"Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles) - Agatha Christie full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vụ Án Bí Ẩn Ở Styles (Thảm Kịch Ở Styles) - Agatha Christie full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Mục lục Chương 1: Tôi Đến Styles Chương 2: Ngày Mười Sáu Và Mười Bảy Tháng Bảy Chương 3: Buổi Tối Xảy Ra Thảm Kịch Chương 4: Poirot Mở Cuộc Điều Tra Chương 5: Poirot Mở Cuộc Điều Tra (2) Chương 6: Hãy Cho Tôi Biết Không Phải Chất Strychnin Chứ? Chương 7: Hãy Cho Tôi Biết Không Phải Chất Strychnin Chứ? (2) Chương 8: Buổi Hỏi Cung Chương 9: Poirot Trả Nợ Chương 10: Những Mối Nghi Ngờ Mới Chương 11: Bác Sĩ Bauerstein Chương 12: Bắt Giữ Chương 13: Phiên Tòa Chương 14: Chiếc Mắt Xích Cuối Cùng Chương 15: Poirot Giải Thích VỤ ÁN BÍ ẨN Ở STYLES (THẢM KỊCH Ở STYLES) Agatha Christie www.dtv-ebook.com Chương 1: Tôi Đến Styles Tiếng vang to lớn gây nên trong quần chúng bởi cái được mệnh danh là "Vụ án ở Styles" đến nay đã giảm bớt đôi chút. Tuy vậy, do tiếng tăm có tầm cỡ quốc tế gắn liền với sự việc đó, tôi được ông bạn Poirot cũng như gia đình ấy đề nghị viết lại tóm lược vụ việc. Chúng tôi hy vọng qua đó sẽ chấm dứt được những lời đồn đại giựt gân vẫn còn đang lan truyền. Do đó tôi sẽ ghi lại một cách ngắn gọn những tình huống qua đó tôi có dính líu đến vụ án này. Hồi đó, tôi được đưa về từ mặt trận do bị thương, và sau khi nằm điều trị vài tháng trong một quân y viện, tôi được nghỉ phép một tháng để dưỡng sức. Vì không có một người họ hàng gần nào, và cũng chẳng có một người bạn thân nào cả, tôi đang suy nghĩ đến cách tận hưởng tốt nhất kỳ nghỉ này thì, thật tình cờ, tôi gặp John Cavendish. Tôi gần như mất liên lạc với anh ta từ vài năm nay rồi. Hơn nữa, tôi chưa bao giờ chơi thân với anh ta lắm. Anh lớn hơn tôi ít ra là mười lăm tuổi, mặc dầu trông anh chưa đến cái tuổi bốn mươi lăm của mình. Nhưng, lúc còn nhỏ, tôi thường đến chơi ở Styles, khu đất của mẹ anh, trong vùng Essex. Chúng tôi hàn huyên với nhau khá lâu về thuở xa xưa ấy và, cuối cùng anh rủ tôi đến nghỉ phép ở Styles. - Mẹ tôi sẽ vui mừng khi gặp được cậu sau bấy nhiêu năm - anh nói. - Bà ấy vẫn khỏe mạnh chứ? Tôi hỏi. - Ồ, vâng. Cậu có biết rằng mẹ tôi đã tái giá không? Tôi e rằng đã để lộ sự ngạc nhiên của mình quá rõ. Tôi nhớ đến bà Cavendish (người đã kết hôn với cha của John lúc ông này đã góa vợ và có hai người con trai) như một người phụ nữ đẹp ở tuổi trung niên. Hiện nay bà ta chắc chắn không thể dưới sáu mươi lăm tuổi. Tôi nhớ lại tính cách cương nghị, độc tài của bà, với lòng ham mê được nổi danh vì những việc làm từ thiện của giới thượng lưu, với ý thích về những ngày khai mạc các buổi lễ từ thiện và khuynh hướng muốn đóng vai trò nhà hảo tâm. Vô cùng rộng lượng, bà có một gia sản riêng kếch xù. Khu đất của họ ở vùng quê, Styles Court, do ông Cavendish mua vào thời gian đầu của cuộc sống chung của họ. Ông này hoàn toàn chịu sự chi phối của vợ đến độ, khi qua đời, ông đã dành cho bà toàn quyền sử dụng khu đất và phần lớn thu nhập của mình. Sự sắp xếp đó khiến cho hai cậu con trai của ông bị thiệt thòi. Nhưng bà mẹ kế luôn luôn tỏ ra vô cùng rộng lượng đối với họ, và do họ còn nhỏ khi hai người lấy nhau nên lúc nào họ cũng xem bà như mẹ đẻ của mình. Laurence, người em út, đã có một thuở nên thiếu đầy những khó khăn. Anh đã tốt nghiệp y khoa, nhưng lại từ bỏ sự nghiệp bác sĩ và chỉ muốn sống ở Styles Court để theo đuổi ảo tưởng về thơ văn, mặc dù những vần thơ của anh cho đến nay vẫn chưa đạt được một sự thành công vang dội nào cả. John đã có một thời gian hành nghề luật sư, rồi quyết định sống cuộc đời an nhàn của một người thượng lưu ở vùng thôn quê. Cách đây hai năm, anh đã lập gia đình và đem người vợ trẻ đến Styles. Tôi có cảm tưởng anh muốn bà mẹ kế tăng thêm trợ cấp cho mình để có thể ra ở riêng. Nhưng bà Cavendish thích tự mình lên kế hoạch và muốn người khác phải tuân theo. Trong tình huống đó, bà chắc chắn có ưu thế hơn đối với anh, bởi vì bà là người nắm giữ túi tiền. John nhận thấy sự ngạc nhiên do cái tin mẹ anh tái giá gây nên cho tôi, và anh mỉm cười hơi chua xót. - Đó là một người đàn ông bất tài - anh bực bội nói - Tôi không giấu cậu, Hasting ạ, điều đó làm cho cuộc sống của chúng tôi thật khó chịu. Còn về phần Evie... Cậu nhớ Evie chứ? - Không. - Ồ, có lẽ cậu chưa quen biết cô ấy thì phải. Đó là người mẹ tôi mướn để bầu bạn với bà ta. Cô ấy lo toan mọi việc... một phụ nữ tốt, cái cô Evie ấy... Không trẻ, cũng chẳng đẹp, nhưng tốt bụng. - Anh định nói gì thế? - Về tên đàn ông đó, hắn đúng là rơi từ trên trời xuống, tự xưng là một người bà con xa của Evie gì đó, cô này, nói giữa chúng ta thôi, không có vẻ gì vui mừng về mối liên hệ họ hàng này cả. Bất cứ ai cũng có thể thấy đó là một con người cơ hội và thô kệch. Hắn có bộ râu dài màu đen và mang giày đánh véc-ni bóng loáng bất kỳ lúc nào. Nhưng mẹ tôi thích hắn ta ngay và bà thâu nhận hắn vào làm thư ký. Anh biết rằng bà phụ trách một lô các hội từ thiện khác nhau chứ? Tôi gật đầu. - Chiến tranh đã nhân chúng lên gấp bội. Có lẽ hắn rất có ích cho bà. Nhưng chúng tôi muốn té ngửa khi, cách đây ba tháng, bà bất ngờ tuyên bố với chúng tôi rằng bà đã đính hôn với Alfred. Dễ hắn phải trẻ hơn bà đến hai mươi tuổi. Đối với hắn, rõ ràng đó là một cuộc săn tiền. Nhưng thế đấy, mẹ tôi hoàn toàn tự do làm theo ý mình, và bà đã lấy hắn. - Có lẽ đó là một tình huống khó khăn đối với tất cả các anh. - Khó khăn ư? Hãy nói là không thể chịu nổi! Và thế là, ba ngày sau, tôi đáp xe lửa đến Styles Saint-Mary, một nhà ga nhỏ không có lý do gì để tồn tại cả, nằm giữa những cánh đồng xanh và những con đường làng. John Cavendish đón tôi trên sân ga và đưa tôi ra xe hơi. - Cậu thấy đấy, chúng tôi cũng còn chút ít xăng - anh nhận xét - chủ yếu là nhờ vào các hội từ thiện của mẹ tôi. Làng Styles Saint-Mary nằm cách nhà ga khoảng hai dặm, còn Styles Court thì xa hơn một dặm. Ngày hôm đó ấm áp và yên tĩnh, một ngày của tháng bảy. Và cứ nhìn phong cảnh bằng phẳng của miền Essex trải dài xanh tươi và yên bình dưới ánh nắng mặt trời buổi trưa thì gần như không thể nào tin rằng ở đằng kia, không xa lắm, dù gì đi nữa thì cuộc chiến tranh vẫn đang tiếp diễn. Dường như tôi bất ngờ bước vào một thế giới khác. Khi chúng tôi vượt qua cửa rào của khuôn viên, John bảo: - Tôi e rằng cậu sẽ thấy cuộc sống ở đây thật yên tĩnh, Hasting ạ. - Anh bạn thân mến ơi, đó chính là điều tôi mong muốn. - Ồ! Sẽ khá dễ chịu nếu như người ta muốn có một cuộc sống an nhàn. Mỗi tuần hai lần, tôi cùng những người tình nguyện đi lao động và đến phụ giúp các nông dân. Vợ tôi thường xuyên làm việc đồng áng. Cô ấy dậy từ năm giờ mỗi sáng để vắt sữa bò và không ngừng tay cho đến giờ ăn trưa. Nhưng, suy cho cùng, sẽ dễ sống hơn nếu như không có tên khốn khiếp ấy, Alfred Inglethorp. Anh thắng xe bất thình lình và liếc nhìn đồng hồ. - Tôi tự hỏi không biết chúng ta có kịp ghé qua đón Cynthia không đây? Chắc là không rồi. Cô ta có lẽ đã rời bệnh viện. - Cynthia ư? Không phải là vợ anh sao? - Không. Cynthia là người được mẹ tôi nhận đỡ đầu. Cô ta là con gái một người bạn học nội trú xưa của bà, người đã kết hôn với một luật sư không mấy lương thiện. Ông này bị phá sản và con gái họ trở thành mồ côi không có một xu dính túi. Mẹ tôi đã giúp cô ta và cô ấy đến sống với chúng tôi đã gần hai năm nay rồi. Cô ta làm việc ở bệnh viện của hội chữ thập đỏ ở Tadminster, cách đây khỏang mười cây số. Trong khi anh nói những lời này, chúng tôi ngừng xe trước một ngôi nhà cũ kỹ nhưng rất đẹp. Nghe thấy tiếng xe của chúng tôi, một người phụ nữ mặc bộ đồ bằng vải tuýt đang cúi trên một luống hoa ngẩng đầu lên. - Chào Evie, đây là người hùng bị thương của chúng ta. Ông Hasting, cô Howard. Cái bắt tay cô Howard dành cho tôi thật mạnh, gần như đau đớn. Tôi cảm kích bởi đôi mắt thật xanh trên gương mặt rám nắng. Đó là một phụ nữ khoảng bốn mươi tuổi, vẻ khả ái. Cô ta có giọng nói trầm, với những âm sắc vang to, gần như của phái nam, một vóc dáng vuông vức với đôi chân to lớn xỏ trong đôi giày thô cũ kỹ. Chẳng mấy chốc, tôi phát hiện ra rằng cô ta phát âm bằng giọng văn điện tín. - Cỏ dại mọc nhiều như cỏ gà. Không làm sao ngăn chúng được. Quý vị sẽ giúp tôi. Hãy cẩn thận. - Tôi cam đoan rằng tôi sẽ rất vui được giúp ích cho cô - tôi đáp. - Đừng nói thế. Không thận trọng. Sau này ông sẽ hối hận. - Sao cô bi quan thế, Evie? - John mỉm cười nói - Hôm nay chúng ta sẽ dùng trà ở đâu? Trong nhà hay ngoài vườn? - Ngoài vườn. Trời quá đẹp để phải giam mình trong nhà. - Thế thì hãy đi thôi. Hôm nay cô làm vườn như thế là đủ rồi. Người làm ruộng rất xứng đáng được hưởng thù lao. Hãy nghỉ giải lao đi. - Thế đấy - cô Howard vừa tháo găng tay làm vườn ra vừa nói - tôi gần như hoan nghênh ý kiến đó của anh. Cô dẫn đường cho chúng tôi và, đi vòng qua ngôi nhà, chúng tôi đến chỗ bữa trà được dọn lên, dưới bóng mát của một cây sung lớn. Thấy chúng tôi đến gần, một phụ nữ trẻ đang ngồi trong chiếc ghế bành mây đứng lên và bước đến trước mặt chúng tôi. - Nhà tôi, Hasting ạ - John bảo. Tôi không bao giờ quên giây phút đầu tiên gặp mặt Mary Cavendish. Dáng vóc cao và mảnh mai của bà hiện lên tương phản với ánh nắng gay gắt; ánh sáng dịu của ngọn lửa âm ỉ dưới đống tro rạng lên trong đôi mắt đẹp màu hung, ở bà toát ra một sự yên bình vô bờ, nhưng lại làm cho người ta nghĩ đến một tâm hồn hoang dã và khó khuất phục trong một cơ thể văn minh tuyệt diệu. Bà đón tôi bằng vài lời chào hỏi với chất giọng trầm nhưng rất rõ, và rồi tôi gieo mình xuống ghế, rất hài lòng vì đã nhận lời mời của John. Mary Cavendish rót cho tôi một tách trà và vài lời nhận xét nghiêm túc mà bà đưa ra đã củng cố thêm trong suy nghĩ của tôi rằng bà là một phụ nữ hoàn toàn khả ái. Thật luôn luôn đáng khích lệ khi được một người chăm chú nghe mình, và tôi tự hào tả lại một vài biến cố trong thời gian dưỡng bệnh ở nhà an dưỡng với sự cao hứng đầy tính khôi hài khiến cho bà rất thích thú. Bởi vì John, mặc dù là một người đàn ông tuyệt vời, vẫn không thể tự hào là một người nói chuyện có duyên. Vừa lúc đó, một giọng nói mà tôi nhớ rất rõ, vọng qua tai chúng tôi qua khung cửa để mở gần nhất. - Thế nào, Alfred, anh sẽ viết cho bà công chúa sau bữa trà chứ? Em sẽ đích thân viết cho phu nhân Tadminster để yêu cầu bà ta chủ tọa ngày bán thứ hai. Hay tốt hơn nên đợi bà công chúa trả lời đã? Nếu bà này từ chối, phu nhận Tadminster có thể chủ tọa ngày thứ nhất, và bà Crosbie ngày thứ hai. Và cũng phải viết cho bà công tước về vấn đề buổi lễ của nhà trường nữa. Chúng tôi nghe thấy tiếng thì thầm của một người đàn ông và giọng bà Inglethorp đáp lại: - Vâng, tất nhiên rồi. Sẽ rất tiện, sau bữa trà. Anh đã nghĩ đến mọi việc, Alfred thân yêu ạ. Cánh cửa mở ra thêm một chút và một phụ nữ luống tuổi, rất quý phái và còn khá đẹp, với những nét độc đoán, bước ra tiến về phía bãi cỏ. Một người đàn ông theo sau, hơi khúm núm. Bà Inglethorp đón tiếp tôi một cách nồng nhiệt. - Ồ, ông Hasting! Tôi rất vui mừng được gặp lại ông sau bao nhiêu năm. Alfred thân yêu, đây là ông Hasting. Còn đây là chồng tôi. Tôi nhìn "Alfred thân yêu" với một chút tò mò. Anh ta quả là một nhân tố khá lạc lõng trong môi trường này. Tôi không lấy làm lạ là tại sao John lại ghét bộ râu của anh ta. Đó là một bộ râu dài nhất và đen nhất mà tôi từng thấy. Anh ta đeo một chiếc kính kẹp mũi bằng vàng và nét mặt anh ta trông thản nhiên một cách lạ lùng. Tôi tự nhủ có lẽ anh ta rất tự nhiên trên sân khấu, nhưng lại không thích hợp một cách kỳ lạ đối với cuộc sống hàng ngày. Giọng anh ta khá trầm và cảm động. Anh ta đặt một bàn tay bất động trong tay tôi và nói: - Rất hân hạnh được biết ông, ông Hasting. Rồi quay sang vợ: - Em Emily thân yêu, anh e rằng chiếc gối này hơi ẩm ướt đấy. Bà nhìn chồng tình tứ trong khi anh ta thay chiếc gối dựa khác với tất cả sự ân cần và âu yếm. Quả là một sự hài lòng kỳ quặc ở một phụ nữ biết điều về biết bao mặt khác. Cùng với sự hiện diện của Alfred Inglethorp, một cảm giác gượng ép và đầy ác cảm kín đáo dường như xâm chiếm mọi người. Nhất là cô Howard, cô không hề tìm cách giấu diếm tình cảm của mình. Tuy vậy bà Inglethorp dường như chả nhận thấy điều gì bất thường cả. Bà vẫn giữ được vẻ liếng thoắng mà tôi nhớ mãi mặc dù đã bao năm qua, và bà tuôn ra hàng tràng lời lẽ về buổi hội chợ do bà tổ chức sắp tới đây. Thỉnh thoảng bà lại hỏi chồng về một ngày tháng nào đó. Thái độ chăm chú và chu đáo của anh này vẫn không thay đổi. Ngay từ đầu, tôi đã có ác cảm lớn đối với anh ta, và tôi tự hào rắng những cảm tưởng ban đầu của mình thường khá sáng suốt. Chẳng mấy chốc, bà Inglethorp quay sang Evie để căn dặn về các bức thư và chồng bà lại nói với tôi bằng giọng chăm chút: - Ông Hasting, ông có phải là nhà binh chuyên nghiệp không? - Không. Trước chiến tranh tôi làm việc ở Lloyds. - Ông sẽ quay lại đó khi chiến tranh kết thúc chứ? - Có lẽ như vậy. Hoặc có thể tôi sẽ bắt đầu ở một lĩnh vực khác. Mary Cavendish chồm ra phía trước: - Ông sẽ chọn nghề gì nếu ông được tự do làm theo ý thích của mình? - Điều đó cũng còn tùy. - Ông không có những ý muốn thầm kín sao? - Bà nói thêm. - Bà sẽ cười tôi cho mà xem. Bà mỉm cười: - Có thể lắm. - Thế này nhé, tôi vẫn luôn có ước mơ thầm kín được làm thám tử đấy. - Thế ư? Scotland Yard phải không? Hay Sherlock Holmes? - Ồ, tất nhiên là Sherlock Holmes rồi. Nhưng, nghiêm túc mà nói, thì tôi bị cuốn hút ghê gớm bởi lãnh vực đó. Một hôm ở Bỉ, tôi đã gặp một nhà thám tử rất nổi tiếng mà tôi rất thích. Đó là một người đàn ông nhỏ nhắn nhưng rất đáng kính ngạc. Ông ta cho rằng, để trở thành một thám tử giỏi, chỉ đơn giản cần phải có phương pháp thôi. Cách thức của tôi cũng dựa trên cách của ông ta, mặc dù tất nhiên là tôi có đi xa hơn. Đó là một người đàn ông kỳ quặc, rất trau chuốt, nhưng lại giỏi một cách tuyệt vời. - Tôi cũng rất thích một câu chuyện trinh thám hay - cô Howard nói - nhưng người ta chỉ viết toàn những điều bậy bạ. Thủ phạm chỉ được phát hiện vào chương cuối cùng mà thôi. Mọi người đều kinh ngạc. Còn trong một vụ án thật sự, người ta đoán được ngay ai là thủ phạm. - Tuy nhiên đã có khá nhiều vụ án không bao giờ được đưa ra ánh sáng - tôi nhấn mạnh. - Bởi cảnh sát thì tôi không nói làm gì... Nhưng còn những người có liên can trong vụ án... Những người bà con...Tôi cho rằng không thể nào bịp được họ. - Thế nghĩa là - tôi nói, khá thích thú - cô cho rằng nếu như cô dính líu vào một vụ án, một vụ giết người chẳng hạn, cô sẽ biết được ngay ai là thủ phạm chứ gì? - Tất nhiên rồi! Có thể tôi không thể chứng minh được điều đó với các luật sư, nhưng tôi tin chắc rằng tôi sẽ biết được. Tôi sẽ cảm nhận được điều đó ngay, nếu như hắn đến gần tôi. - Có thể thủ phạm là một phụ nữ chứ. - Vâng. Nhưng giết người là một hành vi thô bạo. Đó thường là hành động của một người đàn ông hơn. - Nhưng trong trường hợp một vụ đầu độc thì lại khác - Giọng nói trong trẻo của Mary Cavendish khiến tôi giật mình - Bác sĩ Bauerstein hôm qua đã bảo với tôi rằng, nhờ vào sự hiểu biết của các bác sĩ về các loại độc dược tinh vi, rất có thể có nhiều trường hợp đầu độc mà không hề bị nghi ngờ gì cả. - Ồ! Mary, quả là những lời nói gở! - Bà Inglethorp kêu lên - Tôi tưởng chừng như nghe thấy tiếng ai đó đang đi trên nấm mồ của mình. À, Cynthia đây rồi. Một thiếu nữ trong bộ đồng phục của đội phụ tá tình nguyện băng ngang qua bãi cỏ. - Cynthia này, hôm nay cô về trễ đấy. Đây là ông Hasting. Cô Murdoch. Cynthia Murdoch là một thiếu nữ rất tươi, đầy sức sống và sinh lực. Cô cởi bỏ chiếc nón và tôi có thể ngắm nhìn những lọn tóc hung, bàn tay nhỏ nhắn và trắng muốt mà cô chìa ra để xin một tách trà. Với đôi mắt và cặp lông mày sẫm màu, có lẽ cô là hiện thân của sắc đẹp. Cô gieo mình xuống đất, gần John và tươi cười với tôi khi tôi trao cho cô đĩa bánh săng-uých. - Ông hãy ngồi xuống thảm cỏ đây này. Sẽ thoải mái hơn. Nghe theo lời cô, tôi ngồi xuống bên cạnh. - Cô làm việc ở Tadminster phải không, cô Murdoch? Cô gật đầu. - Vâng, vì những tội lỗi của mình. - Bộ người ta làm khổ cô lắm sao? - Tôi hỏi thế để trêu ghẹo cô. - Đừng hòng! - Cynthia kiêu hãnh kêu lên. - Tôi có một người em họ làm y tá - tôi nhận xét - Cô ta bị bà y tá trưởng làm cho khiếp vía. - Tôi không lấy làm lạ đâu. Nếu ông được biết họ ra sao, ông Hasting ạ. Ông không thể nào tưởng tượng được đâu. Nhưng, lạy Chúa, tôi không phải là y tá; tôi làm việc trong bịnh xá. - Và cô đã đầu độc bao nhiêu người rồi? - Tôi tươi cười hỏi. - Ồ! Hàng trăm... - Cynthia! - Bà Inglethorp gọi - Cô có thể viết hộ tôi mấy bức thư không? - Rất sẵn sàng, dì Emily ạ. Cô vụt đứng dậy, và điều gì đó trong cách cư xử của cô nhắc tôi nhớ rằng cô có một vị trí thấp trong nhà bà Inglethorp, và bà này, dù có tốt đến đâu đi nữa thì cuối cùng cũng không cho phép cô quên điều đó. Bà chủ nhà quay sang tôi: - John sẽ chỉ phòng cho ông. Chúng ta ăn tối lúc mười chín giờ ba mươi. Cách đây ít lâu, chúng ta đã bỏ việc ăn tối trễ hơn thế. Phu nhân Tadminster, vợ của vị đại diện của chúng ta tại Hạ viện (bà này là con gái của ngài cố nghị viện Abootsbury) cũng làm như vậy. Bà ấy cũng đồng quan điểm với tôi, chúng ta cần làm gương trong việc tiết kiệm. Quả là chúng ta đang sống trong thời chiến. Ở đây không có gì bị bỏ phí cả: mỗi mẩu giấy đều được cẩn thận nhặt lại và sử dụng. Tôi bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình trước một cách tổ chức hoàn hảo đến như vậy. John dẫn tôi đến tận nhà, ở đó chúng tôi leo lên một cầu thang lớn, giữa chừng chia làm hai nhánh đưa đến hai cánh khác nhau bên trái và bên phải của ngôi nhà. Căn phòng của tôi nằm bên cánh trái và trông ra khu vườn. John rời tôi đi và, ít phút sau, tôi trông thấy anh ta chậm rãi băng ngang thảm cỏ, vai sánh vai cùng với Cynthia Murdoch. Tôi nghe bà Inglethorp nóng nảy gọi "Cynthia!" và thấy cô thiếu nữ giật mình chạy vào nhà. Cùng lúc đó, một người đàn ông xuất hiện từ bóng mát của một cái cây và cũng từ từ tiến về ngôi nhà. Trông anh ta khoảng bốn mươi tuổi, khuôn mặt đăm đăm và nhẵn nhụi đượm đầy vẻ u sầu. Khi đi ngang qua chỗ tôi, anh liếc nhìn lên cửa sổ phòng tôi và tôi liền nhận ra anh, mặc dù anh đã thay đổi nhiều trong vòng mười lăm năm nay, kể từ buổi gặp trước đó của chúng tôi. Đó là cậu em kế của John, Laurence Cavendish. Tôi tự hỏi điều gì đã có thể tạo nên sắc mặt đỏ của anh. Rồi tôi không nghĩ đến chuyện đó nữa và trở lại với những suy nghĩ của riêng mình. Buổi tối trôi qua khá dễ chịu và đêm hôm đó tôi mơ thấy người đàn bà lạ lùng đó - Mary Cavendish. Buổi sáng hôm sau, trời trong và nắng, tôi tự nhủ rằng sẽ được hưởng những ngày nghỉ thật tuyệt vời. Tôi chỉ gặp bà Cavendish vào giờ ăn trưa. Sau đó bà rủ tôi đi dạo và chúng tôi lang thang trong rừng suốt buổi chiều. Chúng tôi quay về vào khoảng lúc mười bảy giờ. Bước vào tiền sảnh, John ra dấu cho chúng tôi đi theo anh vào phòng hút thuốc. Tôi thấy ngay qua nét mặt của anh đã có một biến cố không hay gì đó xảy ra. Chúng tôi bước theo anh vào phòng và anh đóng cửa lại sau lưng chúng tôi. - Mary này, quả là một chuyện không hay. Evie vừa cãi nhau với Alfred Inglethorp xong, và cô ta định bỏ đi. - Evie? John gật đầu buồn rầu. - Phải. Cô ta đến gặp mẹ và... đích thân Evie đây rồi. Cô Howard bước vào, tay cầm chiếc va-li. Trông cô ta xúc động nhưng rất cương quyết và hơi thủ thế. - Dù sao đi nữa - cô kêu lên - tôi cũng đã nói với bà ấy cách nghĩ của mình. - Evie thân mến - bà Cavendish nói - không thể như thế được. Cô không thể bỏ chúng tôi đi đâu cả. Cô Howard gật đầu. - Hoàn toàn thật đấy. Tôi e rằng mình đã nói với Emily vài điều mà bà ấy không thể nào quên hoặc tha thứ được trong một khoảng thời gian dài. Sẽ càng tốt nếu như điều đó khiến bà ta phải suy nghĩ lại. Nhưng có lẽ sẽ chỉ như nước đổ đầu vịt đối với bà ấy thôi. Tôi đã bảo thẳng thừng với bà ta: "Emily ạ, bà là một phụ nữ luống tuổi, và không có gì ngu ngốc hơn là một bà già ngốc nghếch. Người đàn ông đó thua bà đến hai mươi tuổi. Đừng tìm hiểu tại sao hắn đã cưới bà. Vì tiền của bà đấy. Ông nông dân Raikes có một bà vợ khá xinh đẹp. Hãy hỏi chàng Alfred của bà xem anh ta đã ở chỗ họ trong bao lâu?" Bà ta đã tức điên lên. Tự nhiên thôi. Tôi lại bảo: "Tôi cần phải lưu ý bà, dù cho bà có thích hay không đi nữa. Người đàn ông đó thích giết bà ngay trên giường hơn là nhìn thấy bà nằm ở đó. Hắn là một tên vô lại. Bà có thể nói gì với tôi cũng được hết. Nhưng đừng quên rằng tôi đã báo trước cho bà rồi đấy. Hắn là một tên vô lại". - Thế bà ấy bảo sao? Cô Howard nhăn mặt một cách đầy ý nghĩa: - Rằng "Alfred yêu quý ấy... và Alfred cưng ấy... những lời vu khống bỉ ổi... những lời bịa đặt khủng khiếp... quả là một người vợ xấu mới buộc tội chồng yêu quý của mình như vậy..." Tôi càng rời căn nhà sớm chừng nào thì càng tốt cho tôi chừng ấy. Do đó, tôi đi đây. - Nhưng không phải ngay lập tức chứ? - Ngay bây giờ. Chúng tôi đứng đó nhìn cô ta chăm bẵm một lúc. Cuối cùng, thấy những lý lẽ của mình không làm được gì cả, John Cavendish đi xem bảng chỉ dẫn về các tuyến đường xe lửa. Vợ anh bước theo sau, vừa bảo nhỏ rằng bà sẽ thử tìm cách làm cho bà Inglethorp đổi ý. Khi bà bước ra khỏi phòng, gương mặt cô Howard thay đổi ngay. Cô nghiêng người về phía tôi. - Ông Hasting, trông ông lương thiện. Tôi có thể tin ở ông không? Tôi hơi ngơ ngác. Cô đặt bàn tay mình lên cánh tay tôi và giọng nói của cô chỉ còn là tiếng thì thầm: - Hãy trông chừng bà ấy, ông Hasting ạ. Cái bà Emily đáng thương của tôi. Tất cả bọn họ đều là cá mập cả. Ồ, tôi biết mình đang nói gì chứ? Không có một người nào trong bọn họ mà lại không túng thiếu và không tìm cách moi tiền của bà ấy cả. Tôi đã che chở cho bà ấy bằng tất cả sức mình. Nhưng bây giờ, khi tôi không còn ở đây nữa, họ sẽ bòn rút tiền của bà ấy cho mà xem. - Tất nhiên, cô Howard ạ - tôi nói - cô có thể trông cậy ở tôi để làm hết sức mình. Nhưng tôi cho rằng cô hơi mệt và cô hơi quan trọng hóa vấn đề này. Cô lúc lắc ngón tay trỏ để ngắt lời tôi. - Hãy tin ở lời tôi đi, ông bạn trẻ ạ. Tôi đã sống trong thế giới này lâu hơn ông một chút. Tất cả những gì tôi đòi hỏi ở ông là hãy mở to mắt ra. Ông sẽ hiểu tôi muốn nói gì. Tiếng máy xe hơi nổ vọng lên qua khung cửa sổ để mở. Cô Howard đứng lên và tiến về phía cửa. Giọng của John vang lên bên ngoài. Tay đặt trên nắm cửa, cô ta quay sang ra dấu cho tôi. - Và nhất là, ông Hasting ạ, hãy canh chừng con quỷ ấy, chồng bà ấy. Cô ta không có thì giờ để nói gì thêm nữa. Cô Howard bị chìm ngập trong những tiếng chúc tụng và lời từ biệt. Ông bà Inglethorp không ló mặt ra. Trong khi chiếc xe rời xa, bà Cavendish bỗng tách khỏi nhóm và băng qua thảm cỏ để ra đón một người đàn ông cao lớn để râu, đang tiến về phía căn nhà. Bà hơi đỏ mặt khi đưa tay cho ông ta bắt. - Ai đấy? - Tôi bỗng hỏi, vì bất giác tôi đâm ra nghi ngờ người đàn ông đó. - Đó là bác sĩ Bauerstein! - John trả lời cộc lốc. - Ông ta là ai thế? - Ông ta đang nghỉ an dưỡng trong làng sau một cơn suy nhược thần kinh nặng. Đó là một bác sĩ chuyện khoa ở London, một trong những nhà chuyên môn về độc dược học của thời đại chúng ta. - Và là một người bạn thân của Mary - Cynthia mạnh dạn nói thêm. John Cavendish nhíu mày và vội đổi đề tài. - Hãy đi dạo một vòng, Hastings ạ. Thật là rắc rối. Evelyn Howard đã luôn luôn tỏ ra rất nóng tính nhưng không có người bạn nào đáng tin hơn cô ấy. Chúng tôi xuống đến làng bằng cách băng qua những khu rừng bao quanh một phía của khu đất. Lúc quay về, khi vượt qua một trong những cửa rào, chúng tôi gặp một phụ nữ rất đẹp thuộc tuýp di-gan, đến từ phía đối diện chúng tôi và tươi cười chào chúng tôi. - Một phụ nữ đẹp! - Tôi nhận xét. Khuôn mặt John đanh lại. - Đó là bà Raikes. - Người mà cô Howard...? - Đúng vậy! - John đáp cộc lốc. Tôi nghĩ đến người phụ nữ luống tuổi, tóc bạc trắng, trong căn nhà rộng lớn, đến khuôn mặt nhỏ nhắn và sáng sủa tươi cười với chúng tôi, và một cái rùng mình khiến tôi ớn lạnh bất ngờ, như một linh tính mà tôi vội gạt ngay đi. - Styles quả là một nơi tuyệt vời - Tôi nói với John. Anh gật đầu với vẻ u buồn. - Phải, đó là một lãnh địa đẹp. Một ngày nào đó nó sẽ thuộc về tôi, lẽ ra ngay bây giờ nó phải thuộc về tôi, nếu như cha tôi đã để lại một tờ di chúc hợp lý. Và như thế tôi sẽ không bị túng quẫn đến như vậy. - Anh túng lắm ư? - Hasting thân mến ạ, tôi có thể thú nhận với cậu, tôi không biết xoay sở ra sao để có tiền nữa. - Cậu em của anh không giúp được gì cho anh sao? - Laurence ư? Nó ngốn hết những gì nó có để cho xuất bản những bài thơ đáng thương của mình ở những nhà xuất bản thuộc loại có tiếng. Không, chúng tôi đều sạch túi. Nhưng tôi phải thừa nhận, mẹ tôi đã luôn luôn tỏ ra rộng lượng đối với chúng tôi, ít nhất là cho đến bây giờ... Tất nhiên, sau đám cưới của bà... Anh ngưng bặt và nhíu mày. Lần đầu tiên, tôi có cảm giác rằng sự ra đi của Evelyn Howard đã làm thay đổi bầu không khí. Sự có mặt của cô ta đồng nghĩa với sự an toàn. Bây giờ, sự an toàn đó đã mất đi và không khí bị nhuốm đầy ngờ vực. Tôi nghĩ đến khuôn mặt nham hiểm của bác sĩ Bauerstein và, bất giác, tôi linh cảm một tai họa sắp giáng xuống. VỤ ÁN BÍ ẨN Ở STYLES (THẢM KỊCH Ở STYLES) Agatha Christie www.dtv-ebook.com Chương 2: Ngày Mười Sáu Và Mười Bảy Tháng Bảy Tôi đến Styles vào ngày mùng năm tháng bảy. Bây giờ thì tôi viết đến những biến cố của những ngày mười sáu và mười bảy cùng tháng. Để tiện cho bạn đọc, tôi sẽ kể lại những sự việc trong hai ngày đó với sự chính xác lớn nhất có thể có được. Sau này, chúng được xác lập lại tại phiên tòa, nhờ vào những cuộc hỏi cung dài và đáng chán. Hai ngày sau khi cô ra đi, tôi nhận được thư của Evelyn Howard, cho biết cô đã xin vào làm y tá tại bệnh viện Midlingham, một thành phố công nghiệp lớn cách Styles hai mươi cây số. Cô tha thiết mong tôi báo cho cô biết ngay khi bà Inglethorp tỏ vẻ muốn có một cuộc giảng hòa. Chỉ có một điều phật ý đến khuấy động sự yên tĩnh của tôi thôi. Tội buộc lòng phải nhận thấy ý thích quái gở mà về phần tôi, tôi không tài nào hiểu nổi, dường như bà Cavendish đã có đối với quan hệ giữa bà và bác sĩ Bauerstein. Tôi không làm sao hình dung được điều gì ở ông ta lại khiến bà ấy bị lôi cuốn, nhưng bà không ngừng mời ông ta đến nhà chơi và thường đi dạo rất lâu cùng ông ta. Ngày mười sáu tháng bảy là ngày thứ hai. Một ngày thật đầy rắc rối. Buổi hội chợ nổi tiếng đã diễn ra hôm thứ bảy và vào tối hôm mười sáu, người ta tổ chức một buổi lễ mà trong đó bà Inglethorp phải đọc một bài thơ về chiến tranh. Chúng tôi đều rất bận rộn trong buổi sáng để trang trí căn phòng nơi diễn ra buổi lễ. Chúng tôi ăn trưa muộn và bỏ cả buổi chiều để nghỉ ngơi trong khu vườn. Tôi nhận thấy thái độ của John hơi kỳ quặc. Anh có vẻ nóng nảy. Sau bữa trà, bà Inglethorp đi nghỉ một chút trước khi đương đầu với những mệt nhọc của buổi tối, còn tôi thì rủ Mary Cavendish làm một ván quần vợt. Khoảng mười chín giờ kém mười lăm, bà Inglethorp cho gọi chúng tôi để báo rằng chúng tôi sẽ muộn mất thôi vì bữa tối sẽ được dọn lên sớm hơn thường lệ. Chúng tôi phải vội vã để kịp bữa ăn và xe hơi đợi chúng tôi ngoài cửa ngay trước khi bữa ăn chấm dứt. Buổi lễ thành công lớn. Buổi ngâm thơ của bà Inglethorp được vỗ tay nồng nhiệt. Còn có cả vài hoạt cảnh với sự tham gia của Cynthia nữa. Cô ấy không trở về cùng với chúng tôi vì được mời ở lại ăn cơm và ngủ đêm tại nhà những người bạn cùng tham dự vào các hoạt cảnh. Sáng hôm sau, bà Inglethorp, hơi mệt mỏi, dùng điểm tâm trên giường. Nhưng đến mười hai giờ ba mươi thì bà đã tỏ ra rất nhanh nhẹn và dẫn Laurence cùng tôi đến ăn trưa tại nhà một hàng xóm. - Tôi đã nhận được lời mời dễ thương của bà Rolleston. Bà ta là chị của phu nhân Tadminster, ông biết đấy. Gia đình Rolleston đến đây cùng với gia đình Le Conquérant... một trong những dòng họ lâu đời nhất của chúng ta. Mary đã cáo từ, viện cớ có một cái hẹn với bác sĩ Bauerstein. Bữa trưa diễn ra rất thoải mái, và khi chúng tôi trở về bằng xe hơi, Laurence đề nghị ghé thăm Cynthia ở bịnh xá. Bà Inglethorp bảo rằng đó là một ý kiến hay, nhưng vì còn nhiều thư từ để viết, bà sẽ thả chúng tôi xuống đó. Chúng tôi có thể về cùng với Cynthia bằng xe kéo. Chúng tôi bị người gác cổng bịnh xá chặn lại và giữ cho đến lúc Cynthia ra bảo lãnh cho chúng tôi vào. Cô ta trông rất đẹp và rất tươi trong chiếc áo bờ-lu dài và trắng. Cô mời chúng tôi bước vào phòng làm việc và giới thiệu chúng tôi với cô bạn đồng nghiệp, một thiếu nữ có vẻ khá dữ dằn tên là Nibs. - Biết bao nhiêu là chai lọ! - Tôi kêu lên trong khi nhìn quanh căn phòng - Cô có biết rõ những gì chứa trong các chai đó không? - Ồ! Hãy tỏ ra độc đáo hơn. - Cynthia thở dài - Mỗi người vào đây đều tuôn ra câu nói đó. Chúng tôi đến phải suy nghĩ một cách nghiêm túc để trao tặng một phần thưởng cho người đầu tiên sẽ không nói: "... biết bao nhiêu là chai lọ...". Và tôi cũng biết các ông sẽ tiếp là: "Cô đã đầu độc bao nhiêu người rồi?". Tôi mỉm cười thú nhận tội lỗi của mình. - Nếu như ông biết rằng việc đầu độc một người nào đó do bất cẩn dễ đến chừng nào thì ông sẽ không cười nổi đâu. Nào, hãy dùng một tách trà đi. Chúng tôi có cả đống thực phẩm dự trữ bí mật trong chiếc tủ này đây. Không, Laurence ạ, đó là tủ đựng độc dược... Cái tủ lớn kìa. Phải, cái đó đấy. Bữa chiều trôi qua rất vui vẻ và sau đó chúng tôi phụ Cynthia rửa dọn. Chúng tôi vừa cất chiếc muỗng cuối cùng thì có tiếng gõ cửa. Khuôn mặt của Cynthia và Nibs bỗng lộ vẻ nghiêm nghị. - Mời vào - Cynthia nói với giọng quan chức. Một cô y tá trẻ, khá nhút nhát, hiện ra, tay cầm một cái chai mà cô ta trao cho Nibs, cô này phác cử chỉ trao lại cho Cynthia vừa nhận xét một cách khó hiểu: - Tôi không trực nhật ở đây hôm nay. Cynthia cầm lấy cái chai và quan sát với vẻ nghiêm khắc của một quan tòa. - Lẽ ra cô phải đem nó đến cho tôi hồi sáng nay. - Bà y tá trưởng đã quên mất. Bà ta rất lấy làm tiếc. - Và bây giờ tôi không thể pha chế lọ thuốc này trước sáng ngày mai được. - Cô không thể làm cho chúng tôi ngay chiều nay sao? - Thế này nhé - Cynthia duyên dáng bảo - chúng tôi rất bận, nhưng tôi sẽ cố hết sức để pha thuốc. Cô y tá nhỏ cáo lui còn Cynthia lấy một lọ thuốc trên chiếc kệ rót đầy chai và đặt lên chiếc bàn sau cánh cửa. Tôi mỉm cười. - Cần phải duy trì kỷ luật - tôi nói. - Đúng thế. Hãy bước ra bao lơn nhỏ của chúng tôi. Từ đó có thể trông thấy tất cả các văn phòng phía trong. Tôi bước theo sau Cynthia và cô bạn, họ chỉ cho tôi xem những căn phòng khác nhau. Laurence ở lại trong phòng, nhưng Cynthia rủ anh ta nhập bọn với chúng tôi ngay. Rồi cô nhìn đồng hồ. - Không còn gì phải làm sao Nibs? - Không. - Tốt lắm. Nào, chúng ta có thể đóng cửa và về thôi. Trong buổi trưa này, Laurence hiện ra thật khác lạ dưới mắt tôi. Tâm tính anh khó hiểu về mọi mặt và trái ngược hẳn với ông anh, nhút nhát và dè dặt. Tuy vậy, anh cũng có một chút duyên gì đó và tôi cho rằng, nếu hiểu rõ anh hơn, anh có thể gây nên ở người khác một sự mến mộ sâu sắc. Tôi đã cho rằng trước mặt Cynthia, anh cảm thấy lúng túng, còn cô ta thì lại tỏ ra hơi rụt rè khi gần anh. Nhưng ở đây, cả hai đều rất vui vẻ và cùng nói chuyện như hai đứa trẻ. Khi chúng tôi đi ngang qua làng, tôi bày tỏ ý định muốn mua một ít tem, và chúng tôi ngừng lại trước bưu điện. Ở bưu điện bước ra, tôi va phải một người đàn ông nhỏ nhắn đang đi vào. Tôi hơi tránh qua một bên, vừa lên tiếng xin lỗi, thì ông ta bỗng ôm chầm lấy tôi trong tay và nồng nhiệt hôn tôi, vừa kêu lên ngạc nhiên: - Anh bạn Hastings của tôi! Đúng là bạn Hastings của tôi rồi. - Poirot! - Tôi kêu lên. Và quay sang những người ngồi trên chiếc xe kéo sau kiểu Anh: - Thật là một cuộc gặp gỡ lý thú đối với tôi, cô Cynthia ạ. Đây là ông bạn cũ của tôi, ông Poirot, mà tôi đã gặp từ bao nhiêu năm rồi. - Ồ! Ông quen ông Poirot ư? - Cynthia vui vẻ hỏi - Tôi không biết ông ấy là bạn ông. - Quả vậy! - Poirot nghiêm túc nói - Tôi có biết cô Cynthia đây. Sở dĩ tôi có mặt ở đây, đó là nhờ vào lòng từ thiện của bà Inglethorp tốt bụng đấy. Rồi, thấy tôi đưa mắt nhìn dọ hỏi, ông tiếp: - Phải, anh bạn ạ, bà ấy đã vui vẻ bảo trợ cho bảy người đồng hương của tôi, hỡi ôi đều là dân tỵ nạn cả. Đối với người Bỉ chúng tôi, chúng tôi luôn luôn nghĩ đến bà ấy với lòng biết ơn. Tôi đã bảo rằng Poirot là một con người kỳ lạ. Mặc dù dáng người nhỏ nhắn, ông có phong thái thật đáng kính. Đầu ông to, hình quả trứng, gần như luôn luôn hơi nghiêng về một bên. Bộ râu chải chuốt, rất thẳng, tạo cho ông vẻ nhà binh. Ăn mặc rất cầu kỳ, luôn luôn bảnh bao từ đầu đến chân, tỉ mỉ một cách quá đáng, tôi cho rằng một hạt bụi thôi cũng có thể làm ông đau lòng như vết thương do một viên đạn gây nên vậy. Tuy vậy, người đàn ông nhỏ nhắn và lạ lùng ấy, với dáng điệu của một người bảnh bao, xưa kia lại là một trong những nhân vật nổi tiếng của cảnh sát Bỉ. Với tư cách là một nhà thám tử, giác quan của ông thật đáng kinh ngạc, và ông đã thực hiện được những kỳ công khi đã đem được ra trước ánh sáng những vụ việc rắc rối nhất của thế kỷ. Ông chỉ cho chúng tôi xem ngôi nhà mà ông hiện đang ở cùng với các đồng hương của mình, và tôi hứa sẽ đến thăm anh một ngày gần đây. Rồi ông phác cử chỉ chào Cynthia và chúng tôi tiếp tục lên đường. - Đó là một người đàn ông khả ái - Cynthia bảo - Tôi không hề nghĩ là ông quen ông ấy. - Cô đã quen biết một người lừng danh mà không hề hay biết - tôi đáp. Và, vừa đi tôi vừa kể lại cho họ nghe những thành tích và chiến công của Hercule Poirot. Chúng tôi về đến Styles khá vui vẻ. Đúng lúc chúng tôi bước vào hành làng thì bà Inglethorp từ thư phòng của mình đi ra. Trông bà có vẻ nóng nảy, mặt đỏ bừng. - Ồ! Quý vị đấy ư? - Bà nói. - Có chuyện gì xảy ra vậy, dì Emily? - Cynthia hỏi. - Không đâu, chả có gì cả - bà Inglethorp vui vẻ đáp - Làm sao có chuyện gì được cơ chứ? Rồi, trông thấy Dorcas, người hầu phòng, đang tiến về phía phòng ăn, bà gọi lại và sai đem tem vào thư phòng cho mình. Người gia nhân già tỏ vẻ do dự một lát, rồi dè dặt nói: - Bà không cho rằng mình nên đi nằm sao? Bà có vẻ mệt đấy. - Có lẽ bà có lý đấy, Dorcas ạ. Nhưng chưa đâu. Tôi cần viết xong vài lá thư trước giờ bỏ thư. Bà đã nhóm lửa trong phòng như tôi đã căn dặn chưa? - Rồi, thưa bà. - Thế thì tôi sẽ đi nằm ngay sau bữa tối. Bà trở vào thư phòng và Cynthia nhìn theo chưng hửng. - Tôi tự hỏi không biết đã xảy ra chuyện gì vậy? - Cô nói với Laurence. Anh ta dường như không nghe thấy bởi vì, không nói năng gì cả, anh quay gót và bước ra khỏi nhà. Tôi rủ Cynthia chơi một ván quần vợt trước bữa tối và chạy lên phòng lấy chiếc vợt. Bà Cavendish đang bước xuống cầu thang. Có lẽ đó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của tôi thôi, nhưng tôi dường như nhận thấy rằng bà ấy cũng có vẻ rối trí và khó ở. - Bà đi dạo với bác sĩ Bauerstein có vui không? - Tôi hỏi bằng giọng đã cố gắng để làm ra vẻ dửng dưng. - Tôi không hề đi ra ngoài - bà sẵng giọng đáp - Bà Inglethorp đâu rồi? - Trong thư phòng. Bà dường như cứng người lại như trước một cuộc đối diện khó chịu và, bước nhanh qua trước mặt tôi, bà tiếp tục xuống thang gác, bước vào thư phòng và đóng cửa lại. Vài phút sau, để đi đến sân quần vợt, tôi bắt buột phải đi ngang qua khung cửa sở mở toang của thư phòng, và không thể nào không nghe thấy mẩu đối thoại sau đây. Mary Cavendish, bằng một giọng cho thấy rõ sự cố gắng để tự kiềm chế, nói: - Thế nào, bà từ chối không cho tôi xem ư? Và bà Inglethorp đáp: - Mary thân mến ạ, cái đó không liên quan gì đến vụ này cả. - Thế thì hãy cho tôi xem nào. - Tôi đã nói là không phải như cô nghĩ đâu, và cũng không liên quan gì đến cô cả. Còn Mary thì đáp một cách cay đắng: - Được thôi, lẽ ra tôi phải biết rằng bà bao che cho anh ấy. * * *Cynthia đang đợi tôi và đón tiếp tôi bằng cách sôi nổi nói: - Này! Dường như đã xảy ra một trận cãi vã kinh khủng đấy. Dorcas đã kể cho tôi nghe. - Dorcas cũng tham dự vào đấy ư? - Không đâu. Bà ta "vô tình" có mặt gần cánh cửa. Ồ! Một trận tuyệt vời. Tôi muốn biết về vấn đề gì. Tôi nghĩ đến gương mặt sắc sảo của bà Raikes và những lời báo trước của Evelyn Howard, nhưng tôi quyết định giữ im lặng, trong khi Cynthia nêu lên tất cả các giả thuyết có thể và mong sao cho "dì Emily đuổi cỗ tên Inglethorp đi và đừng bao giờ nói đến hắn nữa". Tôi rất muốn gặp John nhưng anh ta biến đâu mất. tất nhiên rồi, có một biến cố nghiêm trọng nào đó đã xảy ra vào buổi trưa. Tôi cố quên đi những câu nói mà tôi đã nghe thấy, nhưng không tài nào loại được chúng ra khỏi tâm trí mình. Mary Cavendish quan tâm đến điều gì trong việc ấy chứ? Khi xuống ăn tối, tôi thấy Inglethorp ngồi trong phòng khách, khuôn mặt dửng dưng như mọi khi, và một lần nữa, vẻ lạnh lùng của người đàn ông đó khiến tôi chú ý. Cuối cùng thì bà Inglethorp cũng xuất hiện. Bà có vẻ còn xúc động, và bữa ăn bị sự im lặng gượng ép làm cho nặng nề thêm. Inglethorp rất bình thản. Hắn chăm sóc vợ từng li từng tí, đặt chiếc gối sau lưng bà, đóng rất đạt vai người chồng trung thành. Bữa ăn kết thúc, bà Inglethorp lui về thư phòng ngay. - Mary, hãy vui lòng đem cà-phê đến cho tôi - bà nói - Tôi chỉ có năm phút thôi để khỏi hụt chuyến thư. Cynthia bước theo tôi đến ngồi gần cửa sổ phòng khách đang mở. Mary Cavendish đem cà-phê đến cho chúng tôi. Bà có vẻ rất bực bội. - Quý vị có muốn bật đèn lên không? - Bà hỏi - Hay là quý vị thích ngắm buổi chiều tà hơn? Cynthia, cô làm ơn đem cà-phê lên cho bà Inglethorp hộ tôi. Tôi sẽ rót sẵn đây. - Xin cô đừng bận tâm, Mary ạ. - Inglethorp bảo - Tôi sẽ tự tay đem đến cho Emily. Vừa nói, anh ta vừa rót cà-phê và bước ra khỏi phòng, cẩn thận cầm chiếc tách trên tay. Laurence theo sau còn bà Cavendish thì đến ngồi bên chúng tôi. Cả ba chúng tôi đều im lặng trong giây lát. Buổi tối tuyệt đẹp, rất nóng và yên tĩnh, bà Cavendish khẽ quạt chiếc quạt làm bằng tàu lá dừa. - Trời gần như quá nóng - bà nói - chắc chắn sắp có bão. Thật đáng tiếc! Tại sao lại không thể kéo dài mãi mãi những lúc như thế này? Tôi bỗng bị dứt ra khỏi giấc mơ của mình bởi một giọng nói rất quen thuộc và thật tình là đáng ghét, vọng lại từ hành lang. - Đó là bác sĩ Bauerstein! - Cynthia kêu lên - Thật là lạ khi đến chơi vào giờ này. Tôi phóng một cái nhìn ghen tức về phía Mary Cavendish nhưng bà chả có vẻ gì là bối rối cả và đôi má nhợt nhạt của bà cũng chả hồng thêm lên một chút nào. Một lát sau, Alfred Inglethorp đưa viên bác sĩ vào, ông này tươi cười xin lỗi và phản đối rằng ông ta quả là không được dễ coi lắm. Và thật vậy, trông ông ta thật thảm hại, vì dính bùn từ đầu đến chân. - Ông làm sao thế này, ông bác sĩu? - Bà Cavendish kêu lên. - Tôi phải xin lỗi quý vị - ông bác sĩ nói - Tôi không muốn vào chơi nhưng ông Inglethorp cứ ép mãi. - Bauerstein này, trông ông đẹp thật đấy! - John vừa bước vào lúc ấy, nhận xét - Hãy dùng cà-phê và kể cho chúng tôi nghe những cuộc phiêu lưu của ông đi. - Cám ơn, tôi rất vui lòng. Ông ta vừa cười vừa thuật lại là đã phát hiện ra một loại dương xỉ rất hiếm mọc ở một nơi không thể với đến được. Ông đã cố gắng hái và đã trượt chân rời xuống ao nước bên cạnh. - Ánh nắng đã nhanh chóng hong khô cho tôi - ông nói - nhưng tôi cho rằng thật tình trông tôi rất khó coi. Đúng lúc đó, bà Inglethorp gọi Cynthia từ hành lang và cô vội chạy ra. - Hãy đem chiếc rương đựng thư từ vào phòng cho tôi, cưng ạ, tôi đi nằm đây. Cánh cửa thông ra hành lang khá rộng. Tôi đứng lên cùng với Cynthia, và John đứng sát bên đó. Như vậy có ba nhân chứng có thể thề rằng bà Inglethorp cầm trong tay tách cà-phê còn nguyên chưa uống giọt nào. Sự hiện diện của bác sĩ Bauerstein làm cho buổi tối của tôi bị mất vui hẳn. Tôi cứ nghĩ rằng ông ta sẽ chả bao giờ ra về cả. Cuối cùng thì ông ta cũng đứng lên và tôi thở phào nhẹ nhõm. - Tôi sẽ đi cùng ông xuống làng - ông Inglethorp bảo - vì tôi phải giải quyết một số việc với người quản lý của chúng tôi. Quay sang John, hắn nói: - Không nên chờ tôi làm gì. Tôi sẽ đem chìa khóa theo. VỤ ÁN BÍ ẨN Ở STYLES (THẢM KỊCH Ở STYLES) Agatha Christie www.dtv-ebook.com Chương 3: Buổi Tối Xảy Ra Thảm Kịch Để cho phần này của câu chuyện được hoàn toàn rõ ràng, tôi thêm vào đây sơ đồ tầng 1 của Styles. Bằng cửa B, người ta có thể đến các phòng của đám gia nhân. Các phòng này không ăn thông gì với cánh phải, nơi có phòng của vợ chồng Inglethorp. Nửa đêm tôi bị Laurence đánh thức. Anh cầm cây nến trên tay và sự xúc động trên khuôn mặt anh thuyết phục được tôi ngay rằng có chuyện gì khác thường xảy ra. - Có chuyện gì vậy? - tôi hỏi , vừa ngồi dậy trên giường vừa cố gắng tập trung suy nghĩ của mình. - Chúng tôi e rằng mẹ tôi bị bệnh nặng. Bà ấy bị lên cơn đau. Khổ thay, bà ta lại khóa chặt cửa phòng. - Tôi đến ngay. Phóng ra khỏi giường, tôi choàng chiếc áo ngủ và bước theo Laurence dọc hành lang đến cánh phải của ngôi nhà. John Cavendish đến bên chúng tôi, và tôi trông thấy các gia nhân với vẻ sợ hãi và kinh ngạc. Laurence quay sang chúng tôi: - Phải làm gì đây? Tôi chưa bao giờ thấy anh ta do dự như lúc này. John lay mạnh tay nắm cửa phòng bà Inglethorp nhưng vô hiệu. Cánh cửa rõ ràng bị khóa trái hoặc cài then. Từ phía trong phòng, chúng tôi nghe thấy những tiếng kêu đáng lo ngại. Cần thiết phải hành động ngay. - Hãy thử vào bằng lối cửa phòng của ông Inglethorp - Dorcas kêu - Ồ! Tội nghiệp cho bà chủ. Tôi bất chợt nhận ra rằng Alfred Inglethorp không có mặt bên chúng tôi, và chỉ có một mình hắn là không thấy xuất hiện. John mở cửa phòng hắn ra: căn phòng chìm trong bóng tối. Nhưng Laurence theo sau với cây nến, và nhờ ánh sáng leo lét ấy, chúng tôi nhận thấy rằng trên giường không có người. Chúng tôi đến bên cánh cửa ăn thông sang phòng bên cạnh ngay. Nó cũng bị khóa trái hoặc cài then từ phía bên trong. Làm gì đây? - Ồ! Lạy Chúa, thưa ông! - Dorcas rên tỉ, vừa vặn vẹo tay chân - Làm sao đây? - Cần phải phá cửa. Nhưng sẽ không dễ dàng đâu. Hãy sai người hầu phòng nào đi bảo Bill cho tìm ngay bác sĩ Wilkins. Trong khi chờ đợi, chúng ta sẽ thử phá cửa xem sao. Nhưng này, có phải còn có cánh cửa ăn thông từ phòng mẹ tôi sang phòng cô Cynthia không? - Vâng, thưa ông, nhưng nó bị cài then rồi. - Thế thì chúng ta vẫn có thể thử xem sao? John chạy vội đến phòng Cynthia. Mary Cavendish đang ở đó, tìm cách đánh thức cô gái, cô này có lẽ ngủ say một cách đặc biệt. Anh quay lại ngay với chúng tôi. - Cánh cửa đó cũng bị cài then rồi. Phải phá cửa này thôi, vì nó có vẻ kém chắc chắn hơn cửa ăn thông ra hành lang. Tất cả chúng tôi đều dồn sức đè lên cánh cửa, nó thật chắc chắc và cưỡng lại sự cố gắng của chúng tôi một hồi lâu, nhưng cuối cùng cũng bung ra trong một tiếng ầm to lớn. Chúng tôi ùa vào phòng, Laurence vẫn cầm cây nến trên tay. Bà Inglethorp nằm dài trên giường, toàn thân bị chấn động bởi những cơn co giật mạnh, trong những lúc đó có lẽ bà đã làm đổ chiếc bàn cạnh giường. Nhưng, đúng lúc chúng tôi bước vào, chân tay bà duỗi ra và bà buông mình xuống gối. John vội băng qua phòng và mở hơi đốt. Quay sang Annie, một trong những người hầu phòng, anh sai cô ta đi lấy rượu cô-nhắc. Rồi, đến bên mẹ, trong khi tôi mở cửa ăn thông ra hành lang. Tôi quay sang Lawreance định bảo rằng tôi sẽ lui về phòng mình nếu như anh ta không cần đến sự giúp đỡ của tôi nữa, nhưng lời nói tan biến trên môi tôi. Tôi chưa bao giờ trông thấy trên một khuôn mặt đàn ông nét hãi hùng nào như trên mặt anh ta vậy. Trông anh trắng bệch. Trong bàn tay run rẩy của anh, cây nến nhỏ sáp trên tấm thảm, và cặp mắt kinh hãi của anh nhìn chằm chặp qua đầu tôi một điểm nào đó trên bức tường đối diện. Tôi máy móc nhìn theo nhưng không nhận thấy điều gì bất thường cả. Bởi vì khúc củi còn cháy âm ỉ trong lò sưởi và thành lò sưởi hoàn toàn không có gì lạ cả. Cơn đau của bà Inglethorp dường như đã dịu lại. Bà có thể nói bằng những câu ngắt quãng: - Tôi khỏe rồi, thật bất ngờ... ngu xuẩn vì đã khóa cửa phòng. Một chiếc bóng đổ dài trên giường. Ngẩng đầu lên, tôi trong thấy Mary Cavendish đang đứng gần cửa, tay choàng qua vai Cynthia. Bà ta có vẻ như đang đỡ cô gái, trông cô này như sắp gục xuống. Khuôn mặt cô ta rất đỏ, và cô không ngừng ngáp. - Tội nghiệp Cynthia, cô ấy rất sợ hãi - bà Cavendish nói. Tôi nhận thấy rằng bà ta mặc chiếc áo làm vườn trên người. Như thế là đã muộn hơn tôi cứ nghĩ. Tôi trông thấy một vệt sáng yếu ớt của ngày mới len lỏi qua màn cửa và chiếc đồng hồ trên lò sưởi đã chỉ gần năm giờ. Một tiếng kêu phát ra từ chiếc giường khiến tôi giật mình. Người phụ nữ đáng thương ấy lại bị một cơn đau nữa. Những cơn co giật mạnh khủng khiếp. Một tình trạng bối rối tột độ bao trùm ngay lúc đó. Chúng tôi vây quanh bà, bất lực trước nỗi đau đớn của bà. Một cơn co giật cuối cùng nhấc bổng bà lên khỏi giường và dường như chỉ có đầu và gót chân của bà chạm xuống giường thôi và cả thân hình bà cong hẳn lên một cách kỳ quặc. Mary và John làm mọi cách để bà uống một hớp cô-nhắc nhưng vô ích. Thân hình bà lại uốn cong một lần nữa. Đúng lúc đó, bác sĩ Bauerstein lách người vào một cách cương quyết. Ông đứng chết lặng một lúc, mắt dán vào bóng người nằm trên giường, rồi bà Inglethorp hét lên bằng giọng tắc nghẽn, mắt nhìn chằm chằm ông bác sĩ. - Alfred! Alfred! Rồi bà buông người xuống gối, bất động. Viên bác sĩ đến bên giường, nắm lấy tay bà Inglethorp và lắc mạnh, thực hiện cái mà tôi đoán là hô hấp nhân tạo. Ông ra lệnh ngắn gọn cho gia nhân. Bằng cửa chỉ đầy uy quyền, ông đuổi tất cả chúng tôi ra đến cửa. Chúng tôi nhìn ông như bị mê hoặc, mặc dù mỗi người trong chúng tôi đếu thầm đoán rằng đã quá muộn và không còn gì để có thể làm nữa cả. Tôi thấy, qua nét mặt của ông, rằng ngay cả ông bác sĩ cũng ít có hy vọng gì. Cuối cùng thì ông ngưng công việc ấy, vừa trịnh trọng lắc đầu. Đúng lúc đó, chúng tôi nghe thấy những tiếng chân trong hành lang, và bác sĩ Wilkins, vị bác sĩ quen thuộc của bà Inglethorp, một người đàn ông nhỏ thó mập mạp và có vẻ quan trọng, bước vào, vẻ bận rộn. Bằng vài lời, bác sĩ Bauerstein giải thích rằng ông đi ngang qua cửa rào Styles đúng vào lúc xe hơi chạy ra, và đã nhanh chân chạy vào nhà trong khi người ta đi gọi bác sĩ Wilkins. Ông đưa tay chỉ chiếc giường. - Thật đáng buồn! Thật đáng buồn! - Bác sĩ Wilkins khẽ nói - Tội nghiệp cho người phụ nữ đáng mến. Bà ta luôn luôn làm việc quá sức, quá mức, và đi ngược mọi lời khuyên của tôi. Tôi đã báo trước với bà ấy. Tim bà ta còn lâu mới khỏe mạnh. Hãy từ từ thôi, tôi đã nói như thế với bà ấy. Từ từ thôi. Nhưng không, sự hăng say của bà đối với những công việc từ thiện quá to lớn. Thiên nhiên đã cưỡng lại. Thiên nhiên đã cưỡng lại. Tôi nhận thấy rằng bác sĩ Bauerstein nhìn viên bác sĩ miền quê chăm chăm. - Những cơn co giật mạnh một cách đặc biệt, bác sĩ Wilkins ạ. Tôi tiếc rằng ông đã không đến được đúng lúc để quan sát. Chúng có tính chất hoàn toàn... giống như bệnh uốn ván. - Ồ! - bác sĩ Wilkins kêu lên. - Tôi muốn hội ý riêng với ông - bác sĩ Bauerstein nói. Quay sang John: - Ông không thấy bất tiện chứ? - Tất nhiên là không. Tất cả chúng tôi bước ra hành lang, để hai người bác sĩ ở lại với nhau và tôi nghe thấy tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa sau lưng chúng tôi. Chúng tôi từ từ bước xuống nhà. Tôi bị căng thẳng thần kinh đến cực độ; tôi phải tự hào rằng mình đã có khả năng suy luận, và thái độ của bác sĩ Bauerstein đã làm nảy sinh trong đầu óc tôi cả một loạt những lời phỏng đoán điên rồ. Mary Cavendish đặt tay lên cánh tay tôi. Tôi quay nhìn bà. - Bà có biết tôi nghĩ gì không? - Tôi hỏi. - Gì thế? - Hãy nghe đây này. Liếc nhìn quanh chúng tôi, tôi nhận thấy những người khác ở ngoài tầm nghe. Tôi hạ thấp giọng và khẽ nói. - Tôi cho rằng bà ấy bị đầu độc đấy. Tôi tin chắc là bác sĩ Bauerstein cũng nghi ngờ điều đó. - Sao? Bà lùi dần về phía tường, mắt mở to vì sợ hãi. Rồi hét lên một tiếng khiến tôi lo sợ, bà hung hăng bảo: - Không! Không! Không thể như thế! Không thể như thế! Và, gạt tôi sang một bên, bà bỏ chạy lên cầu thang. Tôi chạy theo, sợ bà bị đau. Tôi tìm thấy bà đang dựa vào thành cầu thang, trông bà tái mét như một xác chết, và bà gạt tôi một cách nóng nảy: - Không! Không! Hãy để tôi yên! Tôi muốn ở một mình. Hãy để tôi yên một lát. Hãy đi tìm những người khác đi. Tôi miễn cưỡng làm theo lời bà. John và Laurence đang ở trong phòng khách và tôi nhập bọn với họ. Chúng tôi đều giữ im lặng nhưng họ cho rằng tôi đã nói lên suy nghĩ của mọi người khi, cuối cùng, tôi phá tan sự im lặng và nói. - Ông Inglethorp đâu nhỉ? John lắc đầu: - Hắn ta không có trong nhà. Ánh mắt của chúng tôi gặp nhau. Alfred Inglethorp ở đâu mới được chứ? Một sự vắng mặt lạ lùng và không thể nào giải thích nổi. Tôi nhớ lại những lời nói cuối cùng của bà Inglethorp. Chúng có ý nghĩa gì? Bà ta sẽ nói gì nữa nếu như còn đủ sức? Cuối cùng thì các bác sĩ cũng bước xuống. Bác sĩ Wilkins có vẻ trịnh trọng và che giấu sự bồn chồn bên trong bằng chiếc mặt nạ lạnh lùng. Bác sĩ Bauerstein giữ vai phụ, khuôn mặt nghiêm trọng của ông không thay đổi. Bác sĩ Wilkins mở lời. Ông nói với John: - Ông Cavendish ạ, tôi yêu cầu ông đồng ý cho khám nghiệm tử thi. - Có cần thiết không? - John nghiêm túc hỏi, trong khi khuôn mặt anh nhăn nhó vì đau khổ. - Tuyệt đối cần thiết - bác sĩ Bauerstein nói. - Ông muốn nói rằng việc đó... - Cả bác sĩ Wilkins lẫn tôi đều không thể ký giấy phép liệm người chết trong những tình huống này. John cúi đầu. - Trong trường hợp đó tôi không thể chọn lựa và đành chấp nhận thôi. - Cám ơn - bác sĩ Wilkins vội nói - Chúng tôi đề nghị khám nghiệm tử thi vào chiều mai, hay đúng hơn là chiều nay - ông liếc nhìn ra ngoài cửa sổ soi sáng bởi những tia nắng ban mai đầu tiên và chữa lại - Với những tình huống này, chúng ta không thể nào, tôi e vậy, tránh được một cuộc điều tra của nhà chức trách, những thủ tục này là cần thiết, nhưng tôi xin quý vị đừng lo âu quá đỗi. Ông ngừng lại, bác sĩ Bauerstein rút từ túi áo ra hai chiếc chìa khóa và trao cho John. - Đây là chìa khóa của hai căn phòng. Theo ý tôi, nên khóa chúng lại trong lúc này là tốt hơn cả. Nói đến đây, các bác sĩ bỏ đi. Từ nãy giờ, tôi lập đi lập lại một ý nghĩ trong đầu và cho rằng đã đến lúc biểu lộ ra. Tuy nhiên tôi hơi ngần ngại. Tôi biết rằng John rất sợ tai tiếng và lạc quan một cách vô tâm. Do đó rất có thể sẽ khó thuyết phục được anh về tính hợp lý của ý định của tôi. Tôi nghĩ, có thể tin vào sự đồng tình của Laurence vì anh ta có nhiều trí tưởng tượng hơn. - John - tôi bảo - tôi sẽ đề nghị với anh việc này. - Sao cơ? - Anh còn nhớ tôi có nói với anh về ông bạn Poirot của tôi không? Cái ông người Bỉ ở trong làng ấy? Trước đây ông ta đã là một viên thám tử nổi tiếng. - Vâng. - Thế này nhé, tôi muốn anh cho phép tôi mời ông ta đến để điều tra về vụ này. - Sao cơ? Bây giờ ư? - Phải... Thời gian là một lợi điểm, nếu như... nếu như đó là một vụ giết người. - Thật là bậy - Laurence tức giận kêu lên - Theo ý tôi, tất cả chuyện này chỉ là một cái tin vịt do Bauerstein bịa ra. Wilkins không hề nghĩ như thế trước khi Bauerstein nhồi vào đầu ông ta điều đó. Nhưng Bauerstein bị méo mó nghề nghiệp như tất cả những nhà chuyện môn khác. Độc dược là nghề của ông ta, thế nên bạ đâu ông ta cũng trông thấy nó cả. Tôi phải thừa nhận rằng thái độ của Laurence làm tôi ngạc nhiên bởi vì rất hiếm khi anh ta tỏ ra kịch liệt với bất cứ vấn đề gì. John do dự. - Tôi không hiểu nổi tình cảm của cậu, Laurence ạ - anh nói. Tôi rất muốn để cho Hastings hoàn toàn tự do hành động, mặc dù tôi thích chờ đợi một ít lâu nữa. Chúng ta không muốn bị tai tiếng một cách vô ích. - Tất nhiên thôi! - Tôi vội kêu lên - Đừng ngại gì về vấn đề đó cả: Poirot chính là tất cả sự kín đáo. - Thế thì, hãy hành động theo ý mình. Tuy nhiên, theo tôi, sự việc rất rõ ràng, nếu như điều chúng ta nghi ngờ là chính xác. Nhưng Chúa hãy tha tội cho tôi nếu như tôi phán đoán mạnh dạn quá. Tôi nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ sáng. Tôi quyết định không để phí thì giờ. Tuy nhiên, tôi cũng ra hẹn cho mình năm phút: trong năm phút đó tôi lục lọi thư viện, cho đến khi tìm được cuốn sách y học tả rõ sự ngộ độc do chất Strychnin gây nên. VỤ ÁN BÍ ẨN Ở STYLES (THẢM KỊCH Ở STYLES) Agatha Christie www.dtv-ebook.com Chương 4: Poirot Mở Cuộc Điều Tra Căn nhà của những người Bỉ nằm rất gần tường rào của khuôn viên. Người ta có thể đến đó bằng một con đường nhỏ xuyên qua cỏ cao, điều đó có thể tránh cho người ta khỏi phải đi vòng lối đường cái. Do đó khi tôi dùng con đường này và đến chỗ người gác dan ở thì trông thấy một bóng đàn ông lao về phía tôi. Đó là ông Inglethorp. Ông ta từ đâu đến? Ông ta sẽ làm thế nào để giải thích được sự vắng mặt của mình? Ông ta vội nói ngay: - Chúa ơi! Một việc khủng khiếp biết bao! Bà vợ đáng thương của tôi! Tôi chỉ vừa mới biết tin thôi! - Ông đi đâu vậy? - Tôi lạnh lùng hỏi. - Denby đã giữ tôi ở lại rất khuya. Khi chúng tôi tính toán xong, thì đã hơn một giờ sáng rồi. Lúc đó tôi chợt nhận ra rằng mình đã bỏ quên chìa khóa. Do tôi không muốn đánh thức cả nhà dậy nên Denby đã cho tôi mượn một chiếc giường. - Làm thế nào mà ông biết được tin? - Tôi hỏi tiếp. - Wilkins đã đánh thức Denby để báo tin. Emily đáng thương của tôi! Với tính tình cao quý biết mấy! Một nỗi ghê tởm mơ hồ xâm chiếm lấy tôi. Inglethorp hiện ra trước mắt tôi như một tên giả dối quá mức. Một lúc sau, tôi gõ cửa biệt thự Leastways. Không thấy ai trả lời, tôi nóng nảy lập lại cử chỉ đó. Một cánh cửa sổ được cẩn thận đẩy ra và đích thân Poirot thò đầu nhìn xuống đường. Ông ta kêu lên kinh ngạc khi nhận ra tôi. Tôi kể vắn tắt tấn thảm kịch cho tôi nghe và bảo rằng tôi đến yêu cầu sự giúp đỡ của ông. - Khoan đã, anh bạn ạ, tôi sẽ mở cửa cho anh vào và anh sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện trong khi tôi sửa soạn. Ông mở cửa ngay và tôi theo ông đến tận phòng ngủ. Ở đó, ngồi vào một chiếc ghế bành, tôi kể hết mọi chuyện cho ông nghe, không giấu diếm và cũng chẳng bỏ sót điều gì cả, trong khi ông sửa soạn một cách tỉ mỉ. Tôi cho ông biết về những lời nói cuối cùng của bà Inglethorp, về sự vắng mặt của chồng bà ta, về trận cãi vã hôm trước, về mẩu đối thoại mà tôi đã nghe thấy giữa Mary và mẹ chồng, về sự bất hòa giữa bà Inglethorp và Evelyn Howrad trước đó và về những lời dặn dò của cô này. Tôi đã không được hoàn toàn rõ ràng như mong muốn. Tôi phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần, và thỉnh thoảng phải gợi nhớ lại một chi tiết bị bỏ quên. Poirot mỉm cười đầy hảo ý với tôi. - Anh hơi xúc động phải không? Tự nhiên thôi. Nhưng hãy từ từ, anh bạn ạ. Sau này, khi chúng ta bình tĩnh hơn, chúng ta sẽ sắp xếp lại các sự kiện một cách có hệ thống, cái nào vào chỗ nấy. Chúng ta sẽ xem xét và chọn lựa. Chúng ta sẽ để sang một bên cái nào mà chúng ta cho là quan trọng. Còn những cái khác thì... phù! (ông gồng gương mặt trẻ con của mình lên và thổi một cách khá nực cười), chúng ta sẽ cho chúng bay mất. - Tất cả những thứ đó thật hay - tôi bảo - nhưng ông làm sao phân biệt được cái nào là quan trọng và cái nào là không chứ? Việc đó đối với tôi luôn luôn rất khó. Poirot lắc đầu mạnh mẽ. Ông xoắn bộ râu của mình với một sự chăm chút lão luyện. - Không đâu, này nhé. Một sự kiện này dẫn đến một sự kiện khác, và chúng cứ tiếp tục như thế. Cái kế tiếp có phù hợp với cái trước không? Một cách tuyệt vời. Được rồi! Chúng ta có thể tiếp tục. Thiếu một mắc xích trong sợi dây ư? Chúng ta sẽ xem xét. Chúng ta sẽ tìm hiểu về cái sự kiện nhỏ bé kia, cái sự kiện vô nghĩa có vẻ như không phù hợp với những cái khác; chúng ta sẽ đặt đây này. Ông phác một cửa chỉ. - Quan trọng lắm đấy! Tiên quyết đấy! - Vâng... vâng!... - À! Poirot chỉ tay đe dọa tôi mạnh mẽ đến nỗi tôi phải lùi lại. - Hãy coi chừng! Người thám tử mà nói: "Đó là một sự kiện nhỏ không chút quan trọng. Nó không phù hợp với những cái khác, tôi sẽ quên nói đi" thì sẽ nguy hiểm lắm đấy. Sự hờ hững đó đưa đến sự hoang mang. Bởi vì tất cả, tất cả đều có tầm quan trọng của nó. - Tôi biết điều đó. Ông vẫn bảo với tôi như thế. Bởi vậy tôi đã ghi lại tất cả những chi tiết của vụ này, dù cho chúng có quan trọng hay không đi nữa dưới mắt tôi. - Và tôi rất hài lòng về anh. Anh có trí nhớ tốt và đã liệt kê cho tôi một cách trung thực. Tôi không nói như thế về thứ tự theo đó anh đã giới thiệu chúng cho tôi, bởi vì thật là đáng phàn nàn. Nhưng tôi hiểu rằng anh đang bị xúc động. Bởi thế tôi tha thứ cho anh vì đã quên mất một sự kiện quan trọng bậc nhất. - Sự kiện nào? - Tôi ngạc nhiên hỏi. - Anh đã không cho tôi biết bà Inglethorp tối qua ăn có ngon miệng không? Tôi nhìn ông chằm chặp, kinh ngạc. Quả là chiến tranh đã làm cho đầu óc ông bị lệch lạc. Ông đang mải mê cẩn thận chải bộ vét trước khi mặc vào người và tỏ ra hoàn toàn chăm chú vào việc đó. - Tôi không nhớ rõ nữa - tôi đáp - Dù sao đi nữa, tôi không thấy... - Ông không thấy ư? Nhưng nó là cốt yếu đấy! - Tôi không hiểu - tôi đáp, hơi bị xúc phạm. Nhưng, nếu ký ức tôi chính xác thì bà ấy chả ăn bao nhiêu. Rõ ràng là bà ta rất rối trí và không thấy ngon miệng. Tự nhiên thôi. - Phải - Poirot nhắc lại, trầm tư - Rất tự nhiên. Ông mở một ngăn kéo, lấy chiếc ví và quay sang tôi. - Đây này, tôi đã sẵn sàng. Chúng ta sẽ đến lâu đài để xem xét sự việc ngay tại chỗ. Hãy tha thứ cho tôi, anh bạn ạ, nhưng anh đã mặc đồ vội vã và chiếc cà-vạt của anh bị xộc xệch. Cho phép tôi. Bằng một cử chỉ chính xác, ông sửa lại. - Nào, ta hãy đi thôi. Chúng tôi đi vòng qua ngôi nhà và đi ngang qua nhà người gác da, bước vào khuôn viên. Poirot ngừng lại một lát vẻ đau đớn nhìn ngắm khu vườn trải rộng còn đang lấp lánh dưới sương sớm. - Tất cả những thứ này đẹp biết mấy, thế mà gia đình ấy lại phải chìm trong đau khổ. Vừa nói ông vừa nhìn tôi dò xét, và tôi nhận ra mình đang đỏ mặt dưới cái nhìn sắc của ông. * * *Gia đình có thật sự bị quỵ xuống vì đau thương không? Nỗi đau do cái chết của bà Inglethorp gây nên có thật sự to lớn không? Tôi nhận ra không khí ở Styles dường như chả có vẻ gì là bị nhuốm đầy xúc động cả. Người chết đã không có khả năng làm cho mình được yêu mến. Cái chết của bà là một tai họa và một cú sốc lớn, nhưng không ai nuối tiếc bà nhiều lắm. Poirot có vẻ như đang theo dõi dòng suy nghĩ của tôi. Ông trịnh trọng gật đầu bảo: - Không giống như nếu họ có quan hệ máu mủ với nhau vậy. Bà ta đã tỏ ra rất tốt bụng và rộng lượng đối với những người thuộc dòng họ Cavendish ấy, nhưng lại không phải là máu ruột của họ. Máu mủ cũng quan trọng đấy, hãy nhớ lấy điều này, máu mủ cũng quan trọng đấy. - Poirot, ông không cho tôi biết, tại sao ông muốn biết bà Inglethorp tối qua có ăn nhiều hay không? Tôi đã lật đi lật lại cái ý nghĩ đó trong đầu mãi mà chả thấy nó liên quan gì đến việc này cả. Ông im lặng một lúc trong khi chúng tôi vẫn bước đi, nhưng cuối cùng ông cũng trả lời tôi. - Tôi rất muốn cho anh biết, mặc dù tôi không có thói quen, như anh biết đó, đưa ra bất cứ lời giải thích nào trước khi đạt đến đích. Giả thuyết hiện nay là bà Inglethorp chết do ngộ độc bởi chất Strichnin được bỏ vào cà-phê của bà ta. - Vâng... - Thế thì, cà-phê được phục vụ vào giờ nào? - Khoảng tám giờ tối. - Vậy thì bà ta đã uống vào giữa tám giờ và tám giờ ba mươi. Chắc chắn rằng không lâu hơn sau đó. Thế nhưng Strychnin là một độc dược có tác động khá nhanh, có lẽ là một tiếng đồng hồ sau. Tuy nhiên, trong trường hợp của bà Inglethorp, những triệu chứng chỉ bộc lộ ra vào lúc năm giờ sáng hôm sau, nghĩa là chín tiếng đồng hồ sau. Thế nhưng, một bữa ăn thịnh soạn hấp thụ cùng lúc với độc dược có thể làm chậm công hiệu của nó đi, nhưng không lâu đến như thế. Tuy vậy, đó cũng là một khả năng đáng lưu ý đến. Thế mà, theo anh thì bà ta ăn khá ít, nhưng triệu chứng vẫn chỉ xuất hiện vào sáng hôm sau. Đó là một trường hợp khá lạ lùng, anh bạn ạ. Có thể cuộc khám nghiệm sẽ soi sáng cho chúng ta thêm. Trong lúc chờ đợi, đừng quên chi tiết đó. Khi chúng tôi đến gần ngôi nhà, John bước ra đón chúng tôi. Gương mặt anh trông thất thần và mệt mỏi. - Đây là một việc thật khủng khiếp, ông Poirot ạ - anh nói - Hastings có lẽ đã cho ông biết, chúng tôi không muốn tiết lộ nó ra ngoài. - Tôi hoàn toàn hiểu ý ông. - Ông thấy đấy, cho đến nay chỉ là sự nghi ngờ thôi. Chúng ta không có những đầu đề chính xác. - Đúng vậy. Chỉ cần thận trọng thôi. John quay sang tôi, anh lấy một điếu thuốc trong hộp thuốc và châm lửa. - Anh biết rằng Inglethorp đã quay về rồi chứ? - Vâng. Tôi đã gặp hắn. John vứt cây diêm vào một luống hoa gần đó, cử chỉ này làm cho Poirot, vốn rất ngăn nắp, phải bực bội. Ông nhặt nó lên và cẩn thận vùi sâu xuống đất. - Quả thật rất khó mà biết phải đối xử với hắn ra sao. - Sự khó khăn đó không kéo dài lâu đâu - Poirot thản nhiên tuyên bố. John tỏ ra băn khoăn, vì anh không hiểu rõ ý nghĩa của câu nói tối nghĩa ấy. Anh trao cho tôi hai chiếc chìa khóa mà bác sĩ Bauerstein đã đưa cho anh. - Hãy cho ông Poirot xem tất cả những gì ông ấy muốn xem. - Các căn phòng đều được khóa trái cửa hết sao? - Poirot hỏi. - Bác sĩ Bauerstein đã cho rằng điều đó là tốt hơn hết. Poirot gật đầu, trầm ngâm. - Thế thì ông ta phải chắc chắc lắm với sự đánh giá của mình. Điều này chỉ làm cho mọi việc đơn giản hơn đối với chúng ta thôi. Chúng tôi cùng lên trên phòng nơi xảy ra thảm kịch. Để tiện hơn nữa, tôi thêm vào đây sơ đồ của căn phòng đó với những đồ đạc chính có ở đấy. Phòng ngủ của bà Inglethorp: A: cửa ăn thông ra hành lang B: cửa ăn thông sang phòng ông Inglethorp C: cửa ăn thông sang phòng Cynthia Murdoch. Poirot khóa cửa lại từ bên trong và bắt đầu lục soát tỉ mỉ. Ông chạy từ vật này sang vật khác với sự nhanh nhẹn của một con dế. Tôi đứng gần cửa, sợ làm mất đi một dấu vết nào đó. Nhưng Poirot có vẻ như không mấy tán thành sự tế nhịn này của tôi. - Anh sao thế, anh bạn? Đứng như thế cứ như, nói sao đây, à, phải rồi, cứ như một con heo nhồi rơm vậy. Tôi bảo với ông rằng tôi sợ xóa mất dấu chân nào đó. - Những dấu chân! Ý nghĩ hay thật. Đã có đến cả một đạo quân dẫn vào phòng này rồi. Chúng ta có thể tìm thấy những dấu chân nào đây? Không, hãy đến đây giúp tôi trong việc tìm kiếm. Tôi sẽ đem cất chiếc ví nhỏ của mình đi cho đến khi nào lại cần đến nó. Ông đặt nó lên chiếc bàn tròn kê gần cửa sổ, nhưng đó chỉ là một cử chỉ vô ý, vì phần trên của chiếc bàn có thể xê dịch được, ông đứng lên và chiếc ví rơi xuống sàn nhà. - Quả là một chiếc bàn kỳ cục! - Poirot kêu lên - À! Anh thấy đấy, không phải những ngôi nhà lớn là có nhiều tiện nghi nhất đâu. Và sau câu nói luân lý khôi hài đó, ông tiếp tục công việc của mình. Một chiếc rương nhỏ màu tím với chiếc chìa khóa cắm trong ổ khóa, đặt trên bàn giấy, khiến ông chú ý một lúc. Ông rút chìa khóa ra và đưa tôi xem. Tôi không thấy gì là đặc biệt cả. Đó là một chiếc chìa khóa bình thường, thuộc loại Yale và có một đoạn dây thép cong queo được xỏ qua chiếc vòng. Sau đó ông quan sát cánh cửa mà chúng tôi đã phá để tin chắc rằng nó có bị khóa thật hay không. Rồi ông tiến đến bên cánh cửa đối diện, ăn thông sang phòng của Cynthia. Như tôi đã kể, cánh cửa đó cũng được cài then. Tuy vậy, ông cũng cất công đẩy chốt, mở và đóng cửa nhiều lần liên tục; khi làm việc này, ông tìm đủ mọi cách để khỏi gây tiếng động. Bất thình lình, có cái gì đó ngay trong ổ khóa làm ông chú ý. Sau một cuộc kiểm tra nghiêm túc, ông lấy từ chiếc túi đựng đồ nghề của mình ra một chiếc kẹp và gắp từ ổ khóa ra một mảnh nhỏ xíu mà ông cẩn thận nhét vào một chiếc phong bì nhỏ... Trên chiếc tủ ngăn, trong chiếc khay, có cái bếp cồn và cái xoong. Trong đáy xoong còn lại một ít chất lỏng đen đen. Ngay gần đó là chiếc tách và cái đĩa nhỏ mà, tất nhiên là, người ta đã dùng đến. Tôi tự hỏi làm sao mình lại có thể lơ đãng đến độ không chú ý đến chúng. Đó là một dấu vết quan trọng. Poirot thận trọng nhúng một ngón tay vào chất lỏng và nếm. Ông nhăn mặt. - Ca-cao pha với rượu rum. Sau đó ông quay sang những mảnh vụn vương vãi trên sàn nhà, chỗ chiếc bàn đặt cạnh giường bị lật đổ. Một chiếc đèn để bàn, vài cuốn sách, vài cây diêm quẹt, một xâu chìa khóa và những mảnh vỡ của một chiếc tách cà-phê còn vương vãi đây đó. - À! Điều này lạ lùng đây! - Poirot nói. - Tôi phải thú nhận rằng tôi không thấy điều gì đặc biệt lạ cả. - Thật ư? Hãy nhìn chiếc đèn kia. Kính bị vỡ làm hai mảnh nằm ngay chỗ nó rơi xuống. Nhưng hãy coi đây, chiếc tách cà-phê thì lại hoàn toàn vỡ nát. - Như thế có lẽ có ai đó đã đạp lên nó rồi. - Đúng vậy - Poirot nói bằng giọng lạ lùng - Có ai đó đã đạp lên nó. Ông đứng lên và từ từ tiến đến bên lò sưởi, ở đó ông hờ hững nghịch những vật trưng bày và sắp đặt chúng lại cho ngăn nắp, thói quen của ông khi bị bối rối. - Anh bạn ạ - ông quay sang tôi nói - Có ai đó đã dẫm lên chiếc tách này và đã làm vỡ tan nó ra vì một trong hai lẽ sau đây: hoặc là vì nó có chứa chất Strychnin, hoặc là; và điều này nghiêm trọng hơn nhiều; vì nó không hề chứa chất đó. Tôi không trả lời ông. Tôi sửng sốt, nhưng tôi biết thật là vô ích khi đòi ông giải thích. Một lúc sau, ông lấy lại bình tĩnh và tiếp tục tìm kiếm. Ông nhặt xâu chìa khóa ở dưới đất lên và, xoay tới xoay lui trong tay, cuối cùng ông chọn lấy một chiếc mới toanh và thử vào ổ khóa của chiếc rương nhỏ màu tím. Nó vừa khít và ông mở chiếc rương ra, nhưng sau một lúc do dự, ông khóa nó lại và đút xâu chìa khóa cùng chiếc chìa khóa mà chúng tôi đã tìm thấy cắm ở ổ khóa chiếc rương vào túi. - Tôi không được phép đọc những văn kiện này nhưng cũng cần phải làm điều đó không chút chậm trễ. Sau đó ông xem xét các ngăn kéo của chiếc bàn kê cạnh giường. Khi băng qua phòng để đến bên cửa sổ phía bên trái, một vệt tròn, gần như không thể trông thấy được trên tấm thảm màu nâu sẫm có vẻ như làm ông đặc biệt chú ý. Ông quỳ xuống xem thật gần và còn ngửi nữa. Cuối cùng ông rót vài giọt ca-cao vào một ống nghiệm và đậy nắp cẩn thận. Rồi ông rút từ túi áo ra một cuốn sổ. - Trong phòng này chúng ta đã phát hiện được sáu điều lý thú - ông vừa viết nhanh vừa bảo - Anh có muốn tôi liệt kê chúng ra, hay anh muốn tự làm? - Ồ! Ông cứ nói đi - Tôi vội đáp. - Được lắm. Trước nhất là: một chiếc tách cà-phê bị đạp vỡ nát. Thứ hai: một chiếc rương nhỏ với chiếc chìa khóa cắm ở ổ khóa. Thứ ba: một vết dơ trên tấm thảm... - Có thể nó đã có ở đó từ lâu rồi - tôi cắt ngang. - Không đâu, vì rõ ràng là nó còn ẩm và có mùi cà-phê. Thứ tư: một mảnh vải màu lục đậm, một hoặc hai sợi thôi, nhưng rất dễ nhận. - Ồ! - Tôi kêu lên - Đó chính là cái mà ông đã cất vào chiếc phong bì ư? - Phải. Có thể chúng ta sẽ khám phá ra đó chỉ là chiếc áo của bà Inglethorp mà thôi, và dấu vết này sẽ không mấy quan trọng. Hãy đợi xem. Thứ năm: cái này đây! Và bằng một cử chỉ đầy kịch tính, ông chỉ vết sáp trên tấm thảm gần chiếc bàn giấy. - Vết này mới có từ hôm qua thôi, nếu không thì bất cứ một cô hầu phòng giỏi giang nào cũng đã xóa đi ngay với một tờ giấy thấm và một chiếc bàn ủi nóng. Một hôm, một trong những chiếc nón tốt nhất của tôi... nhưng bỏ qua đi thôi, việc đó không dính dáng gì đến vụ này cả. - Vết sáp này có lẽ có từ tối hôm qua. Chúng tôi đều rất xúc động. Hoặc giả chính bà Inglethorp đã đánh rơi cây nến. - Quý vị đã đem theo một cây nến vào phòng ư? - Vâng, Laurence Cavendish cầm một cây trên tay. Nhưng anh ta rất hoảng loạn. Hình như anh ta đã trông thấy cái gì đó ở đằng kia (tôi đưa tay chỉ chiếc lò sưởi) làm cho anh ta hoàn toàn bị tê liệt. - Điều đó đáng quan tâm đấy - Poirot sôi nổi nói - Phải, nó có thể có ý nghĩa (và cái nhìn của ông bao trùm diện tích của cả bức tường) nhưng, không phải cây nến của anh ta đã làm nên cái vệt lớn này đâu, bởi vì anh có thể nhận thấy rằng ở đây là sáp trắng. Còn cây nến của ông Laurence, còn đặt trên bàn phấn, thì lại màu hồng. Hơn nữa, bà Inglethorp không có cây cắm nến trong phòng, mà chỉ có một cái đèn để bàn thôi. - Ông suy ra điều gì thế? Nhưng ông bạn tôi chỉ đưa ra một câu trả lời dễ chọc giận, ông ấy xin tôi hãy dùng đến những năng khiếu tự nhiên của mình. - Còn điều khám phá thứ sáu? - Tôi hỏi - Đó là theo như tôi phỏng đoán, mẩu chất ca-cao chứ gì? - Không - Poirot trầm ngâm đáp - Tôi có thể gom nó vào điều thứ sáu, nhưng tôi đã không làm. Không, tôi sẽ giữ khám phá thứ sáu cho riêng mình, ít ra là trong lúc này. Ông vội nhìn quanh phòng. - Tôi cho rằng không còn gì để làm ở đây nữa, trừ phi (ông nhìn đám tro tàn trong lò sưởi một hồi lâu). Lúa cháy, cháy... và thiêu hủy... Nhưng có thể, vô tình, còn sót lại cái gì đó. Hãy cứ xem nào. Nhanh nhẹn, ông quỳ xuống và lục lọi trong đống tro, lôi chúng từ lò sưởi ra bằng cái chắn lửa, cẩn thận bới chúng lên. Bỗng ông bật kêu lên: - Chiếc kẹp, Hastings ạ! Tôi vội trao nó cho ông ngay và ông khéo léo moi ra một mảnh giấy nhỏ bị cháy mất phân nửa. - Đây này, anh bạn ạ. Anh nghĩ gì về cái này?Tôi quan sát mảnh giấy. Đây là một bức họa lại thật chính xác. Tính hiếu kỳ của tôi bị khơi dậy. Tờ giấy dày và khác hẳn giấy viết thư bình thường. Bất ngờ tôi nảy ra một ý nghĩ. - Poirot - tôi kêu lên - Đây là một mảnh của một bức di chúc. Đúng thế. - Điều đó không làm ông ngạc nhiên sao? - Không - ông trịnh trọng nói - Tôi đã chờ đợi điều đó. Tôi trao lại cho ông mảnh giấy, ông cất nó vào ví với sự chăm chút vối có của ông đối với mọi thứ. Đầu óc tôi bị cuốn hút vào một cơn gió lốc. Tờ di chúc đó có ý nghĩa gì? Ai đã thiêu hủy nó? Tất nhiên là người đã để lại vệt sáp trên tấm thảm rồi. Nhưng người đó làm thế nào để đột nhập vào phòng khi mà mọi cánh cửa đều cái then từ bên trong. - Bây giờ, anh bạn ạ - Poirot hăng hái bảo - chúng ta sẽ rút lui. Tôi muốn đặt vài câu hỏi với bà hầu phòng... Bà ta tên là Dorcas phải không? VỤ ÁN BÍ ẨN Ở STYLES (THẢM KỊCH Ở STYLES) Agatha Christie www.dtv-ebook.com Chương 5: Poirot Mở Cuộc Điều Tra (2) Chúng tôi đi ngang qua phòng Alfred Inglethorp và Poirot nán lại ở đó khá lâu để xem xét. Chúng tôi ra bằng cánh cửa đó và Poirot khóa cửa phòng lại, cả phòng của bà Inglethorp nữa. Tôi dẫn ông ta đến thư phòng, theo ý muốn của ông, rồi đích thân đi tìm Dorcas. Nhưng khi tôi trở lại thư phòng với bà ta thì căn phòng bỏ trống. - Poirot, ông ở đâu? - Tôi kêu lên. - Tôi đây, anh bạn ạ. Ông đã ra ngoài bằng cánh cửa sổ lớn và đứng lặng đi mà ngắm những luống hoa với đủ mọi hình dáng. - Tuyệt vời - ông khẽ nói. Tuyệt vời! Cân xứng làm sao ấy. Hãy nhìn xem, những hình lưỡi liềm này, đường nét rõ ràng của chúng trông thật mát mắt. Và khoảng cách giữa các mặt phẳng cũng hoàn hảo nữa. Tất cả những thứ này đều mới được làm xong, phải không? - Vâng, tôi cho rằng chúng mới được làm vào lúc trưa hôm qua. Nhưng, hãy đến đây, Dorcas kia rồi. - Nào, nào... Đừng tước mất của tôi một giây phút đầy thú vị. - Vâng, nhưng vụ này quan trọng hơn. - Làm sao anh biết được những bông thu hải đường này lại không quan trọng bằng? Tôi nhún vai. Quả là vô ích để tranh cãi với ông ta khi ông dùng cái giọng đó. - Anh không đồng ý... Nào, ta vào hỏi chuyện Dorcas vậy. Dorcas đứng trong thư phòng, hai tay khoanh trước ngực, mái tóc bạc uốn lượn dưới chiếc mũ trắng. Đó là tuýp người hầu già thuở xưa. Bà đứng trước mặt chúng tôi, trong một thái độ ngờ vực, nhưng Poirot đã đánh ta sự dè dặt của bà. Ông kéo một chiếc ghế cho bà. - Xin bà hãy ngồi xuống đây. - Cám ơn ông. - Bà giúp việc cho bà chủ đã lâu rồi, phải không? - Mười năm rồi, thưa ông. - Đó là một thời gian dài và nó chứng tỏ được lòng trung thành phục vụ của bà. Tôi cho rằng bà rất quyến luyến bà chủ, phải không? - Bà ấy luôn luôn tốt bụng đối với tôi, thưa ông. - Vậy thì bà sẽ không từ chối trả lời vài câu hỏi. Tôi đặt chúng ra cho bà với sự tán đồng hoàn toàn của ông Cavendish. - Ồ! Tất nhiên rồi, thưa ông. - Vậy tôi bắt đầu hỏi bà về những biến cố xảy ra lúc trưa hôm qua. Bà chủ đã cãi nhau, phải không? - Vâng, thưa ông. Tôi không biết có nên... Dorcas do dự. Poirot ném cho bà một cái nhìn sắc. - Bà Dorcas tốt bụng ạ, tôi cần thiết phải biết tất cả những chi tiết của cuộc cãi vã ấy. Đừng cho rằng bà đã tiết lộ những bí mật của bà chủ. Bà ấy đã chết, và chúng tôi cần phải biết tất cả, nếu như chúng tôi muốn trả thù cho bà ấy. Không có cái gì có thể làm cho bà ấy sống lại được, nhưng chúng tôi hy vọng, nếu như đó là một vụ án mạng, sẽ đem được tên sát nhân ra trước pháp luật. - Được rồi - Dorcas nói bằng giọng hung hãn - Tôi không nêu tên một ai cả nhưng tôi cho là trong nhà này có một người mà không ai trong chúng tôi có thể chịu đựng nổi. Cái ngày mà hắn ta bước chân vào nhà này lần đầu tiên quả là một ngày đau buồn. Poirot đợi cho cơn giận của bà ta nguôi bớt, rồi ông lại nói với giọng quan chức: - Và bây giờ, về vấn đề cuộc cãi vã ấy mà, bà nghe nói đến nó lần đầu tiên vào lúc nào? - Hôm qua, lúc tôi đi ngang qua hành lang... - Lúc đó là mấy giờ... - Tôi không thể nói một cách chính xác được thưa ông, nhưng phải trước lúc dùng trà khá lâu. Có lẽ là mười sáu giờ hay hơn một chút. Như tôi đã nói, tôi đi ngang qua hành lang thì nghe thấy những giọng nói ở ngay đây này, rất to và có vẻ như giận dữ. Tôi không có ý định nghe lén, nhưng thế đấy. Tôi đứng lại. Cửa đóng nhưng bà chủ tôi nói rất to và rất rõ, và tôi nghe rõ những gì bà nói: "Anh đã nói dối tôi và anh đã làm tôi thất vọng". Tôi không nghe thấy câu trả lời của ông Inglethorp. Ông ta nói nhỏ hơn bà ấy nhiều; nhưng bà ta lại bảo: "Sao anh dám cả gan? Tôi đã đùm bọc anh, nuôi anh ăn mặc. Anh phải biết ơn tôi về tất cả. Và anh trả ơn tôi như thế đấy. Bằng cách ném vào mặt tôi sự xấu hổ". Lại một lần nữa tôi không nghe thấy anh ta trả lời gì, nhưng bà ấy tiếp: "Tất cả những gì anh có thể nói với tôi cũng không làm thay đổi gì được. Tôi thấy rõ trách nhiệm của mình. Tôi đã quyết định rồi. Đừng tưởng sự e ngại dư luận và một vụ tai tiếng giữa vợ chồng có thể ngăn cản được tôi đâu". Lúc đó tôi cho rằng họ sắp bước ra và tôi vội vã bỏ đi. - Bà có chắc bà đã nghe thấy chính giọng của Inglethorp không? - Ồ! Có chứ, thưa ông. Còn ai vào đây nữa chứ? - Sau đó thì chuyện gì đã xảy ra? - Lát sau tôi quay lại hành lang nhưng tất cả đều yên tĩnh. Lúc mười bảy giờ, bà Inglethorp nhấn chuông gọi tôi và bảo tôi đem đến thư phòng cho bà một tách trà, không cần đến bánh ngọt. Trông bà ấy thật thảm hại, nhợt nhạt và rụng rời: "Dorcas, bà bảo tôi, tôi vừa bị một cú sốc lớn". "Tôi lấy làm tiếc cho bà, tôi nói, nhưng bà sẽ khá hơn sau khi đã dùng một tách trà thật nóng". Bà ta cầm trong tay một tờ giấy. Tôi không biết đó có phải là một bức thư không, dù sao thì trên đó có chữ viết, và bà nhìn tờ giấy đó chăm chăm, cứ như bà không tài nào hiểu nổi những gì bà đã đọc thấy ở đó. Bà khẽ nói, như quên mất sự hiện diện của tôi: "Chỉ vào chữ thôi, và tất cả thay đổi". Rồi bà bảo tôi: "Đừng bao giờ đặt lòng tin vào đàn ông, Dorcas ạ. Họ không xứng đáng đâu". Tôi bước ra và đi lấy cho bà một tách trà thật đậm, và bà cảm ơn tôi, nói thêm rằng bà sẽ khá hơn sau khi uống nó. "Tôi không biết phải làm gì, một vụ tai tiếng giữa vợ chồng là một điều khủng khiếp. Tôi rất muốn làm ngơ cho rồi, nhưng không thể được". Vừa lúc đó bà Cavendish bước vào, và bà chủ vội im bặt. - Bà ấy còn cầm trên tay bức thư hoặc tờ giấy không? - Còn, thưa ông. - Sau đó thì bà ta có thể làm gì với nó nhỉ? - Tôi không biết, thưa ông, nhưng tôi cho rằng có lẽ bà ấy đã cất nó vào chiếc rương nhỏ màu tím ấy mà. - Bà ấy thường cất giấy tờ quan trọng ở đấy, phải không? - Vâng, thưa ông. Mỗi buổi sáng, bà ấy đều xách nó xuống và lại đem nó lên vào mỗi buổi tối. - Bà có biết bà ấy đã đánh mất chìa khóa vào lúc nào không? - Bà ta phát hiện việc ấy vào lúc ăn trưa. Bà đã nhờ tôi tìm phụ. Hơn nữa bà đã tỏ ra rất bực bội vì sự mất mát này. - Nhưng bà ấy còn có một chiếc chìa khóa thứ hai nữa, phải không? - Ồ, vâng, thưa ông! Dorcas nhìn Poirot với sự tò mò cực độ, và tôi cũng phải thú nhận rằng tôi cũng vậy. Câu chuyện xoay quanh chiếc chìa khóa mất ấy là thế nào? Poirot mỉm cười: - Đừng thắc mắc, bà Dorcas ạ. Nghề nghiệp của tôi đòi hỏi phải biết một số điều. Có phải chiếc chìa khóa mất đây không? Ông rút từ túi áo ra chiếc chìa khóa tìm thấy trong ổ khóa của chiếc rương, trên lầu, trong phòng người chiếc. Dorcas mở to mắt. - Đúng rồi, thưa ông. Đúng nó rồi. Ông tìm thấy nó ở đâu thế? Tôi đã tìm khắp nơi rồi. - À, đó là vì hôm qua nó không ở cùng chỗ với hôm nay. Bây giờ, để thay đổi vấn đề, bà chủ của bà có chiếc áo nào màu sẫm không? Dorcas hơi sợ hãi trước câu hỏi bất ngờ ấy. - Không, thưa ông. - Bà có chắc không? - Ồ, chắc chứ, thưa ông. - Trong nhà này, không ai có chiếc áo màu xanh lục sao? Dorcas suy nghĩ. - Cô Cynthia có chiếc áo dạ hội màu lục. - Xanh nhạt hay xanh đậm? - Xanh nhạt, thưa ông, bằng lụa mỏng. - À, đó không phải là cái mà tôi nói. Bà không thấy ai khác có quần áo màu xanh lục sao? - Không, thưa ông. Gương mặt Poirot không lộ vẻ gì ông có thất vọng hay không. Ông chỉ bảo: - Thôi được, hãy để đấy đã và tiếp tục. Bà có lý do gì để tin rằng bà Inglethorp đã dùng thuốc ngủ bằng bột tối qua không? - Tôi biết rằng tối hôm qua bà ấy không dùng thuốc ngủ, thưa ông. - Tại sao bà lại chắc chắn chứ? - Vì chiếc hộp trống trơn. Bà ấy đã dùng liều cuối cùng cách đây hai hôm, và từ đó chưa mua hộp khác. - Bà hoàn toàn chắc chắn về điều đó chứ? - Hoàn toàn. - Thế thì việc đó đã sáng tỏ. Mà này, hôm qua bà chủ có nhờ bà ký tên vào một tờ giấy không? - Ký tên vào một tờ giấy ư? Không, thưa ông. - Chiều qua, khi ông Hastings và ông Laurence trở về, hai ông ấy đã trông thấy bà ấy đang viết thư. Tôi cho là bà có thể cho tôi biết tí gì về những người nhận những bức thư đó chứ? - Tôi e rằng không, thưa ông. Tối qua tôi được nghỉ phép. Nhưng có lẽ Annie có thể cho ông biết đấy, mặc dù cô ta khá cẩu thả. Cô ta đã không dọn cả những tách cà-phê dùng tối hôm qua nữa đấy. Đấy, chuyện xảy ra như thế khi tôi không có mặt để trông chừng mọi việc. Poirot giơ tay ra. - Nếu như cô ta đã quên, bà Dorcas ạ, thì xin bà đừng đụng đến. Tôi muốn xem xét chúng. - Được lắm, thưa ông. - Tối qua, bà ra ngoài lúc mấy giờ? - Khoảng mười tám giờ, thưa ông. - Cám ơn, bà Dorcas, đó là tất cả những gì tôi muốn hỏi bà. Ông đứng lên và hờ hững tiến đến bên cửa sổ. - Tôi đã chiêm ngưỡng những luống hoa này đây. À này, ở đây có bao nhiêu người làm vườn thế? - Bây giờ chỉ có ba người thôi. Trước chiến tranh, khi mà khu đất được chăm sóc đúng như lãnh địa của một vị quý tộc phải được, thì có đến năm người. Ồ! Giá như ông thấy nó vào lúc đó, thưa ông. Quả là tuyệt vời. Nhưng hiện nay thì chỉ có ông lão Manning, cậu William và một người làm vườn nữ mặc quần áo ngắn thôi. Ôi, quả là chúng ta đang sống trong một thời kỳ hãi hùng. - Thời vàng son sẽ trở lại, bà Dorcas ạ. Ít ra thì chúng ta cũng có thể hy vọng. Bây giờ, hãy gọi Annie hộ tôi. - Vâng, thưa ông. Cám ơn ông. * * *- Làm sao ông biết được bà Inglethorp dùng thuốc ngủ bột? - Tôi hết sức tò mò hỏi, trong khi Dorcas bước ra khỏi phòng - Và làm thế nào mà ông đoán được câu chuyện về chiếc chìa khóa bị mất và chiếc chìa khóa thứ hai? - Từng chuyện một thôi. Về thuốc ngủ bột, tôi đã đoán được nhờ cái này đây. Ông cho tôi xem một chiếc hộ nhỏ bằng cạc tông, giống như tất cả các hộp mà các dược sĩ dùng để đựng thuốc bột. - Ông tìm thấy nó ở đâu vậy? - Trong ngăn kéo bàn phấn, trong phòng bà Inglethorp. Đó là điều thứ sáu của bộ sưu tầm của tôi đó. - Nhưng tôi cho rằng cái đó không mấy quan trọng, vì liều thuốc cuối cùng được dùng cách đây hai ngày rồi kia mà? - Có thể là không. Nhưng anh không thấy cái gì lạ trong vẻ bề ngoài của chiếc hộp sao? Tôi xem xét. - Không, chẳng có gì lạ cả. - Hãy nhìn cái nhãn. Tôi chăm chú đọc: "Dùng một liều khi đi ngủ nếu cần, bà Inglethorp". - Không, tôi không thấy gì là bất thường cả. - Cả việc không có một cái tên dược sĩ nào trên đó nữa sao? - Ồ! - tôi kêu lên - Quả là kỳ lạ. Tôi rất lấy làm thắc mắc. Nhưng Poirot trấn an tôi bằng cách bảo: - Tuy vậy, thật là đơn giản. Đừng lo lắng, anh bạn ạ. Một tiếng chân báo hiệu sự có mặt của Annie, do đó tôi không có thì giờ trả lời. Annie là một cô gái khỏe và đẹp, bị nung nấu bởi một sự kích thích mạnh, và không lấy làm bực bội vì đã dính líu vào vụ việc. Poirot đi thẳng vào vấn đề với sự hăng say nghề nghiệp. - Tôi cho gọi cô, Annie ạ, vì tôi cho rằng cô có thể cho chúng tôi biết điều gì đó về những bức thư bà Inglethorp đã viết chiều qua. Có bao nhiêu bức tất cả? Và cô có thể cho chúng tôi biết chúng được gởi cho ai không? Annie suy nghĩ. - Có bốn lá thư, thưa ông. Một cái cho cô Howard, một cái cho ông luật sư Wells. Tôi không nhớ hai cái còn lại. A, phải rồi... một cái cho ông Ross, bán hàng ở Tadminster. Còn cái thứ tư thì tôi không nhớ nữa. - Hãy nghĩ kỹ đi - Poirot nài nỉ. Annie cố moi óc một cách vô hiệu. - Tôi rất tiếc, thưa ông, tôi hoàn toàn quên mất. Có lẽ tôi đã không chú ý đến nó. - Không sao - Poirot bảo, không để lộ một sự thất vọng nào cả - Tôi muốn hỏi cô một chuyện khác nữa. Trong phòng của bà Inglethorp có cái xoong đựng ca-cao. Có phải tối nào bà ấy cũng dùng thứ đó không? - Vâng, thưa ông, mỗi buổi tối nó được đem đến phòng cho bà ấy và bà ấy hâm nóng lại trong đêm, khi bà ta muốn uống. - Đó là cái gì thế? Ca-cao thôi ư? - Vâng, thưa ông, pha với sữa, một muỗng đường và hai muỗng rượu rum. - Ai đem đến cho bà ấy? - Tôi, thưa ông. - Luôn luôn ư? - Vâng, thưa ông. - Vào giờ nào? - Thường là vào lúc tôi đi kéo màn cửa. - Cô đem thẳng từ nhà bếp lên ư? - Không, thưa ông. Ông hiểu cho, trên bếp ga không có nhiều chỗ do đó bà nấu bếp pha sớm, trước khi đặt rau lên luộc cho bữa tối. Tôi có thói quen đem nó lên để trên chiếc bàn gần cửa phục vụ. Tôi chỉ đem đến phòng bà chủ sau đó thôi. - Cửa phục vụ nằm bên cánh trái, phải không? - Vâng, thưa ông. - Tối qua, cô đem lên lúc mấy giờ? - Khoảng mười chín giờ mười lăm, có lẽ vậy, thưa ông. - Và khi nào thì cô đem vào phòng bà Inglethorp? - Khi tôi lên làm giường, thưa ông. Khoảng hai mươi giờ. Bà Inglethorp đã lên đi nằm trước khi tôi làm xong. - Vậy giữa mười chín giờ mười lăm và hai mươi giờ thì ca-cao được đặt trên bàn, bên cánh trái, phải không? - Vâng, thưa ông. Annie càng lúc càng đỏ mặt, và cô bỗng kêu lên: - Và nếu như trong đó có muối thì đó không phải là lỗi tại tôi, thưa ông. Tôi không bao giờ cho muối vào đó. - Điều gì khiến cô nghĩ rằng trong ca-cao có muối chứ? - Poirot hỏi. - Tôi thấy có trên chiếc khay, thưa ông. - Cô nhìn thấy có muối trên khay ư? - Vâng, giống như muối bọt dùng ở nhà bếp vậy. Tôi không thấy có khi đem khay lên, nhưng khi tôi đến lấy để đem vào phòng bà chủ thì tôi thấy có. Lẽ ra tôi phải đem ca-cao trở xuống và bảo bà nấu bếp pha cái mới. Nhưng tôi đang vội, vì bà Dorcas nghỉ phép, và tôi tự nhủ có lẽ ca-cao vẫn ngon, còn muối chỉ rơi trên khay mà thôi. Thế là tôi đã lau đi và đem chiếc khay vào phòng bà chủ. Tôi phải cố lắm mới che giấu được sự nóng nảy của mình. Vô tình, Annie đã cung cấp cho chúng tôi một dấu vết thực sự quan trọng. Cô ấy sẽ ngạc nhiên biết mấy nếu biết được rằng muối bọt dùng ở nhà bếp của cô chính là chất Strychnin, một trong những thứ độc dược mạnh nhất mà người ta được biết. Tôi cảm phục sự điềm tĩnh của Poirot. Sự tự chủ của ông thật đáng ngạc nhiên. Tôi nóng lòng chờ đợi câu hỏi tiếp theo, nhưng nó làm tôi thất vọng. - Khi cô bước vào phòng bà Inglethorp, cánh cửa dẫn sang phòng cô Cynthia có cài then hay không? - Ồ! Có chứ, thưa ông. Nó luôn luôn như thế. Nó chả bao giờ được mở ra cả. - Còn cánh cửa dẫn sang phòng ông Inglethorp? Cô có nhận thấy nó cũng được khóa hay không? Annie do dự. - Tôi không biết nữa, thưa ông. Cửa đóng, nhưng tôi không thể quả quyết nó có được khóa trái hay không. - Khi cô bước ra khỏi phòng, bà Inglethorp có khóa cửa lại sau lưng cô không? - Không, thưa ông, lúc đó thì không. Nhưng có lẽ sau đó bà ta đã khóa lại. Bà ta thường khóa cửa buổi tối. Ít ra thì cũng cánh cửa ăn thông ra hành lang. - Cô có để ý đến một vết sáp dưới đất, khi cô dọn phòng hôm qua không? - Một vết sáp ư? Ồ, không, thưa ông. Bà Inglethorp không dùng nến, mà chỉ có một chiếc đèn ngủ thôi. - Thế cô cho rằng nếu có vết sáp trên tấm thảm thì cô đã nhận thấy ư? - Phải, thưa ông, và tôi đã xóa đi bằng một tờ giấy thấm và một chiếc bàn ủi nóng. Lúc đó, Poirot đặt lại câu hỏi đã đặt cho Dorcas. - Bà chủ có bao giờ có chiếc áo màu xanh lục không? - Không, thưa ông. - Hay là một chiếc áo khoác, một chiếc áo choàng, hoặc... người ta gọi đó là cái gì nhỉ - một chiếc áo vét thể thao? - Không có cái nào màu xanh cả, thưa ông? - Và không ai trong nhà có quần áo màu xanh sao? - Không, thưa ông. - Cô có chắc không? - Hoàn toàn. - Thôi được. Đó là tất cả những gì tôi cần. Cám ơn cô nhiều. Annie bỏ đi với một tiếng cười ngắn. Ngay lập tức, sự nóng nảy đè nén trong tôi bộc phát ra. - Poirot - tôi kêu lên - tôi khen ông đấy. Đó là một khám phá lớn. - Cái nào? - Chính trong ca-cao mới có chất độc chứ không phải trong cà phê. Điều đó giải thích tất cả. Tất nhiên rồi, thuốc độc không có công hiệu trước buổi sáng, vì ca-cao chỉ được uống vào lúc nửa đêm mà thôi. - Thế ra, Hastings ạ, anh cho rằng ca-cao - hãy nhớ kỹ những gì tôi nói đây - ca-cao có chứa chất Strychnin sao? - Dĩ nhiên, nếu không thí chất muối rơi vãi trên khay có thể là cái gì mới được chứ? - Chất muối! - Poirot lạnh lùng lập lại. Tôi nhún vai. Thật là vô ích, nếu muốn tranh cãi với ông ta khi ông ta sắp sửa dùng cái giọng ấy. Ý nghĩ thoáng qua đầu tôi, và đây không phải là lần đầu tiên, rằng Poirot đáng thương đã già mất rồi. Và tôi tự nhủ với riêng mình, ông ta thật sung sướng khi có một người cộng tác với đầu óc nhanh nhẹn hơn trong việc này. Poirot nhìn tôi với vẻ thản nhiên và thích thú. - Anh không được mấy hài lòng về tôi, phải không anh bạn? - Ông Poirot thân mến ạ - tôi lạnh lùng đáp - tôi không phải là người chỉ huy ông đâu. Ông có quyền có quan điểm của mình, cũng như tôi có cái của tôi. - Một tinh thần đáng phục - Poirot nhận xét và đứng bật dậy - Thế đấy, tôi đã xong việc với căn phòng này rồi. À này, chiếc bàn giấy nhỏ kiểu Mỹ trong góc kia của ai vậy? - Của ông Inglethorp. - À! Ông thử mở ra. - Khóa mất rồi. Nhưng có lẽ một trong những chiếc chìa khóa của bà Inglethorp có thể mở được chăng? Ông thử nhiều cái, xoay xoay một cách điêu luyện và cuối cùng ông kêu lên đắc thắng. - Đây rồi - ông nói - không phải đúng chìa của nó nhưng vẫn có thể mở được. Ông bỏ qua phía bên trên bàn giấy và liếc nhìn những tờ giấy sắp đặt gọn gàng. Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông không thèm xem đến chúng, chỉ gật gù nhận xét. - Cái ông Inglethorp quả là một người đàn ông ngăn nắp. Và, đối với Poirot, thì sự ngăn nắp, đó là một lời khen lớn nhất. Lúc đó tôi hiểu ra rằng ông bạn của tôi không còn như trước nữa, khi mà lời nói tiếp theo của ông không ăn nhập vào đâu cả. - Không có tem trong bàn giấy của ông ấy, nhưng rất có thể có, phải không nào? Có thể có đấy. Phải... (ông nhìn quanh phòng) thư phòng này không còn cho chúng ta điều gì nữa. Không có kết quả gì mấy, ngoại trừ cái này. - Ông rút từ túi áo ra một chiếc phong bì dán kín và ném cho tôi. Đó là một tái hiện lạ lùng. Một chiếc phong bì cũ kỹ tầm thường, rất bẩn, trên có có viết vài chữ như vô tình. Đây là một bản sao. VỤ ÁN BÍ ẨN Ở STYLES (THẢM KỊCH Ở STYLES) Agatha Christie www.dtv-ebook.com Chương 6: Hãy Cho Tôi Biết Không Phải Chất Strychnin Chứ? - Ông tìm thấy cái này ở đâu vậy? - Tôi hết sức tò mò hỏi Poirot. - Trong giỏ rác. Anh nhận ra chữ viết của ai không? - Có. Của bà Inglethorp. Nhưng nó có ý nghĩa gì? Poirot nhún vai. - Tôi không biết, nhưng khá lý thú đấy. Tôi chợt có một ý nghĩ điên rồ. Có thể nào đầu óc của bà Inglethorp đã bị loạn trí rồi không? Bà ta đã nung nấu một ý nghĩ quái đản về việc bị quỷ ám không? (Sở hữu: tiếng Pháp là Posséder, còn có nghĩa là bị quỷ ám). Và, trong trường hợp đó, có thể nào bà ta đã tự sát không? Tôi định trình bày những ý nghĩ của mình cho Poirot thì những lời nói của ông khiến tôi chú ý. - Ta hãy đi xem xét các tách cà-phê đi. - Ông Poirot thân mến ạ! Cần gì, khi mà bây giờ chúng ta đã chắc chắn về chất ca-cao rồi. - Ồ! Cái chất ca-cao khốn khiếp ấy! - Poirot nhẹ nhàng kêu lên. Ông bật cười, vẻ như rất thích thú, giơ tay lên trời một cách tuyệt vọng và khôi hài, cử chỉ đó, theo tôi thật không phải lúc. - Dù sao đi nữa - tôi tiếp, rõ ràng là rất lạnh lùng - thì bà Inglethorp cũng đã đem cà-phê vào phòng, và tôi không thấy ông có thể phát hiện được điều gì trừ phi ông cho rằng sẽ tìm thấy một gói Strychnin trên chiếc khay. Poirot lấy lại giọng nghiêm túc: - Nào, nào, anh bạn, xin đừng nổi nóng. Hãy cho phép tôi quan tâm đến những tách cà-phê của tôi. Còn tôi, tôi sẽ tôn trọng ca-cao của anh. Thế đấy. Đồng ý nhé. Ông có vẻ hối hận một cách khôi hài đến nỗi tôi buộc phải phì cười. Chúng tôi cùng đến phòng khách, ở đó các chiếc tách vẫn còn đặt trên chiếc khay, ngay chỗ chúng tôi đã đặt chúng tối hôm qua. Poirot bảo tôi tả lại cảnh tượng hôm qua, rất chăm chú nghe tôi nói và kiểm tra lại vị trí của mội cái tách. - Vậy ra bà Cavendish đứng gần chiếc khay và rót cà-phê. Được lắm. Rồi bà ta đến bên cửa sổ nơi anh và cô Cynthia ngồi. Phải. Đây là ba cái tách. Còn cái tách đã vơi phân nửa kia, trên lò sưởi, có lẽ là của ông Laurence Cavendish. Còn cái trên khay? - Của John Cavendish. Tôi đã trông thấy anh ta đặt nó ở đấy. - Thôi được. Một, hai, ba, bốn, năm. Nhưng, trong trường hợp đó, tách của ông Inglethorp đâu? - Ông ta không bao giờ dùng cà-phê. - Như thế thì mỗi cái tách đều đã được sử dụng... Khoan đã, anh bạn. Thật cẩn thận, ông lấy một hay hai giọt trong đáy mỗi chiếc tách và để riêng trong những ống nhỏ bằng thủy tinh, không quên nếm cà-phê lấy được mỗi lần. Một sự thay đổi lạ lùng bất ngờ làm khuôn mặt ông biến dạng: ông có vẻ ngơ ngác, nhưng lại hơi nhẹ nhõm. - Được rồi - cuối cùng ông bảo - Tất nhiên thôi. Tôi có một ý nghĩ, nhưng rõ ràng là tôi đã lầm. Phải, hoàn toàn lầm. Tuy vậy, quả là lạ lùng. Thôi, mặc kệ vậy. Và, nhún vai một cách đặc biệt, ông xua khỏi ý nghĩ của mình điều làm ông lo lắng. Tôi rất muốn nói cho ông biết rằng nỗi ám ảnh của ông về vấn đề cà-phê sẽ không dẫn đến đâu cả, nhưng tôi ngăn được mình. Vì, sau rốt, dù có già đi nữa, thì Poirot cũng vẫn là một người đàn ông nổi tiếng. - Bữa trưa đã được dọn lên - John Cavendish từ hành lang đến và thông báo - Ông sẽ dùng bữa với chúng tôi chứ, ông Poirot? Poirot đồng ý. Tôi quan sát John. Anh gần như đã lấy lại được sự quân bình sau cú sốc của các biến cố hồi đêm. Anh ta ít có óc tưởng tượng, trái ngược hẳn với cậu em, người mà có lẽ lại có quá nhiều. Từ tờ mờ sáng, John đã rất bận bịu để gửi những bức điện (cái đầu tiên là cho Evelyn Howard), để viết những lời cáo phó cho các báo và lo đến tất cả các nghĩa vụ nặng nề. - Tôi có thể hỏi ông xem cuộc điều tra của ông có tiến triển không? Những cuộc tìm kiếm của ông có cho thấy là mẹ tôi chết một cách tự nhiên, hay... chúng tôi phải nghĩ đến cái tệ hại nhất? - Tôi cho rằng, ông Cavendish ạ - Poirot đáp một cách nghiêm trọng - ông không nên tự lừa phỉnh mình bằng những hy vọng giả tạo. Ông có thể cho tôi biết những người khác trong gia đình nghĩ gì không? - Cậu em Laurence của tôi quả quyết, chúng ta làm ầm ĩ lên vì một việc không đáng gì. Cậu ta tuyên bố rằng tất cả đều muốn chứng tỏ đấy chỉ đơn giản là một cơn đau tim thôi... - À! Ra thế đấy! Điều này đáng quan tâm đấy. - Poirot khẽ nói - Còn bà Cavendish? Một đám mây thoáng qua trên khuôn mặt John. - Tôi không biết gì về ý kiến mà vợ tôi có thể có đối với việc này. Câu trả lời này gây nên một thoáng bối rối. John phá tan sự im lặng có nguy cơ kéo dài một cách nặng nề bằng cách cố gắng nói: - Tôi đã cho ông hay rằng ông Inglethorp đã trở về, phải không? Poirot gật đầu. - Thật là một tình thế khó xử đối với tất cả chúng tôi. Dĩ nhiên, phải đối xử với hắn như mọi khi, nhưng phải ngồi chung bàn với một tên bị nghi ngờ đã giết người thì thật là dễ nổi loạn đấy. Poirot gật đầu đầy thiện ý. - Tôi hiểu điều đó lắm. Đó là một tình thế rất khó khăn đối với ông, ông Cavendish ạ. Nhưng tôi cũng muốn hỏi ông một câu. Nếu như tôi không lầm thì ông Inglethorp đã viện lý do để vắng mặt lâu đến như thế, rằng ông ta đã bỏ quên chìa khóa cửa ra vào, có đúng như thế không? - Vâng. - Tôi đoán chừng ông chắc chắn là ông ta đã thật sự bỏ quên chìa khóa, ông ta không có nó trên người chứ? - Tôi không hề biết, vì đã không nghĩ đến việc kiểm chứng lại. Chúng tôi luôn luôn để chìa khóa trong ngăn kéo ở tiền sảnh. Tôi sẽ đi xem lại ngay đây. Poirot đưa tay lên và nở một nụ cười yếu ớt. - Không, không, ông Cavendish ạ. Bây giờ thì đã muộn lắm rồi. Tôi tin chắc ông sẽ tìm thấy nó ở chỗ mọi khi. Nếu như ông Inglethorp đã lấy nó đi, thì ông ta cũng đã có đủ thời gian để cất lại. - Nhưng ông cho rằng... - Tôi chả nghĩ gì cả. Nếu như vô tình sáng nay có ai đó đã trông thấy chiếc chìa khóa trong ngăn tủ, thì đó sẽ là một bằng chứng thuận lợi cho ông ta. Thế thôi. John có vẻ rất phân vân. - Xin ông đừng lo lắng - Poirot lại nhẹ nhàng bảo - Tôi cam đoan rằng ông không nên lo nghĩ về điều đó. Nào, ta hãy đi ăn trưa đi, khi mà ông đã có nhã ý mời tôi. Mọi người đều tụ họp trong phòng ăn... Do những tình huống, đó không phải là một cuộc họp mặt vui vẻ. Sự phản ứng sau một cú sốc bao giờ cũng nặng nề, và tôi cho rằng chúng tôi đều rất đau buồn. Những nghi thức và sự giáo dục tốt buộc chúng tôi phải tỏ ra tự nhiên hết sức, thế mà tôi không thể nào không tự hỏi xem sự bình thản có thật sự là khó ngụy tạo hay không? Tôi không hề trông thấy những cặp mắt sưng đỏ vì nước mắt, cũng không hề thấy dấu hiệu nào của một nỗi đau thầm kín. Và tôi phải thừa nhận là tôi có lý khi cho rằng bà Dorcas là người duy nhất bị thương tổn nặng nề. Tôi không nói đến Alfred Inglethorp làm gì, hắn sắm vai một người đàn ông góa rầu rĩ với cái mà tôi cho là một sự giả dối rất đáng công phẫn. Tôi tự hỏi không biết hắn có biết rằng mình đang bị nghi ngờ không. Dĩ nhiên, hắn không thể nào biết được, bất chấp những cố gắng của chúng tôi để che giấu tình cảm của mình đối với hắn. Hắn có cảm thấy sợ hãi một cách kín đáo không? Hay hắn tin tưởng tội lỗi của hắn sẽ không bị trừng phạt? Nhưng có phải mọi người đều nghi ngờ hắn không? Về phần bà Cavendish thì sao? Bà ngồi đó, ở cuối bàn, duyên dáng, yên bình, khó hiểu. Trong chiếc áo màu xám với những nếp xếp tổ ong rũ xuống và đôi tay mềm mại của mình, trông bà thật đẹp. Nhưng, khi bà muốn, gương mặt của bà có thể trở nên khép kín như gương mặt của một con người khó hiểu. Trông bà rất nghiêm trang và bà không hề hé môi, thế nhưng, tôi cảm thấy một cách lạ lùng sức mạnh của tính cách con người bà chế ngự tất cả chúng tôi. Còn cô bé Cynthia? Cô có nghi ngờ gì không? Tôi thấy cô ta có vẻ nhợt nhạt và mỏi mệt. Tôi hỏi xem cô ta có bệnh hoạn gì không, và cô thành thật bảo: - Vâng, tôi đau đầu kinh khủng luôn. - Hãy dùng một tách cà-phê, thưa cô - Poirot ân cần nói - Nó sẽ chữa khỏi cho cô. Không có thứ gì bằng cái đó để trị đau đầu. Ông nhổm dậy và cầm lấy chiếc tách của cô ta. - Không đường - Cynthia nói. - Không đường ư? Cô đã bỏ dùng đường từ khi có chiến tranh, có phải không? - Không, tôi chả bao giờ dùng cà-phê có đường cả. - Chúa ơi! - Poirot khẽ rủa, vừa đem tách cà-phê đầy đến cho cô ta. Tôi là người duy nhất nghe thấy và, tò mò nhìn ông, tôi thấy gương mặt ông nhăn nhó vì nóng nảy và đôi mắt ông xanh biếc như mắt mèo vậy. Có lẽ ông đã nghe thấy hoặc trông thấy điều gì khiến ông bị xúc động tột độ; nhưng điều gì vậy? Tôi không cho mình thường hay ngu muội, nhưng tôi phải thừa nhận mình chả nhận thấy điều gì khác lạ cả. * * *Một lúc sau, cánh cửa bật mở và Dorcas hiện ra bên thềm. - Ông Wells muốn gặp ông - bà nói với John. Anh này vội đứng dậy ngay. - Hãy mời ông ấy vào phòng làm việc. Quay sang chúng tôi, anh bảo: - Ông ấy là luật sư của mẹ tôi. Và khẽ hơn: """