"Vua Gia Long - Marcel Gaultier full mobi pdf epub azw3 [Danh Nhân] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vua Gia Long - Marcel Gaultier full mobi pdf epub azw3 [Danh Nhân] Ebooks Nhóm Zalo Vua Gia Long Tác giả: Marcel Gaultier Dịch giả: Đỗ Hữu Thạnh Thể loại: Biên khảo Số trang: 212 Kích thước: 16x24 cm Phát hành: Omega+ Năm xuất bản: 03/2020 Nội dung Cuốn sách là công trình biên khảo bằng tiếng Pháp của Marcel Gaultier được xuất bản lần đầu tại Sài Gòn vào năm 1933. Marcel Gaultier (1900-1960) là nhà văn đồng thời là biên tập viên cho Ban Dân sự của Đông Dương. Ông để lại cho đời hơn mười tác phẩm, trong đó có ba tiểu thuyết, còn lại là hồi ký và những nghiên cứu sử học về các vị vua triều Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng và Hàm Nghi. Trong số đó, Gia-Long (Vua Gia Long, 1933) là tác phẩm đầu tay về nghiên cứu sử học với đề tựa của Pierre Pasquier, Toàn quyền Đông Dương. Đây là công trình viết về Gia Long - Nguyễn Ánh, vị vua đầu tiên cũng là người mở ra vương triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, cũng đồng thời là một nhân vật tạo nên nhiều tranh luận, đánh giá. Trong tác phẩm nghiên cứu đầu tay Gia-Long, Marcel Gaultier mong muốn trình bày toàn cảnh lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc mãi cho đến năm 1802 - thời điểm Việt Nam được thống nhất sau bao nhiêu năm chia rẽ, chiến tranh, sau đó là giai đoạn xây dựng và hàn gắn đất nước trong truyền thống Á châu, khép lại với những quan hệ phương Tây vốn đã hình thành từ nhiều năm trước đó. Tác phẩm cho chúng ta những thông tin về những sự kiện lịch sử trong nước và nhất là ngoài nước vào những thế kỷ XVII, XVIII hoặc XIX. Độc giả trong nước hiểu được cái nhìn từ bên ngoài về tình hình Việt Nam, những nỗ lực tiếp cận và những nhận định không hẳn chính xác nhưng đã góp phần làm nền tảng tư tưởng cho những cuộc can thiệp về sau của phương Tây trên nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam. E-book này được thực hiện trên tinh thần thiện nguyện, phi lợi nhuận và phục vụ cộng đồng người đọc chưa có điều kiện mua sách giấy. TVE-4U CÙNG ĐỌC - CÙNG CHIA SẺ! Dành tặng ông Pierre Pasquier. Lời giới thiệu Chữ “duyên” với công trình biên khảo lịch sử Vua Gia Long của Marcel Gaultier Công trình biên khảo Gia-Long (Vua Gia Long) viết bằng tiếng Pháp của Marcel Gaultier xuất bản tại Saigon vào năm 1933, đến nay cũng đã 86 năm trời, nó vẫn hiện diện đâu đó trong lớp bụi thời gian, rồi tình cờ đến với thầy giáo dạy Pháp văn Đỗ Hữu Thạnh, người từng tu nghiệp dạy tiếng Pháp ở Pháp quốc. Ông đọc và cảm thấy hứng thú về một nhân vật lịch sử nổi tiếng mở đầu cho triều Nguyễn, nên bỏ công ròng rã mấy tháng trời chú tâm dịch, mong nó có cơ hội ra mắt bạn đọc vào dịp 200 năm ngày mất của vua Gia Long. Dịch giả đã cẩn trọng, tỉ mỉ, tận tâm, và nỗ lực lớn trong việc chuyển ngữ một công trình nghiên cứu lịch sử Việt vốn khó dưới (thiếu trang 15 trong bản sách in???) Riêng về công trình sử học, ông tìm thấy hứng thú về các nhân vật lịch sử đứng đầu triều Nguyễn. Hai công trình đặc biệt ông dành viết về hai vị vua mở đầu triều Nguyễn là Vua Gia Long (1933) và Vua Minh Mạng (1935). Riêng cuốn sau được giải thưởng Therouanne của Viện Hàn lâm Pháp trao cho công trình sử học hay vào năm 1937. Hai công trình biên khảo cuối ông dành cho nhà vua yêu nước Hàm Nghi, xuất bản vào năm 1940 và 1959. Vua Gia Long được ông viết năm 32 tuổi, sau hơn mười năm đến Việt Nam làm viên chức biên tập ở Nha Dân sự vụ, dành tặng Toàn quyền Pierre Pasquier. Lời đề tặng này như một ngụ ý bóng gió về việc vua Bảo Đại hồi loan sau mười năm học tại Trường Khoa học Chính trị ở Paris, đang muốn canh tân nội các theo mô hình phương Tây trong sự hợp tác cùng vị Toàn quyền Đông Dương Pasquier vốn có quan hệ thân tình với vua Khải Định. Công trình Vua Gia Long có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, Gaultier viết về nhân vật lịch sử Việt, dưới nhãn quan người Pháp/phương Tây với cái nhìn kẻ khác, cái nhìn bên ngoài, so với cái nhìn bên trong của sử Việt do người Việt trong nước viết, với hệ thống tư liệu bằng tiếng Pháp, phần đông do người Pháp viết, đặc biệt là kho tư liệu với các thư từ, hồi ký, tường thuật của các giáo sĩ Hội Thừa sai Hải ngoại Paris do linh mục Cadière tập hợp, sưu tuyển. Lối biên khảo sử của ông chịu ảnh hưởng từ lối biên khảo sử của Pháp, một mặt chú ý tính khách quan, xác thực, với sự tôn trọng các sự kiện, nhân vật lịch sử, và các nguồn dẫn liệu khá xác đáng; mặt khác, bên cạnh tính độc đáo là góc nhìn khá chủ quan của tác giả trong chọn lựa sử liệu, các vấn đề luận bàn, trong các khái quát, suy diễn, đánh giá. Ông thường nhìn sử Việt trong mối quan hệ rộng lớn của bình diện quốc tế với những ván cờ tranh đoạt của thế lực thương mãi và thực dân của các nước Âu châu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan giành thị trường buôn bán và giành thuộc địa đối với các nước Á châu và đặc biệt với mối quan hệ của các sự kiện, nhân vật lịch sử Pháp. Thứ hai, công trình biên khảo về vua Gia Long chịu ít nhiều tư duy của lối viết sử thuộc địa đề cao vai trò của người Pháp, nhất là vai trò cố vấn của Giám mục Bá Đa Lộc cũng như ảnh hưởng quyết định của nhóm sĩ quan, binh lính Pháp giúp vua Gia Long tổ chức quân đội và khí tài theo kiểu phương Tây chống Tây Sơn và xem đó như là nhân tố quyết định thắng lợi. Mặt khác, qua sự hợp tác có hiệu quả giữa giám mục này và vua Gia Long, hình như Gaultier đề cao tư tưởng “Pháp - Việt đề huề”, hợp tác cùng tiến bộ, chủ yếu dưới sự bảo trợ, cố vấn của Pháp trong thời kỳ thuộc địa. Gaultier cũng đánh giá tính hai mặt của vua Gia Long trong việc hợp tác, sử dụng người Pháp; một mặt rất thân tình biết ơn, trọng dụng; mặt khác, luôn cảnh giác, nghi ngại những mưu đồ của họ. Thứ ba, do có một nhân vật chính người Pháp là giám mục Thiên Chúa giáo với ý đồ và tham vọng truyền đạo, hơn thế nữa, các tư liệu đa phần là của các giáo sĩ nên nhãn quan Thiên Chúa giáo chi phối ít nhiều trong lăng kính sử gia này, dù có khi ông rất sáng suốt trong vấn đề đối thoại tôn giáo giữa phương Tây và phương Đông, nhất là vấn đề thờ cúng tổ tiên và các đạo giáo truyền thống. Thứ tư, những mảng lịch sử thu gọn của đất nước Champa và Cao Miên được khảm rất khéo trong mối quan hệ của cuộc Nam tiến nhà Nguyễn được tác giả viết ở Chương I và Chương IV. Thứ năm, cái nhìn so sánh và đối chiếu giữa hai mô hình quản lý đất nước theo kiểu phương Tây và mô hình quản lý theo kiểu truyền thống phương Đông, điển hình theo kiểu Trung Quốc, luôn chi phối ít nhiều trong việc đánh giá các sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử, nhất là việc vua Gia Long chọn mô hình nào, và chọn người kế vị là Hoàng tử Đởm (hay Đảm) mà không chọn hậu duệ của Đông cung thế tử Cảnh. Sự so sánh này cũng ngấm ngầm trong lúc miêu tả, phân tích luật Gia Long của tác giả. Thứ sáu, trong diễn ngôn lịch sử và tự sự lịch sử, Marcel Gaultier sử dụng chính là người tường thuật hàm ẩn khách quan ngôi thứ ba, nhưng kết hợp rải rác với người tường thuật nhân chứng ở các thư từ xưng “chúng tôi”, hoặc “tôi” với sự đa dạng các điểm nhìn tường thuật, khi thì thông qua lăng kính của Giám mục Bá Đa Lộc, khi thì thông qua các lăng kính của giới chính trị và quân sự Pháp, khi thì thông qua lăng kính chứng nhân của các vị linh mục, các thông ngôn, và đặc biệt thông qua lăng kính Nguyễn vương và lăng kính dư luận của các văn thân và võ quan Việt. Các lăng kính này như đối thoại lẫn nhau, tạo ra tính đa thanh nhiều chiều cho công trình sử học Vua Gia Long. Bên cạnh đó, những bình luận khá sắc sảo của tác giả về Giám mục Bá Đa Lộc, về Hoàng tử Cảnh, về vua Gia Long, và vua Minh Mạng sau này tạo thêm một nét nhấn khá đặc sắc cho tập biên khảo lịch sử này. Thứ bảy, về cấu trúc, cuốn biên khảo được tổ chức thành bốn chương. Chương I là chương khái quát về một lịch sử Việt Nam thu gọn trong mối quan hệ với Trung Quốc, Champa, các thương gia và giáo sĩ phương Tây, sự truyền giáo và sự bách hại họ ở cả xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài vì xung đột tôn giáo và xung đột văn hóa, và các xung đột chính trị bên trong, Trịnh - Nguyễn, cuộc nổi dậy của Tây Sơn... là chương viết thú vị thể hiện rõ cái nhìn viết sử bên ngoài. Chương II và Chương III, tác giả tường thuật song song vai trò và truyện kể hai nhân vật Bá Đa Lộc và Nguyễn vương trong sự vận động của cuộc chiến với Tây Sơn và chính trường Pháp (nhất là ở Chương II). Chương IV là việc lên ngôi của vua Gia Long, âm hưởng cuối của cuộc chiến và việc cai trị, tổ chức bộ máy hành chính, luật pháp, đối ngoại, lòng dân và tiên tri về sự thất bại của mô hình quản lý đất nước theo kiểu truyền thống và bế quan tỏa cảng trước làn sóng tìm kiếm thuộc địa và thương mãi, cũng như truyền đạo Thiên Chúa của phương Tây. Tóm lại, tôi nhận thấy đây là một công trình biên khảo về vua Gia Long và lịch sử Việt triều Nguyễn có những thành tựu đáng kể trong thời điểm bấy giờ, bên cạnh đó cũng có những hạn chế nhất định. Hạn chế này có lẽ do quan điểm, lối viết sử thuộc địa. Nhưng trong chừng mực tương đối, công trình biên khảo này khá hữu ích với cái nhìn về một chiều kích về vua Gia Long và triều Nguyễn, mà hiện nay đang cần được đánh giá lại, xem xét đa chiều, mang tính đối thoại giữa các lối viết sử khác nhau có nhãn quan và quan điểm khác nhau. Tôi cho rằng Vua Gia Long là một công trình khá hấp dẫn để tham khảo, vì nhà viết biên khảo sử đồng thời cũng là nhà văn, và xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc cả nước. Tôi cũng hân hạnh cám ơn dịch giả và Omega+ đã dành cho tôi niềm vinh dự được viết lời giới thiệu có phần chủ quan này. Huế. Mùa đông. Ngày 14 tháng 12 năm 2019 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Ngữ văn Bửu Nam Lời tựa Chân dung vĩ đại của hoàng đế Gia Long ngự trị từ trên cao, trong toàn bộ lịch sử đất nước An Nam1 và cho đến ngày nay2, không gì có thể làm mờ nhạt đi những đường nét hay làm giảm sút vẻ nổi bật của khuôn mặt ấy. Thời gian, vẫn thường phủ lớp màn quên lãng lên những tiếng tăm lừng lẫy, đã giữ lại mọi hào quang cho danh tiếng của người lập nên triều đại này. Vào năm 1802, sau khi giành lại Huế3, mở ra triều đại Gia Long, vị vua họ Nguyễn này mới có thể đo đếm đoạn đường đã qua, kể từ lúc cuộc nổi dậy của Tây Sơn khiến ông trở thành một ông hoàng đào tị lang thang đây đó sau những trận chiến trong vùng châu thổ Nam bộ. Hai mươi lăm năm thử thách đã trui rèn nên tâm hồn quả cảm. Tuổi trẻ sớm chín muồi trong bất hạnh, đã nếm qua mọi gian truân, đã từng biết mọi thứ ruồng rẫy. Giờ đây dòng họ, đã được khôi phục trên ngai vàng, được củng cố trong toàn bộ quyền hạn lịch sử, và rồi chỉ sau một trận chiến chóng vánh ở Bắc kỳ, cả ba kỳ cùng nói tiếng An Nam được thống nhất dưới cùng một pháp chế. Nhưng còn cần phải xây dựng lại. Là chiến binh, Gia Long đã từng biết chiến thắng; là hoàng đế, ông còn biết xây dựng. Nhiệm vụ thì bao la, nhưng không hề quá nặng với đôi vai mình, và ông sẽ tự chứng tỏ sự vĩ đại trong những công trình của thời bình như đã từng chứng tỏ trong thời chiến tranh. Lúc hãy còn rất trẻ, khi phải trốn chạy trước những kẻ nổi loạn, là ông hoàng không ngôi, vị tướng không quân đội, số phận may mắn đã khiến ông trên đường gặp được Giám mục Adran3. Cuộc gặp gỡ này đã quyết định những số phận long đong của đất nước. Quả vậy, dẫu quá gắn bó với đạo lý của truyền thống Trung Hoa xưa cũ, An Nam không thể lâu dài đứng bên ngoài những trào lưu lớn của nền văn minh Âu châu đã mang lại cho đất nước này, với tư tưởng phương Tây, một sức mạnh mới. Rằng một thủ lĩnh Á Đông, từ thời buổi ấy, đã ý thức được tính định mệnh của lịch sử, ắt không phải là một tài năng tầm thường. Ngoài ra, một khuynh hướng hỗ tương đã thu hút người này đến với người kia, nhà vua tương lai và Pigneau de Béhaine. Những mối dây bằng hữu chẳng bao lâu đã nối kết hai con người lại với nhau và chính khi đó, sự hợp tác hiệu quả trước kia giữa Pháp - An Nam đã gặp phải thử thách đầu tiên. Ai lại không bị thu hút bởi vẻ huy hoàng của triều đại hoành tráng ấy? Ông Marcel Gaultier là một trong số những người đã bị chinh phục bởi sức cuốn hút mạnh mẽ đó. Miệt mài trên những trang biên niên sử của vương quốc, ông ấy cũng muốn mang lại sự đóng góp cá nhân vào lịch sử của triều đại. Đây quả là một ý định mang tính táo bạo sau những nghiên cứu lớn lao được coi là những tác phẩm hoàn chỉnh về hoàng đế Gia Long. Chỉ còn biết ngợi khen tác giả hơn nữa khi đã dám làm và đã thành công. Quả tình, công trình này không có ý định mang lại một tia sáng mới mẻ về một thời kỳ mà những giai đoạn khác nhau đều đã được phân tích với tất cả sự nghiêm túc của nền khoa học hiện đại, nhưng ở đây ta có thể theo dõi trong một sự trình bày rất rõ ràng và rất độc đáo diễn tiến của những sự kiện tiếp nối nhau ở đất An Nam từ năm 1775 đến năm 1820. Nhân vì Marcel Gaultier muốn mến tặng tôi tác phẩm của ông, tôi xin được phép, để kết thúc, trình bày một lời chúc. Với tất cả tấm lòng, tôi mong rằng độc giả An Nam sẽ xem cuốn sách này như một món quà thành kính của tình thân hữu Pháp quốc dâng lên trước bia mộ của Đại Hoàng đế. Hà Nội, ngày 31 tháng 12 năm 1932 Pierre Pasquier Toàn quyền Đông Dương Cùng bạn đọc Marcel Gaultier (1900-1960) là nhà văn đồng thời là biên tập viên cho Ban Dân sự của Đông Dương. Ông để lại cho đời hơn mười tác phẩm, trong đó có ba tiểu thuyết, còn lại là hồi kí và những nghiên cứu sử học về các vị vua triều Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng và Hàm Nghi. Trong số đó, Gia-Long (Vua Gia Long, 1933) là tác phẩm đầu tay về nghiên cứu sử học với đề tựa của Pierre Pasquier, Toàn quyền Đông Dương. Tiếp theo là cuốn Minh-Mang (Vua Minh Mạng, 1935) và Le Roi proscrit: [l’Empereur d’Annam Hàm Nghi] (Nhà vua bị lưu đày: [Hoàng đế An Nam Hàm Nghi], 1940). Cuối cùng là L’Étrange aventure de Ham-Nghi, empereur d’Annam (Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Hàm Nghi, hoàng đế An Nam, 1959) với đề tựa của tướng Castroux, đây là tác phẩm cuối cùng của Marcel Gaultier, ông qua đời vào năm 1960. Trong tác phẩm nghiên cứu đầu tay Gia-Long, Marcel Gaultier mong muốn trình bày toàn cảnh lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc mãi cho đến năm 1802 - thời điểm Việt Nam được thống nhất sau bao nhiêu năm chia rẽ, chiến tranh, sau đó là giai đoạn xây dựng và hàn gắn đất nước trong truyền thống Á châu, khép lại với những quan hệ phương Tây vốn đã hình thành từ nhiều năm trước đó. Tác phẩm cho chúng ta những thông tin về những sự kiện lịch sử trong nước và nhất là ngoài nước vào những thế kỷ XVII, XVIII hoặc XIX. Độc giả trong nước hiểu được cái nhìn từ bên ngoài về tình hình Việt Nam, những nỗ lực tiếp cận và những nhận định không hẳn chính xác nhưng đã góp phần làm nền tảng tư tưởng cho những cuộc can thiệp về sau của phương Tây trên nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Trong Chương I của cuốn sách này, Marcel Gaultier dành vài mươi trang đầu để mô tả rất khái quát bối cảnh lịch sử châu Á vây quanh nước Trung Hoa và mối quan hệ xã hội, lịch sử chằng chịt, khá xa lạ đối với cách nhìn từ phương Tây, từ đó hình thành đất nước và lịch sử của nước Việt. Và vì đây chỉ là một cái nhìn rất thoáng qua, không tránh khỏi những thiếu sót và nhầm lẫn của tác giả. Vì tôn trọng nguyên tác, chúng tôi dịch nguyên nội dung chính văn; trừ vài trường hợp riêng về các tên gọi bằng tiếng Việt, có thể vì tác giả ghi nhầm hoặc do lỗi in ấn, chúng tôi xin mạn phép điều chỉnh cho đúng. Ngoài ra, để tiện cho bạn đọc theo dõi, chúng tôi có tra cứu từ nhiều nguồn tài liệu để bổ sung một số cước chú ở cuối trang sách. Trân trọng, BAN BIÊN TẬP Alexandre de Rhodes (1593-1660) “Tôi không hiểu vì sao vương quốc rất đỗi tươi đẹp này lại không được các nhà địa lý châu Âu, những người tự cho mình là thông thái biết tới, họ thậm chí không biết đến tên gọi của xứ này và hầu như chưa bao giờ nhắc đến nó trên tất cả các bản đồ; họ luôn nhầm lẫn nó với những nước lân bang và thường chỉ nói về đất nước này bằng những lời dối trá khiến cho những ai đã từng đặt chân đến đây phải phì cười”. A. de Rhodes Chương I - Bá quyền Trung Hoa - Lịch sử An Nam dưới thời những vị vua đầu tiên - Họ Trịnh và họ Nguyễn - Những giáo sĩ truyền giáo đầu tiên - Những thương gia châu Âu đầu tiên - Vương quốc Chàm - Những bức hại tôn giáo đầu tiên - Pigneau de Béhaine - Giám mục Adran (Bá Đa Lộc) - Cuộc nổi dậy của Tây Sơn - Cái chết của chúa Duệ Tông - Cái chết của vua Lê Hiển Tông - Họ Trịnh bị tiêu diệt - Anh em Tây Sơn chia nhau đất vương quốc Nếu không truy nguyên đến thời kỳ cổ đại, bản sắc An Nam có thể coi là hình thành dựa trên một chuỗi liên tục của những mối quan hệ quốc tế có tính chất lan tỏa, phức tạp, minh chứng cho một vận mệnh mạnh mẽ và sóng gió. Bản sắc ấy từng bộc lộ vào những thời kỳ huyền sử của những vị chúa tể trong truyền thuyết, nó mang tính chất vừa tổng hợp vừa đặc thù của nòi giống, nó thoát thai và lớn lên từ giai đoạn hỗn mang, thời kỳ mà trong suốt nhiều thế kỷ, số phận của các dân tộc châu Á không ngừng xáo động. Quốc sử An Nam là một mối rối rắm phức tạp của những cuộc tranh chấp cá nhân hay triều đại, một mớ hỗn độn của những cuộc lật đổ, của những cuộc nội chiến đã thường xuyên nhuộm máu đất nước nhưng không vì thế làm chậm bước sự biến chuyển rộn ràng của nó. Nhưng những lỗi lầm của các vị quân vương, tham vọng của một số gia tộc, sự náo loạn thảng hoặc trong hàng ngũ quan lại đã làm sự phát triển sôi sục của quốc gia trẻ trung này trong suốt nhiều thế kỷ phải phụ thuộc vào bá quyền bất di bất dịch của đế quốc Trung Hoa. Toàn bộ châu Á thừa nhận bá quyền của Trung Hoa và tìm sự che chở nơi một triều đại gần như được thần thánh hóa, do một chủng tộc mắn đẻ và phong nhiêu nâng đỡ5. Ngay cả trong số những quốc vương có thể thoát khỏi mọi lệ thuộc chư hầu, do một thói quen tôn kính, cũng thừa nhận quyền uy bá chủ hiển nhiên của hoàng đế Trung Hoa. Quyền bá chủ ấy thông thường không bao hàm những ưu thế chính trị, nó thể hiện qua những cuộc trao đổi sứ giả, những trao đổi tặng phẩm có tính tượng trưng và những tổ chức lễ nghi định kỳ. Người Á châu, là mẫu người hình thức chủ nghĩa cực đoan, lưu tâm đến sự tôn trọng các ngôi thứ, sự bất khả xâm phạm các tôn ti đẳng cấp, hơn là các lợi thế vật chất cụ thể. Thiên tử chiến đấu nhằm duy trì những nghi thức lễ lạt hơn là nhằm xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia lân bang, bởi lẽ lòng kiêu hãnh của Thiên tử tìm thấy nhu cầu thỏa đáng trong sự bền vững của những lễ nghi ngoại giao. Thiên tử được ví như một Người Cha Bảo Vệ những dân tộc biết kính nể sức mạnh đồng thời vừa căm ghét cái quyền lực bền vững ấy của Người Bảo Vệ. Điều mà hoàng đế yêu cầu là sự thừa nhận vai trò ưu việt của hoàng đế. Không mấy quan trọng khi có một vị vua nào đó dấn thân vào những thách thức lăng nhục, miễn là ở các nước lân bang quyền hành tối thượng phải xuất phát từ ý chí của riêng Người, miễn là quyền hạn của Người được đều đặn thừa nhận bởi những sứ bộ nịnh hót. Quan niệm riêng biệt này, đặc biệt trong tinh thần châu Á, giải thích tại sao truyền thống Trung Hoa đã áp đặt, trong rất nhiều thế kỷ, lên các quốc gia lân cận, lên ngay cả những quốc gia có thể tự giải phóng khỏi ảnh hưởng ấy một cách khá dễ dàng. Các vị vua An Nam luôn luôn chấp nhận và thỉnh cầu ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn, sắc phong từ hoàng đế Trung Hoa. Nhưng họ lại cư xử như những quốc vương độc lập lúc sắc phong ấy bị từ chối, mà không phải lúc nào Trung Hoa cũng áp đặt được. Không một lợi thế vật chất nào được đòi hỏi cho mối liên hệ ngoại giao tượng trưng ấy, và các vị vua An Nam, mà vai trò chư hầu phụ thuộc xa xôi không cản trở chút nào việc thực hiện quyền hành tuyệt đối của họ, kháng nghị gay gắt khi có mối nguy hiểm đe dọa lên họ. Ngược lại, các vị vua ấy không ngần ngại cầm vũ khí chống lại vị hoàng đế bá quyền nhu nhược, không phải để rũ bỏ một sự bảo trợ quá sơ sài, nhưng vì những lý do mà chỉ những vị quốc vương độc lập mới có thể viện dẫn. Chế độ bảo hộ nối kết hai quốc gia trước hết là một vấn đề về lòng kiêu hãnh của quốc gia này, và là vấn đề quyền lợi đối với quốc gia kia. Nó chỉ bắt buộc, một trong hai đối tác ký kết, với tư cách của Người Bảo Hộ, phải chịu những hy sinh liên tục. Sự nhẫn nhịn ấy chỉ được quan niệm bằng sự xác thực về một sứ mạng cao cả đến với Trung Hoa từ cái ngôi vị bề trên và những nguyên tắc linh thiêng mà đất nước này sở hữu. Trung Hoa tự cho có trách nhiệm làm người bảo trợ đạo lý cho mọi dân tộc da vàng, nơi mà Trung Hoa nắm giữ ưu thế trí tuệ nhờ vào sự truyền bá văn hóa, và vai trò trung gian của các triết gia và những nhà thông thái được đào tạo từ những trường phái Đạo giáo hay Khổng học. Ý tưởng có cùng chung một nguồn gốc chủng tộc ở những người da vàng mạnh mẽ đến nỗi tất cả các vị vua Đông Á đều tìm ở quốc gia bá chủ một điểm tựa và một sự hòa hợp nhưng thường phải kèm theo những trách nhiệm ràng buộc đôi bên. Đại đế quốc thực hiện sự bảo trợ vô vị lợi đối với các tiểu quốc không có khả năng tự vệ chống lại những âm mưu từ bên ngoài. Chính nhờ vào tinh thần rộng rãi ấy mà các quốc vương láng giềng được tấn phong, không phải chịu một quy chế đền bù nào cả. Tình trạng lý tưởng này đã có lúc thoái hóa thành những thực tế đáng phàn nàn lúc quan niệm chính thống trên lẫn lộn với những ý đồ cá nhân của những ông vua chuyên chế nhiều tham vọng. Nhưng nguyên tắc cơ bản của chính sách Trung Hoa này đã không hề thay đổi trong suốt nhiều thế kỷ, mặc dầu có sự thay đổi triều đại, mặc dầu có cuộc biến động vĩ đại của người Mông Cổ, mặc dầu có sự vong ơn của những dân tộc được bảo vệ đã buộc Trung Hoa nhiều lúc phải dấy động binh đao. Hầu hết các tiểu quốc chư hầu chung quanh nước An Nam cũng đều tuân phục tinh thần liên đới ấy, nhưng khi họ càng co rút trong những kỷ niệm về sự lớn mạnh của mình, thì đặc tính hỗ trợ truyền thống lại càng mất dần sự trong sáng thuần túy của một chính sách vô vị lợi thuở ban đầu. Nhà nước bảo hộ sẽ bị thúc đẩy vào những tham vọng chiếm hữu lãnh thổ dễ dàng do sự yếu đuối của chính các quốc gia chư hầu. Nhà nước bảo hộ dần dà thâu tóm đất đai mà không gặp sự chống đối của các thủ lĩnh lãnh địa, ở họ sự bất lực đã ru ngủ những luyến tiếc về một cá tính vốn dĩ đã tầm thường. An Nam cư xử với các thị tộc ấy bằng quyền uy của đấng quân vương mà Trung Hoa không thể can thiệp vào các quan hệ qua về của họ. Điều ghi nhận một cách ấn tượng hơn về tính cách độc lập toàn diện của các quốc vương An Nam, đó là những cuộc xung đột liên tục buộc họ phải đương đầu với đế quốc Trung Hoa. Nếu có một hiệp ước nghiêm túc giữa hai quốc gia, thì những điều khoản trong hiệp ước ấy phải tránh né mọi khả năng xung đột. Và thay vì bước vào một cuộc đấu tranh công khai, hoàng đế Trung Hoa ưu tiên chọn cách khiến người ta tôn trọng các hiệp ước đã thực hiện hoặc tìm cách canh cải chúng đi. Thật đáng ngạc nhiên cho một chính sách bảo hộ hèn yếu như thế lại kéo dài được hàng thế kỷ bất chấp những xáo trộn của cả lục địa, bất chấp những khổ đau không tránh khỏi của phận người. Ta chỉ có thể tìm ra lý do tồn tại của một quá trình liên tục như thế dựa vào những nguyên lý đạo đức triết lý riêng biệt cho bản chất huyền bí của các dân tộc da vàng. * * * Lịch sử An Nam thực sự bắt đầu với triều đại nhà Thục kể từ năm 275 trước Thiên Chúa Giáng sinh6. Vị vua đầu tiên của dòng họ này vốn có tổ tiên gốc người Quảng Tây, khởi sự thiết lập mối quan hệ ngoại giao với Trung Hoa và mối quan hệ đó mau chóng được làm rõ nét bởi việc thừa nhận tính ưu việt của đất nước Trung Hoa. Triều đình Nam Việt7 chịu khuất phục vì cần thiết tỏ thái độ tôn kính mà từ đó triều đình gặt hái được nhiều kết quả. Triều đình Nam Việt đẩy những tướng sĩ Trung Hoa đi bảo vệ biên giới lãnh thổ của mình, đồng thời hết sức cảnh giác không để vương quốc của họ, dưới sức ép của Trung Hoa, bị biến thành chư hầu thực sự, và cũng như không để Nam Việt, trong suốt nhiều thế kỷ phải chịu những bó buộc nô lệ. Vua Ai vương8, vốn có quan hệ gia tộc gốc Trung Hoa, muốn chiều lòng người láng giềng vĩ đại, đã chấp nhận đến triều kiến hoàng đế Trung Hoa với thân phận chư hầu. Lúc trở về nước, nhà vua đối diện với sự nổi dậy của dân chúng. Thành phần ái quốc của triều đình gửi một đạo quân do tướng Lữ Gia9 chỉ huy, tấn công, bắt giữ và xử tử nhà vua. Lần đầu tiên trong lịch sử, An Nam tuyên bố độc lập (năm 111 trước Thiên Chúa)10. Hoàng đế Trung Hoa coi đó là sự xúc phạm đến tôn nghiêm của vương triều, mà quyền phong hầu là một thí dụ, đã gửi quân đội xâm lăng vương quốc, tàn phá đất nước và chia cắt thành quận huyện Trung Hoa. Vương triều An Nam thế là tiêu tán trong loạn ly11. Nhưng ý thức cực kỳ nồng nhiệt về nền độc lập mà quần chúng vẫn gìn giữ, bất chấp những biện pháp khắc nghiệt của chính sách đồng hóa do kẻ thắng trận áp đặt, ký ức oai hùng của dân tộc vẫn được duy trì trong những túp lều xơ xác nhất bởi những thi sĩ khiêm tốn mà ảnh hưởng tạo ra rất to lớn, đã mang đến một phản kháng cực kỳ mãnh liệt, thúc đẩy cả đất nước chống lại kẻ xâm lăng (năm 41 sau Thiên Chúa). “Mùa xuân, vào tháng Hai năm Kiến võ thứ mười sáu (năm 42 sau Thiên Chúa), biên niên sử triều đình Huế ghi lại, một phụ nữ người Giao Chỉ tên là Trưng Trắc đã dấy quân đánh đuổi Thái thú Tô Định và tự xưng là Nữ vương”. Trưng Trắc và em gái tụ tập quần chúng, vội vã trang bị cho những nhóm nông dân đến quy tụ theo lời hiệu triệu của hai bà, chiếm giữ sáu mươi căn cứ12, đánh đuổi thái thú Trung Hoa đến tận biên giới Sơn Tây, quét sạch kẻ áp bức ra khỏi đất nước. Hoàng đế nhà Hán bèn gửi một đạo quân do tướng Mã Viện chỉ huy sang đánh nữ vương của Việt Nam, Mã Viện từng nổi tiếng với những chiến thắng chống lại người Tây Tạng và những chiến công khi tuổi đã rất già. Mã Viện theo đường bờ biển xâm nhập vào Bắc Việt, tận Lãng Bạc (Hồ Tây, Hà Nội) thì gặp và giao chiến với quân An Nam đổ đến. Cuộc chiến diễn ra ngắn ngủi, quân Trung Hoa cắt vụn đội quân thiếu chuẩn bị của Trưng Trắc, nữ vương đành tuyệt vọng nhìn binh sĩ bỏ chạy tan tác. Hai vị nữ anh hùng bị Mã Viện bắt và bị xử tử13. Để ghi dấu chiến thắng, Mã Viện cho dựng trụ đồng14 ở cuối biên giới Nhật Nam - xứ sở của đồi núi. Mã Viện tập hợp những quan chức Trung Hoa và thiết lập lại việc thống trị hà khắc hơn bao giờ hết. Chế độ lệ thuộc này kéo dài đến năm 54615, bị ngắt quãng vào năm 186 bởi một cuộc nổi dậy bị đàn áp mau chóng16. Chính trong suốt thời kỳ ấy mà sự thống trị về tinh thần của Trung, Hoa được khẳng định. Tuy nhân dân đã mất hết tự do và lãnh tụ của họ, nhưng không mất đi cá tính dân tộc của riêng mình. Người dân chấp nhận dễ dàng triết lý, tôn giáo, nghệ thuật, tập quán của chủ nhân của họ, nhưng họ vẫn gắng sức chịu đựng cái ách chính trị mà họ sẽ vùng thoát một khi cảm thấy mình đủ sức mạnh để chiến đấu một lần nữa. Dù còn thiếu tinh thần ái quốc, nhưng họ biết đau khổ dưới sự đàn áp và luôn luyến tiếc nền độc lập. Mọi suy nghĩ, mọi hy vọng của họ đều hướng tới mục tiêu tự do mà họ còn gìn giữ kỷ niệm và tôn thờ. Họ chấp nhận từ kẻ xâm lăng nền giáo dục có khả năng nâng họ lên ngang tầm với chúng, họ học hỏi, âm thầm tiến hóa, quan sát, thu lượm, che giấu sự nôn nóng, rút tỉa những ưu thế mà họ được chấp thuận, nhưng không vì thế lòng hận thù lại giảm sút. Trong những ngôi làng hẻo lánh nhất, những cuộc họp mặt được tổ chức, người già kể cho con cháu kính cẩn ngồi xúm xít chung quanh, trong bóng tối mờ nhạt của những mái nhà tranh, câu chuyện tuyệt vời của hai vị nữ anh hùng cùng chung nòi giống, đã biết vinh quang hy sinh để giành lại từ tay người Trung Hoa những ruộng đồng màu mỡ và những cánh rừng huyền bí cho người dân. Đàn ông mạnh khỏe tập hợp với nhau vào lúc đêm xuống, trầm giọng trao nhau những lời thề dứt khoát trước sự chứng giám của thành hoàng hộ pháp. Ngay cả những phụ nữ, làm thê thiếp cho các lãnh chúa ngoại xâm, vây bọc chung quanh họ bằng một hệ thống những mánh khóe bên trong gia đình và những theo dõi bền bỉ. Không một hành vi, không một suy nghĩ nào của kẻ chiến thắng mà kẻ chiến bại, hãy đang còn khom mình trước sức mạnh để rồi mỗi khi đứng lên lại còn mềm mỏng hơn, khôn ngoan hơn, tự tin hơn, không biết đến. Các thứ sử của hoàng đế yên ngủ trong sự yên tâm ngạo nghễ, trong lúc chung quanh họ, quần chúng bàn tính với nhau và chuẩn bị vũ khí. Năm 546, đất nước đã sẵn sàng nhưng cần phải có người chỉ huy. Có hai nhân vật: Triệu Túc và Lý Bí17. Hai người này tính cách rất khác biệt nhau, lại có những phẩm chất mà quần chúng chờ đợi: can đảm, thông minh, biết lấy được lòng tin của vị phó vương18. Họ quyết định lợi dụng cơ hội thuận lợi để nhanh chóng ra tay. Sứ giả của họ chạy đi khắp nơi trong xứ, lên tận những thôn làng ở vùng mạn ngược xa xôi. Nơi ấy, trước đình làng, họ điểm danh các chiến sĩ và hẹn nơi tập trung. Trong lúc Triệu Túc, người huấn luyện, mạnh mẽ hăng hái, chuẩn bị cho chiến binh sẵn sàng chiến đấu, thì Lý Bí với khuynh hướng chính trị khôn ngoan hơn, xoa dịu sự hoài nghi bắt đầu nảy sinh ở người Trung Hoa, cung cấp những chứng cứ về lòng trung thành của mình, can thiệp vào một số gia đình mà ông ghen tị uy tín, tố cáo họ như những kẻ đáng nghi ngờ, nhận phần thưởng những ân huệ và một phẩm trật cao trong hàng quan lại. Đất nước dường như chưa bao giờ yên bình như thế cho đến khi mùa gặt hái vừa xong, thì bùng nổ một cuộc nổi dậy ghê gớm nhất, làm rung chuyển cả An Nam. Lý Bí vứt đi cái mặt nạ phải mang lâu ngày, cùng với Triệu Túc và chiến binh, tiêu diệt các đơn vị quân đội Trung Hoa chưa hề kịp có lệnh tập trung, băng qua những xóm làng như cơn bão, rượt đuổi phó vương còn chưa kịp chặn bắt, trong khi ở đằng sau, dân chúng thoát khỏi xiềng xích, chiếm lấy hoặc đốt nhà của kẻ bại trận. Đất nước thoát khỏi sự đô hộ nặng nề, bắt tay vào việc tổ chức. Lý Bí được đưa lên ngôi với lòng biết ơn của dân chúng, dựng lên triều đại quốc gia đầu tiên hoàn toàn độc lập. Lý Bí từ chối được sắc phong và cư xử ngang hàng với hoàng đế Trung Hoa. Việc này gây nên một lỗi lầm nặng nề mà về sau đất nước phải chịu nhiều thống khổ. Chắc chắn rằng từ đó, Trung Hoa đã hiểu sự vô ích khi theo đuổi một chính sách ngoại giao kiêu ngạo, thu vén một hình thức mơ hồ về quyền bá chủ đề mong cứu vãn sĩ diện - điều mà thiên triều vẫn còn rất nhạy cảm - buộc phải thừa nhận nền độc lập và duy trì mối quan hệ hữu nghị với nhà Lý. Ngược lại, Lý Bí đã cư xử với nước lân bang của mình bằng một thái độ buộc hoàng đế Trung Hoa phải trù định những cuộc viễn chinh mới. Nhưng lo ngại sự hung bạo của những bộ tộc Mông Cổ rồi một ngày sẽ lật đổ triều đại mình, hoàng đế trì hoãn, để mặc cho Lý Bí có thời gian tổ chức quân đội, xây dựng thành trì, huấn luyện binh sĩ theo cách Trung Hoa, đóng cửa biên giới, thiết lập liên minh dầu vẫn còn mỏng manh với vương quốc Chàm. Nếu Trung Hoa quyết định tấn công, thì quân đội của họ không thể chọc thủng những phòng tuyến đầu và chỉ còn cách phải rút lui. Họ Lý, sau khi giành được độc lập cho đất nước, đã cai trị bằng một sự hà khắc dữ dội. Ông cố gắng khôi phục bản sắc nguyên thủy của dân tộc bằng cách loại trừ di sản của giai đoạn đô hộ Trung Hoa. Ông cấm dân chúng buôn bán với các chủ cũ Trung Hoa, không cho họ nói ngôn ngữ và theo các tập quán Trung Hoa; ông đuổi ra khỏi vương quốc các nghệ sĩ và kẻ trí thức đang tiếp tục duy trì nếp sống văn hóa cũ, áp đặt lên người Minh hương19 một tư cách mất thể diện, xâm phạm đến tận những cơ chế gia đình được lưu truyền qua nhiều thế kỷ bởi sự đô hộ lâu đời. Ông ra lệnh cho các làng xã tu sửa các kênh rạch đê điều, chở thóc gạo đến các kho lẫm hoàng cung, tổ chức dân quân. Dân chúng sốt ruột chịu đựng một chính sách hung bạo mà họ không hiểu được sự cần thiết và tầm vóc của nó. Họ quý mến nền tự do khốn khổ của mình cùng lúc nghĩ đến những hy sinh phải chịu đựng để có được vị chủ quản đáng sợ kia. Người dân thở phào khi được tin họ Lý qua đời. Nhưng những kẻ kế vị vai luôn theo đuổi chính sách cô lập của họ Lý, gạt đi những kiến nghị của các quan thượng thư đang lo lắng vì thái độ đáng ngờ của Trung Hoa. Triều đại nhà Lý sụp đổ trong hoàn cảnh đó. Nó chỉ kéo dài được sáu mươi năm20. Triều đình Trung Hoa lợi dụng cuộc nội chiến21 bùng nổ vào lúc ấy để đóng vai trò hòa giải và chiếm đóng bằng vũ lực các vị trí quan trọng. Nhưng Trung Hoa tránh không o ép láng giềng hà khắc như trước đây: vẫn để cho đối thủ lên ngôi, họ áp đặt vị phó vương thứ nhất một hiệp ước bảo hộ, theo đó Giao Châu vẫn được hoàn toàn tự do trong lãnh thổ của mình, có nghĩa là trên mười ba châu, phần còn lại của vương quốc gồm bốn mươi huyện thì được cai trị theo chính sách Trung Hoa và buộc phải nộp cống phẩm thường niên22. Công cuộc chiếm cứ lần này đáp ứng một nhu cầu khôi phục tinh thần hơn là một cần thiết chính trị. Hoàng đế Trung Hoa không quên những tủi nhục vào năm 54623, luôn xem Giao Châu như một quốc gia chư hầu, ông ta lợi dụng những cơ hội thuận lợi để tái lập quyền bá chủ lâu đời của mình. Sự thừa nhận địa vị tối cao xa xưa có một thời đã làm ông ta thỏa lòng, lúc mà quyền lực của ông ta có hạn, lại lo sợ các bộ tộc Mông Cổ, đối thủ của ông ta tự cho là đủ mạnh để khước từ biểu hiện lòng tôn kính mà nhà vua yêu cầu như cái giá của tình bằng hữu. Kinh nghiệm đã cho hoàng đế hiểu sự hà khắc chỉ mang lại những cuộc lật đổ mới, thế nên ông đã dùng một chính sách khéo léo: để cho kẻ thất trận được tự do chính trị, ra tay giúp đỡ họ vào những năm mất mùa, bảo vệ lúc họ bị tấn công... và người ta có thể nói rằng trong suốt hơn ba thế kỷ, Trung Hoa đã là người bảo vệ vô vị lợi và hào hiệp của vương quốc [An Nam]. Tuy vậy, thời kỳ của những cuộc xâm lăng chưa khép lại, người Lào rồi người Chăm lần lượt nhảy bổ vào lãnh thổ, khiến quân đội thiên triều phải ra sức chiến đấu thay cho người dân được bảo vệ. Những người này chỉ bàng quan tọa khán chứ không tham gia vào cuộc chiến, nơi mà số phận của tổ quốc họ đang đặt cược. Cuối cùng, đã tận tụy đến kiệt sức, hoàng đế đành phải rút quân về. Dân Giao Châu được tướng Cao Biền, người gốc Trung Hoa, nhưng đã sống từ rất lâu tại Giao Châu và xem đất này như quê hương thật sự, giải cứu. Quân đội thiên triều rút đi, ông kêu gọi dân chúng chiến đấu bảo vệ lãnh thổ và tổ chức một cuộc chiến tranh bất ngờ, liên tục đánh tan tác quân địch, đẩy lùi chúng đến tận sông Mékong sau suốt mười năm chiến đấu kiên trì. Hòa bình được lập lại, Cao Biền xưng vương nhưng không hề xin hay nhận sắc phong. Tuy nhiên, ông vẫn giữ mối quan hệ thần phục với hoàng đế Trung Hoa. Ông bình yên trị vì cho đến năm 93924. Cao Biền mất đi, quyền lực bị họ Ngô tiếm đoạt và lên ngôi sau khi ám sát kẻ nối ngôi chính thống25. Triều đại mới này chỉ kéo dài được ba mươi năm26, nhưng Trung Hoa đang vì những cuộc xâu xé nội bộ không cách gì can thiệp vào công việc của chư hầu mình. Năm 968, mười hai sứ quân27 cầm đầu các vùng phân chia theo hiệp ước năm 61828, nổi dậy và tự xưng vương độc lập. Nhưng Đinh Bộ Lĩnh, người mưu lược nhất trong các sứ quân29, đã chiếm lấy ngôi vua sau khi nghiền nát các đối thủ khác. Những sự kiện này diễn ra khi đế quốc Trung Hoa đang rơi vào một giai đoạn hỗn loạn của lịch sử: một thảm kịch trong cung đình, rồi cuộc nổi dậy của dân chúng đã làm hoàng đế phải án binh bất động trong vài năm. Sau khi thoát khỏi những rối rắm, chính quyền Bắc Kinh gây chiến với Đinh Tiên Hoàng và sai người đầu độc chết rồi phái quân sang chiếm nước Nam30. Và như thế người dân An Nam lại một lần nữa đứng lên hăng hái chiến đấu chống xâm lăng. Dân chúng tôn Lê Hoàn lên ngôi31, người thành lập nên nhà Lê vinh quang và mang lại cho đất nước một triều đại bền vững hơn đời trước. Lê Hoàn đã đánh và bắt giữ tướng địch, khiến hoàng đế Trung Hoa phải kính nể vũ lực của họ Lê, đến mức buộc phải từ bỏ mọi dã tâm xâm lược, long trọng tuyên bố thừa nhận vương quyền và nền độc lập của đất Đại Cồ Việt (năm 982)32. Một nền tự do có được sau bao nhiêu biến cố không dễ dàng gì đưa được vào quy chế ổn định. Nước Trung Hoa nếu muốn, đã có thể duy trì ách đô hộ nặng nề lên An Nam, nhưng họ đã không tỏ ra muốn tìm cách dày xéo kẻ đối lập cứng cỏi. Dẫu sao, các hoàng đế Trung Hoa vẫn luôn luôn đeo đẳng một tiếc nuối và nếu phần lớn trong bọn họ chấp nhận một cách rộng rãi chính sách bảo hộ vô vị lợi đối với An Nam, thì cũng có những hoàng đế khác tìm cách lợi dụng những hoàn cảnh nhỏ nhặt nhất để mưu toan áp đặt lại sự thống trị quen thuộc. Kể từ giai đoạn này, tính cách của các mối quan hệ giữa hai nước thay đổi và có một giá trị ổn định dưới triều vua Lý Thái Tông33, là người mà những kẻ nổi loạn ở Quảng Đông vào năm 104334 khẩn cầu đóng vai trung gian hòa giải giữa họ và thiên triều. Từ ấy, vua Đại Việt35 chấp nhận thỉnh cầu sắc phong ở hoàng đế Trung Hoa, một thủ tục hình thức không có tầm quan trọng thực sự, vì nhà vua vẫn cư xử như một vị chúa tể, không thèm quan tâm đến một ai khác. Nhà vua cho đúc tiền, tổ chức hành chính các vùng trước đây chưa được kiểm soát, xây dựng quân đội, ký kết các liên minh và không nộp một khoản cống phẩm nào cho người láng giềng vĩ đại mà ngược lại có khi nhà vua còn giúp đỡ khi thấy có lợi. Điều chứng tỏ rằng chẳng có một mối liên hệ chính trị cũng như chẳng có một điều ước nào buộc Đại Việt phải lệ thuộc vào Trung Hoa, chính là thái độ của hoàng đế Trung Hoa vào năm 1127, trong việc chiếm cứ vô cớ một số vùng đất Đại Việt36. Không một quy ước, một hiệp định nào cho phép triều đình Trung Hoa tự áp đặt ý muốn của mình. Họ liên minh với người Lào, với vũ khí trong tay, giải quyết những phân tranh mà chính họ đã tạo ra. Bị Ly-Hou đánh bại, Trung Hoa phải thừa nhận nước chư hầu trước đây nay đã trở thành một hàng xóm đáng gờm. Vương quốc Đại Việt từ đấy được xem như một nước hùng mạnh đáng tôn trọng. Các triều đại thù nghịch với Trung Hoa đều gửi sứ giả và quà tặng đến vua Đại Việt Ly-Anh (năm 1192)37. Lý Cao Tông, con của Lý Anh Tông và những vị vua kế nghiệp trong sáu mươi năm không hề thỉnh cầu sắc phong và sự sắp đặt việc kế vị đã được thực hiện mà không có sự can thiệp của Trung Hoa. Hai nước từ đó sống trong hòa bình yên ổn cho đến khi các đạo quân Mông Cổ gieo kinh hoàng khắp nơi thì hai quốc gia mới động binh trở lại. Năm 1250, triều đại nhà Tống Trung Hoa bị Koublai-Khan38 lật đổ, vương quốc bị thống trị bởi nhà Nguyên của dòng họ người Tartare39. Ở Đại Việt, nhà Lý mất sau triều đại của một ông vua điên40 và một đứa trẻ. Quyền bính thuộc về tay họ Trần41. Tình thế trở nên bi đát từ cả hai phía biên giới. Ở Trung Hoa, nhà bạo chúa Mông Cổ cai trị bằng khủng bố, bị đe dọa bởi sự phản kháng của quần chúng từ mọi phía. Ở phương Nam, nhà Trần chưa được củng cố và nỗi lo sợ quân Mông Cổ xâm lăng làm quyền lực của nhà Trần trở nên rất mong manh. Thế nên, để triều Nguyên tôn trọng biên giới hai nước, vua Trần Thái Tông vào năm 1259, đề nghị ký lại hiệp ước42 trước đây về quyền bá chủ, đồng thời chấp nhận thêm việc triều cống cứ mỗi ba năm43. Hiệp ước này cứu vãn sự toàn vẹn của lãnh thổ vương quốc không bị mảy may xâm phạm. Nhưng nếu sự lệ thuộc của Đại Việt chỉ gồm bằng những biểu hiện tôn kính long trọng kèm theo những lễ nghi có tính tượng trưng, thì vị vua Mông Cổ tàn bạo không phải là không biết khẳng định ưu thế của mình bằng cách đè bẹp nước láng giềng với một chính sách bảo hộ sỉ nhục. Quả thật, dường như vị tân hoàng đế Trung Hoa đã không tôn trọng lâu dài những điều khoản của hiệp định 1259, vào lúc ấy còn được chấp thuận bởi lẽ ông ta đang bận thiết lập trật tự trong những vùng mới chinh phục khác. Ngay lập tức, khi được rảnh tay khỏi những hoạt động ấy, hoàng đế truyền lệnh cho Trần Hoảng44, con của Trần Thái Tông45, đích thân đến triều kiến để nhận sắc phong. Trần Hoảng, lấy gương của Ai Vương trong lịch sử, từ chối khom mình dưới sức mạnh của Mông Cổ và chọn lựa chiến đấu dẫu cho có thể bị dân chúng hoảng sợ truất ngôi46. Chiến tranh bùng nổ, kinh khủng và ngắn ngủi. Trần Hoảng là người chiến thắng, nhưng mối hận thù bốn năm sau lại tái diễn vào dịp lên ngôi của vua kế vị Trần Thuyên47. Koublai Khan qua đời vào lúc ấy. Triều đình Trung Hoa bèn rút quân về và phong vương cho Trần Mạnh48 mặc dầu nhà vua không cầu xin. Trần Mạnh, nối ngôi Trần Thuyên, sau khi thừa nhận bá quyền của hoàng đế nhà Nguyên. Nhưng khi Trần Mạnh qua đời, Trần Vượng49 tức thì cư xử như một quân vương độc lập, còn hoàng đế Trung Hoa thì không còn nghĩ phải bắt tôn trọng những điều luật đã trở thành lỗi thời của hiệp ước 1259. Triều đình Đại Việt, dày dạn kinh nghiệm xương máu, đã lợi dụng giai đoạn hòa bình để củng cố tổ chức quân sự và hành chánh. Đã từng học hỏi mọi điều từ người Trung Hoa, triều đình Đại Việt chống lại Trung Hoa bằng chính những phương tiện tương tự, tựa vào lòng can đảm của nhân dân và niềm tin vào sứ mạng mà triều đình tự cho phải gánh vác. Nhà Trần đã tạo ra cho nhà Nguyên một lòng kính trọng mỗi ngày một lớn cùng với sự vững mạnh của lực lượng nhà Trần. Chẳng bao lâu nhà Nguyên phải cầu sự giúp đỡ của nhà Trần - thậm chí trong tuyệt vọng, để đánh đuổi nhà Minh khỏi ngai vàng mà họ vừa đoạt được. Kể từ đấy, dân Đại Việt mới có thể kiêu hãnh hưởng thụ thành quả của quá trình hy sinh kiên trì. Nhà Minh gửi đến quốc vương Đại Việt một phái bộ có nhiệm vụ thông báo việc lên ngôi của vua họ. Triều đình Đại Việt hết sức thỏa mãn, thừa nhận triều đại mới của Trung Hoa và mau chóng ký kết một hiệp ước bảo đảm độc lập quốc gia và tính chính thống của chính quyền Trung Hoa. Thế là Trung Hoa chính thức từ bỏ những ý đồ tham vọng đối với Đại Việt, cư xử với một đất nước trước đây đã từng xem là chư hầu bằng một lòng kính trọng không ngờ. Vương quốc Đại Việt cuối cùng cảm thấy giải thoát được những lo âu đã dày vò kể từ khi lập quốc. Không một đám mây nào làm mù mịt chân trời chính trị nữa. Được kẻ láng giềng mạnh mẽ nể nang, người lính vui mừng tìm lại tự do và đồng ruộng của mình, kẻ trí giả tìm vần điệu cho bản anh hùng ca tán dương tổ quốc họ... Thì bỗng dưng một cuộc phản loạn làm lật đổ ngai vàng và lại xô đẩy nước nhà vào cơn hỗn loạn. Họ Hồ thay thế nhà Trần vốn được nhân dân yêu mến. Họ Hồ cắt đứt thô bạo quan hệ với Trung Hoa khiến nhà Minh lợi dụng sự rối loạn do những láng giềng của mình đánh nhau để chiếm mười hai tỉnh miền Bắc và đặt một sứ quân của nhà Minh cai quản50. Đại Ngu51, mất tất cả vùng đất phía bắc, đành cúi mình một lần nữa dưới đạo luật pháp hà khắc của kẻ chiến thắng. Một hậu duệ còn sót lại của họ Trần xin triều đình nhà Minh phong vương phần đất còn lại. Hoàng đế nhà Minh khinh thường chấp nhận cho chức giám quốc mà kẻ khốn khổ tỏ ra hàm ơn nhưng không ngừng chiêu mộ binh mã52. Sau trận ở Thuận Hóa, toàn bộ đất Đại Ngu bị xâm chiếm, Trần chạy trốn qua Lào và chết ở đấy trong muộn phiền53. Thế là, chỉ cần có hai trận đánh cũng đủ làm tiêu tan lực lượng đã phải khó nhọc lắm mới có được của các triều đại An Nam. Mới hôm trước, hãy còn là đồng minh của thiên triều, hãy còn được tôn trọng và kính sợ, thì nay quốc gia An Nam không thể chịu đựng những biến động của một cuộc nội chiến làm chia cắt đất nước, làm lợi cho Trung Hoa vẫn luôn chú tâm vào những xung đột bên trong của mình. Nhưng nếu những tham vọng cá nhân đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của đất nước, nếu những tham vọng ấy có lúc đã tạo ra những thảm họa, thì sức sống kỳ diệu của người dân cũng cho phép đất nước đứng lên, lấy lại vị trí đã bị đánh mất do những sai lầm và tội ác của những chủ nhân của nó. Chính nhờ trải qua những cuộc đấu tranh ấy mà lòng ái quốc của nhân dân, bản sắc anh hùng của đất nước được khẳng định, bởi lẽ những vùng đất bị chiếm cứ bởi Trung Hoa đã sớm đánh thức trong mọi tầng lớp xã hội ý thức về một nền độc lập toàn diện, vẫn thường được thực hiện nhờ vào tinh thần độc đáo của dòng giống, nhưng luôn luôn bị phá hoại bởi những sai lầm liên tục của những kẻ gây ác tham lam. Chiến thắng Thuận Hóa và cuộc lẩn trốn của Trần [Quý Khoách] đã khiến hoàng đế Trung Hoa phải theo đuổi một chính sách thôn tính và bạo lực. Mọi quận huyện An Nam đều bị chiếm cứ, quan lại cai trị nhà Minh áp dụng một kế hoạch xóa bỏ dân tộc tính thô bạo, đảo lộn mọi tập quán, cưỡng chế mọi truyền thống, áp đặt việc dạy học tiếng Hán, cấm mặc quốc phục, đày đọa người dân dưới sức nặng của việc khổ sai. Quân đội An Nam bị sáp nhập vào quân đội Trung Hoa và trở thành một công cụ cho việc thống trị của nhà Minh54. Có vẻ như người Việt đã vĩnh viễn mất hẳn bản sắc dân tộc và mọi niềm tin. Trung Hoa tin rằng đã thanh toán xong kẻ láng giềng non trẻ và quật cường. Tuy nhiên, sự thật không hề như thế. Quả thật, ách đô hộ của ngoại xâm ở giai đoạn này đã làm bừng dậy dũng khí của người Việt. Lòng kiêu hãnh của người dân vùng lên dưới sự “thóa mạ như tát nước vào mặt” ngay trên đất quê hương, và phản ứng của người Việt rồi sẽ khủng khiếp hơn những gì họ đã phải gánh chịu và với nhiều năng nổ hơn bao giờ hết. Họ chiến đấu trong mười năm55, từng bước chiếm lại đất đai của tổ tiên cho đến khi Lê Lợi, thủ lĩnh của họ, đã buộc hoàng đế Trung Hoa phải từ bỏ tham vọng xâm chiếm bằng một hiệp ước ký kết ở Đông Đô - Hà Nội. Trần Cao, hậu duệ cuối cùng của nhà Trần được tôn lên ngôi vua, nhưng một năm sau thì qua đời, để lại ngôi báu cho vị thủ lĩnh chiến thắng kế vị56. Từ đó, sự toàn vẹn lãnh thổ nước Nam và mối quan hệ ngoại giao lại được tôn trọng. Nền độc lập tự chủ không còn bị lũng đoạn vì những tranh chấp nội bộ. Đây là lần thứ ba triều đình Trung Hoa biểu lộ một thái độ chính trị mơ hồ và nhu nhược mà về sau sẽ không có một sự kiện nào làm thay đổi sâu sắc nữa. Triều đại nhà Lê không mấy tỏ ra quan tâm về những bổn phận mà sự thừa nhận bá quyền Trung Hoa bắt buộc. Những vì vua kế vị Lê Lợi không xin sắc phong của triều đình Trung Hoa57. Lại có khi, như trường hợp Lê-Tai [nguyên văn], họ chỉ thông báo lễ đăng quang của họ cho triều đình Trung Hoa vào cuối giai đoạn trị vì của mình. Họ giao chiến, phát triển và nới rộng lãnh thổ, thiết lập nền bảo hộ vùng Trấn Ninh và Lào mãi đến tận vùng đồi núi Miến Điện là những quốc gia chịu sự bảo trợ của Trung Hoa mà không thèm lưu tâm đến những phản đối của thiên triều. Lê Oanh58 là người đầu tiên không tuân theo thông lệ của các đời vua trước, đã nhận sắc phong của hoàng đế Trung Hoa, nhưng lại bị Lê Ỷ59 lật đổ và đến lượt Lê Ỷ bị họ Mạc truất ngôi vào năm 152760 Mạc Đăng Dung tiếm quyền nhân một cuộc binh biến61, nhưng rồi lại bị hạ bệ bởi những kẻ nổi loạn vào năm 1546. Họ Mạc chạy lên vùng đồi núi phía bắc và xưng vương ở đấy62. Vua Lê-Minh63, nhận thấy không thể rượt đuổi họ Mạc, kêu nài hoàng đế Trung Hoa tuyên chiến với kẻ tiếm quyền rồi cuối cùng phải chấp nhận việc chia cắt lãnh thổ. Mười ba tỉnh phía bắc giao cho nhà Mạc được triều đình Trung Hoa phong hầu64 làm quan thế tập vùng Quảng Tây. Phần đất còn lại thì do Lê-Minh hoàn toàn cai trị (1558). Thật kỳ dị khi ta nhận thấy hành vi duy nhất chứng tỏ tính bá quyền thực sự của hoàng đế Trung Hoa đối với An Nam chỉ là chia rẽ khiến cho đất nước lại rơi vào trong sự hỗn độn rối rắm65. Các vua Lê chính thống từ đấy mất dần quyền uy thực sự. Dường như triều đình Trung Hoa bỗng dưng có trực cảm về chính sách bảo hộ hiện đại, như ngày nay nó đang được thực thi dưới nhiều hình thức khác nhau66. Hiệp ước song phương trên bề mặt, nhưng trong thực tế chỉ là đơn phương do các cường quốc áp đặt lên những nước yếu hơn. Triều đình Trung Hoa tìm cách làm suy yếu vương quốc bằng cách phân chia lãnh thổ, hỗ trợ một cuộc nổi loạn đối đầu với nhà vua chính thống. Trung Hoa duy trì các nước lân bang mãi trong tình trạng suy yếu để bảo đảm rằng Trung Hoa không thể bị các nước ấy tấn công, đồng thời giữ vững vai trò của một cường quốc ưu việt cho phép Trung Hoa can thiệp vào mọi lúc công việc nội bộ của các chư hầu. Trên thực tế, việc can thiệp ấy trở nên cần thiết. Thế lực lớn mạnh của họ Mạc ở phương Bắc làm vua Lê Thế Tông67 lo ngại, và thêm một lần nữa cầu viện hoàng đế Trung Hoa. Triều đình Trung Hoa đáp ứng lời cầu xin bằng cách hạ thấp những đặc quyền của nhà Lê và sửa đổi hiệp ước 154868. Trung Hoa trả lại cho vua Lê mười một tỉnh phía bắc, chỉ để cho họ Mạc quyền cai trị Thái Nguyên và Cao Bằng. Thái độ rộng lượng bề mặt này không làm vua Lê thỏa mãn vì không thể chống lại sự chia cắt âm thầm trong xứ sở của ông ta. Năm 1636, nhà Minh bị người Thanh lật đổ. Khang Hi được tôn lên ngôi hoàng đế69. Vua Lê Duy Vũ70 gửi sứ bộ đi triều kiến tân hoàng đế và xin được sắc phong. Hai vua bèn ký hiệp định 166371, theo đó hai quốc gia phải sẵn sàng giúp đỡ và hỗ trợ lẫn nhau. Đây là văn kiện ngoại giao cuối cùng được trao đổi giữa hai nước trước khi người phương Tây đến Đông Dương. Khang Hi chấp thuận phong vương cho vua Lê, lại đồng thời phong chức chúa cho Trịnh Tráng72, người có những năng lực bổ khuyết cho sự mềm yếu của vua Lê, rồi dần dà xâm lấn quyền chỉ đạo mọi vấn đề. Những hậu duệ của họ Trịnh bức ép vua Lê vào tình thế phụ thuộc đến độ họ không cho nhà vua thỉnh cầu nhà Thanh tấn phong, vì việc ấy có khả năng nâng cao uy quyền của nhà vua và làm giảm vai trò của họ. Với những nỗ lực của họ Trịnh, An Nam bảo vệ được tính thống nhất dòng giống, đạo đức và tôn giáo. Trung Hoa đã tìm cách đồng hóa người Việt, thì họ Trịnh lại cố sức trả lại cho đất nước bản sắc dân tộc mà sự thôn tính của Trung Hoa đã làm mất đi. Họ Trịnh đã thành công trong công việc ấy, bất chấp những phản đối giận dữ của triều đình nhà Thanh, bất chấp ngay cả sự ngờ vực của dân chúng vốn từ lâu gắn bó với các vua triều Lê, một vương triều chẳng bao lâu nữa sẽ biến mất. Quả thật, những vua nhà Lê về sau không có được một phẩm chất nào của vị vua [Lê Lợi] khai sáng triều đại. Phóng túng, yếu đuối, hoài nghi, họ dễ dàng chấp nhận gìn giữ quyền lực chỉ để hưởng thụ vật chất và những hào nhoáng có sẵn từ trước. Họ để cho các chúa Trịnh giữ quyền chỉ đạo các hoạt động triều chính. Điều đã khiến cho họ Trịnh cuối cùng xem như một trách nhiệm thế tập để mà vinh dự gán tên tuổi của mình vào đấy. Đại diện cho vương quyền phương Bắc, họ đã sớm cư xử như những vị chủ tể có quyền hành tuyệt đối, dành cho người trong gia đình họ Nguyễn quyền cai trị các tỉnh phía nam, trấn thủ ở Huế73, để rồi về sau lại cung cấp cho An Nam một vị vua [Gia Long] khai sáng nên triều đại ngày nay. Kể từ đấy, lần đầu tiên xuất hiện hai cách gọi Đàng Ngoài và Đàng Trong được dùng trong ngôn ngữ ngoại giao, để chỉ định vùng Tonkin và Cochinchine. Những cách gọi ấy chứng tỏ rõ ràng rằng, vương quốc từ đấy được cai trị bởi hai thế lực khác nhau dưới một uy quyền hoàn toàn mang tính danh nghĩa của một vị vua nhu nhược [vua Lê], không có khả năng ngăn cản những hậu quả của một cuộc tranh chấp không tránh khỏi sẽ đưa đất nước vào một cuộc nội chiến. Quả thật, cuộc nội chiến này bùng nổ vào năm 162774, nhân khi có việc tăng thuế, họ Trịnh tấn công và đánh bại họ Nguyễn và trở thành vị chúa có ưu thế hơn. Trong khi những sự kiện trên xảy ra, vào năm 1596, một giáo sĩ Thiên Chúa giáo dòng Dominique tên là Diego Adverte đã đến [giảng đạo Thiên Chúa] ở Đàng Trong không ai hay biết. Chính quyền thoạt tiên không mấy chú ý đến hoạt động đơn lẻ của vị thừa sai này mà dân chúng trọng vọng đón tiếp. Nhưng một thời gian ngắn sau đó có một số tàu thủy Tây Ban Nha đến cập bến ở Đàng Trong. Chính quyền lo ngại, buộc những tàu ngoại quốc phải lập tức rời đi. Kế hoạch ban đầu thất bại không làm nản chí các giáo sĩ ở Manille. Năm 1626, một giáo sĩ dòng Tên, Baldinotti75, được gửi đến Đàng Ngoài để rao giảng Phúc Âm. Sự lựa chọn của giáo sĩ này thật không may. Baldinotti không hề hiểu biết gì về các vùng đất được đặt dưới trách nhiệm rao giảng của mình. Ông không thể làm cho người trong vùng hiểu được ông. Ông kiên trì, với một lòng can đảm vụng về, đối đầu với các quan bản xứ cuối cùng đã buộc ông phải lên tàu trở về lại Philippines. Cha Alexandre de Rhodes được phái đến thay thế76. Cha là một trong những khuôn mặt kỳ lạ nhất trong những giáo sĩ truyền giáo của thế kỷ XVII, là một học giả sâu sắc, một nhà quan sát nhạy bén, một nhà ngoại giao mềm dẻo và tinh tế, khiến ngay cả chúa Trịnh cũng quý mến. Cùng đi với cha còn có giáo sĩ Pedro Marquès. Cả hai đi khắp Đàng Ngoài và ở nơi nào cũng đều được nồng nhiệt đón tiếp, mọi e ngại đều lắng dịu nhờ vẻ hiền hòa của nhà truyền giáo Pháp đã xóa đi mọi định kiến về tôn giáo. Đến năm 1644, cha de Rhodes đã đào tạo được hàng ngàn người theo học đạo, đã xây dựng nhiều nhà thờ, tập trung các tín đồ thành những họ đạo thịnh vượng. Dân chúng yêu mến ông và ông đã mau chóng học cách hiểu những niềm vui khiêm tốn và khổ nhọc nặng nề của họ. Cha de Rhodes bảo vệ con chiên chống lại những tham lam ngạo mạn của những quan lại trong vùng, bảo vệ những nông dân bằng quyền hạn yếu ớt của mình, giám sát hành chính của các thôn làng, nơi mà những ý kiến của ông được nghe theo với sự tôn trọng. Việc được lòng dân của ông lan đến những vùng lân cận, thâm nhập vào ngay cả phủ chúa Trịnh, nhạy cảm khi thấy những thiết chế đáng kính ban đầu dọn đường cho những nguyên tắc mới, đã ban hành một chỉ dụ truy tố tín đồ Thiên Chúa, mà trong thực tế chỉ áp dụng một cách yếu ớt. Cha de Rhodes không lấy làm e ngại, nhưng không muốn gây khó cho những người đã giúp đỡ mình thực hiện sứ mệnh, đã rời Đàng Ngoài để vào Đàng Trong77 chờ đợi những ngày tươi sáng hơn. Suốt trong thời kỳ xảy ra những hoạt động truyền giáo của cha de Rhodes thì những thương gia châu Âu bắt đầu xâm nhập đất nước An Nam. Đầu tiên là những người Hà Lan đến mở thương điếm tại Phố Hiến, nằm giữa Nam Định và Hà Nội, một vị trí được chọn lựa kỹ lưỡng, khiến nơi ấy mau chóng trở thành một trung tâm giao dịch sầm uất nhất của cả vùng. Chẳng bao lâu, những bố trí tạm thời được thay thế bằng những công trình vững chãi. Một thành phố mà mọi thương lái của các vùng biển châu Á đều lui tới được dựng lên nơi mà trước đây là một xóm chài và thợ thủ công nghèo nàn. Năm 1638, một chiếc tàu Hà Lan, Ryp, Lần đầu tiên đã ngược dòng sông để lên đến tận Thăng Long, và từ năm 1640 sử Việt ghi nhận sự có mặt của những thương gia Nhật Bản, Hà Lan và Trung Hoa tại Faifoo78. Sự có mặt dồn dập của những người nước ngoài tạo nên một hoạt động thương mãi mạnh mẽ làm lợi trước tiên cho người dân địa phương. Chính quyền địa phương tận lực thích ứng với sự phồn vinh chưa từng có này, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các thương điếm, bất chấp cả sự khuyến cáo của triều đình. Quả tình cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn đều cho là đang bị đe dọa. Họ ngờ vực những giáo sĩ thừa sai đã kêu gọi những người Âu châu đến, lấy cớ phát triển thương mãi và tôn giáo, để chuẩn bị can thiệp vào vương quốc bằng sức mạnh phương Tây. Chính tư tưởng ấy đã tạo ra cho họ cũng như những người kế vị lòng căm ghét Thiên Chúa giáo, đặc biệt sâu sắc vào thời vua Minh Mạng, dẫu cho gia đình nhà vua đã từng nhận sự giúp đỡ của Giám mục Adran, và vua Tự Đức, đã hy sinh nền độc lập của nước nhà cũng vì suy nghĩ ấy79. Năm 1643, thương điếm Hà Lan ở Faifoo bị chính quyền Đàng Trong thiêu hủy. Một người giúp việc bản xứ bị các thương gia bắt gặp vào lúc y đang cuỗm vài kiện bông vải, đã bị viên giám đốc thương điếm ra lệnh giết chết. Vị quan địa phương gửi giấy khiển trách những người Hà Lan, nhưng họ đã nhận một cách ngạo mạn. Được tin ấy, chúa Thượng80 ra lệnh đốt thương điếm, xử từ những tội phạm, chỉ ngoại trừ hai người được chính quyền cho phép xuống tàu trở về Batavia81. Người Hà Lan phẫn nộ bèn gửi ba chiến hạm đến đòi hỏi chúa Đàng Trong một khoản bồi thường xứng đáng. Nhưng hạm đội Hà Lan82 vấp phải lực lượng thủy quân của chúa Thượng ở vịnh Tourane - theo lời kể của Vachet83, hoặc trên sông ở Huế - theo sử gia Việt, và hạm đội đã không thể kháng cự nổi. Đấy là lần đầu tiên người châu Âu phải chịu thất bại nhục nhã tại Đông Dương84. Thương gia Nhật Bản bèn chiếm lấy chỗ của người Hà Lan ở Faifoo sau sự kiện kể trên. Chính người Anh cũng rất sớm bị thu hút bởi sự giàu có phong phú của châu Á. Nữ hoàng Elisabeth vào năm 1600 đã ban một Hiến chương cho Công ty Đông Ấn Luân Đôn. Một năm sau, những thương điếm Anh quốc đầu tiên được mở tại Ấn Độ, trong vùng quần đảo Sonde. Hai năm sau, thuyền trưởng John Sarris thành lập một cơ sở thương mãi tại Hirado ở Nhật Bản và giao quyền quản lý cho Richard Cocke. Người này đã gửi đến Đàng Trong một thuyền buôn do Peacok chỉ huy cập bến Faifoo, nơi mà hàng hóa trên tàu được đưa lên bờ. Giai đoạn đầu của cuộc viễn du này diễn ra thuận lợi. Nhiều người địa phương chạy đến các cửa hàng Anh để mua sắm. Nhưng nhân một cuộc xô xát lại có một nhân viên người Âu tên là Walter Corwarden bị giết, Peacok vội vàng lên tàu ra đi, bỏ lại phần lớn các hàng hóa mặc tình bị cướp bóc trên bờ. Công ty Đông Ấn vào năm 1616 còn cố thử thách một lần nữa nhưng cũng không thành công. Người Hà Lan, thuở ấy làm chủ mọi vùng biển, buộc các đối thủ cạnh tranh phải rời bỏ Nhật Bản và Đài Loan. Chỉ vào năm 1672 mới có một thuyền lớn chở William Gyfford85, giám đốc thương mãi, và năm người Âu lên đường đến Đàng Ngoài và họ đến nơi không xảy ra điều gì trắc trở. Chúa Trịnh Tráng cho phép Gyfford được kinh doanh tại Phố Hiến rồi tại Thăng Long. Nhưng sự vụng về của những người Âu mới đến và sự thiếu thiện chí của những người địa phương chẳng bao lâu buộc ban giám đốc tại Madras phải ra lệnh đóng cửa hai cơ sở ấy. Cuối cùng, vào năm 1695, Bowyear86, người đại diện thương mãi, lên tàu Dauphin rời cảng Fort Saint Georges ở Madras. Ông này nhân danh Công ty Đông Ấn, có nhiệm vụ đến yết kiến Minh vương87 để cầu xin ban cho một nhượng địa cũng như mọi sự dễ dãi để thiết lập mối quan hệ thương mãi rộng rãi với vương triều. Chuyến đi này không mang lại một kết quả nào cả, nhưng câu chuyện mà thương gia Anh quốc này kể lại về sứ mạng của ông đã cung cấp những chi tiết quý giá về tình hình chính trị của xứ sở, nguồn gốc và lịch sử của triều đại đang trị vì, về các tài nguyên của Đàng Trong88, nơi mà Bowyear mới chỉ ở được một năm. Năm 1681, đến lượt du Plessis đến Đàng Ngoài, trình cho chúa Trịnh: Hiền vương89, một lá thư của Pháp hoàng Louis XIV, yêu cầu cho phép các giáo sĩ thừa sai được quyền rao giảng đạo Thiên Chúa và cho phép Công ty Đông Ấn [của Pháp] được quyền mua bán dọc theo bờ biển. Hai năm sau90, một nhân viên thương mãi khác tên là Le Chappelier91 được phép mở một thương điếm, nhưng người này chỉ làm mỗi việc đi khắp xứ và gửi báo cáo về Công ty. Công ty Đông Ấn lại khánh kiệt vào năm 1723 vì sự sụp đổ của hệ thống Law92, không còn muốn phát triển ở Đông Dương nữa. Phải chờ đến năm 1749 để thấy người Pháp tìm cách tổ chức ở An Nam những xí nghiệp quan trọng dưới sự chỉ đạo của Pierre Poivre, người vùng Lyon. Người này lúc đến ở Đàng Trong, vào năm 1744, bị mất một cánh tay trong một trận chiến giữa tàu chở ông ta với hạm đội do Barnet, thiếu tướng hải quân Anh, chỉ huy. Được gửi về Batavia, ông chữa lành vết thương nhưng không thể gia nhập vào hàng ngũ trước đây nữa, Pierre Poivre trình cho Công ty Đông Ấn những kiến thức tuyệt vời của ông về các vùng miền và khả năng sử dụng thông thạo tiếng An Nam. Ông thuyết phục được ban giám đốc về sự thuận tiện cho một nỗ lực mới mà ông bảo đảm nhiều lợi ích và đã được trao nhiều quyền hành để thực hiện kế hoạch. Tượng bán thân Pierre Poivre đặt tại vườn thực vật Pamplemousse, Cộng hòa Mauritus. Pierre Poivre cập bến Pondichéry93 ngày 21 tháng 6 năm 1749, nhưng sự đón tiếp của Dupleix94 ngay lúc ông đến đã khích động ông chống lại với Thống đốc Pondichéry, lên án ông này muốn cướp đi mọi vinh dự hoặc quyền lợi của Công ty mà ông chịu trách nhiệm. Luận cứ này xem ra được khẳng định bởi những mưu mẹo tiểu nhân của Friell95, người cháu có quan hệ thông gia của Dupleix. Không chờ đợi gì nữa, Poivre rời Pondichéry lên đường đến Huế96, thương lượng với Võ vương về một thỏa ước [thỉnh cầu] mà theo đó người Pháp được phép mở một thương điếm ở Faifoo97 và bắt đầu buôn bán trong mọi vùng Đàng Trong. Poivre hoàn thành sứ mạng, trở về châu Âu vào tháng 2 năm 175098. Nhưng những xí nghiệp của Dupleix99 đã hút hết nguồn vốn của Công ty và người ta không còn ghi nhận được gì nữa cho đến cuối vương triều của vua Louis XV, ngoài vô số những dự án như của Bénédat100, Saint-Phalle101, Protais Leroux102 v.v... mà những thảm họa của Cuộc chiến tranh bảy năm103, việc mất quyền ở Ấn Độ, sự sụp đổ của Công ty đã cản trở thực hiện kế hoạch104. * * * Tuy nhiên, chiến tranh đã trở lại giữa hai đối thủ muôn đời Đàng Trong và Đàng Ngoài. Hận thù vẫn tiếp diễn, thỉnh thoảng bị ngưng lại nhờ những giai đoạn lễ lược truyền thống, hoặc những cuộc hòa giải và hưu chiến ngắn ngủi, sau đó lại tiếp tục vì bất kỳ một lý do nhỏ nhặt nào. Công cuộc bảo vệ lãnh địa Đàng Trong không ngăn các chúa Nguyễn mở rộng đất về phương Nam. Năm 1658, chúa Nguyễn thu phục đất Chiêm Thành và đẩy biên giới phía nam đến tận cuối Bình Thuận. Dân tộc Chăm bị triệt thoái. Phần còn lại sống trong thân phận phụ thuộc hoàn toàn mà họ chịu đựng với lòng tự trọng mà thời gian đã tạo dựng nên một hình ảnh xúc động. “Hẳn đấy là một chủng tộc đẹp đẽ”, Aymonier105 đã viết như thế, “không hiếm những con người đáng ngưỡng mộ, cho dầu những cơ cực hiện nay. Nhưng những hậu duệ của dòng tộc Chăm ngày nay lại sống lay lắt trong một nỗi buồn sâu thẳm. Ngay những lễ lược tôn giáo của họ cũng mang dấu ấn sầu bi. Tuyệt vọng trong những kỷ niệm xa xưa, đắm chìm trong một niềm thất vọng không cứu chữa được và không ngừng bị khích động vì những thống khổ trong hiện tại mỗi ngày mỗi lớn, họ lại tiếp tục mong chờ một phép lạ, một cuộc phục hưng không thể có được. Một trong nhiều tác phẩm thi ca của họ, họ than vãn hay đúng hơn, khóc lóc về những bất hạnh của họ, gửi lên Thượng đế những lời cầu khẩn và chấm dứt bằng tiếng kêu tuyệt vọng: ‘Làm thế nào để đừng sống nữa!’” Phụ nữ Chăm là những người luôn có một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với đàn ông của họ, lặp đi lặp lại những lời kiêu hãnh: “Tổ tiên chúng ta là người Chăm. Chúng ta là người Chăm và con cái chúng ta cũng sẽ là người Chăm. Đúng là dân ta đang ở trong hố thẳm, hãy đứng lên dân Chăm, cho đến lúc xẻng đất cuối cùng đắp lên mộ của người Chăm cuối cùng”.106 Dân tộc Chăm, theo những nghiên cứu lỗi lạc của J. Clayes, là họ hàng gần gũi với những người Mọi miền núi thuộc chủng Mã Lai cổ. Nhưng những người miền núi này không bao giờ xa lìa núi rừng nơi mà nền văn minh chưa vượt qua giai đoạn đồ đồng, trong lúc người anh em của họ lại bám trụ trên vùng đất phì nhiêu của đồng bằng ven biển, nhanh chóng vươn đến trình độ văn minh mà nền kiến trúc mạnh mẽ đến nay vẫn còn chứng tỏ sự lớn lao. Dân tộc này nhanh chóng có được thành phần ưu tú mạnh dạn nới rộng giới hạn của thị tộc nguyên thủy đến tận biên giới của An Nam ngày nay, lôi cuốn sự chú ý của Trung Hoa và khiến Trung Hoa kiên quyết gây chiến chống lại thành phần này. Năm 111 trước Thiên Chúa, hoàng đế nhà Hán chiếm đất Giao Chỉ và thành lập quận Nhật Nam (Ye-Nan) có thủ phủ giám sát đất nước trẻ trung và năng động này. Cho đến năm 1069, vương quốc Chiêm Thành luôn kháng cự những cuộc xâm lăng từ bên ngoài và những cuộc nội chiến gây rối loạn sự phát triển của đất nước. Các vua Chăm, tiếp tục truyền thống của các vua đời trước, đô hộ các vùng đất phía nam. Nhưng những cuộc xung đột với người Việt [phía bắc] là dân tộc mau chóng ý thức về sức mạnh của mình đã khởi đầu những tan rã của đất nước Chiêm Thành. Bị người Việt lấn át, lại bị người Khmer xâm lăng, nước Chiêm Thành gần như sụp đổ thì may thay có một vị vua kiên nghị Yaya Harivarman107 đánh đuổi được người Khmer. Vua tiếp theo Surjavarman108 biết làm cho kẻ địch ở phương Bắc kính nể và ổn định lại được sự thống nhất quốc gia. Năm 1118, vị vua này tấn công nước Cao Miên109 nhưng bị đánh bại và phải chịu sự chiếm đóng của ngoại xâm trong suốt ba mươi năm. Triều đại mới của nhà Trần, nước Đại Việt về sau buộc nước Chiêm Thành phải chấp nhận quyền lực của vua Việt. Chính hoàng đế Koublai-Khan của nhà Nguyên đã khiến hai thành phần đối lập muôn thuở này đoàn kết với nhau để chống lại chính mình. Hai quốc gia này, trước thảm họa chung, đã đoàn kết để chống lại quân Mông Cổ tàn bạo, và giành thắng lợi. Năm 1307, vua Jaya Simhavarman III110 qua đời sau khi đã trả bằng các nhượng địa ở phía bắc để kết nối tình bằng hữu với vua nhà Trần, thâm nhập vào gia đình này bằng cuộc hôn nhân với công chúa Huyền Trân111. Sự qua đời của nhà vua đã gây nên những hỗn loạn mà nhà Trần hưởng lợi một cách khéo léo. Vương quốc Chiêm Thành trở thành chư hầu của Đại Việt, vùng dậy một thời gian dưới thời vua Chế Bồng Nga112 rồi cuối cùng cũng phải khuất phục dưới những áp lực nặng nề dưới thời vua Lê Thánh Tông. Đất nước từ đó bị phân hóa, còn tồn tại một cách khó nhọc trong vài năm trước khi biến mất vĩnh viễn. Ngày nay, dân tộc Chăm chỉ còn lại vài ngàn gia đình, sống lay lắt một cách khốn khổ và dần dà quay trở lại những điều kiện sống của những người anh em miền núi mà càng ngày họ càng trộn lẫn với nhau. Chiêm Thành bị chinh phục, nhà Nguyễn đem quân đánh Cao Miên vào năm 1660. Vua nước này bị bắt cầm tù và bị đưa về Quảng Bình113, rồi được trả tự do với điều kiện trở thành nước chư hầu của kẻ chiến thắng. Hòa bình lập lại, họ Trịnh và họ Nguyễn kết hợp với nhau để đuổi ra khỏi xứ các giáo sĩ thừa sai mà các lý thuyết tôn giáo của họ tấn công một cách có hiệu quả ngay cả những nguyên tắc của nền đạo lý Khổng - Mạnh xưa cũ. Một chỉ dụ được ban ra cấm người dân từ bỏ việc thờ cúng tổ tiên: “Người Âu châu được gọi là Hoa-Lang, vào trong nước để hoạt động, họ quyến rũ và hướng dẫn vào sự sai lầm bằng đạo Gia-tô [Công giáo], nhiều đàn ông và đàn bà thiếu suy nghĩ chạy theo họ, đông đảo và gắn bó nồng nhiệt. Họ xây nhà thờ để giảng đạo. Sai lầm càng lúc càng tăng. Trước đây đã từng đuổi những người ngoại quốc này đi, nhưng việc thực hành xấu xa không được nghiêm trị, nên năm nay ban lại lệnh cấm như trước”. Nhiều nhà thờ bị phá hủy, các giáo sĩ phải ẩn nấp, những hận thù tôn giáo bắt đầu được cảm nhận. Nhưng những khắc nghiệt ấy không kéo dài: một cơn dịch tả giết chết nhiều dân, người phương Tây coi đó là một dấu hiệu biểu lộ sự phẫn nộ của thượng đế. Quần chúng hoảng sợ, xây dựng lại giáo đường và chỉ dụ bị hủy bỏ. Hoàn cảnh ấy đã khuyến khích cha de Rhodes yêu cầu Tòa Thánh La Mã gửi đến vương quốc một Đoàn truyền giáo đặc biệt đồng thời mở một chủng viện. Tòa Thánh chỉ định hai giám mục: cha Pierre Lambert de la Motte cho vùng Đàng Trong và cha François Pallu114 cho Đàng Ngoài. Cả hai giám mục đều có nhiều tu sĩ thuộc nhiều dòng đi theo: dòng Tên, dòng Barnabite, dòng Dominicain, dòng Franciscain và các giáo sĩ của Hội Thừa sai. Các nhà truyền giáo này tỏa đi khắp mọi nơi, trú ngụ trong những làng mạc với người dân quê mà họ đưa hàng loạt người đến nhà thờ rửa tội. Họ thành lập các họ đạo, xây dựng giáo đường, săn sóc người bệnh, giúp đỡ người nghèo, thay thế dần dà vai trò của chính quyền thôn xã, vốn là căn bản của trật tự xã hội người Việt. Nhưng nhiệt tâm ấy đột ngột bị chững lại vì một phản ứng quyết liệt của chính quyền. Chỉ dụ năm 1705115 được chỉ định chống lại mọi người nước ngoài, nhằm vào các giáo sĩ châu Âu, buộc họ phải rời khỏi vương quốc, cũng như đối với các thương gia Hoa kiều là những người mà lệnh cấm được truyền đạt là phải tuân theo những phong tục mới được du nhập vào Trung Hoa bởi các hoàng đế Mãn Thanh. Những hình phạt nặng nề được công bố cho người Việt nào dám đón tiếp những kẻ bị phát vãng, nói ngôn ngữ của họ, sống theo những tập quán của họ. Tám năm sau, chúa Trịnh truyền lệnh cho mọi tín đồ Thiên Chúa phải bỏ đạo trong thời hạn hai mươi tám ngày, nếu không sẽ bị khắc lên mặt dòng chữ “Học Hoa Lang Đạo”116. Quan lại địa phương áp dụng miễn cưỡng những điều lệ của chỉ dụ năm 1713 mà qua năm sau (1714) lại thêm một lần nữa bị chúa Trịnh hủy bỏ. Các giáo sĩ thừa sai tập hợp tín đồ và tiếp tục yên lành nhiệm vụ truyền giáo bị bỏ dở. Nhưng hoạt động của họ lại gây ra sự tức giận của chính quyền tối cao. Vào năm 1721117, việc bức hại lại tiếp tục, nhiều tín đồ Thiên Chúa bị kết án khổ sai, một số khác bị xử tử. Các cha Massari và Bucharelli chịu hình phạt thắt cổ. Sự khắc nghiệt làm dân chúng hoảng sợ, khiến trong một thời gian dài không dám hành đạo nữa. Tuy thế, khi bão táp qua đi, các giáo sĩ lại trở về trong giáo phận của mình, cố sức với sự kiên trì can trường thu phục lại ảnh hưởng mà họ đã mất. Họ vấp phải sự bướng bỉnh đầy lo âu của dân chúng trước sức đe dọa của những trừng phạt nặng nề buộc họ phải tôn trọng những truyền thống quốc gia. Nhưng đức tin đầy xúc động của những kẻ chăn chiên đã vượt qua mọi trở lực, mọi oán hận, mọi sợ hãi. Nửa thế kỷ sau, đạo Thiên Chúa du nhập vào Á châu, do một nhóm giáo sĩ truyền giáo đến từ những nước La-tinh, suýt làm đảo lộn ngay cả nước Trung Hoa và thay thế những tôn giáo xưa cũ. Các giáo sĩ dòng Tên vào thế kỷ XVIII rất được triều đình Trung Hoa nghe theo. Họ đấu tranh chống lại những học giả Trung Hoa bằng chính vũ khí của họ, thay thế những đạo lý lạnh lùng của Khổng tử bằng những quan niệm nhân bản hơn của giáo lý Thiên Chúa. Triết học kinh viện của đế quốc Trung Hoa bị lay chuyển bởi nền khoa học thực dụng phương Tây: các học giả bị thuyết phục, tìm đến các vị thừa sai, cùng với họ lôi cuốn các lớp bình dân tột cùng là những người sẵn lòng đi theo những kẻ chiến thắng các bậc thầy của họ. Ở An Nam, Thiên Chúa giáo phát triển đến mức có một chủng viện được thành lập và đào tạo hằng năm một số lượng đông đảo tu sĩ bản xứ, nhờ đó mối thống nhất tư tưởng giữa người nước ngoài và dân chúng được chặt chẽ hơn. Ảnh hưởng phương Tây đang thâm nhập vào thế giới châu Á xưa cũ như thế thì bỗng dưng, vào năm 1744118, Giáo hoàng Benoit XIV giáng cho nó một đòn chí tử. Ông lên án việc thờ cúng tổ tiên và lòng tôn kính dâng lên Đức Khổng tử, mãi đến lúc ấy vẫn được các giáo sĩ dòng Tên thừa nhận119. Việc lên án này còn gây tai họa thê thảm cho việc truyền đạo hơn cả những cuộc tra tấn hận thù nhất, vì kể từ đấy các giáo sĩ thừa sai không còn thực hành chữ viết Trung Hoa, sống xa cách với giới tinh hoa. Dẫu nhiệt tình, họ không còn làm phát triển rõ rệt đạo Thiên Chúa nữa và lời nói của họ chỉ còn chạm tới lớp bình dân, giới hạn hoạt động của họ vào tầng lớp ít kiên định nhất của xã hội. Điều nổi bật trong những tín ngưỡng mà người An Nam gắn bó là ở chỗ niềm tin của họ được thể hiện không cần có sự can thiệp của giới tu sĩ. Tu sĩ duy nhất được thừa nhận trong tầm cỡ quốc gia là nhà vua, trong tầm cỡ tỉnh là vị quan đầu tỉnh đại diện, trong tầm cỡ thôn xã là các thân hào đạo cao đức trọng, trong gia đình là người cha. Tôn giáo thật sự của người An Nam, và là tôn giáo mà họ hiến dâng thật sự và tận lòng, là thờ cúng tổ tiên. “Lòng thành kính mà họ dành cho linh hồn người đã mất”, cha de Rhodes đã ghi lại như thế, “vượt qua tất cả những gì mà ở Âu châu chúng ta có thể nghĩ đến. Họ chấp nhận một lao nhọc khó tin để tìm nơi thích hợp cho phần mộ của tổ tiên. Họ tin rằng mọi hạnh phúc của gia đình tùy thuộc vào sự trân trọng mà họ chứng tỏ với người chết. Họ không tiếc tiền bạc cũng như công sức, và cả công sức của bạn bè để tổ chức những bữa tiệc thịnh soạn suốt trong nhiều ngày sau hôm người thân qua đời. Và họ cũng làm tương tự như thế cho tổ tiên xa xôi của họ cho tới tận đời thứ tám hoặc ngay cả đời thứ mười”. Ta có thể cho rằng Tòa Thánh La Mã, vốn thường có tinh thần cởi mở cho một số nhượng bộ, đã mắc lỗi vụng về khi đối kháng quá thô bạo với những tình cảm sâu kín của một dân tộc sẵn sàng tìm thấy trong đạo Thiên Chúa những nguyên tắc không lôi kéo họ phải từ bỏ việc thờ cúng tổ tiên mà ngay cả những tu sĩ truyền giáo đầu tiên cũng đã không đặt ra một cấm đoán nào cả. Dầu sao, sự thoái bộ của Thiên Chúa giáo kể từ đó được đánh dấu bằng sự đấu tranh tuyệt vọng của một vài người can đảm mà hoạt động truyền giáo phụ thuộc vào những đổi thay của chính sách địa phương. * * * Ngày 11 tháng 3 năm 1767, một thừa sai hai mươi sáu tuổi tên là Pigneau de Béhaine đã cập bờ Căn Cáo (tức Hà Tiên). Một khuôn mặt tu sĩ thật lạ lùng, lần lượt là sứ giả, chiến sĩ, người tổ chức công binh, ít nhiều là kẻ phiêu lưu, mà nhờ đó chúng ta có một trong những trang đẹp nhất của lịch sử thuộc địa. Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc, 1741-1799) - tranh vẽ của họa sĩ Maupérin, trưng bày tại Hội truyền giáo hải ngoại Paris. Xuất thân từ một gia đình đông con xứ Picardie, Pierre Pigneau de Béhaine theo học ở chủng viện Sainte-Famille. Ý thích phiêu lưu đến những chốn xa đã tạo nên trong ông khuynh hướng chọn lựa châu Á. Ông trải qua hai năm thực tập tại Hội Thừa sai rồi bí mật xuống thuyền đi Pondichéry để thoát những van nài của cha mẹ ông, những người muốn ngăn cản cuộc ra đi. Ông ở lại Hà Tiên một năm, bình tâm cam chịu cách cư xử xấu xa của chính quyền người Hoa trong vùng ấy, ông ban phát những săn sóc cho dân địa phương, dạy dỗ những con chiên trẻ tuổi. Trong số đó ông quý mến Paul Nghị120, người về sau sẽ trở thành phụ tá chính của ông. Họ đạo nhiều lần bị tàn phá vì những cuộc xâm lấn, vẫn phát triển mặc dầu có những trừng phạt vì theo đạo mới. Những hoạt động thông minh của Pigneau de Béhaine đã gây cảm tình ở vị Khâm mạng Tòa Thánh già: Đức Cha Piguel, giám mục miền Canathe. Vị này đã gọi Pigneau de Béhaine đến với ngài và đề nghị với Tòa Thánh La Mã để ông kế tục ngài. Ông được phong Giám mục Adran lúc vị Khâm mạng qua đời năm 1770 và được tôn phong năm 1774 tại Pondichéry121. Pigneau de Béhaine trở lại Đàng Trong và mãi cho đến khi ông qua đời vào hai mươi lăm năm sau, những hoạt động cá nhân của ông luôn gây ảnh hưởng lên chính sách của Nguyễn Ánh. Vào giai đoạn ấy, có một nhân viên thuế vụ nhỏ, gốc người Nghệ An, tên là Nguyễn Văn Nhạc, ăn cắp công quỹ để giải quyết nợ cờ bạc, chạy trốn lên miền Tây Sơn để trốn tránh sự trừng phạt. Hết vốn liếng nhưng không thiếu thông minh và can đảm, Nhạc gọi hai người em là Huệ và Lữ và nhờ hai người này làm trung gian, Nhạc liên lạc được với các nhóm cướp trong vùng. Nhờ thế Nhạc nhóm họp được vài ngàn kẻ gian ác, bọn phiêu lưu, kẻ thất chí, tìm cách hiệp đồng với các quan lại trong vùng e sợ vì bị hăm dọa, rồi sai bọn đồng đảng nhảy vào cướp những vùng giàu có ở đồng bằng, thu lấy tiền bạc và thực phẩm Nhạc đang cần. Sức mạnh và sự hung hăng càng lúc càng phát triển của Nhạc làm chúa Duệ Tông122 ở Phú Xuân hết sức lo lắng. Chúa gửi quân đội vào đánh dẹp nhóm Tây Sơn nhưng lại thất trận một cách nhục nhã. Cuộc thảm bại này xảy ra không bao lâu trước khi thành Qui Nhơn bị lực lượng phản loạn chiếm cứ để lập đại bản doanh123. Cuộc phiêu lưu nhục nhã này đã mang lại một hậu quả rất nghiêm trọng cho lực lượng của chúa Duệ Tông. Chúa chuẩn bị để phản công thì chúa Trịnh Sâm ở Đàng Ngoài lợi dụng chúa Nguyễn đang khi bối rối, cho rằng đã đến lúc dứt khoát buộc Đàng Trong phải chịu khuất phục họ Trịnh. Quân đội Đàng Ngoài chiếm thành Phú Xuân - Huế dễ dàng, do sự hèn nhát của tướng thủ thành124. Tuy thế, chúa Duệ Tông trong cơn bối rối đã chạy vào Quảng Nam125 rồi chạy thẳng vào đồng bằng sông Cửu Long để trốn tránh đồng thời tổ chức căn cứ vững chắc cho việc kháng cự. Nguyễn Văn Nhạc lo ngại khi chứng kiến quân đội Đàng Ngoài tiến vào Phú Xuân, cảm thấy không đủ tầm vóc để ngăn cản chúa Trịnh, người mà mọi sắp đặt để tiếp xúc cho tương xứng với địa vị của chúa đòi hỏi Nhạc phải hành động cẩn thận, vào chiếm cứ những vùng đất mà mình đang thèm muốn. Nhạc cam kết với kẻ mới đến những tình cảm tôn kính, đồng thời tìm cơ hội chiến thắng chúa Duệ Tông để củng cố địa vị của mình. Cơ hội ấy chẳng bao lâu đã xuất hiện, từ Sài Gòn vị chúa trốn lánh gọi con mình là Mục vương126 lúc ấy đang còn ở Cu Đê127. Mục vương gặp một tướng Tây Sơn người Hoa tên là Lý Tài ở Bình Thuận, do Nguyễn Văn Nhạc phái vào truy bắt mình. Nhưng vị hoàng tôn trẻ tuổi đã thành công trong việc thuyết phục Lý Tài và đưa mình vào Sài Gòn để gặp Duệ Tông. Nhà chúa ngạc nhiên, sung sướng khi có một sự hỗ trợ trời ban do con mình mang lại. Nhạc rất đau khổ vì sự phản bội của Lý Tài và cảm thấy không đủ sức để cùng lúc chống lại quân đội Đàng Ngoài và Đàng Trong, quyết định đầu hàng quân Trịnh và được phong tướng Tiên phong năm 1774128 rồi được cho cai quản đất Quảng Nam129. Những cư xử thịnh tình và những chức vị mà Nhạc nhận được không xoa dịu tham vọng và những lo lắng của mình. Nhạc cảm thấy ở vào một vị trí bất ổn nằm giữa hai đối thủ, rồi ra sẽ đuổi mình khỏi Qui Nhơn một khi hai phe đối lập kia tìm được một thỏa thuận để chấm dứt cuộc đấu đá. Nhạc không thể nghĩ chuyện tấn công quân Trịnh vì lực lượng này vẫn làm mình lo ngại. Nhưng còn con đường về phương Nam thì bỏ ngỏ. Duệ Tông đã để mất Qui Nhơn và Phú Xuân, những thành quan trọng nhất của Đàng Trong, chứng tỏ sự yếu kém mà không một nhân vật có khả năng nào cứu vãn được. Thôi thúc muốn lớn mạnh để không phải bị tiêu diệt, Nhạc đề nghị với quân Trịnh vào chiếm luôn vùng Hạ Đàng Trong [Basse Cochinchine], thanh toán họ Nguyễn để sáp nhập đất này với Đàng Ngoài. Quân Trịnh hiểu rất rõ động cơ của sự tận tâm giả hình này, nhưng nhanh chóng nắm lấy cơ hội để hạ gục họ Nguyễn mà ít tốn công sức, sẵn lòng can thiệp vào thời điểm thuận lợi để cướp từ kẻ đồng minh lúc tình huống bắt buộc, lợi lộc của cuộc chiến. Quân Tây Sơn rời Qui Nhơn năm 1776, tiến vào Bình Thuận mà không gặp kháng cự, do một sai lầm không thể hiểu được, Duệ Tông đã cho rút trước quân phòng ngự. Quân Tây Sơn tiến chiếm Sài Gòn, xuống tận sông Mékong thì bị quân Lý Tài chặn lại. Cuộc đụng độ bất phân thắng bại, nhưng Nguyễn Văn Huệ là người chỉ huy đạo quân thoát ra, dẫn đội tiền quân bất ngờ tiến vào Vĩnh Long, chặn bắt những kẻ đào tẩu. Hai vương130 bị đưa về Sài Gòn và bị xử tử. Trong lúc ấy chúa Trịnh vì bận rộn về một cuộc nổi loạn ở Đàng Ngoài, không thể ngăn Nhạc tự tuyên xưng hoàng đế ở Đàng Trong năm 1777131, niên hiệu Thái Đức. Thế là, thủ lĩnh của băng nhóm mà quân Trịnh đã đón tiếp với một thái độ hạ cố khinh thường bấy giờ đã thay thế vị trí của chúa Nguyễn và chứng tỏ một cách không giấu diếm ý muốn trở thành chủ nhân duy nhất thành quả của cuộc chinh phục, sớm phủ nhận ưu thế của kẻ mà trước đây Nhạc phải nhờ cậy để có được vị trí chính thức. Chúa Trịnh, bận rộn vì những khó khăn ở Đàng Ngoài, không thể phản kháng gì được. Chúa mất năm 1781132, không lần nào trở lại Đàng Trong. Con trai là Trịnh Khải133 kế vị, nhưng chẳng bao lâu phải chạy trốn để tránh sự hận thù của dân chúng và các quan lại triều đình, trả lại ngai vàng sức mạnh và hào quang thuở trước. Lúc ấy vua Lê lẽ ra có thể nắm được quyền lực thật sự mà trước đây nhà vua chỉ giữ được những biểu hiện giả hình. Họ Nguyễn đã biến mất, họ Trịnh thì bị phân hóa, Tây Sơn thì chưa thật sự ổn định lực lượng. Mọi hoàn cảnh đều thuận tiện giúp nhà vua nắm thực quyền. Nhưng vị vua thiếu ý chí đã để cho Trịnh Tông khéo léo mưu mô tái tạo lực lượng đông đảo những người ủng hộ họ Trịnh. Các triều thần, hoảng sợ trước sự im lìm bất lực của nhà vua, bỏ triều đình để chạy đến phục vụ chúa Trịnh trẻ tuổi. Nhà chúa nắm lại quyền điều khiển mọi việc mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong khi vua Lê trở lại với những vui thú và thế giới tối tăm của mình. Tuy nhiên, Nhạc cảm thấy chật chội trong lãnh thổ chưa được tổ chức của mình. Những sự kiện xảy ra ở Đàng Ngoài cho thấy sự yếu kém của chính quyền miền Bắc mà cho đến giờ phút ấy Nhạc chưa hề có tư tưởng tỉ thí. Nhạc quyết tâm lợi dụng sự yếu kém này nhưng kế hoạch thì chưa rõ ràng dứt khoát. Vào lúc ấy, Nhạc chỉ tìm cách gây dựng lực lượng, củng cố vương quyền để mong có ngày cư xử ngang ngửa với vị chúa còn buộc vua Lê phải phụ thuộc. Phú Xuân, thủ phủ của Đàng Trong vẫn còn trong tay họ Trịnh, Nhạc muốn ra đấy, ngự trong lâu đài của họ Nguyễn, và được vua Lê thừa nhận là chúa Đàng Trong. Chẳng cần gì phải che đậy, Nhạc không ngần ngại vứt bỏ mặt nạ và đương đầu với thế lực của vì vương huyền bí đất An Nam. Nhưng thái độ ấy buộc Nguyễn Văn Nhạc phải có một hành động quân sự tức thời. Nhạc giao cho Nguyễn Văn Huệ một đội quân tinh nhuệ, lệnh cho Huệ tiến công ra thành Phú Xuân thần thánh, kết hợp cùng với các tướng Vũ Văn Nhậm và Nguyễn Hữu Chỉnh mà Nhạc đã hiểu rõ khả năng chiến đấu qua vô số những trận chiến. Phú Xuân lẽ ra có thể kháng cự một cuộc công kích dài lâu nhờ có sẵn kho lẫm dự trữ, đội quân đồn trú thiện chiến, và những phương tiện phòng ngự lợi hại. Kẻ bị vây lẽ ra có thể đợi quân cứu viện của Đàng Ngoài vào triệt hạ thế lực còn chưa ổn định của Tây Sơn. Nhưng tướng chỉ huy thành, vốn là người trước kia đã giao nộp thành cho quân Trịnh, nay lại mở cổng thành đón lực lượng công đồn mới sau vài ngày thương thảo. Thành công này làm bốc lên lòng hăng hái của tướng Nguyễn Văn Huệ trẻ tuổi. Huệ tiếp tục theo đuổi mạnh mẽ cuộc tiến công, quyết định tấn công quân Trịnh ngay trên lãnh thổ Đàng Ngoài, bất chấp những cảnh báo của Nhạc, hãy còn chưa sẵn sàng để em trai mình dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mà tham vọng ấy phải được thành tựu tùy thuộc vào quyết định của người chủ gia đình. Để chinh phục lòng dân Đàng Ngoài, nơi mà quân Nam gây nên chiến tranh, Huệ xuất hiện như một người giải phóng vô vị lợi các vua Lê mà Huệ hứa sẽ giúp dứt bỏ mối phụ thuộc nhục nhã với họ Trịnh. Huệ ra lệnh cho Hữu Chỉnh đợi mình tại Hiến Nam134 sau khi vượt qua Nghệ An và Thanh Hóa, rồi lợi dụng cơn gió thuận chiều, Huệ thân hành dong buồm ra xứ Nghệ và đánh tan quân Trịnh ở đấy, tiêu diệt các cứ điểm phòng vệ cảng mà không bị một tổn thất nào vì sự có mặt của quân Huệ đã làm cho đối phương kinh hoàng. Tuy nhiên, Huệ không hề chậm bước vì muốn tấn công gấp những lực lượng của đối phương trước khi họ Trịnh hoàn hồn. Huệ nhổ neo ra Bắc ngày 9 tháng 7 năm 1786, trong lúc ấy Hữu Chỉnh bằng đường bộ vững vàng và nhanh chóng ra theo với tiền quân. Ngày 11 tháng 7, thủy quân của Huệ có mặt tại bến Vị Hoàng và không ngờ rằng quân đồn trú ở đấy bỏ chạy trốn tan tác, để lại cho quân Tây Sơn bao nhiêu là kho gạo, vũ khí, quân lương. Ngày 18 tháng 7, sau khi cho dân chúng thu lượm lúa gạo và sau khi đã chất đầy gạo lên thuyền bè các loại bắt được trong bến, em trai của Nguyễn Văn Nhạc dong buồm ra Hiến Nam. Triều đình Thăng Long, trước đó vẫn còn bất nhất, cuối cùng cũng hết kinh hoảng và tìm cách chặn quân Tây Sơn, đối đầu trên đường bộ cũng như đường thủy với tất cả lực lượng có được. Hai đạo quân giao chiến với nhau vào chiều tối ngày 19 tháng 7 và trận đánh chỉ dừng lại vào bình minh hôm sau. Doanh trại quân Trịnh bị hạ, kinh đô bị bỏ ngỏ. Nhưng Huệ, đuối sức vì trận giao chiến đẫm máu mà binh lính của ông đã gian khổ nếm trải, không thể lợi dụng ngay thế thắng lợi, buộc phải tổ chức lại các đơn vị bị hao hụt quân số. Huệ chờ Hữu Chỉnh mang quân tiếp viện tới, trong lúc ấy quân Trịnh tập trung lại sau lũy tre bảo vệ Thăng Long. Cuối cùng, ngày 25 tháng 7, Hữu Chỉnh kết nối được với chủ tướng của mình. Quân Tây Sơn tiến về Thăng Long và họ nghĩ sẽ dễ dàng chiếm được, nhưng lại vấp phải quân Trịnh tuyệt vọng liều chết chiến đấu hết sức. Trận chiến diễn ra vô cùng khốc liệt, quân cố thủ liều chết ngay tại chỗ, nhưng cuối cùng cũng ngã gục trước một quân số đông hơn sau mười giờ chiến đấu dũng cảm. Chúa Trịnh [Khải] bại trận tự tử, trong khi đó quân chiến thắng tiến vào kinh đô của miền Bắc. Thế là chỉ một tháng cũng đủ cho Huệ kết thúc thắng lợi trận chiến lẫy lừng kia. Toàn bộ vương quốc đã thay đổi chủ và vua Lê, công nhận tình trạng mới của sự việc, đón tiếp rầm rộ kẻ mà mới hôm qua hãy còn bị xem như một tên thảo khấu tầm thường. Nhà vua phong Nhạc là người bảo vệ chính thức ngai vàng135. Tháng 9 năm 1786, vua Lê qua đời sau bốn mươi bảy năm trên ngôi136. Hoàng tử Lê Duy Khiêm nối ngôi lấy hiệu là Chiêu Thống137. Việc nối ngôi xảy ra không gặp điều gì trở ngại, vì dân chúng vốn quý mến nhà Lê bày tỏ lòng thành kính tự nhiên với gia đình hoàng tộc, mà ở đó Huệ được xem như người giải phóng cho vương triều. Việc được lòng nhà Lê làm kẻ chiến thắng họ Trịnh bối rối. Nếu muốn, Huệ có thể hạ bệ Lê Duy Khiêm, như lời khuyên của Hữu Chỉnh, nhưng vì đã vượt quá mệnh lệnh của anh mình và lo sợ Nhạc tức giận, nên Huệ đâm ra do dự, chần chừ tránh né, và để cho hoàng đế Thái Đức có đủ thời gian kịp ra gặp mặt, làm tiêu tan mọi hy vọng của Huệ. Vua xứ Đàng Trong [Nguyễn Nhạc] quả tình cho rằng chưa phải lúc trải rộng sức mạnh của mình trên toàn lãnh thổ. Họ Trịnh và họ Nguyễn đã biến mất, kể từ nay vua xứ Đàng Trong là đại biểu duy nhất cho sức lực của quốc gia, nhưng Nhạc còn cần sự hậu thuẫn về tinh thần của vua Lê chính thống, sự tin cậy của các quan và dân chúng để vững mạnh hơn. Mặt khác Nhạc còn nỗi lo về tham vọng của Huệ mà những chiến thắng đã đảo lộn quá sớm tình hình nội bộ vương quốc. Thế nên Nhạc đã tỏ một thái độ vô vị lợi, từ chối đề nghị của vua Lê cùng hoàng gia cai trị xứ Đàng Ngoài138, rồi ông rút về Phú Xuân cùng với em trai, sau khi đã ra lệnh cho Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An139 bảo vệ đất nước, phòng những kẻ theo họ Trịnh quay trở lại và huấn luyện quân lính mới tuyển. Nhưng quân Trịnh, tản mát từ khi Trịnh Khải chết, tìm được Trịnh Bồng140 là người trong dòng họ để tôn làm thủ lĩnh mới, rồi tiến về kinh đô tập hợp lại bất chấp những nỗ lực từ khước của vua Chiêu Thống. Nhà vua buộc phải nhượng bộ, trao trả cho Trịnh Bồng tước vị thừa kế của họ Trịnh. Nhưng vị chúa mới này bị Hữu Chỉnh đánh tan tại Bắc Ninh. Kể từ đó họ Trịnh biến mất vĩnh viễn. Trong lúc ấy, Huệ và Nhạc lại bất hòa, sau khi đánh nhau để tranh sở hữu tài sản chung từ các cuộc chinh phạt, họ chia vương quốc làm ba miền. Anh cả giữ phần đất từ Quảng Nam vào đến cuối Bình Định, người thứ hai giữ phần đất phía bắc của Đàng Trong bao gồm thành Huế-Phú Xuân. Em út Lữ xưng vương ở vùng phía Hạ Đàng Trong là nơi bắt đầu có cuộc tranh chấp với Nguyễn Ánh141. Cuộc chia phần vừa xong, Huệ bấy giờ có quyền làm chủ mọi hoạt động, tiến quân ra Thăng long lần thứ hai, thực hiện tham vọng bền bỉ của mình. Cộng sự trước kia là Hữu Chỉnh, tuân lệnh vua Lê đem quân ra chống nhưng bị Huệ nghiền nát lực lượng. Huệ vào thẳng kinh thành, chiếm giữ ngôi vị cai quản142. Chiêu Thống chạy trốn qua Trung Hoa để cầu cứu viện. Hoàng đế nhà Thanh chấp thuận lời cầu xin, gửi một đạo quân đưa Chiêu Thống về lại ngai vàng. Nhưng Chiêu Thống không biết lợi dụng sự có mặt của quân đội đồng minh để mạnh mẽ đuổi theo kẻ địch. Sự hung bạo, những lỗi lầm lặp đi lặp lại, những cuộc trả thù man rợ được tiến hành với danh nghĩa nhà vua đã biến ông thành một vị vua bị căm ghét143. Cuối cùng, ông đã làm chính những kẻ bảo vệ mình mất kiên nhẫn, để cho quân Tây Sơn chiếm lại Thăng Long. Quân Thanh rối loạn đào thoát khỏi Đàng Ngoài. Chiêu Thống xin vua Thanh được tị nạn và từ đấy không bao giờ trở về quê hương nữa (1789)144. Nguyễn Văn Huệ, kẻ chiến thắng, chiếm Thăng Long lần thứ ba. Chương II - Nguyễn Ánh - Chiến dịch ở Nam kỳ - Giám mục Bá Đa Lộc ở Pondichéry Năm Nguyễn Ánh được mười bảy tuổi145 lúc chú là chúa Duệ Tông và cháu là Mục vương bị Tây Sơn giết chết. Ánh trở thành người thừa kế các chúa Đàng Trong. Nhưng dường như Ánh không được kêu gọi để giành lại quyền lực mà các chúa Nguyễn đã đánh mất. Những kẻ cộng sự chán nản đã bỏ trốn, gia đình thất tán, và chính bản thân Ánh cũng lang thang từ làng này qua xóm nọ, ban đêm núp trốn trong những chòi tranh xa khuất, lén lút nhận những bữa ăn khốn khổ do những nông dân sợ sệt mang đến. Ánh khiến cho đối phương thương hại một cách khinh bỉ hơn lo sợ nhưng dẫu sao họ cũng phải tìm giết cho được Ánh để tuyệt diệt dòng họ Nguyễn. Bị săn lùng khắp nơi, ông hoàng này tìm cách qua Cao Miên rồi từ đó qua Xiêm. Ông viết thư gửi quốc vương các nước ấy xin được trú ngụ, nhưng chẳng hề nhận được thư trả lời. Bị quân Tây Sơn lùng sục nhưng Ánh trốn thoát một cách kỳ diệu, ông ra một đảo hoang ở vịnh Xiêm La146 và ẩn nấp ở đấy với vài người thân cận. Mọi thứ đều thiếu thốn trên hòn đảo hoang khô cằn này. Chẳng mấy chốc kẻ đào tị khổ sở vì thiếu ăn, Ánh nghĩ đến việc về lại đất liền, thì lúc ấy Giám mục Adran tiếp tế được cho Ánh vài túi gạo xấu và cá ướp muối. Nhiều tháng trôi qua như vậy, trong khốn khổ vật chất và trong khắc khoải. May mắn thay quân Tây Sơn không thèm đuổi theo nữa, khinh khi đối thủ mà họ đã gây cho bao nhiêu khổ nạn. Nhờ hỏi thăm các ngư dân, Nguyễn Ánh biết được sau cuộc rượt đuổi đẫm máu qua khắp miền châu thổ sông Cửu Long, quân Tây Sơn đang chuẩn bị rút binh về phương Bắc để tiến hành việc chia chác dứt khoát lãnh thổ. Cho rằng Ánh không còn nghĩ đến chuyện phục quốc bất khả thi kia nữa, hoàng đế Thái Đức bỏ qua việc chiếm đóng kỹ lưỡng các thị trấn trong vùng châu thổ, nơi có thể trở thành chỗ ẩn nấp cho Nguyễn Ánh. Nhà vua tập hợp quân đội và trở về phương Bắc, chỉ để lại tại Gia Định một đội quân đồn trú nhỏ. Tức thì Nguyễn Ánh vượt biển trên một chiếc thuyền rách nát trở về Cà Mau nơi có một nhóm người trung thành đón đợi. Ánh cùng họ tiến về Sa Đéc, rồi lực lượng mỏng của ông từng bước gia tăng số lượng nhờ người gia nhập đến từ những đồng ruộng xa xôi ở mỗi đoạn đường. Ánh tiến chiếm Vĩnh Long rồi Mỹ Tho. Nguyễn Ánh lúc ấy do dự không biết nên tiếp tục thắng lợi tiến quân về Gia Định, hay đóng quân tại Biên Hòa, tổ chức quân đội cho thật vững vàng để chờ kẻ thù trở lại? Chiếm đóng Gia Định xác định được sự thành công, tuy nhiên đấy là một vị trí dễ bị tấn công. Nguyễn Ánh biết rằng mình không thể bảo vệ vị trí này, chống lại những đội quân được trang bị tốt mà đối phương đã gửi vào tấn công. Mặt khác, thời tiết sắp sang mùa và các tướng hối thúc Ánh quyết định. Mẹ của Nguyễn Ánh, dường như rất có ảnh hưởng đến các quyết định của con, thúc giục Ánh chiếm Gia Định là nơi bà tin có thể tìm ra lương thực và vũ khí cho quân sĩ. Mặc dầu thế, Nguyễn Ánh quyết định đóng quân tại Biên Hòa. Nhưng một cơn lụt do nước sông Đồng Nai dâng lên buộc Ánh phải tiến chiếm Gia Định mà không gặp kháng cự nào (năm 1777147). Nguyễn Ánh, mặc dầu tuổi còn trẻ và vì đã từng chịu nhiều bất hạnh, không quá vui mừng với thắng lợi quá dễ dàng. Những tình huống thuận lợi đã dẫn dắt Ánh đến tận Gia Định. Nhưng từ những ngày đầu tiên, Ánh đã thấy rõ là không thể bảo vệ vị trí chỉ bằng chính lực lượng của riêng mình. Quân đội của Ánh chỉ là một đám hỗn loạn thiếu kỷ luật. Việc tiếp vận cung cấp mà Ánh mong đợi vẫn không có, mặc dầu có sự giúp đỡ nhiệt tình của các thương gia vùng Chợ Lớn. Quan lại quan tâm đến thứ vị hơn là nghĩ chuyện đối phó với cuộc chiến. Ngay cả thân mẫu của Ánh, trước hiện tình hỗn độn mà Ánh phải vật lộn, cũng khuyên Ánh nên lợi dụng vị thế hiện tại để điều đình với hoàng đế Thái Đức. Ánh chịu đựng những trách móc của người thân, sự bất mãn của các tướng sĩ thân cận, đi vuốt ve kẻ này, năn nỉ người nọ, nhờ vào những lời hứa hẹn và sự nhẫn nhục để tạo nên được một nỗ lực mới ở các tướng sĩ phụ tá. Nhưng Ánh không bao giờ quên những xúc phạm nhằm đến uy quyền của mình, không tha thứ cho những tổn thương mình phải chịu trước ba quân. Và một khi ổn định trở lại, Ánh sẽ áp đặt ý chí của mình lên công việc với một thái độ tàn nhẫn đầy hiềm thù. Trong hoàn cảnh chỉ còn có một lực lượng gồm những người đi theo lâu nay, Nguyễn Ánh tìm chung quanh mình những đồng minh. Người Cao Miên lại lẩn tránh lần thứ hai, Ánh quay sang người Hoa ở Căn Cáo khẩn khoản họ giúp sức, viện dẫn quyền hạn chính đáng của họ, nhắc nhở những điều khoản thật ra đã lỗi thời của hiệp ước năm 1663, hứa hẹn những quyền lợi cá nhân to lớn, nỗ lực thuyết phục đến mức người Hoa phải đồng ý gửi binh lính, vũ khí, lương thực mà Ánh rất cần. Nguyễn Ánh trang bị quân đội, mau chóng tổ chức lại binh sĩ của mình, có binh sĩ người Hoa hỗ trợ vững chắc. Rồi sốt ruột muốn giải quyết với kẻ địch, Nguyễn Ánh xuất quân tấn công và đánh tan quân Tây Sơn ở gần Bình Thuận. Chiến thắng này có được nhờ vào sự bền chí và sự tự tin của Nguyễn Ánh, đã làm Ánh kiêu hãnh. Nguyễn Ánh trở về Gia Định với tư cách là kẻ chiến thắng và tự xưng Nguyễn vương148. Nguyễn Văn Lữ thất trận, chưa nghĩ đến chuyện báo phục. Nguyễn vương lợi dụng tình hình tĩnh lặng ấy để phô trương quyền lực của mình trong tất cả các vùng ở hạ Đàng Trong; tạo cho quyền lực đang nắm giữ một sắc thái dứt khoát, chỉ giữ lại những người trung thành đã theo mình mà không hề phàn nàn, gạt đi những kẻ khác, ông cai trị với tư cách người chủ tuyệt đối, buộc tất cả mọi người phải tôn trọng con người và uy quyền của Nguyễn vương. Vương vẫn không quên thái độ lạnh lùng của người láng giềng Cao Miên, vốn là chư hầu của xứ Đàng Trong theo điều ước 1675. Thế nên, một khi Nam bộ đã bình định xong, Nguyễn vương dứt khoát từ nay bảo đảm cho mình sự tuân phục của vua nước láng giềng. Nguyễn vương lợi dụng những rối rắm nội bộ ở vương quốc Cao Miên để làm cho vua nước này hoảng sợ bằng những chuẩn bị chiến tranh mà trong thực tế mình không có ý định theo đuổi chút nào. Vua Cao Miên sợ hãi, chấp nhận thực hiện lại hiệp ước Bảo hộ [protectorat] và triều cống thường niên (năm 1778). Một thời gian ngắn sau, Nguyễn Ánh rút lực lượng về Biên Hòa để có thể trông nom toàn vùng hiệu quả hơn. Chính vào giai đoạn này, vai trò của Giám mục Adran được khẳng định thông qua trong những hoạt động của vương quốc. Nguyễn vương thường xuyên tham khảo ý kiến và rất thường nghe theo ý kiến của vị giám mục trước sự bất mãn của tướng sĩ, sợ rằng chủ nhân của mình cải đạo theo Thiên Chúa giáo. Quả tình giám mục sử dụng tất cả ảnh hưởng của mình để nhằm thuyết phục Nguyễn Ánh. Nhưng Nguyễn vương, vừa không cản trở các khuynh hướng nảy nở trong đám cận thần của mình, cũng không nhiệt tình ủng hộ uy tín của giám mục đang lan rộng trong quần chúng Nam bộ. Nguyễn Ánh và Giám mục Adran mỗi người theo đuổi quan điểm của mình đồng thời lừa dối lẫn nhau. Nguyễn vương nuôi mong ước trở về Thuận Hóa, cảm nhận sự cần thiết phải tôn trọng giám mục vì sự giúp đỡ của giám mục có thể là rất quý báu. Nguyễn vương dẫn dắt một cách từ tốn giám mục đến với ý tưởng về một quan hệ với nước Pháp vừa làm cho choáng ngợp về những lợi ích mà sự hợp tác có thể mang lại cho hai quốc gia. Pigneau de Béhaine, người mà tham vọng không thiếu phần hào hiệp, nóng lòng đóng một vai trò khẳng định được những phẩm chất của một con người hành động và của một nhà ái quốc. Giám mục biết rõ hơn ai hết những tài nguyên đa dạng của châu Á. Trên quan điểm kinh tế cũng như quan điểm chính trị, nước Pháp chỉ việc rút được những lợi lộc vô tận từ một liên minh như thế mà rất ít chịu tốn kém hy sinh. Sự can thiệp của giám mục vào những công việc của người An Nam gây một tác động rõ rệt đối với hoạt động của người Anh và mang lại cho Chính phủ Pháp những phương tiện hiệu quả, không chỉ ngăn cản người Anh thực hiện những dự án mà họ phải hất cẳng người Pháp ra khỏi Ấn Độ để bành trướng và mở rộng cơ sở của khắp mọi nơi trên vùng bờ biển phía đông, mà còn làm người Anh phải lo ngại trong vịnh Bengale vốn là đại bản doanh của họ. Giám mục nghĩ đến việc viết một lá thư cho Chính phủ Pháp, thì bỗng nổ ra một cuộc khởi nghĩa buộc ông cùng các linh mục và học viên trốn chạy. Nguyễn vương cố gắng trấn áp bạo loạn, nhưng đành chịu thua trước quy mô rộng lớn của nó. Vương phải về ẩn nấp trong vùng Vàm cỏ, nơi có một số tướng sĩ tìm về theo trong khi quân Tây Sơn chiếm lại đất Phú Yên và Bình Thuận. Nguyễn vương không cách gì chặn đứng quân địch, phải chạy về Rạch Giá rồi Hà Tiên và cuối cùng lên thuyền ra Phú Quốc. Giám mục đã lánh ẩn bên Cao Miên, nhưng bỗng chốc lại bị đe dọa. Nguyễn Văn Nhạc sau khi áp đặt quyền Bảo hộ với vua Cao Miên, yêu cầu vị này phải giao nộp những kẻ đào tị Nam bộ. Pigneau de Béhaine trốn được qua đất Lào, lang thang từ làng này sang làng khác mà không tìm đâu ra một nơi trú ẩn an toàn. Mãi cho đến khi quân Tây Sơn rút về thì giám mục mới trở lại Gia Định, chờ Nguyễn vương trở về Gia Định lần thứ hai (năm 1782)149. Nguyễn vương không hưởng được sự bình yên lâu dài. Qua năm sau, quân Tây Sơn lại xuất hiện. Ánh bị đánh bại, chạy về ẩn nấp ở Ba Giồng, gần Mỹ Tho. Quanh Ánh chỉ còn lại sáu tướng và một trăm quân cùng theo về đến Long Xuyên ngày 26 tháng 9 năm 1783. Chỉ huy quân Tây Sơn tên là Nguyễn Hòa rượt theo, sai một đội thủy binh gồm năm mươi chiến thuyền trấn đóng ở cửa sông Đốc để chặn đường. Nhưng Nguyễn Ánh được các tù binh thông báo việc nguy hiểm đang đe dọa, ra lệnh lập tức khởi hành, tận lực tay chèo để thoát hiểm. Quân rượt theo không bắt kịp, Nguyễn Văn Lữ và Nguyễn Văn Huệ đành phải quay về Qui Nhơn, để lại phò mã Trương Văn Đa và Chưởng tiền Bảo trông coi vùng Nam bộ. Thuyền chở nhóm người đào tẩu ghé đến Hòn Chông, nhưng chỉ dừng tại đảo Poulo-Panjab150 sau một hành trình thê thảm sáu ngày trên biển cả cuồng nộ. Một sự kiện bất ngờ đón chờ Nguyễn Ánh trên đảo: Giám mục Adran và các đồng đạo đã đến đảo Poulo-Panjab trước đó vài hôm, nơi mà một cảm hứng phù hợp cũng dẫn dắt Nguyễn vương đến. Sự hiện diện của Pigneau de Béhaine làm vững lòng vương và gia đình. Đối diện nghịch cảnh với một nghị lực quen thuộc, vương lập tức thảo luận với giám mục những phương cách để tiếp tục chiến đấu. Vùng Nam bộ không còn cung cấp nguồn lực được nữa, họ quyết định xin nước Xiêm giúp đỡ. Giám mục tự mình đi Vọng Các (Bangkok ngày nay) thương thảo những điều khoản về một hiệp ước. Giám mục được tiếp đãi lịch sự, vua Xiêm cung cấp cho Nguyễn vương một nơi trú ngụ trong lãnh thổ của mình, nhưng từ khước dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quân sự mà ông cho là quá sớm. Giám mục quay về lại Poulo-Panjab báo cáo cho Nguyễn vương kết quả của chuyến đi. Giám mục bắt gặp lúc trở về đảo những đại diện của chính quyền Hà Lan ở Batavia đang lôi kéo Nguyễn Ánh chấp thuận nhượng độc quyền thương mãi ở Nam bộ cho họ, đổi lại họ hứa hẹn giúp vương lên ngai vàng. Giám mục kinh hoàng, thuyết phục Nguyễn Ánh cắt đứt mọi thương thảo đã giao kết trong thời gian giám mục vắng mặt. Giám mục trình bày cho vương biết là một hiệp ước như thế chỉ mang lại cho vương lợi ích hão huyền khi cai trị một dân tộc làm nô lệ cho ngoại bang. Nguyễn Ánh không phải là không hiểu điều ấy, nhưng đồng thời có người Anh và người Bồ đào Nha đến cầu xin, vương so sánh những hứa hẹn của nhóm người này với những hứa hẹn của nhóm người khác, thương lượng, thảo luận, mưu mẹo. Quá khôn ngoan để không phải cho nhiều hơn nhận, vương cố gắng dẫn dắt Giám mục Adran đến chỗ đề nghị một giúp đỡ vô vị lợi từ phía Pháp. Pigneau de Béhaine không ngừng theo đuổi hy vọng về một thỏa hiệp sẽ có ảnh hưởng đến vị thế của Pháp tại Ấn Độ, đệ trình lên vương một dự thảo hiệp ước mà giám mục vẫn cất giữ bấy lâu. Vương chuẩn y, tập hợp một hội đồng và sau nhiều lần thảo luận, chính thức giao phó cho giám mục nhiệm vụ gửi đến vua Louis XVI dự thảo hiệp ước ấy đồng thời ủy thác cho giám mục mang con của vương là Hoàng tử Cảnh151, sinh tại Biên Hòa năm 1779, cùng đi theo. Có lẽ rất thú vị khi đưa vào đây toàn bộ nội dung hiệp ước do một vị vua An Nam đề nghị với nước Pháp vào một giai đoạn mà chính sách của các bộ trưởng Pháp đặt nặng vấn đề thứ tự độc quyền, những cuộc phiêu lưu xa xôi được xem như những việc làm khinh suất, vô ích và tốn kém: “Hội đồng Hoàng gia sau khi đã thảo luận về tình trạng hiện tại của công việc nhà nước, quyết định: 1. Rằng sự giúp đỡ của một cường quốc phương Tây trở nên cần thiết để khôi phục trở lại cương vị của Đức vua. Đức vua xin trao quyền lợi của mình vào tay quốc vương nước Pháp, là quốc gia mà sức mạnh, lòng tốt và sự công chính của chính phủ được Đức vua biết đến, ưu ái hơn mọi cường quốc khác. 2. Rằng để bắt đầu và chấm dứt việc thương thảo cho công cuộc trọng dại này, Đức vua phó thác cho Giám mục Adran, người gốc Pháp, mà từ lâu cả nước đều biết tính cẩn trọng và lòng yêu mến điều thiện. 3. Rằng Đức vua ban cho giám mục những quyền hành không giới hạn, để nhân danh ngài, yêu cầu triều đình Pháp quốc những hỗ trợ cần thiết và thực hiện cùng với triều đình Pháp quốc những thỏa thuận phù hợp nhất và thích đáng nhất để mang lại lợi ích cho hai quốc gia liên quan. 4. Rằng để bảo đảm với triều đình Pháp quốc sự trung thực trong những mục đích của mình, Đức vua chấp thuận ủy thác hoàng tử, con trai duy nhất kế nghiệp của quốc gia, cho vị giám mục người Pháp nói trên tùy nghi săn sóc để giáo dục vị hoàng tử mà Đức vua rất yêu dấu và rất trân quý đối với quốc gia. 5. Rằng để tránh những khó khăn trong việc bảo chứng nội dung đích thực của văn bản được viết bằng ngôn ngữ nước ngoài trong một xứ sở chỉ có những người liên quan là thông hiểu, Đức vua ủy thác cho giám mục nói trên ấn tín hoàng gia và, tại mọi quốc gia, được xem như là sự ủy nhiệm vương quyền, để trong mọi trường hợp, triều đình Pháp quốc được bảo chứng về những quyền hạn của Giám mục Adran và có thể tin cậy vào những thắng lợi của việc hợp tác mà triều đình Pháp quốc sẽ có thể thực hiện. 6. Rằng giám mục nói trên sẽ nhân danh quốc vương xứ Đàng Trong, yêu cầu triều đình Pháp quốc hỗ trợ một ngàn năm trăm binh sĩ, một số chiến hạm cần thiết để chuyên chở pháo binh diện địa, đạn được quân nhu cần cho chiến tranh, và nói chung tất cả những gì cần thiết và hữu dụng cho cuộc viễn chinh. 7. Rằng đi cùng với hoàng tử và Giám mục Adran có hai võ quan cao cấp của triều đình cùng đoàn tùy tùng; hai tướng này152 cũng là con tin đảm bảo ý muốn chân thành của Đức vua về việc hợp tác với triều đình Pháp quốc. 8. Rằng Giám mục Adran, thay mặt nhà vua và Nội các, có nhiệm vụ đề nghị nhượng và tặng cho quốc vương Pháp toàn quyền sử dụng hòn đảo hải cảng chính của Đàng Trong mà người Pháp gọi là Tourane còn người bản xứ gọi là Hội An, để tùy ý xây dựng cơ sở. 9. Rằng thừa nhận quyền sở hữu của Pháp quốc, cùng với người xứ Đàng Trong, đối với hải cảng nói trên để trông coi, sửa chữa hoặc đóng mới các tàu thuyền mà triều đình Pháp quốc nhận thấy cần thiết. 10. Rằng giám mục nói trên sẽ đề nghị triều đình Pháp quốc quyền sở hữu đảo Poulo-Condor (Côn Đảo). 11. Rằng Đức vua chấp thuận cho Pháp quốc buôn bán trên lãnh thổ của mình, loại trừ mọi quốc gia phương Tây khác. 12. Rằng Đức vua cam kết, nếu Pháp quốc giúp đỡ và khôi phục cho ông ngôi vị, thì ông cũng trợ giúp tương tự cho vua Pháp quốc bằng binh lính, thủy thủ, lương thực, tàu thuyền... vào mọi lúc khi được yêu cầu và mọi nơi khi cần thiết. 13. Rằng Đức vua báo trước cho Giám mục Adran, nếu triều đình Pháp quốc yêu cầu những điều mà hoàng thượng không lường trước được, thì giám mục nói trên chỉ được phép chấp thuận khi các điều khoản đòi hỏi không phương hại bằng mọi lẽ đến lợi ích của thần dân trong vương quốc. Rằng giám mục nói trên, là người hoàn toàn hiểu biết phong tục và tập quán của xứ Đàng Trong, sẽ trình bày với triều đình Pháp quốc rằng hiệp ước mà Đức vua mong muốn thực hiện với triều đình Pháp quốc sẽ chỉ nhất quán khi các điều khoản công bằng và hữu ích cho các quốc gia ký kết. 14. Cuối cùng, Đức vua cho Giám mục Adran hiểu rằng, lúc trao trọn cho giám mục số phận của mình và của tất cả thần dân, Đức vua chờ mong - bằng vào sự gắn bó của ông với bản thân Đức vua, giám mục sẽ tiến hành thương thảo này, với sự mau chóng tùy theo hoàn cảnh, mọi sự cẩn trọng mà Đức vua đã luôn luôn thừa nhận ở giám mục - rằng sự cứu rỗi một thánh chức mà ông đã luôn hoàn thành với nhiệt huyết phải tùy thuộc vào cuộc thương thảo này, và vì thánh chức ấy cho đến nay giám mục đã chịu nhiều hy sinh to lớn nhất. Rằng cuối cùng, thành công này sẽ minh chứng cho lòng nhân từ của Đấng Tối Cao mà giám mục là sứ giả và lòng khoan dung quốc vương vĩ đại mà giám mục là thần dân, giám mục sẽ mãi mãi xứng đáng với lòng biết ơn của Đức vua và của vương quốc Đàng Trong. Hội đồng Hoàng gia, ngày 10 tháng Bảy năm Cảnh Hưng thứ 43 [18-8-1782]. Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh - tranh vẽ của họa sĩ Pháp Mauperin, Paris, 1787. Giám mục và Hoàng tử Cảnh rời Poulo-Panjab ngày 25 tháng 11 năm 1784 để di Pondichéry và đến nơi vào tháng 2 năm 1785, sau khi đã dừng chân tại Malacca một thời gian. Nguyễn Ánh cũng lên thuyền về đất liền một thời gian ngắn sau khi giám mục ra đi, để nắm quyền chỉ huy một đội quân mà vua Xiêm đột nhiên quyết định gửi đi đánh quân Tây Sơn. Cuộc viễn chinh này kết thúc bằng một thất bại thảm hại và vương trở về ẩn náu trên đảo cũ153, gửi cho Giám mục Adran thông tin về cuộc thất trận như sau: “Sau khi Đức thầy ra đi thì đến lượt chúng tôi. Chúng tôi và quân đội Xiêm đến Mang Thít [Mân Thít] với hy vọng đánh dẹp bọn nổi loạn Tây Sơn. Chúng tôi đã bắt giữ một chiến thuyền và năm thuyền vận tải, rồi chúng tôi đến thẳng vùng Rạch Giá. Tại đấy, quân Xiêm mặc sức buông thả vào những ham muốn của chúng, cướp bóc, hãm hiếp đàn bà và con gái, trộm cắp tài sản của người dân, giết chóc không phân biệt trẻ hay già. Vì thế mà lực lượng phe nổi loạn càng ngày càng phát triển trong khi lực lượng quân đội Xiêm càng lúc càng giảm sút. Điều đó khiến cho chúng tôi nhận thảm bại vào mồng 8 tháng Chạp [tức ngày 18 tháng 1 năm 1785]. Tất cả các đội quân đều bị đánh tan. Thêm vào đó, ngày chúng tôi bị một cơn bão, mà thuyền bè ở các đảo lại vẫn cứ bình như vại. Hoàng thái tử [Cảnh] của chúng tôi đã lên thuyền vào lúc 10 giờ ngày rằm [tức ngày 25 tháng 11 năm 1784], còn bây giờ chúng tôi đã về lại trạm cũ Hòn Khoai”. Nguyễn Ánh ở lại trên đảo đến ngày 9 tháng 4 năm 1785. Cuối cùng, quyết định chấp thuận lời mời của vua Xiêm, lên thuyền đi Vọng Các và ở lại nơi ấy đến tận ngày 13 tháng 8 năm 1787. Tại Pondichéry, Giám mục Adran hy vọng có thể thuyết phục quan thống đốc154 một cách dễ dàng về lợi ích của một sự ủng hộ lập tức đối với người sẽ trở thành quốc vương. Thế nhưng, một nỗi thất vọng dành sẵn cho giám mục từ những người mà ông đặt nhiều hy vọng nhất. Giới giáo sĩ ở Pondichéry, thay vì thuận ý theo những quan điểm chính trị của ông, đã phàn nàn dữ dội rằng ông đã bỏ rơi Sứ mệnh Thừa sai của mình để chạy theo một cuộc phiêu lưu mà họ cho là ngược lại với tính cách mà ông được đào tạo. Nhiều báo cáo được gửi đến các Giám đốc Chủng viện tại Paris, lên án với những lý do không phải là không có thực, rằng giáo sĩ, vì tình thân với Nguyễn Ánh, đã khiến cho Tây Sơn căm ghét người Thiên Chúa giáo ở Đàng Trong. Báo cáo trách cứ bằng những ngôn từ mãnh liệt rằng giám mục muốn thúc đẩy nước Pháp vào một cuộc phiêu lưu vô bổ đối với quốc gia và đầy hiểm nghèo cho tôn giáo, bởi lẽ dưới mắt của tất cả mọi người hẳn nhiên rằng quân nổi dậy sẽ thắng một cách dễ dàng quân đội phương Tây, bị phó mặc duy nhất vào khả năng của chính mình trong một xứ sở độc hại như thế, và hướng tất cả sự cuồng nộ về phía những cơ sở phải khó nhọc lắm mới dựng lên được của những linh mục Hội Thừa Sai. Ngoài những chống đối không ngờ của giới tu sĩ, giám mục tìm được rất ít sự ủng hộ từ những đại diện của chính quyền. Ông Coutanceau des Algrains, cựu chiến binh có đầu óc tỉ mỉ, không có ác ý, nhưng cũng không có cá tính, cai quản thuộc địa [Pondichéry], với người phụ tá là đại tá hải quân de Souillac. Hai người này, vốn không muốn báo động sự ngờ vực cho chính phủ Anh quốc bằng những sáng kiến mà họ cho là nguy hiểm, đã đón tiếp trân trọng giám mục, nhưng tuyên bố với ông rằng kế hoạch của giám mục là không thể thực hiện được. Họ khuyên giám mục nên từ chối nhiệm vụ sứ giả mà vua xứ Đàng Trong giao phó và đừng vượt quá giới hạn của vai trò dẫn dắt con chiên của mình. Thống đốc viết thư cho bộ trưởng để trình bày những lúng túng của mình, liệt kê những lý do khiến ông cho rằng một cuộc viễn chinh đến một xứ sở mà ông tuyên bố là thiếu thốn mọi tài nguyên khả dĩ thu hút người Âu châu là quá mạo hiểm. Như thế, về phía các tu sĩ, cũng như về phía đại diện của Pháp hoàng, Pigneau de Béhaine không tìm ra nơi nào để trông cậy. Chán nản với những người đồng hương mà ông tin có thể tìm được sự đón nhận nồng nhiệt, ông nghĩ có thể kêu gọi người Bồ Đào Nha giúp đỡ, và ông đã viết thư gửi cho Nghị viện Macao vào ngày 8 tháng 7 năm 1785. Lá thư nói lên tâm trạng của giám mục vào lúc ấy, bị công kích vì những tình cảm nảy sinh với Nguyễn Ánh, vì những tấm lòng yêu nước và vì tinh thần trách nhiệm của mình: “Tháng 4 năm 1780, tôi nhận một lá thư của ông Francis Xavier De Castro, lúc ấy là thống đốc Macao. Theo thư ấy, thống đốc nhờ tôi xin vua xứ Đàng Trong cho thống đốc Goa giấy phép đặc quyền khai khác thương mãi của xứ Đàng Trong. Đổi lại, thống đốc Goa sẽ có trách nhiệm tìm mọi cách giúp đỡ Đức vua khôi phục cương vị của mình ở trong nước. Lúc nhận được thư thì tôi đang lẩn trốn trong vương quốc Cao Miên, vì thế tôi không thể làm thỏa mãn yêu cầu ấy. Lúc đi qua vịnh Xiêm La, tôi đã gặp Đức vua. Tin rằng sứ mạng là... ông hoàng ấy, tôi... chuyển hướng, hứa giới thiệu ông với những cường quốc Thiên Chúa giáo. Để yên tâm hơn, tôi cũng đã yêu cầu Đức vua trao cho tôi con trai duy nhất của ông mà hiện nay đang ở bên cạnh tôi. Bởi vì lúc ấy tôi không thể đi đâu khác ngoài Pondichéry, tôi định trước hết ưu tiên cung cấp việc ấy cho người Pháp, nhưng tôi thấy họ có quá ít đức tin nên tôi, nói trước mặt Chúa, đã quyết định tiếp xúc với quốc gia Bồ Đào Nha. Người Anh, vào năm 1778, đã đến với ý muốn giúp đỡ ông hoàng này... Trong năm này, họ nhiều lần năn nỉ tôi chấp thuận giao cho họ hoàng tử trẻ tuổi. Nhưng ngài cũng khá hiểu những lý do mà vì thế tôi không thuận làm họ vui lòng. Chỉ có những lý do tôn giáo, trước Chúa và con người, mới có thể miễn xá cho tôi khi chọn một quốc gia khác ngoài quốc gia tôi thuộc về. Vì lý do ấy tôi đề nghị giao lại cho Đức vua xứ Đàng Trong, con trai của người, sáu hoặc bảy trọng thần, những phương cách dễ dàng để khôi phục ngôi vị cho Đức vua, và không chỉ là những phương cách để bù lại những tiêu tốn có thể cần phải hao phí, mà còn để thiết lập trong xứ sở ấy một nền thương mãi vừa sáng lạng cho nước Bồ Đào Nha lại vừa có lợi cho thành phố Macao... Nếu chẳng may không nhận được tin tức của Đức vua ở nơi đã chỉ định (Poulo-Panjab), công việc vẫn sẽ không đổi, vì trong tay tôi vẫn có hoàng tử bé mà tôi sẽ đưa về Macao. Tất cả những ai đã gặp tôi ở xứ Đàng Trong đều khá hiểu kinh nghiệm tôi đã trải qua trong nước để thừa nhận rằng tôi không đề xuất bất cứ điều gì mà tôi không được yên tâm. Mong ngài cho tôi biết sớm quyết định của ngài về vấn đề này và cho dầu ngài quyết định như thế nào cũng xin giữ thật kín giúp tôi. Quốc gia tôi sẽ chỉ có thể thấy rất tệ rằng sau khi đã trình bày điều này với họ như là không mấy ích lợi, mà nay tôi lại đã trình bày với ngài bằng một cách khác”. Tuy nhiên, giám mục cũng đồng thời viết thư cho bộ trưởng Pháp, hầu tước de Castries155. Điều ấy chứng tỏ giám mục gọi người Bồ Đào Nha chỉ là chuyện trái lòng, vì thất vọng. Sự ngưng trệ công việc đè nặng lên ông, thái độ thù nghịch của những người chung quanh làm ông bất bình. Và con người thép ấy, bị dày vò vì những cảm xúc trái ngược, phó mặc mọi sự. Có lúc ông định buông bỏ tất cả, đi ngược lên phía bắc xứ Đàng Trong, bấy giờ là giang sơn của Tây Sơn, chấp nhận tuẫn đạo. Nhưng sự suy sụp ấy chỉ kéo dài một thời gian ngắn, lúc trở lại chiến đấu, giám mục đã chinh phục cho mục đích của mình những thương gia ở Pondichéry và Bourbon đang muốn phát triển mạng lưới thương mãi vốn bị người Anh kiểm soát gắt gao. Chính vào lúc ấy các ông Coutanceau des Algrains và de Souillac được thay thế bởi các ông Charpentier de Cossigny và đại tá hải quân d’Entrecasteaux. Vị đại tá này, một thủy thủ hạng nhất, một sĩ quan lỗi lạc nhờ vào một trí tuệ chính xác, tầm nhìn rộng rãi về các vấn đề thuộc địa, đặc biệt chú ý đến các kế hoạch của giám mục. Ông nhiệt tình chấp thuận đưa giám mục lên tàu đi Pháp để biện hộ cho mục đích của Nguyễn Ánh. Cuộc du hành này thoạt tiên không nằm trong kế hoạch của Pigneau de Béhaine, nhưng cuối cùng giám mục thuận theo những lý do của d’Entrecasteaux, viết thư yêu cầu Nguyễn Ánh ẩn nấp tại Pondichéry dưới sự bảo vệ của người Pháp. Cuối cùng, giám mục lên đường vào tháng 6 năm 1786 trên một chiếc tàu do thuyền trưởng Pignatel chỉ huy, là người được ông Charpentier de Cossigny, thống đốc Pondichéry, ủy thác một lá thư đệ trình lên Bộ trưởng Bộ Hải quân. “Kính thưa ngài. Tôi đã không thể từ chối lời yêu cầu của đức Giám mục Adran muốn tôi chấp thuận một chuyến đi miễn phí trên thương thuyền Le Malabar. Giám mục đi cùng với con trai của một vị vua mất ngôi của xứ Đàng Trong, cùng với hai hay ba người phục vụ. Cách đây mười lăm tháng, giám mục cùng một phái đoàn bốn mươi người đến Pondichéry, nơi giám mục dự trù chờ đợi câu trả lời cho những lá thư mà giám mục đã viết về vấn đề mà ông Coutanceau lúc ấy còn là chỉ huy tại Pondichéry đã báo cáo lại với ngài. Bị Giám mục Adran chất vấn về những điều mà giám mục hy vọng từ phía Chính phủ Pháp, tôi tự cho có bổn phận thông báo rằng những gì mà ông Coutanceau đã báo cáo với ngài đã không thuận lợi cho kế hoạch của giám mục. Điều ấy khiến giám mục quyết định tự mình đi gặp ngài để trình bày. Kính thưa ngài. Tuyệt nhiên không đi sâu vào những quan điểm của Giám mục Adran, mà tuy thế, tỏ ra là quan điểm của một người yêu nước chân chính, tôi không thể cùng ý kiến với ông Coutanceau khi ông nhìn cuộc viễn chinh này như là một công việc trái ngược với quyền lợi của quốc gia, trái với một chính sách lành mạnh, rất khó thực hiện và rất vô ích. Cuối cùng, lúc giám mục đến gặp được ngài, ngài sẽ cũng phán xét được tầm vóc của những quan điểm, trí tuệ của giám mục, những lợi ích mà quốc gia có thể rút tỉa từ cuộc viễn chinh ấy”. Thống đốc Pondichéry đã tỏ ra khá can đảm khi viết những dòng này. Không nhằm thực hiện một phán xét chung về người tiền nhiệm, ông chỉ làm cho hiểu rằng những thành kiến của người này về dự án đã đệ trình lên ông ta không dựa lên trên một nghiên cứu nghiêm túc nào của sự việc. Như thế, thống đốc đã tạo cho giám mục một điểm tựa còn quý báu hơn là những từ ngữ cẩn trọng và cân nhắc trong lá thư có thể gây nghi ngờ là ông có thiên kiến. Về phần mình, ông d’Entrecasteaux có sáng kiến gửi chỉ huy de Richéry đi khảo sát vùng bờ biển xứ Đàng Trong và đặc biệt vịnh Dừa mà giám mục đã cho biết là một nơi hoàn toàn sẵn sàng cho việc vận hành khéo léo một cuộc đổ bộ khi cần. Ông cũng giao phó cho de Richéry liên lạc với Nguyễn Ánh và cung cấp cho Nguyễn Ánh một chỗ lưu trú tại Pondichéry, nói tóm lại, chuẩn bị mọi sự cho một cuộc viễn chinh có thể xảy ra khi Pháp hoàng đồng ý. Chỉ huy de Richéry hoàn thành sứ mạng nhưng không mang được Nguyễn Ánh về, vì vua Xiêm giữ Ánh lại dưới dạng cầm tù. Tuy thế, thuyền trưởng trình lên ông d’Entrecasteaux một lá thư của Nguyễn Ánh khẳng định chọn lựa của mình, tránh né những đề nghị lặp đi lặp lại của Nữ hoàng Bồ Đào Nha và chỉ chờ đợi từ mỗi nước Pháp sự giúp đỡ mà vương đang cần. Tuy vậy, những chỉ dẫn trong báo cáo về chuyến khảo sát của de Richéry cho phép d’Entrecasteaux vạch nên những nét khái quát của chiến dịch mà ông dự trù tự mình điều khiển. Ông nôn nóng chờ đợi lệnh của bộ trưởng cho phép ông lấy trong đội ngũ đồn trú ở đảo Bourbon một lượng quân đội sẽ được gọi để mang cờ thêu hình hoa huệ đến xứ Đàng Trong. Lệnh ấy rồi chẳng bao giờ đến với ông. * * * Trong thời gian ấy, Giám mục Adran dong buồm đi về Pháp quốc và cập bến Lorient vào tháng 2 năm 1787, sau tám tháng hải hành đầy gian khó. Một thời gian ngắn sau, qua trung gian của cha Liot, giám đốc chủng viện tại Chantaboun, giám mục nhận được một lá thư cung cấp cho chúng ta những chi tiết kỳ lạ về tình trạng tinh thần của Nguyễn Ánh, người đang chịu sự giám sát của vua Xiêm và những tình huống cản trở vương lên tàu đi Pondichéry. Nghị viện Macao đã nhận những đề nghị của Giám mục Adran, vội vàng gửi một con tàu tới Vọng Các vì được biết Nguyễn Ánh đã rút về núp tránh ở đấy. Phái bộ Bồ Đào Nha đã gặp de Richéry ở đây cùng một lý do. Nhưng Nguyễn Ánh không thể rời khỏi nước Xiêm vì sĩ quan người Pháp từ chối không đến đợi Ánh tại đảo Poulo-Panjab, mặc những lời cầu khẩn của thầy giảng Paul Nghị là người đi theo có nhiệm vụ thông dịch. “... Kể từ khi Đức thầy kính mến chấp nhận trách nhiệm nặng nề của sứ mệnh liên quan đến những công vụ quốc gia, với lòng quả cảm Đức thầy đã phải đi xa và việc chia tay khiến kẻ Bắc người Nam, cho đến nay, nhân vật khốn khổ của chúng tôi không ngừng chờ đợi và hy vọng, như một kẻ đói ăn khát uống. Năm trước, vào tháng Sáu (ngày 16 tháng 7 đến ngày 5 tháng 8 năm 1785), là thời điểm hẹn đã thỏa thuận, chúng tôi tuyệt đối không nhận được một tin tức nào, lòng nôn nóng và lo lắng của chúng tôi đã tới mức không chịu đựng nổi. Nhưng giờ đây, vào năm này, ngày 30 tháng Tám (ngày 21 tháng 10 năm 1786), chúng tôi được biết rằng thầy Bảo Lộc (Paul Nghị), các quan Khiêm Quang và Long Chính đã trao cho quan Quý Ngọc156 một lá thư mang đến cho chúng tôi để tường trình mọi việc. Thoạt tiên, chúng tôi tưởng rằng đã mất tất cả, nhưng cuối cùng chúng tôi nhận ra là nền móng nước nhà vẫn còn vững bền, rằng gia tộc họ Nguyễn được ban phước lớn và rằng Đức thầy kính mến sẽ mang lại cho chúng tôi cửu đỉnh bằng cách trải lòng thực hiện công việc khó khăn này, tận lực giúp đỡ chúng tôi. Đức thầy hoàn hảo như một viên ngọc đã được mài giũa. Ân huệ vô song ấy ghi khắc trong tâm can chúng tôi, cho đến lúc răng chúng tôi rụng hết cũng không quên sự việc này. Chính vì thế chúng tôi quyết tâm, như ngài đã nói với chúng tôi, phải chuẩn bị mọi thứ để ra đi. Nhưng ai dám chắc điều này? Ý đồ của con người theo một đường, mà quyết định của Thượng đế thì không phù hợp. Thế là vào ngày mồng 2 tháng Chín (ngày 23 tháng 10 năm 1787), chiếc tàu Tu Ton Roi bỗng nhiên đến, mang theo một lá thư của Nữ hoàng Bồ Đào Nha và một lá thư khác của sĩ quan chỉ huy thành Goa. Họ đã trình lên nhân vật khốn khổ của chúng tôi, báo rằng lực lượng của họ đã sẵn sàng tại Goa với năm mươi sáu chiến hạm. Vì thế, họ đi tìm nhân vật khốn khổ của chúng tôi. Ngoài ra, còn có hai lá thư gửi đến vua Xiêm cùng với các quà tặng gồm hai mươi khẩu súng tay và súng vừa cùng với một trăm tấm vải mịn châu Âu để cám ơn vua Xiêm và xin được phép mang nhân vật khốn khổ của chúng tôi đi, đưa quân đội ra trận để thanh toán bọn phản loạn Tây Sơn. Nhưng công chuyện này chúng tôi đã trông cậy vào Đức thầy bề trên, làm sao chúng tôi có thể tự quyền ưng thuận tìm đến với một quốc gia khác? Vì thế, chúng tôi đã phải cám ơn họ và lịch sự tiễn họ ra đi. Nhân vì việc này, vua Xiêm nảy ý nghi ngờ, cho rằng chúng tôi muốn ra đi với chiếc tàu ấy. Hằng ngày, nhà vua sai người theo dõi và điều này làm chúng tôi khó thực hiện kế hoạch của mình. Dường như không còn thuận tiện nữa cho chúng tôi để lên đường vào tháng Mười (ngày 21 tháng 11 đến ngày 20 tháng 12 năm 1786) theo những hướng dẫn và mong ước của thuyền trưởng Ri-Xi-Ri (Richéry). Chúng tôi phải chờ tàu Tu Ton Roi ra đi để làm dịu bớt mối nghi ngờ của vua Xiêm, đến lúc ấy chúng tôi mới dễ dàng quyết định. Vì thế, chúng tôi gửi quan Quý Ngọc đến đảo Thổ Châu để nói với thuyền trưởng (de Richéry) giữ lại thầy Bảo Lộc (Paul Nghị) và yêu cầu để lại một người hoa tiêu cùng một số súng, trong vài tháng nữa nhân vật khốn khổ của chúng tôi sẽ theo sau. Còn về phần tàu thì xin cứ về trước, mang thư cho Đức thầy bề trên và cho sĩ quan chỉ huy thành phố (Pondichéry), về phần hoàng tử còn quá bé nhỏ, chúng tôi gửi gắm cho Đức thầy bề trên để Đức thầy tự định liệu cách nào tốt thì làm. Hoàng tử sẽ ở lại hoặc sẽ trở về tùy ý định của Đức thầy và cho dầu có định liệu theo cách nào đi nữa, nhân vật khốn khổ của chúng tôi cũng vẫn bằng lòng. Nếu Đức vua nước Đại Tây157 có lòng chiếu cố thương xót lãnh thổ nhỏ bé của chúng tôi mà gửi quân đội sang giúp nhân vật khốn khổ của chúng tôi và nếu Đức thầy bề trên gắng sức trở lại thì chúng ta sẽ cùng chia sẻ mọi lo toan. Đây là một công việc phải cẩn thận lo liệu, không nên nản lòng vì những khó nhọc có thể xảy ra. Cảnh Hưng năm thứ 47, tháng Chín, ngày 14 (ngày 4 tháng 11 năm 1786)”. Lời thỉnh cầu khiêm tốn này ám chỉ kế hoạch giám mục đã xây dựng để trở lại Huế. Lời kêu gọi của Nguyễn Ánh gửi tới người cố vấn của mình cũng không thiếu tầm vóc lớn lao. Nó làm hiển lộ cảm xúc sâu xa của con người lạ lùng kia mà tâm lý bí ẩn của mình đã làm hoang mang tất cả những người đương thời. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời, Nguyễn Ánh bộc lộ một lòng thành thực đã khiến ông trao số phận của con trai cho người bạn mình như một bằng chứng của sự tin cậy, với một phẩm cách oai nghiêm mà thật xúc động. Chương III - Giám mục Bá Đa Lộc ở Paris - Hiệp ước 1787 - Giám mục Bá Đa Lộc và de Conway - Giám mục Bá Đa Lộc trở về xứ Đàng Trong - Những người Pháp phục vụ cho Nguyễn Ánh - Những cuộc chinh phạt ở Qui Nhơn - Cái chết của Nguyễn Huệ - Những bất hòa của nhà Tây Sơn - Cái chết của Nguyễn Nhạc - Bao vây thành Nha Trang - Bao vây thành Qui Nhơn - Cái chết của Giám mục Bá Đa Lộc - Công trình của Giám mục Bá Đa Lộc Trước khi Pigneau de Béhaine đến được Paris, Bộ trưởng Bộ Hải quân đã lệnh cho kỹ sư Lamotte nghiên cứu vấn đề xứ Đàng Trong. Kỹ sư là người rất am hiểu những sự việc ở châu Á, nơi ông đã lưu trú nhiều năm. Lamotte, trong một báo cáo trình ngày 28 tháng 1 năm 1786, đã mạnh mẽ ủng hộ kế hoạch của giám mục. Ông làm thấy rõ những lợi ích khi nước Pháp, với tư cách liên minh, thâm nhập vào trong một xứ sở giàu có tràn ngập những vật hạng quan trọng cần thiết cho nền thương mãi thuộc địa. Ông đánh giá cao vùng Tourane, hải cảng trung tâm giữa Trung Hoa, Philippines và Malacca, nơi mà sự giao thông và trao đổi thương mãi rất năng động, được xem như một vị trí hàng đầu có khả năng thực hiện một cuộc tranh đua thắng lợi với nền thương mãi Anh quốc, về quan điểm chiến lược, vùng Nam bộ xứ Đàng Trong, với những miền phụ cận, án ngữ con đường mà tàu bè phải đi qua để vào các cảng Trung Hoa, sau khi bắt buộc thừa nhận quần đảo Poulo-Condor158 được nhà vua An Nam tặng với quyền sở hữu tuyệt đối cho nước Pháp. Ngoài ra, việc thiết lập một căn cứ quân sự tại Hội An cho phép tổ chức hàng loạt đội tuần tra biển mà nhờ đó chúng ta sẽ chặn được nhánh thương mãi sinh lợi nhất của những đối thủ cạnh tranh Anh quốc và Bồ Đào Nha. Hoàng hậu Marie-Antoinette đồng tình với báo cáo viên, chia sẻ sự tín nhiệm của mình với các ông Dillon và Lomenie de Brienne là những người thoạt tiên phản đối kế hoạch của Giám mục Adran. Vua Louis XVI đón tiếp Hoàng tử Cảnh với thiện tâm mà vẻ trẻ tuổi vô tư lự rất thích hợp với sự tò mò thích thú của các cận thần. Phái bộ xứ Đàng Trong đã tạo nên một biến động sôi nổi đầy thiện cảm, những lễ hội được tổ chức để vinh danh hoàng tử. Trong những dịp ấy, Hoàng tử Cảnh có mặt bên cạnh thái tử Pháp mà cậu thường chia sẻ những trò chơi. Châu Á trở thành mốt năm ấy, được Léonard thừa nhận và sáng tạo ngay cả một kiểu tóc theo lối Trung Hoa mà các mệnh phụ thanh lịch mang nó suốt cả một mùa! Hoàng đế Pháp Louis XVI (1776) Vào ngày yết kiến vua Louis XVI, 6 tháng 5, Pigneau de Béhaine nhấn mạnh sự cần thiết trong việc đấu tranh chống lại ưu thế của người Anh ở Ấn Độ, nơi mà nước Pháp chỉ có vài thương điếm với tầm quan trọng càng ngày càng giảm sút. Giám mục trình bày việc liên minh với xứ Đàng Trong trước hết là để ngăn ngừa sự chiếm đóng của người Anh. Việc chiếm đóng này, trong trường hợp chiến tranh, sẽ cấm tất cả các quốc gia khác đi ngang qua, khiến cho hạm đội Anh quốc trở thành chủ nhân duy nhất của con đường hàng hải dẫn đến Trung Hoa. Giám mục đặt nhà vua trước chọn lựa có tầm quốc gia, giữa hai lối mà tình hình hải ngoại không phải là điều duy nhất được đặt ra: “hoặc lớn mạnh hoặc ra đi”. Cuối cùng, giám mục còn nhấn mạnh rằng để vị thế của nước Pháp được củng cố, phải lập tức chiếm Poulo Condor, Tourane và Hà Tiên. Vua Louis XVI sau nhiều do dự đã chấp thuận và cho phép giám mục nghiên cứu việc soạn thảo thỏa ước tương trợ mà vua xứ Đàng Trong cầu khẩn. Thỏa ước này với lời lẽ đã được nhà vua cân nhắc suy nghĩ lâu dài, cho phép nước Pháp thâm nhập với tư cách quốc gia liên minh vào trong một xứ sở mà ở đó không một quốc gia phương Tây nào đã gây được ảnh hưởng. Vua Louis XVI cam kết hỗ trợ Nguyễn Ánh “theo cách hiệu quả nhất”. Nhà vua hứa gửi bốn chiến hạm chở một đội pháo binh hùng hậu cùng với đội quân một ngàn năm trăm người được trang bị trong tình thế thời chiến. Nhà vua sẽ hỗ trợ vua xứ Đàng Trong vào mọi lúc khi vị vua này gặp khó khăn trong việc chiếm cứ lãnh thổ. Nguyễn Ánh “trong lúc chờ đợi sự giúp đỡ rất quan trọng mà Đức vua rất Thiên Chúa giáo sẵn sàng thực hiện”, nhường cho Đức vua cũng như cho Hoàng gia Pháp quốc quyền sở hữu tuyệt đối và chủ quyền của hòn đảo nơi có hải cảng chính của xứ Đàng Trong gọi là Hội An [Tourane]159. Lại thêm, người Pháp có quyền dựng trên đất liền mọi cơ sở mà họ cho là có ích, cho việc hải hành cũng như việc thương mãi, để trông coi, sửa chữa hoặc đóng mới các thuyền bè. Nhường hoàn toàn chủ quyền đảo Poulo-Condor cho vua nước Pháp mà thần dân của nước này sẽ được hưởng tự do trọn vẹn về thương mãi trong khắp xứ Đàng Trong, loại trừ những người châu Âu khác. Tóm lại, những quy định trong thỏa ước là rất quan trọng vì nó nhắm vào hoạt động của người Anh có khả năng xảy ra để chống lại những cơ sở mới của người Pháp. Vua xứ Đàng Trong cam kết trợ giúp binh lính, thủy thủ, thực phẩm, tàu bè, trong trường hợp người Pháp bị tấn công liên quan đến sự bình yên của Tourane và đảo Poulo-Condor, cũng như trong trường hợp người Pháp có chiến tranh với một cường quốc châu Âu hoặc châu Á. Như vậy, nước Pháp, nhờ vào một khoản kinh phí và một nỗ lực không đáng kể, chiếm được những lợi thế quá sức mong đợi. Từ đấy, nước Pháp sẽ làm chủ con đường đi Trung Hoa, hất cẳng mọi đối thủ cạnh tranh trong thương mãi ở châu lục này, dẫu đó là người Anh, người Hà Lan hay người Bồ Đào Nha. Các vùng đất được nhượng trọn vẹn chủ quyền cho chúng ta có thể đền bù trong chừng mực nào đó sự mất mát nhục nhã các nhượng địa của chúng ta ở Ấn Độ. Và cuối cùng, những quy định phụ thêm vào thỏa ước Versailles cho phép chúng ta từng bước can thiệp vào nội chính đất nước ấy, thông qua sự truyền bá Đức tin Thiên Chúa giáo, sự mở rộng mạng lưới mậu dịch, thu thuế hải quan ở cửa sông đối với tàu bè lưu thông nội địa v.v... Giá như ý chí của vua nước Pháp kiên định hơn, thì cơ sở của chúng ta ở Đông Dương đã được thực hiện không trở ngại và Trung Hoa, một thế kỷ sau đó, không thể lấy cớ bá chủ để gây thất bại cho việc chiếm đóng của chúng ta, bằng cách chấp thuận cho vua Tự Đức một sự bảo hộ mà trước kia Pháp đã từng bỏ lỡ đối với người sáng lập ra triều đại nhà Nguyễn. Nhưng vua Louis XVI lại quyết định giao việc thực hiện các điều khoản trong thỏa ước cho bá tước de Conway160, người kế nhiệm Charpentier de Cossigny ở Pondichéry. Nhà vua không phải không biết đã giao cho một kẻ bất tài sứ mạng khó khăn trong việc thiết lập uy tín của nước Pháp ở một đất nước mà vị thống đốc lạ lùng kia công khai tuyên bố thiếu hẳn tiền đồ. De Conway, gốc người Ái Nhĩ Lan đã chiến đấu ở Mỹ năm 1777. Quốc hội Mỹ phong cho ông hàm thiếu tướng, nhưng sự chống đối công khai của ông ở Washington làm phật lòng ghê gớm các chiến hữu buộc ông phải giã từ quân đội. Lúc trở về Pháp, với sự hỗ trợ của đồng minh Brienne, ông được bổ nhiệm chức phụ tá chỉ huy quân sự, và sau khi Versailles được yên ổn, trở thành chỉ huy trưởng đội quân đồn trú tại Ấn Độ. Đức vua không thích de Conway, biết ông ta là người mưu mô, hung hăng và khoe khoang, và được nguyên soái de Castries viết thư nhắc nhở. Mặc dầu thế, Đức vua vẫn dùng ông này để làm vui lòng Bộ trưởng [Montmorin], và những huấn thị mật, liên quan đến sự vụ xứ Đàng Trong đều được gửi đến de Conway. Những huấn thị ấy yêu cầu de Conway ngưng chiếu cố Nguyễn Ánh nếu một khi các quốc gia châu Âu khác ủng hộ hoặc chống đối ông hoàng mất ngôi kia. Giám mục Adran không hề hay biết tầm vóc quyền hạn ban cho de Conway, nên sẽ chỉ trích gay gắt thái độ của ông ta và hai bên sớm nảy ra tranh chấp dữ dội. Ông de Montmorin vừa mới gỡ ra được những sự việc rầy rà của nước Hà Lan một cách khá nhục nhã. Là đồng minh của Cộng hòa Pháp, Hà Lan đã cùng chiến đấu với nước này chống lại người Anh. Thế mà, những người ủng hộ nhà Orange161 đã khích động vua nước Phổ can thiệp. Vua Louis XVI hoảng sợ vì việc xâm chiếm bất ngờ xứ Hà Lan, đã bỏ rơi nước đồng minh của mình để tránh một cuộc chiến tranh với vua Phổ Frédéric Guillaume II. Hoàn cảnh này gây khó cho Bộ trưởng [Bộ Ngoại giao, tức de Montmorin] trong việc ủng hộ một cuộc phiêu lưu ở châu Á và đó là cách giải thích về sự cẩn trọng vô cùng của ông - về sau có kẻ nói đó là thái độ giả dối, nước đôi - trong việc điều hành một công việc đòi hỏi nhiều sáng kiến mạnh mẽ. Một huấn thị thứ hai được gửi tới de Conway ngày 2 tháng 12 năm 1787, viết rằng “Hoàng thượng muốn yên tâm về những nghi ngờ mà bản thân Ngài không giải quyết được, bằng vào dấu hiệu về sự tin cậy lớn nhất vào sự khôn ngoan của bá tước de Conway là người mà Hoàng thượng dám trao trọn quyền thực hiện cuộc viễn chinh, hoặc trì hoãn việc thực hiện mệnh lệnh của Ngài, tùy theo những thông tin tình hình mà ông ta thu lượm được”. Quả như Cultru đã viết, một chính sách được thảo luận tại Versailles với một người như Giám mục Adran, một chính sách mà người ta đặt cược tất cả với số tiền một trăm ngàn piastre, mà kết cục, nếu thuận lợi, sẽ cho chúng ta một vị trí không đâu sánh kịp, không xa nước Trung Hoa và eo biển Sonde; và nếu bất lợi thì sự việc cũng không trở thành một thảm họa vì chúng ta lúc ấy làm chủ tình thế để rút ra khơi. Cuối cùng, mọi cơ hội đã có thể được tính toán chính xác nhờ vào những thông tin mà Văn khố lưu trữ của Công ty Đông Ấn và những thư từ của d’Entrecasteaux cung cấp. Vậy mà tất cả mọi chuyện ấy lại do một Bộ trưởng [Bộ Ngoại giao] thiếu quyết đoán trao quyền chỉ huy cho một sĩ quan tầm thường [de Conway] vừa mới đến đất Ấn Độ, nơi mà y chưa bao giờ phục vụ. Nói rằng người ta phó thác cho y những chi tiết thực hiện kế hoạch thì quá đáng, nhưng đặt dưới quyền phán đoán của y ngay cả nguyên tắc thực hiện, thì điều này cho thấy tầm vóc của chính quyền Louis XVI. Giám mục Adran lên tàu Dryade với đứa trẻ do ông giám hộ vào tháng 11 năm 1787. Có một sĩ quan hải quân đi theo với nhiệm vụ đưa Hoàng tử Cảnh về lại với thân phụ và nhân thời gian lưu trú ở xứ Đàng Trong thu nhặt thông tin khả dĩ giúp vị chỉ huy cuộc viễn chinh mà trên nguyên tắc do Đức vua gửi đến giúp Nguyễn Ánh. """