🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Giáo trình kinh tế phát triển Ebooks Nhóm Zalo GIAO TRĨNH Ố NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TS. PHẠM THỊ LÝ - TS. NGUYỄN THỊ YÉN (Đồng chủ biến) GIÁO TRÌNH KINH TẾ PHÁT TRIỂN Tham gia thụt: hiện: TS. TRÀN VĂN QƯYÉT ThS. NGUYÊN THỊ NHUNG ThS. PHAN THỊ VÂN GIANG NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN NĂM 2016 MÃ só — Q 4 ĐHTN-2016 2 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ V É T TẮT....................................................... 10 LỜI NÓI ĐẦU.............................................. ...................... .....................11 CHƯƠNG 1 TỎNG QU AN VÈ PHÁT TRIÉN KINH TẾ............. 13 1.1. Tăng trường kinh tế 13 1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế 13 1.1.2. Các dạng công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế 15 1.2. Khái niệm phát triển kinh tế 17 1.2.1. Phát triển kinh tế 17 1.2.2. Phát triển kinh tế bền vững..........................................19 1.2.3. Các nhóm chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế 20 1.3. (Các nhân tố ảnh hưởng đến phát ưiển kinh tế............................ 37 1.3.1. Các nhân tố ảnh hường trực tiếp...................................37 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng gián tiếp 44 1.4. IPhân nhóm các nước theo sự phát triền kinh tế - xã hội 48 1.4.1. Cơ sở phân loại 48 1.4.2. Những đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triền 53 3 CHƯƠNG 2 CÁC MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TÉ .....__ 66 2.1. Mô hình cổ điền về tăng trường kinh tế 66 2.1.1. Xuất phát điểm của mô hình 66 2.1.2. Các yếu tố tăng trường kinh tế và mối quan hệ giữa các yếu lố.............................................................................. 67 2.1.3. Phàn chia các nhóm người trong xã hội và thu nhập cùa họ 69 2.1.4. Quan hệ cung - cầu và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng 70 2.2. Mô hình của c . Mác về tăng trưởng kinh tế 71 2.2.1. Các yếu tố tăng trường kinh tế 72 2.2.2. Sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản 73 2.2.3. Các chi tiêu tổng hợp phản ánh sự tăng trường 73 2.2.4. Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sách kinh tế 75 2.3. Mô hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế 76 2.3.1. Nội dung cơ bản của mô hình Tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế ................................................................................76 2.3.2. Hàm sản xuất Cobb - Douglas 79 2.4. Mô hình Keynes về tăng trường kinh tế 80 2.4.1. Nội dung cơ bản của mô hình 80 2.4.2. Mô hình Haưod - Domar.................................................83 2.5. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại.........................................86 2.5.1. Sự cần bằng của nền kinh tế 86 2.5.2. Các yếu tố tác động đến tăng truờng kinh tế 87 2.5.3. Vai trò cùa Chính phủ trong nền kinh tế 89 2.6. Một số lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh tế khác 90 2.6.1. Mô hình hai khu vực cùa w .Lewis 90 2.6.2. Mô hình Robert Solow (1956)......................................92 2.6.3. Mô hình Sung Sang Park 97 2.6.4. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của Rostow 98 2.6.5. Quy luật tiêu dùng cùa Ernst Engel 99 CHƯƠNG 3. CÁC NGƯÒN L ự c PHÁT TRIẺN KINH TẾ 104 3.1. Nguồn vốn với phát triển kinh tế 104 3.1.1. Vốn sản xuất và vốn đầu tư 104 3.1.2. Vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế 107 3.1.3. Các yếu tố tác động đến cầu vốn đầu tư 108 3.1.4. Nguồn hình thành vốn đầu tư 114 3.2. Tài nguyên thiên nhiên với phát ưiển kinh tế 120 3.2.1. Tài nguyên thiên nliicn là một nguồn lực quail trọng 120 3.2.2. Tài nguyên thiên nhiên là cơ sờ tạo tích luỹ vốn và phát triển ổn định....................................................................... 121 3.2.3. “Căn bệnh Hà Lan” - Một bài học trong khai thác tài nguyên.........................................................................121 3.2.4. Khai thác tài nguyên với phát triển bền vững 122 3.3. Lao động với phát triển kinh tế 127 3.3.1. Nguồn lao động..............................................................127 5 3.3.2. Vai trò của lao động đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế ..................................................................................129 3.4. Khoa học và công nghệ với phát triển kinh tế 137 3.4.1. Vai trò của khoa học và công nghệ đối với tăng trưởng và phát triển kinh tể 137 3.4.2. Chính sách phát ưiển công nghệ ở các nước đang phát triền 140 CHƯƠNG 4. NGHÈO ĐÓI VÀ BÁT BÌNH ĐẢNG TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN_____________________ __________ 144 4.1. Khái niệm và đo lường sự nghèo đói và bất bình đẳng 144 4.1.1. Khái niệm..........................................................................144 4.1.2. Chi tiêu và chuẩn mực đo lường sự nghèo đói và bất bình đẳng 146 4.2. Nguyên nhân của sự nghèo đói và bất bình đẳng 153 4.2.1. Người nghèo nông thôn 153 4.2.2. Người nghèo đô thị 155 4.3. Các lý thuyết về sự nghèo đói và bất bình đắng 156 4.3.1. Mô hình chữ u ngược của Simon Kuznets 156 4.3.2. Mô hình tăng trường trước, binh đẳng sau của A.Lewis........................................................................................ 159 4.3.3. Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima 161 4.3.4. Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế cùa W B.....................................................................................162 4.4. Làm thế nào để xoá bỏ nghèo đói 163 4.4.1. Xoá bỏ nghèo đói và bất bỉnh đẳng trên toàn cầu 163 4.4.2. Chiến lược xoá đói giảm nghèo của Việt Nam 166 CHƯƠNG 5 TOÀN CẦU HÓA VÀ NÈN KINH TÉ TRI THỨC 171 5.1. Toàn cầu hóa kinh tế quốc tế 171 5.1.1. Khái niệm, bản chất của toàn cầu hóa 171 5 .1.2. Những đặc tnmg chủ yếu của toàn cầu hoá kinh tế 175 5.1.3. Những cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá kinh tế 181 5.2. Nền kinh te tri thức 190 5.2.1. Quan niệm về kinh tế tri thức 190 5.2.2. Đặc trưng của kinh tế tri thức 200 5.2.3. Kinh tế tri thức - cơ hội và thách thức đối với các nước trên thế giới 205 CHƯƠNG 6 CÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH PHẢ I TRIÍ.N KINH TÉ.................................................................................209 6.1. Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân 210 6.1.1. Gia tăng thu nhập quốc dân 210 6.1.2. Củng cố sự ổn định thu nhập xuất khẩu và thu nhập quốc dàn 210 6.1.3. Trang bị cơ sở vật chất kỳ thuật cho tất cà các ngành trong nền kinh tế quốc dân 212 6.1.4. Công nghiệp cung cấp đại bộ phận sản phẩm tiêu dùng cho xã hội.........................................................................212 6.1.5. Công nghiệp cung cấp nhiều việc làm 213 6.1.6. Mở rộng thị trường nguyên liệu thô ở nội địa 213 6.2. Lịch sử công nghiệp hoá..............................................................214 6.2.1. Khởi điểm của quá trình tăng trưởng hiện đại 214 6.2.2. Kinh nghiệm công nghiệp hoá cùa nước Anh 214 6.2.3. Các cuộc cách mạng về vận tải, sự lan rộng công nghiệp hoá, sự xuất hiện của một thị trường thế giới 1820 - 1870.................................................................................216 6.2.4. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai và sự suy sụp của chủ nghĩa tự do hoá 1870 - 1913 216 6.2.5. Sự sụp đổ của chủ nghĩa tự do hoá và sự sụp đổ của thị trường thế giới........................................................................ 217 6.2.6. Công nghiệp hoá thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai........................................................................................... 218 6.2.7. Khái quát về vấn đề công nghiệp hoá và mậu dịch trong các nền kinh tế phi thị trường 218 6.2.8. Khái quát về vấn đề công nghiệp hoá ở khu vực châu Á gió mùa...........................................................................219 6.3. Các điều kiện tiền đề tiến hành công nghiệp hoá 221 6.3.1. Diều kiện tự nhiên 221 6.3.2. Các chính sách mậu dịch nội địa và ngoại thương cởi m ở...........................................................................................222 6.3.3. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông và thòng tin liên lạc.........................................................................222 6.3.4. Môi trường vĩ mô và thể chế ổn định 222 6.3.5. Sự giáo dục, quá trình hình thành các kỹ năng và ứng dụng kỹ thuật.......................................................................222 8 6.4. Những mô hình tăng trường và phát triển công nghiệp 223 6.4.1. Mô hình cơ cấu chiến lược 223 6.4.2. Các mô hình tăng trưởng công nghiệp 224 6.5. Những vấn đề khác trong quá trình công nghiệp hoá 225 6.5.1. Đô thị hoá........................................................................226 6.5.2. Lụa chọn đầu tư trong công nghiệp 227 6.5.3. Hiệu quả kinh tế theo quy mô 228 6.5.4. Ngành công nghiệp với quy mô nhỏ 229 6.5.5. Phát triển nông nghiệp làm nền móng cho công nghiệp hoá 230 6.5.6 Giá xã hội phải trả cho việc công nghiệp hóa 231 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................238 9 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BBĐ Bất bình đẳng CNH Công nghiệp hoá CNC Công nghệ cao CNTB Chủ nghĩa tư bản DN Doanh nghiệp ĐTNN Đầu tư nước ngoài DPT Đang phát triển FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài HTX Họp tác xã KTTT Kinh tế tri thức LHQ Liên Họp Quốc NGO Tổ chức phi chính phủ NSNN Ngân sách Nhà nước ODA Hỗ trợ phát triển chính thức OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế TCH Toàn cầu hóa TLSX Tư liệu sản xuất TNC Công ty xuyên quốc gia TNCs Các công ty xuyên quốc gia TSPXH Tổng sản phẩm xã hội WB Ngân hàng thế giới 10 LỜI N Ó I ĐÀU Tăng trường và phát triển kinh tế là mục tiêu phấn đấu của các nước trên thế giới. Đề đạt được mục tiêu đó, đường lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định tới sự thành bại của một đất nước. Kinh tế học phát ừiển là môn khoa học nghiên cứu, phát hiện các quy luật, hành vi của con người trong quá trình vận động và phát triên nền kinh tế. Từ nửa sau thế kỷ XX, Kinh tế học phát triển đã được nghiên cứu, giảng dạy và ứng dụng rộng rãi ở hầu khắp các nước trên thế giới. Ở nước ta, tuy kinh tế học phát triển mới được triền khai giảng dạy từ bậc học đại học từ những năm cuối thế kỷ trước song nó đã, đang rất được quan tâm nghiên cứu, giảng dạy và ứng dụng vào quá trình hoạch định các chính sách trong phát triển nền kinh tế, thúc đẩy tăng trường, phát triển kinh tế. Đe hoạch định được lối phát triển đúng đắn cần phải biết kết hựp những nguyên lý CƯ bàn của sự phái uiẻn kiiủì lé và Ìiliững vấn đề được đặt ra trong thực tiễn của đất nước, đặc biệt trong giai đoạn đất nước ngày càng hội nhập sâu, rộng như hiện nay. Đe thuận tiện cho việc khai thác và sừ dụng tài liệu, nhóm tác giả muốn giới thiệu một cách khái quát nhất về phát triển kinh tế, các mô hình tăng trường và phát triển kinh tế, các nguồn lực cần thiết để phát triển kinh tế, đặc biệt các vấn đề khá nổi cộm trong giai đoạn hiện nay đang được xã hội quan tâm nhiều như vấn đề về toàn cầu hóa, vấn đề nghèo đói, bất bình đẳng trong nền kinh tế tri thức,... 11 Cũng nhằm mục đính fren, cuối mỗi chương, giáo trình đều có phần tóm tắt nội dung cơ bản của chương, có phần câu hỏi thảo luận và các bài tập tình huống kèm theo để thuận tiện cho người sừ dụng. Toàn bộ giáo trình được cấu trúc gồm 6 chương. Tham gia biên soạn gồm có: - TS. Phạm Thị Lý, TS. Nguyễn Thị Yến đồng chủ biên biên soạn chương 1, chương 3. - TS. Nguyễn Thị Yến, ThS. Nguyễn Thị Nhung biên soạn chương 2 và chuơng 4. - TS. Phạm Thị Lý, ThS. Phan Thị Vân Giang biên soạn chương 5. - TS. Nguyễn Thị Yen, TS. Trần Văn Quyết biên soạn chương 6. Mặc dù đã có nhiều cố gắng ưong việc lựa chọn, tiếp thu thành tựu của các tài liệu trong và ngoài nước, cũng như cập nhật các số liệu thực tiễn, nội dung bám sát đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, song giáo trình cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tập thể tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để hoàn thiện thêm giáo trình cho những lần tái bản sau. Tập thể tác giả. 12 Chưoiig 1 TỎNG QUAN VÈ PHÁT TRIỂN KINH TÉ Sản xuất của cải vật chất và cung ứng các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại của con người như ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, giải trí... là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Bởi vậy, từ xưa đến nay, sự tiến bộ của nền sản xuất xã hội trờ thành mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Sự tiến bộ đó liên quan tới hai khái niệm cơ bàn: tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tăng trường và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chù yếu về sự tiến bộ ứong mỗi giai đoạn của các quốc gia. Điều này càng có ý nghĩa quan ừọng đối với các nước đang phát triển ứong quá trình theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước phát triển. 1.1. Tăng trưỏng kinh tế 1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế Có những quan điểm khác nhau về khái niệm tăng trường kinh tế, tuỳ theo góc độ tiếp cận. Trước hết, tăng trưởng kinh tế được 13 quan niệm là sự gia tăng về lượng. Điều đó có nghĩa là, tăng trường kinh tế là kết quả của tái sàn xuất mở rộng theo chiều rộng tức là đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao động; và theo chiều sâu bàng cách ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, nâng cao tri thức, trình độ tay nghề, tính kỳ luật cho người lao động... Bên cạnh đó, tăng truờng kinh tế còn được hiểu theo cách thứ hai. Tăng trường kinh tế là sự gia tăng của các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên...). Hay tăng trưởng kinh tế còn được quan niệm là sự gia tăng cùa thu nhập bình quân trên đầu người. Vậy tăng trưởng kinh tế có thể hiểu là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế ứong một thời kỳ nhất định (thuờng là một năm). Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ mà nền kinh tế tạo ra. Từ những quan niệm ưên cho thấy, tăng trường kinh tế có điểm chung là đều đề cập đến sự gia tăng năng lực của nền sàn xuất. Bời vậy, tăng trưởng kinh tế có thể trình bày bằng đường giới hạn khả năng sản xuất. Khi đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển ra phía ngoài có nghĩa là nền kinh tế tăng trưởng. Xót trên góc độ kinh tc, tăng trưởng kinh tc có lililí hai mặt. lợi ích và chi phí. Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế có rất nhiều lợi ích. Từ những quan niệm và nhận thức về tăng trường kinh tế ừên đây, có thể thấy ngay rằng, tăng trưởng kinh tế là cơ sở, là điều kiện để cải thiện và nâng cao đời sống của dân cư. Tăng trường kinh tế là tiền đề quan ứọng bậc nhất để phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế - xã hội như: khoa học, giáo dục, y tế, thể dục thể thao... Do những lợi ích đó, tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu cần thiết với tất cả các quốc gia. Với các nước nghèo, lạc hậu, tăng trường 14 kinh tế càng trở nên quan trọng vì mức thu nhập, mức sống của dân cư thấp, nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội còn ở trình độ lạc hậu, tăng trường kinh tế càng trở thành động lực cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội. Thứ hai, tăng trưởng kinh tế cần chi phí. Nền kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên càng lớn, nguồn tài nguyên càng sớm bị cạn kiệt. Quy mô khai thác và sử dụng tài nguyên lớn, môi trường bị tổn hại và ô nhiễm. Nen kinh tế tăng trường nhanh, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội như: sự phân hoá giàu nghèo, sự phát triển của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội... Vậy khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội sẽ mất nhiều chi phí đề bù đắp cho những tổn hại đó. 1.1.2. Các dạng công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế - Các ký hiệu sử dụng để tính toán tăng trường kinh tế: 0, t : Ký hiệu cho thời điểm gốc (0) và thời điềm hiện tại (t) Y : Ký hiệu của chỉ tiêu sản lượng quốc gia p : Ký hiệu cho mức thu nhập bình quân đầu người (PCI) - Xác định mức tăng trưởng tuyệt đối: + Mức tăng trưởng sản lượng: AY = Y, - Y0 + Mức tăng trường PCI: AP = P( - p0 - Nếu so sánh mức tăng trưởng tuyệt đối với một đại lượng ở thời điểm gốc sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng: + Tốc độ tăng trưởng sản lượng (gy): 15 + Tốc độ tăng trường thu nhập bình quân đầu nguời (gp): + Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn (thời điểm 0 -» thời điềm t) gy= ” 1 - 1 (%/năm) gp =« - 1. ĨẼL V PI - 1 (%/năm) + Mối quan hệ giữa tăng trường GDP, hoặc GNI và dân số: gp = gy * gD với gD: Tốc độ gia tăng dân số (%) - Quy tắc 70: Neu một biến số nào đó tăng với tỷ lệ x%/ năm, 70 biến sô đó SC tăng gấp đôi trong vòng —— (năm). X Công thức trên cho thấy điều kiện để đảm bảo cho mức thu nhập bình quân đầu người có tăng trường (nếu xét trong ngắn hạn) thì tốc độ tăng sản lượng quốc gia phải luôn nhanh hơn tốc độ gia tăng dân số. Các quốc gia muốn duy trì tăng trường kinh tế ổn định thì cần tác động là gia tăng thích hợp. Do đó, các nước phát triển tác động để làm tăng lượng cầu để cung được tăng. Chẳng hạn như tác động vào nhu cầu tiêu dùng quần áo, thời ừang gia tăng để cung loại hàng hoá này tăng lên. 16 1.2. Khái niệm phát triển kinh tế 1.2.1. Phát triển kinh tế a. Phát íriên kinh tế Phát triền kinh tế là sự tăng lên về số lượng và sự thay đồi về chất lượng cùa đời sống kinh tế - xã hội. Hay, phát triển kinh tế là sự tăng lên về cơ sờ vật chất và sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, cuộc sống cùa người dân ngày càng được cải thiện và nâng cao. Vậy phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sàn lượng (tăng trưởng kinh tế) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội. Phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chù yếu sau: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế. Muốn phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội trước hết xã hội phải có thêm của cải, tức là năng lực cùa nền sản xuất phải được mở rộng hay nền kinh tế phải tăng trường. Những nước có nền kinh tế phát triển trước hết nền kinh tế phải tăng trường với tốc độ cao trong thời gian dài. Vì vậy, các nước nghèo, lạc hậu muốn tạo ra sự phát triển kinh tế phải coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số 1 trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Thử hai, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo hướng tiến bộ. Theo cách phân chia hiện đại, nền kinh tế gồm 3 khu vực: Khu vực I bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai khoáng; Khu vực II gồm có công nghiệp và xây dựng; Khu vực III là khu vực dịch vụ bao gồm các ngành như ngân hàng, bảo hiểm, thương mại, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, bưu điện... Khu vực I có đặc điểm: phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên, có chu kỳ sinh trưởng và phát ưiển dài, năng suất lao động và hiệu Quả kinh tế thấp. Do đó, 17 ữong cơ cấu các ngành kinh tế, nếu khu vực I càng chiếm tỷ trọng lớn, khu vực II và III càng chiếm tỷ trọng nhỏ bao nhiêu thì nền kinh tế càng phụ thuộc vào tự nhiên bấy nhiêu, năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội thấp bấy nhiêu. Và ngược lại, khu vực I chiếm tỷ trọng càng nhỏ, nền kinh tế càng ít phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất lao động và hiệu quả của nền sản xuất xã hội càng cao. Bởi vậy, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo hướng: khu vực I giảm tương đối về tỷ trọng, khu vực II và III tăng lên được coi là tiến bộ và sự thay đổi đó là một nội dung của phát triển kinh tế. Thứ ba, những tiến bộ kinh tế chủ yếu phải xuất phát tò động lực nội tại. Nền kinh tế tăng trưởng, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi tiến bộ chủ yếu phải do các nguyên nhân bên trong, do các nguồn lực ứong nước kể cả khi chúng được đầu tư ra nước ngoài. Do vậy, việc đề cao nội lực là cần thiết và đúng đắn. Thứ tưI chất lượng cuộc sống của dân cư không ngừng được cải thiện và nâng cao. Nói cách khác, người dân phải được thụ hường những thành quả của tăng trưởng kinh tế. Chất lượng cuộc sống được thể hiện ờ mức thu nhập, tuổi thọ, mức độ thụ hường của dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục, cơ hội lựa chọn trong việc thoả mãn các nhu cầu, sự đảm bảo về an ninh, sự bình đẳng, quyền tự do của công dân... Như vậy, khái niệm phát triển kinh tế có nội dung rộng hơn khái niệm tăng trưởng kinh tế. Nếu tăng trường kinh tế mới chi đề cập tới những thay đổi về lượng của nền kinh tế thì phát ứiển kinh tế không những đề cập tới những thay đổi về lượng, mà còn bao hàm cả những thay đổi về chất. 18 1.2.2. Phát triển kinh tế bền vững Từ những thập niên 70, 80 cùa thế kỷ trươc, khi tăng trường kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được một tốc độ khá cao, người ta bắt đầu có những lo nghĩ đến ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng trưởng nhanh đó đến tương lai con người. Chinh vì lý do đó vấn đề phát triển bền vững đã được đặt ra. Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn thiện. Năm 1987, quan niệm về phát triển bền vững được WB đề cập lần đầu tiên, theo đó phát triển bền vững là "Sự phát triên đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khá năng đáp ứng nhu cầu cùa các thế hệ tương lai...". Quan niệm đầu tiên về phát triển bền vững của WB chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bào đảm môi trường sống cho con người trong quá trinh phát triền. Ngày nay, quan điềm về phát fríen bền vững được đề cập một cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên nhiên, yếu tố môi trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan ứọng. Hội nghị Thượng đinh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự két hựp ch ặ t chữ, hợp lý, hài ỉioà giữa 3 m ặt của sự p h á t trien, gồm: tăng trướng kinh tế, cài thiện các vấn đề xã hội và bào vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá phát triển bền vững là sự tăng trường kinh tế ổn định: thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bào vệ và nâng cao chất lượng môi tnrờng sổng”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ quan điểm về phát triển bền vừng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2010: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng tnrờng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bào vệ môi trường", gắn sự phát 19 triển kinh tế với giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. 1.2.3. Các nhóm chỉ tiêu đánh giá phát triển kinh tế Phát triển kinh tế theo cách hiểu toàn diện như trên được đánh giá theo 3 tiêu thức cơ bản: tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự thay đổi trong các chỉ tiêu xã hội. 1.2.3.1. Đánh giá tăng trưởng kinh tế Theo mô hình kinh tế thị trường, thước đo tăng trường kinh tế được xác định theo các chỉ tiêu của hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Bao gồm một số chi tiêu sau: a. Tổng giá trị sàn xuất (GO - Gross output): Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỷ nhất định (thường là một năm). Chi tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo 2 cách. Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA). b. Tổng sản phàm quốc nội (GDP - Gross domestic product): Là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ cuối cùng tạo ra trong năm, bằng các yếu tố sản xuất trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Để tính GDP, có 3 cách tiếp cận cơ bàn là tiếp cận từ sản xuất, tiếp cận tò tiêu dùng và tiếp cận từ thu nhập. Theo cách tiếp cận từ sản xuất, GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền kinh tế. Nó được đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sàn xuất thường trú trong nền kinh tế. GDP = VA + Thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ 20 Trong đó: VA = GO - IC VA: Là giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế GO: Là tổng giá trị sản xuất của các ngành IC: Là chi phí trung gian của các ngành Tiếp cận từ chi tiêu (tiêu dùng), GDP là tổng giá trị được chi cho tiêu dùng cuối cùng của các hộ gia đình (C), và chi tiêu của Chính phủ (G), chi tiêu cho đầu tư tích luỹ tài sản (I) và chi tiêu qua thương mại quốc tế, tức là giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ kim ngạch nhập khẩu (X - M). GDP = C + G + I + (X -M ) Tiếp cận tà thu nhập, GDP được xác định trên cơ sở các khoản hình thành thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu, bao gồm: Thu nhập của người có sức lao động dưới hình thức tiền công và tiền lương (W); thu nhập cùa người có đất, có nhà cho thuê (R); thu nhập cùa người có tiền cho vay (In); thu nhập của người có vốn (Pr); khấu hao vốn cố định (Dp) và cuối cùng là thuế gián thu (Ti). GDP = w + R + In + Pr + Dp + Ti c. Tồng thu nhập quốc dân (GNI - Gross national income). Đây là chỉ tiêu xuất hiện ừong bàng SNA năm 1993 thay cho chi tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. v ề nội dung thì GNI và GNP là như Iihau, tuy nhiên, khi sử dụng GNI là muốn nói theo cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản xuất sản phẩm như GNP. Hiểu theo khía cạnh trên, GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo ra 21 trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần đầu có tính đến cả các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước ngoài. Như vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chinh theo con sổ chênh lệch thu nhập nhân tố với nuớc ngoài. GNI = GDP + Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài Chênh lệch thu Thu nhập lợi Chi trả lợi tức nhập nhân tố = tức nhân tố từ nhân tố ra với nước ngoài nước ngoài nước ngoài Sự khác nhau về lượng giữa GDP và GNI là ở phần chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài. Ờ các nước DPT thì GNI thường nhỏ hơn GDP vì thông thường phần chênh lệch này nhận giá trị âm. d. Thu nhập bình quân đầu người Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chi tiêu GDP và GNI còn được sử dụng để đánh giá mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia (GDP/ người, GNI/ người). Chi tiêu này phản ánh tăng trường kinh tế có tính đến sự thay đổi dân số. Quy mô và tốc độ tăng thu nhập binh quân đầu người là những chi báo quan trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày càng cao của chi tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững và nó còn được sừ dụng trong việc so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia với nhau. Theo dõi chi tiêu thu nhập bình quân đầu người có thể xác định khoảng thời gian cần thiết để nâng cao mức thu nhập lên gấp 2 lần dựa vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế theo dự báo. Một phương pháp đơn giản và khá chính xác tiếp cận đến con số này gọi là "Luật 70". Theo luật này. thời gian để thu nhập dân cư tăng lên gấp 2 lần được xác định xấp xỉ bằng 70 chia cho tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người hàng năm theo dự báo. Ví dụ, nếu tốc độ tăng trường thu nhập bỉnh quân đầu người cùa một nước đặt ra là 5%/ năm thì sẽ đạt được mức tăng gấp 2 lần sau khoảng 14 năm (70 : 5). Dự báo mức tăng thu nhập bình quân trên đầu người có ỷ nghĩa quan trọng trong nghiên cứu xu hướng chuyển biến thu nhập cùa các quốc gia từ nhóm này sang nhóm khác so với mức bình quân toàn thế giới. * Vẩn đề giá đê lính các chi tiêu tăng trường Các chỉ tiêu phàn ánh tăng trưởng kinh tế nêu trên đều được tính bằng giá trị. Giá sừ dụng để tính các chỉ tiêu tăng trưởng gồm 3 loại khác nhau: giá so sánh, giá hiện hành và giá sức mua tương đuơng. Giả so sảnh (giá cố định) là giá được xác định theo mặt bằng cùa một năm gốc. Năm được chọn làm năm gốc là năm mà nền kinh tế của quốc gia ít có những biến động lớn, và khoảng cách cua năm góc khõng nên quá xa so với nam hiện hành. Giá hiện hành là giá được xác định theo mặt bằng của năm tính toán. Giá sức mua lương đương (PPP - Purchasing power parity) do nhà thống kê học người Mỹ có tên là R. c. Geary đề xuất, theo đó giá được xác định theo mặt bằng giá quốc tế và hiện nay thường tính theo mặt bằng giá cùa nước Mỹ. Mỗi loại giá phàn ánh một ý nghĩa và được dùng vào những mục đích khác nhau. Chỉ tiêu tăng trưởng tính theo giá cố định phản ánh thu nhập thực tế, thường được sừ dụng để tính tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các thời kỳ và có ý nghĩa so sánh theo thời gian. Nếu tính theo giá hiện hành, kết quả nhận được là thu nhập danh nghĩa, thu nhập đạt được theo mặt bằng giá tại thời điểm tính toán và thường được sử dụng ừong việc xác định các chỉ tiêu có liên quan đến vốn đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế, ngân sách, thương mại... Để quy đổi GDP thực tế thành GDP danh nghĩa và ngược lại, cần sừ dụng thông tin về chỉ số điều chinh GDP (D= GDPn / GDPr (ĐVT: %)). Các chỉ tiêu tính theo giá ppp phản ánh thu nhập được điều chinh theo mặt bằng giá quốc tế và dùng để so sánh theo không gian. Chi tiêu thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương thường dùng để so sánh mức sống dân cư bình quân giữa các quốc gia, là cơ sở để các tổ chức quốc tế xét đoán việc cho vay hay điều kiện, thời hạn được vay đối với các nước khác nhau và xác định mức đóng góp của các nước thành viên trong các tổ chức quốc tế. 1.2.3.2. Đánh giả cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tồng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành ưong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Nếu các thước đo tăng trường phản ánh sự thay đổi về lượng, thi xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế là thề hiện mặt chất kinh tế ừong quá trình phát triển. Đánh giá sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc độ của cơ cấu kinh tế. 24 a. Cơ cấu ngành kinh tế v ề lý thuyết, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả mặt định lượng và định tính. Mặt định lirợng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn cùa mỗi ngành trong tổng thề kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan trọng cùa mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dàn. Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chù yếu dựa vào nông nghiệp, tỳ trọng nông nghiệp cùa các nước này thường chiếm tìr 20% - 30% GDP. Trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ ừọng thu nhập từ nông nghiệp chi chiếm từ 1% - 7%. b. Cơ cấu vùng kinh tế Sự phát triển kinh tế còn được thể hiện ờ cơ cấu vùng kinh tế theo góc độ thành thị và nông thôn. Ờ các nước đang phát ưiển, kinh tế nông thôn chiếm tỷ trọng rất cao. Theo số liệu của ngân hàng thể giới (WB) vào cuối thập niên 90 cùa thế kỷ trước, 45 nước có mức thu nhập thấp nhất, tỷ ứọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 63 nước có mức thu nhập thấp tiếp theo, con số này là 65%. Trong khi đó, các nước phát triển có hiện tượng đối ngược lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thi Một xu hướng khá phổ biến của các nước đang phát triển là luôn có một người di cư từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả "lực đẩy" ra khỏi khu vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như sự thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả "lực hút" từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra áp lực rất mạnh đối với Chính phủ các nước đang phát triền. Mặt khác, việc thực hiện các chính sách công nghiệp hoá nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ thống công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng kinh tế ở thành thị tại các nước đang phát triển ngày càng 25 tăng lên, tốc độ tăng dân số thành thị cao hơn so với tốc độ tăng trường dân số và đó chính là xu thế phát triển họp lý trong quá trình phát triển. c. Cơ cấu thành phần kinh tế Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội hoá về tu liệu sản xuất và tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Nhìn chung, ở các nước phát triển khu vực kinh tế tu nhàn thường chiếm tỳ trọng cao và nền kinh tế phát ưiển theo con đường tư nhân hoá. Nước ta hiện nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế là: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn ĐTNN. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối xử, đều có môi trường và điều kiện phát ứiển như nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Sau nhiều năm thực hiện đổi mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực có vốn ĐTNN ở Việt Nam có xu hướng phát triển tốt, đóng góp một phần khá lớn vào sự phát fríen kinh tế đất nước. c7 Cơ cấu khu vực thể ché Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế được phân chia dựa trên cơ sở vai trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua đó đánh giá được vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyền nền kinh tế cũng như mối quan hệ giữa chúng ừong quá trình thực hiện sự phát fríen. Các đơn vị thể chế thường trú trong nền kinh tế được chia thành 5 khu vực: Khu vực Chính phủ gồm tất cả các hoạt động được thực hiện bằng ngân sách nhà nước, khu vực tài chính, khu vục phi tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ hộ gia đình bao gồm các tổ chức hoạt động với mục đích từ 26 thiện, phi lợi nhuận. Mục tiêu của khu vực Chính phủ là bảo đảm các hoạt động công cộng, tạo điều kiện bình đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bàng xã hội. Các đơn vị thuộc khu vực phi tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nhưng ở trên thị trường tài chính. Các hộ gia đình hoạt động theo mục tiêu khác với các khu vực trên, chúc năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy vậy họ cũng có thề tham gia vào các hoạt động sản xuất dưới hình thức cung cấp sức lao động cho các doanh nghiệp hoặc tự sản xuất dưới dạng các đơn vị sản xuất cá thể. Các tổ chức vô vị lợi phục vụ hộ gia đình với nguồn tài chính quyên góp tụ nguyện như các tổ chức từ thiện, cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ người tàn tật... theo đuổi mục tiêu phục vụ không vi lợi nhuận, cung cấp hàng hoá và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền hoặc lấy với giá không có ý nghĩa kinh tế. e. Cơ cấu tái sàn xuất Đây là cơ cấu kinh tế hiểu theo góc độ phân chia tổng thu nhập của nền kinh tế theo tích lũy - tiêu dùng. Phần thu nhập dành cho tích luỹ tăng lên và chiếm tỳ ưọng cao là điều kiện cần thiết cung cấp vốn lớn cho quá trình tái sản xuất mờ rộng của nền kinh tế. Tỷ trọng thu nhập dành cho tích luỹ ngày càng cao chính là xu thế phù họp trong quá trình phát triển, tuy nhiên việc gia tăng tỷ trọng thu nhập dành cho tích luỹ tái đầu tư phải có tác dụng dẫn đến gia tăng mức thu nhập dành cho tiêu dùng cuối cùng trong tương lai vì đó là kết quả của quá trình tích luỹ. Theo số liệu thống kê năm 2003 (Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2005), Trung Quốc đã dành 42% thu nhập cho tích luỹ, Hàn Quốc là 29%, Ân Độ là 24%. Việt Nam ưong những năm gần đây đã có những xu hướng tích cực trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tích luỹ với tiêu dùng. Tỷ lệ tích luỳ nội bộ trong thu nhập đã có xu hướng ngày càng 27 tăng lên, năm 2000 con sổ này là 27,1% năm 2001 là 30,5%, năm 2002 là 31,8% và năm 2003 đã lên tới 32,8%. Cùng vói sự gia tăng của tỷ ừọng thu nhập dành cho tích luỹ, tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng ở Việt Nam cũng có xu thế tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số, nếu năm 2000 tiêu dùng cuối cùng tăng 3,3%, tốc độ tăng dân số là 1,36% thì năm 2002 các số liệu tương ứng là 7% và 1,32%. / Cơ cấu thương mại quốc tế Trong quá trình phát triển kinh tế, những câu hỏi thường đặt ra đối với mỗi nước là nền kinh tế của quốc gia đã "mỡ" chưa và nếu mở thì "mở" như thế nào? và tính chất của hoạt động xuất nhập khẩu ra sao? Nhìn chung, tất cả các nước giàu hay nghèo đều tham gia một cách đáng kể vào thương mại quốc tế. Tuy vậy, thành phần hoạt động ngoại thương là dấu hiệu đánh giá sự phát triển của mỗi nước. Các nước DPT thường xuất khẩu những sản phẩm thô như: nguyên liệu, nông sản, thực phẩm hay những sản phẩm thuộc các ngành dệt, may, công nghiệp nhẹ còn các nước phát triển thường xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm đã qua chế biến, các hàng hoá vốn hoặc những hàng hoá lâu bền. Cơ sớ lý giái cho xu hướng này chính là lý thuyết về lợi thế so sánh. Theo đó, các nước sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các hàng hoá mà nước đó có lợi thế tương đối về chi phí sản xuất các mặt hàng đó. Các nước đang phát triển trong khi xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô với giá trị thấp, nhưng lại phải nhập khẩu một khối lượng lớn cả hàng hoá là nguyên liệu đầu vào, hàng hoá vốn cũng như một số hàng hoá tiêu dùng cuối cùng. Kết quả là ở các nước này, luôn phải chấp nhận tình trạng thâm hụt thương mại quốc tế. Tuy vậy, theo xu thế phát triển của mỗi nước, nền kinh tế có xu hướng mở ngày càng đa 28 dạng, mức độ thâm hụt thương mại quốc tế ngày càng giảm đi theo xu thế giảm dần tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá thô, hàng hoá có dung lượng lao động cao và tăng dần các hàng hoá có giá trị kinh tế lớn và dung lượng vốn cao. Ngoài các dạng trên, cơ cấu kinh tế cùa mỗi quốc gia còn được hiểu theo những góc độ khác như: cơ cấu theo tính chất xã hội, cơ cấu theo tính chất kỹ thuật, cơ cấu theo quy mô sản xuất... Mỗi dạng đều phản ánh những khía cạnh và tính chất khác nhau của quá trình phát triển kinh tế. 1.2.3.3. Đánh giá sự phát triển xã hội Tiến bộ xã hội mà trung tâm là vấn đề phát triển con người được xem là tiêu thức đánh giá mục tiêu cuối cùng của phát triển. Sự phát triển xã hội thường được xem xét trên các khía cạnh chính sau đây: a. Nhu cầu cơ bản của con ngicời Việc đáp ứng nhu cầu nhằm phát triển con người là mục tiêu cơ bản nhất cùa quá trình phát triển. Nó bao gồm các nhu cầu xã hội cơ bản và những nhu cẩu xã hội chất lượng cao trên các lĩnh vực chủ yếu như: nhu cầu mức sống vật chất, nhu cầu giáo dục, nhu cầu chăm sóc sức khoè, nhu cầu việc làm. Các nhu cầu đó được phản ánh bằng các chỉ tiêu cụ thể của từng lĩnh vực, bao gồm: Thứ nhắt, nhóm các chỉ tiêu phản ánh mức sống. Nhu cầu mức sống vật chất thể hiện ở nhu cầu hấp thụ calori tối thiểu bình quân trên một ngày đêm của con người từ 2100 - 2300 calori, sẽ đảm bảo khả năng sống và làm việc bình thường, có xét tới cơ cấu nam, nữ, ứọng lượng cơ thể cũng như điều kiện khí hậu môi truờng. Để đảm bảo nhu cầu hấp thụ calori ở mức tối thiểu, con 29 người cần có một khoản thu nhập nhất định để chi tiêu cho lưcmg thực, thực phẩm. Như vậy, chi tiêu mức GNI/ người là thước đo chính thể hiện việc đảm bảo nhu cầu hao phí vật chất cho dân cư mỗi quốc gia. Chỉ tiêu GNI/ người càng cao là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất cho con nguời. Ngoài ra, một số chi tiêu khác cũng phản ánh mức sống vật chất như lượng lương thực bình quân đầu người, tỷ lệ phụ thuộc lương thực nhập khẩu, tỷ lệ cung cấp calori bình quân đầu người một ngày đêm so với nhu cầu tối thiểu. Các nuớc phát triển hiện nay đã đạt được mức thu nhập bình quân trên đầu người khá cao, theo số liệu của WB mức trung bình của các nước này năm 2002 Là 27.680 USD (theo PPP), nhiều nước đã đạt tới mức trên 30.000 USD/người như: Mỹ 37.610 USD, Thụy Sỹ 32.030 USD, Na Uy 37.300 USD. Trong khi đó, nhóm 45 nước DPT có mức thu nhập thấp nhất chỉ đạt 2.190 USD/ người, nhiều nước chỉ đạt mức dưới 1.000 USD (số liệu báo cáo phát triển thế giới 2005). Việt Nam trong quá trinh thực hiện mục tiêu tăng trường kinh tế nhanh đã đạt mức thu nhập bình quân đầu người ngày càng tăng. Nếu năm 1996, theo ppp thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam mới đạt được 1.263 USD, tliì đến năm 2001 đã đạt được 2.070 USD, năm 2002 là 2.240 USD và năm 2003 lên đến 2.490 USD, cao hơn mức trung bình của các nước có mức thu nhập thấp. Tuy vậy, mức Việt Nam đạt được thấp hơn nhiều so với mức trung bình thế giới (7.570 USD) và vẫn chưa thoát ra khỏi danh sách các nước nghèo nhất. Thu nhập bình quân đầu người là điều kiện vật chất cơ bản để phát triển con người. Song, điều quan ứọng hon là việc phân phối mức thu nhập đó cho quảng đại quần chúng nhân dân như tlìế nào? Điều này có liên quan đến những chỉ tiêu khác về phát fríen xã hội. 30 Thứ hai, nhóm chỉ tiêu phản ánh giáo dục và ừình độ dân tri. LHQ đã đưa ra những chi tiêu đánh giá về trình độ dân ữí và giáo dục như: Tỷ lệ người lớn biết chữ (tính cho những người từ đủ 15 tuổi trở lên) có phân theo giới tính, khu vực; Tỷ lệ nhập học các cấp tiểu học, trung học cơ sở, phổ thông trung học; số năm đi học trung bình (tính cho những người từ đủ 7 tuổi trở lên); Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục so với tổng chi ngân sách hoặc so với GDP. Kinh tế càng phát triển thì các chi tiêu trên ngày càng tăng lên. Thứ ba, nhóm chì tiêu về tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khoè, gồm: Tuổi thọ bình quân tính từ thời điểm mới sinh; Tỷ lệ trè em chết yểu có thể tính cho những trẻ em chết trong vòng 1 năm hoặc trong thời gian 5 năm; tỷ lệ ữè em suy dinh dưỡng theo các tiêu chuẩn chiều cao, cân nặng; Tỷ lệ các bà mẹ tù vong vì lý do sinh sản được tính bằng số bà mẹ chết ữong thời gian mang thai hoặc sau khi sinh so với 1000 trẻ em sinh ra còn sống; Tỷ lệ ứẻ em được tiêm phòng dịch; Tỷ lệ chi ngân sách cho y tế. Thứ tư, nhóm chi tiêu về dân số và việc làm gồm: tốc độ tăng trường dân số tự nhiên, tỳ lệ thất nghiệp thành thị, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn. Các nước DPT thường có tốc độ tăng trưởng dân số cao hơn mức trung bình thể giói. Theo thống kê của WB, hàng năm, dân số thế giới tăng lên khoảng 92 triệu người, ứong đó 82 triệu là từ các nước đang phát fríen. Tốc độ tăng dân số cao dẫn đến tốc độ tăng trưởng lao động lớn hơn so với khả năng tăng trưởng việc làm và tình trạng thất nghiệp ưở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Một tốc độ tăng trưởng dân số ngày càng thấp thể hiện xu thế cùa sự phát fríen và kéo theo đó là tỷ lệ thất nghiệp ngày càng giảm đi. Các chỉ tiêu trên phụ thuộc vào trình độ phát fríen kinh tế, mức thu nhập dân cu. Tuy vậy, I1Ó còn phụ thuộc vào chính sách và sự quan tâm của Chính phủ đối với vấn đề này. Vì vậy, có nhiều nước có mức thu nhập thấp nhưng lại có sự tiến bộ lớn trong lĩnh vực xã hội, một vài chi tiêu còn đạt được tương đương với mức của các nước phát triển, trong khi đó nhiều nước có mức thu nhập cao hơn nhưng lại không đạt được các chỉ tiêu xã hội tương ứng. Các chi tiêu nói fren chỉ phản ánh từng lĩnh vực khác nhau của phát triển xã hội. Đe đánh giá tổng hợp và xếp loại trình độ phát triển kinh tế - xã hội chung giữa các quốc gia hay giữa các địa phương, năm 1990 LHQ đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp có tên gọi là Chỉ số phát triển con người (HDI - Human Development Index). HDI chứa đựng 3 yếu tố cơ bản: Tuổi thọ bình quân của người dân 1 nước được phản ánh bằng số năm sống; trinh độ giáo dục được đo bằng cách kết hợp tỷ lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ tổng hợp đi học, mức thu nhập bình quân trên đầu người (tính theo phương pháp sức mua tương đương), HDI được tính theo phương pháp chỉ số và nhận giá trị lớn nhất bằng 1, nhỏ nhất bằng 0 (0 Y0, PL[ < PLo) tức là mức thu nhập tăng lên và mức giá cả chung giảm đi. Ngược lại, nếu một trong các yếu tố của tổng cung thay đổi theo chiều hướng giảm, tổng cung sẽ giảm và đường A So dịch chuyển sang trái lên trên đến AS2. Với giả thiết các yếu tố khác không đổi điểm cân bằng sẽ dịch chuyển lên điểm E2 (Y2 < Yo, PL2 > PLo). 41 b. Các nhân tố tác động đến tổng cầu Yếu tố liên quan trực tiếp đến đầu ra của nền kinh tế chính là khả năng chi tiêu, sức mua và năng lực thanh toán, túc là tổng cầu (AD) của nền kinh tể. Có 4 yếu tố trực tiếp cấu thành tổng cầu bao gồm: - Chi cho tiêu dùng cá nhân (cy. Gồm các khoản chi tiêu cố định, chi thường xuyên và các khoản chi tiêu khác ngoài dự kiến phát sinh. Chi cho tiêu dùng cá nhân phụ thuộc vào tổng thu nhập khả dụng (DI) và xu hướng tiêu dùng biên (MPC) được xác định tuỳ theo từng giai đoạn phát triển nhất định của nền kinh tế. - Chi tiêu cùa Chính phũ (G): Gồm các khoản mục chi mua hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ. Nguồn chi tiêu của Chính phủ phụ thuộc vào khả năng thu ngân sách bao gồm chù yếu là các khoản thu từ thuế, phí và lệ phí. - Chi cho đầu tư (I): Đây thực chất là các khoản chi tiêu cho các nhu cầu đầu tư của các DN và các đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động. Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm của các khu vực của nền kinh tế, trong đó đầu tư khôi phục tức là đầu tư bù đắp giá fri hao mòn được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực Nhà nước, các hộ gia đình và DN. - Chi tiêu qua hoat động xuất nhập khấu (NX - X - M). Thực tế, giá trị hàng hoá xuất khẩu là các khoản phải chi tiêu cho các yếu tố nguồn lực trong nước, còn giá trị nhập khẩu là giá trị của các loại hàng hoá sừ dụng ứong nước nhưng lại không phải bỏ ra các khoản chi phí cho các yếu tố nguồn lực ữong nước nên chênh lệch giữa kim ngạch xuất và nhập khẩu (NX) chính là khoản chi phí ròng phải bỏ ra cho quan hệ thương mại quốc tế. Do sự tác động của thị trường, các yếu tố của tổng cầu thường xuyên biến đổi, nếu tổng cầu bị giảm sút sẽ gây lãng phí rất lớn các 42 yếu tố nguồn lực của quốc gia đã có, nhưng không được huy động và làm hạn chế mức tăng trưởng thu nhập, còn ngược lại, nếu tổng cầu quá cao sẽ làm cho mức thu nhập cùa nền kinh tế tăng nhưng giá cả các yếu tố nguồn lực trờ nên đắt đỏ sẽ đẩy mức giá chung (PL) cùa nền kinh tế tăng lên. Chính phù căn cứ vào tính chất tác động này để có các chính sách điều tiết tổng cầu sao cho bảo đảm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng tương ứng với yêu cầu ổn định giá. Việt Nam trong quá trình theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nhanh và nàng cao dần chất lirợng tăng trưởng, sự tác động của các yếu tố đầu ra (tồng cầu) đến tăng trưởng đã có sự thay đổi đáng kể: từ năm 2000 đến nay, tích luỹ đầu tư và tiêu dùng cuối cùng đã trở thành những yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, con số đóng góp "âm" của yếu tố xuất khẩu ròng từ vài năm nay là vấn đề rất đáng quan tâm, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, tự do hoá thương mại. Tính chất tác động của tổng cầu đến tăng trưởng kinh tế được phân tích khái quát qua mô hình tổng cung - tổng cầu (AS - AD) như sau: Sư đồ 1.2. Mô hình AS - AD vói sự dịch chuyên của đường AD 43 Theo sơ đồ ừên, nếu điểm cân bằng ban đầu của nền kinh tế là Eo (Y0, PL0). Nếu vì một lý do nào đó mà một ứong 4 yếu tố tổng cầu thay đổi theo hướng tăng lên, sẽ làm cho tổng cầu tăng lên và đường AD0 dịch chuyển lên fren về phía phải (ADi). Với giả thiết các yếu tố khác không đổi, điểm cân bang Eo dịch chuyển lên El và kết quả mức thu nhập Y0 tăng lên đến Y! tức là tăng trưởng kinh tế sẽ tăng lên nhưng mức giá cả chung PLo cũng tăng lên đến PL]. Ngược lại, nếu tổng cầu giảm, AD0 dịch chuyển sang trái xuống dưới (AD2), các yếu tố khác không đổi điềm cân bằng E0 dịch xuống điểm E2, kết quả mức thu nhập Y0 giảm xuống Y2 và mức PL cũng giảm theo những dao động của nền kinh tế. Chính phù thông qua công cụ hoạch định và các chính sách định hướng, điều tiết vĩ mô. Chính phủ còn đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và điều tiết tổng cầu của nền kinh tế nhằm duy trì ưạng thái cân bằng. 1.3.2. Các nhân tổ ảnh hưởng gián tiếp Khác với các yếu tố kinh tế, các nhân tố chính trị, xã hội, thể chế hay là các nhân tố phi kinh tế có tính chất và nội dung tác động khác, ảnh hường của chúng là gián tiếp và không thể lượng hoá cụ thể được mức độ tác động của chúng đến tăng trường kinh tế. Các nhân tố phi kinh tể không tác động một cách riêng rẽ mà mang tính tổng hợp, đan xen, tất cả lồng vào nhau, tạo nên tính chất đồng thuận hay không đồng thuận trong quá trình tăng truờng và phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy mà người ta không thể phân biệt và đánh giá phạm vi, mức độ tác động của từng nhân tố đến nền kinh tế. Có rất nhiều nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trường và phát triển: thể chế chính trị - xã hội, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn giáo, các đặc điểm tự nhiên khí hậu, địa vị của các thành viên trong 44 cộng đồng và khả năng tham gia cùa họ vào quản lý đất nước. Những nhân tố quan ừọng nhất cần được phân tích cụ thể gồm: a. Đặc điêm văn hoá - xã hội: Là nhân tố quan trọng có tác động nhiều tới quá trình phát triển đất nuớc. Nhân tố văn hoá - xã hội bao trùm nhiều mặt từ các tri thức phổ thông đến các tích luỹ tinh hoa của nền văn minh nhân loại về khoa học, công nghệ, văn học, lối sống và cách ứng xử trong quan hệ giao tiếp, những phong tục tập quán... Trình độ văn hoá cao đồng nghĩa với trình độ văn minh cao và sự phát triển cao cùa mỗi quốc gia. Nói chung, trình độ văn hoá của mỗi dân tộc là nhân tố cơ bàn để tạo ra sự thay đổi về chất lượng lao động, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý kinh tế - xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế hiện đại thì nó là nhân tố cơ bản của mọi nhân tố dẫn đến quá trình phát triển. Vì thế trinh độ phát triển cao của văn hoá là mục tiêu phấn đấu cho sự phát triển. Mặc dù trên thực tế có sự khác biệt trong mỗi khía cạnh của nội dung văn hoá giữa các dân tộc, song điều đó không có trờ ngại cho sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia và thường tìm được sự hoà hợp. F)ể tao Hựng quá trinh tăng tnrờng và phát triển bền vững thì đầu tư cho sự nghiệp phát ưiển văn hoá phải được coi là những đầu tư cần thiết nhất và đi trước một bước so với đầu tư sàn xuất. b. Thể chế chính trị - kinh tế - xã hội: Các thể chế chính trị - xã hội - kinh tế được thừa nhận tác động đến quá trình phát triển đất nước theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tu. Thể chế biểu hiện như là một lực lượng đại diện có ý chí của cộng đồng, nhàm điều chinh các mối quan hệ kinh tế, chính trị và xã hội theo lợi ích của cộng đồng đặt ra. Thể chế được thể hiện 45 thông qua các dự kiến mục tiêu phát triển, các nguyên tắc tổ chức quản lý kinh tế xã hội, hệ thống luật pháp, các chế độ chính sách, các công cụ và bộ máy tổ chức thực hiện. Một thể chế chính trị-x ã hội ổn định và mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đồi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại, một thể chế không phù hợp sẽ gây ra cản trờ, mất ổn định, thậm chí đi đến chỗ phá vỡ những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế đi vào tình trạng suy thoái, khủng hoảng trầm ứọng hoặc gầy ra xung đột chính trị, xã hội. Một thể chế phù hợp với sự phát triển hiện đại mang trong mình những đặc trưng: có tính năng động, nhạy cảm và mềm dẻo, luôn thích nghi được với những biển đồi phức tạp do tình hình trong nước và quốc tế xảy ra; bảo đảm sự ổn định của đất nước, khắc phục được những mâu thuẫn và xung đột có thể xảy ra ứong quá trình phát triển; tạo điều kiện cho nền kinh tế mờ hoạt động có hiệu quả, nhằm tranh thủ vốn đầu tư và công nghệ tiên tiến cùa thế giới; tạo được đội ngũ đông đảo những người có năng lực quàn lý, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến đủ sức lựa chọn và áp dụng thành công các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến vào sản xuất trong nuớc, cũng như đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; tạo được sự kích thích mạnh mẽ mọi nguồn lực vật chất trong nước hướng vào đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Tuy vậy dù quan ứọng đến đâu chăng nữa, yếu tố thể chế cũng chi tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tức là tạo các điều kiện thuận lợi để hướng hoạt động theo mục tiêu có lợi và hạn chế các mặt bất lợi. Sẽ là sai lầm nếu dùng thể chế làm thay cho tất cả và tạo ra tất cả theo ý muốn. c. Cơ cấu dân tộc Trong mỗi quốc gia, có các cộng đồng người, các dân tộc khác nhau cùng sống, họ có thể khác nhau về chùng tộc (sắc tộc, bộ 46 tộc), khác nhau về khu vực sinh sống (miền núi, đồng bằng, trung du) và với quy mô khác nhau so với tổng dân số quốc gia (thiểu số, đa số). Do đó có những điều kiện sống khác nhau về trình độ tiến bộ văn minh, về mức sống vật chất, về vị trí địa lý và địa vị chính trị - xã hội trong cộng đồng. Sự phát triển cùa tông thể kinh tế có thề đưa đến những biến đổi có lợi cho dân tộc này, nhưng bất lợi cho những dân tộc kia. Đó chính là nguyên nhân nảy sinh xung đột giữa các dân tộc ảnh hường không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế đất nước. Do vậy phải lấy tiêu chuẩn bình đẳng, cùng có lợi cho tất cả các dân tộc, nhưng lại bảo tồn được bản sắc riêng và các truyền thống tốt đẹp của mỗi dân tộc, khắc phục được các xung đột và mất ổn định chung của cộng đồng. Điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trường và phát triền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. d. Cơ cấu tôn giáo Vấn đề tôn giáo đi liền với vấn đề dân tộc, mỗi tộc người đều theo một tôn giáo. Trong một quốc gia có nhiều tôn giáo. Các dân tộc ít người, ít tiếp xúc với thế giới hiện đại thuờng tôn thờ các thần linh tuỳ theo quan niệm. Mỗi tôn giáo còn chia làm nhiều giáo phái, mỗi giáo phái có đao giáo riêng với những quan niệm, triết lý tư tưởng riêng, bám sâu vào cuộc sống cùa dân tộc từ lâu đời, tạo ra những ý thức tâm lý - xã hội riêng của dân tộc. Những ý thức tôn giáo thường là cố hữu, ít thay đổi theo sự phát triển kinh tế xã hội. Những thiên kiến của tôn giáo nói chung có ảnh hưởng đến sự tiến bộ xã hội tuỳ theo mức độ, song có thể là sự hoà hợp, nếu có chính sách đúng đắn của Chính phủ. e. Sự tham gia của cộng đồng Dân chủ và phát triển là hai vấn đề có tác dụng tương hỗ nhau. Sự phát triển là điều kiện làm tăng thêm năng lực thực hiện 47 quyền dân chủ của cộng đồng trong xã hội. về phía mình, sự tham gia của cộng đồng là một nhân tố đảm bảo tính chất bền vừng và tính động lực nội tại cho phát triển kinh tế, xã hội. Các nhóm cộng đồng dân cư tham gia ứong việc xác định các mục tiêu của chương trình, dự án phát triển quốc gia, nhất là các mục tiêu phát triển các địa phương của họ, tham gia ứong việc tổ chức cung cấp nguồn lực cấn thiết, tham gia trong quá trình tổ chức thực hiện, kiểm tra giám sát các hoạt động phát triển tại cộng đồng và tự quản lý các thành quà của quá trình phát triển. Đó chính là yếu tố cần thiết cho một xã hội phát triển nhằm tạo dựng sự nhất trí cao, tính hiệu quả và sự thích ứng, ổn định trong thực hiện mục tiêu phát triển, đồng thời khích lệ được tiềm năng của mọi cá nhân và cả cộng đồng vào quá trình phát triển kinh tế, giảm thiểu hiện tượng tham nhũng trong xã hội. Để sự tham gia của cộng đồng thực sự có hiệu quả và tránh hệ quả không tích cực của yếu tố này, cần có cơ chế xác định mức độ tham gia của dân cư ừong các hoạt động phát triển như quy định những việc dân cần biết, dân cần bàn, đuợc trực tiếp gắn với hình thức tổ chức sự tham gia cụ thể như: công đoàn, các hiệp hội trên địa bàn dân cư, hiệp hội ngành nghề trong các tổ chức kinh doanh, các hội đồng trong đó có sự góp mặt của thành phần dân cư. 1.4. Phân nhóm các nước theo sự phát triển kinh tế - xã hội 1.4.1. Cơ sở phân loại a. Sự xuất hiện thế giới thứ ba Cho tới năm 1945, nhiều quốc gia Tây Âu, nhất là các nước Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha vẫn còn kiểm soát những thuộc địa rộng lớn. Sau chiến ứanh thế giới lần thứ 2, các dân tộc bị thực dân cai trị đã không còn cam chịu sự đô hộ. Đầu tiên, làn sóng 48 giải phóng thuộc địa bùng nổ mạnh mẽ ở châu Á. Indonesia giành độc lập năm 1945 sau cuộc đấu tranh vũ trang chống lại thực dân Hà Lan. Sau thất bại Điện Biên Phủ ở Việt Nam, thực dân Pháp phải rút khỏi Đông Dirơng. Sau châu Á, cao ừào giải phóng thuộc địa lan sang châu Phi. Năm 1954, các lực lượng đấu tranh đòi độc lập của Angieria chuyển sang đấu tranh vũ trang, đến năm 1962, Pháp phải ký hiệp định công nhận quyền độc lập của nước này. Tiếp đó, tất cả các thuộc địa Pháp ở châu Phi đều lần lượt được trao trả độc lập, cùng theo đó là Côngô (thuộc Bỉ), Nigieria (thuộc Anh), Angôla, Mozambique (thuộc Bồ Đào Nha). Với việc giải phóng thuộc địa, một nhân tố mới đã xuất hiện trên trường chính trị quốc tế: "Thế giới thứ ba", được gọi để phân biệt với "thể giới thứ nhất" là các nước có nền kinh tế phát ưiền - đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, những nước này phần lớn ở Tây Âu nên còn gọi là các quốc gia phía Tây. "Thế giới thứ hai" là các nước có nền kinh tế tương đối phát triển - đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, những nước này tập trung ở Đông Âu nên còn gọi là các quốc gia phía Đông. n ể tránh rơi vào khối này hoăc khối khác, nhiều quốc gia thuộc thế giới thứ ba đã tìm cách liên kết với nhau, phủ nhận việc phân chia thế giới thành Đông - Tây. Tháng 4/1955, tại Indonesia đã diễn ra hội nghị Bandung của các nhà lãnh đạo 24 quốc gia châu Á và châu Phi. Tại hội nghị này đã có chủ trương trung lập, "không liên kết", nhũng nguời tham gia cũng khẳng định mong muốn hình thành một nguyên tấc quốc tế mới, giành ưu tiên cho các quốc gia nghèo, giúp các quốc gia này thoát khỏi tình trạng chậm phát triền. Tinh thần cùa hội nghị Bandung đã thổi một luồng sinh khí mới vào trong các quan hệ quốc tế. Nó vạch rõ khả năng phát fríen theo con 49 đường thứ ba: Không phải hướng về Đông hoặc Tây, mà về phương Nam nghèo đói. Đen đầu những năm 60, từ thực tiễn phải đối đầu với những vấn đề tương tự nhau, các quốc gia thuộc thế giới thứ ba ngày càng liên kết lại, họ đòi hỏi phải thay đổi các quan hệ kinh tế toàn cầu. Ví dụ, để khuyến khích sản xuất trong nước, các quốc gia này cần được quyền đánh thuế hoặc hạn chế một số mặt hàng nhập khẩu mà không sợ bị trừng phạt từ các nước liên quan. Năm 1963, tại hội nghị nhóm 77 quốc gia thuộc thế giới thứ ba đã yêu cầu LHQ ưiệu tập hội nghị về thương mại thế giới. Họ nhấn mạnh cần có những quan hệ thương mại công bằng hơn giữa những nước giàu có phương Bắc với các nước nghèo ở phương Nam. Theo đó, năm 1964 lần đầu tiên đã diễn ra hội nghị LHQ về thưang mại và phát triển với mục tiêu thặng dư thương mại quốc tế, thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia nghèo, yêu cầu các nước giàu phải mở cửa thị trường cho hàng hoá của các nước thế giới thứ ba và phải giúp các nước này nâng cao năng lực sàn xuất. Tiếp đó năm 1974, LHQ đưa ra tuyên bố ủng hộ việc xây dựng một "ứật tự kinh tế quốc tế mới" làm cơ sờ thúc đẩy cuộc đối thoại Bắc - Nam. b. Phân chia các nước theo trình độ phát triển kinh íế Dưới giác độ kinh tế, các nước thuộc thế giới thứ ba còn được gọi là các nước đang phát ưiển (Developing coutries). Khái niệm này bắt đầu xuất hiện vào những năm 60, khi đó, các nước thuộc thế giới thứ ba đều đứng trước sự cấp bách về giải quyết vấn đề phát triển kinh tế. Khái niệm này cũng được dùng để phân biệt với các nước giàu ở phía Bắc, được gọi là các nuớc phát triển, đây là các nước đã có thời kỳ dài CNH và trở thành các nước công nghiệp phát triển. Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến nay, các nước đang phát triển đã có sự phân hoá mạnh, một số nước đã tìm kiếm 50 được con đường phát triển đúng đắn cho đất nước mình và vượt lên hàng đầu giữa các nước đang phát triển và trờ thành các nước công nghiệp mới (NICs). Một số nước khác do ưu đãi của thiên nhiên đã có được những mò dầu lớn, tạo nguồn thu nhập lớn cho đất nước. Xuất phát từ thực tế này, WB đề nghị một sự sắp xếp các nước trên thế giới thành 4 nhóm. Căn cứ đề phân loại là mức thu nhập bình quân đầu người (GNI/ người). Bên cạnh đó còn tính đến trình độ cơ cấu kinh tế và mức độ thoả mãn nhu cầu xã hội cùa con người. Nhóm 1: Các nước công nghiệp phát triên (Developed coutries: Có khoản trên 30 nước bao gồm nhóm 8 nước công nghiệp đứng đầu thế giới (G8) và các nước công nghiệp phát triển khác. Đại bộ phận các nước này tham gia vào Tồ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Các nước thuộc nhóm G8 là Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Anh, Đức, Italia, Canada và Nga. Những nước này nằm trong số những quốc gia có quy mô GNI lớn nhất thế giới (ưên 500 tỷ USD) và GNI/người cao nhất thế giới (trên 20.000 USD/ người). 8 nước này chiếm 75% tổng giá trị công nghiệp toàn thế giới. Các nước công nghiệp phát triển khác bao gồm phần lớn các nước Tây Âu, Bắc Âu, Đông Âu cùng với ú c và Niudilân. Các nước này đều có mức ONI/ nguừi đạt trên 15.000 USD/ người và có tỷ trọng công nghiệp cao trong nền kinh tế. Nhóm 2: Các nước công nghiệp mới (NICs - Newly Industrial Coulries). Đây là những nước ngay từ thập kỷ 60, trong đường lối phát triển kinh tế của mình đã biết tận dụng lợi thế so sánh của đất nước qua từng thời kỳ để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Họ cũng tranh thủ được nguồn vốn đầu tư và công nghệ của các nước phát triển để thực hiện công nghiệp hoá, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu, tiến tới nền công nghiệp hiện đại. Thu nhập bình quân đầu người của các nước này đạt khoảng trên 6.000 51 USD/ người. Theo WB, có khoảng trên 10 nước và vùng lãnh thổ đạt trình độ NICs: Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Braxin, Mêhicô, Achentina, Ixraen, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc. Trong số những nước này, thế giới đặc biệt quan tâm đến 4 nước NICs châu Á, được mệnh danh là "4 con rồng". Những nước này đã đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân 7 - 8% liên tục trong 3 thập kỉ, có thời kì đạt mức 11 - 12% và có mức thu nhập bình quân ứên 10.000 USD/ người, họ đã tạo ra được những nền kinh tế đầy sức sống. Nhóm 3 : Các nước xuất khẩu dầu mỏ Đây là những nước sau Chiến ừanh thế giới thứ hai, vào giữa thế kỷ XX bắt đầu phát hiện ra nguồn dầu mỏ lớn, họ đã tận dụng sự ưu đãi này của thiên nhiên, tiến hành khai thác xuất khẩu dầu mỏ. Để bào vệ nguồn thu nhập từ dầu mỏ, chống lại xu hướng hạ giá dầu, các quốc gia này đã tập hợp nhau lại ứong tổ chức xuất khẩu dầu mỏ (OPEC). Đặc biệt trong số này là các nước Trung Đông: Ả Rập Saudi, Côoét, Iran, Irắc, Tiểu vương quốc À Rập thống nhất. Từ năm 1973, các quốc gia này thường xuyên gặp nhau hàng năm để ấn đinh lượng dầu mỏ xuất khẩu nhằm đảm bào giá dầu mỏ có lợi cho họ. Nhờ vậy, từ năm 1973 - 1980 giá dầu mỏ đã tăng gấp 8 lần và các quốc gia này đã thu được nguồn lợi rất lớn. Một số các quốc gia trờ nèn giàu có cũng muốn mau chóng phát ứiển công nghiệp, họ đã dùng những nguồn tài chính thu được từ dầu mỏ và khí đốt để ừang bị các nhà máy hiện đại. Nhưng do thiếu các chuyên gia kỹ thuật, thiếu nguyên liệu và thiếu cả thị trường tiêu thụ các nhà máy này đã nhanh chóng xuống cấp. Do vậy, mặc dù có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhumg nhìn chung các quốc gia này có cơ cấu kinh tế phát triển không cân đối và có sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập. 52 - Nhóm 4: Các nước đang phát triển ịDeveloping coutries): Thuật ngữ "đang phát triển" được thể hiện để chỉ xu thế đi lên của hầu hết các nước thuộc thế giới thứ ba - các nước có nền nông nghiệp hoặc các nước nông - công nghiệp đang từ sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hoá. Những nước này lại được chia làm 3 loại: Những nước có mức thu nhập trung bình, đạt mức GDP/ người trên 2.000 USD, những nuớc có mức thu nhập trung bình thấp đạt mức GDP/ người từ 600 - 2.000 USD, và những nước có mức thu nhập thấp đạt mức GDP/ người dưới 600 USD. 1.4.2. Nhũng đặc trung cư bản của cấc nuức đang phát triển Các nước phát triền là các nước thoả mãn được cả 4 nội dung đã nêu của khái niệm phát triển kinh tế. Vì vậy ở đây ta chỉ nghiên cứu những đặc trưng cơ bàn của nhóm nuớc đang phát triển. ũ. Những nét tương đồng Các nước DPT nhìn chung là những nước nghèo, lạc hậu. Điều đó làm cho các nước này có những đặc điểm chung sau đây: * Mức sống thấp Tuy có khác nhau nhưng nhìn chung mức sống của dân cư các nước DPT rất thấp. Mức sống thấp biểu thị cả về chất và lượng dưới dạng thu nhập thấp, thiếu nhà ở, sức khoẻ kém, ít được học hành, tỷ lệ tử vong của ưẻ sơ sinh cao, tuồi thọ thấp. Mức thu nhập thấp thể hiện rõ nhất ở mức thu nhập bình quân đầu người (GNI/người). Các nhà kinh tế ừên thế giới thường lấy múc 2000 USD/người/năm làm mốc phản ánh khả năng giải quyết những nhu cầu cơ bản của con người, đạt được mức này phản ánh sự biến đổi về chất trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Hiện nay, có khoảng 100 nước đang phát triển có mức thu nhập bình 53 quân dưới 2000 USD/người, trong đó có khoảng 40 nước có mức thu nhập bình quân dưới 600 ƯSD/nguời. Điều này phản ánh khả năng hạn chế của các nước đang phát triển ứong việc giải quyết các nhu cầu cơ bản của con người. Do mức thu nhập thấp, đại bộ phận người dân ở các nước đang phát triển thường xuyên đối mặt với nạn suy dinh dưỡng, bệnh tật, sức khoẻ kém và tuổi thọ thấp. Trong số 40 nước có mức thu nhập thấp nhất thế giới thì tuổi thọ trung bình vào khoảng 50, so với 58 tuồi ở các nước đang phát triển khác và 75 tuổi ở các nước công nghiệp phát triển. Tỷ lệ tử vong cùa trẻ sơ sinh dưới 1 tuổi trong số 1000 trẻ được sinh ra ở các nước kém phát triển nhất nằm khoảng 118 so với 73 ở các nước đang phát triển khác và 12 ờ các nước phát triển. Cơ hội học hành ở các nuớc đang phát triển cũng hạn chế. Việc cố gắng tạo ra cơ hội giáo dục ở cấp tiểu học là nỗ lực lớn nhất của các Chính phủ nước này. Tuy có những bước tiến đáng kể về động viên học sinh đến trường, nhưng tỷ lệ biết chữ vẫn rất thấp. Trong số các nước kém phát triển nhất thì tỷ lệ này là 34% so với 65% ở các nước đang phát triển khác và 99% ở các nước phát triển * Tỷ lệ tích luỳ thấp: Điều hiển nhiên là để có nguồn vốn tíchluỹ cần phải hy sinh tiêu dùng. Nhưng khó khăn đối với các nước đang phát triển, nhất là những nước có thu nhập thấp, thu nhập chỉ đáp ứng cho mức sống tối thiểu, vì vậy việc giảm tiêu dùng là rất khó khăn. Các nước phát triển thường để dành từ 20% - 30% thu nhập để tích luỹ. Trong khi đó ờ các nước nông nghiệp chi có khả năng tiết kiệm trên 10% thu nhập, nhưng phần lớn số tiết kiệm này lại phải dùng để cung cấp nhà ở và trang thiết bị cần thiết khác cho số dân đang tăng lên. Do vậy càng hạn chế quy mô tích luỹ cho phát triển kinh tế. * Trình độ kỹ thuật cùa sản xuất thấp: Ở các nước đang phát triển, hoạt động kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất nhỏ, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, kỳ thuật sản xuất thủ công lạc hậu. Lịch sừ phát triền kinh tế cho thấy rằng, nền kinh tế không thể chuyển động đi lên nếu không có công nghiệp phát triển. Sự ra đời cùa các phương thức sản xuất mới luôn đi đôi với cách mạng công nghiệp. Các nền kinh tế đạt đuợc tốc độ tăng trường kinh tế cao đều có nguồn gốc từ tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trải qua giai đoạn phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu, các nước đang phát triển tuy đã có được những ngành công nghiệp mới, nhưng phần lớn vẫn là những ngành sản xuất với kỹ thuật cồ truyền, trình độ kỹ thuật thấp, sản phẩm sản xuất ra thường ở dạng thô, sơ chế hoặc chế biến với chất lượng thấp. Trong khi các nước có nền kinh tế phát triển đã đạt tới trình độ công nghệ tiên tiến với kỹ thuật sàn xuất hiện đại, trình độ quản lý thành thạo, vượt xa trinh độ công nghệ của các nước đang phát triển từ 3 - 6 thập kỉ, khoảng cách công nghệ quá lớn cũng làm cho các nước đang phát triển khó tận dụng được lợi thế của các nước đi sau do quá trình phân công quốc tế mới đưa lại. * Nủtiịị suảl lau động tháp: Các nước đang phát triển còn phải đối đầu với một thách thức nữa ưong quá trình phát triển đó là áp lực về dân số và việc làm. Dân số những nước đang phát triển vốn đã đông, sự bùng nổ về dân số ở những quốc gia này đã tạo ra một hạn chế lớn cho phát triển kinh tế. Tỷ lệ gia tăng dân số thường ở mức cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đã làm cho mức sống của nhân dân ngày càng giảm. Thu nhập giảm tất yếu dẫn đến giảm sức mua và tỷ lệ tiết kiệm, sự mất cân đối giữa tích luỹ và đầu tư đã kìm hãm sàn xuất, trong khi dân số vẫn tiếp tục gia tăng, tạo áp lực về việc làm, làm cho năng suất lao động không tăng lên được. 55 * Tỷ lệ thất nghiệp cao: Tinh trạng thất nghiệp ờ các nước đang phát triển nhìn chung rất trầm trọng. Đó là kết quả cùa việc dân số tăng nhanh, việc di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành phố, khả năng tạo việc làm rất hạn chế... Điều đó làm cho số người ăn theo rất lớn. Dân số trở thành gánh nặng của nền kinh tế, làm cho nền kinh tế tăng trưởng chậm. * Phụ thuộc vào nông nghiệp và xuất khấu hàng sơ chế'. Đa số các nước DPT là nước nông nghiệp tức là ở các nước này, nông nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu và nông phẩm là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Điều đó làm cho nền kinh tế của các nước đang phát triển phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế rất thấp. Tình trạng đó làm cho quá trình tăng trường kinh tế ở các nước đang phát triển gặp nhiều khó khăn. * Phụ thuộc vào các mối quan hệ quốc tế: Trong xu thế chung của thời đại, quan hệ kinh tế giữa các quốc gia không ngừng mờ rộng và phát triển, việc các nước đang phát triển tham gia vào đời sống kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan và cần thiết. Nhưng các quan hệ kinh tế quốc tế đã được thiết lập theo "ứật tự" có lợi cho các nước phát triển và không có lợi cho các nước đang phát triển. Thậm chí, các quan hệ kinh tế quốc tế bị chi phối bời chính sách của các nước phát triến. Do đó, quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước này gặp rất nhiều khó khăn. Những đặc điểm ứên đây làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển hiện nay khó khăn hơn rất nhiều so với các nước phát triển trước đây. Các nước đang phát triền khó có thể đi những con đường mà các nước phát triển đã đi qua. b. Tính đa dạng cùa các nước đang phát triển Bên cạnh những nét tương đồng, các nước đang phát triền còn có sụ khác biệt (hay tính đa dạng). Những khác biệt này chi phối đến việc xác định lợi thế của từng nước. 56 * Sự khác biệt về quy mô Xem xét quy mô của đất nước dưới giác độ diện tích hay dân số cũng được coi là những nhân tố quan trọng xác định tiềm năng cùa một nước. Trong hơn 130 nước đang phát triển, có những nước có diện tích rộng lớn và đông dàn như Trung Quốc, Án Độ, Brazil. Ngược lại có những nước nhò cả về diện tích và dân số như Brunây, Maldives, Guinee - Bissau, Fiji. Nước lớn thường có lợi thế về tài nguyên phong phú, thị trường tiềm năng và thường ít bị lệ thuộc vào nguyên vật liệu của nước ngoài. Tuy vậy, nó cũng tạo ra những khó khăn về quản lý hành chính, đoàn kết quốc gia và sự mất cân đối giữa các khu vực. Trong thực tế phát triền cũng không thấy mối quan hệ nào được thiết lập giữa quy mô của đất nước và mức thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập giữa các nước có quy mô lớn rất khác nhau, ví dụ mức thu nhập bình quân đầu người của Brazil là 3400 USD/người, của Trung Quốc là 860 USD người, cùa Ấn Độ là 470 USD/người. Giữa các nước có quy mô nhò cũng vậy, trong khi thu nhập bình quân đầu người của Fiji là 1700 USD/người thì Guinee - Bissau là 180 USD/ người. * Sự khác biệt về bối canh lịch sử Nguồn gốc lịch sử khác nhau của các nước đang phát triển cũng tác đông đến những xu hướng khác nhau trong quá ừình phát triển. Hầu hết các nước châu Á và châu Phi đều đã có những thời kỳ dài là thuộc địa của các nước Tây Âu, chủ yếu là Anh, Pháp, ngoài ra còn có Bồ Đào Nha, Bi, Hà Lan và Tây Ban Nha. Cơ cấu kinh tế cũng như nền tàng giáo dục và xã hội thông thường đều dựa vào mô hình của những nước đã từng cai trị họ trước đây. Ở châu Á, những di sản khác nhau của thời thực dân để lại cùng những truyền thống văn hoá đa dạng của các dân tộc bản địa đã kết hợp cùng nhau để tạo ra những mô hình xã hội và thể chế hoàn toàn khác nhau giữa các nước như Ân Độ (thuộc địa cùa Anh), Philippin (thuộc địa của Tây Ban Nha, Mỹ), Lào (thuộc địa của Pháp), Indonesia (thuộc địa của Hà Lan). Những nước châu Phi do giành 57 độc lập muộn nên thường quan tâm đến việc củng cố các thề chế chính trị, mặc dù khá đa dạng về địa lý và nhân khầu nhưng những nước này đều có những thể chế kinh tế - xã hội và văn hoá tương đối giống nhau. * Sự khác biệt về vai trò của Nhà nước và tư nhân trong nền kinh tế Ờ hầu hết các nước đang phát triển đều song song tồn tại 2 khu vực kinh tế: kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân. Việc xác định tầm quan trọng tương đối giữa hai khu vực này tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế - chính trị của mỗi nước. Nhìn chung, các nước châu Mỹ La Tinh và Đông Nam Á có khu vực kinh tế tư nhân lớn hơn các nước Nam Á và châu Phi. Những nước châu Phi với sự thiếu hụt trầm trọng về lao động có tay nghề thì xu hướng chú trọng nhiều hơn đến hoạt động của khu vực Nhà nước với hy vọng rằng nguồn nhân lực có tay nghề sẽ được sử dụng có hiệu quả ứong các hoạt động kinh tế. Tuy vậy, những thất bại về kinh tế và khó khăn về tài chính của nhiều nước như Kenia, Senegan, Zambia đã đặt những dấu hòi về lập luận này. Các chính sách kinh tế tất yếu có sự khác giữa các nước. Ví dụ chính sách tạo việc làm đối vói những khu vực Nhà nirớc lớn hom thỉ các dự án đầu tư trực tiếp của Chính phủ và các chương trình khuyến nông có thể ưu tiên hơn, còn trong trường họp nguợc lại những chính sách tác động đến doanh nghiệp tư nhân trong việc tuyển dụng nhiều lao động lại có ảnh hường lớn. Do vậy, mặc dù khó khăn có thể là giống nhau nhung giải pháp có thể sẽ khác nhau giữa những nước có sự khác biệt lớn về tầm quan trọng tương đối của khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. * Sự khác biệt về điều kiện lự nhiên Điều kiện tự nhiên của các quốc gia cũng không giống nhau. Những quốc gia có địa hình bằng phẳng, nguồn tài nguyên phong phú, đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, ít thiên tai... quá trình tăng trường kinh tế sẽ thuận lợi. Ngược lại, những quốc gia nghèo tài 58 nguyên, khí hậu khắc nghiệt, nhiều thiên tai... quá trình tăng trường kinh tế sẽ gặp nhiều khó khăn. * Sự khác biệt về con người Mỗi quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển riêng. Điều đó để lại dấu ấn rất sâu đậm về nhân cách, lối sống, tác phong lao động... Những phẩm chất riêng của mỗi dân tộc sẽ có những ảnh hường nhất định đến quá trình tăng trường và phát triển kinh tế - xã hội. * Mức độ phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới Do những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, mức độ phụ thuộc của các quốc gia vào các quan hệ quốc tế cũng không giống nhau. Điều đó sẽ làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia gặp thuận lợi hoặc khó khăn khác nhau. Những khác biệt trên đây làm cho quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triền không giống nhau. Đây là điều cần tính đến khi tham khảo kinh nghiệm lẫn nhau giữa các quốc gia. c. Sự cần thiết lựa chọn con đường phát triên Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có liên quan chặt chẽ đến nhau, tạo ra vòng luẩn quan của sự nghèo kho (xem sơ đổ 1.3), làm cho khoảng cách giũa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng gia tăng. Sơ dồ 1.3. Vòng ỉ uẩn quăn của sự nghèo khô 59 Đứng trước tình hình này đòi hỏi các nước đang phát triển phải có biện pháp để phá vỡ vòng luẩn quẩn. Trong khi tim kiếm con đường phát triển đã dẫn đến những xu hướng khác nhau. Có những nước vẫn tiếp tục rơi vào tình trạng trì trệ, thậm chí phát triền thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi cận Sahara, hay một số nước Nam Á. Có những nước đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá, đưa đất nước ra khỏi vòng luẩn quẩn như Philippine. Bên cạnh đó, có những nước đã tạo được tốc độ phát triển nhanh, rút ngắn khoảng cách thậm chí đuổi kịp các nước phát triển, đó là 4 nước NICs châu Á: Hồng Kông, Đài Loan, Singapore và Hàn Quốc. Gần đây các nước Thái Lan, Malayxia và Trung Quốc cũng đã chứng minh sự đúng đắn trong việc lựa chọn đường lối phát triển. Việt Nam trong quá ưình tìm kiếm con đường phát triển, Chính phủ đã tiến hành chương trình cải cách toàn diện hệ thống kinh tế vào đầu năm 1989. Trước đó, trong suốt thập niên 80 Chính phủ đã tiến hành thử nghiệm các biện pháp cải cách khác nhau, nhưng năm 1989 là mốc quan trọng. Trong năm này, Chính phủ đã đưa ra những biện pháp cải cách giá cả toàn diện, chống lại siêu lạm phát (đã đạt tới mức 308%). Biện pháp cải cách giá cả nhằm đối phó với áp lực lạm phát đã hỗ trợ cho những thay đổi trong cơ chế quản lý. Thành công bước đầu của những biện pháp cài cách ứong năm 1989 đã gây được ấn tượng mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực chống lạm phát, tỷ lệ lạm phát đã giảm xuống còn 35% vào năm 1989. Ngoài ra, cũng trong năm này Việt Nam đã đạt được những thành tựu khác hết sức đáng chú ý. Đó là thực hiện tự do hoá thương mại và phá giá đồng tiền, đã đạt kết quả kim ngạch xuất khẩu tăng gấp đôi. Tiếp đó kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 đã đạt mức 60 tăng trường đáng kể, trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân tốc độ tăng trường kinh tế binh quân đạt 8,2%/ năm. Tuy nhiên, đồi mới và phát triển đi lên là quá trình gian khổ và khó khăn. Trong quá trình đổi mới, nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ ra những mặt yếu kém, thêm vào đó là những thách thức lớn đang đặt ra. Đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính khu vực từ giữa năm 1997 đã tác động mạnh đến kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng trường kinh tế giảm từ 9,3% (1996) xuống 8,2% (1997), 5,8% (1998), 4,8% (1999). Vào năm 2000, Việt Nam bắt đầu phục hồi với tốc độ tăng trường kinh tế đạt 6,8% và đến năm 2003 là 7,24%, từ năm 2000 đến năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khoảng 7-9%/ năm. Tuy vậy, Việt Nam lại tiếp tục đứng trước những áp lực mới, đặc biệt là những vấn đề đặt ra trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Những vấn đề này đặt ra cho các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu kinh tế quốc tế và khu vực. Những vấn đề này đặt ra cho các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu kinh tế và hoạch định chính sách phải tìm ra mô hình thích hợp cho quá trình phát triển kinh tế ờ Việt Nam, cơ sở khoa học của việc lựa chọn mô hình này là phải dựa trên những nguyên lý cơ bản cùa sự phái triển kiiili lế, nghiên cứu kiiilì nghiệm lụa chọn mô hình phát triển của các nước và dựa vào những bối cảnh thực tế đang đặt ra ở trong và ngoài nước. 61 TÓM TẮT CHƯƠNG 1 1. Tăng trường và phát triển kinh tế là mục tiêu phấn đấu của các nước trên thế giới ngay sau khi giành được độc lập. Đó là thuớc đo chủ yếu về sự phát triển của mỗi quốc gia. Hai vấn đề này không đồng nhất với nhau nhưng có mối quan hệ với nhau. 2. Tăng trường kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nghĩa là sự gia tăng về lượng, còn phát ữiển kinh tế được hiểu với nghĩa rộng hơn nghĩa là có sự gia tăng cả về lượng và về chất của nền kinh tế. Khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước ữên thế giới đã đạt đến một tốc độ cao và ổn định, khái niệm phát triển bền vững được đặt ra. Phát triển bền vững được xem là quá trình phát triển hướng đến sự khắc phục những mặt ữái của quá trình tăng trường và phát ứiển kinh tế. 3. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành với vị trí, tỷ trọng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận ấy trong hệ thống thống nhất. Cơ cấu kinh tế là dấu hiệu phản ánh sự biến đồi về chất của nền kinh tế. Có nhiều dạng cơ cấu kinh tế và mỗi dạng phản ánh một khía cạnh nhất định của sự phát triển trong đó cơ cấu kinh tế theo ngành và theo vùng là phổ biến nhất. 4. Có nhiều chi tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người gồm các nhóm chi tiêu phản ánh tuổi thọ và chăm sóc sức khỏe, trình độ văn hóa giáo dục, dân số và việc làm. Để phản ánh đầy đủ và toàn diện hơn sự phát triển con người của một quốc gia. LHQ đưa ra chỉ số phát triển con người HDI, đây là chi số tổng hợp đánh 62 giá sụ phát triển con người trên 3 khía cạnh tuổi thọ bình quân, tri thức giáo dục và mức sống. 5. Trên cơ sở phân tích nguồn gốc của tăng trường và phát triển kinh tế thông qua mô hình tổng cung - tổng cầu cho thấy được có hai nhóm nhân tố ảnh hường đến tăng trưởng và phát triển kinh tế là nhóm các nhân tố kinh tế (có thê lượng hóa được và ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trường kinh tế) và các nhân tố phi kinh tế (không thể lượng hóa được và ảnh hường gián tiếp đến tăng trường kinh tế). CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP I. Câu hỏi 1. Hiêu như thế nào về lăng trưởng và phát íriên kinh tế? Phân biệt giữa Tăng trường kinh tế và phát triển kinh tế? Tại sao phải phát triển kinh tế bển vững? Tại sao các nước đang phát triển thường đặt mục tiêu lăng trường kinh tế cao hơn các nước khác? 2. Ỷ nghĩa, nội dung các chi tiêu đánh giá lăng trường kinh tế? 3. Đê đánh giá sự phát triển kinh tế thường sử ditng các nhóm chi tiêu nào? Đe đánh giá xếp loại trình độ phát triển xã hội giữa các quốc gia có thê sử dụng chi tiêu nào? Sự thể hiện chỉ tiêu đó ở Việt Nam như thế nào? 4. Cỏ các loại cơ cấu kinh tế nào? Đánh giá sự thay đôi cơ cấu kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010-2015? 5. Vì sao phát triển con người được coi là vẩn đề trung tâm trong quá trình phát triên của mọi quốc gia? 63 6. Tại sao nói: “Tăng trường kinh tế là điều kiện cần nhung chưa đủ để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ”? 7. Cách thức phá vỡ “vòng luẩn quấn ” cùa Việt Nam trong quá trình phát trien kinh tế? II. Bài tập. 1. Cho các dữ liệu sau: - GDP/người năm 2014 đạt được là 2.000 USD - Dân số gia tăng bình quân 1,4%/năm - Quy mô GDP tăng trưởng bình quân 6%/năm Yêu cầu: Cần có thòi gian bao nhiêu năm để GDP/người tăng gấp đôi mức GDP/người năm 2014? 2. Cho các dữ liệu sau: - Quy mô GDP năm 2007 đạt được là 210.000 tỷ đồng - Quy mô GDP năm 2015 đạt được là 330.000 tỷ đồng - ICOR: 2,5-3 - Tốc độ gia tăng dân số bình quân: 2,4%/năm Yêu cầu: a. Tính lượng vốn đầu tư cần bổ sung ứong kỳ để đạt GDP năm 2015. b. Giả sử đầu tư trong nước chi đảm bảo 70% lượng vốn đầu tư bổ sung thì cần thiết phải huy động lượng vốn đầu tư nước ngoài là bao nhiêu? 64 c. Xác định tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm. d. Xác định tỷ lệ đầu tư hàng năm cần có. e. Tính tốc độ tăng GDP/người hàng năm. 3. Cho các dừ liệu sau: - Quy mô GDP năm 2010 là 50 tỉ USD. - Giai đoạn 2015-2025 cần bổ sung lượng vốn đầu tư khoảng 150-200 tỷ USD. - Đầu tư nội địa chiếm 1/2 tì lệ đầu tư hàng năm. - ICOR: 3 Yêu cầu: a. Dự tính quy mô GDP năm 2025 có thể đạt được nếu thực hiện được lượng vốn đầu tư như trên. b. Dự tính tốc độ tăng GDP năm 2025 so với năm 2015. c. Lượng hoá tốc độ tăng GDP do nguồn vốn nước ngoài mang lại. 65 Chương 2 CÁC MÔ HỈNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2.1. Mô hình c ổ điển về tăng trưỏng kinh tế 2.1.1. Xuất phái điểm cùa mô hình Giới kinh tế học coi việc xuất bản cuốn "Cùa cải của các dân tộc" của Adam Smith (1723 - 1790) là điểm mốc đánh dấu sự ra đời của khoa học kinh tế, và do vậy bán thân ông được coi là người sáng lập ra kinh tế học. "Của cải của các dân tộc" được coi là tác phẩm đầu tiên trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống nhất những luận điểm về kinh tế học. Nội dung cơ bản của tác phẩm này là: - Học thuyết về "Giá trị lao động": Ông cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là nguồn cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước. - Học thuyết "Bàn tay vô hình". Theo ông, tự người lao động biết rõ nhất cái gì có lợi cho họ, do vậy nếu không bị Chính phủ kiếm soát, người lao động sẽ được lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất hàng hoá dịch vụ cần thiết và thông qua thị trường tự do này lợi ích cá nhân sẽ gắn với lợi ích xã hội. - Lý thuyết về phân phối thu nhập theo nguyên tắc "Ai có gì được nấy", tư bản có vốn thì được lợi nhuận, địa chủ có đất đai thì được địa tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công. Ông cho ràng nguyên tắc phân phối này là công bằng, hợp lý. Nếu Adam Smith được coi là người sáng lập ra kinh tế học thì David Ricardo (1772 - 1823) được coi là tác giả cổ điển xuất sắc nhất. Ông thừa kế các tư tường của Adam Smith và chịu ảnh hường 66 tư tường về dân số học của T.R Malthus (1776 - 1834). Các nhà kinh tể học thuộc trường phái cổ điển, tân cổ điển và trào lưu kinh tế hiện đại đều có nguồn gốc tinh thần từ các tư tưởng cùa Ricardo. Tác phẩm nổi tiếng cùa ỏng "Các nguyên tắc của chính trị kinh tế học và thuế khoá" ra đời 1818 được coi là điểm mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái kinh tế cồ điển. Những quan điểm cơ bàn cùa Ricardo về phát triển kinh tế bao gồm một số nội dung sau. 2.1.2. Các yếu tồ tăng trưởng kinh tế và mối quan hệ giữa các yểu tổ Theo Ricardo, nông nghiệp là ngành kinh tế quan ừọng nhất. Từ đó, Ông cho rằng có 3 yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là: đất đai, tư bản (vốn) và lao động (chưa biết đến khoa học kỹ thuật). Trong từng ngành và phù họp với một trình độ kỹ thuật nhất định các yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ cố định, không thay đổi. Ví dụ: Để sản xuất một lượng lương thực là A thì cần lượng vốn là Ka (tư bản) và lao động là La. Để sản xuất lương thực là B (B = 2A) thì cũng chi có cách kết họp giữa Kb = 2Ka (vốn) và Lb = 2La (lao động). Ngoài ra, không có cách kết họp nào khác cho sự kết hợp giữa vốn và lao động. K L Sơ đò 2.1. Đưìmg đồng sản lượng có dạng chữ "L" 67 Ricardo cũng cho rằng hao phí của các yếu tố ữong sản xuất có xu hướng khác nhau giữa công nghiệp và nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành quan ứọng nhưng lợi nhuận trong ngành có xu hướng giảm. Do ở ngành nông nghiệp, cầu về lương thực, thục phẩm ngày càng tăng lên, ứong khi đó cung về lương thực, thực phẩm không tăng hoặc tăng rất chậm. Hiện tượng này là do quy luật độ màu mỡ của đất đai ngày càng giảm. Hơn nữa, đất đai có giới hạn nên phải canh tác ưên cả ruộng đất xấu. Do nhu cầu lương thực, thực phẩm tăng nên kéo theo sự tăng lên về giá cả của nó. Khi giá cả lương thực, thực phẩm tăng không thể không tăng lương danh nghĩa cho công nhân. Lương công nhân tăng thì lợi nhuận của nhà tư bàn giảm. Tình trạng này nếu tiếp tục kéo dài đến khi lợi nhuận bằng 0 thì kinh doanh sẽ đình trệ và làm cho nền kinh tế trở nên bế tắc: địa tô ở mức cao và tiền công ở mức tối thiểu, tích luỹ tư bản và gia tăng dân số dừng lại. Song ở ngành công nghiệp sàn xuất phát triển về quy mô thì lợi nhuận cũng tăng, lúc này cần đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực ở nước ngoài nhằm làm cho mặt bằng giá lương thực ưong nước giám xuống hoặc phát triền công nghiệp để tác động vào nông nghiệp. Có như vậy mới làm cho nền kinh tế trờ lại trạng thái phát triển bình thường. Như vậy, lập luận của David Ricardo là: Tăng trường kinh tế là kết quà cùa tích luỹ. Tích luỹ là hàm cùa lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào tình trạng sàn xuất lương thực, mà lương thực được tạo ra từ đất đai. Như vậy, trong 3 yếu tố kể trên thì đất đai là quan trọng nhất. Đất đai chính là giới hạn cùa sự lăng trưởng. 68 R Sơ đồ 2.2. Đường tàng trưỉmg cùa D. Ricardo 2.1.3. Phân chia các nhóm người trong xã hội và tliu nhập cùa họ Tương ứng với các yếu tố tăng trường, Ricardo chia xã hội thành ba nhóm người: địa chủ, tư bản, công nhân. Sự phân phối thu nhập của ba nhóm nguời này phụ thuộc vào quyền sở hữu của họ với các yếu tố sản xuất: địa chủ có đất thì nhận được địa tô, công nhân có sức lao động thì nhận được tiền công, tư bản có vốn thì nhận được lợi nhuận. Từ đó có khái niệm thu nhập của xã hội là tổng thu nhập cùa các tầng lớp dân cư và được xác định như sau: Tổng thu nhập xã hội — tien công + lợ i nhuận + địa tô. Trong các nhóm người này nhà tư bản giữ vai trò quan trọng cả trong sản xuất và phân phối. Trong sàn xuất nhà tư bản là người tổ chức sản xuất, họ thực hiện việc kết hợp các yếu tố để cho quá trình sản xuất được tiến hành. Đồng thời họ cũng là người thực hiện tích luỹ phát triển sản xuất. Trong khi địa chủ và công nhân tiêu dùng hết địa tô và tiền công thì các nhà tư bán chỉ tiêu dùng một phần lợi nhuận, họ giành lại một phần lợi nhuận để tích luỹ, mở rộng sản xuất (thuê thêm đất đai và công nhân). Cứ như vậy lợi nhuận cùa nhà tư bản sẽ tiếp tục tăng lên. 69 Trong phân phối, nhà tư bàn là người chù động ừong quá trình phân phối giữa tư bản và địa chủ cũng như giữa tư bản và công nhân. Tiền công của công nhân phụ thuộc vào sự thương lượng giữa các nhóm công nhân với các nhà tư bản. Nhưng các nhà tư bản nắm ừong tay tất cả mọi đặc quyền nên tiền lương của công nhân mà nhà tư bản trả thường chỉ đảm bảo ờ mức lương tối thiểu, đủ sống cho bản thân và gia đình họ. Khi các nhà tư bản tích luỹ nhanh chóng làm cho sản xuất phát triển thỉ họ sẽ cạnh tranh với nhau để thuê mướn công nhân, làm cho tiền công tăng lên. Nhưng sự gia tăng chi là nhất thời. Lập luận này của Ricardo dựa vào lý luận về dân số của Malthus, đó là sự gia tăng tiền công sẽ dẫn đến gia tăng dân số. Malthus cho rằng tăng thu nhập sẽ khuyến khích hôn nhân và sinh đẻ, đến một khoảng thời gian nhất định sự gia tăng dân số sẽ thoả mãn nhu cầu về lao động của các nhà tư bản và tiền còng lại giảm xuống. Tuy nhiên, tiền công danh nghĩa vẫn tiếp tục tăng, vì khi dân số tăng, để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm cần phải canh tác ưên những mành đất xấu hơn làm cho giá cả thực phẩm gia tàng. 2.1.4. Quan hệ cung - cầu và vai trò của chính sách kinh tế với tăng trưởng Các nhà kinh tế cổ điển cho rằng "bàn tay vô hình" trong kinh tế thị trường tự do sẽ làm cho lợi ích cá nhân gắn với lợi ích xã hội. Sự linh hoạt của giá cả và tiền công trên thị trường có tác dụng điều chỉnh những mất cân đối của nền kinh tế, xác lập những càn đối mới, bảo đảm nền kinh tế ổn định và phát triển. Đây là quan điểm "cung tạo nên cầu". Trong mô hình này đuờng tổng cung (AS) luôn thẳng đứng ở mức sản lượng tiềm năng, nó quyết định mirc sàn lượng và việc làm của nền kinh tế. Còn đường tổng cầu (AD) là hàm của cung tiền, được xác định bởi mức giá, không quan trọng với việc xác định sản lượng. Theo quan điểm này, các chính sách 70 kinh tế không có tác động quan ừọng vào sự hoạt động của nền kinh tế. Sơ đồ 2.3. AS luôn ở mức tiềm năng - xác định mức sản lượng Theo D.Ricardo, sụ tác động của Chính phủ về mặt chính sách làm hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Ví dụ: Chính sách thuế làm cho giá cả sản phẩm tăng lên, lợi nhuận giảm xuống vì thuế lấy từ lợi nhuận của nhà tư bản, điều đó làm giảm bớt nguồn tích luỹ; thuế đánh vào nông sản phẩm sẽ làm tăng giá những sản phẩm này, làm cho tiền công tăng lên theo, tương ứng lợi nhuận và tích luỹ của nhà tư bản giảm. Ngay cả đối với các khoản chi tiêu của Nhà nước, các nhà kinh tế cồ điển cho ràng đó lá các khoán chi "khởng sinh lời". D. Ricardo chia những người làm việc xã hội thành hai loại: những người trực tiếp hoặc gián tiếp sản xuất ra sản phẩm là những công nhân "sinh lời", còn những người khác làm việc trong lĩnh vực quản lý, an ninh, quốc phòng là những công nhân "không sinh lời", Nhà nước đã làm giảm bớt tiềm lực phát triển kinh tế do đã giành một phần sản lượng quốc gia vào việc không sinh lời. 2.2. Mô hình của c. Mác về tăng trưởng kinh tế c. Mác (1818 - 1883) không chi là một nhà kinh tế học, mà Ông còn được coi là nhà xã hội học, chính trị học, lịch sử và triết học xuất sắc. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là bộ "Tư bản". Quyển I được xuất bản năm 1867, do đó thời gian này được coi là điểm mốc đánh dấu sự ra đời của học thuyết Mác xít. 2.2.1. Các yếu tổ tăng trưởng kỉnh tế Theo Mác các yểu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Mác đặc biệt quan tâm đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Theo Mác, sức lao động đối với các nhà tư bản là một hàng hoá đặc biệt. Cũng như các hàng hoá khác, nó được các nhà tư bản mua trên thị trường và tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Nhưng trong quá trình tiêu thụ, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động không giống với giá trị sử dụng của các hàng hoá khác. Nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư. Trong xã hội TBCN do thường xuyên có đội hậu bị công nghiệp nên tiền công của công nhân luôn ờ mức tối thiểu, đủ sống. Mác đưa ra quan hệ tỷ lệ m/ V phản ánh sự phân phối thời gian lao động của công nhân: một phần làm việc cho bản thân (V), một phần sáng tạo ra (m) cho nhà tư bản và địa chủ. về yếu tố kỹ thuật Mác phân tích: mục đích của nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư. Đe tăng giá trị thặng dư, nhà tư bản có 2 cách: (1) tăng thời gian lao động của công nhân và giảm tiền công, hoặc (2) nâng cao năng suất lao động bằng cải tiến kỹ thuật. Do cách thức (1) là có giới hạn, nên để tăng giá trị thặng dư nhà tư bản chủ yếu dựa vào cải tiến kỹ thuật. Mác cho rằng tiến bộ kỹ thuật làm tăng số máy móc và dụng cụ lao động dành cho người thợ, nghĩa là cấu tạo hữu cơ của tư bản (C/V) có xu hướng ngày càng tăng. Do đó các nhà tư bản cần nhiều tiền vốn hơn để khai thác tiến bộ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động của công nhân. Cách duy nhất để tăng vốn là tiết kiệm. Do vậy, các nhà tư bản lại phải chia giá trị thặng dư thành hai phần: một phần đề tiêu dùng cho nhà tư bản; một phần để tích luỹ mở rộng sản xuất. Đó chính là nguyên lý tích luỹ của chủ nghĩa tư bản. 2.2.2. Sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản Cũng như Ricardo, Mác cho rằng khu vực sản xuất ra của cải vật chat cho xã hội bao gồm ba nhóm người: địa chù, nhà tư bản và công nhân. Tương ứng, thu nhập của ba nhóm người này là địa tô, lợi nhuận và tiền công. Nhưng khác với Ricardo, Mác không cho rằng sự phân phối này là hợp lý, mà ngược lại, Ông cho rằng sự phân phối này mang tính chất bóc lột. Ông cùng dựa ứên quan điểm của Adam Smith cho rằng lao động là nguồn gốc tạo ra mọi của cải, do vậy người công nhân chi được mức tiền công tối thiểu là vô lý, và như vậy còn một phần tiền công lẽ ra người công nhân được hưởng đã bị địa chủ và tư bàn chiếm không. Vì vậy, Mác còn phân chia ba nhóm người này thành hai giai cấp: giai cấp bóc lột bao gồm các nhà tư bàn và địa chù là những người nắm quyền sờ hữu tư liệu sàn xuất, còn công nhân là giai cấp bị bóc lột, họ chi có sức lao động. 2.2..?. Các chỉ tiêu tổng hợp phản ánh sự tăng trướng Nếu Ricardo dựa ừên lĩnh vực phân phối để nghiên cứu các chỉ tiêu tổng hợp thì Mác lại đứng trên lĩnh vực sản xuất. Mác chia hoạt động xã hội ra hai lĩnh vực: sản xuất vật chất và phi sản xuất. Theo Mác chi có lĩnh vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội. Dựa vào thuộc tính hai mặt cùa lao động, Mác chia sản phẩm xã hội ra hai hình thái: hiện vật và giá trị. Theo Mác là lao động cụ thể thì lao động tạo ra giá trị sừ dụng cùa hàng hoá, là lao động trừu tượng thì lao động tạo ra giá trị của hàng hóa. về mặt giá trị, Mác cũng dựa vào thuộc tính hai mặt của lao động để chia giá trị 73 thành hai bộ phận: lao động cụ thể giữ nguyên giá trị tư liệu sàn xuất được sừ dụng và chuyển vào giá trị hàng hoá mới được sáng tạo ra (C) và lao động trừu tượng tạo ra giá trị mới (V + m). v ề m.ặt hiện vật, dựa vào công dụng cùa sản phẩm được sản xuất ra Mac chia thành hai loại là tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Cụ thể, những sản phẩm được sản xuất ra sau đó đi vào giai đoạn sàn xuất khác, được gọi là tư liệu sản xuất. Những sản phẩm được sản xuất ra trực tiếp phục vụ đời sống con người gọi là tư liệu tiêu dùng. Trên cơ sở phân chia, Mác đã đưa ra 2 chỉ tiêu để đánh giá kết quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế: Chỉ tiêu tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Tổng sản phẩm xã hội là toàn bộ sản phẩm do lao động ứong các ngành sản xuất vật chất sản xuất ra ừong một thời kỳ nhất định, thường tính là 01 năm. Trong chi tiêu này, Mác chưa chú ý nhiều đến lĩnh vực dịch vụ. Điều đó dễ hiểu vì ở thời Mác lĩnh vực dịch vụ chưa phát triển. Những dịch vụ trục tiếp liên quan đến sản xuất đã được C.Mác tính vào khu vực sàn xuất vật chất. về mặt giả trị, TSPXH bao gồm: Giá trị các tu liệu sàn xuất (TLSX) đã chuyển vào sản phẩm (C) và giá trị mới do lao động của con người tạo ra (V + m). Dưới CNTB thì bộ phận giá trị mới này được phân chia thành tiền lương cho công nhân và giá fri thặng dư cho nhà tư bản. về mặt hiện vật, TSPXH bao gồm: TLSX và tư liệu tiêu dùng (TLTD). Trong điều kiện dịch vụ chưa phát triển, việc sừ dụng chi số TSPXH để đánh giá quy mô sàn xuất của các hoạt động kinh tế là chính xác. 74 Theo C.Mác, TSPXH tăng trưởng bàng hai con đường chù yếu: l/Tăng thêm TLSX và sức lao động trong các ngành sản xuất vật chít; 2/Tăng năng suất trong các ngành sản xuất vật chất bằng cách úng dụng thành tựu khoa học - công nghệ. Thu nhập quốc dân là phần còn lại của TSPXH sau khi đã trừ đi các ;hi phí trong sàn xuất. về mặt giá trị bao gồm tư bản khả biến và giá trị thặng dư (V + ra) tức là tiền công, lợi nhuận và địa tô. về mặt hiện vật thu nhập quốc dân gồm: bộ phận tư liệu sản xuất dung để mở rộng sàn xuất và toàn bộ tư liệu tiêu dùng. 22.4. Chu kỳ sản xuất và vai trò của chính sáclí kinh tế c. Mác bác bỏ lý thuyết cổ điển về "cung tạo nên cầu" và sụ dự đoán \ề bế tắc của sự tăng trường do sự hạn chế về đất đai. Theo Mác, nguyên tắc cơ bàn của sự vận động tiền và hàng trên thị trường là phải đàm bảo thống nhất giữa giá trị và hiện vật. Lưu thông hàng hoá phải đàm bào sự phù hợp giữa khối lượng hàng hoá mua và bán. Nếu khối lượng bán và sức mua của người tiêu dùng không phù hợp đến một mức độ nào đó sẽ gây ra khủng hoảng. Khủng hoảng của CNTB thường là khùng hoàng thừa, xảy ra khi cung quá mức trong khi cầu quá thấp. C.Mác phân tích nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng thừa là do thiếu số cầu tiêu thụ. Do sự tích luỹ tư bản, tạo ra nhân khẩu thừa tương đối, làm giảm tiền công của công nhân xuống mức tối thiểu. Trong khi sức tiêu thụ của nhà tư bản cũng bị giới hạn bởi khát vọng tích luỹ tư bản. Theo c. Mác, khủng hoảng là một giải pháp nhàm khôi phục the thăng bằng đã bị rối loạn. Sau khủng hoàng, nền kinh tế trở nên tiêu điều. Để thoát khỏi tình trạng này các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới 75 tư bản cổ định với quy mô lớn làm cho nền kinh tế tiến đến phục hồi, hưng thịnh và như vậy quá trình kinh tế đã diễn ra theo chu kỳ. Đe giúp các nhà tư bản đổi mới tư bản cố định, thoát khỏi khủng hoảng, theo c. Mác các chính sách kinh tế của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng đặc biệt là chính sách khuyến khích nâng cao mức cầu hiện có (chính sách kích cầu). 2.3. Mô hình tân cổ điển về tăng truỏng kinh tế 2.3.1. Nội dung cơ bàn của mô hình tăn cổ điển về tăng trưởng kinh tế Cuối thế kỷ XIX là thời kỳ đánh dấu sự chuyền biến mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật. Hàng loạt các phát minh khoa học và các nguồn tài nguyên thiên nhiên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất. Sự chuyển biến này đã có những ảnh hưởng rõ rệt trong các trào lưu chính của tư tưởng kinh tế. Sự phát triển của trào lưu này hình thành một trường phái kinh tế mới, đứng đầu là Alfred Marshall (1842 - 1924), tác phẩm chính của ông là "Các nguyên lý của kinh tế học" xuất bản năm 1890, do đó thời gian này được coi như điểm mốc đánh dấu sự ra đời của trường phái tân cổ điển. a. Những nội dung mới cùa mô hình Tân cổ điển Trong mô hình tân cổ điển, các nhà kinh tế học bác bò quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỷ lệ nhất định về lao động và vốn. Họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công và trong quá trình sản xuất có thể có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào. Ví dụ: Cần 20 tỷ đồng và 300 lao động để sản xuất 200 nghìn tấn đường. Nếu xí nghiệp muốn tăng gấp đôi sản lượng, tức là 400 76 nghìn tấn đường thì có thề lựa chọn các phương án khác nhau với cách kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau. Các cách lựa chọn phương án với việc kết hợp các yếu tố đầu vào khác nhau (xem sơ đồ sau). Sơ đồ 2.4. tìưừttỊỊ đồng lượng là các đưìmg cong - Tại B: Sự gia tăng vốn phù hợp với gia tăng lao động - Tại C: Sù dụng vốn thay thế lao động (thâm dụng vốn) - Tại D: Công nghệ sử dụng nhiều lao động (thâm dụng lao động) Từ quan điểm trên các nhà kinh tế học tân cố điến đưa ra khái niệm "Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu", tức là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động ứong sản xuất; Còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là "Sự phát ứiển kinh tế theo chiều rộng". Các nhà kinh tế tân cổ điền còn cho rằng tiến bộ khoa học kỹ thuật là yếu tố cơ bản đề thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ví dụ: Bằng cải tiến trong các phương pháp sản xuất sẽ gia tăng khối lượng sản phẩm và xu hướng thay đổi trong kỹ thuật là 77 đa số các sáng chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công. Nen kinh tế có thể đạt mức sàn lượng tiềm năng tại một thời điểm cụ thể, đó là điểm bắt đầu của chu kỳ kinh doanh. b. Những quan điểm giống mô hình cổ điến Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế có hai đường tổng cung: AS - LR phản ánh sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, còn AS - SR phản ánh khả năng thực tế. Dù vậy, các nhà kinh tế tân cổ điển vẫn cho rằng nền kinh tế luôn đạt được sự cân bằng tại mức sản luợng tiềm năng. Giống như các nhà kinh tế cổ điển, các nhà kinh tế tân cồ điển cũng cho rằng trong điều kiện thị trường cạnh ưanh, khi nền kinh tế có biến động thì sự linh hoạt về giá cả và tiền công là nhân tố cơ bản khôi phục nền kinh tế về vị trí sản lượng tiềm năng với việc sừ dụng hết nguồn lao động. Họ cho rằng chính sách kinh tế cùa Chính phủ không thể tác động vào sản lượng, nó chỉ có thể ảnh hưởng đến mức giá cùa nền kinh (nền kinh tế sẽ tụ điều chỉnh mức sản lượng theo sự thay đổi của giá cả). Do đó vai trò của Chính phủ là mờ nhạt trong phát triển kinh tế So' đồ 2.5. Nen kinh tế luôn đạt mút sân luvTìg tiềm năng (Y — Y*) 78