"
Yamamoto Và Những Trận Đánh Lịch Sử Trên Thái Bình Dương - Tameichi Hara & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Yamamoto Và Những Trận Đánh Lịch Sử Trên Thái Bình Dương - Tameichi Hara & Nguyễn Nhược Nghiêm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
Bản dịch: Nguyễn Nhược Nghiễm
LỜI NÓI ĐẦU
Khi Nhật Bản bắt đầu hồi sinh sau đệ nhị thế chiến, dân chúng Mỹ có cái nhìn vô tư hơn đối với cuộc chiến, và càng ngày càng có nhiều người bắt đầu đòi hỏi những câu chuyện xoay quanh cuộc chiến nầy được nói thẳng ra. Nhiều quyển sách có giá trị đã được một số cựu phi công Hải Quân Hoàng Gia viết, phản ảnh trung thực sự hiểu biết về những trận không chiến mà các tác giả đã từng tham dự.
Nhiều người bạn đã thúc giục tôi kể lại câu chuyện về hải chiến thời ấy. Đây không phải là một việc làm dễ dàng, bởi các thủy thủ khu trục hạm chỉ được huấn luyện để chiến đấu mà không được huấn luyện về viết văn. Thật vậy, quyển sách nầy không thể ra đời nếu không có sự hợp tác hết lòng của một số đông thân hữu mà tôi không thể nào đề cập hết ra đây. Tuy nhiên tôi có thể nói là tất cả những người có tên trong quyển sách nầy đã được tôi đích thân phỏng vấn, hoặc đã tình nguyện cung cấp chuyện riêng của họ cho tôi.
Tôi đặc biệt ghi ơn người bạn của tôi, Ko Nagasawa, giữ chức vụ Tổng Tư Lịnh của Tân Hải Quân Nhật khoảng thời gian từ 1954 đến 1958, là người không chỉ sẵn lòng cung cấp cho tôi các câu chuyện của chính ông, mà còn chỉ thị cho Phân Bộ Lịch Sử của hải quân hợp tác với tôi.Tất cả các sử gia của hải quân đã đóng góp rất nhiều vào quyển sách nầy bằng cách cho phép sử dụng các kết quả tìm tòi và nghiên cứu của họ, điều khiến tôi luôn luôn nhớ đến.
Tôi tin quyển sách nầy sẽ cung hiến một quan điểm trung thực của phía Nhật Bản, có thể bổ túc cho nhiều quyển sách giá trị của người Mỹ đã viết trước đây, nhưng có một điều đáng buồn là hầu hết các tài liệu liên quan đến Nhật Bản đều thiếu chính xác. Khi viết, các tác giả người Mỹ dựa vào các cuộc thẩm vấn những người còn
sống sót hoặc cựu chiến binh, do chính những kẻ chiến thắng thực hiện vào thời gian sơ khởi của cuộc chiếm đóng, thành thử những chứng liệu của họ thường quá chủ quan.
Khi viết quyển sách nầy, tôi đã cố gắng tránh chủ quan càng nhiều càng tốt, và để làm như thế, tôi phải đưa ra sự phê phán nghiệt ngã, không chỉ đối với chính tôi, mà còn đối với những thân hữu đã giúp đỡ tôi hết lòng. Thói quen của con người, và cũng là sự thất bại của mọi sĩ quan trong quân đội, là thường cố che đậy mọi lỗi lầm nếu không của chính mình thì cũng của bạn bè. Thật vậy , tôi đã thấy khổ tâm khi phải tránh sự thất bại nầy.
Sự phê phán và sự chân thật của tôi có thể gây nhiều tổn thương cho các đồng nghiệp của tôi, và có thể cho những người đã chiến đấu chống lại tôi. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng những đọc giả như thể sẽ có một cái nhìn bao dung, và xin cố hiểu rằng thâm tâm tôi không muốn gây phiền lòng cho riêng ai một ai.
Được sống sót sau khi chiếc tuần dương hạm Yahagi của tôi bị đánh chìm ở Okinawa vào tháng 4 năm 1945, tôi được bổ nhiệm về trường huấn luyện Ngư Lôi Đỉnh Kawatana gần Sasebo và Nagasaki. Chức vụ chỉ huy mới của tôi là trông coi về công cuộc huấn luyện du kích chiến, dự phòng chống lại các cuộc đổ bộ của người Mỹ lên lãnh thổ của Nhật Bản.
Lịnh đầu hàng của Nhật Hoàng Hirohito ngày 15 tháng 8 năm 1945 đã đến tôi trong khi tôi đang đảm trách công việc huấn luyện một số thanh niên Nhựt cải trang thành phụ nữ hoặc tăng ni, cũng có mục đích dự phòng chận lại các lực lượng xâm chiếm, ở căn cứ Kawatana. Tôi đã giao nộp căn cứ nầy cho một lực lượng đặc nhiệm thuộc hải quân Hoa Kỳ, do Đại Tá Francis D.McCorkle chỉ huy, vào ngày 25 tháng 9 năm 1945.
Viên Đại Tá Hoa Kỳ đối xử tôi trong tư cách một người bạn hơn là một kẻ chiến thắng, điều nầy làm tôi ngạc nhiên. Ông ta yêu cầu tôi tặng ông ta một máy tính tốc độ của một trong những chiếc Ngư Lôi Đỉnh tự sát Shinyo đang đậu ở quân cảng Kawatana. Tôi bắt buộc phải làm hài lòng ông ta.
Từ khi chiến tranh chấm dứt, tôi làm việc cho một công ty chuyển vận muối. Hai đứa con gái lớn của tôi kết hôn năm 1954, chồng của chúng, một là sĩ quan hàng hải, một là công chức. Con trai tôi, Mikito, đã vào Đại Học, vợ tôi, Chizu, mạnh khỏe và hạnh phúc.
Đông Kinh, ngày 25 tháng 2 năm 1958
MỞ ĐẦU
1
Toàn thể Hải Quân Hoàng Gia Nhật gồm: 25 hàng không mẫu hạm, 12 Thiết giáp hạm, 18 tuần dương hạm hạng nặng, 26 tuần dương hạm hạng nhẹ, 175 khu trục hạm và 95 tiềm thủy đỉnh.
Nhưng các khu trục hạm nhỏ bé, bất kì thời gian nào cũng không quá 130 chiếc, mới đích thực gánh mọi nặng nhọc nhất của cuộc chiến. Chúng là con ngựa của Hải Quân hoàng gia.
Những các khu trục hạm nhỏ bé này không chỉ đơn giản được giao nhiệm vụ của các tầu chiến mà còn phải lãnh nhiệm vụ hộ tống cho các cuộc chuyển vận và có khi phải hộ tống hàng nhiều tháng trong cuộc chiến, đặt biệt từ đầu năm 1943 đến giữa năm 1944, khi hầu hết các đại chiến hạm của Nhật được “giữ gìn cẩn thận” tại một địa điểm an toàn cách xa các khu vực chiến đấu.
Khu trục hạm Nhật đã từng tham dự rất nhiều trận hải chiến dữ dội và đạt nhiều thắng lợi vẻ vang vào những ngày đầu của cuộc chiến. Những chiến thắng này đã chứng minh tài điều động khu trục hạm của người Nhật vượt trội hẳn Đồng Minh.
Tuy nhiên, từ giữa năm 1943 các khu trục hạm Nhật đã hoạt động hết tháng này sang tháng khác mà không được bảo trì hoặc tu bổ đúng mức và vấn đề bồi dưỡng thủy thủ cũng khiếm khuyết cho nên các tàu chiến hữu hiệu này dần mất ưu thế trước các tàu chiến đồng loại của Đồng Minh. Hơn nữa, công việc phát triển các trang bị
khoa học của Đồng Minh đã đạt đến mức độ đáng kinh ngạc, và họ hơn nữa đã dần dần nắm ưu thế trên không.
Tuy nhiên, các Khu Trục Hạm Nhật vẫn chiến đấu dũng cảm và ngoạn mục cho đến tàn cuộc chiến. Tôi nghĩ những thành tích của chúng đáng được ghi nhắc lại cho hậu thế. Mặc dầu những trận chiến của khu trục hạm không thể so sánh được với những trận hải chiến qui mô và lừng danh chẳng hạn như biển San Hô, Midway, Mariana hoặc Leyte Gulf có cả sự tham gia của phi cơ và các chiến hạm chủ lực, nhưng những nổ lực và thành công của các khu trục hạm trong các trận hải chiến hơn, đang dần dần bị quên lãng, cũng có tầm mức giá trị đáng kể cần phải được ghi lại chi tiết.
Các hàng không mẫu hạm đã giữ vai trò đầu trong trận Trân Châu Cảng, có thể nói một thành công, cũng như các cuộc hành quân qui mô song đã đưa đến thảm bại hoàn toàn cho Nhật ở Midway, Marianas và Vịnh Leyte.
Các tàu chiến lớn của Nhật được Bộ Tư Lệnh Tối Cao nâng niu và “giữ gìn” bằng mọi giá, cho dù ngay khi gặp phải những tình thế tồi tệ nhứt. Như đại chiến hạm Musashi 72400 tấn, tiêu thụ nhiên liệu gấp 80 lần chiếc khu trục hạm lớn, chỉ tham chiến một lần và bị đánh chìm ở vịnh Leyte mà không có dịp may để sử dụng 9 khẩu 450 ly nhằm vào bất kì một mục tiêu giá trị nào.
Yamato 72800 tấn chiếc tàu chị của Mushashi, chỉ tham chiến được 2 lần. Tại Leyte, chiếc tàu này bị các hàng không mẫu hạm hạng nhẹ của Hoa Kỳ chận đứng. Và cùng năm đó trên đường tham dự nhiệm vụ tự sát ở Okinawa, nó bị đánh chìm ở Đông Hải, cách bờ biển Nhật Bản hơn 100 dặm.
Chỉ có những khu trục hạm nhỏ của Nhật hoạt động liên tục trong suốt cuộc chiến và trong nhiệm vụ hộ tống các đại chiến hạm. Chúng đã đánh chìm nhiều chiến hạm, tàu ngầm, các chuyển vận hạm chuyển vận tiếp tế và binh sỹ của địch quân.
Nhiệm vụ thích thú nhất của tôi trong Hải Quân Hoàng Gia có lẽ là khoảng thời gian lênh đênh trên các khu trục hạm và cũng có thể nói đó là nhiệm vụ mà tôi theo đuổi trong suốt cuộc chiến. Lúc ấy
các bạn hữu trong Hải Quân Hoàng Gia đã gọi tôi là “hạm trưởng huyền diệu” và chiếc khu trục hạm Shigure của tôi mang biệt danh “Kiên cố”. Tôi không nghĩ rằng tôi đáng được hưởng những lời khen ngợi nầy. Những sỹ quan thuộc 129 khu trục hạm của Nhật bị đánh chìm, cũng giống như nhiều lực lượng hải quân khác đã ra đi vĩnh viễn lúc tài ba của họ còn đang phát triển và nhiều người trong số nầy vượt xa tôi. Thật ra sự sống sót của tôi chẳng qua là vấn đề may mắn.
Giữa những kẻ sống sót như tôi, tôi tin rằng có những người tài ba bằng hoặc hơn tôi, nhưng họ không được đề cập đến các thành tích chiến đấu của họ, dĩ nhiên họ đã làm theo câu châm ngôn: “ Bại tướng không nên nhớ đến các cuộc chiến đấu của mình”.
Riêng tôi, tôi quyết định “thách thức” với câu châm ngôn này, không phải cho chính tôi, mà để những chiếc khu trục hạm và những người đã từng chiến đấu với chúng, mà gây cho họ niềm tin thích đáng. Cho họ thấy rằng cuộc bại trận nầy không hề gây tổn thương đến niềm tin và thành quả họ đạt được. Nếu quyển sách này có vẻ như đã nói về cái tôi quá nhiều, xin đọc giả hiểu một cách đơn giản là tôi chỉ muốn cố gắng thể hiện một “mẫu người khu trục hạm của Nhật Bản”, với những việc làm thích đáng, cũng như các lỗi lầm của hắn, ngoài ra chẳng còn hàm ý nào khác.
Quyển sách nầy không thể nào ghi lại tất cả câu chuyện của từng khu trục hạm một. Đặt biệt, tôi đã bỏ qua không để cập đến khu trục hạm Yukikaze, chiếc tàu đã dự tám cuộc hành quân và các trận hải chiến quan trọng trong những ngày cuối của cuộc chiến, nhưng vẫn còn tồn tại. Bởi lẽ theo ý kiến của tôi, các thành tích của Yukikaze trong khoảng thời gian từ 1941 đến 1944, đại tá Hải Quân Hoàng Gia Ryokichi Ranma, là người đủ tư cách để làm việc này. Tôi hi vọng ông sẽ viết đầy đủ chi tiết về chiếc Yukikaze qua các dữ kiện của riêng ông.
2
Vào ngày 7 tháng 4 năm 1945, tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi đã chịu đựng một cuộc tấn công kéo dài 90 phút của các phóng pháo Avenger và chiến đấu cơ Hellcat của Hoa Kỳ. Chiếc tàu đã trúng 6 thủy lôi, 12 quả bom 250 cân Anh, và nhiều loại bom khác. Hình phạt này tỏ ra quá nhiều cho chiếc tàu dù nó đã chiến đấu dũng cảm .
Sáng sớm hôm đó, Yahagi khởi hành từ biển Nhật Bản với 8 khu trục hạm và thiết giáp hạm khổng lồ Yamato. Mục tiêu của các chiếc tàu này là Okinawa. Nơi đây, một cuộc tấn công tự sát sẽ được tung ra nhằm vào các lực lượng xâm chiếm của Hoa Kỳ. Rõ ràng đây là một cuộc tấn công tự sát, bởi các tàu chiến của Nhật chỉ mang theo đủ nhiên liệu cho lượt đi mà thôi.
Bấy giờ cách bờ biển Nhật Bản không đầy 100 dặm, địch quân đã tung ra một cuộc tấn công dữ dội, chận đầu lực lượng đặc nhiệm Yamato và hạ gục tuần dương hạm hạng nhẹ Yahagi.
Là hạm trưởng của Yahagi, tôi đứng trên đài chỉ huy vào lúc các lượn sóng đã mấp mé đến chân. Cùng đứng với tôi là Phó Đô Đốc Keizo Komura, Tư Lệnh lực lượng hộ tống. Quanh chúng tôi đầy rẩy sự hủy diệt do cuộc tấn công của địch gây ra. Trong lòng chiếc Yahagi, xác người lẫn lộn với các mảnh vỡ, không một vật gì còn nguyên vẹn sau cuộc không kích như vũ bảo. Chiếc tàu nghiêng về tả mạn 30 độ và chìm nhanh chóng. Phó Đô Đốc Komura không bị thương, riêng tôi mặc dù máu chảy xuống ướt bàn tay trái, tôi cũng không hề có cảm giác gì gọi là bị trúng đạn.
Nhìn quanh lần cuối cùng, tôi thấy thiết giáp hạm Yamato, cách phía trước tôi khoảng 6 km, vẫn còn chiến đấu. Hai trong số các khu trục hạm của chúng tôi chìm. Ba chiếc khác đang bốc cháy dữ dội, hạ dần xuống nước và sau đó mất tăm hẳn. Ba chiếc còn lại đang chạy theo hình chữ chi một cách tuyệt vọng.
“Đi”, Phó Đô Đốc Komura nói. Tôi gật đầu. Chúng tôi tháo giày và nhảy xuống nước. Ngay lúc đó chiếc tàu chìm xuống, cuốn chúng tôi theo tận dưới đáy Đông Hải. Vực nước xoáy chiếc tàu chìm tạo ra đã nắm cứng lấy chúng tôi như một bàn tay vô hình có sức mạnh
khủng khiếp. Tôi vùng vẫy một cách vô ích. Tôi ngộp thở và nuốt liên hồi. Quanh tôi tối đen như mực. Tôi đã chết? Chưa, tôi lại cố gắng vùng vẩy. Tôi không sao nhớ được đã trãi qua bao nhiêu phút, nhưng đó là một thời gian rất dài đối với tôi, thình lình bàn tay có sức mạnh khủng khiếp đó buông tôi ra. Một làn ánh sáng mỏng manh phía trên tôi, chứng tỏ tôi đang trồi lên mặt nước. Một dòng bọt từ mũi tôi túa ra và tôi lại uống nước. Tôi đạp mạnh và vùng vẩy để bắt buộc bóng tối nhường lối cho bầu trời xanh và ánh nắng. Tôi giật nẩy mình vì trồi lên mặt nước một cách quá đột ngột. Choáng váng đầu óc trống rổng, tôi chỉ biết thả trôi trên mặt nước. Nhưng tôi nghe và nhìn thấy chiếc Yamato vẫn còn đang chiến đấu. Phi cơ của Hoa Kỳ quây quần như một bầy muỗi phía trên và chung quanh chiếc tàu, và những trái hỏa tiển chỉ tử được phóng ra, nhưng chiếc tàu vẫn tiếp tục chống trả. Cảnh tượng đầy phấn khởi nầy đã giúp tôi rời khỏi con ngơ ngác. Nhưng cảnh tượng trước mắt chẳng tồn tại lâu, vì tiếp liền đó, một cột lửa và khói trắng vĩ đại từ chiếc tàu bốc lên, che khuất mọi vật. Riêng cuộn khói bốc cao khoảng 6000 thước. Khi khói tan, tôi không còn thấy gì trên mặt nước nữa. Đại chiến hạm Yamato, niềm kiêu hãnh của Hải Quân Hoàng Gia Nhật, đã biến mình vào biển cả, điều này có nghĩa là vận mạng của Hải Quân Hoàng Gia đã cáo chung.
Tôi rùng mình. Những giọt lệ nóng dâng đầy đôi mắt và chảy xuống má tôi. Tôi bám lấy một mảnh vụn và trôi lênh đênh một cách buồn bả.
Vận mạng của tôi cũng cáo chung. Từ đầu cuộc chiến Thái Bình Dương cho đến nay, tôi đã thực hiện hơn 100 hải xuất và, trong khi một số bạn bè của tôi đã vĩnh viễn ra đi, tôi luôn luôn trở về với những chiến thắng. Giờ đây tôi mới nếm mùi cay đắng của chiến bại lần đầu tiên trong đời binh nghiệp của tôi.
Khi tôi biết mình chẳng có bất kì dịp may sống sót nào ở hiện tại, những hình ảnh của quá khứ bổng nhiên tràn ngập trong trí tôi.
Tôi nhớ lại cuộc thảo luận đầy sôi động trong ngày hôm qua giữa 3 vị Đô Đốc và 10 hạm trưởng về mạng lịnh được gọi là chuyến đi cuối cùng của hải quân Nhựt. Không ai trong chúng tôi hi vọng
nhiệm vụ thành công. Thiết giáp hạm Yamato cùng với tuần dương hạm Yahagi của tôi và 8 khu trục hạm khác phải trực chỉ Okinawa với số nhiên liệu vừa đủ cho lượt đi. Chúng tôi, với nhiệm vụ tự sát, sẽ tiêu diệt những gì mà chúng tôi có để chống lại hạm đội của Hoa Kỳ ở Okinawa. Nhưng chúng tôi đã bị đánh gục ngay trên khỏng không tới nửa đường đến mục tiêu.
Tôi thấy hình ảnh những người trong gia đình tôi một cách sống động. Bổng nhiên khuôn mặt của tôi như bị một màng mưa mờ che phủ. Tôi ứa nước mắt. Tôi gào to: “Vĩnh biệt Chizu. Em là một người vợ hiền, một bà mẹ tốt của các đứa con của chúng ta. Vĩnh biệt 2 chị em Yoko và Keiko, và Mikito, con trai của ba. Sau khi cha của các con ra đi vĩnh viễn, quê hương của các con trở thành xứ chiến bại, các con sẽ phải chịu đựng cảnh khốn cùng không sao nói được. Ôi! Hãy quên người cha của các con! Hãy cố nhớ lại ba là một kẻ chiến đấu và đã làm tất cả những gì tốt nhứt mà một người có thể làm được.”
Sau đó, tôi nghe một giọng hát cất cao. Tôi không cô độc. Tôi nhìn quanh, nhận thấy nhiều chiến hữu khác đang lập lờ trên sóng nước. Dần dần tiếng hát của họ họp đoàn, bất chấp các tiêu lịnh huấn luyện đã cấm chỉ họ làm như thế. Qua tiếng hát đầy dẫy thê lương, tôi nghe như thấp thoáng bài “Chiến sỹ ca” xưa cũ”
Nếu tôi rời xa biển cả
Tôi trở về như một xác chết nổi trôi
Nếu nhiệm vụ gọi tôi lên núi
Đồng cả xanh sẽ là áo khoác thân tôi
Và đã nguyền hiến thân phục vụ Thiên Hoàng
Tôi sẽ không chết yên bình giữa thê nhi êm ấm
Lệ tôi ngừng ứa, và tôi khép đôi mắt lại để hồi tưởng các con thơ, những ngày còn cấp sách đến trường, những người bạn sinh viên sĩ quan của tôi, những cuộc chiến đầy vinh quang ở biển Java, Solomon….
PHẦN MỘT
MỘT SAMURAI CHÀO ĐỜI
1
Tôi chào đời vào ngày 16 tháng 10 năm 1900, ở ngoại ô thành phố Takamatsu, nằm trên bờ biển phía bắc đảo Shikoku, đối diện với quang cảnh ngoạn mục của biển Nhật Bản .
Gia đình tôi thanh bạch. Tôi là con út trong số năm anh chị em. Cha mẹ tôi cắm cúi trên mảnh đất nhỏ bé của hai người từ sáng sớm đên mờ tối. Như hầu hết nông dân Nhật Bản, một trong những xứ có mực độ dân số cao nhất thế giới. Huê lợi kiếm được không đủ nuôi sống gia đình, vì vậy mà cha tôi phải thức trắng đêm để làm thêm một số nông cụ thô sơ mang đi bán.
Hình ảnh vất vả đêm ngày của song thân tôi có lẽ là hình ảnh mà tôi không bao giờ quên được. Hai người có rất ít hoặc không có thì giờ để chơi đùa với anh chị em chúng tôi. Ngay khi còn bé nhỏ, hai anh trai và hai chị gái tôi đã phải sớm tiếp tay tìm miếng sông cho gia đình.
Lúc tôi ra đời, ông nội tôi, Moichiro Hara, đã gần 70 tuổi. Ông trông nom và chơi đùa với tôi. Hồi còn trai trẻ, ông nội tôi là một Samurai với đầy đủ ý nghĩa, và tôi là đứa cháu chịu rất nhiều ảnh hưởng của ông.
Từ năm 1871, dân chúng Nhật được chia làm bốn thứ bậc hoặc bốn giai cấp. Các lãnh chúa phong kiến đều thần phục Thiên Hoàng.
Trước thời gian đó, giai cấp cầm quyền là giới Samurai. Giòng họ tôi cũng thuộc giai cấp nầy, và đã phục vụ cho lãnh chúa Takamatsu hàng nhiều thế kỷ. Nhiệm vụ của các Samurai thời bình là quản trị các vấn đề địa phương và đảm nhiệm công việc huấn luyện quân sự liên tục để đề phòng khi tai biến. Ngược lại, đời sống của họ được các lãnh chúa bảo đảm. Cũng vì vậy giới Samurai có
vẽ kiêu hãnh, và sống tách rời hẳn với 3 giai cấp khác là sĩ, nông, thương.
Với địa vị và các đặc ân, một Samurai sẽ nhận thấy khó mà thích ứng với một nghề mới nào khác. Vì vậy, hầu hết Samurai khi từ giã nghề cũ để chuyển saqng nghề buôn bán đều gặp thất bại hoàn toàn. Ông tôi cũng không thoát khỏi thông lệ. Bám vào mảnh đất nhỏ bé do lãnh chúa chu cấp, là tất cả những gì mà ông tôi có thể làm sau khi giã từ nghề cũ. Kỳ lạ làm sao, cuộc đời tôi lại có những nét gần gũi với cuộc đời người ông hóa lẫn nầy. Rời khỏi Hải Quân Hoàng Gia sau khi Nhật Bản đầu hàng trong cuộc chiến thế giới thứ hai, ngoài danh nghĩa cựu đại tá hải quân ra, tôi không còn một cái nghề nào khác.
Lực lượng Đồng Minh chiếm đóng không chỉ bãi bỏ hẳn tất cả ngân khoảng cấp dưỡng cho các cựu sĩ quan mà còn cấm họ giữ bất kì chức vụ công nào. Do đó, nhiều năm sau chiến tranh gia đình tôi đã phải sống đấp đổi bằng cách cầm cố đồ đạc và làm các công việc lao động chân tay. Dù vậy, tôi không bao giờ hối tiếc sự chọn lưa nghiệp dĩ hải quân của tôi. Ông tôi đã dạy tôi nhiều bài học mà tôi luôn ghi ơn. Những bài học nầy giúp tôi chiến thắng và cho phép tôi tồn tại trong chiến bại ở cuộc đại chiến đó. Lời cáo phó của các thuộc cấp tôi trong suốt thấp hơn bất kì hạm trưởng nào khác tương đương kinh nghiệm chiến đấu thuộc Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản.
Ông nội tôi đối xử tốt với tôi lạ lùng. Vì mẹ tôi bận rộn, ông phải săn sóc và trông nom tôi trong suốt thời thơ ấu. Khi tôi bắt đầu đi chập chững, ông thường dẫn tôi loanh quanh cạnh các ngôi đền, dỗ dành, chơi đùa và mua bánh cho tôi.
Khi tôi bắt đầu biết nói, ông kể cho tôi nghe các câu chuyện của giới võ sĩ đạo không bao giờ dứt. Sau này mẹ tôi có nói lại lúc ấy ông đã hi vọng tôi sẽ phục hồi danh vọng của dòng họ, vì theo ông, tôi là đứa trẻ thông minh nhứt trong những đứa trẻ lên năm.
Bây giờ tôi có thể nhắm mắt nhớ lại hình ảnh ông lão đầu bạc như bông ngồi thật thẳng, trong dáng điệu của một Samurai, mỗi sáng và mỗi chiều trước bàn thờ của giòng họ. Bàn thờ với các bài
vị của tổ tiên chúng tôi cũng như của vị lãnh chúa vùng Takamatsu, là Vorichika Matsudaira. Nghi lễ hàng ngày nầy không bao giờ thay đổi hoặc gián đoạn, cho đến khi ông tôi ngã bệnh nặng.
Trước giờ phút lâm chung, với sự hiện diện của tất cả những người trong gia đình, ông gọi tôi đến và ra dấu cho tôi lại gần. Lúc đó tôi lên sáu, song thân đã dẫn tôi lại đứng cạnh giường bệnh, cầm đôi tay nhỏ bé của tôi đặt lên đặt vào tay người ông. Ông quơ tay nắm lấy thanh kiếm võ sĩ đạo của ông và đặt vào đôi tay nhỏ bé của tôi. Ông thều thào: “Tamei, thanh kiếm này là của cháu. Hãy lắng nghe lời dặn dò cuối cùng của ông.”
Mọi người vẫn yên lặng. Giọng người sắp chết đứt quảng: “Tameichi Hara! Cháu là cháu một người Samurai, cháu phải nhớ điều này: một Samurai đã chọn đời sống như vậy, hắn luôn luôn phải chuẩn bị để chết. Nhưng cháu đừng có diễn dịch sai lầm lời dạy nầy. Không bao giờ nên cố theo đuổi chăm chăm một cái chết dễ dàng như vậy, vì việc này sẽ chống lại tinh thần thực sự của Bushido.
Ông đã nói với cháu nhiều lần về sự toàn vẹn ở một Samurai là cố gắng hết sức để hoàn thành các nhiệm vụ của họ. Cháu hãy cố gắng để làm như thế. Luôn luôn ý tứ và nổ lực gấp đôi những gì tốt nhứt mà cháu đã có.”
Mặc dù lúc ấy tôi quá nhỏ để hiểu thấu đáo những gì mà ông tôi nói, nhưng lời nói của người hấp hối đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với tôi, khiến tôi nhớ rõ và không sao quên được.
Năm sau đó, tôi vào học trường mẫu giáo và đều dẫn đầu lớp trong suốt sáu năm theo học, và tôi đã đem danh dự đầu tiên đến cho gia đình khi rời khỏi trường nầy.
Gia đình tôi vẫn khốn khổ. Hai anh tôi, một người lớn hơn tôi 10 tuổi 1 người lớn hơn tôi 8 tuổi, đã tiếp tục phụ việc với cha mẹ tôi. Hai người anh nầy và hai người chị của tôi, không ai học quá bậc tiểu học. Nhìn thành tích học tập của tôi, các anh chị tôi đã thuyết phục cha tôi cho tôi tiếp tục lên bậc trung học. Họ nói: “Chúng có sẽ cố gắng kiếm tiền cho em con ăn học.”. Vì đó mà tôi mới có thể tiếp
tục con đường học vấn. Tôi không bao giờ quên sự hi sinh to lớn này của gia đình tôi.
Tôi phải qua một kì thi tuyển vào trung học và may mắn thay, tôi có tên trong năm học sinh được chấm điểm đậu. Trường này làm một trong những trường danh tiếng nhứt của Nhật Bản , chỉ thâu nhận những học sinh ưu tú. Trải qua năm năm theo học ở đây, tôi không thể nào chiếm nổi các hạng danh dự, nhưng tôi cũng đứng được ở mười hạng đầu trong số 150 học sinh của lớp.
Khi qua khỏi bậc trung học, tôi phải nghĩ đến một nghề nghiệp nào đó. Hiển nhiên tôi thích theo đuổi việc học lên cao hơn nữa. Nhưng muốn theo học tại các trường cao đẳng và đại học, cần phải có nhiều tiền, mà gia đình tôi thì không thể nào chịu đựng nổi. Tôi chỉ có thể tiếp tục con đường học vấn ở các viện do Chánh phủ đài thọ tài chánh. Điều nầy lúc ấy có nghĩa là tôi phải chọn một trường đào tạo giáo sư hoặc quân sự. Tôi có dòng máu Samurai, tôi đã chọn một trường quân sự. Tôi không quên những lời cuối cùng của ông nội tôi.
2
Tôi tốt nghiệp trường trung học Takamatsu và tháng 3 năm 1938. Tôi ghi danh dự thi vào cả hai trường Hàn Lâm Viện Lục Quân ở Đông Kinh và Hàn Lâm Viện Hải Quân ở Eta Jima, gần Hiroshima. Sở dĩ tôi ghi danh cả hai trường vì tôi ít có hi vọng được Hải Quân tuyển chọn…
Sở thích của tôi là hải quân, nhưng nếu thất bại, Lục Quận sẽ thâu nhận tôi, bởi vì tôi không thể chờ đợi thêm một năm nữa để tham dự kì thi tuyển tới.
Ông nội tôi là một kị sỹ, tại sao hải quân lại hấp dẫn tôi nhiều như vậy? Có lẽ tinh thần của tôi đã đơn giản đáp ứng truyền thống địa phương của tổ tiên tôi. Thành phố Takamatsu và ngoại cảnh của nó có một ý nghĩa đặc biệt cho binh chủng hải quân, vì chính nơi nầy đã khai sanh ra hải quân Nhật Bản.
Biển Nhật Bản đã cung hiến cho nước Nhật những mà Aegean (vùng biển nằm giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Hi Lạp) đã cung hiến cho Hi Lạp.
Đời sống sơ khởi của dân chúng Nhật đều phát triển và xoay quanh biển này, với hàng nhiều ngàn hòn đảo nhỏ đầy cảnh sắc của nó, giống như nền văn hóa của Hy Lạp đã bắt đầu trên các bờ biển Aegean.
Trận hải chiến quan trọng đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản xảy ra gần bờ biển Takamatsu vào tháng giêng 1185. tháng sau đó, một lực lượng hải quân được thành lập gồm toàn những người Takamatsu, và lực lượng nầy đã giữ vai trò chánh trong cuộc chiến thắng ở Dan no-ura thuộc biển Nhật Bản, một trận đánh lớn chưa từng thấy trong lịch sử của quốc gia Nhật Bản.
Vào thế kỷ thứ XIII, khi một hạm đội Mông Cổ khổng lồ với 200.000 binh sỹ của Thành Cát Tư Hãn âm mưu đổ bộ lên Nhật Bản từ phía Bắc Kyushu, một lần nữa, lực lượng hải quân Takamatsu đã giữ vai trò chánh yếu trong tiêu diệt địch quân ở bờ biển Nhật Bản. Michiari Kono, một vị Đô Đốc lừng danh của Nhật, sinh quán gần Takamatsu, là người đầu tiên leo lên soái hạm Mông Cổ sau khi đắc thắng trong trận hải chiến khủng khiếp vào năm 1281. tất cả các quyển lịch sử của Nhật đều có ghi lại kì tích này. Lần đó, toàn thể hạm đội Mông Cổ bị đánh tan ở vịnh Hakata. Sau nầy, các hạm đội Nhật còn thực hiện nhiều “hải xuất phục thù” từ biển Nhật Bản tiến đánh lục địa Trung Hoa.
Hạm đội Nhật Bản thời trung cổ nầy đã thi hành các nhiệm vụ có tính cách giống như xung kích quân của thời tân tiến. Khác với hạm đội Mông Cổ vì không có ý định chiếm giữ thường trực đất Trung Hoa, nên hạm đội Nhật không mang theo số lượng quân đông đảo. Các thủy thủ cảm tử Nhật sẽ bất thần đổ bộ lên đất liền, đột kích chớp nhoáng các lực lượng Trung Hoa, và rút lui ngay sau khi đốt phá. Lịch sử Trung Hoa đã cho thấy những xung kích quân Nhật nầy đã đạt được nhiều kết quả trong các cuộc tấn công vào duyên hải Trung Hoa ở thế kỷ thứ XVII và đã tiếp tay lật đổ nhiều triều đại của họ, trong đó có triều đại nhà Minh nổi tiếng là cường thịnh.
Di sản hải quân của tỉnh lỵ sinh quán chắc chắn là yếu tố chính gây cảm hứng cho sự chọn nghiệp của tôi.
Hàn Lâm Viện Hải Quân ở Eta Jima là một trong những trường có kì thi tuyển chọn kỹ càng với điểm số cao nhất ở Nhựt. Những thanh niên nhiệt huyết, những người thi rớt kì thi tuyển chọn đầu tiên ở trường này phải đợi đến 1 năm sau hoặc có thể là hai năm để đợi thêm cơ hội khác để thi lại. Nhưng gia đình của tôi thì không thể để tôi đợi thêm 1 năm sau nếu không qua được kì thi. Vì vậy tôi cũng ghi danh vào Hàn Lâm Viện Lục Quân.
Kì thi tuyển chọn vào học viện Lục Quân chỉ được tổ chức ở các thành phố chính trên toàn quốc. Vào tháng 4, một tháng sau khi tôi tốt nghiệp trung học Takamatsu. Tôi đến Marugame để dự thi tuyển chọn vào Hàn Lâm Viện Lục Quân, bài thi dễ dàng với tôi và tôi chắc rằng tôi sẽ vượt qua với số điểm cao.
Tháng sau đó tôi đến Honshu bằng đường thủy từ thành phố Takamatsu để dự kì thi tuyển chọn vào Hàn Lâm Viện hải quân được tổ chức ở Hiroshima. Cùng lúc này trường trung học Takamatsu có tổ chức một chuyến tham quan Honshu, nhưng tôi không thể tham gia được vì lí do tài chánh.
Chuyến đi đầu tiên trong đời của một thanh niên thôn quê 18 tuổi thật sự sôi động, một mình lên thành phố lớn Hiroshima, một thành phố lớn nhất phía Bắc Honshu, sầm uất nhộn nhịp, các con đường sang trọng rộng rãi đã làm tôi ngơ ngác.
Tôi ở trong một khách sạn trong có vẻ hiện đại nhất nhưng nằm xa những khu nhộn nhịp. Kinh nghiệm thuê phòng lần đầu tiên của tôi tỏ ra kém khôn ngoan. Ở các khách sạn của Nhật các bữa ăn của khách được người phục vụ nữ phục vụ ngay trong phòng. Người phục vụ cho tôi khoảng 20 tuổi, đẹp và thân thiện. Nhưng vì quá thân thiên đã làm tôi căng thẳng.
“Anh có muốn uống chút rượu mạnh không?” cô gái hỏi.
“ Không, thưa cô. Tôi chưa đủ tuổi uống rượu và hơn nữa ngày mai tôi phải dự thi vào Hàn Lâm Viện hải quân Eta Jima.” Tôi trả lời.
“Oooo!” cô gái trầm trồ. “ Anh chuẩn bị thi vào Hàn Lâm Viện hải quân! Tuyệt vời! Anh sẽ trở thành một sĩ quan chói sáng! Anh sẽ quay lại khách sạn này trong bộ quân phục hải quân chứ! Em rất muốn gặp lại anh.”
Cuộc nói chuyện này làm tôi không được thoải mái. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với người con gái nào từ trước đến giờ ngoài các chị tôi. Điều đó là tôi nổi nóng khi cô gái cứ đặt ra những câu hỏi cho tôi. Khó khăn lắm tôi mới phun ra từng từ khi trả lời cô ấy, và thở phào nhẹ nhõm khi cô quay gót đi. Tôi mở vài quyển sách mang theo ra, tâm trạng lo âu và cố gắng học thêm chút ít trước khi thi. Tôi lật sách tới lui hàng giờ mà vẫn không tập trung được. Người khách phòng kế bên đang uống rượu thi với người phục vụ. Giữa những lúc uống họ hát. Thật kinh khủng. Tôi nhận ra là mình đã chọn sai khách sạn.
Tôi chịu thua đến nửa đêm và gọi xuống lễ tân yêu cầu họ chuẩn bị giường ngủ cho tôi. Các khách sạn ở Nhật Bản không có giường ngủ trong phòng. Khi khách cần nghỉ ngơi người phục vụ sẽ trãi một tấm nệm ở giữa phòng cho khách nghỉ.
Người nữ phục vụ năng nổ lại xuất hiện để chuẩn bị giường ngủ cho tôi. Thay vì rút lui sau khi xong việc, cô ta lại giúp tôi thay đồ và chuẩn bị quần áo cho tôi, tôi thật sự bối rối.
Cô ta phớt lờ giọng nói cà lăm tỏ vẻ không đồng ý của tôi và bắt đâu masage lưng cho tôi. Tôi đành nhượng bộ.
“Anh chàng trai trẻ ơi!” cô ta nói với giọng chế nhạo “Trông anh rất căng thẳng, anh cần được massage. Nếu anh không thư giãn và thoải mái ngày mai anh sẽ thi trượt”
“Tên em là Noriko người tỉnh Yamaguchi” cô nói tiếp. “Em đã làm việc ở khách sạn này suốt 3 năm rồi. Thỉnh thoảng cũng gặp nhiều rắc rồi vì không phải khách nào cũng lịch sự như anh.”
Tôi lặng im, mặc dù cô ta massage rất thoải mái nhưng lời nói của cô ta còn gây căng thẳng cho tôi hơn.
“Em không có nhiệm vụ tối nay” cô ta thì thầm “Anh có thể giữ em lại.”.
Tiếng nói của cô gái thật trầm, nhưng đối với tôi lại vang như tiếng sấm động. Tôi hoảng sợ. “Cô muốn nói gì?” tôi to giọng.
“Ồ! Nầy anh chàng tuổi trẻ ơi, anh đừng nên đóng trò thì hơn! Một anh chàng đẹp trai như anh phải biết qua hàng tá gái là ít. Tốt hơn là đêm nay anh nên giải trí để ngày mai đủ bình tỉnh mà đối phó với các bài thi.”
“Ồ! Xin cô rời đây giùm tôi,” tôi van nài. Tôi chưa bao giờ biết qua một cô gái nào cả. Trong đời tôi, tôi cũng chưa từng nói chuyện với một cô gái nào cả, ngoại trừ các chị tôi. Cuộc thi ngày mai tối quan trong đối với tôi.”
“Anh có vẻ nghĩ em là một con điếm,” nàng nói, giọng xúc động và giận dữ. “Em tự nguyện ở đây với anh bởi vì em cảm thấy yêu anh khi mới gặp. Em cũng biết theo luật của nhà trường anh sẽ bắt buộc phải từ chối các cô gái khác trong bốn năm anh theo học ở Eta Jima. Em sẽ không tiết lộ vụ nầy cho các đồng nghiệp của em đâu. Anh nghe đó! Tất cả các phòng kề cần đều yên lặng. Họ ngủ hết rồi.”
Tình cảnh nầy đối với tôi thật quá lắm. Tôi thành thật van xin cô gái rời khỏi phòng. Cuối cùng, cô ta bước ra với một cái nhìn đầy vẻ khinh thị.
Tai nạn nầy đã phá rầy giấc ngủ của tôi. Hôm sau tôi vào trường thi một cách uể oải vì thiếu ngủ. Tôi không cảm thấy một chút tin tưởng nào vào các bài thi mà tôi đã làm. Tôi trở về Takamatsu với sự chán nản và thất vọng.
Khoảng mười ngày sau tôi nhận được giấy báo cho biết đã qua được kì thì ở hàn lâm viện Lục Quân và sẽ trình diện Đông Kinh vào tháng 8. Nhưng tôi đã đạt được ước nguyện: hải quân đã nhận tôi. Tôi la hét và nhảy nhót vui mừng khi nhận được điện tín thông báo sau nầy.
3
Eta Jima, Annapolis (thành phố của tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ) của Nhật Bản là một thánh địa, một điểm hội tụ của những mộng ước cho nhiều triệu thanh niên Nhật thời chiến. Mỗi năm, nhiều trăm thanh niên đầy nhiệt huyết, mỗi người đều có thành tích học vấn và những giấy tời chứng nhận tốt, đã đổ xô đến Eta Jima để tranh nhau vài chức vụ công hoặc tư. Người ta hy vọng một thế hệ chọn lọc như thế cũng sẽ sản xuất các sĩ quan hải quân sáng chói. Nhưng nhiều người đã tốt nghiệp từ ngôi trường huấn luyện sĩ quan hải quân duy nhứt nầy đã không tỏ ra một cái gì gọi là sáng chói, và một số đã hoàn toàn thất bại trong các hành động mà quốc gia đã đặt hy vọng vào họ.
Những gì tôi nói về Hàn Lâm Viện hải quân và một hệ thống của nó không phải nhằm để đưa ra một sự buộc tội. Tôi chỉ trình bày tất cả sự thật để tùy nghi đọc giả phán xét.
Tôi nhập học ngày 26 tháng 8 năm 1918. ngày đó tôi vận một bộ quân phục màu trắng với bảy nút đồng sáng chói, mang một thanh đoản kiếm xinh xắn, giống như ông nội tôi đã mang lúc còn trẻ. Tôi đã trở thành một Samurai thật sự.
Ba ngày sau khi tôi nhập học, hôm đó lúc tôi sắp sửa bước vào phòng ngủ, một sinh viên năm thứ 3 đã hét lớn. “Nghiêm!” khi tôi làm theo lời hắn, hắn nhanh nhẹn tiến đến và hỏi một cách giận dữ: “Tại sao anh không chào tôi?”
Tôi không biết trả lời sao. Tôi có gặp hắn trước đó bao giờ đâu.
“Coi chừng!” hắn gầm lên. “Đứng cho vững và chuẩn bị. Tôi bắt đầu tẩy sạch tánh vô lễ của anh đây.”
Hắn nắm tay và đánh vào mặt tôi hơn một chục lần. Nếu tôi không được lưu ý trước, tôi đã đo đất với cú đấm đầu tiên của hắn. Sự đối xử nầy đã gây cho tôi sự xúc động mảnh liệt. Với mặt mày bầm vập và rướm máu, tôi lê bước vào phòng ngủ.
Ngày kế đó, trong bữa ăn sáng, một sinh viên huynh trưởng khám phá ra bộ quân phục của tôi cài nút không đúng cách, và tôi lại
nhận thêm một chục cú đấm vào khuôn mặt đã sưng vù của tôi. Lần trừng phạt thứ nhì nầy mạnh tay hơn lần đầu. Tai trái tôi trở nên điếc câm.
Khi một sinh viên vi phạm kỷ luật, tất cả các sinh viên khác trong trung đội của anh ta phải đứng xếp hàng và lãnh mỗi người một cú đấm vào mặt. Tất cả các sinh viên đều nếm mùi hệ thống kỷ luật độc đoán nầy, hầu như không có lúc nào “thiếu thốn”. Mỗi ngày Chúa Nhựt, 180 sinh viên mới nhập học phải lên võ trường để nghe “thuyết pháp” hàng bốn năm tiếng đồng hồ liền dưới ánh nắng mặt trời. Sĩ quan quân trường và các phụ tá của họ, tức các các sinh viên huynh trưởng, đảm trách cuộc thuyết pháp. Bài học ngày Chúa nhựt nầy hầu hết được chấm câu bằng những cú đấm như mưa bấc.
Sau vài tháng trui rèn theo kiểu đó, những kẻ mới đến đều trở thành những con cừu non ngoan ngoãn. Khuôn mặt của mọi người đều mang dấu vết tàn phá của những mà họ phải chịu đựng. Tai tôi điếc hẳn từ đó đến bây giờ.
Một số người đã từng bị đối xử theo lối kỷ luật nghiêm khắc nầy lúc còn ở ngoài đời, họ sẽ không lấy gì làm xúc động. Trong một số gia đình Nhật Bản, người cha muốn trừng trị con mạnh tay cách nào cũng được. Nhiều trường học thôn quê thầy giáo đối xử với học sinh có thể nói là tàn nhẫn.
Tôi lại khác hơn. Tôi là một đứa con hãnh diện của một gia đình Samurai. Không ai trong gia đình muốn đánh tôi đến một roi. Trường tôi theo học cũng không bao giờ áp dụng các phương pháp kỷ luật nghiệt ngã như vậy.
Có lẽ vì vậy tôi có phần nào hư hỏng, và có lẽ vậy mà tôi không thích ứng kiệp với nghiệp binh. Bất cứ kỷ luật nào ở Eta Jima đối với tôi cũng đầy vẻ xúc phạm khiến cho tôi phải hờn giận. Ngay cả hiện tại tôi vẫn còn nhớ lại những ngày ở Hàn Lâm Viện hải quân với dư vị chua chát.
Chắc chắn các sinh viên huynh trưởng của tôi là lũ vô tri, thích thú khi được hành hạ kẻ khác, hả dạ khác thường lúc ra tay khủng
bố những người mới vào. Cả bây giờ tôi vẫn thấy chán ghét khi gặp lại mấy khuôn mặt nầy, ngay cả khi chúng tôi đang chia sẽ các công việc nặng nhọc, sự khốn khổ do chiến tranh gây ra, và có cùng sự may mắn được sống sót.
Tiếng kèn đánh thức chúng tôi vào lúc 5h30 sáng, và chúng tôi học hỏi tập tành kéo dài đến 9h tối mà không có một phút giây nào để nghỉ ngơi. Trong thời gian nầy, ngày Chúa nhựt vẫn phũ phàng như những ngày thường.
Những người mới vào chấm dứt giai đoạn 1 và sinh hoạt có phần thoải mái hơn, các hình phạt thường lệ chấm dứt theo với năm nhứt của chúng tôi.
Cuối tuần không có sinh viên nào được phép đi ra khỏi các vùng phụ cận của thành phố. Thường thường ngày Chúa nhựt chúng tôi phải leo núi, lội bộ quanh đảo hoặc ngồi cú rủ trong câu lạc bộ.
Một trong những bạn đồng khóa xuất sắc nhứt của tôi là Ko Nagasawa, quê ở miền Bắc nước Nhật. Anh ta có thể nói là một tay có nhiều đặt tính vượt trội, và hình như hăn chẳng thèm lưu ý đến kỷ luật bịnh hoạn của Hàn Lâm Viện. Sau mỗi lần nhận lảnh hình phạt tàn bạo bởi các huấn luyện viên hoặc các sinh viên huynh trưởng, Ko Nagasawa vẫn pha trò một cách tỉnh bơ, khiến tôi phải “kinh hoảng”.
Ko Nagasawa và tôi thay phiên nhau dẫn đầu 180 sinh viên. Khi ra trường, Ko Nagasawa phục vụ xuất sắc ở lanh vực tham mưu và chỉ huy trong suốt cuộc chiến Thái Bình Dương. Năm 1954, anh gia nhập vào tân hải quân Nhật Bản và trở thành Thủy sư Đô Đốc vào năm 1956 (giử chức vụ Tổng Tư Lịnh Tân Hải Quân Nhựt từ năm 1954 đến năm 1958). Những ngày ở Eta Jima, Ko Nagasawa được tất cả bạn đồng khóa kính mến, nhưng không một ai tiên đoán con đường hoạn lộ của anh lại tiến đến bực ấy.
Tôi biết có một số bạn tôi đã nhìn những ngày ở Hàn Lâm Viện hải quân của họ với nhiều luyến tiếc. Nhưng riêng tôi, bởi vì “cô độc” chịu đựng hình phạt thể xác ở đây, tôi không thể nào chia xẻ cảm nghỉ của họ.
Lúc đó, tôi thường nhận được thơ nhà mang đến những tin tức rối rắm. Đó là những phiền muộn khác trong những ngày tôi ở Hàn Lâm Viện hải quân. Bức thơ đầu tiên báo cho biết tin buồn người chị lớn của tôi là Uta chết vì bệnh lao. Và bởi lẻ chị tôi đã bỏ lại hai đưa cháu thơ dại, nên gia đình thuyết phục người chị kế của tôi là Kiyo chấp nối với người anh rể. Kiyo viết cho tôi biết chị không đồng ý, nhưng sau đó chị bất ngờ nhượng bộ. Vì tôi rất được chị Kiyo thương mến, nên việc nầy đã gây lo nghĩ cho tôi rất nhiều.
Một năm sau, chị Kiyo bỏ chồng và các cháu, trở về với gia đình. Vào lúc đó một hành động như vậy không thể chấp nhận được với một người đàn bà Nhật có đức hạnh. Nhưng tôi không bao giờ qui tội cho chị tôi. Tôi biết rằng chị tôi có những lý lẽ riêng mà chị ấy cho là phải.
Những biến cố như vậy, cộng thêm đời sống ép thể xác như hiện tại khiến hầu hết ba năm học đầu tiên của tôi đắm chìm thường xuyên trong âu sầu và chán nản. Trong năm cuối cùng, Hàn Lâm Viện có một tân chỉ huy trưởng. Đó là Phó Đô Đốc Kantaro Suzuki, một vĩ nhân thực sự trong đời tôi.
Phó Đô Đốc Suzuki vừa nhận chức đúng 3 ngày, ông đã triệu tập ngay một phiên họp toàn trường. Mở đầu buổi nói chuyện, với một giọng phẩn nộ, ông cấm chỉ tất cả những kỹ luật khắc nghiệt đã được áp dụng. Ông nói: “ Trường nầy được thành lập để đào tạo những sỹ quan ưu tú, không phải là chuồng nuôi súc vật.”
Từ đó, Suzuki đưa ra một loạt cải tổ, quét sạch toàn thể hệ thống cũ của Hàn Lâm Viện. Ông tìm cách khuyến khích sáng kiến của sinh viên, vì vậy họ rất hứng khởi trong việc học hỏi. Dĩ nhiên tất cả hình thức đối xử dã man không còn nữa.
Do đó, tôi có cảm giác Phó Đô Đốc Suzuki sẽ còn làm được nhiều việc hơn nữa. Nhưng chẳng may cho nhà trường Suzuki không ngồi lâu. Kích thước ông quá lớn đối với Eta Jima và ngay cả Hải Quân Hoàng Gia. Ông về hưu sớm để trở thành nội thần của Thiên Hoàng. Năm 1945, ông cầm đầu Nội Các trong thời gian xảy ra cuộc đầu hàng Đồng Minh của Nhật Bản. Sau Kantaro Suzuki,
các Đô Đốc tiếp nhiệm chỉ huy Eta Jima đều tầm thường và những cải tổ của Suzuki dần dần bị lãng quên.
Vào tháng 16 tháng 7 năm 1921, tôi ra trường với hạng 40 trong tổ số 150 sinh viên. Song thân tui vui mừng và kiêu hãnh khi biết tin nầy. Tuy nhiên, tôi biết, đáng lẽ ra tôi phải đạt được thành quả tốt đẹp hơn.
4
Năm tôi nhập học ở Eta Jima là năm đánh dấu cuộc chiến thế giới lần thứ nhứt chấm dứt. Trong cuộc chiến nầy Nhật Bản đứng về phe Đồng Minh. Quốc gia không chịu đựng sự tàn phá của chiến tranh, và các thương gia Nhật đã làm giàu vượt mức trong suốt cuộc chiến.
Đình chiến và thế giới hòa bình, nhưng nước Nhật lại lâm và cảnh xuống dốc thảm hại. Ngay ở Eta Jima mặc dù tách biệt với thế giới bên ngoài, nhưng do tình trạng tổng quát, sự sa sút kinh tế ở đây nhìn thấy rất rõ rệt.
Trong năm tôi ra trường, lực lượng hải quân của năm cường quốc lúc nầy là Anh, Mỹ, Pháp, Ý và Nhật đã đi đến một thỏa hiệp qui định sức nặng tối đa cho các tàu chiến của họ.
Khó học của tôi gồm 150 sinh viên tốt nghiệp, được phân phối thực tập trên hai khu trục hạm Izumo và Yagumo, trọng tải 6000 tấn, chiếc tàu này là sức mạnh chánh của Nhựt trong cuộ chiến Hoa – Nhật năm 1894 – 1895. Bất kì loại tàu nào đã 25 tuổi đời thật khó mà hoạt động hữu hiệu. Với tuổi đó, một tàu chiến trở thành một gánh nặng hơn là một tài sản quốc gia.
Tuy nhiên bọn trẻ chúng tôi lại không kìm hãm nổi sự thích thú của mình. Bởi chúng tôi được biết không bao lâu nữa chúng tôi sẽ thực hiện một chuyến đi vòng quanh thế giới. Không vật gì có thể nhận chìm được cảm giác bềnh bồng của chúng tôi lúc ấy. Các chiếc tàu trông già nua đáng sợ, nhưng không ai trong chúng tôi để ý đến điều nầy.
Trong vòng một tháng, hai khu trục hạm thao luyện trong các hải vực quanh Yokosuka. Công việc cá nhân và tập thể của chúng tôi đã đỡ phần vất vã. Nhiều người trong chúng tôi bắt đầu nhìn lại những ngày ở Eta Jima, như nhìn lại thời gian ở mẫu giáo của họ.
Trong Hải Quân Hoàng Gia Nhựt có một câu nói cũ kỷ: “Thứ bậc của hải quân được xếp hạng từ sỹ quan đến hạ sỹ quan, trâu bò (có nghĩa là lính trơn) và cuối cùng là mới đến các sỹ quan mới ra lò.” Nói khác đi, đời sống tổng quát của một sỹ quan vừa ròi khỏi Eta Jima, và nhận được công việc sơ khởi của họ trên tàu còn khốn khổ hơn bất kì một anh lính mới nào.
Chiến hạm Nhựt khi chế tạo không bao giờ để ý đến các tiện nghi nào dành chp chổ ngụ của các sĩ quan mới tốt nghiệp. Chổ ăn ngủ của họ và binh sỹ trên tàu không khác gì nhau. Ban đêm nếu muốn ngủ họ phải căn võng. Thức ăn gồm có cơm và lúa mạch, với một chút ít cá hoặc thịt.
Đời sống của các tân binh trơn hiển nhiên là khốn khổ nhưng ít ra họ cũng có một công việc riêng để học hỏi và chăm chú vào công việc đó. Trái lại một sĩ quan mới ra trường phải học hỏi mọi công việc trên tàu, từ công việc đun nồi xú de cho đến công việc đo giác cự, và phải học cho chính xác. Chúng tôi không có thời gian nào gọi là thời gian riêng của chúng tôi cả.
Sau một tháng huấn luyện liên tục theo nguyên tắc, hai chiến hạm già nua rời Yokosuka sang Hoa Kỳ, khởi đầu chuyến viễn du thế giới. Hải quân đã hấp dẫn nhiều thanh niên Nhựt phần lớn là do dịp may được đi đó đi đây như thế nầy.
Khi hai chiến hạm nhổ neo, các sĩ quan mới đã mừng rỡ reo hò ầm ỉ. Chúng tôi nghĩ là đã thoát khỏi kiếp đọa đày. Chúng tôi đã lầm lẫn biết bao. Chúng tôi không chịu nghĩ đến các lượn sóng tàn nhẫn của Thái Bình Dương đang chờ đón chúng tôi.
Hai ngày sau khi rời khỏi Yokosuka, tất cả chúng tôi đều nằm liệt. Ngay cả tôi, một thanh niên có sức khỏe như voi, cũng nôn thốc nôn tháo ngay bước đầu của chuyến viễn du.
Nửa tháng sau, chúng tôi đến Honolulu, sức khỏe của các sĩ quan mới đều xuống dốc trầm trọng. Tôi cảm thấy muốn cúi xuống hôn mặt đất để cảm ơn Thượng Đế. “Cá heo” tên riêng của tôi thời đi học, hình như trong tình cảnh nầy không còn thích đáng một chút nào. Và con cá nầy chỉ bị trừng trị trong hai tuần lễ mà sụt đến 30 cân Anh (khoảng 14 kí lô). Nhiều người khác cũng chẳng kém gì tôi.
Phó Đô Đốc Hanroku Saito, chỉ huy chuyến đi, quyết định lưu lại Hạ uy Di một tuần lễ. Một phần của quyết định nầy là để đáp lại sự tiếp đón nồng nhiệt và lòng hiếu khách của dân chúng Nhựt trên đảo, nhưng phần quan trọng hơn là để cho bọn “tân binh” chúng tôi lấy lại phong độ.
Hải cảng kế đến là San Diego, từ đó chúng tôi chuyển về hướng Nam, xuyên qua kinh đào Panama và đến New York vào ngày 29 tháng 10 năm 1921. Cuộc họp giải trang của năm cường quốc đang diễn ra ở Hoa Thịnh Đốn. Việc các chiếc tàu cổ lổ của chúng tôi đến Hoa Kỳ vào thời gian đặt biệt nầy có lẽ nằm trong sự tính toán.
Trong thời gian nầy, Nhựt đã tìm cách che đậy năng lực thật sự của hải quân. Các thiết giáp hạm Nago và Mutsu, hoàn tất vào năm 1920 và 1921, trang bị tám trọng pháo 300 ly, được cho là có trọng lượng 32600 tấn và tốc độ tối đa chỉ 23 hải lý. Nhưng sự thật, hai chiến hạm nầy có trọng lượng 35000 tấn và tốc độ tối đa gần 27 hải lý, vượt trội hẳn chiếc Maryland cùng loại của Hoa Kỳ.
Nhật Bản cũng không khoe khoang về chiếc Hosho, hàng không mẫu hạm tối tân đầu tiên trên thế giới, hoàn tất năm 1921, trọng lượng 9494 tấn, mà cũng không tiết lộ cho thế giới biết về chiếc Shimakaze, một khu trục hạm tuyệt hảo loại mới, được võ trang 4 khẩu 120 ly và 6 ống phóng thủy lôi, và có thể đạt đến tốc lực tối đa 40 hải lý.
Trong khi đó Nhựt mang biểu diễn quanh duyên hải Hoa Kỳ hai đống sắt vụn trên mặt nước, do một bọn sĩ quan vụng về mới ra trường điều khiển.
Khi chúng tôi đến Nữu Ước, hầu hết dân chúng ở đây đều đón tiếp chúng tôi niềm nở. Chẳng hạn như trong một buổi dạo cảnh, tôi
và ba người bạn ghé vào thương xá Wanamarker, một người Mỹ rất vui vẻ và lịch sự, có lẽ là giám đốc, mời chúng tôi chụp chung một tấm ảnh. Rất tiếc là tôi không nhớ tên ông ta.
Trong bốn anh em chúng tôi chụp chung trong ảnh nầy, chỉ có Matao Machida, sau nầy là Đại tá, đứng ở góc trái và tôi là còn sống sót. Machida trở thành một sỹ quan kỹ thuật, đặt biệt trong lãnh vực quang học. Hiện tại Machida sống ở Đông Kinh, một trong những ủy viên quản trị của công ty máy ảnh Canon. Ông cũng là người chế loại máy ảnh và các thấu kính cực vi nổi tiếng đương đại.
Từ Nữu Ước chúng tôi băng qua Đại Tây Dương. Chúng tôi chọn hải trình nầy, gian nan hơn Thái Bình Dương, bởi lúc ấy chúng tôi đã làm quen với biển cả. Chúng tôi thăm viếng Anh và nước Pháp, trước khi xuyên ngang Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương, hướng về quê nhà. Chúng tôi trở về Nhựt ngày 9 tháng 5 năm 1922 sau thời gian gần 7 tháng vắng mặt.
Thời gian đó, kết quả Hội Nghị Hoa Thịnh Đốn được công bố. Hải Quân Hoàng Gia Nhựt không hài lòng với kết quả nầy, và đưa đến một số sỹ quan cao cấp xin từ nhiệm.
Thỏa hiệp giải trang đạt được ở Hoa Thịnh Đốn vào năm 1921 chỉ cho phép Nhựt duy trì tổng số trọng lượng của toàn thể tàu chiến là 315.000 tấn, Pháp 175.000 tấn, Ý Đại Lợi 81.000 tấn, nhưng trái lại Anh và Mỹ tổng số lên đến 525.000 tấn cho mỗi xứ. Sức mạnh của hàng không mẫu hạm giới hạn cho Nhật tổng số 81.000 tấn, 60.000 tấn cho Pháp và Ý, và đến 135.000 tấn cho Anh và Mỹ. Nhưng riêng khu trục hạm và thiết giáp hạm, thỏa hiệp đã đặt ra kích thước và giới hạn cho mỗi chiếc là 10.000 tấn nhưng không giới hạn số lượng.
Thỏa hiệp đã khiến nhiều sĩ quan hải quân Nhựt rơi nước mắt. Thiết giáp hạm Tosa, trọng lượng 39.900 tấn hạ thủy năm 1921, phải phá bỏ, và chiếc tàu em của nó là Kaga được biến cải thành một hàng không mẫu hạm. Tuần dương hạm Akagi và thiết giáp hạm Amagi, cùng trọng lượng 34.363 tấn cũng được biến cải thành hai hàng không mẫu hạm. Nhưng trong thời gian xúc tiến việc biến cải
nầy, chiếc Amagi bị trận động đất năm 1923 chôn vùi. Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt cũng bắt buộc bãi bỏ các đồ án của bốn thiết giáp hạm, mỗi chiếc 47.500 tấn. Các đồ án nầy hoàn tất năm 1921 sau nhiều tháng nổ lực to tát của một số kỹ thuật gia.
Hải quân Nhật đã nhìn hội nghị Hoa Thịnh Đốn có tánh cách thuần túy chính trị, mà qua kết quả đã cho thấy Nhật đại bại trên lãnh vực nầy. Một số dân chúng nhớ lại sự chế tài của luật di trú bài Nhật ở California vào năm 1913, việc nầy khiến cho mối liên kết giữa Nhật và các cường quốc Anglo Saxon rạn nứt sau Đệ Nhứt Thế Chiến. Dân chúng Nhật cũng nhớ lại tổ chức Liên Minh Quốc Gia đã bị Hoa Kỳ tẩy chay, sau khi liên minh nầy được hình thành và do chính Hoa Kỳ điều khiển.
Qua tình trạng tinh thần nầy, Nhật đã bắt đầu xem Hoa Kỳ như là một “kẻ thù ngấm ngầm”. Các sỹ quan trẻ, và các sỹ quan mới ra trường như tôi, không có một thẩm quyền nào để đo lường đúng mức sự xét đoán nầy, nhưng trên phương diện lý thuyết, các sỹ quan cao cấp của chúng tôi đã “khua động” bên tai chúng tôi hàng ngày.
Sau chuyến viễn du không lâu, tất cả sĩ quan thuộc khóa của tôi chánh thức mang cấp bậc Thiếu úy hải quân. Tôi và bốn sĩ quan được bổ nhiệm phục vụ trên tuần dương hạm Kusaga. Trong vai trò mới, chúng tôi lập tức đối diện với nhiều vấn đề cần phải quan tâm, chớ không phải riêng “kẻ thù ngấm ngầm” mà thôi.
Tôi không mấy phấn khởi với nhiệm vụ mới. Tôi nhớ câu châm ngôn Nhật Bản: “Ít ra bạn phải trải qua mười năm mới mong trở thành một thủy thủ lành nghề”. Kasuga không già nua hơn Izumo hoặc Yagumo, nhưng chiếc tàu nầy cũng từng chứng kiến trận chiến Nga – Nhật vào năm 1904 – 1905. Tôi tự nhủ: “Anh vẫn còn là một tay mơ. Đừng mơ ước một chiến hạm tối tân như Nagato. Hãy kiên nhẫn! Kể từ khi anh bước chân vào Eta Jima, tính ra chỉ mới sáu năm mà thôi.”
Tôi trình diện Kasuga vào tháng 5năm 1922. Chiếc tàu được phái sang Nga Sô. Chúng tôi lại thực hiện một chuyến viễn du nữa.
Tuy nhiên lần đi nầy không phải có tánh cách huấn luyện đơn thuần. Nhiệm vụ của Kasuga là bảo vệ cư dân Nhật ở Tây Bá Lợi Á lúc bấy giờ đang gặp khốn đốn do cuộc cách mạng hậu chiến của Nga Sô gây ra. Năm 1920, nhiều trăm người Nhật đã bị loạn quân Nga Sô tàn sát ở Nikolaievsk. Hai năm sau đó, Tây Bá Lọi Á vẫn còn trong tình trạng hổn loạn.
Từ khi hạm đội Nga Sô bị Nhật Bản tiêu diệt vào năm 1904 – 1905, người Nga không có loại tàu chiến nào chống lại nổi chúng tôi. Vì vậy, chiếc Kasuga của chúng tôi không phải bắn một phát súng nào cả, và kinh nghiệm mà tôi nhận được cũng không hơn gì khi tôi ở trên chiếc Yagumo.
Chuyến đi vào các hải vực phía Bắc là chuyến đi vào trong sương mù dầy đặc đầu tiên của tôi. Vào tháng sáu, chúng tôi đổ bộ lên Vladivostok, hải cảng của Tây Bá Lợi Á nổi tiếng với nhiều ngọn đồi dốc thẳng khiến tôi gợi nhớ đến Nagasaki của Nhật Bản. Cuộc nội chiến của Nga đã gây cho dân chúng ở đây nghèo đói. Những gì tôi thấy ở Vladivostok trái ngược hẳn những gì tôi thấy ở Nữu Ước và các thành phố hải cảng thịnh vượng của các quốc gia chiến thắng khác. Điều này khiến cho tôi suy nghĩ rằng một quốc gia không bao giờ nên để cho bại trận. Lúc đó tôi không bao giờ tưởng tượng Nhật Bản cũng sẽ chịu chung số phận của dân Bạch Nga trong vòng không đầy 23 năm sau đó.
Sau Vladivostok, chúng tôi viếng thăm Odomari, hải cảng cực Nam của Sakhalin do Nga nhượng cho Nhật Bản sau cuộc chiến 1904 – 1905. Lúc đó không ai có thể tưởng tượng hải cải uể oải tồi tàn nầy sẽ được người Nga thâu hồi vào năm 1945 và biến thành căn cứ hải quân quan trọng Korsakov ngày nay.
Bộ Tư Lịnh Tối Cao Hải Quân Hoàng Gia không sử dụng các loại tàu tân tiến và chạy nhanh trong cuộc hành quân không có đối thủ ở Tây Bá Lợi Á nầy. Nhưng các sĩ quan có khả năng về chánh trị được chọn để cầm đầu cuộc hành quân, bởi vì lúc đó giữa Nga và Nhật không xảy ra chiến tranh, và cuộc hành quân liên quan đến nhiều vấn đề tế nhị.
Hạm trường Kasuga là Đại Tá Mitsumasa Yonai, một nhân vật vĩ đại thứ hai mà tôi được phục vụ dưới quyền. Như Đô Đốc Suzuki, người đã đưa ra nhiều nhát chổi cải cách ở Eta Jima, Yonai là vị chỉ huy mà tôi kính nể cao độ nhứt. Nhưng giữa hai nhân vật nầy có nhiều điểm khác nhau rõ rệt. Đô Đốc Suzuki thích nói thẳng vào mặt, mạnh bạo và ồn ào, còn Yonai ít nói. Dù tuổi đã gần tứ tuần, ông vẫn còn đẹp trai và hấp dẫn. Suốt sáu tháng phục vụ trên chiếc Kasuga, tôi không bao giờ thấy ông rầy mắng một sĩ quan nào. Tuy nhiên tinh thần phục vụ của thủy thủ đoàn rất cao. Ai ai cũng nể phục ông, và xem ông như là một trong những người lãnh đạo tài giỏi nhứt của Hải Quân Hoàng Gia Nhật Bản.
Đại tá Yonai và Đô Đốc Suzuki chỉ có một điểm giống nhau: không dung túng các phương pháo kỷ luật tàn nhẫn. Hành vi mẫu mực của Yonai đã quá đủ để ông chỉ huy mà không cần phải áp dụng phương pháp kỷ luật nào khác.
Các sĩ quan trẻ tuổi chúng tôi thoạt đầu đã kinh ngạc khi thấy vị chỉ huy trưởng gần gũi với chúng tôi trong suốt những giờ nghỉ ngơi. Ông ưa thách chúng tôi thay phiên nhau vật lộn với ông. Sau những năm tập tành ở Eta Jima nhu đạo của chúng tôi đã thuộc vào hạng khá nên thoạt đầu chúng tôi có hơi rụt rè, chỉ sợ quá mạnh tay với “sếp”. Nhưng chúng tôi sớm sáng mắt, không một ai trong chúng tôi quăng nổi ông xuống đất. Ông đứng bất động như một hòn đá tảng, và không hề phản công, những bước tiến của chúng tôi dù ác liệt đến đâu cũng đều dội ngược ra hết.
Trong chuyến đi nầy tôi được tha dự một bữa tiệc đầu tiên trong cuộc đời tôi tại một nhà hàng trên bờ biển. Chủ nhân bữa tiệc nầy là viên thị trưởng và cũng là chỉ huy trưởng hải quân địa phương. Nhiều Geisa xinh đẹp, mặc Kimono đủ màu sắc, hòa đàn, ca múa và rót sake cho khách và chủ. Họ ăn nói khôn khéo và duyên dáng khiến buổi tiệc thêm phần sống động. Các vũ nữ xinh đẹp nầy đã làm cho tôi hoa cả mắt.
Trong các tiệc tùng của người Nhật thường có một trò vui gọi là “kampai” (uống cạn). Người nầy đứng dậy tiến đến một người khác với ly sake để mời uống. Người được mời tiếp lấy ly rượu và uống
cạn, đoạn rửa ly bằng nước lạnh và rót rượu mới lại. Nếu người nào từ chối ly rượu mời nầy có nghĩa là người đó tự nhận mình đã say.
Tôi thấy vừa chủ vừa khách có hơn bốn năm chục người lần lượt kampai với Đại Tá Yonai, và ông không từ chối một ai hết. Khi hầu hết thực khách đều ngã nghiêng, nếu không nói là bò càng dưới đất, Yonai vẫn ngồi thẳng đứng như một Samurai thực sự. Khả năng mọi mặt của ông không thể nào lường được, giống như khả năng nhu đạo của ông.
Trước khi được bổ nhiệm chỉ huy Kasuga, Yonai giữ chức vụ tùy viên hải quân tòa đại sứ Nhựt ở Mạc Tư Khoa và ông đã từng uống rượu Vodka với người Nga. Yonai cũng nói tiếng Nga sành sỏi.
Cuối một bữa tiệc như thế, tôi hết sức nể phục khi nhìn thấy Yonai ngồi chẳng khác một thanh sắt, trong khi những người khác múa rối. Các geisa thường bu quanh Yonai và cố mang hết tài nghệ ra để gây chú ý và làm hài lòng ông hạm trưởng nghiêm nghị và đẹp trai. Nhưng ông hạm trưởng nầy không bao giờ “dây dưa” với một cô nào cả.
Thật kém may mắn cho nước Nhựt khi một người như Yonai chỉ phục vụ một vài chuyến đi trên tàu. Hải Quân Hoàng Gia thường hay chỉ định các chức vụ trên bờ, trong các tổng Hành Dinh, cho những sĩ quan có khả năng, và do đó những sĩ quan tài ba lại thường thiếu kinh nghiệm hải hành.
Đô Đốc Suzuki xin về hưu trước khi cuộc chiến Thái Bình Dương bùng nổ, ông không chịu đưa ra một tiếng nói nào liên quan đến chiến thuật, chiến lược và chánh sách của hải quân. Yonai đã lên tiếng chống đối chiến tranh, nhưng ông không thể nào đương đầu nổi với tập thể đông đảo các sĩ quan Lục Quân bài ngoại quá khích, và vì vậy ý kiến của ông chẳng được ai để ý đến.
Bấy giờ có một câu chuyên gây nhiều bàn tán ở Nhựt. Đó là câu chuyên Đô Đốc Yamamoto, Tổng Tư Lịnh Hạm Đội Hổn Hợp, muốn nhường chức vụ lại cho Yonai để rảnh tay điều động lực lượng tấn công Trân Châu Cảng. Yonai từ chối. Nhưng tôi tin rằng Yonai có thể
làm được mọi việc, cũng như ông có thể làm hay hơn Yamamoto trong chức vụ có tánh cách quyết định đó.
Chuyến đi của tôi trên tuần dương hạm Kusaga kết thúc vào ngày 30 tháng 3 năm 1923, sau khi tôi xin theo học tại một trường đào tạo chuyên viên. Tôi ý thức rằng nếu muốn trở thành một sĩ quan như Yonai, tôi phải học hỏi nhiều hơn nữa. Từ tháng 4 đến tháng 12, tôi theo học khóa huấn luyện về thủy lôi và pháo thuật ở Yokosuka.
Trong lúc tôi đang theo học, Nhật Bản bị nhiều cơn động đất tàn phá nặng nề. Trận động đất xảy ra trong vùng phụ cận Đông Kinh và Yokohama vào ngày 1 tháng 9 năm 1923 khiến cho 2 nơi nầy bị tàn phá gấp bội các cuộc hỏa hoạn gây ra. Sự thiệt hại cũng nặng nề hơn các cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ trên hai thành phố nầy trong thời đệ nhị thế chiến. Thiết quân luật kéo dài một tháng trong khu vực được ban hành, và tôi được cắt đặt nhiệm vụ bất ngờ để duy trì việc thi hành lịnh nầy.
Một ấn tượng khó quên đối với tôi trong thời gian bi thảm đó: sự giúp đỡ mau lệ của Hoa Kỳ cho hai thành phố Nhật bị tàn phá nầy. Các tàu chiến Hoa Kỳ đã đổ xô đến bờ biển Đông Kinh với nhiều loại tiếp tế thiết yếu. Hành động đầy thiện chí nầy khiến lý thuyết chống lại “kẻ thù ngấm ngầm” mà tôi nhận được đã bị lung lay.
Trong năm cuối cùng tôi ở Eta Jima có nhiều quyết định về vấn đề định nghiệp sĩ quan. Trong thập niên 1920 sự nghiệp của sĩ quan hải quân Nhựt theo các phương thức như sau: các sĩ quan được bổ nhiệm về Tổng Hành Dinh là những người có học bạ đặc sắc nhứt tại các trường chuyên viên hoặc Hàn Lâm Viện, và họ sẽ được nhận vào học tiếp ở trường Cao Đẳng Tham Mưu. Yonai và Yamamoto thuộc vào nhóm nầy. Các sĩ quan đồng hạng nhì trong các trường Chuyên viên hoặc Hàn Lâm Viện sẽ được bổ nhiệm phục vụ trên các thiết giáp hạm và tuần dương hạm, nhưng thường họ không được theo học thêm ở trường Cao Đẳng Tham Mưu. Các sĩ quan đồng hạng ba được bổ nhiệm về các khu trục hạm, và được huấn luyện thêm về loại tàu nầy. Các sĩ quan đồng hạng năm se trở thành phi công (hải quân) sau khi tình nguyện theo học ở trường huấn
luyện phi công. Cuối cùng là các sĩ quan được xếp hạng thường sẽ được bổ nhiệm phục vụ trên các hổ trợ hạm và ngoài sự tốt nghiệp ở Eta Jima ra, họ se không được theo học một trường đào tạo chuyên viên nào khác.
Vấn đề huấn luyện phi công, chỉ rút từ các sĩ quan hải quân tốt nghiêp hàng năm, bấy giờ được xem là một vấn đề có vẻ vô lý. Mười lăm năm sau vấn đề nầy có nhiều thay đổi đáng lưu ý khi nghề bay hấp dẫn cả đến những sĩ quan đứng đầu các khóa huấn luyện. Nhưng việc thay đổi đã quá trể, và vì vậy có thể giải thích tại sao Nhật Bản đã thất bại trong việc điều chỉnh từ ưu thế thiết giáp hạm sang ưu thế hàng không mẫu hạm, bởi lẽ các sĩ quan ưu tú đều dồn về Bộ Tư Lịnh Tối Cao, và mặc dù họ chỉ biết về thiết giáp hạm, nhưng tiếng nói của họ lại có tánh cách quyết định đối với binh chủng hải quân. Tiếng nói của các sĩ quan không quân chuyên nghiệp không được nghe đến vào thời gian ấy.
Chẳng hạn người cầm đầu Không Lực hải quân Nhựt trong cuộc chiến thế giới thứ hai là phó Đô Đốc Takijiro Onishi đã không đậu được kì thi vào trường Cao Đẳng Tham Mưu, giống như tôi, và cũng vì vậy mà tôi được chỉ định phục vụ trên các khu trục hạm. Nhưng có điều phải nhìn nhận là các sĩ quan xuất sắc chưa hẳn là những người chiến đấu giỏi.
Hồ sơ học vấn của tôi ở Yokosuka kém cõi, việc nầy hoàn toàn do lỗi của tôi. Ngoài sự thõa mãn, sau thời gian chịu đựng kham khổ ở Eta Jima và các nhiệm vụ kế tiếp, có lẽ còn do sự ganh đua đầy trẻ con với Đại Tá Yonai (sau nầy là Đô Đốc), tôi tập tành nhậu nhẹt. Nhưng tôi uống quá nhiều và thường chếnh choáng khi bước vào lớp học. Điều nầy chắc chắn phải lảnh điểm xấu.
Khi rời khỏi trường tôi được chỉ định phục vụ trên mặt biển trở lại. Tôi than van khi biết nhiệm sở của tôi là chiếc Hatsuyuki, một khu trục hạm cổ lộ hạng ba, đã hai mươi tuổi thọ, và trọng lượng chỉ có 381 tấn. Hatsuyuki ở thời đại tân tiến nầy chỉ có thể là một khu trục hộ tống hạm hoặc một tàu săn tiềm thủy đỉnh hơn là khu trục hạm chiến đấu. Nhưng chiếc tàu nầy có thể đạt đến tốc độ 29 hải lý, so với 18 hải lý của Kasuga. Tốc độ của nó đã mê hoặc tôi. Đó là
chiếc tàu nhanh nhất mà tôi được phục vụ kể từ ngày ra trường. Hơn nữa, nhiệm vụ mới nầy, tôi còn được thêm một chuyến viễn du nhỏ nữa: Hatsuyuki đậu ở hải cảng Arthur, hải cảnh hải quân nằm ở cực Nam Mãn Châu, để bảo về kiều dân Nhật sinh sống ở Mãn Châu và Hoa Bắc. Trong một năm, chúng tôi chạy vòng quanh bán đảo Kwantung, và buông neo hết Yingko đến Tientsin.
Thời gian nầy đời sống trên tàu của tôi có nhiều thay đổi lớn. Là một thiếu úy, và là một trong những sĩ quan chỉ huy chiếc tàu, tôi được giao điều động 60 thủy thủ. Đời sống trên chiếc tàu chiến nhỏ như thế không phải luôn dễ thở. Sự ăn uống tồi tệ. Thủy thủ đoàn không bao giờ được tắm rửa cho thỏa thích, và ngay cả đến nước rửa mặt chúng tôi cũng thiếu, vì vậy mà không ai lưu tâm đến việc cạo râu. Gặp phải các mặt biển thường có mưa giông, chiếc tàu không lúc nào nằm yên, và có lúc chúng tôi phải chạy nhanh nhiều giờ để chống chọi lại thời tiết. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn giống như một đại gia đình ai ai cũng nhẵn mặt nhau. Kỷ luật gò bó không còn cần thiết nữa. Tôi bắt đầu cảm thấy như được ở nhà và thích thú với nhiệm vụ. Tôi hài lòng bởi quyết định chọn nghiệp của tôi ở hiện tại.
Tháng 12 năm 1924, tôi được thăng cấp Trung úy và thuyên chuyển đến chiếc Sanae, một khu trục hạm trọng lượng khoảng 1000 tấn. Công việc của tôi trên chiếc tàu nầy cũng không khác gì trên chiếc Hatsuyuki, và suốt một năm, chúng tôi chạy quanh Mãn Châu và Hoa Bắc.
Tháng 12 năm 1925, tôi được bổ nhiệm về chiếc Amatsukaze, một khu trục hạm hàng đầu, trọng lượng 1300 tấn, một sự bổ nhiệm mà tôi đã thèm thuồng từ lâu. Đây là chiếc tàu chiến đấu đầu tiên tôi được đặt chân lên trong 7 năm kể từ khi tôi vào Eta Jima. Amatsukaze đạt tốc lực tối đa đến 37.5 hải lý. Tôi không còn là một tay mơ nũa, tôi đã trở thành một sĩ quan hải quân thực sự. Đó là vinh dự phi thường và thành đạt to tát.
Những năm sau nầy tôi mới nhận thấy mình đã sai lầm biết bao. 5
Danh hiệu các chiến hạm đối với đọc giả ngoại quốc chắc có âm thanh xa lạ. Trong suốt cuộc chiến Thái Bình Dương có nhiều người Tây phương gọi một chiếc tàu Nhật là “Maru”. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng tất cả chiến hạm hoặc tàu bè khác của Chánh Phủ Nhật không kèm chữ Maru ở cuối danh hiệu. Chữ Maru lúc đó chỉ được các tàu hàng hoặc tàu đánh cá Nhật sử dụng mà thôi.
Maru nghĩa đen là vòng tròn, tròn trịa hoặc bầu bỉnh. Dân Nhựt thời trung cổ thường dùng chữ Maru để đặt tên cho con trai của họ lúc nhỏ. Chẳng hạn như Hideyoshi Toyotomi, chiến tướng lừng danh thế kỷ thứ XVI, thường được so sánh với Nã Phá Luân, có tên ấu thời là Hiyoshi Maru, chữ Maru ở đây có nghĩa là “cậu bé hoàn hảo (hoặc đầy may mắn) và rạng rỡ như mặ trời”. Và tên ấu thời của Yoshitsune Minamoto, danh tướng thế kỷ XII, là Ushiwaka Maru , có nghĩa là “khỏe mạnh như một con bò con”.
Dân Nhựt, theo lối nhân cách hóa, đã thêm chữ Maru phía sau danh hiệu con tàu của họ. Từ 100 năm qua, chữ Maru không còn sử dụng kèm với danh hiệu của tàu bè Chánh Phủ nữa. Chiến hạm Nhật, cũng như nhiều quốc gia khác, đã được phân ra từng loại để đặt tên. Do đó, một người nếu quen với hệ thống nầy chỉ cần nghe qua cái tên có thể biết ngay đó là thiết giáp hạm, tuần dương hạm, khu trục hạm, v.v…
Các thiết giáp hạm Nhựt thường lấy tên của các tỉnh lỵ cổ hoặc núi non. Thiết giáp hạm danh tiếng Yamato mang tên Nara, tỉnh lỵ và cũng là kinh thành cổ nhứt ở miền Trung Honshu. Nara xưa kia còn được sử dụng để chỉ toàn thể nước Nhựt. Và việc đặt tên chiếc Yamato cho thấy Hải Quân Hoàng Gia kiêu hãnh về sự đồ sộ của chiếc tàu nầy là dường nào. Tàu em Yamato là thiết giáp hạm Musashi, mang tên tỉnh lỵ phía Bắc Đông Kinh. Nhưng đặt biệt các thiết giáp hạm Haruna, Kirishima, Kongo Hiei lại mang tên các ngọn núi. Bởi nguyên thủy các chiếc tàu nầy là tuần dương hạm được biến cải thành thiết giáp hạm vào năm 1930, và chúng vẫn giữ y tên cũ .
Các tuần dương hạm nặng thường mang tên núi và các tuần dương hạm nhẹ mang tên sông ngòi. Các hàng không mẫu hạm có
những tên thích hợp với “nghề bay”. Hàng không mẫu hạm Hosho, được đóng năm 1921, có nghĩa là Phi Phượng. Hiryu và Soryu, tham dự cuộc tấn công Trân Châu Cảng, có thể dịch là “Phi Long” và “Thanh Long”. Riêng 2 hàng không mẫu hạm mang tên Kaga và Akagi, cùng bị đánh đắm với 2 con rồng ở Midway vào tháng 6 năm 1942, mang tên một tỉnh lỵ và núi. Điều nầy dễ hiểu bởi chiếc đầu là một thiết giáp hạm và chiếc sau là tuần dương hạm biến cải thành hàng không mẫu hạm.
Tiềm thủy đỉnh và tàu săn tiềm thủy đỉnh cho đánh số với các mẫu tự phía trước. Những tiềm thủy đỉnh lớn mẫu tự đặt ở đầu con số là “I” và những tiềm thủy đỉnh nhỏ là “RO”. Tất cả tàu săn tiềm thủy đỉnh đều đặt ở đầu con số bằng hai mẫu tự “SC”.
Các khu trục hạm mang tên khí tượng học chẳng hạn như Hatsuyuki (Tuyết đầu mùa), Fubuki (Bão tuyết), Shimakaze (Gió hải đảo), Amatsukaze (Thiên Phong), Akitsuki (Thu nguyệt), Fuyutsuki (Đông Nguyệt) hoặc Yugumo (Tà vân). Các khu trục hạm nhẹ mang tên các loại cây, trái và hoa, chẳng hạn như Sanae (Hạt lúa), Sakura (Anh đào) hoặc Kaba (Mộc phong).
Khi một chiến hạm Nhật bị phế thải một tàu mới thay thế thường mang tên chiếc tàu cũ, không hề thêm bất kì con số nào có ý nghĩa như “II” chẳng hạn. Thành thử tôi phục trên hai chiếc tàu khác nhau, nhưng cùng mang tên Amatsukaze.
Nhiệm vụ của tôi trên chiếc Amatsukaze cũ là nhiệm vụ ngay ở quê hương lần đầu tiên của tôi. Khu trục hạm nầy, đậu ở Kure, cách Eta Jima không xa mấy. Sau nhiều tháng lênh đênh trên mặt biển, đời sống đất liền hoàn toàn xa lạ đối với tôi. Khi tôi đi dạo trên các đường phố náo nhiệt của tỉnh lỵ nầy, các thủy thủ đều chào kính tôi đúng điệu. Trên tàu hoặc tại các căn cứ hải quân, việc chào kính nầy không có gì khác thường, nhưng ở đây lại gây cho tôi một cảm giác kì quái trong bộ quân phục với mắt nhìn những người mặc thường phục.
Bảy năm sống khắc khổ dưới kỷ luật sắt và huấn luyện liên tục, tôi ít có dịp may hưởng thụ và xa hoa. Bấy giờ tôi đã 26 tuổi, và là
hoa tiêu trưởng của một khu trục hạm tân tiến. Lương tháng của tôi là 75 yên thời đó là một số tiền khá lớn. Ở Kure thình lình tôi bừng tỉnh, cho nơi đây là dịp may hưởng thụ đầu tiên.
Một đêm thứ bảy, tôi và 2 trung úy khác quyết định đến một hộp đêm. Chúng tôi gọi 3 geisha, mỗi giờ phải trả mỗi cô một yên. Họ hát và nhảy với chúng tôi. Rượu sake không ngớt tràn ly cùng với những câu nói duyên dáng khiến chúng tôi mòn mỏi, và thời gian trôi qua nhanh chóng.
Mười giờ đêm, cuộc vui chấm dứt, chúng tôi phải trở về tàu. Khi chúng tôi sắp đứng dậy, một trong ba cô geisha khẻ nói với tôi: “ Trung úy, đêm mai trở lại đây một mình và gọi em. Tên em là Utamaru. Nhớ nghe không.”. Cô geisha nhỏ bé nầy trẻ nhất và đẹp nhứt trong ba cô. Tôi nhìn vào đôi mắt khẩn cầu của nàng và gật đầu.
Đêm sau tôi trở lại hộp đêm một mình và gọi nàng. Nàng hát hay và vũ giỏi, nhưng sự ngây thơ của cô geisha nầy mới là phương diện mê hoặc tôi nhiều nhứt. Nàng mới 18 tuổi và vô nghê một năm. Tôi nói: “Vào tuổi của em, anh bước chân vào Eta Jima. Em biết Eta Jima không?”
“Biết chớ anh! Em biết rõ lắm, vì quê em ở NomiJima mà.”
Nàng có một nụ cười đáng yêu. Tôi cảm thấy những gì mà nàng dành cho tôi vượt xa hơn nghề nghiệp của nàng.
Thình lình tôi nhớ lại sự ngù ngờ của tôi trong khách sạn ở Hiroshima, khi tôi đến đây để thi vào Eta Jima. Cô hầu ở khách sạn đó có vẻ quá đàn áp đối với bất kì một cậu trai 18 tuổi nào.
Hiện tại tình thế đã đổi ngược. Tôi đã nốc nhiều cốc sake và bắt đầu chếnh choáng. Tôi có 24 giờ phép và nàng kéo dài đêm đó với tôi.
Một số người ngoại quốc không hiểu rõ nghề nghiệp của một geisha. Họ không phải là một loại gái giang hồ. Công việc của họ là đem lại màu sắc và gây vui vẽ cho các buổi tiệc tùng, dạ hội… nếu họ dan díu với một người khách nào đó thì chỉ là chuyện riêng tư
của họ. Hộp đêm nầy một đến tôi phải tiêu khoảng 10 yên, kể cả tiền thù lao cho mấy cô geisha.
Hai ngày sau tôi trở lại. Lần đầu tiên nếm mùi yêu đương, tôi si nặng cô gái, và chỉ trong 2 tuần tôi đã tiêu hết cả số lương hàng tháng.
Nàng biết và chận tôi: “Anh đừng nên đốt tiền như vậy. Tại sao anh không mướn một căn phòng rẽ tiền để em có thể lui tới thăm anh ở đó, như vậy có phải anh khỏi sạch túi không?”
Tôi đã theo lời khuyên của nàng vào tháng kế, khi chiếc khu trục hạm của tôi trở lại Kure sau chuyến đi thường lệ. Sau khi mướn một căn phòng, tôi trở lại hộp đêm để tìm và báo cho nàng biết “ tôi đã thiết lập xong căn cứ trên bờ”. Tôi quá chủ quan cho rằng nàng có thể đến ở hẳn tại cứ địa của tôi.
Tôi không biết rằng Utamaru, theo thông lệ, đã nhận được trước một số tiền của người chủ hộp đêm lúc bắt đầu nhận việc, và số tiền nầy nàng đã gởi về cho người cha nghèo khổ và năm đứa em của nàng. Vì vậy, nếu muốn thôi việc nàng phải hoàn lại số tiền ứng trước, nhưng các geisha mỗi mùa đều phải mua sắm nhiều chiếc áo Kimono đắc tiền nên hiếm khi lo dành dụm được tiền để hoàn lại cho chủ.
Tôi đã kinh ngạc và vui mừng khi Utamaru đến phòng tôi ngay buổi chiều đó. Thật là thích thú khi chỉ có một mình tôi với nàng. Mọi thức đối với lúc ấy đều bỏ đi. Thật vậy, ngay cả sự hi sinh to tát của nàng đã đến đây với tôi, tôi cũng không biết đến. Tôi chỉ nghĩ nàng phải chịu thiệt thòi một buổi chiều, nên tôi trao nàng năm yên để đền bù lại, và tôi cho như vậy là khá hào phóng. Sự thật người chủ của nàng đã đòi hỏi một số tiền đặt biệt một khi nàng đến hành nghề nơi khác, vì mỗi lần như vậy khách hàng phải trả một số tiền gấp đôi, nghĩa là mỗi giờ đến hai yên. Nàng không muốn cho tôi biết việc nầy, và nàng đã lấy tiền túi trả khoảng tiền sai biệt cho người chủ. Và nàng càng tiếp tục hẹn hò với tôi, tiền dành dụm của nàng càng tiêu tán, và trở thành mang công mắc nợ.
Tôi vẫn u mê trước tình cảnh bối rối của nàng, và chính tôi cũng phải gặp sự bối rối riêng. Mỗi tháng tiền lương của tôi xài hết sạch chẳng còn lấy một đồng. Nhưng tôi còn trẻ và đang yêu, tôi chỉ biết chạy đuổi theo thú vui của đời sống, tôi chấp nhận việc nầy. Dè xẽn làm sao đối với tuổi trẻ.
Một buổi chiều, vào tháng 9 năm 1926, khi tôi sắp sửa lên bờ thì có lịnh chuyển đến cho biết vị hạm trưởng muốn gặp tôi. Tôi đến trình diện ông ngay chổ ở của ông trên tàu. Chỉ một mình ông, và ông đang đi tới đi lui một cách bồn chồn. Cái nhìn gay gắt của ông khiến tôi phát ớn.
“Trung úy Hara đó hả? Ngồi đi! Tôi có vài việc riêng muốn thảo luận với anh”
Giọng của ông rất xa lạ, và ông như đang cố kìm hãm nổi bực tức. Tôi tự hỏi không hiểu ông ta muốn thảo luận việc gì?
“Anh đã từng phục vụ đủ thời gian để biết rằng trên các khu trục hạm, không giống như những chiếc tàu lớn hơn, chúng ta sống như trong một gia đình. Với tư cách người chỉ huy của anh, tôi phải biết công việc riêng tư của anh và có bổn phận khuyên bảo anh.”
“Dạ thưa Đại tá, Đại tá nói đúng.”
“Tốt… hừ , tôi thật cũng không muốn xen vào đời sống riêng tư của anh làm gì. Anh còn trẻ, độc thân và có quyền hưởng các thú vui của tuổi trẻ. Nhưng anh có cảm giác rằng anh đã được hưởng một cách thái quá hay không?”
“Thưa…?”
“Tôi biết cô bạn anh. Tôi không phàn nàn việc anh dan díu với một geisha. Phải, đó là người tình, nhưng đã đến lúc anh phải chấm dứt sự gần gũi với cô gái nầy. Như vậy cũng quá nhiều rồi. Hiện anh bao nhiêu tuổi?”
“Trong tháng nầy tôi đúng 26 tuổi, thưa Đại Tá.”
“Tại sao anh không cưới vợ và định nơi chốn cho rồi? Anh đầy đủ mọi phương diện. Hồ sơ của anh tốt. Có cả ngàn gia đình muốn
anh trở thành chàng rễ.”
“Có thể như vậy, thưa Đại Tá. Nhưng tôi nghĩ cuộc sống của một sĩ quan trẻ chưa thật sự thích nghi với việc lập gia đình. Tôi hoàn toàn chưa nghĩ đến việc lấy vợ.”
“Hmmmm…. Và vì vậy anh đang sống với một geisha?” “Đúng như vậy, thưa Đại Tá.”
“Anh là một thằng ngu! Tôi không thể ngờ rằng anh lại suy nghĩ ngu như thế. Hải quân hoàng gia không bao giờ dung thứ cho việc một sĩ quan hải quân lại chung sống với một geisha. Anh có điên không? Anh bị loạn trí à.?”
“Thứ lỗi cho tôi, thưa Đại Tá. Nhưng tôi biết Utamaru là một geisha không có nổi tiếng. Nếu việc chung sống như vậy với cô ấy gây ra cảnh chướng tai, tôi sẽ xin được cưới cô ấy.”
“Hải Quân Hoàng Gia sẽ không bao giờ chấp nhận đâu! Anh không thấy rằng mình đang tự hủy hoại sự nghiệp ư? Tôi đang giữ một lá thơ phàn nàn từ đồng nghiệp của cô ta. Anh không nhận ra rằng cô gái của anh đã phải mắc nợ đến 2000 yên vì đến chung sống với anh sao? Thay đổi cách sống hoặc chấm dứt sự nghiệp của anh trong hải quân đi. Tôi thấy phát bực khi nói chuyện nầy với anh. Cút ra đi.”
Tôi bước ra ngay lập tức. Chán nản và tuyệt vọng, tôi lê từng bước chân nặng nhọc mò mẫm về chổ vừa đi vừa suy nghĩ cách giải quyết vấn đề nầy. Cuối cùng, tôi liều mạng viết thơ cho các anh để giúp đở và xin ý kiến. Đêm đó, tôi viết thơ cho cả hai anh tôi. Shigeru, một nhân viên của công ty đường sắt Nam Mãn Châu và Sakutaro đang làm việc ở Kobe trong một công ty vận chuyển muối.
Họ hồi âm ngay lập tức, với những lời khuyên răn và khiển trách nặng nề như hạm trưởng của tôi. Tuy nhiên, họ là những người anh tốt, họ gởi kèm theo vài trăm yên nhằm giúp tôi chi trả cho cuộc sống bợm nhậu đáng xấu hổ của tôi. Cuối thơ họ không quên răn đe tôi nếu không từ bỏ cuộc sống phóng túng nầy họ sẽ từ tôi.
Việc khó khăn nhất để kết thúc vấn đề nầy đó là lần gặp gỡ cuối cùng với Utamaru. Tuy nhiên, cô ấy rất bình tĩnh khi nghe tôi giải thích và cuối buổi hẹn nàng nói: “Em chưa bao giờ nghĩ đến thậm chí trong cả giấc mơ của mình là trở thành cô dâu bên cạnh một sĩ quan hải quân như anh cả. Em đã làm theo sự khao khát của mình, và em sẽ tự mình gánh trả những món nợ của em. Những tháng vừa qua bên cạnh anh là khoảng thời gian hạnh phúc nhất trong đời em.”
“Đừng lo lắng cho em. Gần đây em có nghe tin tức của dì em từ Hoa Kỳ. Dì đã lập gia đình với một di dân Nhật thành đạt và ngõ ý muốn đưa em sang sống chung. Em đang có kế hoạch chấp nhận sự bảo lãnh của dì.”
“Anh phải lập gia đình và trời thành một sĩ quan thành đạt. Tập trung học tập và hãy quên em đi.”
Utamaru là một cô gái tốt. Tên thật của nàng là Harako Takai. Từ đó tôi không còn nghe tin tức gì của nàng nữa. Nhưng tôi hi vọng nàng được sống hạnh phúc ở Hoa Kỳ.
6
Ngày 1 tháng 12 năm 1926, tôi được thăng cấp Chuẩn úy và phải học thêm một khóa nâng cao ở trường đào tạo Chuyên Viên nằm ở Yokosuka. Suốt một năm theo học khóa nâng cao chuyên viên khu trục hạm ở đây. Khóa học nầy dành cho những người được tiến cử để được đào tạo thành hạm trưởng các khu trục hạm trong tương lai.
Yokosuka nằm cách Kure 300 dặm đường chim bay, khung cảnh và không khí đã làm tôi thay đổi. Ở đây, tôi có thể quên dần buổi chia tay đầy bi thảm với Utamaru. Các môn học mới mà tôi đang theo đuổi đã lấp đầy tất cả nổi phiền muộn riêng tư. Ngoài ra lúc ấy sự căng thẳng ở Trung Hoa cang lúc càng gia tăng khiến tôi bận tâm theo dõi.
Hoa Lục vào những ngày nầy đang xảy ra cuộc tranh chấp giữa hai tay chiến tướng quan trọng. Tưởng Giới Thạch ở phía Nam và Chang Tso Lin ở phía Bắc. Đầu năm 1927, lực lượng của Tưởng tỏ ra trên chân của Chang, và đã chiếm giữ Nam Kinh vào ngày 24 tháng 3. Lực lượng của Tưởng tạo một ra sai lầm quan trọng, là khi chiếm Nam Kinh đã phóng tay cướp phá, tràn cả vào các lãnh sự quán và gây khó dễ cho các quốc gia Nhựt, Anh, Mỹ và Pháp.
Ba tàu chiến Hoa Kỳ đã nã trọng pháo vào Nam Kinh. Hải quân Nhựt đổ bộ một lực lượng đặc nhiệm lên Nam Kinh để bảo vệ kiều dân Nhựt. Những sự việc nầy đã khiến Tưởng Giới Thạch phải ngỏ lời xin lỗi các quốc gia vừa nói và qui tội cho Cộng Sản.
Tháng 5 năm 1927, Nhật Bản đổ bộ các đơn vị bộ binh lên bán đảo Shantung ở Hoa Bắc nhằm ngăn chặn các biến cố khác. Tuy nhiên hành động nầy càng đẩy mạnh các phong trào bài Nhựt ở Trung Hoa.
Đối với quí vị đọc giả hiện tại chắc chắn sẽ cho rằng việc đổ bộ vừa rồi là hành động vụng về. Tuy nhiên sự thật Trung Hoa lúc ấy là một xứ sở đã rách nát bởi các cuộc nội chiến, hai chánh phủ, và không có uy quyền tối thượng. Quyền trú quân của Nhật Bản được thừa nhận từ khi cuộc chiến Nga – Nhựt năm 1904 – 1905 kết thúc. Người Nhựt vẫn thường có những hành động khiêu khích người Trung Hoa, và cả hai chánh phủ Trung Hoa đều khuyến khích các cuộc biểu tình bài Nhựt.
Vào mùa xuân năm 1927, hội nghị giải trang lần thứ hai được mở ra ở Geneva. Nhật Bản đã cứng rắn đòi hỏi tổng số trọng lượng các chiến hạm phải gia tăng cao hơn giới hạn 60% so với Anh và 70% so với Hoa Kỳ, do hội nghị lần thứ nhất đưa ra. Hai cường quốc hải quân hàng đầu bác bỏ đòi hỏi nầy, và hội nghi đổ vỡ. Năm cường quốc phải dàn xếp trên căn bản thỏa hiệp năm 1921.
Những biến cố thế giới nầy đã thúc đẩy mạnh mẽ sự cố gắng làm việc và học hỏi của tôi. Vào thời gian tôi nhận được sự bổ nhiệm mới, các khu trục hạm và tuần dương hạm được nâng lên địa vị quan trọng chưa bao giờ thấy trong thời Đệ Nhứt Thế Chiến.
Sau khi tốt nghiệp trường Chuyên Viên, tôi được chỉ định phục vụ trên tàu, với tư cách sĩ quan thủy lôi trưởng của khu trục hạm Susuki (Đồng cỏ). Tôi đã giữ nhiệm vụ nầy trên hai năm, lâu hơn bất kì nhiệm vụ nào mà tôi từng giữ trước đây. Chiếc tàu hoạt động trong hải phận Trung Hoa, hầu hết ở Hoa Bắc và đảo Đài Loan, thường buông neo ở Tsingtao, hải cảng then chốt của bán đảo Shantung, và bán đảo nầy cũng chính là mồi lửa của các cuộc xung đột Nhựt – Hoa ở hiện tại.
Khu trục hạm của tôi đến Keelung, Đài Loan vào ngày 1 tháng 4 năm 1928 vừa lúc tôi nghe tin Tưởng Giới Thạch đang bắt đầu xua quân hướng về Shantung. Tin tức nầy khiến các tàu phải trực chỉ Tsingtao. Nhưng ở đây tình hình có vẻ êm dịu, vì vậy ngày 15 tháng 4, chúng tôi quay lại Pescadore.
Biển cố Tsinan đầy nhục nhã xảy ra hai tuần sau đó. Đạo quân miền Bắc của Chang Tso Lin, bắt đầu dở trò cướp phá ở Tsinan, thủ phủ của Shantung, nhưng đã bị thảm bại không lâu sau đó khi họ Tưởng tiến đánh và chiếm giữ thủ phủ nầy vào ngày 1 tháng 5. Nhưng quân của họ Tưởng vẫn tiếp tục cướp phá, giống như họ đã làm vào hai năm trước đây Nam Kinh. Mười bốn kiều dân Nhựt bị sát hại và hơn hai mươi người khác mất tích, và tất cả 114 ngôi nhà của người Nhựt đều bị cướp bóc và thiêu hủy hoàn toàn.
Lục Quân Nhựt được rút từ Mãn Châu và Triều Tiên để đưa đến nơi xảy ra biến cố và đã vãn hồi trật tự. Tuy nhiên chánh sách “cây roi lớn” nầy chỉ khiến cho người Trung Hoa phẩn nộ thêm, và gieo mầm móng cho cuộc xâm chiếm qui mô của Nhựt xảy ra sau nầy.
Cuối năm 1928, tôi ở Kobe và gặp người anh là Sakutano. Anh đã thúc giục tôi lập gia đình. Tôi cười to và nói: “ Em đã từng mang tiếng xấu rồi, bây giờ anh có chắc là em tu chỉnh chưa?”
Sakutano, từ trước đến nay vẫn là một người anh hiền của tôi, đáp một cách nghiêm trang: “Để anh tìm một số ứng cử viên cho em”. Tôi nói anh cứ tiến hành nhưng tôi nghĩ chắc anh chẳng có chút may mắn nào.
Khoảng một tháng sau, tôi nhận được thơ của anh kèm theo một tấm ảnh với lời ghi chú ngắn, theo đó “người trong ảnh” xứng để trở thành “phu nhân” của tôi.
Cô Chizu Asayama, 22 tuổi, là con nuôi một chủ xưởng chế tạo vật dụng bằng da lớn nhứt của Nhật Bản. Trong thơ cho biết bà mẹ nuôi của nàng muốn có một người rễ là sĩ quan hải quân, bởi lẽ bà ta muốn sống gần con, và dĩ nhiên một sĩ quan hải quân thì ít khi định cư một nơi nào.
Dưới mắt tôi người trong ảnh quả có nhan sắc. Nàng tốt nghiệp trường Nữ Cao Đẳng nổi danh Ochanomizu. Một cô con gái gia đình giàu có, anh tôi viết, tất nhiên “trâm cài lược giắt” và quan trọng hơn hết là của hồi môn, gồm có “năm căn nhàn rộng lớn đang cho mướn ở Kamakura,” một thành phố bờ biển của giới thượng lưu gần Yokosuka.
Cả câu chuyện đối với tôi đầy bất ngờ. Tại sao một cô gái đủ điều kiện như vậy lại ưng thuận làm vợ của tôi? Nàng sẽ chọn một sĩ quan ưu tú, để hi vọng trở thành “Đô Đốc phu nhân” tương lai hơn không? Gia đình nàng chắc chắn đã thuê thám tử tư điều tra quá khứ của tôi và họ đã biết tất cả. Vì vậy, tôi nghi ngờ nàng có những khuyết điểm gì đó, không thích hợp với các tay thanh niên khác.
Tôi trao thơ cho hạ sĩ quan tùy viên thân cận của tôi và hỏi ý kiến của anh ta. Viên hạ sĩ quan đã đáp một cách nghiêm trang: “Đại úy, anh của tôi là một cảnh sát điều tra, nếu đại úy muốn, tôi sẽ nhờ anh ấy điều tra giùm cho.”
Tôi đồng ý. Một tháng sau, người anh của hắn cung cấp đầy đủ hồ sơ cho tôi, theo đó: “Cô Asayama chẳng phương diện nào đáng chê hết.”
Tôi gặp nàng lần đầu vào tháng 3 năm 1929. Cuộc gặp gỡ quan trọng nầy kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ với sự hiện diện của quyến thuộc hai bên. Ngày sau đó, tôi trả lời ưng thuận với gia đình nàng, và nàng cũng vậy. Hôn lễ được sắp xếp theo nghi thức cổ truyền của Nhật Bản. Người ở Tây phương sẽ lấy làm lạ khi thấy một vấn đề quan trọng như vậy lại được quyết định chỉ sau một cuộc
gặp gỡ. Nhưng phải nói rằng cuộc các hôn nhân được sắp xếp theo lối nầy đã chứng tỏ thành công hơn những cuộc hôn nhân thường cho là có sự tìm hiểu trước ở các nước khác.
Cuộc gặp gỡ giữa những đôi trai gái thường diễn ra sau khi cả hai gia đình đã có sự thỏa thuận trước, vì vậy mà ít khi xảy ra việc từ chối cuộc hôn nhân, trừ phi một khám phá ra khuyết điểm nào đó đã bị che đậy.
Hôn lễ cử hành tại đền thờ Shinto ở Đông Kinh vào ngày 25 tháng 5 năm 1929, trong khi chiếc khu trục hạm của tôi buông neo ở Yokosuka. Tôi được cấp hai ngày phép. Ngay sau hôn lễ chúng tôi đi hưởng một ngày trăng mật ở suối nước nóng Atami cách Tây Nam Đông Kinh khoảng 50 dặm. Ngày hôm sau tôi trở về tàu một mình. Cô vợ mới của tôi xuống xe lửa ở Oiso, một thành phố bờ biển khác nằm nữa Atami và Yokosuka, nơi gia đình nàng đang sinh sống. Tôi đã sống một đời sống hôn nhân lạ lùng vì kể từ đó trong nhiều tháng tôi mới gặp gỡ vợ tôi một lần.
Sáu tháng sau đó, tôi được thuyên chuyển đến Akikaze (Thu Phong), một khu trục hạm 1.500 tấn. Lần nầy tôi vẫn giữ chức vụ cũ, sĩ quan thủy lôi trưởng, đúng một năm.
Tháng 4 năm 1930, Anh quốc và Hoa Kỳ tiến đến một thỏa hiệp giải trang mới ở Luân Đôn, đặt định giới hạn trọng lượng của các tàu hổ trợ. Các loại tàu khác vẫn duy trì giới hạn của thỏa hiệp năm 1921. Kết quả hội nghị mới nầy khiến cho các sĩ quan hải quân Nhựt nổi nóng. Như vậy, tổng số trọng lượng của tuần dương hạm hạng nặng chỉ bằng 62% so với Hoa Kỳ. Riêng tổng số trọng lượng của tiềm thủy đỉnh, theo thỏa ước, hai quốc gia đều bằng nhau.
Lúc bấy giờ khó mà giải thích tại sao các kết quả nầy đã không làm hài lòng hải quân Nhật Bản. Nhật Bản đã cố đòi hỏi gia tăng số trọng lượng các tuần dương hạm hạng nặng ít nhất 70% so với Hoa Kỳ. Nhưng sự đồng đều về tiềm thủy đỉnh theo thỏa ước đã không được giữ đúng, bởi vì lúc đó tổng số trọng lượng của loại tầu nầy của Nhật Bản đã là 77.900 tấn so với 52.700 tấn của Hoa Kỳ.
Tất cả những lời bàn tán nầy đã chứng tỏ sự ngây ngô sau đó, khi khả năng sản xuất tàu chiến của Hoa Kỳ đến mức độ đè bẹp hẳn Nhật Bản trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Nhưng vào năm 1930, các sĩ quan hải quân Nhựt đã lưu tâm về việc nầy. Họ nhấn mạnh Nhật Bản đã bị áp lực quá dễ dàng của Hoa Kỳ ở Luân Đôn. Bấy giờ họ xem Hoa Kỳ không chỉ là một kẻ thù ngấm ngầm mà còn là một kẻ thù ra mặt. Kể từ đó về sau, tất cả những cuộc động binh đều đặt trên mặt lý thuyết nhằm vào “kẻ thù giả định” là Hoa Kỳ.
Vào ngày 8 tháng 11 năm 1930, vợ tôi sanh đứa con gái đầu lòng, được đặt tên là Yoko. Bốn tuần sau đó tôi được chỉ định giữ chức vụ sĩ quan Thủy lôi trưởng trên khu trục hạm Fubuki (Bão tuyết). Suốt một năm phục vụ trên chiếc tầu nầy, tôi đã kết bạn với một người trong đời tôi không bao giờ quên được. Đó là vị chỉ huy trưởng của tôi, Đại Tá Chuichi Nagumo.
Nagumo là một huấn luyện viên của trường Chuyên Viên Yokosuka. Sau đó ông đi du học một năm ở Hoa Kỳ và vừa mới về nước. Ông là một trong những chuyên viên khu trục hạm tài ba nhứt trong Hải Quân Hoàng Gia. Kiến thức tôi được mở mang khá nhiều trong một năm gần gũi ông. Nagumo khuyến khích tôi chuyên cần học hỏi bằng cách cho tôi mượn khá nhiều sách vở ông mang về từ Hoa Kỳ. Ông rất mến tôi, và ông nói thế nào tôi cũng sẽ được theo học trường Cao Đẳng Tham Mưu.
Lúc đó tôi không bao giờ tưởng tượng Nagumo, sau nầy là phó Đô Đốc, sẽ chỉ huy lực lượng đặc nhiệm vĩ đại của Nhật Bản tham dự vào cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Nhưng tiếp theo đó, trận đại bại Midway xảy ra, và Nagumo trở thành đề tài của mọi loại chỉ trích. Tuy nhiên trong ký ức của tôi, ông vẫn là một sĩ quan tài ba và nhiệt tâm, và là một nhân vật vĩ đại.
7
Mặc dù hàng ngày được Nagumo khuyến khích và quan tâm đến, tôi đã rớt kì thi tuyển vào Trường Cao Đẳng Tham Mưu. Thay vào đó, vào tháng 9 năm 1932, tôi được chỉ định làm một huấn luyện
viên. Nhiệm vụ nầy gây cho tôi sự bối rối, nhưng sự chỉ định như vậy ít thấy xảy ra trong Hải Quân Hoàng Gia. Tôi được chọn vào nhiệm vụ nầy có nghĩa là tôi từ bỏ hẳn hi vọng trở thành một sĩ quan tham mưu để trở thành một chuyên viên hẳn.
Trong thời gian ba năm sau khi kết hôn, tôi ráo riết theo đuổi một dự án riêng… Biết rõ dự án có vẻ liều lĩnh, tôi không hề thảo luận chi tiết với bất kì người nào. Tôi cũng hiểu nếu các đồng nghiệp của tôi biết được công tác tôi đang làm, chắc chắn tôi sẽ gặp sự chế nhạo.
Đại tá Nagumo khuyến khích tôi chuẩn bị thi vào trường Cao Đẳng Tham Mưu. Tôi đọc mọi sách giới thiệu cũng như các bài bình luận về khả năng di động tính của hải quân Hoa Kỳ do chính ông viết trong thời gian đi du học. Nhưng tâm trí tôi để đâu đâu. Tôi biết các dự án riêng của tôi có tầm quan trọng nên tôi không thể phân tâm để học hỏi những vấn đề khác. Do đó dù được ngay cả Nagumo đích thân yểm trợ, kì thi vào trường Cao Đẳng Tham Mưu vẫn vuột khỏi tay tôi.
Dự án của tôi hoàn thành vào giữa năm 1932. Dự án nầy liên quan đến hàng trăm bài toán phức tạp. Tóm lại, tôi đã sử dụng toán học để chứng minh những sai lầm của các lý thuyết về thủy lôi được Nhựt áp dụng xưa nay, và tôi đưa ra một lý thuyết chỉ nam mới.
Một lý thuyết mới thật khó xen và để tìm chổ đứng trong một tổ chức quân đội. Hầu hết các sĩ quan được huấn luyện theo các lý thuyết quân sự cũ đều bảo thủ và phản ứng không thuận lợi đối với những sáng kiến mới mẽ. Nhưng rất may là lý thuyết mới của tôi không hề gặp sự chống đối quan trọng nào, và đã trở thành lý thuyết học tập về thủy lôi chánh thức của Hải Quân Hoàng Gia. Đương nhiên lý thuyết cũ được bãi bỏ. Và kết quả, tôi được bổ nhiệm về trường Cao Đẳng Tham Mưu để giảng dạy về lý thuyết mới nầy.
Mặc dù tôi hoàn thành nhiều lý thuyết khác trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, nhưng có lẽ lý thuyết về thủy lôi là lý thuyết sở đắc nhứt của tôi. Giải thích rành mạch về lý thuyết nầy không phải dễ dàng, vì trong ấy tôi đã sử dụng nhiều bài toán liên quan đến đại số, hình học, lượng giác và vị tích để áp dụng chính xác vào thực hành. Tuy
nhiên tôi có thể nói phớt qua: năm 1932, sau khi tốt nghiệp trường Chuyên Viên Yokosuka, tôi lại được bổ nhiệm phục vụ trên khu trục hạm, và giữ chức vụ thủy lôi trưởng như thường khi. Tôi đã được học hỏi và huấn luyện tỉ mỉ về vấn đề phóng thủy lôi. Có thể nói hầy hết ba năm qua quyển chỉ nam ứng dụng thủy lôi cũ của hải quân là Thánh kinh của tôi. Mỗi tuần chiếc khu trục hạm của tôi đều ra khơi để thực tập phóng thủy lôi. Để tiết kiệm, các thủy lôi diễn tập đều không có đầu đạn, và mục tiêu giả có khoảng trống phía dưới để thủy lôi chạy xuyên qua. Sau ba năm huấn luyện lí thuyết và thực hành liên tục, tôi bắt đầu nghi ngờ lý thuyết cũ, và hiếm khi tôi bắn trúng mục tiêu.
Phản ứng đầu tiên khi bắn hụt là tôi tự thóa mạ tôi, và tôi càng cố gắng học hỏi hơn nữa. Tôi luyện tập thuần thục đến nổi tôi chỉ cần liếc qua ống dòm là có thể cho biết được khoảng cách mục tiêu bao xa, và tốc độ di động của mục tiêu đó như thế nào. Sau khi kiểm chứng lại bằng các dụng cụ chuyên môn, tôi nhận thấy tôi đã xác định mục tiêu rất đúng nhưng phóng vẫn trật. Do đó, tôi bắt đầu ngờ vực lý thuyết cũ của hải quân.
Theo lý thuyết cũ, một chiếc khu trục hạm, thường có chiều dài khoảng 90 thước, chạy với tốc độ 30 hải lý hoặc hơn, tiến sát đến tàu địch, khai hỏa mọi loại súng và cuối cùng dứt điểm bằng các quả thủy lôi. Một khu trục hạm Nhựt chỉ mang 16 thủy lôi. Từ 2 ống phóng phía trước và phía sau, “8 con cá” vọt ra cách nhau mỗi con hai giây. Tám quả khác được đưa vào tái nạp vào hai ống phải mất khoảng mười phút. Các loại súng nhỏ của một khu trục hạm không có hỏa lực quyết định như những thiết giáp hạm, thành thử nếu loạt thủy lôi đầu vô hiệu, vận mạng của một khu trục hạm như cáo chung. Nó dễ dàng bị đánh chìm trong khoảng 10 phút cần thiết để nạp lại thủy lôi.
Vì đó mà trong khi thực tập, chiếc khu trục hạm của tôi kể như bị “đánh chìm” nhiều lần, giữa lúc tôi đứng bó tay và nghiến răng trên đài chỉ huy sau khi nhìn thấy các “con cá” của tôi lạc mất mục tiêu. Tôi quan sát nhận thấy tài phóng thủy lôi của các khu trục hạm khác cũng không hơn gì tôi. Tôi đi đến kết luạn là phóng thủy lôi thẳng
vào mục tiêu ít có hi vọng trúng, và như vậy có nghĩa là lý thuyết cũ đã sai lầm.
Theo lý thuyết cũ, tám trái thủy lôi được phóng thẳng sẽ trãi rộng 1 góc 20 độ. Sau khi phân tách cẩn thận tất cả các yếu tố quan hệ, tôi kết luận rằng với góc 20 độ như vậy mục tiêu sẽ được phóng trúng nếu chiếc khu trục hạm của tôi chạy nhanh 30 hải lý theo một đường lượn cong, giống như một hyperbole, và thủy lôi được phóng ra ở ngay đỉng của đường lượn cong đó vào một mục tiêu cách xa 2000 thước, và sau khi phóng thủy lôi xong, chiếc tàu sẽ giảm tốc độ xuống còn 20 hải lý. Qua nhiều tuần lễ diễn tập, tôi cũng khám phá ra chiếc tàu đối nghịch đủ thời gian để lảng tránh trước khi tàu của tôi sẵn sàng để khai hỏa. Và tôi cũng khám phá nhiều yếu tố cần thiết cho việc định lại các phương thức khác, bao gồm khoảng trống 2 giây của tám trái thủy lôi được phóng ra.
Công việc nghiên cứu nầy khiến tôi mở rộng tầm mắt, và mỗi khám phá mới đều được tôi áp dụng ngay vào thực hành, và đạt được mức độ chính xác gần như cố định. Tôi nổi danh, và được như xem là sĩ quan phóng thủy lôi chính xác nhất của toàn thể binh chủng hải quân. Vào thời gian nầy tôi phục vụ dưới quyền của Đại Tá Nagumo. Có lẽ thành tích nầy đã khiến ông thích tôi, và cũng vì vậy mà lý thuyết của tôi được hải quân chấp nhận và năm 1932.
Chỉ trong vòng một năm sau khi lý thuyết của tôi được học hỏi, kỹ thuật phóng thủy lôi của quân Nhựt đã đạt đến mức độ chính xác vượt bực.
Năm 1933, Đề Đốc Kaneji Kishimoto và Đại Tá Toshihide Asakuma thuộc Học Viện thủy lôi Kure trình bày một loại thủy lôi được phóng đi bằng sức ép của Oxygen thay vì không khí. Việc phát triển nầy rất quan trọng đối với chiến pháp Thủy Lôi của Nhật. Ưu thế của loại thủy lôi mới nầy, vượt trội tất cả mọi loại thủy lôi của các quốc gia khác, qua bảng so sánh sau đây:
NHẬT BẢN (thủy lôi 61 cm), loại có tốc độ 49 hải lý: tầm xa 22 cây số, đầu đạn 500 kí lô; loại có tốc độ 36 hải lý, tầm xa 40 cây số, đầu đạn 500 kí lô.
HOA KỲ (thủy lôi 53 cm), loại có tốc độ 46 hải lý, tầm xa 4 cây số, đầu đạn 300 kí lô; loại có tốc độ 32 hải lý, tầm xa 8 cây số, đầu đạn 300 kg
ANH ( thủy lôi 53 cm) loại có tốc độ 36 hải lý, tầm xa 3 cây số, đầu đạn 320 kí lô; loại có tốc độ 30 hải lý, tầm xa 10 cây số, đầu đạn 329 kí lô.
Như vậy, thủy lôi Nhựt ngoài khả năng vừa nhanh vừa có tầm xa hơn các loại thủy lôi tốt nhứt của Hoa Kỳ và Anh Quốc, còn có thêm những tiến bộ to tát khác. Các loại thủy lôi thông thường khi phóng ra sẽ tạo thành một vệt dài màu trắng nổi trên mặt nước, khiến cho một chiếc tàu chạy nhanh cũng có thể phát hiện và lẫn tránh dễ dàng. Nhưng một trái thủy lôi đẩy bằng sức ép Oxygen khi chạy đến mục tiêu sẽ không thấy dấu vết gì trên mặt nước cả (Loại thủy lôi nầy Nhựt giữ bí mật tuyệt đối đến sau chiến tranh, hải quân Hoa Kỳ mới học hỏi được đầy đủ các đặc tính của nó).
Lý thuyết của tôi cùng với việc phát minh loại thủy lôi mới đã nâng cao tinh thần của thủy thủ khu trục hạm. Và khi khu trục hạm nhanh chóng thành trở thành “báu vật” của hạm đội Nhựt, các kiểu tàu mới đóng đều đều vào thời gian đó. Các sĩ quan khu trục hạm không mấy lưu tâm đến một số thiệt thòi của Nhựt qua thỏa hiệp giải trang cuối cùng. Họ biết khu trục hạm của Nhựt đang nắm ưu thế to tát và tiên đoán loại tàu này sẽ giữ vai trò quan trong trong cuộc chiến sắp đến.
Họ đã thiếu cân nhắc về sự phát triển kỳ diệu của các loại vũ khí điện tử và khả năng không quân vượt bức của Hoa Kỳ. Hai lãnh vực nầy là yếu tố quyết định dứt khoát kết quả của Đệ Nhị Thế Chiến.
Dù thiếu cân nhắc như vậy, nhưng không thể nói chúng tôi đã tự mãn. Hơn bao giờ hết chúng tôi cố gắng huấn luyện để gia tăng sự thành thục với loại thủy lôi mới. Nhật lịnh huấn luyện của chúng tôi là chỉ phóng loại thủy lôi có tầm xa nầy khi nào đã tiến sát vào 500 thước cách mục tiêu. Mọi sĩ quan cũng được lịnh tìm cách thâu hôi thủy lôi, cho dù trong các buổi thực tập không có gắn đầu đạn.
Chúng tôi đã thi hành triệt để sau nầy, bởi giá một thủy lôi không đầu đạn lúc đó là 5000 yên (2500 Mỹ kim). Hơn nữa, chúng tôi không thể để loại thủy lôi mới nầy rơi vào tay địch quân, vì như vậy bí mật của nó sẽ bị khám phá. Thỉnh thoảng toàn thể hạm đội phải dàn hàng ngang lướt qua một khu vực rộng lớn của đại dương trong nhiều giờ để chỉ thâu hồi một trái thủy lôi phóng lạc xa khỏi mục tiêu. Vào những ngày có bảo, chúng tôi đình chỉ tất cả các buổi diễn tập, nhưng sau nầy tôi đã đánh chìm ba khu trục hạm Hoa Kỳ bằng cách áp dụng phương pháp đó.
Trong suốt cuộc chiến, hướng tiến đến của các chiến hạm địch không thể nào định trước được. Theo lịnh, các khu trục hạm Nhựt phải tiến thẳng vào mục tiêu, khai hỏa cận và đổi hướng nhanh chóng. Nhưng một khu trục hạm có tốc độ cao không thể nào giảm tốc độ một cách mau lẹ để tranh khỏi đụng chạm và ai cũng đoán biết những đụng chạm giữa đại dương gây chết người là thường. Hơn nữa tiến sát vào địch quân trong vòng 500 thước có nghĩa là đưa đầu vào họng súng của họ.
Trong các buổi diễn tập, chúng tôi thường phóng thủy lôi cách mục tiên 2000 thước. Và khi đối đầu thực sự với tàu chiến địch, khoảng cách trung bình để phóng thủy lôi có thể từ 4000 đến 5000 thước, một khoảng cách mà các thủy lôi Hoa Kỳ vẫn còn ngoài tầm.
Tôi được thăng cấp thiếu tá vào ngày 15 tháng 11 năm 1933. Tôi đã có hai gái, và nhìn lại 12 năm đã trôi qua, kể khi tôi rời Hàn Lâm Viện hải quân, tôi cảm thấy đã trở thành một sĩ quan hải quân đầy đủ lông cánh, và là một trong những sĩ quan trẻ tuổi nhứt trong Hải Quân Hoàng Gia, vượt hẳn những bạn đồng khóa của tôi, ngay cả những người đã tốt nghiệp trường Cao Đẳng Tham Mưu.
8
Giai đoạn từ năm 1931 đến 1937, nước Nhật đã gặp phải hàng loạt xáo trộn trong nội bộ và ngoại bộ đáng lưu ý. Những xáo trộn này lúc bấy giờ được xem có hại hơn là có lợi và đưa đến hậu quả lớn nhứt là cuộc chiến Thái Bình Dương.
Trong suốt giai đoạn nầy tôi đã không đo lường đúng mức có phải những xáo trộn là bước sơ khởi gây ra chiến tranh hay không, bởi vì tôi đang bận tâm với công việc nghiên cứu riêng và nhiệm vụ trên tàu của tôi. Nhưng nhìn lại một dọc biến cố quan trọng của những năm nầy cho thấy Nhật Bản đang vội vã đi trên con đường thẳng đến chiến tranh.
Vào ngày 18 tháng 9 năm 1931, quân đội Nhựt đụng độ với quân đội của Chang Hsueh Liang gần Mukden, Mãn Châu. Ngọn lửa chiến tranh lan rộng nhanh chóng trên khắp lãnh thổ xứ nầy. Lực lượng Nhựt tiêu diệt các lực lượng đối kháng của Trung Hoa và thiết lập một đế chế bù nhìn ở đây.
Ngày 15 tháng 5 năm 1932, một nhóm sĩ quan bộ binh và hải quân Nhựt ùa vào văn phòng của Thủ Tướng Nhựt Tsuyoshi Inukai và sát hại vị thủ tướng bảo thủ nầy.
Tháng 3 năm 1933, Nhật Bản rút khỏi Liên Minh các quốc gia, sau khi tổ chức nầy lên tiếng tố cáo Nhựt xâm lăng Mãn Châu.
Tháng 12 năm 1934, Nhựt lưu ý Hoa Kỳ và Anh Quốc là Nhựt xem như thỏa hiệp giải trang hải quân không còn giá trị nữa.
Tháng 8 năm 1935, trung tá Saburo Aizawa, một tay cực hữu cuồng tín, đột nhập văn phòng Đại Tướng Tetsuzan Nagata, Giám Đốc Văn Phòng Quân Sự của Bộ Chiến Tranh Nhựt, và dùng gươm đâm chết ông nầy.
Vào ngày 26 tháng 2 năm 1936, các sĩ quan cuộc tín thuộc Đệ Nhứt Sư Đoàn âm mưu đảo chánh. Chia ra là nhiều tốp nhỏ, họ tràn vào nhàm một chánh trị gia cao cấp Nhựt và sát hại 4 người. Biến cố nầy được xem là biến cố nội bộ dẽ dội nhứt của Nhựt, nhưng chỉ gây rối loạn quốc gia một thời gian ngắn.
Với cấp bậc Thiếu Tá, lần đầu tiên tôi được bổ nhiệm vào chức Hạm Trưởng của một khu trục hạm vào ngày 1 tháng 11 năm 1934. Hai năm, 1934 và 1935, tôi còn giữ thêm một nhiệm vụ trong một tòa án quân sự hải quân với tư cách dự thẩm, do đó tôi đã thâu thập được một số kiến thức về luật pháp.
Âm mưu đảo chánh năm 1936 gây cho tôi sự xúc động mạnh mẽ. Khu trục hạm của tôi, chiếc Nagatsuki, được sáp nhập Hạm Đội Hổn Hợp, và lúc ấy hoạt động quanh phía Nam Kyushu. Thiên hoàng Hirohito ra lịnh hạm đội tiến sát vào Vịnh Đông Kinh. Một cuộc đảo chánh đang hình thành và ngày ra lịnh cho hải quân và Lục quân đập tan nhóm người âm mưu, tức các sĩ quan của Đệ Nhứt Sư Đoàn. Thật may, nhóm phản loạn đã đầu hàng trước khi chúng tôi nổ súng. Nhưng tình thế đen tối nầy đã gây cho tôi sự chán nản. Tôi không thể sống tách rời với tình thế và chuyên tâm và các công việc nghiên cứu riêng như mong muốn.
Cái gọi là “Nạn Trung Hoa” bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, ở cầu Marco Polo, gần Peiping. Quân đội Nhựt đã dập tắt những rắc rối xảy ra tại các vùng phụ cận của thành phố nầy, nhưng phong trào bài Nhựt của Trung Hoa dâng cao dữ dội, gây hổn loạn tại nhiều nơi khác.
Vào ngày 23 tháng 8 cùng năm, tôi nhận lể rửa tôi theo Thần đạo trong một buổi lễ ít người tham dự nhứt từ trước đến nay. Trong tháng đó, nhiều nhóm quân vô kỷ luật thuộc lực lượng của họ Tưởng bắt đầu “tấn công” các kiều dân Nhựt ở Thượng Hải. Lực lượng phòng thủ của Nhựt ở thành phố nầy có khoảng một sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến (gồm toàn binh sỹ hải quân được huấn luyện cho các cuộc hành quân trên bộ). Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến Nhựt đã can thiệp và chống trả mạnh mẽ các nhóm quân Trung Hoa quá đông đảo nầy. Tuy nhiên quân Nhựt dần thất thế, và họ yêu cầu phái một hải đội gồm 4 chiếc khu trục hạm để đưa quân tăng viện từ Nagoya đến Thượng Hải.
Một trong bốn khu trục hạm nầy là một loại tàu mới nhứt, chiếc Amagiri (Trời Sương Mù). Và mặc dù lúc ấy tôi được thừa nhận là chuyên viên thủy lôi giỏi nhứt của Nhựt, tôi vẫn được chỉ định làm Hạm Trưởng của chiếc tàu nầy. Đó là một nhiệm vụ gây cho tôi sự thích thú và kinh ngạc to tát.
Amagiri nặng 2370 tấn, được võ trang tận răng, đã chở 300 binh sỹ Nhựt ngồi chen chút như cá mòi, cùng với ba khu trục hạm khác âm thầm rời khỏi Nagoya, một thương cảng lớn của Nhựt, vào lúc
nửa đêm, vượt 1000 dậm đường biển với tốc độ 20 hải lý đến Thượng Hải hai ngày sau đó.
Nương bóng đêm, chúng tôi lẻn vào cảng Thượng Hải, và tàu của tôi lặng lẽ đến đậu dưới một chân cầu xe lửa ở Woosung. Nhanh nhẹn, binh sỹ trong tàu đổ bộ dưới dạ cầu. Nhưng bất ngờ, hàng loạt đại liên từ phía trên bắn dãi xuống chúng tôi. Sáu pháo khẩu 122 ly của Amagiri đáp trả dữ dội, nhưng chỉ có tánh cách phỏng chừng, vì chẳng thấy bóng dáng địch quân ở đâu. Cũng may là địch quân, hiển nhiên là du kích hoặc ủng hộ viên của quân đội Trung Hoa, đã nhắm không trúng mục tiêu, nên không ai trong chúng tôi bị trúng đạn. Tôi ra lịnh chiếc tàu chạy ra xa khỏi chân cầu khi thấy binh sỹ của chúng tôi đổ bộ hết lên bờ, và đang bắt đầu thi hành nhiệm vụ của họ.
Chúng tôi thất bại trong việc tạo ra yếu tố “bất ngờ”, nhưng cuộc đổ quân vẫn xem là thành công. Bốn khu trục hạm tiếp tục chở các cánh quân khác thuộc Đệ Tam Sư Đoàn ở Nagoya. Thêm hai sư đoàn bộ binh nữa được đưa chuyển từ Kyushu đến Thượng Hải. Các nổ lực nầy đã lật ngược tình thế, quân Trung Hoa bị đánh tan và bị đẩy lui ra khỏi Thượng Hải.
Nếu các lực lượng Nhựt ngừng ở đây, tai họa tiếp liền sau đó đã không xảy ra. Nhưng lúc ấy Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt đã không nắm vững quyền chỉ huy, nên các lực lượng Nhựt vẫn tiến xa hơn về phía Tây và đánh chiếm Nam Kinh vào tháng 12 năm 1937. Trái hẳn với hi vọng của các sĩ quan bộ binh, Tưởng Giới Thạch vẫn không đầu hàng khi kinh thành nầy thất thủ. Ông ta chỉ triệt binh về Hán Khẩu, kế đó là Trùng Khánh, và đề kháng liên tục hơn 8 năm.
Trong khi bộ binh Nhựt tiến về Nam Kinh, hải đội của tôi giũ nhiệm vụ phong tỏa duyên hải Trung Hoa. Công việc này tỏ ra không hợp lý, vì lúc đó các tàu chiến của chúng tôi đi lại dọc ngang trong các hải phận nầy mà không gặp sự chống đối nào. Mỗi tuần hai lần, chúng tôi chận và khám xét các tàu buôn. Nếu tìm thấy các tàu nầy mang hàng lậu, chúng tôi cho các thủy thủ rời khỏi tàu và ban một vài quả trọng pháo là xong. Như tôi đã nói, công việc nầy không làm một ai phấn khởi.
Vào tháng 11, tôi đưa chiếc Amagiri về Nhựt, và tháng kế đó, tôi được bổ nhiệm làm Hạm Trưởng chiếc Yamagumo, một khu trục hạm tối tân khác. Sau khi bàn giao, tôi và chiếc Yamagumo trở lại hải phận Trung Hoa và tiếp tục công việc phong tỏa như cũ. Trong khi chiến tranh diễn tiến liên tục trên đất liền, tôi vẫn thi hành nhiệm vụ hàng ngày một cách nhàm chán và theo dõi tình hình thế giới trong sự lo âu.
Hiệp ước Munich mở ra vào tháng 8 năm 1938. Quyền lực của Hitler đang gia tăng tại Âu Châu. Tháng 11, tôi được thăng cấp Trung Tá, nhưng nhiệm vụ nhàm chán của tôi ở Trung Hoa vẫn phải tiếp tục cho đến cuối tháng 3 năm 1939. Sau đó, tàu của tôi được lịnh đến căn cứ hải quân Nhựt ở Chinhae, Nam Triều Tiên, để tái huấn luyện.
Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ ở Âu Châu vào ngày 3 tháng 9 năm 1939. Hai tháng sau đó, tôi được chỉ định vào một nhiệm vụ trên đất liền. Tôi trình diện yếu cứ hải quân ở Maizuru, và công việc của tôi nơi đây là huấn luyện các hoạt động chiến đấu cho các thuyền trưởng thương thuyền. Công việc nầy hiển nhiên là nhằm để chuẩn bị đối phó các “biến cố bất ngờ” có thể xảy ra, và không có nghĩa Hải Quân Hoàng Gia Nhựt lúc ấy đã sẵn sàng chuẩn bị tấn công Trân Châu Cảng. Các tàu hàng được huấn luyện chẳng qua là để đáp ứng với cuộc chiến đang phát triển ở Châu Âu.
Ba nội các Nhựt đổ chỉ trong vòng năm 1939, chứng tỏ những khủng hoảng chính trị của Nhựt đến lúc trầm trọng. Vào tháng Giêng năm 1940, một nội các mới ra đời cầm đầu bởi thượng cấp cũ đáng kính trọng của tôi. Đó là Đô Đốc Mitsumasa Yonai. Đô đốc Yonai hiểu rõ Nhật Bản sẽ dấn thân vào cuộc chiến lập tức nếu liên minh với các cường quốc Trục. Ông đã cố gắng hết sức chống đổi thỏa ước Tam Phương.
Các tay quá khích thuộc Lục Quân Nhựt tin tưởng Trục sẽ chiến thắng, và chiến tranh sẽ sớm chấm dứt, lúc đó chỉ có Đức và Ý chi nhau tất cả “chiến lợi phẩm”. Khi họ nhận thấy không thể thuyết phục Yonai liên kết với phe Trục, họ quyết định quấy rối Nội Các của ông và kết quả Bộ Trưởng chiến tranh rút lui. Theo hiến pháp cũ, Bộ
Trưởng chiến tranh Nhựt phải là một quân nhân Lục Quân, và khi tướng Shunroku Hata từ chức vào giữa năm 1940, không tướng lãnh nào chấp nhận tham gia Nội Các của Yonai, chẳng khác nào hòn đá ngăn chặn con đường dẫn đến cuộc chiến Thái Bình Dương đã bị dẹp sang một bên. Trùng hợp với biến cố nầy, năm đó Franklin D Roosevelt tái đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ thứ ba. Không lâu sau, Hoa Kỳ và các cường quốc Đồng Minh khác bắt đầu gây áp lực với Nhật Bản. Những áp lực nầy nhắm vào các nhà lãnh đạo quân sự, đã điều khiển quốc gia từ khi Nội Các của Yonai sụp đổ, nhưng không có hiệu quả.
Nội Các kế đó, dưới quyền lãnh đạo của Hoàng Thân Fumimaro Konoye, ký thỏa ước Tam Phương với Đức và Ý vào tháng 9 năm 1940. Trong một năm, Konoye đã cố gắng chống chọi với các tay quân phiệt Nhựt và các áp lực kinh tế của Đồng Minh, nhưng cố gắng nầy vẫn không đi đến đâu, nên vào tháng 10 năm 1941 ông rút lui.
PHẦN HAI
TỪ TRÂN CHÂU CẢNG ĐẾN GUADALCANAL 1
Ngày 9 tháng 11 năm 1941 là một ngày mà tôi không thể nào quên được. Ngày đó, có khoảng 200 tàu chiến của Hạm Đội Hổn Hợp Nhựt qui tụ về Vịnh Hiroshima. Toàn thể Hạm Đội Hổn Hợp tập trung vào một nơi như thế được xem là hiện tượng bất thường.
Tôi là Hạm Trưởng của khu trục hạm Amatsukaze (Thiên Phong) một trong bốn chiếc tàu cùng loại vừa được chỉ định gia nhập vào Hải đội 6, Phân đội 2 khu trục hạm Đệ Nhị Hạm Đội.
Hôm đó, một sáng mùa thu êm đềm, các tàu chiến buông neo bất động trên mặt Vịnh. Mặt nước trong suốt như gương, phản chiếu dãy núi xanh rì ở chân trời xa xa. Lũ hải âu bay lượn quanh quẩn trên các chiếc tàu. Mọi vật đều êm ả và bình lặng.
Lúc 9 giờ sáng, một hồi còi hiệu rút lên từ soái hạm Nagato, khiến muôn mắt hướng về phía nó. Tín hiệu bằng cờ cho biết: “ Tất cả chiến hạm W.Y.Z.”. Ám hiệu nầy là một ám hiệu bất thường, có nghĩa: “ Tất cả sĩ quan chủ huy đến trình diện soái hạm.”. Hoạt động nhộn nhịp trên mỗi chiếc tàu xảy ra. Vài phút sau đó, trên một chiếc ca nô, tôi đến trình diện Nagato. Trên sân tàu rộng lớn của soái hạm, hàng trăm sĩ quan đã đứng đầy, già trẻ lẩn lộn.
Giữa những người hiện diện, tôi nhận thấy các thượng cấp của tôi: Đề Đốc Raizo Tanaka, Tư Lịnh phân đội 2 khu trục hạm, và phó Đô Đốc Nobutake Kondo, Tư Lịnh Đệ Nhứt Hạm Đội. Mọi người đều có dáng vẻ nghiêm trọng. Mặc dù trong tiết thu mát mẻ, không khi vẫn như ngột ngạt oi bức.
Lúc 9 giờ 30, ba tiếng chuông reo vang, tất cả thủy thủ đều biến dạng, chỉ còn các Hạm Trưởng có cấp bậc Trung Tá trở lên. Sự bất thường nầy cũng khiến cho sự căng thẳng gia tăng.
Trung tá Hajime Yamaguchi, một trong những tùy viên của tổng Tư Lịnh Hạm Đội Hổn Hợp, đứng gần một cái bực cao, nói lớn:
“Xin quí vị lưu ý! Tổng Tư Lịnh đến.”
Tất cả chúng tôi đều đứng thẳng và im phăng phắc khi Đô Đốc Isoroku Yamamoto bước lên sàn tàu. Khi ông tiến đến cái bực, trong khung cảnh lặng yên, tiếng bước chân của ông vang lên rất rõ. Đô đốc Yamamoto chào đáp lễ chúng tôi và bắt đầu lên tiếng:
“Tôi rất hân hoan gặp gỡ tất cả quí vị ở đây. Hạm đội hổn hợp của chúng ta đã hoàn tất mọi chuẩn bị để sẵn sàng lâm chiến. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta sẽ tiếp tục trui rèn trên căn bản đó.
“Tình hình gần đây cho thấy có thể bắt buộc Nhật Bản phải ra tay chống lại Anh, Mỹ, Úc và Hòa Lan, hơn là để cho cuộc phong tỏa kinh tế của họ bóp nghẹt chúng ta.”
Sự khủng hoảng đã đến mức độ trầm trọng hơn bao giờ hết trong lịch sử của chúng ta, điều nầy đã nhìn thấy rõ ràng. Một khi quốc gia quyết định lâm chiến chống lại Đồng Minh, bổn phận của chúng ta, Hạm Đội Hổn Hợp, là bảo vệ quốc gia và đánh bại kẻ thù. Nhiệm vụ nầy có thể đạt được thành quả, nếu mỗi cá nhân trong quí vị dốc hết nổ lực của mình.”
Yamamoto nó thật vắn tắt, và qua một giọng thật trầm, nhưng chẳng khác nào tiếng sấm động. Mọi sĩ quan choáng váng. Tôi cảm thấy như bị chôn chân.
Khi ngừng nói, Đô Đốc Yamamoto nghiến chặt hai hàm răng lại và nhìn quanh, như có tìm đôi mắt của từng người một. Ông có vẻ hòa dịu hơn khi ông chậm rãi rời khỏi bục.
Phó Đô Đốc Matome Ugaki, Tham Mưu Trưởng của Yamamoto lên tiếng kế đó. Ông đưa ra một phân tách về tình hình, các hậu quả do việc phong tỏa tàu bè đi lại của Đồng Minh. Nhật Bản đang lâm vào cảnh thiếu hụt dầu hỏa, quặng sắt, cao su, kẻm, nikel và đất thiết phàn, vì gặp phải khủng hoảng về vấn đề cung cấp. Ông cho biết, theo quả quyết của Bộ Tư Lịnh Tối Cao, Nhựt sẽ sụp đổ trong vòng một hoặc hai năm nữa nếu tình thế hiện tại vẫn tiếp tục. Ông
nói rằng Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã tiến đến quyết định cuối cùng là đưa ra một chiến lược trả đủa, nhằm chống lại sự bóp nghẹt của Đồng Minh.
“Có thể cuộc hội họp của tất cả các sĩ quan thuộc Hạm Đội Hổn Hợp nầy…” tới đây Ugaki hơi ngần ngừ, và sau đó tiếp “… là cuộc họp cuối cùng trong khung cảnh như thế nầy…”
“Kể từ bây giờ chúng ta sẽ đảm nhiệm một công việc khó khăn nhứt. Đây không phải là sự cố gắng tập tành thông thường, mà là sự nghỉ ngơi thích hợp cho binh sĩ của các ông, và các ông phải luôn luôn theo dõi công việc nầy. Không được để tiêu hao một người nào vì làm việc quá mức. Mỗi người chúng ta phải sẵn sàng… luôn luôn sẵn sàng, ngay cả đối với cái chết nữa.”
Một nỗi yên lặng bao trùm lấp khi Ugaki dứt lời. Trung tá Yamaguchi tuyên bố buổi họp chấm dứt, và Đô Đốc Yamamoto bắt đầu cuộc họp riêng với Bộ Tham Mưu của ông.
Tôi vẫn đứng bất động, những câu nói cảu Yamamoto và Ugaki vẫn còn âm vang trong tai tôi. Tôi phải chờ ca nô mang tôi trở lại chiếc Amatsukaze. Thình lình tôi như lâm vào trạng thái hôn mê và dần dần bước hướng về khoảng giữa của chiếc soái hạm. Tôi nhứt quyết đến gặp riêng Ugaki.
Khi tôi đang bước, một vị đô đốc xuất hiện và tôi đưa tay chào như máy. Đó là ông bạn tốt của tôi. Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo, Tư Lịnh Đệ Nhứt Không Hạm Đội. Ông chào đáp lể và cười khi gọi tên tôi. Chúng tôi trao đổi một vài câu. Khi ông bước đi, đôi vai rộng của ông như nghiêng về phía trước, trạng thái nầy khiến tôi nghĩ ra nụ cười của ông vừa rồi là một nụ cười gượng gạo. Tôi kinh ngạc. Nagumo từ trước đến nay là một người vồn vã, gặp bạn cũ là ông nhảy xô với những cử chỉ, lời nói thật thân thiết và ồn ào.
Trạng thái kì lạ của ông Phó Đô Đốc hăng hái nầy đã khiến tôi hoang mang khi bước xuống cầu thang hẹp, tiến về phía phòng của Phó Đô Đốc Ugaki.
Tôi gõ của và bước vào sau tiếng nói rổn rang cho phép của Ugaki
Tôi hỏi thẳng:
“Thưa đô đốc, Đô Đốc có thể dành cho tôi một vài phút không?” “Được Hara,” ông đáp. “Hãy ngồi đi.”
Tôi ngần ngừ, và sau một giây yên lặng, tôi tiếp “Thưa đô đốc, hành vi của tôi có thể khiến Đô Đốc cho là tôi quá vô lễ, nhưng khi đến gặp đô đốc, tôi đã đắn đo cân nhắc. Tôi hi vọng Đô Đốc sẽ hiểu biết cho tôi.
Tôi cũng hi vọng đô đốc không xem tôi như là một kẻ chống đối hoặc nhút nhát trước… những mạng lịnh cương quyết đã được ban ra…”
“Tôi hiểu anh, Hara. Đừng rào đón nữa. Hãy nói thẳng những gì anh muốn nói. Có phải anh muốn thảo luận với tôi về cuộc chiến sắp được hải quân Nhựt phát động chống lại Đồng Minh không?”
“Dạ đúng, thưa Đô Đốc. Tôi chỉ là một chuyên viên khu trục hạm, kiến thức hạn hẹp, và chắc chắn tôi không đủ tư cách thảo luận một quyết định đã được thượng cấp đưa ra. Xin đô đốc tha thứ những lời thẳng thắn của tôi, nhưng thực sự tôi hoàn toàn bi quan trước tình thế sắp xảy ra. Chúng ta có thể tránh né cuộc chiến toàn diện bằng cách chọn một lối khác hơn là tấn công vào Phi Luật Tân? Và nếu nói là vì nguồn tài nguyên mà chúng ta bắt buộc phải chọn hành động tấn công, chúng ta nhắm cả vào Hòa Lan có thích đáng hay không?”
Ugaki cười gượng gạo, giống như Nagumo. Sau đó ông hắn giọng nói: “tôi nói anh nghe Hara. Ý kiến của anh được chia xẻ bởi một số sĩ quan cấp cao khác, nhưng tất cả đều bị gạt ra ngoài. Quyết định đã được đưa ra. Một việc mà tôi cần nhấn mạnh: chúng ta tạo ra quyết định chỉ để chuẩn bị đối phó với tình thế tệ nhứt mà thôi. Như anh biết, đô đốc Kichisaburo Nomura, đại sứ của chúng ta ở Hoa Thịnh Đốn đang cố gắng mở các cuộc đàm phán để dàn xếp lần cuối cùng. Nhà ngoại giao chuyên nghiệp Saburo Kurusu cũng
sẽ sang Hoa Kỳ giữ nhiệm vụ cố vấn đặc biệt cho Nomura, và cả hai sẽ nổ lực gấp đội trong cuộc đàm phán nầy. Chúng ta không gây chiến tranh, nhưng nếu không còn cách nào để chọn, chúng ta phải đánh, và phải đánh nhanh và mạnh. Đó là giải pháp cuối cùng mà Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã chọn.”
Tôi ngồi bất động, biết rằng không còn gì để thảo luận vấn đề nầy thêm nữa. Tôi kiếu từ, và Ugaki nói: “Anh hãy cẩn trọng. Anh là sĩ quan khu trục hạm tài ba nhứt của hải quân. Chúng tôi sẽ tùy thuộc vào anh. Mong gặp lại anh, Hara.”
Cuộc gặp gỡ đó là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa tôi và Ugaki. Ông sống sót khi 2 oanh tạc cơ hai máy Betty chở Yamamoto và Bộ Tham Mưu bị một số chiến đấu cơ P38 của Hoa Kỳ tấn công vào tháng 4 năm 1943. Cuộc tấn công xảy ra gần Bougainville, ở Solomon. Cả hai oanh tạc cơ đều bị bắn rơi, và Yamamoto thiệt mạng. Nhưng Ugaki sống sót cho đến gần ngày cuối cùng của cuộc chiến và tử trận khi hướng dẫn các oanh tạc cơ tự sát tấn công Okinawa (có thể Hara đã nhầm, Đô Đốc Ugaki đã dẫn đầu một nhóm các phi công không chấp nhận lệnh đầu hàng và tất cả đều hướng ra biển trên máy bay của mình và không ai có thể biết đoàn phi cơ nầy đã bay đi đâu….). Đó là cuộc tấn công Kamikaze cuối cùng trong cuộc chiến Thái Bình Dương.
Cho đến hiện tại, tôi vẫn không hiểu có phải Ugaki nằm trong nhóm người chống đối phương thức tấn công Trân Châu Cảng hay không. Tuy nhiên, tôi luôn luôn có cảm giác ông và Nagumo chống đối. Yamamoto đã chứng tỏ sự cương quyết qua việc lựa chọn phương thức nầy, nhưng bên trong ông có vẻ như chống đối khi xét đoán: “Hải quân chỉ đủ sức chiến đấu hai năm.”. Yamamoto cũng từng ngõ ý mong muốn các nhà ngoại giao Nhựt sẽ tìm kiếm một nền hòa bình danh dự trước khi thảm kịch xảy ra.
Sau khi hội kiến Ugaki, tôi trở lại sân tàu, vẫn trong trạng thái bàng hoàng. Các sĩ quan trẻ con đứng quanh quẩn bên nhau, và tôi nghe một Thiếu tá lên giọng khoác lác: “Những người khu trục hạm chúng ta phải đi tiên phong và đánh cho địch quân manh giáp không còn. Có thể cả cuộc chiến sẽ dựa vào sự chiến đấu của chúng ta.”
Tôi gục gặc đầu và tự nhũ: “Hắn nói vậy mà đúng” Tôi trở về Amatsukaze, vào phòng riêng và quơ lấy cuốn sách Tôn Tử binh pháp trên giá sách. Đây là quyển sách chứa đựng triết lý và chiến lược của Trung Hoa thời cổ, được xem là Thánh Kinh của các nhà quân sự Đông phương hơn 2500 năm nay.
“Nghệ thuật lãnh đạo cuộc chiến là một vấn đề sống còn của quốc gia, một con đường đưa đến sự hủy diệt hay tồn tại. Vì thế, nghệ thuật nầy đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách tỉ mỉ mọi khía cạnh của nó.”
Chương ba của quyển sách đã kết luận:
“Khi chiến tranh phát khởi, điều quan trọng duy nhứt đối với ta là phải bảo toàn quốc gia hơn là đánh bại một quốc gia khác. Bảo vệ đơn vị của mình quan trọng hơn là khắc phục đơn vị của địch quân. Một chỉ huy trăm trận trăm thắng chưa hẳn là một vị chỉ huy giỏi. Một vị chỉ huy vĩ đại thật sự là một vị chỉ huy chiến thắng địch quân mà không cần phải dụng binh.
“Anh không cần phải kinh sợ dầu phải có đánh hàng trăm trận, nếu anh tri bỉ, tri kỷ. Nếu anh biết rõ mình mà không biết rõ địch quân, thì có ngày anh phải trả giá mọi chiến công mà anh gặt hái được. Nếu anh không biết mình và cũng không biết người chắc chắn anh sẽ đánh đâu thua đó.”
Các lời khuyên nầy cũng chẳng làm tôi vơi bớt nỗi phiền muộn. Tôi cho rằng quyển sách có vẻ triết lý thái quá và quăng sang một bên. “Cái túi khôn” nầy chỉ có thể thích hợp cho một vị vua hoặc một vị Tổng tư lịnh, nhưng vô bổ được một sĩ quan cấp bậc nhỏ nhoi như tôi. Niềm bi quan trong tôi vẫn không ngớt.
Trong khi theo dõi các biến cố đang xảy ra, tôi càng thêm thất vọng, xem như cuộc chiến đã được các nhà lãnh đạo quân sự quyết định rồi. Cuộc họp lịch sử trên soái hạm Nagato trùng hợp với sự từ chức của Thủ tướng Konoye và toàn thể Nội Các của ông. Người kế nhiệm ông là tướng Hideki Tojo. Tôi hiểu rằng sự thay đổi ngay vào thời gian đầy khủng hoảng nầy là một điềm xấu báo trước.
Trãi qua nhiều ngày, tôi dò dẫm tìm đường lối chuẩn bị bản thân sẵn sàng đón nhận cuộc chiến toàn diện. Sau binh thơ Tôn Tử, tôi tìm hiểu đọc nhiều binh pháp của Hải Quân Hoàng Gia, nhưng cũng chẳng có quyển nào soi đường cho tôi. Tôi tự hỏi: “Tôi đã biết năng lực của địch và năng lực của chính tôi chưa?”.
Tôi được cho là một sĩ quan khu trục hạm tài ba nhứt. Tôi luôn luôn chiến thắng trong các buổi diễn tập “kẻ thù” luôn luôn bị “dứt điểm” với những trái thủy lôi chính xác của tôi. Thông thường, tôi chỉ cần sử dụng phân nữa trong tổng số tám trái thủy lôi trang bị đầu phóng là mục tiêu đã được thanh toán. Điều nầy đã chứng tỏ năng lực của tôi, nhưng còn năng lực của kẻ thù?
Tôi chỉ hiểu mù mờ. Nếu các giới hạn qui định của hội nghị giải trang Luân Đôn vẫn còn hiệu lực, việc nầy đáng nghi ngờ sau khi Nhật Bản xé bỏ thỏa hiệp năm 1934, tính ra nếu lực lượng hải quân của Hoa Kỳ và Anh Quốc phối hợp thì cứ 10 của họ chống lại 3 hoặc 3.5 của Nhật Bản. Như vậy có nghĩa là tôi phải đánh chìm ít nhứt 4 tàu chiến của địch mới mong duy trì một lần sống sót. Nếu mỗi sĩ quan Hạm Trưởng Hải Quân Hoàng Gia Nhựt đều làm được như thế, chúng tôi có thể ngang ngửa với địch quân. Nhưng đây chỉ là ảo tưởng. Như Phó Đô Đốc Nagumo từng nói với tôi nhiều lần rằng tiềm năng kỹ nghệ đáng sợ của Hoa Kỳ là một yếu tố bất lợi không thể đo lường đối với Nhật Bản. Tất cả những vấn đề nầy khiến tôi đắm chìm vào sự u ám và bi quan.
Nỗi dằn vặt kéo dài thêm nhiều ngày nữa cho đến cuối cùng tôi mới trở lại thân phận thực sự của tôi: tôi là một quân nhân, không phải một sĩ quan cao cấp, điều nầy có ý nghĩa dứt khoát rằng nhiệm vụ của tôi phải chuẩn bị chiến đấu để bảo toàn binh sỹ và giữ gìn khu trục hạm của tôi. Tôi không thể cho phép tôi chui đầu vào guồng chỉ rối của cuộc chiến sắp xảy ra, mà phải sẵn sàng chiến đấu với tất cả năng lực trong vài trò giới hạn của tôi.
Có vẻ lạ lùng khi tôi nói rằng vào lúc ấy, năm 1941, chính quyển tự truyện cổ “Go Rin Sho” của Masashi Miyamoto viết cách đây 3 thế kỷ là quyển sách đã soi sáng mọi thắc mắc và phục hồi sự trầm tĩnh của tôi. Nội dung quyển sách chứa đựng lời tự thuật của một
kiếm khách phi thường, đã chiến thắng 66 trận quyết đấu, và sau đó trở thành nhà văn kiêm triết gia vĩ đại nhứt của Nhật Bản.
So với binh thơ Tôn Tử, quyển tự truyện của Miyamoto hoàn toàn khó hiểu. Nếu dịch nguyên văn quyển sách nầy, chắc đọc giả Tây Phương cũng khó mà lãnh hội nổi. Miyamoto sanh năm 1584 và sống trong một thời đại đầy loạn lạc. Vào thời đó một kiếm sĩ mới xuất thân muốn gây tên tuổi hẳn phải thách đấu những kiếm sĩ đã từng nổi danh khác so tài. Cuộc so tài nầy không phải là một môn thể thao đơn giản, mà cả hai tay kiếm đều đấu với nhau chí mạng. Kiếm của họ thường làm bằng thép hoặc gỗ. Đối với một cao thủ về kiếm thuật, thanh kiếm gỗ trong tay họ hữu hiệu không khác mấy so với kiếm thép.
Chiến thắng 66 lần liên tiếp của Miyamoto, một kỉ lục chưa từng thấy, được ông kể lại tỉ mỉ trong quyển tự truyện nầy. Ông đã đánh bại các đối thủ qua yếu quyết : “Xoay sở tùy theo tình thế, không để bị trói buộc vào bất kì công thức hoặc nguyên tắc nào.”Bí quyết này chỉ có những cao thủ thượng thừa mới dám áp dụng trong các cuộc so tài thí thân, vì chỉ sơ sẩy một đường tơ là có thể mất mạng ngay.
Quyển truyện nầy đã thức tỉnh tôi, nó đã giải đáp tất cả những gì mà tôi đang dò dẫm. Xoay sở tùy theo tình thế có thể giúp tôi vượt qua sức mạnh ưu việt của Đồng Minh. Hiện tại, tôi có thể tin rằng tôi đã tạo được những thành tích rực rỡ và tồn tại sau cuộc chiến Thái Bình Dương, là do tôi đã áp dụng bí quyết của Miyamoto.
2
• Cuộc hành quân “Giai đoạn I” được ban lịnh vào ngày 7 tháng 11 năm 1941.
Hạm Đội Hổn Hợp nhanh chóng phân tán trong vòng trật tự. Khu trục hạm của tôi, với ba chiếc khác thuộc hải đội 6 lặng lẽ tiến vào quân cảng hải quân Kure. Nhưng tôi không biết các thành phần chính thuộc Đệ Nhất và Đệ Nhị Hạm Đội chạy về hướng Bắc, tụ họp ở Hitokappu Wan (Vịnh Tanaka) ở Kurite. Các thành phần nầy họp
thành một lực lượng Đặc Nhiệm Nhật Bản (Lực Lượng Đặc Nhiệm có nghĩa là một lực lượng hải quân bao gồm chiến hạm mọi loại, hàng không mẫu hạm và thủy binh hoặc Thủy Quân Lục Chiến), một lực lượng vĩ đại nhứt chưa từng thấy bao giờ.
Các chiếc tàu của chúng tôi phải trãi qua một cuộc kiểm soát cẩn thận ở Kure. Những gì lặt vặt không cần thiết và những thủy thủ bịnh hoạn đều được lịnh mang lên bờ. Số thủy thủ khiếm khuyết nầy lập tức được thay thế. Chỉ có những sĩ quan chỉ huy mới biết rõ cuộc hành quân đang phát triển, riêng thủy thủ đoàn chỉ biết họ sẽ thực hiện một hải xuất huấn luyện ở Nam Thái Bình Dương.
Bộ Tư Lịnh Tối Cao bãi bỏ mọi đặc ân, đình chỉ tất cả phép tắc. Tôi đã được nghỉ phép lần cuối cùng hồi tháng 9, và tôi đã đáp chuyến xe lửa tốc hành 16 tiếng đồng hồ từ Kure về gia đình tôi ở Kamakura, một thành phố bờ biển gần Yokosuka. Nhưng chuyến đi dài dằng dặc đầy mệt mỏi đã được đền bù. Hai đứa con gái của tôi nhảy nhót chào đón ngày tôi về, hớn hở bên hai chị là Mikito, đứa con trai hai tuổi vừa biết nói của tôi. Tôi chỉ lưu lại nhà một ngày tròn. Đám con trẻ đã buồn bả khi tôi ra đi, chính tôi cũng buồn bã không kém gì chúng. Tôi ghì ghặt từng đứa một và nó: “Ba của các con sẽ sớm trở về”. Hy vọng gặp lại con trước khi “hành quân” đã không còn may mắn nào nữa.
• Cuộc Hành Quân “Giai đoạn II” được ban lịnh vào ngày 21 tháng 11 năm 194.
Ngày kế đó, toàn thể Lực Lượng Đặc Nhiệm của Phó Đô Đốc Chuichi Nagumo đã tập trung đầy đủ trong Vịnh dầy đặc sương mù Ekorofu ở quần đảo Kurile. Vào ngày 23 tháng 11, tám khu trục hạm của hai Hải đội 16 và 24 âm thầm thoát ra khỏi cảng Kure và hướng mũi về eo biển Terashima. Bốn ngày liên tiếp, các giàn phóng thủy lôi và mọi loại vũ khí khác trên tàu chúng tôi đều trong tư thế sẵn sàng. Các bác sỹ bận rộn săn sóc, khám sức khỏe và chích thuốc cho thủy thủ đoàn.
Hai Hải đội của chúng tôi lại di chuyển khỏi eo biển Terashima và trực chỉ ra Thái Bình Dương vào lúc 6 giờ chiều ngày 26 tháng 11.
Cùng thời gian nầy Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo cũng rời khỏi Vịnh Tankan và nhắm hướng Hạ Uy Di. Điểm đến của chúng tôi là Palau, một trong các hòn đảo Nam Hải thuộc quyền của Nhật Bản. Tất cả các sĩ quan chỉ huy đều được thông báo cho biết việc thành lập một Lực Lượng Đặc Nhiệm nhỏ ở Palau để tấn công đảo Mindano thuộc Phi Luật Tân, cùng lúc với cuộc tấn công Trân Châu Cảng.
Trên hải trình 2.000 dậm khởi từ Terashima, các công điện chuyển đi bằng vô tuyến của chúng tôi đều bị đình chỉ, kể cả Lực Lượng Đặc Nhiệm của Nagumo, nhưng các nhận viên nhận tin vẫn tiếp tục hoạt động. Khi các chiếc tàu của chúng tôi rời khỏi hải phận của Nhật Bản, chúng tôi nghe được một tin tức loan đi trên đài phát thanh: “Báo chí cho biết ngày 26 tháng 11, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull đã trao một công hàm cho hai vị Đại Sứ Nhật Kichisaburo Nomura và Saburo Kurusu. Theo sự hiểu biết, hình như Hoa Kỳ quyết định duy trì các cuộc hòa đàm.”
Vào ngày 28 tháng 11, chúng tôi nhận được một công điện từ Bộ Chỉ Huy địa phương chuyển đi: “Hai tiềm thủy đỉnh không rõ quốc tịch, nhưng có thể là của Hoa Kỳ, được ghi nhận di chuyển về hướng Bắc, thuộc hải phận phía Đông Đài Loan.”
Cuộc “Hành quân giai đoạn II” đã giao quyền cho các sĩ quan chỉ huy đưa ra các hành động đối nghịch chỉ khi nào xét ra tối cần thiết. Qua máy liên lạc nội bộ trên tàu, tôi truyền lịnh cho các sĩ quan phụ trách máy Sonar (dụng cụ khám phá tiềm thủy đỉnh): “Lưu ý! Lưu ý! Theo báo các các tàu ngầm địch có thể đang hoạt động gần đây.”
Tiếng đáp lại thật điềm tỉnh của một tay nghề nghiệp: “Tất cả sona đều thích hợp. Nếu phát hiện điều gì sẽ thông báo ngay.”
Ngày 1 tháng 12, truyền tin của chúng tôi bắt được công điện nầy: “Sáu chiến hạm thuộc lực lượng Hải Quân Anh, bao gồm thiết giáp hạm “Prince of Wales” hiện đang trên đường sang Viễn Đông.”
Tất cả không khí căng thẳng đều chấm dứt khi hòn đảo Palau xanh rì nhô ra chân trời. Cùng ngày, lúc 1 giờ trưa, chúng tôi chạy vô hải cảng của hòn đảo nầy. Chỉ trong vòng năm ngày, khí hậu mùa
Đông đã chuyển sang khí hậu mùa Xuân đối với chúng tôi. Bóng dừa rợp mát trên bãi biển là nơi trú ẩn đầy yên tỉnh và thoải mái. Nhưng tôi không hưởng cảnh nầy được lâu. Không khí ở hải cảng Palau căng thẳng. Nhiều tàu lớn chạy vào buông neo, trong số đó có cả những chiếc tàu chuyển vận. Các cuộc tập dượt của thủy thủ trên những chiếc tàu nầy vẫn tiếp tục. Bóng dáng của cuộc chiến tranh đã xuất hiện trong tầm tay.
Đứng trên đài chỉ huy, ý nghĩ đầu tiên của tôi là đặt các điểm canh gác trên bờ, tuy nhiên sau đó tôi nhận thấy việc làm nầy vô ích, và tôi ra lịnh thả lỏng thủy thủ đoàn. Mọi người cũng được nhận chỉ thị tắm rửa sạch sẽ, lần đầu tiên chúng tôi có dịp tắm rửa kể từ ngày rời khỏi Kure một tuần trước đây. Lợi dụng dịp nầy, tôi cũng mang một số sĩ quan của tôi đi xem địa hình địa vật của hải cảng, và luôn tiện đi lang thang cho dản gân dản cốt. Chúng tôi cũng dùng xuống nhỏ ngao du đây đó, cả ngày lẫn đêm.
Buổi chiều ngày hôm sau, 2 tháng 12, chúng tôi nhận được một công điện “lịch sử” từ Tổng hành dinh Hạm Đội Hổn Hợp: “Niitaka Yama Nobore I.208”.
Câu tiếng Nhựt nầy có nghĩa đen: “Leo lên núi Nitaka (ngọn núi cao nhứt ở Đài Loan) I208”. Tôi đọc ngấu nghiến công điện nầy và cảm thấy hồi họp nhu lúc sắp dỡ xem các tài liệu đóng dấu tối mật. Nghĩa bóng của câu nầy: “ Cuộc chiến chống Đồng Minh sẽ được phát động vào ngày 8 tháng 12.”
Ngay sau đó, tất cả các Hạm Trưởng được lịnh của Đề Đốc Raizo Tanaka, tập họp quanh ông để lãnh các chỉ thị tấn công Davao. Trong lời nói vắn tắt, Tanaka, thường lập đi lập lại câu: “Các anh phải nhớ rằng cuộc hòa đàm vẫn còn tiếp tục ở Hoa Thịnh Đốn. Chúng ta phải chuẩn bị để nhận một công điện đình chỉ toàn thể cuộc hành quân không biết gởi đến vào lúc nào, nếu cuộc hòa đàm đạt được kết quả. Sau đó, chúng ta chỉ còn một việc để làm: quay tàu trở về Nhật Bản.”
Tôi lên tiếng: “ Thưa Đề Đốc, ở đây, Palau chỉ cách phía Đông căn cứ then chốt Davao của Hoa Kỳ 500 dậm, và chỉ cách Đông
Nam căn cứ hải quân quan trọng khác của họ là Guam 700 dậm. Với khoảng cách khá gần như vậy, một số tàu chiến của chúng ta tụ họp ở đây, thì thế nào Hoa Kỳ cũng phái các tiềm thủy đỉnh của họ theo dõi chúng ta. Chúng ta hành động như thế nào, nếu chúng ta chạm mặt với các tàu ngầm nầy.?”
Tanaka đáp: “Chúng ta buộc phải đánh, đánh chìm, cho dù giai đoạn II của cuộc Hành Quân chỉ cho phép chúng ta đưa ra các hành động thù nghịch khi nào gặp trường hợp tối cần thiết.”
Cuộc họp chấm dứt, các Hạm Trưởng lặng lẽ trở về tàu của họ. Nhưng không khí lặng lẽ nầy khó mà duy trì được trong tình trạng hiện tại. Sự hiểu biết về năng lực chiến đấu của Đồng Minh khiến tôi vẫn bi quan, và tôi cũng nhận thấy kế hoạch được đưa ra hình như có vẻ gì không thật.
Tôi chờ đợi, có thể làm mong mõi, cuộc hành quân nầy cuối cùng sẽ được lịnh chấm dứt. Một câu trong binh thơ Tôn Tử lảng vảng trong trí tôi: “Một vị chỉ huy vỉ đại thật sự là vị chỉ huy chiến thắng địch quân mà không phải dụng binh.”. Tôi không ngờ rằng Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhật đã xem công hàm ngoại trưởng Hull trao ngày 1 tháng 12 có tánh cách như tối hậu thơ đòi hỏi Nhật đầu hàng trước khi chiến đấu, và vì vậy Bộ Tư Lịnh Tối Cao đã quyết định khai chiến với Hoa Kỳ.”
Suốt 3 ngày, từ 3 đến 5 tháng 12, chúng tôi tập dượt ráo riết trong vòng hải cảng, và cuối cùng các chiến hạm đều được xem xét lại tỉ mỉ, tất cả những gì không cần thiết được mang lên bờ.
Lúc 1 giờ 30 khuya 6 tháng 12, sáu khu trục hạm của chúng tôi và một tuần dương hạm rời khỏi hải cảng rộng lớn Palau. Chúng tôi được giao phó nhiệm vụ “tẩy sạch” tiềm thủy đỉnh của địch quân để dọn đường cho một hàng không mẫu hạm và hai tuần dương hạm hạng nặng đến Mindanao. Nhiều chuyển vận hạm vẫn nằm chở trong hải cảng Palau để tham dự vào các thành phần tấn công khác nhằm vào Phi Luật Tân và quần đảo East Indie (một nhóm đảo nhỏ ở Thái Bình Dương) thuộc Hòa Lan.
Với đội hình hàng dọc, chúng tôi rời khỏi hải cảng Palau, hướng về phái Tây một đỗi và sau đó đổi sang đội hình “cài răng lược” lướt ngang mặt biển với các máy dò tìm tàu lặn. Không có dấu vết đáng lưu ý, cho đến 4h chiều ngày đầu tiên, sĩ quan sonar mới báo động:
“Hình như có một tiềm thủy đỉnh ở 60 độ hữu mạn, cách 2500 thước.”
Tôi cho chiếc tàu hướng đến mục tiêu và ra lịnh: “Chuẩn bị phóng chất nổ ngầm!” Đồng thời, chiếc tàu của tôi rít một hòi còi dài và các cây cờ ám hiệu ABX (có nghĩa là “chúng tôi tấn công với chất nổ ngầm”, được kéo lên, để lưu ý các chiến hạm bạn biết hoạt động của chúng tôi.
Sĩ quan sonar lại báo cáo: “Mười độ tả mạn, cách 2000 thước. Âm thanh bắt được chắc chắn là của tiềm thủy đỉnh”.
Tôi điều chỉnh hướng tiến của Amatsukaze, và gia tăng tốc độ lên 12 hải lý. Nhìn quanh, tôi thấy tất cả các thuộc cấp đều sẵn sàng và họ chỉ chờ chỉ thị của tôi là hành động. Sĩ quan sonar tiếp tục báo cáo các giác độ và khoảng cách khi chúng tôi dần đến mục tiêu. Tôi bị căng thẳng và nổi hứng thú của một tên thợ săn bò sát lại con mồi. Khi chiếc tàu tiến đến khoảng cách vừa vặn để tấn công, tôi biết giây phút quyết định đã đến. Tôi la to: “Gia tăng tốc độ 21 hải lý”. Chất nổ ngầm chỉ có thể được thả sau khi một chiếc khu trục hạm gia tăng tốc độ, vì nếu không làm như vậy thì chính chất nổ được thả xuống sẽ hủy diệt chiếc tàu. Nhưng ngay giây phút cuối cùng để ban lịnh “dứt điểm”, miệng tôi bỗng nhiên cứng lại. Thay vào đó, tôi la to: “Đình chỉ thả chất nổ! Đình chỉ thả chất nổ!”.
Đó là một trong những quyết định quan trọng nhứt mà tôi đã đưa trong suốt cuộc chiến. Hành động của tôi vào lúc đó chắc khó ai hiểu được, và người ta sẽ nghĩ là tôi đã cải lịnh trên.
Quyết định của tôi căn cứ trên những lý lẽ sau đây: Không 0 giờ (tức giờ tấn công) được đặt ra vào ngày 8 tháng 12, nghĩa là còn 2 ngày nữa. Chiếc tàu ngầm chưa tỏ dấu hiệu nào gọi là thù địch. Ngay cả khi nhận được báo cáo khám phá tàu ngầm, tư tưởng của tôi đã xung đột dữ dội. Tôi xem hòa bình là trọng, vì vậy ý nghĩ đầu
tiên thoáng qua đầu tôi, là với hành động hiện tại của tôi có thể khiến cơ hội tiến đến hòa bình đổ vỡ. Hơn nữa, thái độ của tôi lúc đó là sự cân nhắc có tánh cách chiến thuật. Tấn công mục tiêu ngầm không phải đạt được kết quả dễ dàng, đặt biệt khi mục tiêu đã có sự đề phòng trước. Nếu mục tiêu thoát khỏi cuộc tấn công, kết quả sẽ hoàn toàn trái ngược. Nói một cách khác, nếu chiếc tàu ngầm không bị hủy diệt, nó sẽ thông báo về bản doanh và mọi tàu chiến của Hoa Kỳ sẽ được báo động để tung ra một cuộc phản công. Khi một người đã có sự lưỡng lự trước một quyết định như thế, như tôi đã từng rút kinh nghiệm qua các buổi diễn tập, chắc chắn người đó sẽ không bao giờ bắn trúng mục tiêu. Vì vậy, tôi đã ra lịnh đình chỉ ngay cuộc tấn công.
Lúc ấy từ tuần dương hạm Jintsu 5950 tấn, Đề Đốc Raizo Tanaka đang theo dõi tôi. Ông không hề hỏi tôi về hành vi kỳ dị của tôi ngày hôm đó. Có lẽ ông đã hiểu và chia xẻ cảm nghĩ của tôi.
Sau khi chấm dứt cuộc săn đuổi chiếc tàu ngầm, khu trục hạm của tôi quay về nhập bọn với các chiến hạm khác. Lúc đó hàng không mẫu hạm Ryuji, với hai tuần dương hạm hạng nặng và hai khu trục hạm, rời khỏi Palau đến kết hợp với chúng tôi. Lực Lượng Đặc Nhiệm gồm 12 chiến hạm bây giờ di chuyển theo đội hình hàng dọc, với tốc độ 18 hải lý trực chỉ về phía Tây. Chúng tôi đã sớm ra ngoài đại dương bao la, đất liền đã biến mất khỏi tầm mắt và ngoài chúng tôi không còn bóng dáng chiếc tàu nào khác nữa. Từng đoàn cá heo hết lượt nầy đến lượt khác đuổi theo tàu chúng tôi, nhưng ngoài các sinh vật nầy, trước mắt chúng tôi chỉ có trời và nước.
Tôi ra lịnh tập hợp thủy thủ đoàn trên sàn tàu và cho họ biết nơi đến và nhiệm vụ của họ. Tất cả đều không có một phản ứng nào khi nghe tin nầy khiến tôi kinh ngạc. Hiển nhiên là họ đã đoán biết chuyến đi sau khi được huấn luyện đặc biệt.
Sĩ quan và thủy thủ trở lại phận sự của họ. Tôi ngồi trên đài chỉ huy chăm chú nhìn Davao và ngoại cảnh của nó trên bản đồ. Chiếc tàu lặng trang và đại dương im lìm. Đêm tối dần và tất cả đều yên bình. Đoàn tàu lướt đi âm thầm, đèn đuốc đều được lịnh tắt hết.
“Thưa Hạm Trưởng, có một công điện…”
Tôi xoay người sang một thủy thủ chạy việc. Thủy thủ Takeo Murata 18 tuổi, phục vụ trên tàu chỉ một tháng nay. Anh ta là một trong những người đã thay thế các thủy thủ đau yếu. Murata chào tôi và đứng nghiêm.
Tôi nói: “Cám ơn Murata” và mở mảnh giấy anh ta vừa trao. Tôi cảm thấy phấn chấn khi nghĩ mảnh giấy nầy sẽ chứa đựng phản lịnh của cuộc hành quân đang diễn tiến. Nhưng đó chỉ là một tin tức tình báo.
“Một tàu chở thủy phi cơ cùng một lớp với loại tàu Bristol và một khu trục hạm Hoa Kỳ bỏ neo ở hải cảng Davao lúc 6 giờ chiều ngày 6 tháng 12.”
Tôi thở dài và tiếp tục nhìn đại dương đen thẩm.
“Thưa Hạm Trưởng, một công điện…” Murata lại xuất hiện, mồ hôi nhỏ giọt trên khuôn mặt non chẹt của anh ta. Anh ta phải chạy từ phòng truyền tin lên đây. Một gã được việc! Tôi bổng nghe buồn bã, không ngờ gã con nít nầy lại đang chia sẽ vận mạng của cuộc chiến với những người đáng cha anh.
Nội dung công điện: “Không có tàu nào của địch quân được phát hiện ở Legaspi lúc 7 giờ tối ngày 6 tháng 12.” Hai công điện kế tiếp là mẫu tin báo chí: “Hai vị Đại Sứ Nomura và Kurusu đã trao cho Ngoại Trưởng Hull và Tổng Thống Roosevelt một đề nghị được xem là cuối cùng…” và Phát Ngôn Viên của Bộ Ngoại Giao Nhựt hôm nay cho biết tàu chở hành khách Tatsuta Maru, đã rời Yokohama tuần rồi để đến Los Angeles, vừa được chỉ thị ghé thăm viếng Mễ Tây Cơ. Hiện tại tàu này đã sắp xếp ngày đến Los Angeles là ngày 14 tháng 2, và sẽ rời khỏi nơi đây vào ngày 16 tháng 2 để đến Manzanillo vào ngày 19…”
Chắc chắn không có chứng cớ nào cho thấy cuộc chiến đang chuyển động qua các diễn biến vừa nới. Nhưng có ai ngờ rằng chiếc tàu Tatsuta Maru sẽ được lịnh quay về Nhật Bản 30 tiếng đồng hồ sau đó?
Ngày hôm sau, 7 tháng 12, vẫn là một ngày yên tĩnh như thường lệ. Chỉ có mạch máu của tôi là bị căng thẳng do các công điện như loại đã nhận được vào đêm trước. Đêm thứ hai trên đại dương, kim đồng hồ của tôi chỉ đúng nửa đêm, và ngày ló dạng, nhưng không có một lịnh phản hành quân nào được gởi đến. Chúng tôi vẫn còn cách xa tuyến xuất phát cuộc tấn công, cách phía Đông mũi San Augustin 50 dậm và phía Đông Davao 100 dậm.
Tôi bổng nghe mệt mõi sau hai ngày và hai đêm ngồi trên đài chỉ huy, nên sau khi giao quyền chỉ huy cho Đại úy Toshio Kayama, hoa tiêu trưởng trẻ tuổi nhưng đầy đủ khả năng của tôi, tôi đã thiếp ngủ trên ghế ngồi. Những hạt nước giá lạnh đã đánh thức tôi dậy khi đoàn tàu của chúng tôi chạy vào vùng mưa bảo mù mịt trên đại dương đen thẩm. Lúc ấy là 3 giờ 30 sáng của ngày D, tức ngày 8 tháng 12 năm 1941. Ngủ thiếp trong giờ khắc quan trọng thế này quả là ngu ngốc biết bao! Tôi tự rủa thầm và gọi phòng truyền tin mang lên cho tôi các công điện mới. Không có công điện nào hết. Cơn mưa bão lướt qua, và cơn buồn ngủ của tôi lại kéo đến. Tôi lấy làm tức giận, vì như thế làm sao tôi còn đủ sáng suốt để theo dõi cuộc chiến trên đà bùng nổ.
Vào bình minh, khoảng 5 giờ sáng, hai mươi oanh tạc cơ hạng nhẹ và chiến đấu cơ cất cánh từ hàng không mẫu hạm Ryujo. Bây giờ chúng tôi đã ở ngay tuyến xuất phát cuộc tấn công, nghĩa là cách phía Đông mũi San Augustin 50 dậm và phía Đông Davao 100 dậm. Hình ảnh của các phi cơ Nhật đã khiến tôi tỉnh táo và phấn khởi. Bao nhiêu cảm giác thiếu nồng nhiệt của tôi đối với cuộc chiến sắp xảy ra, bây giờ, đứng trên đài chỉ huy của khu trục hạm Amatsukaze, tôi thấy đã tan biến, và tôi cương quyết dứt khoát thi hành các mạng lịnh được đưa ra.
Sau khi các phi cơ của Ryujo xuất phát, các khu trục hạm Hayashio, Kuroshio và Oyashio rời bỏ đội hình di chuyển cũ, gia tăng tốc độ lên 30 hải lý, chạy hướng về phía trước để tham dự một cuộc tấn công phối hợp nhằm vào các lực lượng Hoa Kỳ ở Luzon. Tám chiếc còn lại, một chiếc rẽ về phía Đông, một chiếc rẽ về phía
Tây, cách 1500 thước, và giữ đội hình bất thường nầy để chờ đợi các phi cơ của hàng không mẫu hạm Ryujo trở về.
Ryujo là hàng không mẫu hạm duy nhứt sử dụng trong cuộc hành quân Phi Luật Tân. Nguyên trước đó tàu nầy được dự định phối hợp với 2 hàng không mẫu hạm biến cải khác vào cuộc tấn công Luzon, nhưng vì khả năng chở phi cơ của chúng quá giới hạn, thành thử cuối cùng có quyết định sử dụng phi cơ ở phi trường Formosa cho cuộc tấn công nầy. Do đó, Ryujo đến Palau và hai hàng không mẫu hạm kém khả năng hơn quay về trở về Nhật.
Ánh nắng mặt trời lúc ẩn lúc hiện trên đại dương. Gió đứng hẳn. Chúng tôi ướt đẩm mồ hôi sau bốn tiếng rưởi đồng hồ chạy tới chạy lui trên biển. Mười chính chiếc phi cơ trở về hàng không mẫu hạm Ryujo lúc 9 giờ 30. Chiếc thứ 20, một oanh tạc cơ, bị trục trặc máy móc và đâm chúi xuống biển. Sau đó, chúng tôi nghe tin phi hành đoàn của chiếc phi cơ nầy đã được khu trục hạm Kuroshio cứu thoát.
Cuộc tấn công Davao của lực lượng đặc nhiệm hoàn toàn thất bại. Phi cơ và khu trục của chúng tôi đã chui đầu vào cái túi rỗng. Hai tàu chiến của Hoa Kỳ, bỏ neo tại hải cảng theo báo cáo, đã biến mất trước khi lực lượng của chúng tôi đến. Chỉ có hai thủy phi cơ của Hoa Kỳ bỏ lại trên bãi biển và bị máy bay của chúng tôi xạ kích hủy diệt. Sau đó, máy bay của chúng tôi quần trên không phận Davao hơn hai tiếng đồng hồ, nhưng không gặp một phi cơ của Hoa Kỳ nào cất cánh từ phi trường này hoặc bất kì phi trường khác để nghinh chiến. Đó là một cuộc hành quân kì quái nhất.
Thái độ của lực lượng Hoa Kỳ ở Davao ngày hôm đó vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Dù thái độ của lực lượng Hoa Kỳ như thế nào, ít ra họ cũng phải báo cáo cho Tổng Hành Dinh của họ biết về cuộc tấn công mạnh mẻ của chúng tôi. Nhưng Tổng hành dinh của Hoa Kỳ ở Manila đã tọa thủ bàng quang, và ngay cả cuộc tấn công phi trường Clark ròng rã suốt bốn tiếng đồng hồ của các phi cơ Nhật xuất phát từ Formosa, tiếp liền sau cuộc tấn công Davao của chúng tôi, họ cũng chẳng cho bất kì một máy bay nào của họ cất cánh để chống trả lại.
Sự thiếu chuẩn bị của Không Lực Hoa Kỳ ở phi trường Clark vẫn còn nằm trong vòng bí mật. Như Louis Morton viết trong cuốn The Fall of Philippines (Phi Luật Tân thất thủ): “ Tất cả các lực lượng Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân đều biết cuộc tấn công Trân Châu Cảng nhiều tiếng đồng hồ trước đó khi các oanh tạc cơ Nhật xuất hiện trên không phận Luzon. Cuộc tấn công Davao là dấu hiệu cho thấy Nhật quyết ý đập tan các hải đảo có căn cứ không quân quan trọng của Hoa Kỳ tọa lạc, và cuộc tấn công Luzon ngay buổi sáng cùng ngày cho thấy rõ quyết ý nầy của Nhật.
Theo lời của Đại Tá Campbell, phi trường Clark đã nhận được tin phi cơ Nhật sẽ đến trước khi xảy ra cuộc tấn công. Đại tá Euband lại nói rằng việc biết trước nầy không hề có. Một số sĩ quan khác lại cho biết các hệ thống liên lạc đều gián đoạn trong suốt thời gian nguy cấp nầy. Qua những chi tiết trái ngược do các nhân chứng cung cấp, vấn đề trên vẫn còn nằm trong vùng tăm tối…”.
Tám năm sau biến cố, tướng Arnold đã viết rằng: “ ông chưa bao giờ nhận được câu chuyện thật ở Phi Luật Tân. Nhưng các kết quả của cuộc tấn công ai ai cũng đồng ý: 18 trong tổng số 35 chiếc B17, oanh tạc cơ chiến đấu tối tân của Hoa Kỳ vào thời đó bị hủy diệt, 35 chiếc P40, 3 chiếc P35, khoảng 30 phi cơ quan sát mọi loại và nhiều oanh tạc cơ hạng nhẹ cũng bị thiệt mất.” Như vậy, “sau một ngày của cuộc chiến” Morton viết, “với năng lực bị cắt hết phân nữa, Không Lực Viễn Đông của Hoa Kỳ không còn được xem là một lực lượng chiến đấu hữu hiệu nữa.”. Thiệt hại của Nhật Bản: 7 chiến đấu cơ.
Tuần dương hạm Jintsu và khu trục hạm Hatsukaze và chiếc tàu của tôi rời lực lượng đặc nhiệm để hướng đến cửa vịnh Davao kết hợp với bốn khu trục hạm vừa trở về sau chuyến đi không kết quả. Tất cả các tàu gặp nhau vào lúc 2 giờ. Tôi đã sửng sốt khi nghe đài phát thanh công bố kết quả vượt mức của hai cuộc tấn công ở Trân Châu Cảng và phi trường Clark. Không thể nào ngờ được đó là sự thật hoàn toàn.
Tuy nhiên, tôi tỉnh táo ngay do sự xuất hiện của một oanh tạc cơ B24. Chiếc phi cơ bay cao khoảng 30.000 bộ và hình như đã phát
hiện các chiếc tàu của chúng tôi. Đề đốc Tanaka quyết định thi hành kế nghi binh trước khi kết hợp với hàng không mẫu hạm Ryujo, nhằm đủ ngăn ngừa oanh tạc cơ Hoa Kỳ khám phá ra sự hiện diện của hàng không mẫu hạm nầy. Chúng tôi đổi hướng 180 độ và chay với tốc độ 18 hải lý một giờ, sau đó đổi hướng 90 độ và gia tăng tốc lực lên 21 hải lý, trước khi xoay trở lại 60 độ để gặp gỡ Ryujo.
Chiếc B24 vẫn bay trên đầu, nhưng không có ý định tấn công, và cuối cùng chiếc phi cơ mất dấu các tàu của chúng tôi trước khi chúng tôi hướng về vị trí sơ khởi. Chiếc oanh tạc cơ nầy là một bí ẩn khác đối với chúng tôi. Không sao biết được nó xuất phát từ đâu và định làm gì?
Vào lúc chúng tôi trở lại phía Đông San Augustin 50 dậm, tôi và Hạm Trưởng khu trục hạm Hatsukaze nhận được lịnh mới. Theo đó, chúng tôi chay đến Legaspi để kết hợp với tuần dương hạm Nachi và Myoko luc đó đang di chuyển phía trước chúng tôi. Hàng không mẫu hạm Ryujo và hai khu trục hạm hộ tống đã hướng về Palau, và soái hạm Jintsu của đề đốc Tanaka cùng bốn chiếc khu trục hạm chạy tiếp sau.
Tôi ở trong hải phận Legaspi một tuần lễ với nhiệm vụ tuần tiểu và chống lại các tàu ngầm cũng các tàu trên mặt bieetn mang quân tăng viện của Hoa Kỳ. Không thấy gì hết, nhiệm vụ thật đáng chán, nhưng tất cả chúng tôi đều biết sự giữ gìn khu vực hậu phương nầy rất quan yếu, có tánh cách hổ trợ cho cuộc hành quân đổ bộ chánh của Nhựt ở Luzon.
Trong khi thi hành nhiệm vụ nầy, khoảng thời gian 24 tiếng đồng hồ bắt đầu từ 5 giờ 10 chiều ngày 9 tháng 12, thích thú duy nhứt của tôi là hiệu thính viên theo dõi một công điện đánh đi từ tiềm thủy đỉnh I65 báo cáo việc phát hiện hai chiến hạm Anh Quốc đáng hướng mũi về đoàn tàu chuyển quân đổ bộ của Nhựt đến Mã Lai Á. Sau đó, truyền tin của tôi chuyển đến các báo cáo tin tức về cuộc tấn công của Nhựt chống lại thiết giáp hạm Prince of Wales và tuần dương hạm Repulse của Anh. Mồ hôi đổ như tắm khi tôi đọc hết công điện này sang công điện khác liên quan đến cuộc tấn công cách tàu của tôi 1.000 dậm nầy.
Thoạt đầu cuộc tấn công đã gây cho tôi cảm giác phức tạp. Đó là cảm giác lẫn lộn kính nể và cảm phục mức độ dàn trận nhanh chóng của hải quân Anh, đồng thời tôi bổng thấy hăng hái chiến đấu và mong muốn thử sức ngay với kẻ thù. Nhưng ý nghĩ tham dự vào trận đánh diễn ra chỉ có tánh cách ước muốn thuần túy, vì tôi không thể nào rời bỏ nhiệm vụ riêng ở đây.
Khi các báo cáo sơ khởi của cuộc tấn công vào các tàu chiến Anh được gởi đi, tôi đã quan tâm rất nhiều. Lúc đó Nhựt chỉ có một khu trục hạm và hai thiết giáp hạm trong hải phận Mã Lai Á. Đó là hai chiếc Haruna và Kirishima, cả hai đều 27.500 tấn. Được đóng năm 1912 và 1913, đó là hai chiến hạm nhiều tuổi nhứt còn hoạt động trong Hải Quân Hoàng Gia. Tôi đã nghĩ hai chiếc tàu nầy không thể chịu đựng nổi bất kì một va chạm nhỏ nào với thiết giáp hạm Prince of Wales “không thể chìm” và Repulse “võ trang tận răng” của Anh Quốc.
Trận bão “công điện” từ vùng phụ cận Mã Lai Á thổi đến hổn loạn. Đề Đốc Shintaro Hashimoto (Tư Lịnh phân đội 3 khu trục hạm) báo cáo rằng các chiến hạm của ông gặp khó khăn khi chạm trán sơ khởi với các chiến hạm Anh. Tiềm thủy đỉnh I62 lúc 4 giờ 30 sáng qua báo cáo thứ 10 cho biết đã mất dấu hai chiến hạm Anh vì gặp phải mưa bão dữ dội. Sau đó, liên lạc vô tuyến dẫm chân lên nhau, và các hệ thống truyền thanh cũng nghe không rõ.
Điều đáng lấy làm lạ là lúc ấy không có một chiến hạm nào của Hoa Kỳ xuất trận để chống lại chúng tôi ở Phi Luật Tân. Hiện thời chỉ có hải quân Anh quần thảo với chúng tôi trên tất cả các hải phận trong khu vực. Bầu trời bổng nhiên quang đang vào lúc 2 giờ trưa, và chúng tôi bắt được công điện nầy: “Không có phi cơ hộ nào được nhìn thấy bay trên các tàu chiến Anh.”. Sau đó thêm nhiều công điện dồn dập cho biết diễn tiến của cuộc tấn công:
“Không đoàn 22 (Nhựt) oanh tạc thiết giáp hạm địch lúc 2 giờ 20.”
“Thiết giáp hạm địch bị trúng thủy lôi do phi cơ thả xuống lúc 2 giờ 30.”
“Thủy lôi của phi cơ trúng trực tiếp vào tuần dương hạm địch lúc 2 giờ 4, và hiện chiếc tàu này nghiêng hẳn về tả mạn.”
“Một trong năm khu trục hạm địch bốc cháy.”
“Một thiết giáp hạm địch nổ tung và chìm lúc 2 giờ 50.”
Bây giờ tôi ngơ ngác, không tin những gì đã xảy ra. Phi cơ Nhựt đã đánh chìm hai chiếc Prince of Wales và Repulse!
Tôi không bao giờ tin tưởng thành công của cuộc tấn công Trân Châu Cảng là do khả năng hoàn toàn của không quân, bởi vì lúc ấy địch quân bị đánh trong lúc bất ngờ. Trong tư cách một chuyên viên khu trục hạm, cái nhìn của tôi quá hạn hẹp. Nhưng bây giờ tôi thật sự xúc động qua chiến thắng mà tôi đang theo dõi. Tôi không ngờ khả năng của phi cơ Nhựt đã đạt đến mức ấy.
Nhưng sự cố chấp của tôi vẫn không thay đổi, ngay cả sau trận đánh ngoạn mục Mã Lai Á, với niềm tin bị lung lay chút ít của tôi. Tôi tin rằng hoạt động của phi cơ thường bị vấn đề thời tiết gây trở ngại, các tàu chiến vẫn phải giữ vai trò then chốt, bất chấp mọi thời tiết. Vì đó, trong khi tôi bắt buộc phải tin phi cơ đã đóng một vai trò quan trọng trong chiến tranh, tôi vẫn bướng bỉnh cho rằng các khu trục hạm mới thực sự giải quyết các trận đánh trên mặt biển.
Sự bướng bỉnh nầy có thể là một thái độ tốt, vì nó gây cho tôi niềm tin đặt vào các khu trục hạm, khiến tôi càng thêm cố gắng “ghi điểm chiến thắng” trong cuộc chiến Thái Bình Dương, và vẫn còn sống sót sau nhiều trận đánh dữ dội nhứt.
3
Vào ngày 15 tháng 2, Bộ Tư Lịnh Tối Cao Nhựt hài lòng về diễn tiến êm đẹp của cuộc hành quân đổ bộ ở Luzon, và xét thấy không cần thiết phải duy trì các cuộc tuần tiểu ở hải phận Legaspi nữa nên đã ra lịnh cho các tàu của chúng tôi trở về Palau. Một cuộc phản công của Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân đã bị chặn đứng vào thời gian đó.
Trong khi lấy nhiên liệu ở Palau, chúng tôi được lịnh hộ tống các tàu chuyển vận đổ bộ lên Davao.
Bảy giờ sáng ngày 17 tháng 12, một đoàn tàu chia ra làm 3 nhóm chuyển vận một trung đoàn bộ binh rời khỏi Palau. Bảy khu trục hạm và hai tuần tiểu đỉnh nhỏ giữ nhiệm vụ hộ tống. Trong chiếc tuần dương hạm Jintsu, Đề đốc Tanaka chỉ huy cuộc hành quân.
Bốn mươi lăm phút sau khi rời khỏi Palau, lúc đang đứng trên đài chỉ huy, nhân viên sonar của tôi báo cáo phát hiện một chiếc tiềm thủy đỉnh cách 2000 thước ở 90 độ hữu mạn. Sự phát hiện nầy giống như những gì đã xảy ra vào “Ngày X”. Bây giờ thì không còn sự lượng lự nào nữa. Chúng tôi tiến đến cách mục tiêu 1000 thước, gia tăng tốc độ lên 21 hải lý, thải xuống 6 trái thủy lôi nổ ngầm, đoan xoay hướng 230 độ và thả thêm sáu trái nữa. Các thủy lôi bùng nổ cách tàu 30 thước. Chúng tôi quan sát mặt nước, không có chứng cớ nào cho thấy cuộc tấn công của chúng tôi có hiệu quả. Tôi cho khu trục hạm của tôi chạy lên phải của nhóm tàu chuyển vận thứ hai và giữ vị trí hộ tống như cũ. Đoàn tàu chạy với tốc độ 10 hải lý theo hình chữ chi.
Vào lúc 1 giờ trưa cùng ngày, khu trục hạm Kuroshio chạy ở phía phải của nhóm thứ nhứt báo cáo: “Phát hiện tiềm thủy đỉnh địch quân. Phối hợp với phi cơ tuần thám, chúng tôi đã tấn công chiếc tàu với thủy lôi nổ ngầm. Một khoảng dầu rộng lớn nổi lên mặt nước. Chúng tôi xem như tiềm thủy đỉnh đã bị đánh chìm.”
Công điện nầy đã gây sự “đố kỵ” cho chúng tôi trên chiếc Amatsukaze. Tôi lặng lẽ trao công điện cho các sĩ quan của tôi xem. Họ kêu lên một cách thất vọng. Trước bình minh ngày 20 tháng 12, đoàn tàu tiến vô Vịnh Davao mà không gặp sự ngăn chặn của phi cơ hoặc chiến hạm nào của địch quân. Một cuộc hành quân đổ bộ không phải mới mẻ đối với tôi. Cách năm năm trước đây tôi đã từng nếm mùi hỏa lực của địch quân ở Thượng Hải. Trong cuộc hành quân ở Davao nầy, chúng tôi được lịnh không nổ súng, trừ phi bị thách thức. Chúng tôi muốn chiếm Davao mà khỏi phải đụng chạm và càng ít sự hủy diệt càng tốt. Hai nhóm tàu đã đổ quân một cách thành công.
Các tàu hộ tống chạy chầm chậm trong vòng hải cảng yên tỉnh và hiền hòa. Từ chiếc Amatsukaze, một trung đội của chúng tôi xuống một chiếc cano, đảm trách nhiệm vụ giải giới và bắt giữ tất cả các tàu buôn nhỏ đang đậu trong hải cảng. Nhưng khoảng vài phút sau, 200 địch quân thình lình xuất hiện trên bến tàu và xả súng bắn vào trung đội của chúng tôi đang đi trên chiếc ca nô. Một số thủy thủ bị trúng đạn.
Tôi hét: “ Các pháo khẩu tả mạn khai hỏa”. Câu này giống như tôi đã hét trong cuộc đổ bộ Thượng Hải. Một sự lập lại đần độn mà chính tôi phải rủa thầm.
Sáu khẩu trọng pháo 122 ly xoay nòng và khai hỏa. Không một quả đạn nào trúng ngay vào địch quân chỉ cách 2000 thước, nhưng họ vẫn phân tán và bỏ chạy. Chúng tôi bắn đuổi theo cho đến khi không còn thấy bóng dáng một địch quan nào.
“Ngừng bắn!” tôi ra lịnh. Nhưng một quả đạn đã bay ra khỏi nồng súng và một chiếc tàu dầu đậu cách bờ 50 thước bị trúng đạn bùng cháy.
Diễn biến cuộc hành quân nầy khác xa sư hy vọng của tôi. Tôi đã lâp lại một số lỗi lầm vụng về. Tôi không còn làm một chuyên viên khu trục hạm hàng đầu nữa, nhưng là một gã thấp trí và ngu dốt.
Lúc đó, chiếc ca nô trở về với một xác chết. Ngày hôm sau, tôi thi hành đủ lễ tống táng cho Trung Sỹ Tsuneo Horie, thủy thủ đầu tiên của tôi ngã xuống trong cuộc chiến. Chiếc tàu dầu cháy suốt ba ngày ba đêm.
Sau cuộc đổ bộ, chúng tôi bận rộn suốt cả tuần với công việc giải thoát các cư dân trong Nhựt khu vực. Rất may là chỉ có một vài người Nhựt đã bị tập trung ngay khi bắt đầu cuộc chiến.
Không lâu trước đó, các báo cáo thương vong trên một số khu trục hạm khác đã đến chúng tôi. Các khu trục hạm nầy tham dự hành quân ở đảo Wake, tỏ ra còn tồi tệ hơn những gì chúng tôi đã làm ở Davao. Vào ngày 11 tháng 12, khu trục hạm Kisaragi bị các phi cơ của hải quân Hoa Kỳ đóng ở Wake đánh chìm. Cùng ngày,
khu trục hạm Hayate, một đồng đội cảu Kisaragi, cũng bị các pháo đội phòng duyên của Hoa Kỳ triệt hạ. Làm sao mà hai chiếc tàu này lại vụng về như vậy.
(Chiếc Kisaragi, 1400 tấn đóng năm 1924 đã tham dự vào Lực Lượng Đặc Nhiệm tấn công Trân Châu Cảng, bị bốn chiến đấu cơ F4F Wildcat từ đảo Wake tấn công bằng bơm 50kg, một trong bốn quả thả trúng sườn phần nằm chìm dưới nước và nổ tung bên dưới tàu và chìm cấp kì, trước đó vài giờ chiếc Hayate, một khu trục hạm 1400 tấn đóng cùng thời với Kisaragi nhưng không cùng lớp, bị các khẩu pháo phòng duyên 127 ly của Hoa Kỳ trên đảo Wake bắn hạ, Hayate trúng 2 phát và chìm với 168 thủy thủ đoàn.)
Nhưng tôi biết còn nhiều chiến hạm khác vụng về hơn khu trục hạm Shinonome chạm phải một trái mìn và chìm ở Miri, Borneo. Báo cáo không thể xác định loại mìn mà chiếc tàu nầy chạm phải là của Nhựt hay của Hòa Lan.
Vào ngày 24 tháng 12, tôi muốn nổi khùng khi nghe tin khu trục hạm Sagiri bị một tiềm thủy đỉnh tấn công bằng thủy lôi và cũng chìm gần Borneo. Đúng là một con mèo bị một con chuột nuốt. Sau đó chúng tôi biết được chiếc tiềm thủy đỉnh đạt được chiến công này là chiếc K16 của Hòa Lan.
(Hai khu trục hạm Shinonome và Sagiri cùng lớp Fubuki, trọng tải 2000 tấn, chiếc Shinonome chạm phải mìn và chím với tất cả thủy thủ đoàn. Chiếc Sagiri bị trúng thủy lôi từ tiềm thủy đỉnh KXVI của Hòa Lan và chìm với 121 người thuộc tiềm thủy đỉnh đoàn, 120 người sống sót được khu trục hạm “đàn chị” Shirakumo cứu thoát).
Nhưng tin khu trục hạm Kuroshio thuộc phân đội của tôi đã thành công trong việc đánh chìm một tiềm thủy đỉnh của địch quân đã gây phấn khởi và gở thể diện cho chúng tôi phần nào. Nhưng ngày 23 tháng 12, chiếc tàu nầy đã “ngủ quên” và bị một chiếc phi cơ xuất hiện thình lình tấn công. Rõ ràng Kuroshio không tin là có phi cơ Đồng Minh hoạt động quanh quẩn khu vực. Chiếc phi cơ, một pháo đài B17, xà xuống dội một loạt bom, và một trong những trái bom đã trung ngay chiếc tàu gây nhiều thương vong.
Câu chuyện nầy không được tiết lộ ra ngoài, nó đã bị chôn vùi hẳn giữa những chiến công ngoạn mục của Nhật Bản được quảng bá rộng rãi vào thời gian ấy. Nghe được các tin tức nầy tôi càng thêm rầu rĩ. Người thường nói chiến tranh là một loạt những sai lầm, nhưng những sai lầm của Nhật Bản không thể nào chấp nhận được. Những thiệt hại như thế đã khiến tôi giận dữ tột độ, và tên Hạm Trưởng do dự, đắn đo một tháng trước đây không còn trong tôi nữa. Tôi trở thành một người mới, hung tợn và dứt khoát.
Sự sai lầm của chúng tôi cứ tiếp tục trong suốt tháng ngày đầu của cuộc chiến. Một việc xảy ra vào ngày 4 tháng 1 năm 1942 khiến tôi điên tiết. Vào ngày đó, 14 chiến hạm quan trọng, bao gồm hầu hết lực lượng trên biển của Nhật nằm trong khu vực, đậu ở hải cảng nhỏ Malalag trên bờ Tây Vịnh Davao. Hải khẩu thật nhỏ hẹp và Đề Đốc Tư Lịnh đã ra lịnh đóng lại bằng một màn lưới chống tiềm thủy đỉnh.
Lúc đang dùng bữa trưa, tôi nghe tiếng la của thủy thủ canh gác: “Phi cơ tấn công!”. Chúng tôi nhìn lên trời và thấy 9 oanh tạc cơ 4 máy đang bay trên cao độ 30.000 bộ. Chúng tôi biết đây là loại B17, các pháo đài bay, bởi thời gian đó Nhật chỉ có loại “tàu bay” Kawanishi bốn máy.
Sĩ quan và thủy thủ chạy ùa vào vị trí chiến đấu. Nhưng mà chay vào vị trí chiến đấu để làm gì? Chúng tôi bó tay trước hải hải khẩu nhỏ bé đã bị đóng kín. Chúng tôi không thể làm gì khác hơn là đứng nhìn. Các khẩu súng của chúng tôi không thể nào chạm tới các pháo đài bay đó, và lúc đó cũng không có chiến đấu cơ nào của Nhật cất cánh nghinh chiến.
Tôi khoanh tay nhìn những quả bom được trút xuống. Rất may là các oanh tạc cơ Hoa Kỳ, hiển nhiên là mới đến Java, không mang theo bom hạng nặng và nhắm mục tiêu không chính xác. Một quả bom 250 cân Anh trúng thẳng vào tháp súng thứ hai của tuần dương hạm Myoko đậu chính giữa hải cảng, gây cho hơn 20 người chết và 40 người khác bị thương. Mảnh của quả bom này văng qua chiếc tàu chở thủy phi cơ Chitose đậu cách đó 500 thước và phá hủy 5 phi
cơ trên sàn tàu. Không một phi cơ nào của Nhật cất cánh để truy đuổi các oanh tạc cơ địch.
Khu trục hạm Amatsukaze của tôi đậu cạnh bãi biển và không thể nhấc một tấc nào để tránh các quả bom rơi xuống. Chúng tôi đã thoát được nhờ may mắn. Tôi chưa bao giờ cảm thấy buồn rầu hơn ngày hôm đó, khi dõi theo tuần dương hạm Myoko, một đồng đội của tôi từ ngày X (tức ngày phát động cuộc hành quân), “khập khểnh” rời khỏi Vịnh Davao trên đường trở về Nhật để sửa chửa.
Chúng tôi không thể nào chấp nhận được loại ngu xuẩn nầy.
(Tuần Dương Hạm hạng nặng Myoko, trọng tải 13.300 tấn, dài 204 m và có thể đạt tốc độ 36 hải lý (67km/h), đóng tháng 10 năm 1924 và hoàn tất vào tháng 7 năm 1931, trang bị 10 pháo khẩu 203 ly, hỏa lực mạnh nhất của một tuần dương hạm vào thời đó, đây là chiếc đầu tiên của class nầy, ba chiếc được hoàn tất sau đó là Nachi, Ashigara và Haguro. Chiến hạm nầy tham gia tất cả các trận đánh lớn trên Thái Bình Dương và sống sót sau cuộc chiến. Ngày 21 tháng 9 năm 1945, Myoko đầu hàng quân Anh ở Singapore và đến ngày 7 tháng 6 năm 1946 nó bị quân Anh đánh đắm hủy tàu ở eo biển Malacca.
Số phận của tàu chở thủy phi cơ Chitose, nguyên là một tàu chở thủy phi cơ được hạ thủy vào năm 1936, nó được cải biến thành một tàu sân bay hạng nhẹ vào năm 1943. Nó bị đánh đắm trong Trận chiến vịnh Leyte vào ngày 25 tháng 10 năm 1944 khi tham gia chiến dịch Sho ichi Go, Chitose nằm trong lực lượng “chim mồi” do Đô Đốc Ozawa chỉ huy, Chitose bị đánh chìm bởi ngư lôi trong đợt tấn công thứ nhất của Lực lượng Đặc nhiệm TF 38 do máy bay cất cánh từ tàu sân bay Essex ngoài khơi mũi Engano. Ngoài ra còn một chiếc tàu nữa cũng mang tên Chitose nhưng là tuần dương hạm. )
Tin nầy thật đáng buồn. Vợ tôi thuộc gia đình lương thiện, tôi chắc nàng không quen với “cái loại” nầy. Để giải buồn tôi uống liên tiếp nhiều ly sa kê.
"""