải cụ
42
thể sau đó về đối tượng của nghĩa vụ. Định nghĩa của giáo trình ấy về nghĩa vụ trong khi cho rằng đối tượng của nghĩa vụ bao gồm cả những nghĩa vụ phát sinh không do ý chí của đương sự (cụ thể: bồi thường thiệt hại do vi phạm), thì ngay sau đó vài trang sách lại cho rằng: “Đối tượng của nghĩa vụ dân sự do các bên thoả thuận về giá trị, phạm vi, loại tài sản, loại công việc phải thực hiện hoặc công việc không được thực hiện”79. Đoạn văn này dường như đã chỉ cho rằng những vấn đề liên quan tới đối tượng của nghĩa vụ phải do thoả thuận, mà đã quên mất vai trò của pháp luật trong việc giải thích các đối tượng cụ thể của các nghĩa vụ cụ thể, và cũng quên mất sự cưỡng chế của pháp luật đối với việc thực hiện các nghĩa vụ mà không có sự thoả thuận. Định nghĩa của giáo trình ấy về nghĩa vụ trong khi cho rằng đối tượng của nghĩa vụ bao gồm cả bồi thường thiệt hại do vi phạm, thì ngay sau đó lại chỉ phân tích ba đối tượng của nghĩa vụ nói tại Điều 182, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 là “tài sản”, “công việc phải thực hiện” và “công việc không được thực hiện”80.
Khác với quyền đối nhân, quyền đối vật thi hành trực tiếp trên vật và luôn luôn là yếu tố làm tăng tài sản của chủ thể quyền. Về chủ thể, quyền đối vật bao giờ cũng xác định được chủ thể quyền còn chủ thể của nghĩa vụ là tất cả những người còn lại. Nghiên cứu này làm rõ thêm cho quyền loại trừ mà được xem là xương sống của quyền sở hữu. Về đối tượng, quyền đối vật có đối tượng là vật. Trong môn luật tài sản, vật được hiểu là một phạm trù của luật dân sự dùng để chỉ những bộ phận khác nhau của thế giới vật chất có khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của con người và có những đặc tính căn bản như: đặc tính vật lý; và đặc tính đã được quan hệ xã hội hóa81.
Ở đây cần phải phân biệt quyền đối vật có mục đích là vật; còn quyền đối nhân có mục đích là một cam kết cụ thể mà người thụ trái phải thi hành, trong đó
79 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 261 80 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 256- 261 81 Vật là tài sản hữu hình bởi có đặc tính vật lý. Con người có thể nhận biết được vật bằng giác quan của mình hoặc bằng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ. Tuy nhiên chỉ được xem là vật theo quan niệm tài sản của luật dân sự khi đã được một hoặc nhiều người xác định chiếm hữu. Khác hơn quyền không có đặc tính vật lý và được xem là tài sản vô hình
43
có thể là chuyển giao tài sản, hoặc làm hoặc không làm một công việc nào đó. Do đó dẫn đến các hệ quả là sự chuyển giao nghĩa vụ khó khăn hơn chuyển giao vật quyền, bởi sự thay đổi trái chủ và người thụ trái không thể tuỳ tiện82. Nhưng dù sao sự phát triển của kinh tế, xã hội đã thúc đẩy việc chuyển giao quyền và chuyển giao nghĩa vụ, nhất là trong lĩnh vực thương mại. Điều đó tạo ra các điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thị trường phát triển. Các vấn đề này cũng xảy ra ở Common Law. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có các qui định về chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ tại các điều từ Điều 309 đến Điều 317. Quyền đối nhân là một loại quyền tương đối, khác với quyền đối vật là một loại quyền tuyệt đối, có nghĩa là quyền đối nhân không có hiệu lực đối với người thứ ba (có một số ngoại lệ) mà trái chủ chỉ có quyền yêu cầu người thụ trái, và chỉ trái chủ mới có được quyền như vậy. Sự khác biệt này dẫn tới cách thức khác nhau trong việc viết các qui phạm pháp luật liên quan tới quyền đối vật và viết các qui phạm pháp luật liên quan tới quyền đối nhân. Nhưng dù sao cũng vẫn cần nhấn mạnh rằng các quyền đối vật có tính cách hạn định hay phải do pháp luật qui định; còn các quyền đối nhân do ý chí của các bên xác lập. Từ đó, khi viết các qui định của đạo luật dân sự hay các đạo luật về quyền đối nhân, người ta không thể viết một cách dứt khoát mỗi bên có những quyền và nghĩa vụ cụ thể gì, mà chỉ nêu một số quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản nhằm xác định rõ bản chất hay chủng loại của hợp đồng, và đồng thời đặt ra những sự giải thích cho ý chí của các bên trong trường hợp họ không thoả thuận trong hợp đồng giữa họ với nhau. Đây cũng được xem là đặc tính căn bản của luật tư.
Thứ ba, nghĩa vụ là một quyền sản nghiệp83. Đặc điểm này xuất phát từ việc nghĩa vụ có thể trị giá được bằng tiền và liên quan tới các phân tích ở trên về
việc tăng giảm tài sản của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Khi thực hiện nghĩa
82 Vũ Văn Mẫu nói rằng: “Vì nghĩa vụ là một mối giây ràng buộc người phụ trái với người trái chủ cho nên sự chuyển dịch các nghĩa vụ không được hoàn toàn tự do, như đối với các quyền đối vật. Người ta không thể tự ý thay đổi trái chủ hay thay đổi người phụ trái” (Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 21)
83 Sử dụng thuật ngữ quyền sản nghiệp chính xác hơn thuật ngữ quyền tài sản. Sản nghiệp chỉ một mối quan hệ tài sản thuộc một người nào đó bao gồm cả tài sản có và tài sản nợ. Vì vậy nó phản ánh chính xác hơn tính chất của nghĩa vụ
44
vụ (kể cả những nghĩa vụ có đối tượng là làm hoặc không làm một việc gì đấy), thì người thụ trái cũng đều phải bỏ thời gian, công sức, chi phí tài sản hoặc cơ hội ra để thực hiện; trong khi đó trái chủ được hưởng các lợi ích từ việc thực hiện đó. Vậy nghĩa vụ là một quan hệ tài sản hay quyền sản nghiệp.
Nhận định về đặc điểm này của nghĩa vụ có phần khác biệt với quan niệm của Học viện Tư pháp thể hiện trong định nghĩa về nghĩa vụ đã dẫn của “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam” đã nói. Định nghĩa của giáo trình này cho rằng: “Nghĩa vụ dân sự được hiểu là quan hệ pháp luật về tài sản và nhân thân của các chủ thể…”84. Có lẽ quan niệm này xuất phát từ việc phân tích một số qui định của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 liên quan tới việc bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm85. Đây chỉ là sự phỏng đoán của riêng tác giả giáo trình này bởi suy nghĩ: đoạn văn vừa dẫn phù hợp với quan niệm “bồi thường một tài sản về thiệt hại hoặc nhân thân do có hành vi gây thiệt hại, vi phạm lợi ích hợp pháp của bên có quyền”86 là đối tượng của nghĩa vụ được nêu ở đoạn văn sau đó của định nghĩa này về nghĩa vụ87. Vậy cần khảo sát các qui định liên quan của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 để xem nhận định rút ra từ đó của Học viện Tư pháp có thực sự chính xác không. Điều 25, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 qui định, khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền: (1) Tự mình cải chính; (2) Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; (3) Yêu cầu người vi phạm hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại. Đây là nguyên tắc bảo vệ quyền nhân thân mà trong đó bồi thường thiệt hại là một biện pháp luật định cho phép người bị xâm phạm lựa chọn. Điều đó có nghĩa là nhà làm luật Việt Nam đã nghiêng về quan điểm lấy lợi ích vật chất để bù đắp phần nào nỗi đau tinh thần. Do đó Điều 307, khoản 3, Bộ luật
Dân sự Việt Nam 2005 qui định cụ thể hơn “Người gây thiệt hại về tinh thần cho
84 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 256 85 Đây chỉ là phỏng đoán bởi tác giả của định nghĩa đó không phân tích rõ lý do đưa ra định nghĩa và quan niệm như vậy
86 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 256 87 Vấn đề đối tượng của nghĩa vụ đã được nghiên cứu ở trên
45
người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại”. Quan niệm thiệt hại về tinh thần có thể xác định được bằng tiền88, nên Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có qui định như sau:
“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm: a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
2. Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo qui định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không qua mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước qui định” (Điều 611).
Các qui định nói trên cho thấy việc bồi thường thiệt hại về tinh thần do tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được phân biệt dứt khoát với việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai do tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Việc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi của Phần nói về nghĩa vụ dân sự của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005; còn việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai không thuộc phạm vi của Phần này. Cần hiểu rằng việc bồi thường này là một nghĩa vụ phát
88 Có các quan điểm đối lập nhau về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Trước kia người ta có sự phân biệt rạch ròi giữa lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, nhưng này nay các luật gia đã thoả hiệp đem đồng nhất lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần (Nguyễn Huy Đấu, Luật dân- sự tố- tụng Việt- Nam, Sài Gòn, 1962, tr. 45). Tuy vậy có nhiều quan điểm cho rằng đau đớn không thể trị giá được bằng tiền, vì vậy khó xác định được
thiệt hại về tinh thần, nên việc bù đắp thiệt hại về tinh thần gặp phải những khó khăn nhất định. Thông thường các nền tài phán dành việc bồi thường thiệt hại về tinh thần cho sự thẩm lượng của toà án trong từng trường hợp cụ thể. Nhưng pháp luật Việt Nam lại ấn định một mức bồi thường cụ thể cho tất cả các truờng hợp nếu các bên không thoả thuận được. Hiểu rằng hầu như ai bị thiệt hại đều đòi hỏi bồi thường cao hơn thực tế- đó là tâm lý chung. Nếu pháp luật ấn định một mức bồi thường cụ thể như Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 thì mức bồi thường đó có thể thường được áp dụng vì sự đòi hỏi của đương sự hầu như cao hơn mức đó. Còn vấn đề mà pháp luật phải đối diện là ai được bồi thường trong số những người sau: những người trực tiếp bị xâm hại, những người liên quan, những người thừa kế của những người này (Nguyễn Huy Đấu, Luật dân- sự tố- tụng Việt- Nam, Sài Gòn, 1962, tr. 46)
46
sinh ngoài ý chí của đương sự và có đối tượng là việc chuyển giao tài sản. Vì vậy quan hệ nghĩa vụ như vậy không phải là một quan hệ nhân thân mà là một quyền sản nghiệp hay quan hệ tài sản. Việc xâm phạm nhân thân chỉ là một căn cứ phát sinh ra nghĩa vụ.
Các luật gia theo hình mẫu pháp luật Pháp cho rằng, nghĩa vụ liên quan đến quyền sản nghiệp- mà ở đây sản nghiệp được xem là một tập hợp tài sản có và tài sản nợ thuộc về một người nhất định, có nghĩa là một tập hợp các quan hệ tài sản của một người89. Do đó trong định nghĩa của Vũ Văn Mẫu về nghĩa vụ nhắc tới đối tượng của nghĩa vụ là cung khoản có thể trị giá bằng tiền nhằm nhấn mạnh tới mối quan hệ về tài sản90. Cần hết sức lưu ý rằng: nếu quan niệm nghĩa vụ là quan hệ nhân thân, thì không thể chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ.
Có điểm khác biệt, Điều 399, Bộ luật Dân sự Nhật Bản 189691 qui định đối tượng của nghĩa vụ có thể là những gì không xác định được bằng tiền. Thực tiễn áp dụng điều khoản này đã diễn ra tại một phiên toà ở Tokyo khi giải quyết tranh chấp liên quan tới việc một cha cố cam kết rửa tội cho con chiên có phải là nghĩa vụ hay không. Nhiều luật gia Nhật Bản cho rằng, các hành vi không được trị giá thành tiền không nhất thiết thuộc phạm trù đạo đức. Vì vậy qua vụ việc này, Toà án đã thừa nhận sự tồn tại của nghĩa vụ nói trên92.
Luận giải về tính chất tài sản của nghĩa vụ, có quan điểm được ủng hộ nhiệt thành ở Việt Nam xác định các vật quyền được luật dân sự điều chỉnh ở trạng thái tĩnh; còn khi các tài sản đó được lưu thông, thì chúng được xác định ở trạng thái
89 Các nước theo Common Law cũng có quan niệm về sản nghiệp trong sự phân biệt với tài sản trong các vấn đề pháp lý về doanh nhgiệp, thừa kế, phá sản…, tuy nhiên không thật sự rõ rệt. Cũng như vậy pháp luật Việt Nam cũng có phân biệt sản nghiệp và tài sản trong nhiều vấn đề pháp lý tương tự thể hiện qua các đạo luật như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Phá sản 2004, Luật Doanh nghiệp 2005…, nhưng không rõ rệt và có phần làm xáo trộn các khái niệm này
90 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 13
91 Điều 399, Bộ luật Dân sự Nhật Bản qui định: “Một trái quyền có thể có, đối với đối tượng của nó, thậm chí một vài thứ không thể ước lượng được bằng tiền”.
92 Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 347
47
động- đó là nội dung của trái quyền hay nghĩa vụ dân sự93. Như vậy các quan hệ nghĩa vụ đều mang tính chất tài sản, có nghĩa là có thể trị giá bằng tiền. Tại đây đã xuất hiện một vấn đề về thuật ngữ là nên sử dụng thuật ngữ “tài sản” hay thuật ngữ “sản nghiệp” để chỉ tính chất của nghĩa vụ. Có lẽ thuật ngữ tài sản dễ bị nhầm lẫn, trong khi thuật ngữ sản nghiệp phản ánh được đầy đủ các khía cạnh của mối quan hệ này.
Hiện nay ở Việt Nam có một số luật gia còn đưa ra các quan niệm khác về đặc điểm của nghĩa vụ. Lê Nết cho rằng nghĩa vụ có bốn đặc điểm: (1) Nghĩa vụ là một ràng buộc pháp lý, phát sinh trên có sở thoả thuận hoặc luật định; (2) Quan hệ nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự tương đối; (3) Quan hệ nghĩa vụ là một quan hệ trái quyền; và (4) Có chế tài dân sự cụ thể kèm theo khi bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ94. Chưa đi sâu cũng có thể nói ngay đặc điểm thứ tư của nghĩa vụ theo quan niệm này không thật sự là một đặc điểm của nghĩa vụ vì bản thân nó bị bao hàm trong đặc điểm thứ nhất của nghĩa vụ theo quan niệm này. Chắc chắn phải hiểu rằng, nói tới sự ràng buộc pháp lý có nghĩa là nói tới sự cưỡng chế thi hành, và chế tài phải được nhắc đến trong sự cưỡng chế đó. Đặc điểm thứ ba của nghĩa vụ theo quan niệm này không phải là một đặc điểm của nghĩa vụ mà chính là sự mô tả quan hệ nghĩa vụ theo một cách thức khác bởi vì như trên đã phân tích quan hệ nghĩa vụ có thể gọi là quan hệ trái quyền. Đặc điểm thứ hai của nghĩa vụ theo quan niệm này được đặt tên không chuẩn xác vì quan hệ pháp luật dân sự tương đối là hệ quả của quyền đối nhân. Về đặc điểm này tác giả Lê Nết đã viết nguyên văn như sau:
“Quan hệ nghĩa vụ là một quan hệ pháp luật dân sự tương đối (tiếng latinh là in personam). Có nghĩa là, chỉ có bên có nghĩa vụ mới phải thực hiện công việc
93 Đào Trí Úc, Một số vấn đề cơ bản về Bộ luật Dân sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số chuyên đề 1997, tr.25
94 Nguyễn Xuân Quang- Lê Nết- Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007, tr. 277
48
đối với bên có quyền. Bên có quyền và bên có nghĩa vụ trong quan hệ này được được xác định”95.
Thuật ngữ in personam ở đây phải được dịch là đối nhân trong nghĩa đối lập với in rem là đối vật. Và hệ quả: quyền đối nhân là một quan hệ pháp luật dân sự tương đối; còn quyền đối vật là quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối. Phải nhắc thêm, sự lý giải về đặc điểm thứ nhất của nghĩa vụ mà tác giả Lê Nết đưa ra trong công trình nghiên cứu của mình là chưa thoả đáng bởi lẽ tác giả đã xuất phát từ
quan niệm cổ của các luật gia La Mã coi nguồn gốc của nghĩa vụ là sự thoả thuận (hợp đồng) hoặc luật định. Vai trò của ý chí đơn phương chưa được nhắc tới một cách có ý thức tại đó.
Mục 3.2
Nguồn gốc của nghĩa vụ và phân loại nghĩa vụ
I. Nguồn gốc của nghĩa vụ
Luật La Mã đã chỉ ra hai nguồn gốc căn bản của nghĩa vụ. Nói cách khác, nghĩa vụ phát sinh từ hai nguồn gốc. Thứ nhất, hành vi pháp lý hay hợp đồng (obligatio ex contractu), còn được gọi là nguyên nhân hợp pháp. Thứ hai, sự kiện pháp lý hay sự vi phạm (obligatio ex delicto), còn được gọi là nguyên nhân bất hợp pháp. Cách thức phân loại nguồn gốc của nghĩa vụ này đã ảnh hưởng tới các Bộ luật Dân sự của các nước thuộc Họ pháp luật La Mã- Đức.
Trước tiên cần tìm hiểu từ “nguồn gốc” để hiểu tại sao các luật gia Việt Nam trước kia thường sử dụng thuật ngữ “nguồn gốc của nghĩa vụ” mà không sử dụng thuật ngữ “căn cứ phát sinh nghĩa vụ” như Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 và các công trình nghiên cứu của các luật gia Việt Nam hiện nay thường sử dụng. Aristote (triết gia Hy Lạp cổ đại) cho rằng từ “nguyên nhân” dùng để chỉ nhiều ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn đối với chiếc giường thì “nguyên nhân mục đích” là
95 Nguyễn Xuân Quang- Lê Nết- Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007, tr. 277
49
sự nghỉ ngơi; “nguyên nhân tác thành” là người thợ mộc; “nguyên nhân thể chất” là gỗ; “nguyên nhân mô thể” là hình thức khiến đồ vật là cái giường khác với các loại đồ vật khác. Bởi vậy nói tới “nguồn gốc của nghĩa vụ” là nói tới nguyên nhân tác thành nên nghĩa vụ. Và thuật ngữ này được sử dụng trong Luật La Mã cổ đại96. Vậy việc sử dụng thuật ngữ nguồn gốc của nghĩa vụ gần gũi hơn với sự phân biệt giữa nghĩa vụ được tạo lập nên bởi ý chí của đương sự và nghĩa vụ được tạo lập nên bởi ý chí của nhà làm luật.
Tiếp nhận Luật La Mã, Bộ luật Dân sự Đức 1900 chia nguồn gốc của nghĩa vụ thành hai loại căn bản là hợp đồng và những nguồn gốc khác. Nguồn gốc thứ hai này được chia thành nhiều loại khác nhau như: vi phạm, chuẩn hợp đồng và thực hiện công việc không có uỷ quyền. Những nghĩa vụ phát sinh từ nguồn gốc thứ hai này được coi là những nghĩa vụ pháp định97. Pháp luật của Pháp quan niệm có năm nguồn gốc của nghĩa vụ là hợp đồng, vi phạm, chuẩn hợp đồng, chuẩn vi phạm và nghĩa vụ pháp định98. Quan niệm này giống với quan niệm của Bộ luật Justinian.
Nguồn gốc của nghĩa vụ được dùng làm một loại căn cứ để phân loại nghĩa vụ. Cách thức phân loại này thích hợp với pháp điển hoá. Về mặt khoa học, người ta có thể chia ra hai loại nghĩa vụ. Thứ nhất, nghĩa vụ hợp đồng được tạo nên bởi ý chí chung của các đương sự. Thứ hai, nghĩa vụ ngoài hợp đồng phát sinh ngoài ý chí của các đương sự. Loại nghĩa vụ này lại được phân thành hai loại: (1) Nghĩa vụ
phát sinh ra bởi sự kiện của người thụ trái như vi phạm và chuẩn vi phạm, có nghĩa là những hành động cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người thứ ba; và chuẩn hợp đồng, tức là có nghĩa vụ phát sinh như khi có một hợp đồng, nhưng thực tế không có hợp đồng; (2) Nghĩa vụ do luật định phát sinh ngoài những hành vi hay sự kiện của người thụ trái.
96 Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 47
97 Nigel Foster, German Law & Legal System, Blackstone Press Limited, London, 1993, p. 214. 98 Louis Bach, Droit Civil- Tome 1, 13e Édition, Sirey, p. 493
50
Bộ luật Dân sự của Pháp 1804, Bộ luật Dân sự Đức 1900 và các Bộ luật Dân sự của một số nước Châu Âu cùng ra đời trong kỷ nguyên của chủ nghĩa tự do cá nhân vô giới hạn. Do đó ở chúng diễn đạt tư tưởng hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào sự lựa chọn của cá nhân và các quyền tự do của cá nhân99. Chương trên đã nói rõ các Bộ luật Dân sự này được xây dựng trên nền tảng học thuyết tự do ý chí. Học thuyết này đã thống trị các luật gia Châu Âu và Hoa Kỳ suốt thế kỷ XIX với quan niệm cá nhân chỉ bị ràng buộc bởi ý chí của chính mình, vì thế đã dẫn tới một hệ quả vô cùng quan trọng là xem hợp đồng là nguồn gốc quan trọng nhất của nghĩa vụ100. Cho nên chế định này bao giờ cũng chiếm một vị trí lớn trong các Bộ luật Dân sự. Hợp đồng thường được giải thích trong các điều kiện của tự do ý chí. Bởi vậy ý chí được coi là căn bản của nghĩa vụ. Tuy nhiên, pháp luật cũng có thể đặt ra nghĩa vụ buộc cá nhân phải thi hành như đã nghiên cứu ở Chương trên. Từ đó, có thể thấy ngoài nguồn gốc hợp đồng của nghĩa vụ, các nguồn gốc khác của nghĩa vụ đều do luật định, nên việc chia chúng thành vi phạm, chuẩn vi phạm, chuẩn hợp đồng và nghĩa vụ pháp định không thật xác đáng về mặt học thuật. Ngoài ra, còn phải thấy ý chí đơn phương cũng là một nguồn gốc quan trọng làm phát sinh nghĩa vụ.
Ngày nay người ta phân loại các nguồn gốc của nghĩa vụ thành: (1) Hành vi pháp lý (juridical acts), hay còn gọi là giao dịch pháp lý101; và (2) sự kiện pháp lý (juridical facts). Cần lưu ý: Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 tại Chương VI không sử dụng thuật ngữ “hành vi pháp lý” hay “giao dịch pháp lý” để chỉ hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, mà sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” để chỉ
chung hai loại hành vi này. Việc sử dụng thuật ngữ “giao dịch dân sự” trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 là chưa chuẩn xác bởi lẽ người ta thường sử dụng
99 Nigel Foster, German Law & Legal System, Blackstone Press Limited, London, 1993 100 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, p.5 101 Lưu ý trong cuộc sống thường nhật, mọi người thường sử dụng từ “giao dịch” để diễn đạt sự giao tiếp, trao đổi với nhau về một vấn đề gì đó. Nhiều khi họ thường thêm tính từ vào đó để phân biệt loại giao tiếp hay trao đổi về vấn đề này với giao tiếp hay trao đổi vấn đề khác (ví dụ như “giao dịch thương mại”, “giao dịch kinh doanh”, “giao dịch buôn bán”… Nhưng trong lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “giao dịch” chỉ một nguyên nhân làm phát sinh ra hậu quả pháp lý. Nên thuật ngữ “giao dịch pháp lý” được dùng ở đây để phân biệt giữa giao dịch với tính cách là một thuật ngữ pháp lý với một từ ngữ đời thường.
51
thuật ngữ “giao dịch dân sự” hay “hành vi dân sự” để phân biệt với “giao dịch thương mại” hay “hành vi thương mại” trong khi đó Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 áp dụng cho cả quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động (Điều 1, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005). Phải thấy rằng ở những nước có sự phân biệt giữa luật dân sự và luật thương mại, và pháp điển hoá luật dân sự và luật thương mại một cách riêng rẽ, thì đạo luật về dân sự vẫn là nền tảng của hệ thống luật tư và vẫn được áp dụng cho các quan hệ thương mại khi luật thương mại không có giải pháp. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 qui định các nguồn gốc của nghĩa vụ tại Điều 281. Tuy nhiên tại điều luật này cần lược bỏ từ “dân sự” ra khỏi các thuật ngữ “nghĩa vụ dân sự” và “hợp đồng dân sự” bởi vì như trên đã nói phần nghĩa vụ trong bất kể bộ luật dân sự nào cũng đều được sử dụng chung cho các quan hệ dân sự và quan hệ thương mại; và không chỉ “hợp đồng dân sự” mới làm phát sinh nghĩa vụ. Các Bộ luật Dân sự của nhiều nước trên thế giới dùng các thuật ngữ “nghĩa vụ”, “hợp đồng” mà không thêm từ “dân sự” vào đó đều không xảy ra câu chuyện xáo trộn hay hiểu nhầm trong hệ thống pháp luật
của họ. Có thể có ý kiến cho rằng từ “dân sự” thêm vào thuật ngữ “nghĩa vụ” để phân biệt giữa “nghĩa vụ dân sự” và “nghĩa vụ tự nhiên”. Song câu chuyện không hẳn như vậy bởi trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 từ “dân sự” cũng được thêm vào thuật ngữ “hợp đồng” trong khi đó người ta không có khái niệm “hợp đồng tự nhiên”, mà người ta chỉ làm như vậy để phân biệt “hợp đồng dân sự” với “hợp đồng thương mại”.
Nhiều luật gia Nhật Bản khi trao đổi về chuyên môn với các luật gia Việt Nam thông qua dự án JICA cho rằng: (1) Trong đời sống của con người, pháp luật không cần thiết can thiệp vào mọi quan hệ, mọi hành vi, tuy nhiên, mặt khác, cần can thiệp để ngăn cấm, hoặc bảo vệ và hỗ trợ cho các quan hệ của con người trong đời sống xã hội; (2) pháp luật thường can thiệp bằng các qui định theo kiểu “khi có một điều kiện xác định, thì một hậu quả xác định kéo theo” (các điều kiện đó gọi là điều kiện pháp lý, và hậu quả đó gọi là hậu quả pháp lý); (3) các điều kiện có thể bao gồm hành vi của con người, sự kiện, và thời hiệu). Họ chia hành vi pháp lý
52
thành ba loại căn cứ vào số lượng người tuyên bố ý chí: hành vi đơn phương (individual act), hợp đồng, và hành vi tập thể (joint act). Hợp đồng và hành vi tập thể được họ phân biệt bằng sự tuyên bố ý chí đối lập của hai hay nhiều người (hợp đồng) và bằng sự tuyên bố ý chí hướng tới một mục đích (hành vi tập thể)102. Có thể thấy sự phân loại này không thật chính xác ngay từ căn cứ phân loại (có nghĩa là căn cứ vào số lượng người tuyên bố ý chí) bởi đối với hợp đồng và hành vi tập thể thì đều có hai hoặc nhiều người cùng tuyên bố ý chí. “Giáo trình luật dân sự Việt Nam” của Học viện Tư pháp đã có đôi điều bình luận về sự phân biệt giữa hợp đồng và hành vi tập thể, tuy quan điểm của người phân biệt và quan điểm của người bình luận không có sự phân tách rõ ràng, khó xác định đâu là quan điểm của của người phân biệt và đâu là quan điểm của người bình luận. Cũng có ý niệm về hành vi tập thể, Xaca Vacaxum và Tori Aridumi trong khi bình luận Bộ luật Dân sự Nhật Bản 1896 cho rằng còn một loại hành vi nữa gần với hợp đồng, đồng thời cũng gần với hành vi tập thể. Hành vi loại này (ví dụ thoả ước lao động tập thể) xét dưới giác độ ký kết thì gần với hợp đồng, còn xét về hậu quả pháp lý thì gần gũi hơn với các giao dịch tập thể103. Vậy có thể nói dường như hai học giả này chia hành vi pháp lý thành bốn loại: hành vi pháp lý đơn phương, hợp đồng, hành vi tập thể, và “hành vi lưỡng tính”104.
Tiếp cận theo cách thức mới với tầm khái quát cao, Bộ luật Dân sự Liên bang Nga 1994 chia các nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ thành ba loại tại Điều 307, khoản 2 như sau: “Các nghĩa vụ phát sinh từ sự thoả thuận, từ sự gây thiệt hại, hoặc theo các căn cứ khác được qui định tại Bộ luật này”. Trong khi đó Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 lại liệt kê chi tiết các nguồn gốc của nghĩa vụ như sau:
“Nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các căn cứ sau đây:
1. Hợp đồng dân sự;
102 Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh- Việt, pp. 110- 111
103 Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 117- 118
104 Lưu ý “hành vi lưỡng tính” là tên do tôi (Ngô Huy Cương) đặt cho loại hành vi theo quan điểm của Xaca Vacaxum và Tori Aridumi để tạo thuận lợi cho việc bình luận và trao đổi
53
2. Hành vi pháp lý đơn phương;
3. Thực hiện công việc không có uỷ quyền;
4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật;
5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
6. Những căn cứ khác do pháp luật qui định” (Điều 281).
Điều luật này cho thấy sự thiếu nhất quán trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005. Một mặt, Bộ luật này qui định điều tiết cả các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động (Điều 1); nhưng mặt khác, lại vẫn phân biệt giữa hợp đồng dân sự với các loại hợp đồng khác, trong khi đó đối với hành vi pháp lý đơn phương lại không có sự phân biệt giữa “hành vi pháp lý đơn phương dân sự” và “hành vi pháp lý đơn phương thương mại”, và cũng không có sự phân biệt giữa dân sự với thương mại đối với các căn cứ phát sinh nghĩa vụ khác. Thực ra nghiên cứu nguồn gốc của nghĩa vụ hay căn cứ phát sinh nghĩa vụ là nghiên cứu có tính chất chung cho cả quan hệ có tính chất dân sự và quan hệ có tính chất thương mại. Suy cho cùng luật thương mại là một nhánh của luật nghĩa vụ. Nói cách khác luật nghĩa vụ là nền tảng của luật thương mại bởi luật thương mại thường được định nghĩa là một ngành luật tư điều tiết các quan hệ của các thương nhân hay hành vi thương mại, mà hành vi thương mại thực sự là hành vi pháp lý có tính chất thương mại. Giả sử bỗng một hôm nào đó có một quyết định hợp nhất luật dân sự và luật thương mại để qui định trong một đạo luật, thì cái gọi là luật thương mại như người ta vẫn thường quan niệm sẽ nằm gọn trong phần nói về nghĩa vụ của đạo luật đó.
Nhân đây cần lưu ý: Luật Thương mại Việt Nam 1997 sử dụng thuật ngữ “hành vi thương mại” phù hợp với truyền thống của pháp luật Việt Nam và cũng phù hợp với hệ thống thuật ngữ pháp lý của Việt Nam. Nhưng đáng tiếc, Luật Thương mại Việt Nam 2005 đã sử dụng thuật ngữ “hoạt động thương mại” thay cho thuật ngữ “hành vi thương mại”. Do đó nhiều người đã chưa hiểu hết cái gọi là “hoạt động thương mại” chính là “hành vi thương mại” mà nó cũng phải chịu sự
54
điều tiết chung của các qui định về hành vi pháp lý hay cái gọi là giao dịch dân sự của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005.
Đạo luật thương mại mới này (với một kỹ thuật viết luật lạ lùng) qui định tại Điều 1, khoản 1 như sau: “1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đoạn trích dẫn này khiến chúng ta không hiểu nổi nó nói gì hay qui định về cái gì, bởi người làm luật đã biến tiểu đề của điều luật thành nội dung của điều luật. Vậy là từ nay trở đi khi cần trích dẫn một khoản cũng không được mà phải trích dẫn cả tiểu đề105 của điều luật như sau:
“Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Trích dẫn như trên giúp chúng ta hiểu (nhưng không biết có đúng ý của nhà làm luật không!?) rằng Đạo luật thương mại này điều tiết hoạt động thương mại (ở đây nhớ phải ngầm hiểu là “hành vi thương mại”).
Cách viết luật này nguy hiểm đối với những qui định cấm. Đôi khi người ta không biết cấm hay cho phép nếu không có sự giải thích theo logic của cả điều luật hoặc thậm chí của cả đạo luật. Điều đó cũng có nghĩa là các qui định cấm trong đạo luật mới này không rõ ràng. Chẳng hạn Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam qui định:
“Điều 11. Các hành vi bị cấm
1. Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho người không đủ điều kiện hoặc từ chối cấp Giấy chứng nhận đăng lý kinh doanh cho người đủ điều kiện theo qui định của Luật này; gây chậm trễ, phiền hà, cản trở, sách nhiễu người yêu cầu đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà không đăng ký kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh khi đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
105 Thông thường tiểu đề hay tên gọi của điều luật được sử dụng để tra cứu, chứ không phải là nội dung của điều luật.
55
3. Kê khai không trung thực, không chính xác nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh; kê khai không trung thực, không chính xác, không kịp thời những thay đổi trong nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh.
4. Kê khai khống vốn đăng ký, không góp đủ và đúng hạn số vốn như đã đăng ký; cố ý định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị thực tế. 5. Hoạt động trái pháp luật, lừa đảo; kinh doanh các ngành, nghề cấm kinh doanh.
6. Kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật.
7. Ngăn cản chủ sở hữu, thành viên, cổ đông của doanh nghiệp thực hiện các quyền theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
8. Các hành vi bị cấm khác theo qui định của pháp luật”.
Thôi thì với điều luật được viết như trên, người có học thông cảm cho nhà làm luật, nên cứ tự tiện thêm vào trước mỗi khoản một chữ “cấm”, và sau mỗi dấu chấm phẩy (;) cũng một chữ “cấm”. Nhưng đối với khoản 8 của điều luật này thì thêm chữ gì? hay là không thêm? Thôi đành cứ tự tiện không thêm chữ gì cả, bởi thêm vào lập tức làm xáo trộn cả hệ thống văn bản pháp luật. Nếu thêm chữ “cấm” vào khoản 8 này thì câu văn sẽ thành như sau: “Cấm các hành vi bị cấm khác theo qui định của pháp luật”. Vài năm gần đây Quốc hội đã thông qua rất nhiều các đạo luật có cách viết như vậy.
Điều 281, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 đã dẫn ở trên cho thấy nhà làm luật đã phân biệt rõ ràng giữa hành vi pháp lý đơn phương và thực hiện công việc không có uỷ quyền, trong khi đó lại không có giải thích cho sự khác nhau giữa chúng và cũng không có một chương hay một mục nào qui định riêng cho hành vi pháp lý đơn phương, mà lại có một chương riêng qui định về thực hiện công việc không có uỷ quyền (Chương XIX, từ Điều 594 đến Điều 598). Vì vậy các học giả Việt Nam buộc phải đưa ra sự phân biệt mà không biết đúng hay sai. Điển hình “Giáo trình luật dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội giải nghĩa: “Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên
56
nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”106, rồi tiến tới phân biệt như sau:
“Nhìn vào hình thức thì thực hiện công việc không có uỷ quyền giống như hành vi pháp lý đơn phương. Tuy nhiên, đối với hành vi pháp lý đơn phương thì chưa xác định được chủ thể bên kia và có thể không hình thành quan hệ nghĩa vụ. Nhưng thực hiện công việc của người khác107 bao giờ cũng phát sinh quan hệ
nghĩa vụ đối với các chủ thể được xác định”108.
Hai đoạn văn trích dẫn này của cùng một giáo trình nhưng mâu thuẫn với nhau. Đoạn trích dẫn thứ nhất cho thấy bất kể việc tuyên bố ý chí đơn phương nào mà tạo lập ra một hậu quả pháp lý đều được xem là hành vi pháp lý đơn phương. Đoạn trích dẫn thứ hai lại cho thấy một sự tuyên bố ý chí đơn phương chỉ được xem là hành vi pháp lý đơn phương khi hội đủ hai điều kiện là: (1) chưa xác định được dứt khoát chủ thể bên kia; và (2) có thể không hình thành quan hệ nghĩa vụ. Chưa bàn đến sự đúng sai của hai quan niệm này, nhưng có thể nói đây chính là một khiếm khuyết của việc nhiều người cùng viết chung một giáo trình109.
Quan điểm về sự phân biệt giữa hành vi pháp lý đơn phương và thực hiện công việc không có uỷ quyền của đoạn văn thứ hai này cần phải được nghiên cứu bằng cách xem xét hành vi pháp lý đơn phương là gì. Tuy nhiên phải nói ngay, nếu không có sự phân biệt như trên thì việc nghiên cứu hành vi pháp lý đơn phương lúc nào cũng rất cần thiết trong các công trình nghiên cứu tổng quát về
hợp đồng bởi lẽ chính nó có tác dụng quan trọng trong việc hiểu biết sâu sắc về đề nghị giao kết hợp đồng vì chính đề nghị giao kết hợp đồng là một hành vi pháp lý đơn phương.
106 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 141
107 Đoạn văn này được viết trong mục “Thực hiện công việc không có uỷ quyền”, nên sự diễn đạt “ thực hiện công việc của người khác” chính là sự diễn đạt thực hiện công việc không có uỷ quyền 108 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam- Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 20
109 Giáo trình này cho biết: Đoạn văn thứ nhất là của TS. Bùi Đăng Hiếu và ThS. Kiều Thị Thanh; còn đoạn văn thứ hai của TS. Phạm Văn Tuyết
57
Trong một công trình nổi tiếng giới thiệu về luật tư của Québec (Canada), John E.C. Brierley và Roderick A. Macdonald khẳng định: luật tư của xứ sở này qui định cam kết đơn phương (hành vi pháp lý đơn phương) cho phép một người xác lập một hậu quả pháp lý, và bao gồm di chúc, thừa nhận cha đối với con, từ bỏ
quyền thừa kế, khước từ chính thức một vật quyền, quyền chuộc lại trong hợp đồng mua bán, quyền chọn trong nghĩa vụ lựa chọn, phê chuẩn hợp đồng của vị thành niên, thực hiện công việc không có uỷ quyền, xác nhận lại một hợp đồng vô hiệu. Các hành vi pháp lý đơn phương không phụ thuộc vào một chế độ pháp lý đồng nhất. Dù vậy chúng vẫn mang đến một hiệu lực pháp lý bắt buộc110. Vì không thể thiết lập một qui chế pháp lý chung cho hành vi pháp lý đơn phương bởi tính phong phú của nó, nên các Bộ luật Dân sự vẫn phải thiết lập các qui chế pháp lý khác nhau cho từng nguồn gốc của nghĩa vụ theo cách thức của Luật La Mã. Điều này lý giải cho việc tại sao không có một phần riêng hay một chương riêng cho hành vi pháp lý đơn phương trong các Bộ luật Dân sự, trong khi Bộ luật Dân sự nào cũng có phần riêng hay chương riêng dành cho hợp đồng. Điều này cũng cho thấy khó có thể xây dựng một lý thuyết chung cho hành vi pháp lý đơn phương giống như lý thuyết chung cho hợp đồng. Vậy xét cho cùng, bằng ý muốn của chính bản thân mình (tự nguyện), một người tạo lập ra một hậu quả pháp lý thì được xem là hành vi pháp lý đơn phương. Nên thực hiện công việc không có uỷ quyền là việc một người tự nguyện gánh vác công việc của người khác mà anh ta không có nghĩa vụ như vậy và làm phát sinh ra một hậu quả pháp lý, mà theo pháp luật Việt Nam bao gồm:
(1) Đối với người thực hiện: phải thực hiện công việc phù hợp với khả năng điều kiện của mình, như công việc của chính mình, phù hợp với ý định của người có công việc (nếu biết hoặc đoán trước được ý định của người đó); phải thông báo cho người có công việc về việc thực hiện công việc nếu có yêu cầu; phải tiếp tục thực hiện công việc trong trường hợp người có công việc chết cho đến khi có sự
110 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 429
58
tiếp nhận của người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc; phải thông báo cho người có công việc, hoặc người đại diện hay người thân thích của người có công việc, hoặc có thể nhờ người khác thực hiện nếu không thể đảm nhận công việc (Điều 595, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005);
(2) Đối với người có công việc: phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện bàn giao; phải thanh toán chi phí hợp lý cho người thực hiện kể cả trong trường hợp kết quả công việc không đạt như mong muốn; phải trả thù lao cho người thực hiện khi công việc được thực hiện chu đáo, có lợi cho người có công việc (Điều 596, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005).
Trong pháp luật của Pháp thực hiện công việc không có uỷ quyền (gestion d’affaires) hay phê chuẩn việc thực hiện công việc không có uỷ quyền (la ratification de la gestion d’affaires) được xem là hành vi pháp lý đơn phương. Theo Boris Starck hành vi pháp lý đơn phương không đòi hỏi thống nhất về mặt ý chí (ví dụ việc thừa nhận một đứa con ngoài giá thú, không cần thiết sự đồng ý của người con), nên bao gồm: di chúc, tuyên bố nhận thừa kế, từ bỏ một dịch quyền, xác nhận hành vi pháp lý vô hiệu, dừng hợp đồng thuê, đơn phương huỷ bỏ hợp đồng lao động, đề nghị giao kết hợp đồng, hứa thưởng, thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên111… Giải thích thuật ngữ phê chuẩn trong luật dân sự, một cuốn từ điển đối chiếu và giải thích thuật ngữ pháp lý Việt- Pháp cũ nói:
“Về Dân luật, phê chuẩn là một hành vi đơn phương do đó một người nhận mọi quyền lợi và chịu mọi nghĩa vụ về một việc gì được một người khác tuy không được uỷ quyền mà nhân danh mình đã làm.
Thí dụ: quản lý sự vụ112 hay những hành vi mà người được uỷ quyền đã làm ngoài phạm vi khế ước uỷ quyền”113.
Qua các lược khảo trên có thể nói: trong các hệ thống pháp luật của Pháp, Québec (Canada), Việt Nam trước kia (theo truyền thống Pháp) đều nhận định
111 Boris Starck, Droit Civil, Obligations, 2. Contrat, Troisième édition, Litec, 1989, pp. 16- 17 112 Lưu ý: Từ điển “Danh- từ pháp- luật lược- giải” của Trần Thúc Linh gọi thực hiện công việc không có uỷ quyền là quản lý sự vụ
113 Trần Thúc Linh, Danh- từ pháp- luật lược- giải, Nhà sách Khai trí, Sài Gòn
59
thực hiện công việc không có uỷ quyền hay quản lý sự vụ là một hành vi pháp lý đơn phương. Các nhà làm luật của ta và “Giáo trình luật dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra sự phân biệt không mấy thuyết phục giữa hành vi pháp lý đơn phương và thực hiện công việc không có uỷ quyền. Có lẽ sự
không thuyết phục là ở chỗ họ và cái giáo trình đó đã lồng ghép hai cách phân loại nguồn gốc của nghĩa vụ khác nhau vào làm một (được thể hiện trong Điều 281, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005): Một cách phân loại theo hợp đồng và ngoài hợp đồng; và cách kia theo ý chí và ngoài ý chí. Bộ luật Dân sự Pháp 1804 đã không nhầm lẫn như vậy và đã thiết kế các qui định theo cách phân loại thứ nhất thể hiện cụ thể ở Quyển thứ ba (Các phương thức khác nhau thủ đắc quyền sở hữu), Thiên III (Hợp đồng hay nghĩa vụ hợp ước nói chung) và Thiên IV (Ước định tạo lập ngoài hợp ước).
Mục đích của nghĩa vụ phải tuân thủ một số các điều kiện nhất định như tính hợp pháp, tính có thể thực hiện được và tính có thể xác định được. Đáng lưu ý rằng, trong tính hợp pháp của mục đích chuyển giao vật quyền, các bên không được thiết lập những vật quyền khác hơn các vật quyền do pháp luật qui định. Ở
bên trên chúng ta đã bàn rằng, các quyền đối vật là các quyền bị giới hạn bởi pháp luật. Nói cách khác, chỉ pháp luật mới được thiết lập các vật quyền. Do đó việc thiết lập các vật quyền khác với các qui định của pháp luật bị coi là bất hợp pháp. Pháp luật ở các nước đều xác định các vật quyền theo truyền thống Luật La Mã và đều không cho phép các chủ thể của nghĩa vụ tự ý thiết lập các vật quyền. Chẳng hạn Điều 175 của Bộ luật Dân sự Nhật Bản 1896 qui định: “Không một vật quyền nào có thể được tạo lập khác hơn những vật quyền được qui định trong Bộ luật này hoặc trong những đạo luật khác”. Truyền thống Common Law có quan niệm khác hơn về việc tạo lập vật quyền. Nhưng Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 không đưa ra khái niệm về vật quyền, nhưng cũng có lướt qua cách phân loại vật quyền phỏng theo Luật La Mã cổ đại. Bộ luật này qui định:
“Điều 173. Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản
60
1. Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo qui định của pháp luật.
2. Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản bao gồm: a) Quyền sử dụng đất;
b) Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề;
c) Các quyền khác theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp luật. 3. Việc chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu tài sản cho người khác không phải là căn cứ để chấm dứt các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản đó qui định tại khoản 2 Điều này.
4. Các quyền đối với tài sản của người không phải là chủ sở hữu được bảo vệ theo qui định tại Điều 261 của Bộ luật này.
5 Các quyền của người không phải là chỉ sở hữu đối với tài sản phải đăng ký bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo thoả thuận và các quyền khác theo qui định của pháp luật”.
Xét về mặt khoa học, Bộ luật này chỉ qui định khoảng chín vật quyền. Đó là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền địa dịch, quyền cầm cố, quyền thế chấp, quyền sử dụng đất, quyền thuê dài hạn, quyền lưu cư. Từ đây có thể suy luận theo hai phương hướng: (1) hoặc Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005
không cấm việc sáng tạo ra các vật quyền từ những chủ thể của nghĩa vụ; (2) hoặc Bộ luật này chỉ xác định chín vật quyền đã nói. Nếu theo phương hướng thứ nhất, thì quyền sở hữu không thể là một quyền chắc chắn. Còn nếu theo phương hướng thứ hai, thì các giao lưu dân sự bị bó hẹp. Tuy nhiên các quyền luôn luôn gắn với sự phát triển kinh tế, xã hội như một qui luật. Nên các chủ thể của nghĩa vụ vẫn luôn tìm cách xác lập chúng. Vì vậy, như cách qui định của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 hiện nay, và trong điều kiện chưa sử dụng án lệ, quyền sở hữu- một vật quyền thống trị- sẽ không còn là một quyền chắc chắn, trong khi xã hội hiện đại luôn luôn đòi hỏi bảo vệ nó, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ các vật quyền khác (dịch quyền) luôn luôn gây ảnh hưởng tới quyền sở hữu, nên việc tự
61
do sáng tạo ra chúng là hành vi nằm ngoài sự bảo đảm của pháp luật đối với quyền sở hữu. Còn đặc tính có thể xác định được không có nghĩa là chỉ cho phép chuyển giao những tài sản hiện có, mà có thể chuyển giao những tài sản sẽ có trong tương lai, nhưng có thể có căn cứ để tin rằng chúng sẽ trở thành hiện thực.
II. Phân loại nghĩa vụ
Đối với nghĩa vụ, có nhiều cách phân loại khác nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Những cách phân loại tinh tế nhất được tìm thấy trong luật nghĩa vụ. Tuy nhiên có những cách phân loại được đưa vào các đạo luật. Trong khi đó còn nhiều cách phân loại khác được phát triển bởi thực tiễn tư pháp và thông qua nghiên cứu chưa được phản ánh trong các đạo luật. Theo John E.C. Brierley và Roderick A. Macdonald cho rằng những cách phân loại này được phát triển trong suốt thế kỷ XX và đã trở thành những phương tiện cho cải cách pháp luật114. Phân loại là phần cốt yếu của khoa học pháp lý. Dựa vào từng phân loại, người ta có thể
xây dựng các qui chế pháp lý khác nhau, đưa ra các giải pháp khác nhau cho các trường hợp thực tiễn. Do đó khi thực tiễn xảy ra tình huống mà nhà làm luật không dự liệu trước được thì người ta lại tìm cách phân loại để tìm ra giải pháp cho tình huống thực tiễn đó.
Các căn cứ để phân loại thường thấy trong luật nghĩa vụ bao gồm: (1) Hiệu lực; (2) nguồn gốc; (3) đối tượng, và (4) “mức độ”115. Ngoài ra còn nhiều căn cứ phân loại khác như chế tài, phương thức…
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 đã sử dụng phân loại nghĩa vụ để thiết lập các qui chế khác nhau cho việc thực hiện đối với mỗi loại nghĩa vụ. Ý tưởng này đã được thể hiện trong Mục 2, Chương XVII, Phần thứ ba của Bộ luật này. Có lẽ dựa vào các căn cứ khác nhau, tuy không nêu rõ trong Bộ luật, nhà làm luật hiện nay của Việt Nam đã phân chia nghĩa vụ thành nhiều loại khác nhau như: (1)
114 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 381
115 Lưu ý: Việc sử dụng thuật ngữ “mức độ” ở đây chưa thật sự chính xác. Tuy nhiên thuật ngữ này sẽ được giải thích sau. “Mức độ” được dịch từ thuật ngữ “intensity” (tiếng Anh)
62
Nghĩa vụ giao vật (Điều 289); (2) nghĩa vụ trả tiền (Điều 290); (3) nghĩa vụ thực hiện một công việc (Điều 291); (4) nghĩa vụ không được thực hiện một công việc (Điều 291); (5) nghĩa vụ định kỳ (Điều 292); (6) nghĩa vụ có điều kiện (Điều 294); (7) nghĩa vụ có đối tượng tuỳ ý lựa chọn (Điều 295); (8) nghĩa vụ thay thế được (Điều 296); (9) nghĩa vụ riêng rẽ (Điều 297); (10) nghĩa vụ liên đới (Điều 298); (11) nghĩa vụ phân chia được theo phần (Điều 300); (12) nghĩa vụ không phân chia được theo phần (Điều 301); và (13) nghĩa vụ hoàn lại (Điều 298).
Đặc biệt, mặc dù không thật rõ ràng, Luật Thương mại Việt Nam 2005 có sự phân chia nghĩa vụ thành nghĩa vụ mẫn cán trung thực116 (còn được gọi là nghĩa vụ cấp phương tiện hay nghĩa vụ cần mẫn tổng quát) và nghĩa vụ thành quả với nội dung như sau:
“Điều 79. Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ theo kết quả công việc Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải đạt được một kết quả nhất định thì bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với các điều khoản và mục đích của hợp đồng. Trong trường hợp hợp đồng không có qui định cụ thể về tiêu chuẩn kết quả cần đạt được, bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện việc cung ứng dịch vụ với kết quả phù hợp với tiêu chuẩn thông thường của loại dịch vụ đó.
Điều 80. Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ theo nỗ lực và khả năng cao nhất
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, nếu tính chất của loại dịch vụ được cung ứng yêu cầu bên cung ứng dịch vụ phải nỗ lực cao nhất để đạt được kết quả mong muốn thì bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện nghĩa vụ cung ứng dịch vụ đó với nỗ lực và khả năng cao nhất”.
Cách phân loại nghĩa vụ này chưa được đề cập cụ thể trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005. Vì vậy khi nghiên cứu về phân loại nghĩa vụ, không nên chỉ dừng
lại ở các cách thức phân loại nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, mà phải
116 Vũ Văn Mẫu gọi loại nghĩa vụ này là nghĩa vụ cần mẫn tổng quát
63
nghiên cứu việc phân loại chúng trong cả các văn bản pháp luật khác, và trong thực tiễn tư pháp, cũng như trong các công trình nghiên cứu.
Trong khi các văn bản pháp luật của Việt Nam phân loại nghĩa vụ tương đối đầy đủ như các Đạo luật của nhiều nước trên thế giới, thì các giáo trình giảng giải về các văn bản này lại đưa ra một cách thiếu thốn các phân loại nghĩa vụ. “Giáo trình luật dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội chỉ nói tới việc chia nghĩa vụ thành: “nghĩa vụ dân sự riêng rẽ”, “nghĩa vụ dân sự liên đới”, “nghĩa vụ dân sự được phân chia theo phần”, “nghĩa vụ hoàn lại”, “nghĩa vụ bổ
sung”117. “Giáo trình luật dân sự” của Học viện Tư pháp cũng đưa ra các phân loại tương tự như giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội118. Khá giản lược, Lê Nết trong cuốn “Luật dân sự Việt Nam” chỉ phân loại nghĩa vụ thành “nghĩa vụ riêng rẽ”, “nghĩa vụ liên đới”, “nghĩa vụ bổ sung”, và “nghĩa vụ hoàn lại”. Đặc biệt tác giả này còn nhấn mạnh: “Để phân tích cách thức thực hiện nghĩa vụ, người ta phân loại nghĩa vụ theo nhiều cách thức khác nhau”. Tiếp đó ông nhận định: “Ứng với mỗi loại nghĩa vụ có cách thực hiện khác nhau”, rồi đưa ra lời khuyên: “Vì vậy một khi đã phân tích các loại nghĩa vụ, thì người đọc cũng phải tham khảo phần “thực hiện nghĩa vụ””119. Vậy đối với Lê Nết phân loại nghĩa vụ chỉ có tác động tới việc thực hiện nghĩa vụ?
1. Phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực
Cách phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực rất gần gũi với truyền thống pháp luật Việt Nam và cũng gần gũi với một số luật gia hiện nay ở Việt Nam. Ở trên đã phân tích thuật ngữ nghĩa vụ hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự mà trong đó nghĩa vụ tự nhiên không thể mang tố tụng trước toà án. Điều đó có nghĩa là nghĩa vụ được thừa nhận về mặt pháp lý rất rộng. Song
nhiều trong số chúng không bị phụ thuộc và một chế độ pháp lý nhất định. Vì vậy
117 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam- Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr. 27- 35
118 Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự, Nxb Công an Nhân dân, 2007, tr. 274- 284 119 Nguyễn Xuân Quang- Lê Nết- Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007, tr. 282- 287
64
nhiều luật gia đã đưa ra cách phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ đạo đức, nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự (nghĩa vụ dân sự đôi khi được gọi là nghĩa vụ pháp lý120). Cách phân loại này hoàn toàn không xa lạ với pháp luật Việt Nam vì các Bộ luật Dân sự của các chế độ cũ đã thể hiện cách phân loại như vậy121. Trong số các nghĩa vụ này chỉ có nghĩa vụ dân sự mới có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên các loại nghĩa vụ khác có những ý nghĩa nhất định, nhất là trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên trong quan hệ nghĩa vụ.
Nghĩa vụ đạo đức không có hiệu lực pháp lý mà chỉ đơn thuần là nghĩa vụ lương tâm. Chẳng hạn một người làm từ thiện đóng góp tiền nuôi những đứa trẻ mồ côi. Khoản tiền đóng góp hay thời gian đóng góp hoặc chính sự đóng góp phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và lòng hảo tâm của người làm từ thiện.
Các luật gia La Mã còn đưa ra một loại nghĩa vụ nằm giữa loại nghĩa vụ dân sự và nghĩa vụ đạo đức- đó là nghĩa vụ tự nhiên. Mặc dù không có định nghĩa chính thức về loại nghĩa vụ này, nhưng để phân biệt nó với các loại nghĩa vụ khác, người ta chia nghĩa vụ tự nhiên thành hai loại:
Loại thứ nhất là các nghĩa vụ ban đầu là nghĩa vụ dân sự, sau đó trở thành nghĩa vụ tự nhiên (có nghĩa là trở nên không có hiệu lực pháp lý nữa). Chẳng hạn nghĩa vụ chi trả một khoản nợ đã hết thời hiệu hay nghĩa vụ của người vỡ nợ được giải phóng.
Loại thứ hai là những nghĩa vụ đạo đức đúng đắn đặc biệt rõ ràng và thúc buộc. Chẳng hạn nghĩa vụ trợ giúp những người nghèo khó trong gia đình, hoặc bù
120 Sử dụng thuật ngữ “nghĩa vụ pháp lý” là thoả đáng đối với cách phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực, nhưng nó dễ bị nhầm lẫn với “nghĩa vụ pháp định” mà tiếng Pháp gọi là “obligation légale” với tính cách là một nguồn gốc của nghĩa vụ. Vũ Văn Mẫu phê bình thuật ngữ nghĩa vụ pháp định không chính xác, bởi các loại nghĩa vụ phát sinh ngoài ý chí của đương sự (nếu chia theo nguồn gốc) đều có thể gọi là nghĩa vụ pháp định vì chỉ có pháp luật mới có thể thừa nhận hiệu lực thúc buộc của nghĩa vụ khi người thụ trái không tự nguyện thi hành nghĩa vụ. Nói cách khác, thuật ngữ nghĩa vụ pháp định phải được dùng cho các nghĩa vụ dân sự pham, chuẩn dân sự phạm và nghĩa vụ chuẩn khế ước (Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 25) 121 Chương 1 của Giáo trình này đã dẫn một số điều khoản của Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 và Bộ luật Dân sự 1972 của Việt Nam Công hoà
65
đắp những thiệt hại gây ra mà không có lỗi về mặt pháp lý, hoặc thực hiện những dịch vụ đã cam kết mà thiếu nguyên nhân hay nghĩa vụ đối ứng có giá trị122. Ngày nay khi nói câu chuyện này với các luật gia mới ở Việt Nam, người ta có cảm giác dường như họ tiếp nhận một cách thờ ơ, có lẽ không chỉ bởi họ cho rằng văn bản pháp luật không qui định nên nằm ngoài tầm quan tâm của người học luật, mà họ còn cho rằng đây là một câu chuyện lý thuyết xa xôi, thiếu thực tiễn. Nhưng vấn đề không hẳn như vậy. Có một thực tế mà không ai có thể phủ nhận đó là luật dân sự luôn luôn gắn bó với đời sống thường nhật của con người (có nghĩa là luật dân sự điều chỉnh các quan hệ thường nhật của con người đối với nhau, và đối với vật) và cuộc sống thường nhật thì luôn luôn biến động, nhiều vấn đề mới nảy sinh từng ngày, trong khi nhà làm luật lại không thể dự liệu hết các trường hợp có thể xảy ra trong đời sống thường nhật đó, nhưng các tranh chấp thì vẫn luôn luôn cần được giải quyết tại toà án. Vì vậy học thuyết pháp lý là một loại nguồn không thể thiếu của luật dân sự. Người ta có thể tìm kiếm được các giải pháp ở đó để giải quyết các tranh chấp xảy ra, nếu các loại nguồn có thứ tự ưu tiên cao hơn không có gợi ý gì về các giải pháp cho trường hợp đó.
Ở Chương I của cuốn Giáo trình này đã đề cập tới một số ví dụ về nghĩa vụ tự nhiên. Đối với loại nghĩa vụ này, nếu người thụ trái đã tự nguyện thực hiện thì không thể đòi lại. Điều đó có nghĩa là sự tự nguyện thực hiện đó đã ràng buộc về mặt pháp lý đối với người thụ trái. Từ đó có thể hiểu pháp luật đã cấp hiệu lực cho trường hợp này vì khi nghĩa vụ đã được thực hiện thì người thụ trái không thể nại ra rằng không có một nghĩa vụ để đòi lại những gì mà mình đã thực hiện. Nói cách khác, người thụ trái trong nghĩa vụ tự nhiên không bị pháp luật cưỡng bức thực hiện nghĩa vụ, nhưng nếu đã thực hiện thì pháp luật công nhận nghĩa vụ đó và vì vậy người thụ trái không thể đòi lại bằng cách nại ra là không có nghĩa vụ, tức là người được thực hiện có quyền từ chối trả lại sự thực hiện. Nghĩa vụ tự nhiên có thể biến đổi thành nghĩa vụ dân sự bởi người thụ trái bằng việc cam kết thực hiện
122 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 382
66
đáp ứng các yêu cầu nhất định (ví dụ về nguyên nhân hoặc nghĩa vụ đối ứng hoặc về hình thức). Người ta còn biết đến việc bảo đảm đối nhân cho một nghĩa vụ tự nhiên.
Qua đây có thể nhận xét Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 chưa quan tâm đầy đủ tới tất cả các khía cạnh của nghĩa vụ. Trong khi đưa ra định nghĩa “nghĩa vụ dân sự” không chính xác tại Điều 280 (có nghĩa là định nghĩa rộng hơn khái niệm nghĩa vụ dân sự) mà bao gồm cả nghĩa vụ tự nhiên trong định nghĩa đó123, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 lại không thể hiện được đầy đủ các khía cạnh đáng quan tâm về mặt pháp lý đối với nghĩa vụ tự nhiên như các nghiên cứu nói trên.
2. Phân loại nghĩa vụ theo nguồn gốc
Trước hết phải nói, phân loại nghĩa vụ theo nguồn gốc là cách phân loại căn bản luôn được phản ánh trong các Bộ luật Dân sự, tuy có thể khác nhau. Cách thức phân loại này ảnh hưởng lớn tới kết cấu của các Bộ luật Dân sự, chí ít là tới phần nói về nghĩa vụ. Chẳng hạn Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005, sau khi tuyên bố các nguồn gốc của nghĩa vụ tại Điều 281, Phần thứ ba của Bộ luật này, đã thiết lập các qui chế riêng cho từng loại nguồn gốc của nghĩa vụ như: hợp đồng; thực hiện công việc không có uỷ quyền; nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ luật Dân sự 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ, sau khi tuyên bố nghĩa vụ phát sinh ra bởi khế ước, sự đắc lợi vô căn cứ, sự thiệt hại bất công do sự vô tình hay cố ý gây ra, và pháp luật124, đã thiết lập các qui chế pháp lý riêng cho khế ước, sự đắc lợi vô căn cứ, sự thiệt hại vô tình hay cố ý gây ra, nghĩa vụ pháp định. Bộ luật Dân sự Pháp 1804 đã chia ra hai loại qui chế pháp lý cho nghĩa vụ hợp đồng và nghĩa vụ ngoại hợp đồng.
Cách thức phân loại nghĩa vụ này có từ thời La Mã cổ đại và được các luật gia thời đó xem là phân loại căn bản (summa divisio) bởi họ tin tưởng rằng sự
123 Mục trên đã bình luận định nghĩa về nghĩa vụ dân sự của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 124 Điều thứ 652
67
phân loại này có thể giải thích được tất cả các qui tắc chi phối mỗi loại nghĩa vụ125. Theo luật La Mã, nghĩa vụ phát sinh ra bởi các nguồn gốc như hợp đồng, chuẩn hợp đồng, vi phạm, chuẩn vi phạm, và các nghĩa vụ pháp định. Ứng với mỗi nguồn gốc này là mỗi loại nghĩa vụ được giải thích như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ hợp đồng (contractual obligation) bao gồm toàn bộ các nghĩa vụ được tạo lập một cách tự nguyện từ sự thoả thuận của hai hoặc nhiều người.
Thứ hai, nghĩa vụ chuẩn hợp đồng (quasi- contractual obligation) là nghĩa vụ phát sinh giữa các bên như hậu quả của một hành vi hợp pháp của một bên, nhưng thiếu sự thoả thuận. Trong loại này bao gồm cả thực hiện công việc không có uỷ quyền.
Thứ ba, nghĩa vụ dân sự phạm (delictual obligation) là nghĩa vụ phát sinh từ hành vi cố ý gây thiệt hại cho người khác.
Thứ tư, nghĩa vụ chuẩn dân sự phạm (quasi- delictual obligation) là nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vô ý do sơ suất hoặc thiếu thận trọng gây thiệt hại cho người khác.
Thứ năm, nghĩa vụ pháp định là nghĩa vụ pháp sinh thuần tuý từ pháp luật độc lập với ý chí của các bên hoặc bất kỳ hành vi nào từ phía họ126. Cách thức phân loại nghĩa vụ theo nguồn gốc tuy là một cách thức phân loại căn bản và được ghi nhận trong hầu hết các Bộ luật Dân sự, nhưng đã không thể bao quát được tất cả các nghĩa vụ, nhất là nghĩa vụ phát sinh ra bởi hành vi pháp lý đơn phương. Thuật ngữ chuẩn hợp đồng được sử dụng gượng ép bởi không thể định được rõ ràng các tiêu chuẩn chung của các nghĩa vụ loại này. Còn thuật ngữ nghĩa vụ pháp định không hoàn toàn chính xác bởi ngoài nghĩa vụ phát sinh do ý chí của đương sự thì chỉ pháp luật mới có thể thừa nhận hiệu lực thúc
125 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 23
126 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 383
68
buộc của nghĩa vụ (nếu người thụ trái không tự ý thi hành)127. Ngày nay để cố gắng khắc phục những khiếm khuyết ấy, Bộ luật Dân sự Québec (Canada) 1994 qui định nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hoặc từ bất kỳ hành vi hay sự kiện nào mà hiệu lực của nghĩa vụ bị ràng buộc bởi pháp luật (Điều 1372).
3. Phân loại nghĩa vụ theo đối tượng
Căn cứ vào đối tượng, nghĩa vụ được chia thành ba loại là nghĩa vụ chuyển giao, nghĩa vụ hành động, và nghĩa vụ không hành động ứng với cách phân loại đối tượng của nghĩa vụ. Cách phân loại này là một cách phân loại theo truyền thống mà chúng ta thường thấy trong các công trình nghiên cứu về nghĩa vụ. Tuy nhiên có nhiều luật gia Việt Nam gọi đây là các khách thể của quan hệ pháp luật nghĩa vụ. Vấn đề này có thể gây tranh luận, nhưng sẽ được nói sau.
Theo truyền thống, các nghĩa vụ trên được giải nghĩa như sau:
+ Nghĩa vụ chuyển giao là loại nghĩa vụ buộc người thụ trái chuyển giao vật, và được chia thành hai loại là: chuyển giao vật cả về mặt chất liệu và về mặt pháp lý cho trái chủ (ví dụ trong trường hợp mua bán, người bán phải chuyển giao vật và quyền sở hữu cho người mua); hoặc chỉ chuyển giao vật về mặt chất liệu cho trái chủ (ví dụ trong trường hợp thuê, người cho thuê phải chuyển giao quyền chiếm hữu vật cho người thuê)128. Ở đây cần lưu ý rằng theo truyền thống Civil Law, chiếm hữu được xem là một quan hệ thực tế, khác với pháp luật Việt Nam hiện nay quan niệm quyền chiếm hữu là một trong những quyền năng thuộc nội dung của quyền sở hữu.
+ Nghĩa vụ hành động là loại nghĩa vụ buộc người thụ trái phải thực hiện một việc gì đó cho trái chủ. Loại nghĩa vụ này thường thấy trong các loại hợp đồng dịch vụ (chẳng hạn: giặt là quần áo, cắt tóc gội đầu, xây dựng, chuyên chở…).
127 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 25
128 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 385
69
+ Nghĩa vụ không hành động là loại nghĩa vụ buộc người thụ trái kiềm chế không làm một việc gì đó. Có thể tìm thấy loại nghĩa vụ này trong các vấn đề như bảo mật thông tin, hạn chế cạnh tranh, không vi phạm dịch quyền... John E. C. Brierley và Roderick A. Macdonald cho rằng nghĩa vụ loại này bao gồm toàn bộ nghĩa vụ vi phạm và nghĩa vụ chuẩn vi phạm, bởi đối tượng của chúng là không được gây thiệt hại cho người khác trong những điều kiện pháp lý nhất định129.
Cách phân loại nghĩa vụ này cũng đã được Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 đề cập đến tại Điều 280 (định nghĩa về nghĩa vụ dân sự), và tiếp đó là Điều 289 (nghĩa vụ giao vật), Điều 291 (nghĩa vụ thực hiện hoặc không thực hiện một công việc). Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 đã cố gắng trình bày quan niệm của một số
luật gia Việt Nam về mặt học thuật thông qua các qui định của Điều 280 và Điều 282, nên đã làm rắc rối và mâu thuẫn cho việc hiểu và phân loại nghĩa vụ theo đối tượng. Với Điều 280 này thì “nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó mà một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định…”. Một số luật gia Việt Nam cho rằng những gì mà người có nghĩa vụ phải thực hiện là khách thể của quan hệ nghĩa vụ hướng tới đối tượng của nghĩa vụ là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm. Do đó Điều 282, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 qui định: “Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện”. Theo cách tư duy như vậy, Lê Nết phát biểu:
“Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản phải giao, công việc phải làm hay không được phép làm. Trái với khách thể là lợi ích mà các bên mong muốn đạt được trong hợp đồng, thì đối tượng của nghĩa vụ là cái mà các bên tác động vào”130.
Trước hết phải thấy, đối tượng hay khách thể trong tiếng Anh đều được gọi là “object”131. Và Deluxe Black’s Law Dictionary giải nghĩa “object” là mục đích
129 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 385
130 Nguyễn Xuân Quang- Lê Nết- Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007, tr. 281
70
được hướng tới. Không khác hơn, từ điển thuật ngữ pháp lý Việt- Pháp giải nghĩa thuật ngữ “objet” như sau: “Đối tượng của một nghĩa vụ là chủ đích của nghĩa vụ đó”. Sau đó phải hiểu nếu nghiên cứu về nghĩa vụ nói chung thì không thể chỉ cho rằng “khách thể là lợi ích mà các bên mong muốn đạt được trong hợp đồng”, bởi hợp đồng chỉ là một loại nguồn gốc của nhĩa vụ. Tiếp nữa cần lưu ý rằng cái gọi là “đối tượng của nghĩa vụ” không thể tách rời cái gọi là “khách thể của nghĩa vụ”. Nếu chúng tách rời, thì không tạo ra một ý nghĩa pháp lý nào cả.
4. Phân loại nghĩa vụ theo mức độ
Ở trên đã nói Luật Thương mại Việt Nam 2005 đã nhắc tới cách phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán trung thực, trong khi Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có tiếng là đặt nền tảng lý luận cho toàn bộ hệ thống luật tư lại không có ý đồ phân loại nghĩa vụ như vậy. Tất nhiên việc phân loại nghĩa vụ như vậy trong Luật Thương mại Việt Nam 2005 đã tỏ ra thực sự tiến bộ. Đánh giá này là đúng đắn bởi cách phân loại như vậy được hầu hết các công trình nghiên cứu nghĩa vụ trong vài thập kỷ vừa qua nhắc tới. Tuy nhiên các Bộ luật Dân sự được xây dựng trong Thế kỷ XIX và thời kỳ đầu của Thế kỷ XX không đề
cập tới cách thức phân loại đó.
Khi phân loại nghĩa vụ theo đối tượng, người ta có nhận xét, việc chia nghĩa vụ thành nghĩa vụ chuyển giao, nghĩa vụ hành động, nghĩa vụ không hành động thường xuất hiện trong khoa học pháp lý, nhưng không mang lại nhiều ích lợi như việc chia nghĩa vụ thành nghĩa vụ mẫn cán trung thực và nghĩa vụ thành quả132. Cách thức phân loại nghĩa vụ theo mức độ này mang lại sự khác biệt lớn về
gánh nặng chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ. Nó được sáng tạo ra bởi Demongue một luật gia Pháp- vào khoảng đầu Thế kỷ XX. Và kể từ đó trở đi nó trở thành cách thức phân loại nghĩa vụ quan trọng trong khoa học pháp luật dân sự. Trong
cách phân loại này, quan hệ giữa các bên trong bất kỳ nghĩa vụ nào được xem như
131 Hữu Ngọc, Sổ tay người dịch tiếng Anh, Nxb Giáo dục, 1996, tr. 68, 70
132 Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 28
71
có sự tham dự của một trong ba mức độ là: “sự cần mẫn” (yếu tố này cũng được coi là “phương tiện”); “kết quả”; và “sự bảo đảm”133.
Trong nghĩa vụ mẫn cán trung thực, người thụ trái chỉ cam kết thi hành nghĩa vụ một cách mẫn cán, trung thực nhưng không cam kết mang đến một kết quả nhất định nào. Trong loại này người trái chủ phải chứng minh người thụ trái không thực hiện nghĩa vụ, cũng như không hành động cẩn trọng. Còn trong nghĩa vụ thành quả, người thụ trái cam kết về một kết quả xác định. Trong loại nghĩa vụ
này người thụ trái phải chứng minh sự không thực hiện nghĩa vụ là do một sự kiện ngẫu nhiên hoặc do một nguyên nhân được miễn giảm trách nhiệm nào khác.
5. Các cách phân loại khác về nghĩa vụ
Các cách thức phân loại nêu trên là các cách phân loại rất cơ bản mà thường thấy trong khoa học pháp luật dân sự. Tuy nhiên, người ta còn có nhiều cách phân loại khác nữa. Mỗi cánh thức phân loại có một tiện ích riêng, nhưng không bao quát được đầy đủ.
Có thể căn cứ vào chế tài hoặc vào các dạng thức, người ta còn phân chia nghĩa vụ thành các loại khác nhau. Các cách phân loại này có tính chất thực dụng hơn so với các cách phân loại truyền thống trong vấn đề thực hiện và cưỡng bức thi hành nghĩa vụ.
Phân loại nghĩa vụ theo chế tài
Thông thường pháp luật các nước chia ra ba loại chế tài truyền thống đối với vi phạm nghĩa vụ: Thứ nhất, bồi thường thiệt hại; thứ hai, buộc thực hiện nghĩa vụ; và thứ ba, buộc thực hiện nghĩa vụ thay thế. Có thể gọi đây là ba dạng thức cưỡng chế thi hành nghĩa vụ. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề về chế tài cần phải nghiên cứu trong một chương dưới đây. Tương ứng với các chế tài này là các loại nghĩa vụ.
133 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 386
72
Phân loại nghĩa vụ theo dạng thức
Trong cách thức phân loại này còn nhiều căn cứ phân loại nhỏ. Căn cứ vào thời điểm thực hiện, người ta phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ thực hiện ngay (như nghĩa vụ trong mua bán trao tay) và nghĩa vụ sẽ được thực hiện trong tương lai (như nghĩa vụ trả tiền vay, trả tiền thuê hoặc có điều kiện). Căn cứ vào số
lượng đối tượng, người ta phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ lựa chọn, nghĩa vụ nối tiếp và nghĩa vụ ngẫu nhiên. Căn cứ vào số lượng chủ thể, người ta phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ phân chia được, nghĩa vụ không phân chia được, nghĩa vụ liên đới và nghĩa vụ không liên đới. Căn cứ vào sự chấm dứt và chuyển giao nghĩa vụ, người ta lại có thể phân loại nghĩa vụ thành nghĩa vụ được chấm dứt bởi hành động của người thụ trái (như nghĩa vụ được người thụ trái thực hiện), nghĩa vụ được chấm dứt bởi hành động của trái chủ (như nghĩa vụ được chuyển giao, được làm mới, được giải trừ), và nghĩa vụ được chấm dứt bởi hiệu lực của pháp luật (như bồi thường, hết thời hiệu, không thể thực hiện được). Thông thường những cách thức phân loại này không phải là trung tâm của các đạo luật về dân sự134. Tuy
nhiên chúng có tác dụng không nhỏ trong những trường hợp cụ thể. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 dành toàn bộ Chương III để nói về các thể thức của nghĩa vụ. Điều thứ 730 của Bộ luật này qui định:
“Tùy theo nghĩa- vụ thuộc về một hạng nào liệt- kê dưới này, thì hiệu- lực có đổi khác đi:
1) Nói về sự lập-thành nghĩa-vụ, thì nghĩa- vụ hoặc là thuần- túy giản- dị, hoặc là có kỳ- hạn hay có điều- kiện;
2) Nói về sự- vật của nghĩa- vụ, thì nghĩa- vụ có thể hoặc là đắp- đổi, hoặc là tùy- ý;
3) Nói về số người chủ nợ hay người mắc nợ, thì nghĩa- vụ hoặc là giản đơn, hoặc là phiền- phức;
134 John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 388
73
4) Nói về thể-cách hay sự thi- hành của nghĩa- vụ, thì nghĩa- vụ có thể hoặc phân- cát, hoặc không phân- cát được”.
Tương tự như vậy, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 cũng dành cả Chương III để nói về các thể thức của nghĩa vụ. Điều thứ 781 của Bộ luật này qui định: “Tùy theo nghĩa- vụ thuộc về một hạng nào liệt kê dưới này, thời hiệu lực có đổi khác đi:
1) Nói về sự lập- thành nghĩa- vụ, thời nghĩa- vụ hoặc giản dị hoặc là có kỳ hạn hay có điều kiện;
2) Nói về sự vật của nghĩa- vụ, thời nghĩa- vụ có thể hoặc là đắp đổi, hoặc là tùy ý;
3) Nói về số người chủ nợ hay người mắc nợ, thời nghĩa- vụ hoặc là can hệ đến một người, hoặc là can hệ đến nhiều người ;
4) Nói về thể cách hay sự thi- hành của nghĩa- vụ, thời nghĩa-vụ có thể hoặc phân- cát, hoặc không phân- cát được”.
Bộ luật Dân sự 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ qui định về các dạng thức của nghĩa vụ tại Thiên hai, Quyển thứ bốn. Điều thứ 747 của Bộ luật này viết: “Nghĩa vụ phát sinh hậu quả khác nhau tuỳ theo:
1) Nghĩa- vụ có tính cách đơn thường hay có kỳ- hạn hoặc có điều- kiện; 2) Nghĩa- vụ có tính cách luân- lưu, hay có tính cách thể- nhiệm; 3) Nghĩa- vụ có điều- khoản dự phạt;
4) Nghĩa- vụ có đơn số hay đa số trái chủ và trái hộ”.
Các Bộ luật Dân sự của các chế độ cũ ở Việt Nam bị ảnh hưởng lớn của cách thức phân loại nghĩa vụ theo dạng thức của Bộ luật Dân sự Pháp 1804, và chúng kế thừa nhau để đưa ra các qui tắc thực hiện hợp lý trong từng dạng thức.
Khác hẳn với cách phân loại nghĩa vụ theo dạng thức mà các Bộ luật Dân sự của các chế độ cũ ghi nhận, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 qui định phân loại nghĩa vụ dân sự (chủ yếu theo dạng thức) tại Mục 2 nói về thực hiện nghĩa vụ thuộc Chương XVII (nói về những qui định chung) của Phần thứ ba nói về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Vì vậy nhiều luật gia của Việt Nam hiện nay dường
74
như đã cho rằng phân loại nghĩa vụ chỉ có tác dụng trong việc thực hiện nghĩa vụ, và dường như chỉ quan tâm tới phân loại nghĩa vụ theo dạng thức. Theo dạng thức, dân luật của Việt Nam trước kia có phân loại trong các Bộ luật Dân sự vừa nói trên. Các phân loại này có nghĩa như sau:
(1) Nghĩa vụ đơn thường là nghĩa vụ khi mới được tạo lập đã chắc chắn và có thể bắt thi hành ngay.
(2) Nghĩa vụ có kỳ hạn là nghĩa vụ mà theo đó trái chủ chỉ có thể yêu cầu thi hành sau một thời gian định trước hoặc khi một sự kiện xác định chắc chắn được dự liệu trước xảy ra.
(3) Nghĩa vụ có điều kiện là nghĩa vụ chỉ phát sinh hay giải trừ phụ thuộc vào một sự kiện đến sau không chắc chắn do ước định hoặc luật định. Điều kiện phát sinh được gọi là điều kiện đình chỉ. Còn điều kiện kia được gọi là điều kiện giải trừ.
(4) Nghĩa vụ có đối tượng tùy ý lựa chọn là nghĩa vụ có nhiều đối tượng khác nhau để người thụ trái tuỳ ý lựa chọn thực hiện. Việc lựa chọn cũng có thể dành cho trái chủ tuỳ thuộc vào sự thoả thuận. Về loại nghĩa vụ này Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự có đối tượng tùy ý lựa chọn là nghĩa vụ mà đối tượng là một trong nhiều tài sản hoặc công việc khác nhau và bên có nghĩa vụ có thể tùy ý lựa chọn, trừ trường hợp có sự thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định dành quyền lựa chọn cho bên có quyền” (Điều 295, khoản 1). Loại nghĩa vụ này còn được gọi là nghĩa vụ luân lưu hay nghĩa vụ đắp đổi.
(5) Nghĩa vụ nhiệm ý hay nghĩa vụ tuỳ ý thuộc về đồ vật mắc nợ là nghĩa vụ chính buộc người thụ trái vào một đối tượng nhất định, nhưng người thụ trái có thể thực hiện nghĩa vụ với một đối tượng khác theo thoả thuận.
Không giống hoàn toàn với quan niệm trên, Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có định nghĩa về nghĩa vụ dân sự thay thế được như sau: “Nghĩa vụ dân sự thay thế được là nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ ban đầu thì có thể thực hiện một nghĩa vụ khác đã được bên có quyền chấp nhận để thay thế nghĩa vụ dân sự đó” (Điều 296).
75
(6) Nghĩa vụ đơn số là nghĩa vụ trong đó chỉ có một trái chủ và một người thụ trái. Nghĩa vụ này còn có tên gọi là nghĩa vụ giản đơn hay nghĩa vụ giản dị. (7) Nghĩa vụ đa số là nghĩa vụ có nhiều trái chủ hay nhiều người thụ trái ngay từ lúc phát sinh. Trường hợp trái chủ hay người thụ trái qua đời có nhiều người thừa kế di sản cũng làm phát sinh ra nghĩa vụ đa số. Nghĩa vụ này còn được gọi là nghĩa vụ phiền phức. Loại nghĩa vụ này được chia thành nghĩa vụ cộng đồng (còn được gọi là nghĩa vụ chung hay nghĩa vụ cộng hiệp), nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ khả phân, nghĩa vụ bất khả phân. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 gọi nghĩa vụ khả phân và nghĩa vụ bất khả phân tương ứng là nghĩa vụ dân sự phân chia được theo phần và nghĩa vụ dân sự không phân chia được theo phần. Còn đối với nghĩa vụ cộng đồng, Bộ luật Dân sự này gọi là nghĩa vụ dân sự riêng rẽ. Nghĩa vụ cộng đồng là nghĩa vụ có sự cộng đồng giữa các trái chủ hay người thụ trái mà theo đó phần mỗi trái chủ có thể yêu cầu hay mỗi người thụ trái có thể phải thực hiện tuỳ thuộc vào sự thoả thuận hay tuỳ thuộc vào tình trạng thực tế mà ấn định. Bộ luật Dân sự 2005 Việt Nam giải nghĩa: “Khi nhiều người cùng thực hiện một nghĩa vụ dân sự, nhưng mỗi người có một phần nghĩa vụ nhất định và riêng rẽ với nhau thì mỗi người chỉ phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình” (Điều 297). Có thể thấy, Bộ luật Dân sự này chỉ chú ý đến sự thực hiện nghĩa vụ của người thụ trái, mà không chú ý tới sự yêu cầu của bên có quyền. Qua đây cũng có thể nhận xét Bộ luật Dân sự này dường như không đề cập tới trường hợp cộng đồng của các trái chủ.
Nghĩa vụ liên đới cũng được chia thành hai loại là nghĩa vụ liên đới giữa các trái chủ với nhau và nghĩa vụ liên đới giữa các người thụ trái đối với nhau. Liên đới giữa các trái chủ là một tình trạng pháp lý cho phép mỗi trái chủ được yêu cầu người thụ trái phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, và khi đã thực hiện nghĩa vụ như vậy thì người thụ trái hết nghĩa vụ đối với tất cả các trái chủ, không kể đến trái quyền có thể phân chia hay không thể phân chia giữa các trái chủ. Nghĩa vụ liên đới giữa các người thụ trái với nhau là nghĩa vụ mà theo đó tất cả các người thụ trái bị ràng buộc chung vào một nghĩa vụ dẫn đến việc mỗi
76
người thụ trái phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, và khi có một người thụ trái đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, thì tất cả các người thụ trái hết nghĩa vụ đối với trái chủ.
Bộ luật Dân sự 2005 Việt Nam định nghĩa: “Nghĩa vụ dân sự liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ” (Điều 298, khoản 1); và “Nghĩa vụ dân sự đối với nhiều người có quyền liên đới là nghĩa vụ mà theo đó mỗi người trong số những người có quyền đều có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện toàn bộ nghĩa vụ” (Điều 299, khoản 1).
Nghiên cứu về phân loại nghĩa vụ theo dạng thức của dân luật Việt Nam ở dưới các chế độ cũ cho thấy việc phân loại nghĩa vụ như vậy có nhiều tiện ích. Nhưng ngày nay Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 không thực sự qui định riêng về phân loại theo dạng thức mà chỉ đề cập tới cách thức phân loại này ở khía cạnh nhỏ của việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ. Có lẽ những người viết giáo trình về luật dân sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật chỉ quan tâm tới việc diễn giải Bộ luật Dân sự ra lời lẽ thông thường nên bỏ qua cấu trúc bên trong của pháp luật- Đó chính là phần phân loại ở nhiều cấp độ khác nhau.
Mục 3.3
Hiệu lực của nghĩa vụ
Một nghĩa vụ dân sự khi đã được xác lập hợp pháp, bất kể do nguồn gốc nào, đều có hiệu lực. Trong sự phân biệt với hiệu lực của hợp đồng trên một vài khía cạnh, hiệu lực của nghĩa vụ nói chung được hiểu là sự thúc buộc người thụ trái thực hiện yêu cầu của trái chủ.
Sự thoả mãn quyền yêu cầu của trái chủ trong quan hệ nghĩa vụ chỉ có thể được đáp ứng bởi việc thực hiện hành vi xác định của người thụ trái, bởi quan hệ nghĩa vụ được xác lập giữa trái chủ và người thụ trái xác định với đối tượng nhất
77
định135. Nếu người thụ trái tự nguyện thực hiện, thì trái chủ có quyền tiếp nhận trên cơ sở quyền của mình. Việc tiếp nhận của trái chủ không trên cơ sở quyền của mình làm phát sinh ra các hậu quả pháp lý khác. Chẳng hạn trong qui tắc chung về thực hiện nghĩa hay trả nợ, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 qui định: “Nợ giả thì nghĩa- vụ hết. Có nợ thì mới phải giả, không nợ mà giả thì được phép đòi lại” (Điều thứ 788). Qui tắc này được Bộ luật Dân sự Trung Kỳ 1936 thừa hưởng trọn vẹn và có phát triển tại Điều thứ 849. Điều luật này bổ sung thêm hai nguyên lý quan trọng là: “Trả nợ là khi đã giao một sự vật hay làm một việc gì mà mình phải giao hay phải làm”; và “đối với nghĩa- vụ tự- nhiên mà tự ý mình trả thời không đòi lại được”. Ngày nay Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có các qui định được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật gây thiệt hại cho người khác tại Điều 599, khoản 2. Người được lợi như vậy có nghĩa vụ hoàn trả khoản lợi đó cho người bị
thiệt hại, trừ thủ đắc quyền sở hữu do thời hiệu. Trong khi bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản 1896, Xaca Vacaxum và Tori Aritdumi cho rằng “nghĩa vụ thực tế được công nhận là hợp pháp trong mọi trường hợp, trừ trường hợp thu lợi vô căn cứ”, và nghĩa vụ thực tế được quan niệm là “nghĩa vụ trong đó chủ nợ tiếp nhận hành vi được người mắc nợ tự nguyện thực hiện, không được yêu cầu cưỡng chế thực hiện bằng quyền lực Nhà nước”136.
Tuy nhiên pháp luật đã dự liệu các phương cách và giải pháp bảo vệ quyền lợi của trái chủ trong trường hợp người thụ trái không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hay không đầy đủ nghĩa vụ của mình, có nghĩa là cưỡng bức thực hiện nghĩa vụ. Từ thời La Mã cổ đại, trong quan hệ hợp đồng, khi người thụ trái không thi hành nghĩa vụ của mình thì phải chịu trách nhiệm vì lỗi hợp đồng nói chung như làm mất đồ vật là đối tượng của nghĩa vụ (ví dụ trong nghĩa vụ coi giữ
custodia), có khi chỉ vì thi hành chậm trễ (mora)137. Nhưng việc cưỡng bức thực
135 Đối tượng nhất định không có nghĩa là phải chỉ dứt khoát ngay lập tức tại thời điểm xác lập nghĩa vụ. Ví dụ: Đối với nghĩa vụ hợp đồng, đối tượng có thể do người thụ trái tuỳ ý lựa chọn.
136 Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 366
137 Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 65
78
hiện nghĩa vụ ngày nay bị hạn chế trên một vài phương diện như vấn đề liên quan tới nhân thân của người thụ trái hoặc buộc phải thực hiện một công việc có tính chất đặc biệt. Có thể thấy việc không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý có mối quan hệ trong việc bảo đảm cho trái quyền. Thông thường pháp luật đặt ra hai phương cách đối với trường hợp không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ: Thứ nhất, buộc thực hiện nghĩa vụ; thứ hai, bồi thường thiệt hại138. Phương cách thứ hai này dựa trên căn bản một trái quyền có thể chuyển đổi thành một yêu cầu về tiền. Và yêu cầu về tiền thay thế này không được người thụ trái đáp ứng, thì trái chủ có quyền với sự hỗ trợ của pháp luật bắt giữ tài sản của người thụ trái để lấy nợ. Luật dân sự thường xác định việc cưỡng bức thực hiện nghĩa vụ trên cơ sở
tài sản của người thụ trái mặc dù người thụ trái chỉ phải thực hiện một hoặc một số đối tượng nhất định của nghĩa vụ139. Điều đó có nghĩa là toàn bộ tài sản của người thụ trái được mang ra bảo đảm cho nghĩa vụ của người thụ trái. Thể hiện nguyên lý này, Bộ luật Dân sự 1972 của Chính quyền Sài Gòn cũ qui định: Tất cả các tài sản hiện có hoặc sẽ có trong tương lai của người thụ trái đều là vật bảo đảm chung cho các trái chủ và được phân chia cho các trái chủ theo tỷ lệ trái quyền của mỗi người, trừ khi có trái chủ có quyền đặc ưu (Điều thứ 1415 và Điều thứ 1416). Nguyên lý này không được thể hiện trong Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005. Tuy nhiên không phải tất cả các tài sản của người thụ trái đều phải mang ra trả nợ, pháp luật phải trừ các tài sản thiết yếu cho đời sống của người thụ trái. Liên quan tới tài sản bảo đảm chung cho các trái chủ, pháp luật còn dự liệu trường hợp người thụ trái không cố gắng duy trì trách nhiệm tài sản của mình hoặc cố ý làm giảm trách nhiệm tài sản của mình.
Ngoài ra pháp luật còn dự liệu trường hợp hiệu lực bên ngoài của nghĩa vụ liên quan tới người thứ ba gây thiệt hại cho đối tượng của nghĩa vụ hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa vụ. Án lệ và các học thuyết pháp lý coi các hành vi như vậy
138 Chế tài đối với vi phạm hợp đồng sẽ được bàn luận ở một chương dưới đây
139 Việc thúc buộc thực hiện nghĩa vụ liên quan đến thân thể của người thụ trái không được pháp luật hiện đại chấp nhận
79
của người thứ ba là hành vi vi phạm, và phụ thuộc vào qui chế bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng140.
Khái quát lại, Bộ luật Dân sự của Tiểu bang Louisiana của Hoa Kỳ qui định về hiệu lực chung của nghĩa vụ như sau:
“Điều 1758. Hiệu lực chung
A. Một nghĩa vụ có thể cho trái chủ quyền:
(1) Yêu cầu sự thực hiện những gì mà người thụ trái bị ràng buộc phải tiến hành;
(2) Yêu cầu thực hiện bằng cách để người khác tiến hành với chi phí của người thụ trái;
(3) Được bồi thường thiệt hại bởi người thụ trái không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, hoặc thực hiện chậm trễ.
B. Một nghĩa vụ có thể cho người thụ trái quyền:
(1) Giải trừ hợp pháp khi đã thực hiện đầy đủ;
(2) Chống lại các hành động của trái chủ khi nghĩa vụ đã bị huỷ bỏ hoặc sửa đổi bởi một lý do pháp lý”.
Vậy có thể nghiên cứu hiệu lực của nghĩa vụ ở khía cạnh thực hiện nghĩa vụ (tự nguyện và không tự nguyện) và tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ, cùng các biện pháp cưỡng bức thực hiện nghĩa vụ bởi pháp luật, cũng như vấn đề giải trừ nghĩa vụ và các phản kháng hợp pháp của người thụ trái đối với trái chủ.
Không đồng nhất hoàn toàn, Bộ luật Dân sự Pháp 1804 xếp các qui tắc thực hiện nghĩa vụ vào phần chấm dứt nghĩa vụ, có nghĩa là việc thực hiện nghĩa vụ là căn cứ hay nguyên nhân của việc chấm dứt nghĩa vụ. Với hiệu lực của nghĩa vụ dân sự, Bộ luật này đề cập tới các nghĩa vụ căn bản của người thụ trái trong các phân loại nghĩa vụ theo đối tượng của nghĩa vụ (nghĩa vụ chuyển giao vật, nghĩa vụ hành động, và nghĩa vụ không hành động), cùng với chế tài bồi thường thiệt hại do không thực hiện nghĩa vụ, giải thích hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng đối với
140 Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh- Việt, p. 165
80