" Vết Tay Trên Trần - Phạm Cao Củng full prc pdf epub azw3 [Trinh thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vết Tay Trên Trần - Phạm Cao Củng full prc pdf epub azw3 [Trinh thám] Ebooks Nhóm Zalo P H Ạ M C A O C Ủ N G VẾT TAY TRÊN TRẦN CHƯƠNG 1 GIẤU ĐẦU HỞ ĐUÔI Bạn tôi vào, kéo ghế ngồi, rút thuốc lá ra châm hút, rồi nhìn tôi mà cười. Tôi vẫn vờ mải miết xem nốt trang truyện trinh thám, nhưng trộm liếc cái cười tinh quái chế nhạo của bạn, tôi thấy khó chịu vô cùng. Hắn thở hơi thuốc dài, mơ màng nhìn theo làn khói, rồi bỗng hỏi tôi rằng: - Anh xem sắp xong chưa, nhanh lên để tôi đổi cho quyển khác? - Anh để tôi còn phải xem chứ, ai xem nhanh được như anh! Càng xem càng thấy ly kỳ, đọc mãi không chán. Đêm qua tôi thức đến non ba giờ đêm mới đi ngủ. - Làm gì mà thức khuya thế? Tôi cố làm ra bộ tự nhiên, cười bảo: - Thế mà cũng học đòi làm trinh thám Sherlock Holmes, thức để “đọc truyện” chứ thức để làm gì! - Ấy thế mà tôi cứ tưởng anh thức để “tán chuyện” cơ đấy. Anh bất tất phải dối quanh nữa; tôi hỏi, anh nói cho thực: từ chín giờ tối đến ba giờ đêm hôm qua, anh “tán chuyện” hay “đọc truyện” trong nhà cô đầu trên Ởn Rợp*. Tôi giật mình, không hiểu ông bạn thân sao biết rõ mọi hành động của mình như thế, nhưng xem chừng giấu nữa cũng vô ích, chi bằng cứ thú thực là hơn. Tôi bèn mạnh bạo gấp hẳn cuốn sách lại, giơ tay ra bắt tay bạn rồi nói: - Tôi xin phục tài anh, không dám che mắt nhà trinh thám nữa, nhưng tại sao anh lại biết tôi tối qua đi hát trên Ởn Rợp, nhất là tại sao anh lại biết rằng đi từ chín giờ tối; không lẽ anh lại theo rình tôi mãi? - Ai thèm rình anh. Tôi biết thế chẳng qua cũng là theo phương pháp suy luận của Conan Doyle viết trong bộ Sherlock. Khi tôi vào, anh vờ xem sách, bộ dạng anh tự nhiên lắm, nhưng anh đã muốn giấu mà đuôi cứ thò ra. Cái đuôi ấy là mẩu giấy đỏ kia, mẩu giấy anh đánh dấu để nhớ trang anh đã xem. Tôi nhận thấy lúc anh xem, mẩu giấy ấy gấp ở những trang anh chưa xem. Nếu anh xem thực thì mẩu giấy ấy anh phải gấp ở những trang anh xem rồi. Do đó, tôi đoán rằng anh vội vàng mở sách vờ xem khi tôi lại. Tại sao tôi biết anh lên Rợp? Khốn nạn, đôi giầy lấm đầy bùn kia nó chứng cái gì? Sáng sớm hôm qua mưa to, đến trưa nắng. Đường các phố rải nhựa, buổi tối tất đã khô hết. Thế mà giầy anh lấm bùn, vậy hẳn anh đi chơi tối, mò vào đường đất lội, tất chỉ có đi lu bù trong một nhà nào trên xóm Rợp chứ gì? - Nhưng tại sao anh biết tôi đi từ 9 giờ? Bạn tôi cười chỉ chiếc đèn cầy để trên bàn mà bảo: - Ấy, tôi cũng chỉ đoán. Chiều hôm qua tôi lại đây, nhận thấy phao dầu cây đèn này mới rót đầy. Bây giờ anh coi, nó đã cạn hết một phần ba, bằng ấy dầu anh chỉ thắp được ba tiếng đồng hồ, nghĩa là tự lúc lên đèn cho tới quãng chín giờ. Tôi đoán chín giờ là lúc anh mặc quần áo, tắt đèn bàn học để đi chơi! Anh đã hiểu rõ chưa? - Tôi hiểu lắm rồi, anh Kỳ Phát ơi! Tôi càng chơi với anh lâu càng nhận thấy, anh thực là một người kỳ! Không nói đùa, giá anh đi làm trinh thám thì may ra anh cũng noi gương Sherlock Holmes, mà nếu anh chuyên nghề ăn trộm thì có lẽ cũng không kém Arsène Lupin là mấy. Nhưng còn cái án mạng này thì anh đoán ra thế nào? Tôi vừa nói vừa đưa cho Kỳ Phát xem tờ thời báo ngày hôm nay, Phát tiếp lấy tờ báo, nhưng không xem. Hắn để trả báo lên bàn rồi nói: - Có, tôi đã xem cái tin ấy. Chắc anh cũng cho cái chỗ đóng cửa kín hết mà người ở trong bị ám sát là lạ chứ gì? Tôi ngắt lời: - Thế anh đoán ra làm sao? - Nếu tôi đoán được tôi đã đi làm thầy bói. Không vịn vào một cái gì hiển nhiên thì lấy đâu mà luận đoán. Tôi cần phải nhận xét ở một việc đã biết, suy luận rồi mới đoán ra được. Đó là việc cái phương pháp cốt yếu nhất trong khoa trinh thám Âu Mỹ. Cái án mạng kỳ quái trong miền Thanh Hóa kia, nếu anh muốn hiểu rõ, thì hôm nào nhân ngày nghỉ, ta tiện dịp vào Thanh chơi, rồi tra xét cho ra manh mối. CHƯƠNG 2 CHIẾC Ô ĐÀN BÀ Chuyến tầu Kỳ Phát và tôi xuất phát từ sáng sớm. Tuy sớm mà ánh nắng cũng đã gay gắt lắm. Từ Nam Định qua Trình Xuyên, núi Gôi, tôi để ý nhìn Kỳ Phát chỉ thấy hắn lim dim con mắt, thỉnh thoảng lại ngáp dài. Đến ga Cát Đằng, tầu vừa đỗ, một bà cụ tay phải cầm một gói bọc giấy báo, ngoài có giắt chục thẻ hương, vội vàng bước lên. Tay trái vừa buông cái vạt sau chiếc áo dài mà lúc nẫy bà kéo lên để che nắng, bà cụ đã nhìn trước, nhìn sau như muốn tìm người quen biết. Kỳ Phát bỗng đứng dậy. Hắn tươi cười chào bà cụ rồi nói: - Mời cụ lên toa trên, ông phán ngồi ở toa đầu cơ ạ! Tôi đợi bà cụ bước sang toa bên rồi mới quay hỏi Kỳ Phát: - Ông phán nào anh quen biết mà lúc nẫy không thấy anh chào? Phát nhìn tôi một cách khinh bỉ: - Anh tưởng hễ tôi được quen với một ông phán thì khi gặp tôi phải chào mọp hay sao? Hắn không đợi tôi trả lời, lại thản nhiên ngả lưng vào vách mà lim dim đôi mắt; một lúc sau ở toa bên bước sang một người trẻ tuổi, vận áo sa-tây. Tôi để ý thấy người ấy đi đi lại lại trên toa nhìn chúng tôi và nhất là nhìn Kỳ Phát một cách chăm chú lắm. Người trẻ tuổi bỗng tiến đến bên chúng tôi nghiêng mình chào, rồi hỏi Kỳ Phát: - Xin lỗi ông, tôi nhìn ông ngờ ngợ mà lạ sao không nhận được ông là ai, không nhớ rằng đã được gặp ông vào hồi nào! Kỳ Phát mỉm cười: - Thưa, cũng không lấy gì làm lạ cho lắm, chỉ vì một cớ là tôi chưa từng có hân hạnh được gặp ông bao giờ, mà lần này được tiếp chuyện ông là lần đầu của tôi vậy. - Thế sao lúc nẫy… - Lúc nẫy tôi biết chỉ là vì tôi thấy bà cụ tìm ông, cũng như tôi biết ông hiện làm thư ký tòa án Nam Định, nhân ngày nghỉ về quê ăn giỗ. Cắt nghĩa như thế, thì có trời hiểu. Bây giờ hồi tưởng đến thái độ ngạc nhiên của người trẻ tuổi lúc ở trên tầu tôi cũng vẫn còn buồn cười nôn ruột. Nói thực ra, thì ai mà không lấy làm lạ, nhưng chỉ mỗi tôi là thẹn vì lúc trước đã thốt ra câu hỏi ngờ nghệch kia. Thấy tôi thần người ra nghĩ ngợi, Kỳ Phát vỗ vai tôi mà cười: - Có thế mà mãi không nghĩ ra ư? Ninh Bình đây rồi này! Kìa anh trông! Tôi nhìn theo tay Phát trỏ, thấy trên sân ga bà cụ lúc nẫy tay cầm bọc, tay che ô đi bên người trẻ tuổi, áo sa-tây xách va ly, tay xách buồng chuối ngự. Kỳ Phát nói: - Anh nhận thấy chưa? Chính cái ô kia nó dẫn tôi từ bà cụ đến chàng trẻ tuổi. Lúc bà cụ lên, tay kéo vạt áo che nắng, tôi biết đó là một người quen đi ô, không nón. Mà bà cụ lại ra ý muốn tìm người quen, tôi sực nhớ đến chàng trẻ tuổi gặp lúc mới lên tầu, một tay chàng xách buồng chuối, một tay chàng xách va ly. Tôi để ý nhất là ở quai va ly có buộc một chiếc ô đàn bà. Thường ra một người trẻ tuổi không ai muốn mang theo ô, nhất là cái ô của đàn bà dùng, trừ ra trong khi bất đắc dĩ lắm. - Vì thế anh đoán ra rằng: người trẻ tuổi kia là con bà cụ? - Tôi phỏng đoán chắc bà cụ đi trước đã mấy hôm nay vào Cát Đằng thăm bà con, nhân tiện ông con được ngày nghỉ vào Ninh Bình ăn giỗ một thể. Hai mẹ con đã hẹn nhau đi cùng một chuyến tầu, nhưng phiền nhất cho ông con là khi ở Nam đi bà mẹ lại bỏ quên chiếc ô ở nhà, thành ra chàng phải mang theo đi kẻo sợ cụ già không quen nắng gió. Nhờ có thẻ hương ở bọc cụ già, và buồng chuối của người trẻ tuổi mà tôi đoán rằng: Hai mẹ con bà cụ vào Ninh Bình ăn giỗ. Tôi cười bảo: - Tôi cũng đoán cho anh xem: Tôi biết bà cụ tuy già nhưng tính lơ đễnh tệ! Phát cũng cười: - Anh đoán giỏi đấy nhỉ. Có cái ô mà bỏ quên tất là lơ đễnh hấp tấp, không biết chừng lúc nẫy xuống vội vàng bỏ quên cái gì trên tầu cũng nên! Kỳ Phát bỗng chạy bổ sang toa bên. Lúc hắn trở về tay giơ cao chục hương vừa đi vừa nói: - Tức lạ, lúc nẫy tôi chậm nghĩ quá. Đã để ý đến cái bọc bà cụ cầm không có thẻ hương mà tôi không nghĩ ngay đến tính lơ đễnh. Thế mới biết lắm cái nhỏ mọn thực dễ dàng mà nhiều khi ta không nghĩ tới. Tôi cũng sực nghĩ ra: - À, anh tại sao mà lại biết hắn làm tòa án tỉnh Nam nhỉ? Kỳ Phát cười bảo: - Câu anh hỏi lại chứng thêm cho lời tôi vừa nói là đúng. Thực những cái nhỏ mọn dễ dàng ngay trước mắt mà phần nhiều ta không nghĩ đến. Anh có muốn biết tên tuổi chức nghiệp cái lão to béo ngồi đối diện chúng ta không? Khó gì, anh nhìn mà đọc trên chiếc danh thiếp gài ở cạnh va ly kia kìa! CHƯƠNG 3 OAN THỊ KÍNH Tầu đã sắp đến Thanh mà hắn vẫn điềm nhiên ngủ như thường. Tôi định sửa sang lại quần áo, sắp sửa hai chiếc va ly xong rồi đánh thức hắn dậy thì vừa. Lúc tìm đến vé thì mất, ấy mới rầy. Sờ hết túi trong đến túi ngoài, đâu cũng không thấy mà còi tầu đã rít lên mấy bận. Xe hỏa chạy từ từ, ga Thanh Hóa chỉ còn cách vài chục thước. Tôi đành lay Phát dậy. Hắn mắt nhắm mắt mở hỏi: - Đến rồi à? - Đến rồi, dậy đi! Quái, cái vé tầu mình bỏ đâu mất, làm thế nào bây giờ, không nó tính phạt từ Hà Nội thì “hao” quá! Kỳ Phát nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi hắn đứng dậy, nắn các túi tôi như một người nhà đoan khám thuốc phiện lậu. Tầu đã dừng hẳn, mà vé vẫn chưa thấy. Ấy mới nguy! Kỳ Phát cũng vục lại túi hắn xem, nhưng chỉ thấy mỗi chiếc vé của hắn. Như sực nghĩ ra ý kiến gì, hắn mỉm cười, rút chiếc bút chì trong túi ra viết hí hoáy lên đằng sau chiếc vé. Rồi hắn xách va ly hất hàm bảo tôi cùng xuống. Tôi bảo: - Còn mất vé thì tính sao? - Anh cứ mặc tôi! Hắn vừa nói vừa đưa cho tôi chiếc vé, tôi cầm lấy nhìn xem thấy mặt sau có viết ba hàng chữ số của phép tính nhân 78,57 x 9 = 707,13 và chữ ký của Kỳ Phát. Tôi vẫn chưa hiểu ra sao thì Kỳ Phát đã kéo tôi xuống sân ga. Hành khách vẫn xô đẩy nhau ra. Tôi thấy Phát thản nhiên xách va ly ra cổng, nhưng đến bên người thu vé thì hắn bỏ va ly xuống. Hắn móc túi lấy ví ra. Tôi bụng bảo dạ: “À, thằng cha nó chơi khăm mình, ra nó giữ cả hai vé!” Nhưng không, Phát mở ví lục soát giấy má trong mấy ngăn rồi… rồi lại bỏ ví vào túi. Rồi hắn nghiễm nhiên xách va ly ra. Người thu vé cản lại hỏi vé, Phát quắc mắt hỏi: - Vé nào nữa, tôi vừa đưa cho ông thôi! Thế là cãi nhau tíu tít, kẻ nói không, người nói có, duy chỉ tôi biết rõ: trong hai người kẻ nói dối tất không phải là người thu vé. Ông xếp ga ra, hỏi duyên cớ. Thế là lại cãi nhau tíu tít vẫn kẻ nói không người bảo có. Kỳ Phát bỗng vỗ tay cười rầm lên, rồi bảo ông xếp ga rằng: - À, tôi nhớ ra rồi. Lúc nẫy ở trên tầu tôi không sẵn giấy, có lấy bút chì tính trên mặt sau chiếc vé. Đây tôi còn nhớ, tôi làm phép nhân 78,57 x 9, sau tôi buồn tay lại có ký cả tên vào nữa, ông thử lục tập vé xem có thấy không nào? Lẽ tất nhiên là có thấy. Thế là Kỳ Phát đường hoàng xách va ly ra cổng, sau khi nghe lời ông xếp mắng người làm, và lời xin lỗi của người thu vé. Ra khỏi cổng Phát vỗ vai tôi cười bảo: - Ta đi thôi chứ, đi mà tra xét cái án mạng kia, đấy anh xem đọc truyện trinh thám có cái lợi nhỡn tiền là như thế. Ở Club des Masques cũng có một chuyện từa tựa như vậy. Tôi chỉ hơi tiếc một điều là chàng thu vé bị cái oan tầy đình, cái oan Thị Kính. Tôi đoán chắc chàng thu vé tối hôm ấy về nhà sau khi kể chuyện lại cho vợ và con nghe sẽ nói:“Quái, tôi không lầm mà, rõ ràng hắn để va ly xuống, rút vé ra định đưa vé nhưng không đưa mà lại bỏ ví vào. Ấy thế mà có vé của hắn trong tay mình, ấy mới thực là lạ.” Bây giờ hẳn chàng không lấy làm lạ nữa, mong chàng hãy đọc ở mấy hàng đây, lời xin lỗi trân trọng của Kỳ Phát và của người chép chuyện này. CHƯƠNG 4 CÁNH TAY ĐEN Thấy chúng tôi nói là chỗ quen biết ngày xưa với ông cụ thân sinh, ông Nùng Chí tiếp đãi chúng tôi rất chu đáo. Sau bữa cơm gồm đủ các món sơn hào, ông buồn rầu mà kể lại cho chúng tôi nghe chuyện cái đêm ghê gớm. - Các ông đã rõ, châu Lộc Sơn tuy cách xa tỉnh lỵ những hơn ba ngày ngựa, nhưng không hề có xẩy ra sự gì ghê gớm bao giờ. Thế mà buổi tối hôm ấy, cũng bằng bây giờ, cha tôi đương ăn cơm nói chuyện vui vẻ, bỗng im bặt, lắng tai, hình như nghe thấy một tiếng gì quái lạ. Tôi cũng để ý nghe thì ngoài những tiếng thú rừng bắt đầu đi kiếm mồi và tiếng gió đập cành cây xào xạc là những tiếng quen của dân miền núi, không có một tiếng gì lạ cả. Tự lúc ấy, cha tôi như có ý thấp thỏm, lo sợ điều gì. Ăn vội vàng cho xong bữa, cha tôi kêu trong mình khó ở, rồi thu xếp đi nằm. Cha tôi ngủ buồng bên cạnh, còn buồng này là buồng tôi ngủ. Đêm hôm ấy, tôi trằn trọc mãi không chợp mắt được, vẫn ngạc nhiên về cái thái độ lạ lùng của cha tôi. Kỳ Phát ngắt lời: - Chắc ông nằm xem truyện cho qua thì giờ? Tôi ngoảnh nhìn giường chủ nhân thấy đầu giường có kê một chiếc kỷ con, trên để mấy quyển truyện Tầu và chiếc đèn con. Tôi gật đầu hiểu ý, nhưng Nùng Chí thì lấy làm ngạc nhiên hỏi: - Quái lạ! Sao ông biết tôi hay xem truyện đêm? Như không để ý đến câu hỏi, Kỳ Phát giục: - Ông kể nốt cho chúng tôi nghe, sau rồi sao nữa? - Sau tôi mệt quá nhưng vừa chợp mắt thì bỗng giật mình tỉnh dậy. Kỳ Phát hỏi: - Lúc ấy vào quãng mấy giờ? - Lúc ấy vừa trống canh ba được một lát. Tôi tỉnh dậy vì nghe thấy một tiếng kêu dữ dội ở trong buồng cha tôi. Tôi bèn cầm đèn, xách ba toong chạy tới. Tôi và Kỳ Phát đều quay nhìn chiếc can nhỏ nhắn, chỗ tay cầm có nạm vàng tây, dựng bên cạnh chiếc mắc áo. Tôi nói: - Cứ như báo đăng thì lúc ông sang, cửa buồng ông cụ khóa chặt. - Vâng, buồng cha tôi khóa chặt ở phía trong, tôi cố đẩy vào cũng không được… mà bên trong tôi vẫn nghe hình như có tiếng rên rỉ. Tôi toan chạy xuống đằng cuối vườn gọi lão bộc Ty Khuông nhưng tôi thoáng thấy, cách đó hai thước trước mặt tôi thoáng thấy một bóng đen. Tôi nói thoáng thấy là vì, ngay lúc bấy giờ một cánh tay dài thưỡn, đen nháy, vươn lại phía tôi, giật đổ cái đèn, rồi ghì chặt lấy cổ tôi. Tôi bị vật ngã xuống dưới đất, tôi hết sức giãy giụa mà không sao gỡ được cái cánh tay đen, lạnh toát mềm nhũn đương bóp cổ tôi. Sau tôi bị tắc thở, ngất đi, lúc tỉnh dậy thì đã thấy lão Ty Khuông đương vỗ nước lã vào mặt tôi cho tôi hồi tỉnh. Ty Khuông kể lại cho tôi nghe rằng… Kỳ Phát ngắt lời: - Ty Khuông là người có thể tin cậy được không? Nùng Chí gật đầu bảo: - Lão ở hầu hạ nhà tôi được hơn hai mươi năm rồi, cha tôi coi lão như người nhà vậy. Lão kể lại rằng… Tôi nói: - Giá ông cho gọi Ty Khuông lên đây thì hay lắm. Chúng tôi được nghe chính mồm lão thuật lại thì có lẽ hơn. Kỳ Phát gật đầu như cho cái ý của tôi là phải. Nùng Chí bèn cho người xuống gọi lão bộc lên. Tôi nhìn Kỳ Phát thấy hắn có vẻ ung dung lắm. Mồm thở thuốc lá phì phèo, mắt ngắm nhìn quanh tứ phía. Hắn bỗng chỉ một con dao quai vỏ tre, cán đồng, treo trên tường mà khen rằng: - Chủ nhân có con dao tốt nhỉ, giá có đủ đôi treo thì đẹp biết bao! Nùng Chí rút con dao xuống đưa cho chúng tôi xem rồi buồn rầu nói rằng: - Vâng, con dao này tốt lắm, nguyên vẫn có một đôi, theo tục lệ trên này dao tốt cứ xếp bạc nén, chém một nhát đứt hết bao nhiêu là giá bằng ấy. Cha tôi tính ra mua đôi dao này hết hơn ba mươi đồng, đủ biết cặp dao này quý lắm. Mua được đôi dao thì cha tôi giữ một, tôi giữ một, ngờ đâu lại bị kẻ sát nhân dùng chính con ấy hại chính cha tôi. Kỳ Phát hỏi: - Ông có biết cụ nhà ta có kẻ nào thù hằn không? - Không, cha tôi làm Tri châu vùng này được đến mười năm nay, cứ như tôi biết không hề có một ai thù oán cả, tôi chắc chỉ có yêu mến mà thôi. Kỳ Phát bỗng đứng dậy vỗ vai Nùng Chí một cách thân mật mà bảo rằng: - Ông nói có lẽ vì chính ông cũng đương có người yêu mến cơ mà! Chúng ta đều là bạn trẻ, ông cứ tự nhiên cho. Chắc ông nóng ruột lắm thì phải, vì bây giờ có lẽ đã tới giờ hẹn của người yêu ông. Ông có thể để mặc chúng tôi hỏi chuyện Ty Khuông cũng được. Sau khi Nùng Chí ra, Kỳ Phát bảo tôi rằng: - Tôi nhận thấy hắn thỉnh thoảng cứ liếc nhìn ảnh người yêu treo trên tường, lại nhìn đồng hồ, nên tôi đoán già rằng hắn có người đợi, nên nói thẳng cho hắn đi, chúng mình hỏi Ty Khuông cho tiện. Tôi nhìn ảnh một cô Mán đeo khuyên bạc xinh xắn ngây thơ treo trên tường mà hỏi Kỳ Phát: - Anh đoán người này có dính dáng vào vụ án mạng không? Kỳ Phát không trả lời ra hiệu bảo tôi im, vừa lúc ấy lão bộc Ty Khuông ở ngoài bước vào. CHƯƠNG 5 BÓNG ĐEN HAY BÓNG TRẮNG Ty Khuông là một người Mán, trạc ngoại năm mươi nhưng trông vẫn còn quắc thước. Cái cằm vuông và đưa ra, biểu hiện cho tính quả quyết, con mắt sáng lanh, vô hạn buồn rầu mỗi khi lão nói đến tên ông chủ cũ, đủ cho chúng tôi biết rằng ông châu Nùng Cao xưa kia tin cậy lão là phải lắm. Chúng tôi đều ngồi lặng yên nghe lão kể, nhất là Kỳ Phát thì hình như chú ý đến câu chuyện lắm, thỉnh thoảng hắn lại ghi vào sổ tay mấy chữ. - Hôm ấy sau bữa cơm chiều, quan châu có cho gọi tôi lên dặn rằng: “Đêm nay anh phải xem lại cửa ngõ cho cẩn thận và nên tỉnh ngủ.” Biết hẳn có việc gì quan trọng, đêm ấy tôi định không ngủ để xem động tĩnh, nhưng sau mệt quá, hai mắt gà gà, thì bỗng choàng tỉnh hẳn. Lúc ấy trống canh ba vừa điểm xong, tôi nghe thấy ngoài có tiếng động rồi thoáng thấy có một cái bóng trắng tay dài lắm dễ đến hơn thước rưỡi đi vụt vào trong nhà. Tôi vội mặc áo, xách gậy đi theo lên nhà trên nhưng bỗng một tiếng kêu dữ dội ở phía buồng quan châu đưa ra, rồi thấp thoáng ánh đèn, rồi thấy tiếng cậu Nùng Chí kêu cứu. Hoảng hốt, tôi chạy lên đánh diêm soi thì đã thấy Nùng Chí nằm ngất trước cửa buồng cha, hơi thở rất nhỏ. Tôi bèn vực cậu dậy, gọi tỉnh thì thấy cậu bảo vừa bị người bóp cổ. Kỳ Phát ngắt lời: - Có, tôi đã được ông Nùng Chí kể cho nghe đoạn ấy, già không phải kể lại nữa. Ty Khuông nói tiếp: - Tôi đoán thủ phạm là một người rất khỏe vì cổ cậu Nùng Chí có đeo cà vạt cổ cứng mà còn bị nghẹt thở, nếu không thì có lẽ không sống được đến bây giờ. Tôi bảo riêng Kỳ Phát: - Cứ như lời Ty Khuông thi thủ phạm bận đồ trắng, theo lời thuật của Nùng Chí thì thủ phạm bận đồ đen, vậy như ý anh đoán thì thủ phạm là bóng đen hay là bóng trắng, hay là hai bóng cũng chỉ là một thôi? Kỳ Phát mỉm cười không trả lời, quay lại bảo lão bộc: - Bây giờ già đưa chúng tôi sang xem cái buồng đã xẩy ra án mạng. Ty Khuông vâng lời, đưa chúng tôi sang buồng bên. Cánh cửa vừa mở, một luồng gió lạnh tanh tanh đưa ra, làm tôi phải ghê sợ. Một điều tôi để ý nhất là trong phòng bầy biện rất sơ sài, trên tường không hề treo một cái tranh ảnh gì cả, ngoài trước cửa ra vào, phòng có bốn cửa sổ song sắt, đóng kín mít như bưng. Kỳ Phát hình như chú ý đến những cửa ấy lắm thì phải vì tôi thấy hắn rút trong túi ra chiếc kính lúp, soi từng khe một. Tận trong góc phòng kê một chiếc giường màn nửa vắt nửa buông, đó là giường ông châu Nùng Cao. Áp đầu giường, một chiếc kỷ con trên để chiếc đèn Hoa Kỳ và ba quyển Tam Quốc chữ nho. Cạnh chiếc kỷ, để một chiếc tủ đứng kiểu cũ, Kỳ Phát để ý nhất đến bốn chiếc khóa đồng mà bảo tôi rằng: - Anh có nhận thấy cái gì không? - Có, những khóa này là kiểu khóa có tua của Tầu, trông miệng khóa thì hình như hiểm lắm thì phải. - Anh chỉ nhận có thế thôi ư? Rồi hắn quay lại hỏi lão bộc: - Già có thể mở cho tôi xem những ngăn kéo này không? - Thưa ông, lúc nẫy cậu Nùng Chí có dặn tôi, ông là một vị khách đặc biệt, ý của ông muốn gì là ý cậu tôi muốn thế, nhưng chìa khóa ngăn kéo này cậu ấy không để ở nhà mà dù ông có đợi cậu ấy về cũng chỉ có thể xem được hai ngăn kéo bên phải mà thôi, vì hai chiếc chìa khóa ngăn bên trái bị thất lạc không sao tìm thấy. Kỳ Phát không nói gì, rút trong túi ra một chùm đến hơn hai mươi chiếc chìa khóa rồi tra vào mở thử nhưng không chiếc nào vừa. Ngẫm nghĩ một lát, Phát bỗng vỗ vai Ty Khuông mà bảo rằng: - Tôi biết già thương ông châu lắm, những công việc tôi làm đây đều chỉ là cốt ý tìm ra hung thủ mà thôi. Tôi chắc già đã thề báo thù cho chủ, vậy cũng nên giúp tôi trong khi tra xét, nhất là đừng lấy làm lạ cái gì cả. Ty Khuông nói: - Vâng, tôi đã rõ, tôi xin hết lòng trông cậy ở ông. Kỳ Phát rút trong ví vài chiếc nĩa* và ba bốn chiếc móc bằng thép. Hắn loay hoay tra vào chiếc khóa. Một lát sau, tôi và Ty Khuông đều lấy làm lạ, vì thấy hắn đã mở được hai chiếc ngăn bên phải rồi. Tôi thấy trong chiếc ngăn trên để toàn giấy má việc quan, ngăn dưới thì để tiền. Kỳ Phát như không chú ý đến hai ngăn kéo này nên khóa lại ngay. Hắn bắt đầu mở đến khóa hai ngăn kéo bên trái. CHƯƠNG 6 CHIẾC LỌ CỔ VÀ KHÚC XƯƠNG TAY Thấy Kỳ Phát hí hoáy mở hai ngăn kéo bên trái, Ty Khuông nói: - Hai chiếc khóa này các thợ khóa trong vùng chịu không sao mở được, tôi chắc ông cũng… Lão bộc chưa nói hết lời, thì Kỳ Phát đã kéo được chiếc ngăn trên phía trái ra. Tôi giật mình ghê sợ vì thấy để trơ trọi giữa ngăn một chiếc xương ống tay trắng tinh bóng nhoáng. Kỳ Phát không nói gì, khóa ngăn lại, hí hoáy mở chiếc ngăn dưới. Tôi đương nóng lòng đợi xem trong cái ngăn cuối cùng này hẳn có cái gì bí mật, nhưng một lúc sau Kỳ Phát phải đứng dậy lắc đầu nói: - Tôi cũng chịu, từ xưa đến nay tôi chưa từng gặp cái khóa nào hiểm như cái khóa này. À, Ty Khuông, lúc già vào thì thấy ông châu ngã nằm chỗ nào? Ty Khuông chỉ chiếc kỷ mà bảo rằng: - Tôi thấy ông tôi nằm gục ở áp chiếc kỷ này, ở ngực phía bên trái cắm ngập con dao mà ông tôi vẫn dùng làm khí giới hộ thân. - Già nói ở ngực phía bên trái? - Vâng, ở ngay dưới vú độ nửa đốt ngón tay, có lẽ vì trúng tim nên ông châu chết ngay không nói được câu nào. Kỳ Phát gật gù như lấy làm đắc chí lắm. Hắn xem lại các cửa sổ, rút thuốc lá ra châm hút, ngửa mặt thở khói tròn, nhưng hắn bỗng biến sắc đứng thần ra nghĩ, rồi nhẩy lên giường, nhòm lên đỉnh màn. Như đã nghĩ ra manh mối, hắn vẫy tôi và Ty Khuông cùng đến, rồi nhìn thẳng vào lão bộc, hỏi: - Già ở đây đã lâu năm, chắc lai lịch chiếc xương ống tay kia già phải biết? - Không những tôi biết, mà nhiều người cũng biết, vì ông châu thường nói chuyện đến luôn. Mỗi khi thấy người hỏi đến, ông châu đều kể lại tấn kịch ghê gớm và buồn cười khi xưa. … Cách đây sáu năm. Một buổi tối mùa đông. Cảnh vật châu Lộc Sơn hình như đương co ro trong khí trời lạnh lẽo. Trong nhà quan châu, Nùng Cao và người khách lạ đương chén tạc chén thù. Rượu đã ngà ngà. Nùng Cao mang ra khoe khách một đôi lọ cổ: - Ông trông xem, đẹp tuyệt. Nước men trắng như gạo nếp, nét vẽ tinh tế xiết bao! Tôi tưởng cảnh Tô Vũ mục dương này đến họa ra tranh vẽ cũng không hơn được những nét chấm ở đây. Nhất là để từ đời Khang Hy đến giờ mà còn nguyên vẹn, không mẻ không sứt thì thực là của hiếm. Khách ngắm đôi lọ gật gù bảo: - Hiếm thực, mà lại được cả đôi mới tuyệt! - Nếu chỉ có một chiếc thì có gì là quý. Tôi mà mất một chiếc thì thực như thiếu một cánh tay. Khách ra ý thích đôi lọ lắm: - Hay là ông để lại cho tôi một chiếc. - Không, tôi đã nói, thiếu một chiếc là tôi thiếu một cánh tay. Nói giả thử, ông có bằng lòng chặt một cánh tay đưa cho tôi không? Khách, có lẽ lúc ấy hơi men đã bốc, điềm nhiên vén cánh tay trái mà nói: - Đây ông cứ chặt, tôi bằng lòng đổi… Cứ theo lời ông châu kể chuyện lại thì ta có thể tưởng tượng được cái tấn kịch ghê gớm lạ lùng xẩy ra như trên. Thế là từ bấy giờ mỗi khi có khách hỏi đến đôi lọ, ông châu sẽ đem khoe một chiếc lọ và khúc xương tay, bóng nhoáng, nhẵn lì, lau chùi sạch sẽ mà bảo rằng: - Đây, chiếc lọ nữa của tôi đây! Nếu khách có ngạc nhiên, ông ấy sẽ lại bắt đầu kể chuyện. “Cách đây sáu năm, một buổi tối mùa đông…” Kỳ Phát hỏi: - Từ khi xẩy ra tấn kịch già vừa kể, già có để ý thấy tâm tình ông châu thay đổi chút gì không? Ty Khuông ngẫm nghĩ một lát rồi nói: - Ông có nhắc tôi mới nghĩ ra. Tự khi ấy ông châu tính cẩn thận thêm lên, tối đến ông tự xem xét cửa ngõ kỹ lưỡng cẩn thận rồi mới đi ngủ. Kỳ Phát gấp cuốn sổ tay bỏ túi, rồi bảo: - Thôi cảm ơn già, tôi biết thế là đủ rồi. À, cứ theo phong tục miền núi, nhà nào càng giầu thì càng có lắm chiêng đồng, sao ở nhà đây tôi để ý không có lấy một chiếc? - Ấy cách đây độ hai năm, tự nhiên một hôm ông châu cho khiêng bao nhiêu chiêng đồng ở nhà đem đi bán hết không giữ lại một chiếc nào. - Tại làm sao già có biết không? Ty Khuông lắc đầu trả lời: - Tôi đoán mãi cũng không ra, vì trong mấy hôm ấy không xẩy ra sự gì cả. Chỉ có tối hôm trước, trời đã khuya có một người khách vào chơi. Trời tối, tôi không trông rõ mặt, chỉ biết hắn khoác một chiếc áo lông cừu dài tới gối, giống như những chiếc áo của bọn khách Vân Nam vẫn mặc. Hắn vào buồng ông châu nói chuyện một lúc lâu. Khi đi, trông hắn có vẻ tức giận lắm, lúc ra đến cổng, hắn còn ngoảnh lại nói xì xồ một tràng tiếng Khách. Kỳ Phát như để ý đến đoạn cuối này lắm. Ty Khuông đã ra rồi mà hắn còn đi đi, lại lại ra dáng suy nghĩ lung lắm. Tôi thoáng nghe thấy hắn lẩm bẩm: Ác giả ác báo, chiếc chiêng đồng, thằng khách Vân Nam… Tôi hỏi: - Cái gì mà ác giả ác báo hử anh? Kỳ Phát trợn mắt nhìn tôi gắt tướng: - Anh lại còn hỏi, ác giả ác báo, có khúc xương tay mới có chiếc chiêng đồng chớ lại. Rồi hắn chẳng nói thêm nửa câu, nằm vật ra giường lim dim đôi mắt. Từng biết tính bạn, tôi biết những lúc ấy, dù có cậy răng, Phát cũng không nói nửa lời. CHƯƠNG 7 VẾT TAY TRÊN TRẦN Sáng sớm hôm sau, tôi bừng mắt dậy đã thấy Kỳ Phát ngồi ở góc bàn, tay mân mê cái vòng cổ chó săn, thứ vòng bằng da có đính tua ra phía ngoài cốt để giữ cho các giống thú rừng không ngoạm được vào cổ chó. Hắn cầm chiếc giũa con giũa các đầu đinh cho thêm nhọn, rồi nghịch, ướm thử lên cổ mình. Tôi cười bảo: - Vừa lắm rồi, có lẽ cái vòng ấy họ làm ra cốt để cho anh đeo thay vào chiếc cổ cồn đấy! Kỳ Phát cũng cười mà trả lời: - Mà có lẽ thực đấy anh ạ. Tôi tưởng đeo cái vòng này còn có ích hơn là đeo cổ cồn không những vô ích lại còn bận rộn. Tôi nghiêm sắc mặt bảo: - Thôi không nói đùa nữa. Cái án mạng kia anh đã tìm ra manh mối chưa, ở ăn hại nhà người ta mãi sao? Phát tức mình nói: - Trong hai người đi chỉ có một người ăn hại thì cũng chưa đến nỗi nào. Việc nó bày ra như thế, việc gì phải tìm đâu nữa. Tôi hỏi: - Tôi vẫn chưa hiểu cái chỗ Ty Khuông thì trông thấy cái bóng trắng mà Nùng Chí thì trông thấy bóng đen. Đen và trắng, hai mầu ấy không có thể nói là trông lầm được. Vậy thủ phạm là ai người bận đồ đen hay trắng? Kỳ Phát nói: - Thoạt đầu nghe chuyện tôi cũng đặt ra câu hỏi ấy. Làm rắc rối câu chuyện trắng đen, chỉ tại anh chàng Nùng Chí. Thế anh có nhớ Ty Khuông nói đêm ấy hắn sực tỉnh vào hồi nào không? - Lúc trống canh ba vừa điểm xong! - Thế còn Nùng Chí nghe tiếng kêu vào lúc nào? - Lúc trống canh ba vừa điểm xong một lúc! - Thế nghĩa là từ lúc Ty Khuông trông thấy bóng trắng cho đến lúc Nùng Chí nghe thấy tiếng kêu chỉ có mấy phút đồng hồ. Anh tính xem trong một thời hạn ngắn ngủi thế, hung thủ ta ví dụ là bóng trắng, có thể kịp chạy từ vườn vào trước cửa phòng, rồi từ ngoài lẻn vào phòng bằng một cách nào ta chưa cần biết, đâm Nùng Cao một nhát rồi lại thoát ra ngoài được không? Tôi lắc đầu bảo: - Dẫu nhanh như điện cũng không thể được, như thế hung thủ không phải là người bận đồ trắng, tuy nhiên ta cũng cần biết hắn là ai, lần mò vào trong vườn nhà người ta làm gì trong đêm khuya tăm tối. Kỳ Phát cả cười, vỗ vai tôi mà rằng: - Hắn chỉ là Nùng Chí thôi anh ạ! Tôi ngạc nhiên bẻ lại: - Không lẽ Nùng Chí, vì chính hắn bảo hắn nghe thấy tiếng kêu nên sực tỉnh dậy cơ mà. - Thế mới giấu đầu hở đuôi! Anh có thấy ai đương ngủ mê, choàng tỉnh dậy mà lại biết rõ ràng vừa trống canh ba một lúc không? Vả lại theo lời Ty Khuông thuật, thì lúc gọi tỉnh, Nùng Chí đeo cổ cồn, ca-vát; đời thuở nhà ai đi ngủ mà lại đóng đủ bộ như thế không? Vả lại trong buồng hắn có treo con dao là một thứ khí giới hộ thân tốt, cớ gì lúc hắn chạy sang cứu cha lại không cầm dao chỉ mang chiếc can nhỏ tí bịt vàng? Tôi như người sực tỉnh, gật gù bảo: - Có lẽ hắn đi chơi đâu về! - Cố nhiên, tôi đoán hắn đêm ấy lẻn đi tình tự với người yêu, đã khuya vừa đến vườn thì nghe thấy tiếng kêu, nên vội chạy vào cứu. - Thành ra lão Ty Khuông đương ngủ gà ngủ gật trông thoáng thấy tưởng là hung thủ, mà có lẽ cánh tay dài lão tưởng tượng chỉ là chiếc can mà thôi. Kỳ Phát cả cười bảo tôi rằng: - Anh đoán đúng đấy, thôi còn đợi gì mà không đi làm trinh thám? - Thôi anh đừng chửi tôi nữa, tôi nghĩ mãi mà không hiểu thủ phạm làm thế nào mà vào được trong phòng, khi các cửa đều đóng cả. - Nếu các cửa đều đóng thì Nùng Cao đã chết từ trước rồi còn gì? Tôi sực nghĩ ra: - À, còn cái lỗ hổng áp mái nhà, trông to hơn chiếc cháp đầu, nhưng dù hung thủ có dùng thang trèo lên tới cũng chỉ có thể nhòm vào được thôi chớ không thể chui lọt. Vả lại dù chui qua thì lúc nhẩy vào trong cũng không làm cách nào được. - Thế anh không thấy trên trần có vết gì à? - Có, tôi cũng có trông thấy những vết lấm ở trên trần nhưng không để ý lắm. - Thoạt tiên tôi cũng vậy, về sau lúc hút thuốc ngửa mặt thở khói, tôi bỗng nhận ra rằng: Những vết lấm ấy theo một dải từ lỗ hổng thẳng đến trên đỉnh màn. - Vì thế anh mới nhẩy lên giường nhòm lên màn, nhưng anh có thấy gì không? - Tôi có nhận ra rằng trên đỉnh màn có những lốt bàn tay nhỏ xíu, ngay giữa có bốn vết rồi đến góc màn thì chỉ có từng ba, bốn lốt thôi. - Thế những vết trên trần cũng là những vết tay? - Phải, những vết tay ở trên trần, thế mới lạ! - Như ý anh thì đoán như thế nào? - Tôi đoán… Tôi đoán rằng đến đêm nay anh sẽ rõ. Còn mấy cái khóa anh không nhận thấy gì à? Lạ nhỉ? Cái tủ ấy có bốn ngăn kéo, hai ngăn bên trái, hai ngăn bên phải. Anh có nhận thấy khóa hai ngăn bên phải khác hai ngăn bên trái không? - Khóa bên trái hiểm hơn. - Gì nữa? Tôi sực nghĩ ra: - Ồ nhỉ, tại sao lỗ khóa bên phải đều quay về phía bên phải mà lỗ khóa bên trái lại quay về phía bên trái? - Tại vì hai khóa bên phải đã có Nùng Chí mở qua, còn hai khóa bên trái thì lúc Nùng Cao chết đến giờ chưa có ai mở đến cả. Một người thường khóa lỗ khóa quay về bên trái là người thế nào? - Là người vẫn quen dùng tay trái hơn tay phải, vì khóa như thế lúc mở dùng tay trái mới tiện. Nhưng ông châu Nùng Cao quen dùng tay phải hay trái, có liên quan đến vụ án mạng này đâu. Kỳ Phát mỉm cười hỏi: - Đối với anh thì có lẽ cái xương cánh tay kia cũng không dính dáng gì đến án mạng hẳn? - Nhắc đến khúc xương, tôi lại sực nghĩ ra, sao anh không phá nốt chiếc ngăn kéo dưới ở bên trái ra xem trong ấy có gì không? Tôi đoán hẳn có nhiều cái lạ kỳ. - Anh thực thà quá, anh tưởng tôi chưa xem tới ngăn kéo ấy sao? Anh nên biết rằng ngay lúc có Ty Khuông ở đấy, tôi đã mở được cái ngăn kéo thứ tư rồi nhưng sợ ở trong ấy có cái gì bí mật, không tiện cho Ty Khuông biết sợ trở ngại việc tra xét của chúng mình. - Đối với anh có lẽ không có cái khóa nào là hiểm cả, chắc đêm qua anh sang buồng bên mở ngăn kéo ấy xem rồi. Anh thấy có gì lạ? Kỳ Phát mở ví đưa cho tôi xem ba mảnh giấy đốt giở nói: - Trong ngăn kéo tôi chỉ thấy một đống giấy. Tôi bới tìm chỉ có ba mảnh giấy này là còn có thể đọc được. Đây anh xem một mảnh có chữ: “… từ 1928; Ta nóng quá những hối…” một mảnh có bốn chữ: “… Nó giết ta làm…” và một mảnh chỉ có hai chữ: “… Tiếng… đồng…” Tôi nói: - Mảnh thứ ba này chắc chữ giữa bị lửa lém vào, tiếng… đồng… À hay là tiếng chiêng đồng? - Tôi cũng đoán thế. Cứ như hai chữ: “… từ 1928” thì ta có thể chắc rằng tập giấy đốt đi này là một nhật ký từ năm 1928 tức là tháng tư năm 1928. Từ 1928 đến bây giờ là mấy năm rồi nhỉ? - Đúng sáu năm, anh đoán làm sao? Kỳ Phát không trả lời câu hỏi của tôi, lẩm bẩm một mình: - Sáu năm, ừ đúng sáu năm. Rồi hắn nhìn thẳng vào mặt tôi nói: - Anh muốn biết tôi đoán ra làm sao. Đến tối nay rồi anh sẽ rõ. Rồi hắn xoay nắm cửa, đi ra. Trước khi bước khỏi cửa phòng hắn còn ngoái cổ lại bảo tôi rằng: - À, tôi quên chưa cho anh biết. Độ chiều nay, Nùng Chí sẽ cho mời bốn thầy khen về lập đàn giải oan cho ông bố, có lẽ họ cúng lễ suốt đêm nay mới xong, tôi chắc anh là một nhà văn sẽ lấy làm thích vì được một tài liệu về phong tục ở trên này. CHƯƠNG 8 TIẾNG CHIÊNG ĐỒNG TRONG RỪNG THẲM Họ lập đàn cúng lễ từ lúc xế chiều. Hỏi ra, theo phong tục vùng này khi lập đàn giải oan cho người chết, tùy theo giầu nghèo, mời một hay hai, ba thầy khen tức là thầy phù thủy về đàn hát lễ bái. Tự nửa ngày hôm trước, suốt đêm đến nửa ngày hôm sau mới xong. Đêm hôm ấy theo tục gia chủ bắt buộc phải mặc quần áo người đã quá cố nằm ngủ chính ở giường người ấy thọ chung. Họ cho rằng như thế hồn người chết sẽ về báo mộng và dặn bảo mọi điều. Một điều này tôi lấy làm lạ là Nùng Chí tuy là người Thổ nhưng đã có cái óc mới, không lẽ lại còn mê tín mà theo thói thường lập đàn như thế? Tôi hết sức xét đoán mà vẫn chưa ra duyên cớ, trong khi ấy, ở ngoài họ vẫn trống phách vang lừng. Trời tối dần… tôi nằm không tài nào chợp mắt được, suy nghĩ quanh co, chỉ trở mình hoài. Kỳ Phát thì ngáy o o ngủ ra dáng bình tĩnh lắm, hình như đã quên lời hứa cùng tôi: “Đến đêm nay, anh sẽ biết.” Trống canh hai đã điểm. Tôi vẫn chưa ngủ được. Tôi đành mặc áo, mở cửa ra sân xem bọn thầy khen cúng lễ và hát những bài hát thờ nghe thê thảm buồn rầu, chốc chốc lại điểm vài tiếng trống bập bùng. Lúc tôi quay vào định ngủ thì kỳ lạ, Kỳ Phát đã biến đi đâu mất. Tiếng trống ở ngoài đã thưa dần… Tôi nằm vẩn vơ nghĩ ngợi, lắng tai nghe tiếng gió thổi rì rào. Tôi bỗng giật mình lo sợ, trong rừng thẳm đưa ra tiếng rè rè của chiếc chiêng đồng nghe ai oán, gớm ghê! Tiếng chiêng chốc chốc lại nổi lên văng vẳng vẫn ở tự trong rừng thẳm đánh chậm chạp dần từng tiếng một. Tôi nghe tiếng chiêng mà rùng mình, tưởng ra một bọn người bí mật, khiêng một cỗ quan tài để mộc, đương bước theo nhịp chiêng, lặng lẽ hạ huyệt trong rừng sâu thẳm. Tiếng chiêng thỉnh thoảng vẫn nổi lên. Bỗng trong buồng bên cạnh có tiếng lục đục, rầm rầm rồi tiếng Kỳ Phát kêu gọi tôi. Tôi khoác vội chiếc áo, cầm đèn pin, rút con dao trên tường, chạy sang. Vừa lúc ấy, Nùng Chí và bọn người nhà cũng cầm đèn chạy đổ lại, cánh cửa buồng vừa mở, tôi thấy Kỳ Phát đầu tóc bơ phờ, cổ đeo chiếc vòng chó săn đẫm máu, hai tay giữ chặt một con khỉ lông vàng mượt đang lồng lộn, chí chóe chạy tháo thân. Tôi vội hỏi: - Anh có việc gì không? Bị thương ở chỗ nào? Kỳ Phát lắc đầu, tươi cười đưa con khỉ cho bọn người nhà trói lại, tháo chiếc vòng ở cổ ra, nói rằng: - Không việc gì, anh ạ. Nhưng nếu không có chiếc vòng này thì tôi khó sống được đến bây giờ. Rồi hắn chỉ con khỉ, bảo mọi người rằng: - Đây, tên hung thủ đã giết ông châu Nùng Cao đây, chính nó đã gây nên án mạng. Thấy mọi người đều ngơ ngác, Kỳ Phát cả cười bảo rằng: - Phải, chính vì con khỉ này mà ông châu chết. Tôi thoạt vào cái buồng này cũng biết ngay không phải ông châu bị ám sát. Một cái buồng cửa đóng kín mít như thế này thì hung thủ không tài nào vào được. Nhưng tại sao các cửa đều đóng như bưng? Tôi đoán rằng ông châu vốn có người thù, vẫn hồi hộp sợ hãi nên phải đề phòng cẩn mật. - Tại sao ông chết? - Tôi đã nghĩ rằng ông ấy vì sợ hãi, hoặc hối hận quá mà tự tử. Tôi gật đầu nói: - Ừ, mà có lẽ tự tử thực. Kỳ Phát lắc đầu nói: - Không phải anh ạ. Nếu ông ấy tự tử tất phải tự cầm dao đâm vào ngực… Tôi cãi: - Thế thì đúng lắm, ông ấy cầm dao tay phải đâm vào ngực phía bên trái. Kỳ Phát vỗ vai tôi: - Anh quên hai khóa bên trái rồi ư? Nếu ông châu cầm dao trái tất đâm vào phía… Tôi cố cãi: - Tất cũng về phía bên trái vì cần phải đâm trúng tim. - Không anh ạ, nếu tay trái cầm đâm trúng về phía ngực bên trái thì không được mạnh vì không thuận tay, mà anh quên rằng lưỡi dao ngập đến chuôi ư? - Không có người giết, không phải tự tử, thì tại sao mà chết, lạ thực! - Cũng chưa thực là lạ, anh ạ! Rồi anh sẽ được xem nhiều cái lạ hơn nữa. Rồi hắn chỉ cho chúng tôi xem dòng máu đỏ trên tường, gần ngay lỗ hổng áp trần nhà và giục Ty Khuông bảo người đốt đèn đi dò theo vết máu. Chúng tôi lẳng lặng đi theo Kỳ Phát. Hắn cầm đèn rê xuống mặt đất rồi cứ lần theo vết máu mà tiến cách độ ba trăm thước thì dòng máu lẩn vào trong bụi rậm, rẽ gai góc lần vào thì một cảnh tượng ghê gớm làm cho chúng tôi sửng sốt. Trên mặt cỏ một cái thây người nằm cong queo, bị một con trăn to tướng quấn chặt. Kỳ Phát giằng dao ở tay tôi đâm thẳng vào cổ con trăn nhưng nó không động đậy, nhìn kỹ thì trăn bị vô số vết thương đã chết tự bao giờ. Ty Khuông lật mặt người chết lên xem thì Nùng Chí và hắn cùng kêu lên. - Lâm Nục, tại sao Lâm Nục ở đây? Kỳ Phát nói: - Phải, Lâm Nục, chính cái tên đày tớ cách đây sáu năm tự nhiên bỏ nhà này đi trốn biệt. Hắn phải trốn là vì hắn bị cụt một cánh tay. Tôi nhìn thây người chết thấy tay trái bị cụt vào đến khuỷu. Kỳ Phát nhìn quanh, lại rút chiếc chiêng đồng mắc ở cành cây giơ cho chúng tôi xem mà rằng: - Lại chiếc chiêng đồng nữa! Cái lọ cổ, khúc xương tay với chiếc chiêng đồng, chính ba vật này đã gây nên án mạng. Nhưng ác giả, ác báo, lẽ trời thực chí công! CHƯƠNG 9 ÁC GIẢ ÁC BÁO Ông châu Nùng Cao quý đôi lọ cổ có lẽ hơn con ông là Nùng Chí. Một buổi tối mùa đông, ông ngồi uống rượu khề khà ngắm đôi lọ để trước mâm ra dáng đắc ý lắm. Một tên người nhà bưng món ăn lên, khói bay nghi ngút. Nùng Cao vừa kịp nói: - Lâm Nục, mi để đấy rồi hâm lại món gân hươu này đi! Thì ôi thôi, cái ống tay áo chàm của Nục đã vô ý lôi một chiếc lọ lăn xuống đất, vỡ tan ra từng mảnh. Mặt ông châu đương đỏ vì say đã xám lại vì giận. Ông quắc mắt chẳng nói chẳng rằng, rút ngay con dao quai đeo ở đằng cạnh sườn thẳng cánh chém ngay vào cánh tay Lâm Nục. Lưỡi dao sáng loáng vừa hạ, khúc tay từ bàn đến khuỷu đã rơi xuống bên mâm rượu, máu chảy chan hòa… Lâm Nục kinh sợ, hoảng chạy. Nùng Cao như điên như cuồng, tay cầm chiếc lọ, tay nắm khúc xương tay đẫm máu, khanh khách cả cười: - Lâm Nục, mi làm ta mất một cánh tay thì ta cũng bắt mi phải để một cánh tay ở lại! Tấn kịch ghê gớm ấy xẩy ra trong giây phút trừ hai người trong cuộc thì không ai biết chuyện. Từ hôm ấy, đôi lọ cổ chỉ còn một chiếc, từ hôm ấy mới có câu chuyện bịa đặt chặt tay đổi lọ mà ông châu vẫn kể, mà cũng từ hôm ấy, tên đày tớ Lâm Nục bỏ nhà trốn biệt để lại cho ông châu Nùng Cao mối lo sợ việc thâm thù. Bốn năm qua, Nùng Cao tưởng chừng như chuyện cũ đã phai nhòa, mà kẻ thù có lẽ đã chết hay mất tích ở một phương nào, thì bỗng một tối một người khách lạ đến chơi. Khách nói tiếng Vân Nam, khoác chiếc áo lông cừu, khách chẳng là ai xa lạ, chính là Lâm Nục. Hắn cởi chiếc áo ngoài, giơ cho ông châu xem cánh tay cụt và chiếc chiêng đồng đeo ở cạnh sườn mà bảo rằng: - Trước kia ông đang tâm chặt cánh tay tôi. Vì thế phiêu lưu cho đến ngày nay, tôi lo ăn từng bữa tận Quảng Châu, Vân Nam vừa bán thuốc nam vừa làm các trò đặt để kiếm tiền. Chiếc chiêng đồng treo trên cánh tay cụt, tôi qua các thị trấn gõ chiêng cho con khỉ, con cừu hay con chó làm trò; lần hồi như thế, còn sống về được đến đây, cũng không phải là dễ. Bây giờ tôi không muốn khó nhọc nữa, tôi cần tiền, ông phải đưa ngay cho tôi năm trăm bạc. Lẽ tất nhiên là ông châu phải đưa, nhưng làm gì cho đủ ngay được số tiền kia. Thế là Lâm Nục giận dữ, nguyền rủa, lúc đi ra còn chỉ mặt Nùng Cao mà thề rằng: - Lâm Nục này còn sống thì Nùng Cao sao cũng có ngày được biết tay. Từ hôm ấy, ông châu đâm ra lo sợ, mỗi khi trông thấy chiếc chiêng đồng lại nhớ đến lời thề ghê gớm, vì thế ông đem bán hết chiêng ở nhà đi. Hai năm sau, chính cái đêm ghê gớm, ông châu Nùng Cao đương ăn cơm thì bỗng đâu nghe văng vẳng có tiếng chiêng đồng đưa từ trong rừng rậm. Ông lo ngại vô cùng, vờ khó ở về phòng ngủ, ông chèn đóng cửa ngõ kỹ lưỡng, mở ngăn kéo lấy tráp nhật ký ra xem lại rồi không biết nghĩ sao, ông đốt hết cả. Sau mệt quá ông đi ngủ, vất chùm chìa khóa cửa lên đỉnh màn, rút con dao để cạnh ở đầu giường. Chính cũng cái đêm ấy, Lâm Nục tức giận ra đi, dạy được thêm một con khỉ và một con trăn, cốt để dùng làm lợi khí báo thù. Hắn đã biết phòng ngủ ông châu nên luyện cho con khỉ biết dùng chìa khóa để mở cửa phòng. Gần trống canh ba, hắn cho con trăn lao mình vào cái lỗ hổng áp trần nhà, rồi cho con khỉ leo lên. Một đầu bám vào bờ tường, một đầu quấn vào dây màn ở trong phòng, trăn làm thành một cái cầu để cho khỉ leo qua. Chính trong khi đi trên cái dây lạ lùng ấy, khỉ ta chới với giơ tay lấy thăng bằng, nên thỉnh thoảng lại chạm lên trên trần, in nên những vết tay nhỏ xíu. Khỉ xuống đỉnh màn nhặt chùm chìa khóa loay hoay thế nào đánh rơi ngay xuống đất. Khỉ nhẩy xuống nhặt, vừa gặp ông châu nghe tiếng động rút dao choàng dậy, khỉ hoảng sợ nhẩy chồm lên vai ông châu làm cho ông ngã sấp. Lưỡi dao vô tình cắm ngập vào ngực, đưa ông châu về nơi chín suối. Nghe thấy kêu, Nùng Chí ở ngoài vườn chạy về phòng mình cầm đèn sang vừa gặp Lâm Nục lao trăn sang quất đổ chiếc đèn, quấn ngay vào cổ Nùng Chí. Nhờ có Ty Khuông đến cứu, Nùng Chí thoát chết là vì thế. Tôi ngắt lời Kỳ Phát hỏi: - Tại sao anh biết con khỉ lấy chìa khóa ở đình màn? Kỳ Phát mỉm cười trả lời: - Anh thực vô tâm, anh đã quên rằng trên màn chỉ có một chỗ có bốn vết tay, còn toàn ba vết là gì? - Anh cũng vô tâm chưa kể cho nghe tấn kịch đêm qua chính anh là chủ động. - Anh để tôi kể tuần tự thì mới có thể hiểu được chứ. Sau khi tôi biết được thủ phạm là ai, tôi chỉ việc bày một kế để cho hắn tự chui vào cạm là xong. Tôi chắc Lâm Nục lòng oán chưa hả, sao cũng còn chờ cơ hội để hại Nùng Chí nữa. Tôi bày ra cơ hội ấy, xui Nùng Chí lập đàn giải oan, cốt để cho Lâm Nục biết rằng Nùng Chí sẽ ngủ ở trong phòng Nùng Cao khi trước. Đến khuya tôi sang bảo Nùng Chí để tôi ngủ ở đấy. Quả nhiên đến đêm, sau khi nghe tiếng chiêng báo hiệu, con trăn và con khỉ của Lâm Nục lại theo đường cũ mà vào. May tôi đề phòng trước, con trăn quấn cổ tôi thì bị những đinh ở vòng cổ đâm bị thương nên nó phải bỏ ngay. Khi tôi nắm được con khỉ thì anh vào. Tôi nói: - Có lẽ con trăn bị đau quá, bản tính hung dữ nổi lên, nên trả thù người dạy mà quấn chết Lâm Nục. - Chính thế, thực là ác giả ác báo, Nùng Cao không nhẫn tâm chặt tay Lâm Nục thì đâu đến nỗi chết, mà Lâm Nục nếu không có gì đang tâm hại người vô can là Nùng Chí thì làm gì có chuyện này! Thấy tôi ra dáng suy nghĩ, Phát vỗ vai tôi hỏi: - Nghĩ gì mà thần người ra thế? - Tôi nghĩ anh cũng buồn cười, chỉ đi tra xét không công cho người ta mãi thế này sao? Kỳ Phát buồn rầu nói: - Có, tôi có một lần đi tra xét mà có lợi cho tôi, đó là một đoạn tình sử trinh thám trong đời tôi. Tôi cười: - Anh mà cũng có tình, lạ nhỉ! Phát nghiêm sắc mặt bảo tôi: - Anh đừng tưởng chỉ anh là biết tình, để khi nào có dịp, tôi sẽ kể cho anh nghe. - Anh kể ngay có tiện không? Nhưng Phát không trả lời, hắn đã dựa vào vách ngủ tự lúc nào! P H Ạ M C A O C Ủ N G BA VIÊN NGỌC BÍCH CHƯƠNG 1 BỨC DANH THIẾP ĐÁNG NGỜ Kỳ Phát cười mà bảo tôi: - Anh đánh cờ mà không chịu nghĩ, như thế cả đời thua, mà thứ nhất là không bao giờ cao được. Tôi cũng cười, bày ván cờ khác rồi trả lời: - Tôi chịu không làm sao được, vì tôi dẫu có muốn nghĩ cũng không nghĩ ra. Phát cau mặt: - Sao lại không ra, chỉ có một điều là anh không chịu nghĩ. - Khổ, oan cho tôi quá, nhưng tôi nghĩ mà không ra, thì anh bảo tôi làm sao được! Anh đánh một nước tính luôn mấy nước sau, tôi thì chịu. Phát vẫn không chịu: - Nghĩa là anh lười nghĩ. Tôi cười: - Anh cứ kêu tôi lười hoài, nhưng tôi hãy hỏi anh: ví dụ như vụ án mạng ở trong Thanh mà người ta đã nói dạo trước*, việc tìm ra cái kho tàng nhà họ Đặng*, cái bí mật trong chiếc tất nhuộm bùn*, dễ thường anh cũng bảo rằng ai cũng có thể khám phá ra được cả sao? Phát châm thuốc lá hút rồi gật đầu: - Phải, ai cũng có thể khám phá được, nếu ai cũng chịu nghĩ. Tôi lắc đầu: - Không anh ạ, chịu nghĩ chỉ là một điều, mà có khối óc trinh thám đặc biệt như anh mới là điều quan trọng hơn cả. - Cái điều ấy thì tôi chắc ít người có lắm. Phát thở một hơi thuốc lá dài, rồi có vẻ chán nản, bảo tôi rằng: - Tôi thấy phần nhiều người nước ta đều giống như anh hết, bất cứ việc gì, chưa làm đã kêu khổ, hình như tự biết là một kẻ không làm được cái thá gì hết thẩy. Như vậy thì bao giờ mà thành công được việc gì hơi quan trọng một chút? Tôi cười: - Không hiểu hôm nay anh ăn phải món gì mà sinh ngôn luận thế, có mỗi một ván cờ, mà anh bàn ngay ra chuyện đời được. Anh lại khéo léo mạt sát cả nước ta là nước văn hiến… Phát tức mình, giơ tay xóa cả bàn cờ tôi vừa bày xong rồi vất điếu thuốc lá chàng đương hút dở mà bảo tôi rằng: - Thôi, nói với một người bướng như anh là vô ích, mà đánh cờ với một người không chịu nghĩ như anh lại càng vô ích hơn nữa. Cố ý trêu cho Phát tức, tôi khoanh tay nhìn chàng mà hỏi: - Vậy bây giờ, không đánh cờ mà trời mưa buồn không đi chơi đâu được thì anh định làm gì? Phát cáu: - Thì tôi ở nhà để nghĩ, nghĩ xem những người bướng và lười như anh thì sống để làm gì? Tôi cười: - Tôi đã nghĩ ra rồi, anh ạ! Tôi sống để mà trêu anh. Có lẽ Phát biết tôi có ý chọc tức chàng nên Phát đánh diêm, châm điếu thuốc khác, rồi ra tựa cửa sổ nhìn những giọt nước mưa tí tách, nhất định không nói nữa. Tôi nhìn theo Phát mà mỉm cười. Kỳ Phát, cái anh chàng có tài trinh thám bao giờ cũng vui vẻ ưa hoạt động của tôi chỉ có mỗi lúc này là cáu kỉnh, ấy là lúc lâu mãi không có cái gì lạ lùng bí mật để chàng tra xét nghĩ ngợi. Người ta khi rỗi thì thấy nôn nao, khó chịu, Kỳ Phát của tôi lúc này cũng đói, nhưng đói trong khối óc ham luận lý xét đoán của chàng. Kỳ Phát chỉ có mỗi một tính xấu ấy. Muốn chữa cho chúng, tôi đã có một cách là khi nào chàng cáu kỉnh thì tôi lại càng trêu chàng kỳ cho đến khi nào chàng hết cáu mới thôi. Bỗng có tiếng gõ cửa. Thằng xe nhà ông Tham Lượng bước vào. Nó cúi chào tôi rồi lại bên Kỳ Phát, đưa một chiếc phong bì danh thiếp. Phát mở xem, rồi quay bảo thằng xe: - Cho anh về, thưa với ông rằng ta sẽ lại ngay! Thằng xe đi rồi, Kỳ Phát đọc thư lại một lần nữa, rồi đi lại bên, vỗ vai tôi mà bảo rằng: - Bây giờ thì tôi đố anh trêu làm sao cho tôi tức được. Tôi giật mình hỏi: - Thế nào, anh lại có việc gì để tra xét rồi hẳn? Phát gật đầu: - Nho nhỏ thôi, nhưng tôi ngờ rằng có nhiều cái lạ. Đấy, anh đọc đi! Tôi cầm lấy tấm danh thiếp của Phát trao cho. Đó là cái thư của Tham Lượng, một người bạn của Kỳ Phát và cả của tôi nữa. Trong danh thiếp có viết mấy dòng: “Anh Kỳ Phát, Nếu anh rỗi rãi, thì lại chơi tôi ngay. Tôi có một việc trộm thường, nhưng rất bí mật, nếu được anh tra xét giúp cho thì hay lắm. Thế nào anh cũng lại, và trời mưa thì anh xơi cơm luôn thể ở đằng tôi cho vui. Anh lại ngay. Tham Lượng” Tôi xem xong, gật đầu: - Thực là buồn ngủ lại gặp chiếu manh, sướng anh nhé! Nào, chúng ta mặc áo lại anh Tham Lượng. Phát vẫn đứng yên hỏi: - Anh cũng đến à? Tôi ngạc nhiên: - Sao lại không đến? Tham Lượng cũng là bạn của tôi, vả lại từ trước đến nay chưa hề bao giờ anh đi khám phá một vụ nào mà lại không rủ tôi cùng đi, như vậy, lần này cũng phải giống như mọi lần trước. Kỳ Phát lắc đầu: - Không, lần này thì anh ở nhà. - Tại sao? - Tại anh là một người chỉ biết nói bướng và lười nghĩ, để anh đi theo cũng vô ích thôi, vì đúng như lời anh nói, trời sinh anh ra ở đời chỉ có một việc là trêu tôi thôi, vậy anh hãy ở nhà đợi đến lúc nào tôi cáu. Tôi làm lành: - Thôi Kỳ Phát ạ, bây giờ tôi phục lời anh nói là phải lắm rồi, người ta ai cũng có thể suy nghĩ được, vậy có dịp tốt để tôi nghĩ, bổn phận của anh là để tôi đi theo. Phát cười: - Anh hỏi bây giờ thì đã khá muộn, nhưng tôi cũng không cố chấp làm gì. Tôi vội đi mặc áo: - Anh rộng lượng quá! Phát giơ tay, cản tôi lại: - Anh hãy khoan đừng có tán dương tôi vội. Ừ, thì anh đi, nhưng trước hết, anh phải làm sao cho tôi tin được rằng tới đó, anh sẽ chịu nghĩ. Tôi gật đầu: - Được rồi, anh hãy để tôi lại đấy rồi tôi nghĩ cho anh xem! Phát lắc đầu: - Không, anh phải nghĩ ngay từ bây giờ! Tôi ngạc nhiên hỏi: - Anh bảo tôi nghĩ từ bây giờ, nhưng đã có cái gì để xem xét mà nghĩ ngợi luận đoán được. Phát giơ chiếc danh thiếp: - Có cái này! Rồi Phát nói luôn: - Đây anh xem lại, anh xem và nghĩ rồi nói cho tôi biết anh đã nhận xét được điều gì? Tôi ngạc nhiên cầm tấm danh thiếp, xem kỹ lại một lượt, rồi một lượt thứ ba nữa nhưng ngoài mấy câu trên kia, thì không có gì đáng để ý cả. Tôi trao trả Kỳ Phát, lắc đầu: - Tôi chịu rồi, không nhận thấy gì cả. Kỳ Phát mỉm cười bảo: - Thôi, anh lại lười nghĩ rồi. Vậy anh ở nhà nhé, tôi đi đây! Tôi cũng phát tức, giật lấy chiếc danh thiếp mà bảo rằng: - Anh không phải nói, anh đưa tôi xem lại lượt nữa. Nhưng cũng chẳng hơn gì lần trước, lần này tôi vẫn không thể nào mà nhận ra được cái chỗ khác thường đáng để ý ấy. Kỳ Phát thì đứng yên mà nhìn tôi. Lâu lâu, chàng mỉm cười mà nói rằng: - Thế nào, anh đã nghĩ ra rồi chứ? Tôi miễn cưỡng gật đầu: - Có, tôi nhận thấy có một chỗ chữa, chữa viết thêm vào chữ ngay. Phát gật đầu: - Phải, anh đã tấn tới đấy, nhưng chỗ chữa ấy thì nghĩa là thế nào? Tôi cố nghĩ rồi đành nói: - Chữa viết thêm như thế nghĩa là tính anh Tham Lượng không được cẩn thận, nhiều khi lại thay đổi ý kiến luôn. Kỳ Phát bĩu môi: - Thôi, anh bất tất phải nói nữa, nghĩa là có lẽ anh không thể nào nghĩ được, hay là anh không có óc cũng vậy! Tôi không cãi lại, chỉ tự an ủi và nhủ thầm: "Ta không có óc, nghĩa là ta không có óc trinh thám mà thôi. Như vậy thì cũng không đến nỗi nhục lắm." Nhưng Kỳ Phát đã giục tôi: - Thôi, anh mặc áo, chúng ta đi, kẻo anh Tham Lượng chờ! Tôi tuy mừng thầm, nhưng vẫn còn làm bộ: - Nhưng trước hết, anh hãy nói cho tôi biết cái danh thiếp này anh nhận thấy những gì đáng để ý? Phát lắc đầu giục: - Thì anh hãy đi đã nào, anh nóng muốn biết sao không cố mà tìm ra? Tôi cau mặt: - Thì anh nói ngay cho tôi biết đã nào, hãy nói cho tôi biết để khi nào lại đằng ấy; tôi mới còn có thể nghĩ thêm được ra cái gì khác nữa chứ! Phát lắc đầu: - Anh thực không biết điều chút nào cả, nhưng thôi tôi cũng chiều anh, nói cho anh biết một chút vậy: Thế xem bức danh thiếp này, anh không nhận thấy rằng trong lúc anh Tham Lượng ngồi viết thì có chị ấy đứng bên à? Tôi ngạc nhiên, hỏi: - Quái lạ, sao anh lại biết thế nhỉ? Tôi không hiểu đấy! Phát cười nhạt: - Tại rằng anh không có óc, hiểu chưa, mà nói luôn cho anh biết rằng chỗ nhận xét ấy chưa là điều quan trọng nhất. Nhưng thôi, nói ra anh lại hỏi vặn tôi, anh cứ đi đi, rồi sẽ hay! CHƯƠNG 2 MỘT VỤ TRỘM LẠ Chúng tôi lại nhà anh Tham Lượng. Hai vợ chồng anh thấy chúng tôi thì mừng lắm. Chị ấy cười mà bảo: - Anh Kỳ Phát, lần này thì việc nhà, hẳn là anh phải tìm ra cho được! Tôi cũng cười: - Kỳ Phát lúc nẫy cũng đã bảo tôi rằng: anh ấy đương trong lúc không có công việc gì, vậy mà anh lại cho công việc, đáng lẽ anh phải mang lễ lại tạ ơn anh chị cơ đấy! Chị Tham Lượng cười, mời chúng tôi ngồi rồi nói rằng: - Các anh hãy ngồi xuống đây. Nhà tôi vừa bị một vụ trộm, tuy không lấy gì làm to lắm… Tôi hỏi: - Chị bị mất trộm cái gì? Chị Tham Lượng nói: - Tôi bị mất chuỗi hột vàng… Kỳ Phát giật mình: - Chuỗi nào, hay là chuỗi hột vàng mà có ba viên ngọc bích ở giữa ấy, chuỗi hột chị vẫn thường đeo? Chị Tham Lượng gật đầu: - Vậy chính chuỗi hột ấy, vì tôi còn có chuỗi nào khác đâu! Tôi cũng giật mình: - Chết chửa, mất chuỗi hột quý ấy mà chị lại bảo là vụ trộm nhỏ. Anh Tham Lượng gật đầu: - Nghĩa là đã mất rồi thì nói to, hay nhỏ nào có khác gì. Thực ra thì cũng không đáng bao nhiêu, vả lại của đi thay người… Chị Tham cau mặt: - Nào tôi có làm ác cái gì mà cậu bảo của đi thay người, vả lại tuy chuỗi hột vàng không đáng mấy nhưng có ba viên ngọc bích quý lắm. Phát gật đầu: - Có, tôi có biết ba viên ngọc ấy. Mà hiện thời, toàn cõi Việt Nam không chắc có lấy được một viên nào nước ngọc đẹp được giống như thế nữa. Chị Tham Lượng gật đầu: - Tôi không nói ngoa đâu, thực như thế đó, và ba viên ngọc ấy là do của ông cụ Tổ nhà tôi để lại, nguyên cụ ngày xưa làm quan ngự y trong nội, chữa khỏi được bệnh cho vua gì gì đấy, nên vua mới ban cho ba viên ngọc ấy. Tôi hỏi: - Chị đã trình Sở Mật thám chưa? - Chưa, vì nhà tôi bảo: đừng trình vội, hãy nhờ anh Phát tra xét xem thế nào đã! Kỳ Phát mỉm cười: - Vậy có lẽ anh Tham tôi tin cái tài tôi hơn Sở Liêm phóng đấy nhỉ? Anh Tham Lượng gật đầu: - Cái đó thì đã hẳn, chẳng thế tôi lại tìm anh trước! Phát cũng gật đầu; nhưng mỉm cười một cách hoài nghi. Rồi Phát bảo Tham Lượng: - Nào, bây giờ anh chị hãy kể cho tôi nghe chuyện mất chuỗi hột ấy thế nào? Tham Lượng nói: - Không có gì rắc rối cả, anh ạ, nghĩa là chuỗi hột ngọc ấy nhà tôi để trong két rồi sáng hôm sau, mở két ra, thấy mất. Phát hỏi: - Khóa vẫn y nguyên chứ? Tham Lượng gật đầu: - Vẫn y nguyên, đó mới là một điều lạ! - Nếu chỉ có đúng như lời anh kể mà mất được thì cũng lạ thực đấy, nhưng tôi chắc rằng không phải chỉ có thế thôi đâu! Tham Lượng quay lại bảo vợ, hình như muốn lấy vợ làm chứng cho lời nói của mình: - Mợ nhỉ, câu chuyện chỉ có thế; có lạ, tôi mới phải mời anh lại chứ! Kỳ Phát nghiêm sắc mặt lại bảo vợ Tham Lượng rằng: - Vụ trộm đã xẩy ra lâu rồi, khám xét vết tích bây giờ rất khó vì dù có vết tay chăng nữa, thì anh chị cũng đã làm nhòe mất cả rồi. Vậy chỉ còn có một cách hy vọng để lấy lại chiếc chuỗi hột ấy là chị hãy kể hết sức minh bạch những việc đã xẩy ra, như vậy thì tôi mới có thể mong tìm ra thủ phạm. Chị Tham vội nói: - Khốn nạn, thì nào tôi có giấu gì đâu, đã định giấu thì còn mời anh lại đây làm gì? Kỳ Phát gật đầu: - Không, nghĩa là tôi nói trước vậy mà thôi, nào, chị hãy kể lại thực tường tận cho tôi nghe đi. Chị còn thấy chuỗi hột ấy lần cuối cùng vào lúc nào? Chị Tham Lượng nói: - Anh để tôi nói rõ ràng anh nghe. Nguyên hôm kia, nghĩa là hôm thứ bẩy, tôi và nhà tôi đi xem hát tại Nhà hát lớn. Tôi định đeo chuỗi hột đi thì nhà tôi bảo nên để ở nhà, vì ở đấy đông nhỡ ra chen nhau, đứt mất thì sao. Thực là tại nhà tôi, chứ nếu đeo đi thì có lẽ lại không bị mất! Tham Lượng cãi: - Phải, bây giờ nói thế nào chẳng được, nghĩa là số đã mất của thì trăm đường tránh cũng không thoát được. Chị Tham gật đầu: - Cậu thì chỉ cho tại số, sao ngày thường thì cậu ghét số mệnh thế? - Ấy bây giờ tôi mới nhận ra rằng mọi sự ở đời quả có số thực! Kỳ Phát ngắt lời hỏi: - Chị không đeo chuỗi hột đi đêm hôm ấy, vậy để ở nhà thì cất vào đâu? - Tính tôi vốn cẩn thận nên bỏ chuỗi hột vào chiếc két kia. Phát nhìn theo tay chỉ, thấy chiếc két sắt kiểu lớn, ba ổ khóa. Phát gật đầu lẩm bẩm điều gì không rõ, giây lát mới hỏi tiếp: - Chị có khóa két lại chứ? - Vâng, chính tay tôi khóa lại cẩn thận. - Mấy giờ chị đi xem? - Lúc ấy vào quãng 8 giờ rưỡi. Phát cười mà hỏi rằng: - Chắc chị không quên mang chìa khóa đi. Chị Tham Lượng cũng cười: - Anh nói mới lẩn thẩn, có mỗi cái két mà lại quên không mang chìa khóa đi thì lạ thực, bao giờ chìa tôi cũng giữ, nhưng vì hôm ấy mặc bộ áo vải “phin” mỏng quá, nên sợ rách túi tôi giao cho nhà tôi giữ. Phát vẫn cười quay hỏi Tham Lượng: - Còn anh, hẳn anh cũng nhớ mang theo, tôi chỉ lo anh đãng trí lại để quên ở nhà thôi! Tham Lượng lắc đầu: - Không, lúc ra khỏi nhà, nhà tôi mới đưa chìa khóa cho tôi, mà lúc về thì tôi lại trao trả nhà tôi ngay. Phát có vẻ nghĩ ngợi, sau bỗng nói lẩm bẩm: - Quái lạ, hôm ấy, tôi cũng có đi xem sao lúc tôi nhìn thấy chị thì lại không thấy anh đâu: tôi lại cứ yên trí rằng chỉ có một mình chị đi xem thôi, còn anh ấy không đi vì bận việc! Chị Tham Lượng hỏi: - Có phải anh nhìn thấy tôi lúc “giờ tạm nghỉ” không? Kỳ Phát gật đầu: - Vâng, đúng đó, chắc lúc ấy anh Tham ra ngoài hàng hiên hút thuốc. Tham Lượng lắc đầu: - Không, lúc đó tôi có tí việc phải về nhà… Tôi quên chưa lấy cái thư bỏ vào thùng, cái thư cần gửi để nhà dây thép cho đi chuyến sáng sớm mai! Phát nhìn thẳng vào mặt Tham Lượng rồi đột ngột hỏi: - Anh về tận nhà Bưu điện bỏ thư thì kịp về xem lúc mở màn sao được? Tham Lượng lắc đầu: - Không, tôi bỏ ngay chỗ hòm thư đầu phố! Chị Tham Lượng nói: - Ấy bỏ ngay đầu phố, thế mà cũng mất xem một đoạn vì quá được chốc lát thì nhà tôi mới về kịp. Rồi chị Tham lại cười: - Ấy vì vội vàng vậy, vội đến nỗi trượt chân ngã lấm cả quần, đây này anh xem. Phát nhìn theo tay chỉ, rồi chàng đứng dậy hỏi: - Bộ quần áo này như mới may đấy chứ, sao mới mà anh mặc không giữ gìn nên chóng hại quá. Phát lại về chỗ ngồi, rồi hỏi tiếp: - Anh đi bộ hay sao mà đến nỗi ngã? Tham Lượng lắc đầu: - Không, tôi đi xe nhưng vì lúc vội bước xuống, vướng quần phải bánh xe. Phát gật đầu: - Phải, chẳng thế người ta lại chẳng có câu ví: “Đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá mà quàng phải gai”. Tôi thấy Phát cứ đùa hoài khó chịu quá, bảo: - Gớm, anh cứ bông đùa thế thì tra xét thế nào được. Kỳ Phát nhìn tôi rồi cười mà rằng: - Nào tới tra xét, vậy chị biết mất chuỗi hột hồi lúc nào? Chị Tham Lượng nói: - Tôi biết mất ngay từ sáng sớm hôm sau. Lúc mở két ra thì chuỗi hột đã không cánh mà bay. Kỳ Phát lại hỏi: - Ngoài chuỗi hột ra chị có mất gì nữa không? - Không, vả lại tiền thì tôi để trong ngăn kéo ở trong tủ, muốn mở lại phải dùng chìa khóa nữa. Kỳ Phát hỏi: - Vậy chị có nghi ngờ cho ai trong nhà này không? - Không, vả lại trong nhà hôm ấy thì chỉ có thằng xe ở nhà mà thôi. Con sen mới xin về hôm trước. Kỳ Phát hỏi: - Có lẽ là thằng xe lấy? Tham Lượng lắc đầu: - Không, thằng xe này ở đã lâu, vả lại tôi biết nó là người thực thà cẩn thận. Tôi nói một câu hoài nghi: - Ở đời không biết đâu mà lường được. Nhiều khi mình tin cậy hết sức mà lại gian giảo không chừng! Kỳ Phát gật đầu bảo: - Phải, anh nói đúng, chúng mình không còn tin ai hết. Thì ta hãy thử hỏi thằng xe! CHƯƠNG 3 THẰNG XE KHẢ NGHI Chị Tham Lượng gọi thằng xe ra. Phát nhìn nó như thôi miên vậy, rồi bỗng hỏi rằng: - Thế nào, anh không lấy chuỗi hột ngọc chớ? Thằng xe thưa: - Thưa ông, con không dám ạ. Vả có muốn lấy cũng không được. Chuỗi hột ấy bà con bỏ vào trong két. Kỳ Phát gật đầu: - Có, ta biết, nhưng trong lúc ông bà đi xem thì anh không đi đâu chứ? - Thưa ông, con ở nhà không đi đâu hết. Kỳ Phát lại hỏi tiếp luôn: - Thế có ai vào trong nhà lúc ông đi vắng không? - Thưa ông, không ạ, vì con ở trong bếp. - Lúc ông về thì anh ở đâu? - Lúc ấy con ở ngoài cửa, ông con về, con chạy vào trong nhà thì vừa sôi nước, con pha chè mới cho ông con uống rồi ông con lại đi ngay. Kỳ Phát hỏi: - Ông về vội lắm phải không anh? - Vâng, ông con về một cái lại đi ngay. Tham Lượng cười: - Chẳng vội lại ngã lấm quần. Rồi Tham Lượng lại bảo Kỳ Phát: - Ngay hôm thấy mất chuỗi hột tôi cũng gọi nó lại hỏi luôn nó cũng trả lời như vừa nói với anh lúc nẫy. Vụ trộm này tôi không còn hiểu ra sao cả. Thực là bí ẩn. Tôi hỏi Phát: - Thế nào? Anh đã thấy manh mối chưa? Phát lắc đầu: - Chưa nhưng chắc cũng phải tìm ra. À, nhưng chị Tham, tôi mà tìm ra chuỗi hột ngọc thì chị thưởng cho tôi gì nào? Chị Tham cười mà rằng: - Chưa chi đã đòi công, thì tùy đấy, muốn lấy công gì cũng được. Phát gật đầu: - Nghĩa là thế này thôi vậy, mất lòng trước hơn được lòng sau, hễ mà tôi tìm ra thì trước hết chị phải cho tôi đi hát với anh Tham một đêm. Tôi cười: - Thế còn tôi anh quên à? - Ừ, hát với cả anh nữa, rồi hôm sau thì chị làm một bữa tiệc đãi tôi, ăn uống tráng miệng xong đâu đấy, tôi sẽ đưa chuỗi hột giả lại. Chị có bằng lòng như thế không? Chị Tham cười: - Vâng, ông muốn gì cũng được. Miễn là ông tìm được lại cho tôi chuỗi hột. Kỳ Phát đứng dậy bảo: - Thôi, chúng tôi không muốn ăn cơm hôm nay đâu, chị đừng bảo nó làm nhé! Chị Tham Lượng không nghe bảo: - Không, ai lại thế, các anh ăn cơm với chúng tôi cả cho vui, tôi đã bảo nó làm cơm rồi. Phát lắc đầu: - Tôi không tin lời chị được. - Thật đấy anh ạ, chẳng tin thì anh vào mà xem. Kỳ Phát vào xem thực, chàng chạy thẳng vào bếp rồi cười mà rằng: - Nào cơm đã thổi đâu, chị chỉ khéo nói. Phát nói tiếp: - Trong nhà này thế mà nhiều chỗ giấu tốt đáo để. Nói một câu không có liên lạc gì cả, thế rồi Phát lại bảo khẽ tôi: - Thôi chúng ta về, ở lại đây vô ích, vả lại tôi còn muốn thử lại xem những lời tôi đoán có đúng hay không. Phát nói như vậy nên mặc dầu cho vợ chồng anh Tham Lượng giữ thế nào, Phát cũng nhất định trở về. Lúc ngồi xe về nhà, tôi hỏi Phát: - Thế nào, anh nhận xét thấy những gì rồi? Phát cười, bảo tôi rằng: - Anh này lạ nhỉ, đáng lẽ phải chính tôi hỏi anh câu ấy mới phải chứ, vì anh đã quên rồi sao? Lúc ở nhà đi tôi đã bảo anh phải nghĩ. Tôi gật đầu: - Có, tôi đã nghĩ rồi. - Vậy anh nhận thấy thế nào? - Tôi chỉ biết có thằng xe ăn cắp. Phát gật đầu: - Anh khá đấy, nhưng tại sao anh lại đoán thằng xe ăn cắp. Tôi thấy Phát khen, cũng hơi có chút tự đắc, ung dung cắt nghĩa: - Thì trong nhà chỉ có ba người: anh Tham Lượng, chị Tham Lượng và thằng xe. Lẽ tất nhiên chị Tham Lượng không ăn cắp của chị ấy, anh Tham Lượng cũng không ăn cắp nốt, chỉ còn có thằng xe. Phát nhìn tôi nói: - Chỉ có thế mà anh đoán rằng thằng xe ăn cắp? Tôi gật đầu. Kỳ Phát vỗ vai tôi bảo: - Vậy ra anh thực là… một thằng ngốc! Tôi vẫn chắc ở cái lý của tôi nên cãi: - Có anh là thằng ngốc. Tôi hãy hỏi: vậy không phải thằng xe ăn cắp thì ai? Phát điềm tĩnh bảo: - Tôi bảo anh là thằng ngốc là vì theo luận lý giản tiện mơ hồ như thế, mà anh dám kết luận như thế thực là ngốc. Tôi có thể cũng theo cách luận lý của anh, nhưng thằng xe là một người cả hai vợ chồng anh Tham cùng tin cẩn, vả lại nó không có chìa khóa giả mà mở két (một chiếc két sắt chẳng phải rằng bất cứ chìa khóa giả nào cũng mở được). Vậy thằng xe không thể là thủ phạm. Rồi Phát cười: - Theo cách lý luận thì có lẽ thủ phạm là… anh hay tôi ấy. Tôi khó chịu lắm, gắt: - Sao lúc nào anh cũng đùa như vậy? Tôi hỏi thực, anh đã tra ra rồi chứ? Phát gật đầu: - Đã, thủ phạm là thằng xe! Tôi lại càng tức: - Vậy anh có hơn gì tôi? - Có chứ, vì tôi không luận lý một cách mơ hồ như anh. - Thế anh bảo nó lấy vào lúc nào? - Lấy lúc tạm nghỉ ở Nhà hát lớn, lấy lúc Tham Lượng về lấy phong thư. Tôi muốn hỏi thêm nữa nhưng Kỳ Phát đã giục: - Anh đã đói chưa? Chúng ta đi hiệu ăn. Về vấn đề ăn uống thì tôi với Kỳ Phát bao giờ cũng đồng ý nhau. Chúng tôi đã ăn xong, lúc uống nước, tôi lại hỏi: - Thế nào, anh đã tìm ra thủ phạm, vậy còn đợi gì mà không lấy lại chuỗi hột ngọc? Phát nhìn tôi: - Nghe chừng anh nóng đi hát lắm có phải không? Tôi lắc đầu: - Không, nhưng tôi nóng muốn biết kết quả ra sao. Phát không trả lời câu tôi nói, bỗng hỏi: - Thường thì giờ tạm nghỉ ở nhà hát bao lâu nhỉ? - Chừng mươi, mười lăm phút. Nhưng gánh Tân Kịch Đoàn diễn hôm ấy thì lệ bao giờ cũng nghỉ mười lăm phút. Phát lại hỏi: - Anh có đồng hồ đấy chứ? Tôi gật đầu, Phát gọi hầu sang thu tiền, rồi ra khỏi hiệu hỏi tôi: - Đâu đồng hồ của anh đâu? Tôi lấy đưa cho Kỳ Phát, chàng sung sướng bảo: - May quá, lại có thể tính được từng giây. Phát lại gọi xe, tôi hỏi: - Đi đâu? Phát không trả lời, bảo phu xe: - Nhà hát đấy! Rồi suốt trong lúc ngồi xe, Phát để ý nghĩ ngợi tính toán không nói một lời nào. Tôi cũng không dám hỏi, một lát sau xe đến Nhà hát lớn, Phát cùng tôi đi vào một hiệu cho thuê xe đạp ở ngay cạnh nhà hát. Tôi hỏi: - Trời mưa, anh thuê xe đạp đi đâu? Phát không trả lời, đưa gửi giấy căn cước thuê một chiếc xe đạp biển sơn thẻ số. Chàng lật giở mấy tờ rồi nói: - Nhiều người thuê nhỉ, nhà hàng đại phát tài. Chủ nhà chép miệng: - Chẳng ăn thua gì ông ạ, chỉ đủ đóng thuế và vào đồ chữa là vừa. Phát dắt xe ra dặn tôi: - Bây giờ anh nhớ nhé. Chúng ta cùng về nhà anh Tham Lượng, anh đi xe tay tôi đi xe đạp. Anh thuê xe đi trước đi, tôi cũng đạp xe theo luôn. Anh sẽ đợi tôi ở nhà anh Tham Lượng. Nhưng mà không vào, anh cứ ngồi đợi tôi ở đấy, hễ Tham Lượng có hỏi thì anh bảo: Tôi đi đâu có chút việc, rồi cũng đến đó ngay. Phát lại dặn thêm: - Anh nhớ đừng có nói hở cho anh chị ấy biết một chuyện gì nhé! Và dựa xe chạy thục mạng. Tôi không hiểu ra sao cả nhưng cũng cứ làm theo lời Phát. Tôi lên xe tay, còn Phát thì cắm đầu mà đạp xe đạp. CHƯƠNG 4 MỘT THỦ PHẠM Khi xe tôi vừa đến nhà Tham Lượng thì đã thấy Phát gác xe đạp đứng đón ở nhà bên cạnh. Phát thấy tôi, xem đồng hồ rồi chẳng nói chẳng rằng lập tức lại nhẩy lên xe đạp. Tôi toan hỏi nhưng xe đạp của Phát đã vụt đi rồi. Tôi vào nhà anh Tham Lượng, anh chị ấy đều ngạc nhiên, vì không hiểu tôi đến có việc gì. Chị Tham thì trách: - Các anh khách sáo quá chừng, bảo ở lại ăn cơm lại từ chối đây đẩy. Tôi tìm cớ nói: - Không, quả chúng tôi về có việc cần, nếu không thì ăn cơm ở đây cũng như ở nhà, có gì mà ngại. Tham Lượng hỏi: - Kỳ Phát đâu? - Anh ấy đi có chút việc nhưng anh ấy cũng lại đây bây giờ. Chúng tôi mới nói được vài câu chuyện thì Kỳ Phát vào quần áo lấm bê lấm bết trông như một thằng ăn cắp chạy trốn cảnh sát vậy. Chị Tham Lượng ngạc nhiên hỏi: - Thế nào, anh đi đâu mà bẩn thỉu thế? Phát nhìn quần áo rồi trả lời: - Thực tôi khó nhọc vì chị đấy nhé, tôi đi bắt thủ phạm. - Thủ phạm nào? - Thủ phạm lấy chuỗi hột ngọc chứ còn ai nữa. Chị Tham ngạc nhiên hết sức hỏi: - Anh đã tìm ra rồi, vậy chuỗi hột đâu đưa đây tôi xem nào? Phát lắc đầu: - Đâu có dễ dàng thế được, chị quên lời hứa rồi hay sao, một chầu hát, một bữa tiệc. Anh Tham Lượng cười: - Người ta chưa trông thấy chuỗi hột đâu cả thì anh đã đòi trả công, anh hãy đưa chuỗi hột ra đã nào. Phát nhìn Tham Lượng rồi lắc đầu: - Không, tính tôi không thích cái lối hậu tạ ấy, vui chơi, chè chén đã rồi hãy hay. Chị Tham nửa tin nửa ngờ hỏi Kỳ Phát: - Anh đã tìm ra chuỗi hột rồi ư, anh nói thật đấy chứ? Kỳ Phát nói lại. Chị Tham Lượng gật đầu: - Nếu thế thì được, bao giờ anh muốn đi hát? Tôi cười: - Nhưng chị phải cho phép anh Tham đi mới được cơ. Tham Lượng cười: - Cái đó đã là lẽ cố nhiên, tôi sẽ thay mặt nhà tôi mà tiếp các anh. Chị Phát lườm chồng: - Tôi biết cậu rồi, chỉ tiện gió bẻ măng xong rồi lại còn ân huệ hão. Kỳ Phát bảo: - Thôi chị cứ mời chúng tôi xuống xóm tối hôm nay. Chị Tham Lượng hỏi: - Vậy bao giờ anh đưa tôi chuỗi hột? Kỳ Phát cười: - Chị này đến hay quên, chị còn nợ tôi bữa tiệc nữa cơ mà, vậy sáng mai tôi trở về ăn nhà chị đã, rồi xong đâu đấy… - Xong đâu đấy? - Xong đâu đấy tôi đưa trả chị chuỗi hột chớ còn làm sao nữa. Rồi Phát đứng dậy vỗ vai anh Tham Lượng mà bảo rằng: - Không may lại hóa may đấy nhé, có mất chuỗi hột thì anh mới có buổi được đi hát tự do hoàn toàn hôm nay chứ! Chị Tham lườm chồng: - Nhưng tôi chỉ muốn cậu đi đến một giờ đêm là cùng thôi đấy nhé. Tham Lượng cười giục tôi và Phát: - Thôi các anh đi đi, không có nhà tôi lại thu nghị định bây giờ; đứng thêm một chút nữa thì không khéo cái hạn một giờ lại thu chỉ còn mười một giờ thôi. Chúng tôi cùng cười rồi đi ra. Nhưng Phát bỗng quay lại bảo: - Anh chị cho tôi mượn mấy chiếc đĩa hát anh mới mua hôm nọ nhé. Tham Lượng gật đầu: - Anh đợi đấy rồi tôi lục cho. - Thôi anh bảo thằng xe nó đưa lại cho, tôi còn phải về đằng này đã. Lúc về đến nhà tôi hỏi Phát: - Thế nào, lúc nẫy anh đi lấy chuỗi hột thực đấy à? Kỳ Phát lắc đầu: - Anh bảo tôi lấy đâu mà chóng được thế? - Vậy anh chưa tìm thấy chuỗi hột? - Lẽ tất nhiên là chưa. - Sao anh đã bảo chiều nay đi hát? - Phải, đi hát. - Nhưng rồi lấy đâu ra chuỗi hột mà trả chị ấy? - Đi hát rồi có chuỗi hột. Bỗng Phát quay lại hỏi tôi: - Anh có thấy tôi thích đi hát ả đào bao giờ không? Tôi gật đầu: - Phải, đó chính là điều tôi nghĩ ngợi mãi, ngày thường anh rất ghét đi hát mà sao lần này anh lại thích như vậy? Bỗng một ý nghĩ vụt đến trong óc tôi, tôi lẩm bẩm: - Hay là xuống ả đào để… Phát vội gạt đi: - Im, thủ phạm vào đây rồi. Cửa mở, thằng xe nhà anh Tham Lượng mang mấy chiếc đĩa hát vào, nó để lên bàn rồi toan đi ra, nhưng Phát gọi giật lại: - Xe, anh hãy vào đây tôi bảo đã. Thằng xe đã luống cuống, nhưng Phát bảo: - Anh không có việc gì mà sợ, nhưng tại sao anh lại dám lấy chuỗi hột như vậy? Thằng xe vẫn chối. - Thưa ông, con có lấy đâu, lấy thế nào được, vì két khóa. Phát quắc mắt, nhẩy xổ ra, nắm lấy hai vai nó, nhìn vào tận mặt, rồi cười gằn nói dằn từng tiếng: - Con dại lắm, con ạ, bây giờ không phải là lúc nói dối quanh nữa. Thằng xe vẫn chối: - Thưa ông oan con, tủ két khóa, con lấy thế nào được. Phát lắc đầu: - Bất tất anh phải dối tôi, tủ két mở nên anh mới lấy được! Rồi Phát vẫn nhìn chằm chằm vào mặt thằng xe, nói nhanh: - Ta biết hết cả rồi, anh giấu nữa cũng vô ích; sau khi ông Tham về, anh tình cờ thấy tủ két mở, anh lấy chuỗi hột ngọc vì anh không thấy có tiền nong nào để ngoài nữa. Anh lấy xong rồi, anh mang giấu vào trong bếp chỗ chiếc chạn bát, góc bên trái. Tôi biết hết cả rồi. Anh giấu nữa cũng vô ích, vậy anh muốn ngồi tù hay được tôi tha cho? Thằng xe luống cuống, sau đành van lạy: - Thưa ông xin ông thương cho con được nhờ, quả thật con không có ý lấy trộm chuỗi hột ngọc nhưng vì lúc ấy tủ két mở… Kỳ Phát gật đầu: - Ta biết, thôi bây giờ anh muốn yên lành thì về lấy chuỗi hột mang lại đây rồi tôi sẽ có cách cho anh được thoát nạn nhà pha. Thằng xe ngần ngại: - Thưa ông, con về lấy bây giờ thì thế nào cũng bị bắt mất, vì chính lúc nẫy con thấy bà nhìn con hình như có ý nghi ngờ lắm. Kỳ Phát lắc đầu: - Thế chẳng qua là anh có tật giật mình đó thôi, nhưng tôi đã có cách này, anh không phải ngại gì cả. Bây giờ tôi viết cho anh một cái giấy hỏi mượn cái máy hát của ông bà anh, vì máy của tôi đứt rồi. Rồi anh bỏ chuỗi hột vào trong máy mà mang lại tôi, như thế anh không sợ ai nghi ngờ gì cả. Thằng xe vâng dạ đi rồi, tôi quay lại bảo Phát rằng: - Thế thì anh hơn gì tôi, có phải ngay thoạt kỳ thủy tôi cũng đoán ngay ra thủ phạm chính là thằng xe. - Nhưng anh đoán một cách ngu ngốc. Tôi bực mình: - Phải, ngu ngốc, nhưng kết quả thì cũng tìm ra chuỗi hột ngọc như anh chứ gì, Mà tôi lại không cần phải bẩn một bộ quần áo vô ích như anh. Kỳ Phát nhìn tôi: - Anh phải biết rằng có làm khó nhọc thế thì mới ăn xuôi chầu hát và bữa tiệc chớ, vả lại có thế thì mới gỡ tội được cho thằng xe nữa. Tôi gật đầu, Phát bỗng quắc mắt nhìn tôi rồi cười gằn mà bảo rằng: - Vậy anh tin thực thế ư? Anh tầm thường thực, anh phải biết nếu cứ tra ra thủ phạm một cách ngốc như anh thì có cái hại vô chừng… - Thằng xe bị bắt mà anh bảo là hại ư? Nó ăn cắp, tham lam, thì ngồi tù, công bình lắm rồi, còn gì nữa. Phát nghiêm sắc mặt bảo tôi: - Anh không biết đó thôi, nếu mà cứ làm như anh thì có tai hại lớn. Anh dễ được trông thấy hạnh phúc một gia đình tan nát vì anh, tôi hãy hỏi, thà mất chuỗi hột hơn hay là mất cả hạnh phúc trong nhà? Tôi không hiểu Phát nói những gì đành bảo: - Anh cắt nghĩa rõ ràng cho tôi hiểu. Phát lắc đầu: - Không, xong công việc đâu vào đấy tôi sẽ kể cho anh nghe, hiện giờ thì chưa thể được. Cửa mở, thằng xe bưng chiếc máy hát vào. Nó trông trước trông sau rồi mở máy hát ra, cầm chuỗi hột ngọc đưa cho Phát. Kỳ Phát gật đầu, đưa chuỗi hột cho tôi rồi hỏi thằng xe rằng: - Quê anh ở vùng nào nhỉ? - Thưa con ở Thái Bình. - Thế thì được rồi, anh còn bao nhiêu công tháng ở nhà ông Tham chưa lĩnh? - Thưa ông con còn ba đồng. Kỳ Phát móc ví, đưa cho thằng xe 3 đồng rồi bảo rằng: - Đây, tôi cho anh ba đồng, vậy tôi hẹn cho anh ngày mai lúc nào tôi ăn uống xong xuôi, bảo anh đi mua nước đá thì lúc ấy anh nên về nhà quê ngay, không nên chậm một phút nào nữa, chậm trễ, anh mà bị bắt thì cái đó là tại anh, tôi không biết. Thằng xe vâng dạ đi rồi, Kỳ Phát lắc đầu mà bảo rằng: - Ấy con người ta lương thiện hay không chỉ là vì chưa trông thấy cái tủ két mở lúc có người hay vắng người đó thôi! Tôi bảo: - Thôi, bây giờ anh cắt nghĩa cho tôi nghe đi. - Không, tôi đã bảo anh là lúc nào công việc xong xuôi đã cơ mà! - Chuỗi hột đã lấy được rồi, thế là công việc xong chớ còn gì? Phát lắc đầu: - Không, chưa xong đâu, anh ạ, mà chuỗi hột anh có nhận thấy gì không? - Tôi không thấy gì cả. Kỳ Phát lắc đầu: - Anh thì chẳng có thấy gì bao giờ hết, thôi anh đưa chuỗi hột cho tôi. CHƯƠNG 5 HAI THỦ PHẠM Hôm đó chúng tôi lại nhà anh Tham Lượng, chúng tôi đi hát theo đúng chương trình đã định. Nước rồi, trống rồi, anh Tham Lượng ngoảnh nhìn đồng hồ thấy một giờ mười lăm bèn đứng lên bảo chúng tôi: - Các anh ngủ lại đây, tôi về nhé! Kỳ Phát cười: - Gớm anh Tham nhớ hạn của chị ấy thế. Anh Tham gật đầu: - Phải, về không có lại điếc tai hàng xóm. Rồi sau khi chi chầu hát, anh Tham còn dùng dằng nói chuyện với người yêu của anh ấy, vì chúng tôi lúc chưa đi hát cũng đoán biết thế nào anh ấy cũng đưa xuống nhà đào Phụng, nhân tình anh ấy. Thôi thì anh chị hẹn ngày xuống, hỏi nhau rằng yêu như thế nào, nghĩa là đủ thứ chuyện của những cặp tình nhân thực lòng yêu nhau hay không thực lòng yêu nhau cũng vậy. Tham Lượng về rồi, Kỳ Phát chỉ toàn nói chuyện với đào Phụng. Rồi họ tán nhau, đùa nhau, đến nỗi tôi phải thấy chướng mắt gọi Phát ra mà bảo rằng: - Tôi không hiểu anh nghĩ thế nào đấy, hôm nay anh Tham Lượng mời anh đi hát, lúc anh ấy về anh lại xoay ra tán ngay nhân tình của anh ấy. Phát hết sức trơ, gật đầu: - Tôi tán, rồi sao nữa? Tôi đã cáu: - Rồi có lẽ đêm nay anh bắt Phụng quạt màn cho anh ngủ? Phát gật đầu, vẫn điềm tĩnh như thường: - Cái đó là lẽ cố nhiên rồi, rồi sao nữa? Tôi không thể nhịn được: - Rồi anh là một thằng đểu chớ sao. Phát lắc đầu, nhìn tôi thương hại. - Vậy anh tưởng rằng Phụng thực yêu Lượng lắm sao? - Không, ả đào thì họ chung tình quái gì, nhưng ta là bạn của Lượng xuống hát, vậy anh cư xử như vậy thì tôi không bằng lòng chút nào cả. Phát lắc đầu: - Anh câu nệ quá sức, Phụng trong khi chưa được Lượng chuộc về, thì ngoài còn là vật sở hữu của quan viên, tôi cũng là quan viên, lẽ tất nhiên là tôi được hưởng mọi quyền lợi của quan viên. Mặc cho Phát nói thế nào thì tôi vẫn bất phục cái thái độ ấy. Nhưng Phát vẫn cứ như thường, vẫn tán riết Phụng, rồi cũng như lời tôi đã nói, cùng Phụng vào màn nói chuyện. Sáng hôm sau, Phát đã dậy gọi tôi mà bảo: - Nào, chúng ta đi về thôi chứ, về để sắp mồm ra mà ăn uống. Không hiểu sao lúc này tôi thấy Kỳ Phát tầm thường lạ. Ngồi xe Phát bỗng móc túi rồi lẩm bẩm. - Chuỗi hột mà bỏ quên ở nhà ả đào, ăn uống xong không có gì đưa trả chị Lượng thì khó sống. Phát cầm chuỗi hột đưa lại sát mặt tôi hỏi: - Thế nào, anh nhận thấy gì không? Tôi vẫn không thấy gì lạ, lắc đầu. Kỳ Phát bỏ chuỗi hột vào túi rồi lại nói: - Phải, anh thì còn nhận thấy gì nữa. Về nhà chị Tham Lượng, Phát ung dung nói chuyện, nhưng không hề nhắc gì đến chuỗi hột cả. Có một lần chị Tham hỏi nhưng Phát gạt đi: - Chị hãy cho chúng tôi ăn đã nào. Bữa tiệc hôm đó sang thực là sang nhưng chúng tôi, nghĩa là vợ chồng anh Tham và tôi chỉ ăn có chừng, vì chúng tôi đều đợi. Chỉ có mình Phát là vừa ăn vừa sướng miệng lắm… Rồi tiệc tan… Ăn tráng miệng rồi mà Phát chưa chịu đưa chuỗi hột ra. Rồi Phát bảo thằng xe đi mua đá để pha cốc nước cam quả. Tôi biết Phát còn đợi thằng xe đi thoát đã. Mười phút sau, Phát mới ung dung nghiêm trọng mà bảo chị Tham Lượng rằng: - Chị đã cho chúng tôi đi hát, chị đã cho chúng tôi dự bữa tiệc ngon lành, bây giờ, trước tôi hãy xin cảm ơn chị và cả anh Tham nữa, rồi tôi xin giữ đúng lời hứa hoàn lại chị chuỗi hột ngọc. Vừa nói Kỳ Phát vừa đưa chuỗi ngọc quý ra. Chị Tham vội vàng cầm lấy, sung sướng bảo: - Anh Kỳ Phát, vậy ra anh giỏi thực, anh đã tìm lấy lại được chuỗi hột thực. Nhưng thủ phạm là ai hở anh? Kỳ Phát ngạo nghễ nhìn tôi: - Thủ phạm thì chính anh bạn tôi đây tìm thấy đầu tiên, chính thằng xe ăn cắp. Chị Tham cau mặt: - Thằng khốn nạn, vậy ra không thể tin ai thực, được rồi mày sẽ ngồi tù, thằng khốn nạn. Phát lắc đầu: - Chị bất tất phải tức giận, nó không còn về đây nữa đâu, nó trốn đi rồi. - Sao anh không bắt nó lại? - Không, vì chính tôi cho nó trốn thoát, chính tôi đã dung cho nó không bị tù, mà nó đã đưa trả chuỗi hột ngọc. Anh Tham Lượng cười nhạt: - Vậy ra anh phúc đức lắm nhỉ. Phát nhìn thẳng vào mặt Lượng gật đầu: - Phải, tôi phúc đức lắm, mà phúc đức với hết thẩy mọi người. Tham Lượng vẫn mỉm cười một cách nhạo báng mà nói rằng: - Anh Kỳ Phát, anh thực là một người giỏi, anh đã tìm ra chuỗi hột ngọc, anh đã giúp chúng tôi một việc lớn. Phát mân mê chuỗi hột rồi gật đầu nhắc lại câu hỏi của Lượng: - Phải, tôi đã tìm được chuỗi hột, tôi đã giúp anh được một việc lớn, phải anh cũng thấy đấy chứ gì! Tôi đã tìm được chuỗi hột! Tham Lượng nghe giọng nói của Phát, nhìn vào chuỗi hột rồi bỗng xám mặt, giọng nói run run: - Vậy ra anh tìm được chuỗi hột? Lúc về đến nhà Phát nhìn tôi cười: - Phải, tôi đã tìm thấy chuỗi hột thực, anh đã hiểu chưa? Tôi thì chưa hiểu được chút nào cả. Phát đánh diêm châm thuốc lá hút rồi gật đầu: - Anh không thể hiểu được thực, vì anh không chịu nghĩ như tôi. Tôi nhận thấy thế ngay khi có chiếc danh thiếp của anh Lượng. Tôi chợt nhớ ra, hỏi: - Nào, bây giờ thì anh hãy nói cho tôi biết anh nhận thấy ở cái danh thiếp ấy những gì? Phát móc trong túi ra chiếc danh thiếp đưa cho tôi xem lại, rồi cắt nghĩa: - Trước hết, anh hãy nhắc lại cho tôi biết, anh đã nhận thấy gì lạ? - Tôi chỉ nhận thấy có một chỗ chữa, chữa thêm vào chữ “ngay”. Phát gật đầu: - Phải, đó là chỗ chữa, như thế không phải là tại sao anh Tham Lượng không cẩn thận. Đây anh thử đọc lại tấm thiếp: “Anh Kỳ Phát, Nếu anh rỗi rãi, thì lại chơi tôi ngay. Tôi có một việc trộm thường, nhưng rất bí mật, nếu được anh tra xét giúp cho thì hay lắm. Thế nào anh cũng lại, và trời mưa thì anh xơi cơm luôn thể ở đằng tôi cho vui. Anh lại ngay. Tham Lượng” Kỳ Phát lại nói tiếp: - Anh là một nhà văn, sao lại không thấy lời trong thiếp phản trái nhau ư? Này nhé: “nếu anh rỗi rãi” sao lại “thì lại chơi tôi ngay”. Tôi đoán thấy lúc anh Tham Lượng viết thiếp mời thì chị ấy đứng ngay ở bên cạnh. Chính chị ấy bảo chồng viết thêm chữ “ngay” vào. Rồi lại: “Việc trộm thường, rất bí mật” đã “thường” lại còn “rất bí mật” đủ hiểu khi viết thiếp, chị ấy muốn mời tôi lại lắm, còn anh ấy thì… không muốn! Hai câu sau là lời chị ấy đọc, nên mới có ý khẩn khoản như vậy. Tôi ngẩn người, nghĩ ngợi. - Ừ nhỉ, tại sao anh Tham Lượng lại không muốn anh đến tra xét? Kỳ Phát nhìn thẳng vào tôi rồi cả cười: - Có gì là khó hiểu: Vì anh ấy chính là thủ phạm! Anh để nguyên tôi kể lại “vụ trộm thường mà rất bí mật” ấy có đầu đuôi để anh nghe: Anh Tham Lượng vốn là một người sợ vợ, nhưng anh ấy lại si tình. Anh ấy đi hát, mê đào Phụng quá thể, mà đào Phụng cũng ác, lại cứ một mực đòi anh ấy chuỗi hột, chuỗi hột có ba viên ngọc bích. Lượng khó nghĩ quá, vì những hột vàng có thể mua đánh cho Phụng được, nhưng ba viên ngọc quý thì lấy đâu ra. Bởi vậy cho nên muốn được lòng người yêu, lại không rắc rối với vợ, Lương nghĩ cách thuê thợ kim hoàn làm một chuỗi hột giả, giống như in chuỗi thực, nghĩa là chỉ có ba viên ngọc bích là giả mà thôi. Rồi Lượng đợi cơ hội để đánh tráo lấy chuỗi hột của vợ. Thì cơ hội ấy đã đến. Hôm đi xem hát Lượng khuyên vợ để chuỗi hột ấy ở nhà rồi trong giờ nghỉ, về mở két, đổi lấy chuỗi thực. Tôi ngắt lời Kỳ Phát: - Nhưng tại sao anh biết thế? Kỳ Phát mỉm cười: - Tôi biết là vì tôi thấy trong vụ trộm này có nhiều điều trái ngược nhau lắm. Ví dụ như việc về nhà bỏ thư. Tôi ngờ vực nên thử lại thì hôm qua tôi đã nhận thấy rõ ràng rằng: Nếu người ta đi xe mà về nhà, như anh đi hôm qua thì một lượt xe mất những 9 phút, hai lần đi về mất 18 phút, không kể còn rẽ vào bỏ thư, còn thuê xe, còn gọi cửa ở nhà. Nghĩa là ít nhất cũng phải mất 25 phút, hay hơn thế nữa. Vậy mà Lượng về nhà chỉ mất có 15, 16 phút thôi. Chẳng lẽ chạy, mà chạy cũng chẳng nhanh hơn xe kéo là mấy, do đó, tôi biết Lượng chỉ có một cách là thuê xe đạp, tôi sực nhớ ngay đến hiệu xe đạp ở cạnh nhà hát. Cũng như anh đã biết tôi thuê xe, lại giở sổ tìm ngày hôm thứ bẩy, quả nhiên có chữ anh Lượng viết thuê xe lúc 10 giờ rưỡi. Nhưng anh ấy đi đâu? Đó là một điều cần phải biết. Tôi để ý thấy quần anh ấy có lấm đất sét, tôi biết ngay là anh ấy đi xuống xóm chị em lầy lội. Tôi gật đầu. - Thôi, bây giờ thì tôi hiểu lắm rồi. Anh Tham Lượng đạp vội xe về nhà, rồi mở két thay chuỗi hột giả vào đấy, rồi vội đi nên không kịp khóa két lại nữa. Xong đâu đấy, anh xuống luôn xóm dưới, trao chuỗi hột thực cho Phụng rồi về Nhà hát lớn. Thằng xe tình cờ thấy két mở, lấy luôn chuỗi hột giả kia. Kỳ Phát gật đầu: - Đã đoán ra được nên tôi chỉ còn có việc thử lại xem có đúng không thì quả nhiên đi bằng xe đạp, tôi cũng mất vừa đúng hết 17 phút, cái thời gian mà Lượng đã vắng mặt tại Nhà hát lớn rồi trở lại sau khi mở màn diễn tiếp hồi sau. Vậy tôi chỉ còn có một việc rất dễ dàng là trả lại cho chị Tham Lượng chuỗi hột thực, chuỗi hột mà đêm qua tôi đã tráo lại của đào Phụng! Tới đây, Kỳ Phát ngừng lại mà hỏi tôi: - Bây giờ thì anh hết cho tôi là một thằng đểu rồi chứ? Tôi cười, gật đầu. Phát vỗ vai tôi, nói tiếp: - Còn anh thì vẫn - nguyên là một thằng ngốc như thường, vì nếu cứ luận lý như anh, thì sự thực lộ ra, liệu hạnh phúc gia đình nhà anh Tham Lượng có còn được toàn vẹn hay không? P H Ạ M C A O C Ủ N G CON MA CÂY VẢ Cái tính hiếu sát của hắn đã tỏ lộ rõ ràng hai bận: bận thứ nhất, khi hắn được tập bay-don-nét, đâm vào những thằng người rơm giả làm quân địch. Hắn tự nhiên thấy nóng mắt, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, và tưởng tượng ngay rằng những thằng người rơm đó là những kẻ bằng da, bằng thịt… Chính vì thế mà lưỡi bay-don nét nhọn hoắt và sáng loáng kia, hắn đâm phập vào một cách rất là sung sướng, hắn có lẽ còn sung sướng hơn nữa, khi rứt đầu nhọn ra, còn có những làn máu nóng phun theo. Chúng ta cũng nên công nhận cho hắn rằng trước đây, hắn không bao giờ ngờ mình lại có ý muốn “thích giết người” đến như vậy… Bận thứ hai là trong cuộc tập bắn. Mỗi phát súng của hắn trúng bia là hắn thấy trong lòng hồi hộp vô cùng, tưởng tượng ngay rằng hồng tâm ấy chính là trái tim một kẻ trúng đạn ngã xuống và giãy giụa trong vũng máu. Cũng may mà trường bắn lúc đó đông người, chứ không thì rất có thể hắn quay súng chếch đi, để nhắm bắn vào người bạn đồng ngũ đứng không xa bia mấy, cốt để hô to lên số điểm của người tập bắn trúng hay sai đích nhiều ít thế nào. Một người lính thường, có một bộ thần kinh lành mạnh, tất không bao giờ có những ý tưởng khát máu như hắn. Nhưng có lẽ ông thầy thuốc khi khám sức khỏe của hắn đã không lưu ý đến cái “bệnh tinh thần” kia nên hắn mới có thể khoác được lên người bộ quân phục và trong khi tập bắn và tập bay-don-nét mới có những ý nghĩ ghê gớm kia. Trong thời Đại chiến thứ nhất, mà các ông quyền thường gọi là thời la-ghe đít-nớp-săng-cà-cộ, cái đồn tiền tuyến này đóng sát ngay biên giới, ở một chỗ đèo heo hút gió, nhưng được cái không khí trong quân ngũ cũng không lấy gì làm buồn tẻ lắm. Vì ở đây, đã thu thập được một số người có rất nhiều nghề kỳ lạ: anh Vệ Choắt, trước đã đi theo gánh xiếc, có tài thổi kèn “bú dích” bằng dọc đu đủ và vận hơi trong bụng, nói được thành tiếng rõ ràng, nghe vẳng như tự đằng xa đưa lại trong khi hai môi anh không hề mấp máy một chút nào… Lại anh binh Thông, hãy còn ít tuổi mà đã bạc đầu - trước hình như đi hát tuồng trong một rạp nào ở ngõ Sầm Công hay Tạm Thương gì đó - trong lúc hứng chí vẫn ca những bài hát Nam hay hát Khách, với những bộ điệu ngẩn ngơ thì thực khó ai mà buồn với anh được! Lại cả anh Bếp Toóng-đơ nữa, trước có kiêm cả nghề thầy cúng thầy tướng, cung văn và kép nhà trò nên anh không bỏ lỡ một dịp nào mà không thi thố những sở trường… Anh em trong đồn săn được một con hoẵng, thế là anh lập tức tổ chức ngay một buổi tế… bà chúa rừng - có đủ cả bát âm, hát nhà tơ và múa bài bông nữa. Nhờ có bọn người vui tính này nên không khí trong cái đồn tiền """