"
Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II - Jaroslav Hašek & Bình Slavická (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Vận Mệnh Người Lính Tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới Tập I-II - Jaroslav Hašek & Bình Slavická (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
lời người dịch
V
ăn học hiện đại Séc nửa đầu thế kỷ XX có nhiều nhà văn nổi tiếng, nhưng nổi trội là bộ ba vĩ đại: Jaroslav Hašek (1883–1923), Franz Kafka (1883–1924) và Karel Čapek (1890–1938). Franz Kafka sáng tác bằng tiếng Đức, Jaroslav Hašek và Karel Čapek sáng tác bằng tiếng Séc. Franz Kafka và Karel Čapek là hai tác giả đã rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Còn bộ tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek là tác phẩm văn học Séc được chuyển ngữ nhiều nhất, tính đến năm 2013 đã được dịch sang 58 ngoại ngữ. Ngay từ khi tác phẩm ra đời và cho đến hiện nay, không chỉ ở Séc, mà cả ở nước ngoài, nó cũng còn được chuyển thể sang kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình và truyền thanh.
Giai đoạn văn học Séc đầu thế kỷ XX có bối cảnh lịch sử cũng như văn hóa sâu xa và phức tạp với đỉnh điểm là Đại chiến Thế giới I và sự sụp đổ của Đế quốc Áo–Hung. Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đặc biệt đầu thế kỷ XX, Đế quốc Áo–Hung đa dân tộc có tình hình chính trị không ổn định, nhà nước đã phải đối mặt với nhiều vấn đề chính trị và xã hội, đặc biệt là
vấn đề chính sách dân tộc mà chủ yếu là chính sách ngôn ngữ. Là thành viên quan trọng của Đế quốc Áo–Hung, Vương quốc Bohemia của người Séc luôn cố gắng yêu cầu được quyền tự trị về chính trị và văn hóa dân tộc, nhưng không bao giờ được đáp ứng. Mặc dù vậy, phần lớn những nhà lãnh đạo của Vương quốc Bohemia vẫn muốn gìn giữ nhà nước Áo–Hung với yêu cầu phải có thay đổi lớn trong chính sách dân tộc.
Sau vụ Thái tử của Đế quốc Áo–Hung, Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este, cùng phu nhân bị một người Serbia ám sát ở Sarajevo vào ngày 28/6/1914, Đế quốc Áo–Hung tuyên chiến với Serbia. Chiến tranh bùng nổ không chỉ trong phạm vi châu Âu, mà còn lan rộng ra thế giới. Nhà nước Áo–Hung ra lệnh tổng động viên trên toàn bộ lãnh thổ. Người Séc thể hiện
rõ thái độ chống chiến tranh, không muốn chiến đấu chống các dân tộc người Slav, nhiều lính Séc tình nguyện để bị bắt làm tù binh. Rất nhiều tù binh người Séc ở chiến trường Nga sau này tham gia lực lượng đội quân lê dương tình nguyện Séc.
Cuộc chiến tranh đẫm máu không kết thúc trong thời gian vài tháng như nhiều người đã tưởng, mà kéo dài đến tận tháng 11 năm 1918, gây tổn thất bao nhiêu sinh mạng, gây kiệt quệ cho Áo–Hung về nhiều mặt, mang lại kết cục thảm hại cho nhà nước quân chủ của triều đại Habsburg Lothringen. Đế quốc Áo–Hung sụp đổ, dẫn đến sự ra đời của Cộng hòa Tiệp Khắc (Séc & Slovakia), Cộng hòa Áo, Cộng hòa Hungary và một số nhà nước khác ở châu Âu.
Nhà báo, nhà văn Jaroslav Hašek đã sống và sáng tác trong giai đoạn lịch sử đầy biến động đó. Bậc thầy trào phúng Jaroslav Hašek, một tên tuổi rất đặc biệt trong lịch sử văn học hiện đại Séc, sinh ngày 30/4/1883 tại Praha, trong một gia đình nghèo theo Kitô giáo. Cha của ông là một thầy giáo dạy Toán và Vật lý ở một trường tiểu học Praha, mẹ làm nội trợ. Cả cha và mẹ ông đều là người quê ở vùng Nam Séc. Thủ phủ vùng Nam Séc, thành phố České Budějovice, và vùng lân cận là những địa danh được nhắc đến rất nhiều ở tác phẩm Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của ông. Bản thân Hašek khi nhập ngũ năm 1915 cũng được đưa tới doanh trại ở České Budějovice. Vùng Nam Séc là nơi gắn liền với tuổi thơ của Hašek, khi cậu cùng em trai thường được cha mẹ gửi về quê sống với ông bà ngoại, đặc biệt sau khi cậu bé Jaroslav mới bốn tuổi đã có biểu hiệu của bệnh yếu tim và tuyến giáp.
Ngay từ nhỏ, Hašek cùng em trai được cha mẹ dạy dỗ rất nghiêm khắc, nhưng ông lại là người có bản tính thích tự do không chịu theo khuôn khổ, thích lang thang, thích bia rượu cùng bè bạn, có một thời gian còn theo chủ nghĩa vô chính phủ, và suốt đời sống theo phong cách Bohemian. Hašek cũng rất thích ngao du, ông đã có nhiều chuyến đi chơi dài ngày, nhiều khi đi bộ, đến hầu hết những vùng thuộc phạm vi Đế quốc Áo–Hung và một số nơi khác của châu Âu. Những chuyến đi ấy đã mang lại cho ông nhiều trải nghiệm và cảm hứng trong sáng tác.
Năm 1894, Hafek vào học trung học phổ thông, nhưng sau khi cha mất năm 1896, Hašek chểnh mảng hơn và đến năm cuối cùng thì bỏ không học
nữa. Một thời gian sau đó ông giúp việc ở cửa hàng vệ sinh và mỹ phẩm, rồi theo nguyện vọng của mẹ, ông nhập học trường trung cấp thương mại Praha. Sau khi tốt nghiệp, Hašek vào làm việc ở Ngân hàng Bảo hiểm Slavia Praha. Nhưng chán cuộc sống nhàm tẻ của một viên chức, chỉ chưa đầy một năm, ông bỏ nghề và chuyển hẳn sang viết báo viết văn.
Năm 1910, vượt qua nhiều trở ngại và nhất là khi đã là biên tập viên của tạp chí Thế giới động vật, Hašek được phép kết hôn với Jarmila, tình yêu lớn của ông, con gái của một gia đình tiểu tư sản rất nền nếp ở Praha, người mà sau này cũng trở thành một nữ văn sĩ. Nhưng với phong cách sống của mình, Hašek không thể làm trụ cột gia đình, không thể làm người chồng tốt, người cha tốt được. Vì vậy, sau khi con trai họ ra đời vào năm 1912, Jarmila đem con về nhà cha mẹ đẻ, và từ đó gia đình họ không bao giờ đoàn tụ nữa, cho dù sau này họ coi nhau như những người bạn, thậm chí khi viết Vận mệnh người lính tốt Švejk, Hašek còn đọc cho Jarmila nghe những chương đầu. Sau khi Hašek qua đời, Jarmila đã viết: “Chương này nối chương kia, tôi bắt đầu ngưỡng mộ nghệ thuật của anh, người mà trước đây tôi từng yêu vì ánh nhìn tuyệt đẹp của anh đối với cuộc sống.”
Mốc quan trọng nữa trong cuộc đời Hašek là năm 1915, khi ông gia nhập quân đội Áo–Hung và bị đưa sang chiến trường Nga. Ông bị bắt làm tù binh, và cũng tại Nga, ông tham gia đội quân tình nguyện Séc & Slovakia (còn gọi là quân lê dương Séc & Slovakia) chống Đế quốc Áo–Hung. Sau đó, do bất đồng chính kiến, ông rời hàng ngũ quân lê dương Séc và chuyển sang cộng tác với Hồng quân Nga. Trong thời gian ở Nga, nhờ biết nhiều ngoại ngữ, ông đã làm việc như một biên tập viên, đặc biệt cho tờ Čechoslovan của người Séc & Slovakia tại Nga, phụ trách nhà in, làm trợ lí cho chỉ huy thành phố Bugulma. Công việc trong Hồng quân cũng đã đưa ông tới tận Siberia, tới thành phố Irkusk. Cuối năm 1920, Hašek trở về Praha, mang theo người vợ Nga tên là Šura.
Mùa thu năm 1921, Hašek cùng Šura chuyển về thành phố nhỏ mang tên Lipnice nad Sázavou (cách Praha 103 km về phía đông nam), một nơi yên tĩnh để Hašek có thể tập trung làm việc. Tại đây, ông tiếp tục viết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới. Nhưng cũng tại đây, sức khỏe của ông xấu đi trầm trọng do hậu quả của những năm tháng lang thang trước đó, của những cuộc say mèm, của khoảng thời gian khắc nghiệt
ở Nga, của bệnh tim từ nhỏ và cả bệnh thương hàn mắc phải ở Siberia. Cuối năm 1921, khi bị bỏng tay không viết được, ông đã thuê một thanh niên ở Lipnice làm thư ký, và đọc cho anh viết tiếp. Hằng ngày, cứ viết được bao nhiêu là họ gửi đến nhà xuất bản bấy nhiêu, chỉ giữ lại trang cuối để hôm sau biết tiếp tục từ chỗ nào. Nhưng do bệnh nặng, ngày 3/1/1923, ở tuổi chưa đầy bốn mươi, Jaroslav Hašek qua đời, để lại cuốn tiểu thuyết còn đang dang dở. Từ ý định ban đầu viết về Vận mệnh người lính tốt Švejk cho đến sau chiến tranh, ông dừng lại trước khi kết thúc tập IV⦾. Trong những trang cuối cùng ông đọc cho người thư ký có câu viết về cuộc gặp mặt của Švejk với người lính tình nguyện một năm là: “Anh vẫn chẳng thay đổi gì cả,” người lính tình nguyện một năm Marek nói. “Ừ, không thay đổi,” Švejk trả lời, “tôi đã không có thời gian để thay đổi.” Và cha đẻ của Švejk thì đã không còn thời gian để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng của mình.
---
Chưa đầy bốn mươi năm tuổi đời, nhưng Jaroslav Hašek đã có tới hai chục năm sáng tác. Trong suốt thời gian đó, ông đã viết tới 1.200 truyện ngắn, rất nhiều tiểu phẩm, bút ký và bài báo, đăng rải rác ở nhiều báo và tạp chí. Ông từng làm biên tập viên cho nhiều báo và tạp chí như tạp chí của tổ chức thanh niên tiến bộ Omladina, tạp chí của phong trào vô chính phủ Komuna, Đời sống động vật (Svět zvířat), hay Chân trời nữ giới (Ženský obzor), Tiếng Séc (České slovo) và thường xuyên viết bài cho các tờ như Báo dân tộc (Národní listy), Quyền lợi nhân dân (Právo lidu), Quyền lợi đỏ (Rudé právo), Hài hước (Humoristické listy), Châm biếm (Karikatury), Praha vui vẻ (Veselá Praha), v.v.
Phần lớn các sáng tác của Hašek được tuyển chọn và xuất bản sau khi ông qua đời, chỉ một số được xuất bản thành tập lúc sinh thời. Thí dụ cuốn sách xuất bản đầu tiên và là tập thơ duy nhất đăng cùng Domažlický Tiếng
kêu tháng Năm (Májové výkřiky, 1903), các tuyển tập Galerie châm biếm về các nhà chính trị và các vấn đề chính trị (Galerie karikatur, 1909, 1910), Những nỗi phiền muộn của ông Tenkrát (Trampoty pana Tenkráta, 1912), Cửa hàng chó của tôi và các truyện hài hước khác (Můj obchod se psy a
jiné humoresky, 1915), Ba người đàn ông với con cá mập và các truyện bổ ích khác (Tři muži se žralokem a jiné poučné historky, 1921), v.v… Đặc biệt, ông còn cho xuất bản Người lính tốt Švejk và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1912), Nguời lính tốt Švejk bị bắt làm tù binh (Dobrý voják Švejk v zajetí, 1917, xuất bản ở Kiev), Người lính tốt Švejk trước chiến tranh và các truyện kỳ lạ khác (Dobrý voják Švejk a jiné podivné historky, 1922), và tất nhiên, trọn vẹn ba tập đầu của tiểu thuyết Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové války, 1921–1922).
Từ Nga trở về Praha, Hašek đã bị nhiều người, kể cả bạn bè cũ, nói xấu và lẩn tránh. Người ta cho ông là kẻ phản bội đội quân lính lê dương Séc, vì ông đã tham gia Hồng quân Nga, đã là Bolshevik. Sau thời gian dài sống có kỷ luật và không rượu chè ở Nga, Hašek quay trở lại thói quen đi quán như trước. Nhưng cũng chính trong những ngày đó, ông nuôi ý tưởng viết về Người lính tốt Švejk. Cái ông viết sẽ không phải là truyện ngắn như những truyện về Người lính tốt Švejk ông đã viết vào năm 1911, 1912 hay 1917, mà là tiểu thuyết, bắt đầu từ vụ ám sát Đại Công tước Franz Ferdinand d’Este cho tới sau chiến tranh. Cuốn tiểu thuyết đó sẽ là tiểu thuyết châm biếm phóng đại với nhân vật chính mang tên Švejk mà ông đã nghĩ ra từ năm 1911. Đồng thời, ông đặt tên cho nó là Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới và nội chiến ở nước ta và Nga (Osudy dobrého vojáka Švejka za světové i občanské války u nás i v Rusku). cái tên dài như vậy dẫn đến nhiều tên gọi khác nhau của bộ tiểu thuyết, ví dụ Vận mệnh người lính tốt Švejk, hay Người lính tốt Švejk, người Séc chỉ gọi ngắn gọn là Švejk. cuốn sách bạn có trong tay mang tên đầy đủ của bốn tập do Hašek viết.
Cuối tháng 2 năm 1921, ý tưởng xây dựng bộ tiểu thuyết đó đã trở thành kế hoạch cụ thể. Hašek quyết định cùng với người bạn Franta Sauer tự xuất bản, bắt đầu in thành từng cuốn sách mỏng rẻ tiền, và cũng tự bán.
Hašek là người đọc rất nhiều, cũng nổi tiếng là người có trí nhớ tuyệt vời và có hiểu biết sâu rộng, giống như cuốn Từ điển Bách khoa toàn thư sống. Ông thuộc lòng tất cả mọi thứ công văn tài liệu để dẫn dắt. Khi viết, ngoài bản đồ ra hầu như ông không cần có ghi chép hay chú thích thêm nào cả, đặc biệt lúc này, ông có thêm rất nhiều hiểu biết và kinh nghiệm về môi
trường quân đội, về cuộc chiến tranh tàn khốc vô nghĩa lý mới kết thúc. Hašek đã viết rất nhanh, giống như ông đã viết rất nhanh những truyện ngắn và tiểu phẩm của mình từ trước đó. Ông lại đến ngồi viết quán ăn, và đọc cho khách nghe những gì đã viết. Những con người thuộc đáy xã hội ở các quán ăn bình dân rẻ tiền đó trở thành những “nhà phê bình” sách đầu tiên của ông. Nhìn họ ôm bụng cười, ông biết mình đã thành công.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, cuối cùng thì trong năm 1921 tập 1 Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đã ra đời, do chính Hašek tự trang trải các chi phí và xuất bản tại Nhà xuất bản Franta Sauer & Václav Čermak, Praha. Tại Lipnice, Hašek tiếp tục viết tập II với tốc độ nhanh chóng mặt và giữa tháng 1 năm 1922 ông đã bắt đầu viết tập III. Cả hai tập này được xuất bản ngay năm 1922, nhưng tại Nhà xuất bản Adolf Synek ở Praha. Sau khi Hašek qua đời, tập IV của Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới được xuất bản ngay trong năm 1923. Từ đó đến nay, bộ tiểu thuyết đồ sộ này được in lại rất nhiều lần với số lượng bản in trung bình 40.000 cuốn/lần, đặc biệt các năm 1975, 1976, 1980 và 1990 in 100.000 cuốn/lần và đỉnh cao là năm 1951, sách được in tới 150.750 cuốn.
Cuốn tiểu thuyết có một không hai trong lịch sử văn học Séc này cũng có một số phận rất đặc biệt. Ngay sau khi nó ra đời, và cả một thời gian dài sau đó, trong khi những người dân thường đọc nó một cách say mê và khoái chí thì, trừ một số nhà văn nhà báo nhận thấy ngay đây là một tác phẩm đáng đọc, làng văn Séc hầu như không chấp nhận nó, không coi nó là một tác phẩm văn học, không coi tác giả của nó là nhà văn. Thậm chí còn có ý kiến cho rằng Švejk là kẻ trốn tránh nghĩa vụ, rằng cuốn sách này gây tác hại đến đạo đức người lính, có người còn nguyền rủa phỉ báng Hašek và cách sống của ông.
Nhưng dần dần, những lời khen nhiều hơn, và sau đây là một số trích dẫn thay cho lời phân tích tác phẩm:
Max Brod (1884–1968), nhà ngôn ngữ học, dịch giả, nhà báo, nhà văn viết bằng tiếng Đức, đã viết vào năm 1923:
Nhà văn dân gian người Séc đã đạt được điều mà hàng trăm nhà văn khác cố gắng suốt đời nhưng không thành: đó là việc sáng tạo, xây dựng được
một nhân vật, một con người độc đáo, đồng thời là một kiểu người. Tác phẩm của Hašek – mặc dù có thể là chính bản thân tác giả không biết điều này – là tác phẩm hàng đầu. Nhà văn không thể mong muốn gì hơn được nữa: đó là nhân vật xuất hiện từ cõi sâu thẳm nhất của tâm hồn con người, và lập tức được mọi người công nhận và tiếp nhận vào tâm thức của mình. Và chúng ta có thể đặt giả thiết hầu như chắc chắn rằng, một nhân vật như thế phản ánh được cái gì đó sâu kín nhất, không chỉ về dân tộc nó xuất thân, mà còn về sự liên quan đến cơ sở tồn tại bí ẩn nhất của loài người. Nhân vật ấy cũng giống như Hiệp sĩ gàn dở Don Quixote de la Mancha, mặc dù lúc đầu châm biếm người Tây Ban Nha, nhưng cuối cùng đã trở thành biểu tượng được yêu mến nâng niu bởi tất cả mọi sự gàn dở điên điên, về mặt tốt, cũng như mặt xấu của mình. Bằng lời ngợi ca này, tôi nói về những cuốn sách đã đưa tên tuổi của Người lính tốt Švejk ở Praha trở thành nổi tiếng.
Nhà phê bình văn học, sân khấu và mỹ thuật, đồng thời là đạo diễn điện ảnh và dịch giả Séc Josef Kodíček (1892–1954) viết vào năm 1927:
Có những nhà phê bình có học thức và cao thượng thấy kinh hãi nhân vật Švejk. Có những nhà văn tuyên bố rằng Švejk là cuốn sách mà họ không mang theo cả khi phải ra hòn đảo hoang vắng. Vì sao? Chỉ vì trong đó có
nói tục ư? Ngược lại, nhà thơ và nhà văn Durych nói rằng Švejk phải được đúc thành tượng. Về phía mình, chúng tôi không sợ trở thành nhà tiên tri khi khẳng định Švejk sẽ được đọc cả vào khi mà phần lớn các sáng tác cùng thời với nó bị lãng quên.
Nhà báo, nhà văn trào phúng Séc Karel Poláček (1892–1945) đã viết vào năm 1930:
Švejk là một tác phẩm thú vị và tôi nghĩ là lịch sử văn học phải nghiên cứu. Chỉ ngay về mặt hình thức thôi nó cũng thú vị rồi. Nó là tiểu thuyết ư? Là sử ký hài hước ư? Có thể nó là tiểu thuyết hài hước được gộp lại từ các chương, tức là nó có đặc trưng của các cuốn tiểu thuyết hài hước nổi tiếng nhất trên thế giới, như nhà văn Karel Čapek đã khẳng định. […] Švejk là văn học, thậm chí là văn học rất truyền thống. Người lính tốt Švejk có gia phả của mình. Anh có quan hệ họ hàng rất gần gũi với Sam Weller. Anh và Sam Weller có chung sở thích đánh giá bình luận các sự kiện, đối với ông chủ của mình thì có một tình yêu lớn, nhưng mang chút rộng lượng và có phần coi thường. Và cả Sam Weller lẫn Švejk đều dùng cách so sánh rất
thơ mộng trong các hồi ức và những câu chuyện của đời mình, và họ kể về chúng một cách ung dung thoải mái.
[…] cách đây không lâu đã có một cuộc tranh luận gay gắt về Người lính tốt Švejk. Ông Viktor Dyk lo lắng về số phận và khả năng chiến đấu của quân đội Tiệp Khắc và lên tiếng cảnh báo về những Švejk và ảnh hưởng
không tốt của họ đến kỷ luật quân đội. Xin ông Nghị sĩ và nhà thơ Dyk yên tâm. Giá mà ông đã đi lính và có hiểu biết rõ hơn về người lính Séc thì ông đã thấy là Švejk chưa bao giờ và không bao giờ có thể là kiểu người lính Séc. Tôi đã đi lính bốn năm và chưa bao giờ tôi gặp một Švejk nào. […] Švejk là một người ở Praha không có thu nhập ổn định, nhiều khi không có chỗ ở và không nghề nghiệp, cảnh sát có thể viết về anh ta như thế. Švejk là sản phẩm của trí tưởng tượng phóng túng và say mèm của tác giả. Tôi có thể kể đến kiểu người thực sự hoàn hảo như anh lính công binh Vodička – người hết sức căm ghét dân Hungary, kiểu người háu ăn không bao giờ no là Baloun, kiểu người như trung úy Lukáš – người thầm thì bí mật: “Chúng ta hãy là người Séc, nhưng không người nào phải biết đến điều đó.” Tôi cũng là người Séc: Những nhân vật một trăm phần trăm như thế, những nhân vật sẽ sống muôn đời và sẽ đúng muôn đời như thế, có rất nhiều trong tác phẩm này. Một ông chủ quán Palivec thận trọng, không cho ai tán chuyện về chính trị trong quán của mình bởi vì ông là người buôn bán. Một tay mật thám Bretschneider luôn khiêu khích với hy vọng bắt được ai đó vào nhà tù. Đó là những người chúng ta thường gặp và tất cả chúng ta đều biết họ.
Nhà văn, nhà báo và dịch giả Ivan Olbracht (1882–1952) đã viết những dòng này năm 1921:
Nếu muốn cười thật sự, bạn hãy đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới của Jaroslav Hašek. Gotthold Ephraim Lessing nói về Friedrich Gottlieb Klopstock rằng mọi người đều khen ông, nhưng ít người đọc ông. Trong trường hợp Jaroslav Hašek thì ngược lại. Hàng chục nghìn người đọc Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới (10.000 cuốn phát hành lần đầu đã bán hết), hàng chục nghìn người nghiêng ngả cười trên các trang sách. Thế mà không một nhà phê bình văn học nào dám khen nó. Bạn hãy hỏi một độc giả bình thường nhận xét của người ấy về cuốn sách, và độc giả ấy mới chỉ nghe đến tên Švejk là đã bật cười. Suy cho cùng thì đó là câu trả lời tốt nhất. Nhưng nếu bạn hỏi một người có “trình độ về văn học” thì người ấy cười độ lượng rồi ngập ngừng trả lời nước đôi: “Ờ…” Người ấy không dám làm kẻ vô ơn mà nói gì xấu về
cuốn sách, bởi nó đem lại cho người ấy nhiều lúc vui vẻ. Nhưng khi nghĩ đến phong cách hoàn toàn “phi văn học”, đến ngôn ngữ nhà binh, đến ngôn ngữ ngoài đường phố và các quán ăn rẻ tiền thì người ấy lại sợ mất thể diện khi nói “đấy là cuốn sách tuyệt vời”.
Švejk là một kiểu nhân vật hoàn toàn mới trong văn học thế giới. Một kiểu người đần độn trong dân gian Séc lần đầu tiên xuất hiện trong văn học viết và được đưa vào cuộc sống hiện đại ồn ã. Một kiểu người bình thản được
nhìn từ một góc độ mới. Chúng ta vui vì gặp một kiểu người hoàn toàn ngược với kiểu người đáng ghét “tính nết có vấn đề”, “không bằng lòng với bất kỳ tình huống nào, cũng chẳng hợp với bất kỳ tình huống nào”, bởi vì Švejk là người hài lòng trong mọi tình huống, và cũng ở thế mạnh hơn trong mọi tình huống. Một người ngu tinh khôn, hay thật sự là một người ngu tài tình, người có cái vẻ hiền lành ngu xuẩn, nhưng đồng thời ranh mãnh như thế phải thắng ở mọi nơi. Kiểu người văn học mới này không thể làm chúng ta quan tâm đến thế, vui vẻ đến thế, nếu nó không phải là một phần của chúng ta, nếu “ngôn ngữ Švejk” ít nhiều không phải là của tất cả chúng ta, tương tự như “ngôn ngữ Don Quixote”, “ngôn ngữ Hamlet”, “ngôn ngữ Faust”, hay “ngôn ngữ Oblomov”.
Hašek giải nghĩa cho chúng ta về Thế chiến từ góc nhìn mới. Ông là người trực tiếp tham gia cuộc chiến, đã đi đến một nửa châu Âu và đến cả châu Á. Vận mệnh người lính tốt Švejk của ông là cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tôi đã đọc một số tiểu thuyết chiến tranh và chính bản thân tôi cũng viết một quyển. Nhưng không có một quyển nào toát ra được toàn bộ sự tàn ác bất lương, cái ngu xuẩn và man rợ của Đại chiến Thế giới một cách rõ ràng như ở cuốn sách của Hašek. Ông không đòi hỏi phải vượt qua chiến tranh để chiến thắng. Ông đứng bên trên nó ngay từ lúc mở đầu. Ông cười chế nhạo nó. Ông đã cười chế nhạo nó trên toàn bộ cũng như từng chi tiết, như thể nó không hơn gì cuộc ẩu đả say rượu trong quán ăn ở Žižkov. Để có thể có được cái nhìn như thế tất nhiên cần phải có một Švejk mạnh mẽ, cùng với sự ngu xuẩn tài tình. Quang vinh thuộc về người đã làm được điều đó. Và kết quả là: Vận mệnh người lính tốt Švejk là một trong những cuốn sách hay nhất được viết ở Séc. Khi ở Omsk, Hašek là một con người mẫu mực, nhưng chẳng viết được dòng nào. Ở Praha ông là người lang thang quán này sang quán nọ, nhưng đã viết được một trong những cuốn sách hay nhất của văn học Séc. Siberia có thể tìm được người chỉ huy quân sự tốt khác, nhưng không một người nào khác có thể viết được Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới”.
---
Đây là lần đầu tiên cuốn tiểu thuyết đồ sộ Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới đến trọn bộ với bạn đọc Việt Nam. Chúng tôi tin rằng Švejk sẽ trở thành người bạn văn học đáng yêu của độc giả Việt Nam. Và tương tự như Jan Neruda, Franz Kafka, Karel Čapek, Bohumil Hrabal,
Milan Kundera… cả Jaroslav Hašek cũng sẽ trở thành tác giả quen thuộc ở Việt Nam. Bắt tay vào chuyển ngữ bộ tiểu thuyết, người dịch ý thức được nhiều vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa. Trong tác phẩm này, ngôn ngữ mà Jaroslav Hašek sử dụng là tiếng Séc bình dân từ ngoài đường phố, từ các quán ăn rẻ tiền, nhưng dưới ngòi bút sắc sảo của ông, nó là thứ tiếng Séc rất dí dỏm, khôi hài, đậm sắc dân tộc. Tác phẩm cũng phản ánh phần nào cả vấn đề ngôn ngữ dân tộc trong giai đoạn lịch sử đó ở Séc, khi mà tiếng Đức chiếm vị trí độc tôn, đặc biệt ở đây là sự có mặt của vốn từ tiếng Đức trong ngôn ngữ nhà binh⦾. Lời kể trong truyện là lời kể tự nhiên không gượng ép, không cố gây cười và cái hài hước chỉ là công cụ để châm biếm, đả kích những điều xấu xa trong xã hội và đặc biệt chống lại cuộc Đại chiến tàn khốc. Cái dí dỏm, khôi hài và châm biếm rất Séc của tác phẩm đồng thời cũng là điểm chung có thể chuyển tải sang tiếng Việt, bởi trào phúng là một phần đáng kể trong văn hóa Việt. Và hơn cả, bên cạnh những câu chuyện vui hài hước làm nền là nhiều trang viết về chiến tranh, về những điều sâu sắc khiến độc giả trầm ngâm suy nghĩ. Nói cho cùng, nếu không có cái thông điệp chung như thế thì Vận mệnh người lính tốt Švejk trong Đại chiến Thế giới không thể được dịch ra bằng ấy ngoại ngữ trên thế giới.
---
Chúng tôi lại xin mượn lời của nhà báo, nhà văn và dịch giả Séc Ivan Olbracht:
Các bạn hãy đọc đi, đây là một cuốn sách tuyệt vời.
bình slavicka
hướng dẫn cách đọc tiếng séc
C
ũng giống như tiếng Việt hiện đại, tiếng Séc là văn tự sử dụng chữ cái Latin với một số bổ sung phù hợp cho hệ thống nguyên âm và phụ âm của nó. Trừ một vài trường hợp đặc biệt, phát âm tiếng Séc về cơ bản tương đối đơn giản. Sau đây là hướng dẫn cách đọc tương đối giống với phát âm của các từ có trong sách.
A. Nguyên âm tiếng Séc và cách phát âm:
Phần lớn các nguyên âm của tiếng Séc đều có phát âm tương tự như nguyên âm của tiếng Việt: a như a: Ann [an-na]; i/y như i/y: Karlín [car lin], e như ê hoặc e: Hašek [ha-sệch], Nusle [nux-le], o như ô hoặc o: Otto [ôt-tô], Tábor[ta-bor], u như u: Putim [pu-chim]
Dưới đây là cách đọc những nguyên âm khác tiếng Việt, hay một số nguyên âm đi liền nhau, hoặc nguyên âm đi với phụ âm:
1. ě đọc như ie: Zábělice [za-bie-hli-xe]; đọc như e khi đứng ở cuối từ: Konopiště [cô-nô-pis-che]
2. ů đọc như u: thí dụ Průša [pru-sa]
3. ou đọc như âu: Baloun [ba-lâun]
4. ej, ěj đọc như ây: thí dụ Dejvice [đây-vi-xe], Budějovice [bu-dây-ô-vi xe]
B. Phụ âm tiếng Séc và cách phát âm:
Phần lớn các phụ âm của tiếng Séc có phát âm tương tự phụ âm tiếng Việt. Tuy nhiên, phụ âm đứng ở cuối từ trong tiếng Séc bao giờ cũng được phát âm rõ thành tiếng.
Dưới đây là cách đọc những phụ âm khác tiếng Việt:
1. c đọc như x: Palivec [pa-li-vex], Václav [va-xlav]
2. č đọc như tr: české [tre-xke], Hradčany (hrađ-tra-ny]
3. ch đọc như kh: U Kaicha [u ca-li-kha]
4. d đọc như đ khi đứng trước nguyên âm (i, y, e, a, o, u) và các phụ âm khác: Ferdinand [pher-đi-nanđ), Beskydy [bes-ky-đi], Dobromil [đô brô-mil]; đọc như d khi đứng trước ě: Budějovice [bu-dây-ô-vi-xe] 5. f đọc như ph: Franta [phran-ta]
6. j đọc gần như gi: Josef [giô-xéph], Jaroslav [gia-rô-xlav] 7. k đọc như c: Katz [catz], Kikonoše [crcô-nô-se]; đọc như k khi đứng trước i/y, e: Beskydy [bes-ky-đi], české [tre-xke]; đọc gần như ch khi đứng ở cuối từ: Hašek [ha-sệch]
8. ň đọc như nh: Libeň [li-bênh]
9. s đọc như x: Písek [pi-xệch]
10. š đọc uốn lưỡi như s trong tiếng Việt vùng miền Trung và miền Nam: Švejk [svâyk], Lukáš [lu-cas], Hašek [ha-sệch]
11. ž đọc uốn lưỡi gần như s trong tiếng Việt vùng miền Trung và miền Nam, nhưng không vang như š: Ražice [ra-si-xe]
12. ř là phụ âm phát âm khó nhất của tiếng Séc, đọc tương tự r trong tiếng Việt, rất rung lưỡi: Řepa [repa]
13. trước nguyên âm ě và i: t đọc là ch, n đọc là nh: Konopiště [cô-nô-pis che], Vaněk [Va-nhệch], Putim [pu-chim], Toník [tô-nhích] 14. ť đọc như ch: Koťatko [cô-chat-cô]
lời nói đầu
T
hời đại lớn đòi hỏi có những con người vĩ đại. Họ là những người anh hùng không ai biết đến, là những người giản dị khiêm tốn không có cái vinh quang và lịch sử như của Napoleon. Nhưng đem tính cách của họ ra mà phân tích thì ta thấy nó có thể làm lu mờ cả quang vinh của Alexander Đại đế. Ngày nay, trên các nẻo đường Praha, chúng ta có thể gặp một người đàn ông ăn mặc tồi tàn, một người không hề biết mình có ý nghĩa gì trong lịch sử của thời đại lớn lao mới. Người đàn ông ấy khiêm tốn rảo bước trên đường đi của mình, không làm phiền ai và cũng chẳng bị các nhà báo làm phiền để xin được phỏng vấn anh. Nếu mà bạn hỏi anh tên là gì, thì anh ấy sẽ trả lời một cách đơn giản và khiêm tốn: “Tôi là Švejk…”
Vâng, người đàn ông trầm lặng, khiêm tốn và ăn mặc xấu xí đó quả đúng là người lính tốt Švejk ngày nào. Đó là một người anh hùng, một con người dũng cảm mà mọi công dân của Vương quốc Bohemia dưới thời nhà nước Áo đều nói đến, và vinh quang của anh cũng không bị lãng quên cả ở giai đoạn nhà nước Cộng hòa.”⦾
Tôi rất quý mến người lính tốt ấy. Viết về Vận mệnh của Švejk trong Đại chiến Thế giới, tôi tin chắc rằng tất cả các bạn sẽ có cảm tình với người anh hùng khiêm tốn không tên tuổi ấy. Anh không đốt đền thờ nữ thần ở Ephesus, như kẻ ngu ngốc Herostratos đã làm, để được viết đến trên báo chí và đưa vào sách tập đọc ở nhà trường.
Và như vậy là đủ.
jaroslav hašek
ở hậu phương
švejk can thiệp đến đại chiến thế giới
“T
hế là họ giết mất Ferdinand của chúng ta rồi,” bà giúp việc nói với Švejk, người lính đã giải ngũ những năm trước đây, sau khi bị Ban quân y ra tuyên bố kết luận rằng anh là một kẻ ngu độn. Bây giờ thì anh kiếm sống bằng nghề bán chó, toàn những con chó lai tạp xấu xí như ma, lại còn giả mạo giấy tờ chứng nhận thuần chủng cho chúng nữa.
Ngoài cái nghề đó ra, anh còn bị bệnh thấp khớp hành hạ, và đúng lúc đó thì anh đang ngồi xoa thuốc mỡ lên đầu gối, “Ferdinand nào, hả bà Müllerová?” tay vẫn không ngừng xoa bóp đầu gối, anh Švejk hỏi lại. “Tôi
có biết hai người tên là Ferdinand. Một người là thằng hầu của ông Průša bán hàng vệ sinh và mỹ phẩm, có lần hắn uống nhầm cả một lọ dầu bôi tóc của ông ấy. Một người nữa tên là Ferdinand Kokoška, chuyên đi nhặt phân chó. Cả hai mà có bị sao thì cũng chẳng mất mát gì.”
“Nhưng mà cậu ơi, đấy là ngài Đại Công tước Ferdinand⦾ ở Konopiště ⦾, cái ông to béo ngoan đạo ấy cơ ạ.”
“Ối Jesus Maria!” anh Švejk kêu lên, “Khá thật! Thế ngài Đại Công tước bị giết ở đâu vậy?”
“Thưa cậu, ở Sarajevo⦾ ạ. Bị bắn bằng súng lục cậu ạ. Ngài cùng với bà Đại Công tước đến đó bằng xe ô tô.”
“À ra vậy, bà thấy chưa, đến bằng xe ô tô đấy! Ừ, tất nhiên là một người như ngài có thể đến bằng ô tô, nhưng mà ngài chẳng hề nghĩ tới chuyện một chuyến đi như thế có thể kết thúc thảm hại. Hơn nữa, lại còn đi ở Sarajevo, tức là ở Bosna,⦾ bà ạ. Tôi cho là có lẽ người Thổ Nhĩ Kỳ đã ám sát ngài. Đúng ra mà nói thì chúng ta không nên chiếm Bosna và Hercegovina của họ.⦾ Thế đấy, bà ạ. Vậy là ngài Đại Công tước đã về chầu trời rồi. Thế ngài có bị đau đớn lâu không?”
“Ngài Đại Công tước chết ngay tức thì, cậu ạ. Và cậu cũng biết rằng đây là súng lục chứ có phải đồ chơi đâu! Cách đây không lâu, tại Nusle⦾ chỗ tôi ở có một ông mân mê khẩu súng lục, táy máy thế nào mà bắn chết cả nhà, kể cả ông coi nhà, đúng lúc ông ấy nghe tiếng súng nổ đã lên tầng ba để xem ai bắn.”
“Ấy, cũng có khẩu súng lục chẳng làm sao mà bắn ra được phát nào, cho dù bà có phát điên lên thì cũng thế, bà Müllerová ạ. Súng ấy có nhiều kiểu lắm. Nhưng mà khi muốn bắn ngài Đại Công tước thì hẳn là họ phải mua khẩu tốt hơn. Và tôi cũng xin cuộc với bà là, kẻ đã bắn ngài tất phải ăn mặc rất chỉnh tề. Bà cũng biết là bắn ngài Đại Công tước là việc rất khó khăn, không giống như khi lâm tặc bắn người gác rừng đâu! Trước hết là phải làm sao đến gần được ngài Đại Công tước. Mà để đến gần được người như thế thì không thể ăn mặc lôi thôi, chẳng hạn phải đội mũ chóp cao, để không bị cảnh sát tóm cổ trước khi tới nơi.”
“Nghe bảo họ nhiều người, cậu ạ.”
“Cái ấy thì là lẽ tất nhiên rồi, bà ạ,” Švejk nói và ngừng tay xoa bóp đầu gối, “nếu mà muốn giết Đại Công tước, hoặc Hoàng đế, thì chắc hẳn bà cũng phải bàn bạc với ai chứ! Thêm người là thêm cái khôn mà. Người này bàn vào cái này, kẻ khác góp ý cái kia, có thế thì mới được việc, cũng như lời trong bài quốc ca của chúng ta⦾ ấy mà. Cái chính là phải rình cho được lúc ngài ấy đi qua. Giống như vụ tay Luccheni đâm chết Alžběta⦾ tội nghiệp của chúng ta bằng cái giũa. Hắn đã đi dạo cùng bà ấy. Đến cái nước ấy thì bà bảo còn tin ai được; từ hồi ấy rồi cũng chẳng có hoàng hậu nào đi dạo chơi nữa. Và cũng còn nhiều người khác sẽ gặp chuyện. Rồi bà thấy là người ta cũng sẽ động đến cả Sa hoàng với Sa hậu, thậm chí, lạy trời, còn có thể động tới cả Hoàng đế nữa, khi mà họ đã làm như thế với chú của người.⦾ Hoàng đế có nhiều kẻ thù lắm, còn nhiều hơn cả Ferdinand nữa bà ạ. Cách đây không lâu, ở quán có một ông đã nói rằng sẽ có ngày mà các hoàng đế nối nhau mất mạng, rằng lúc ấy thì chẳng ai cứu giúp được họ. Nhưng ông ấy lại không có tiền để trả tiền ăn, thế là chủ quán gọi cảnh sát đến bắt. Và ông ấy cho chủ quán một cái tát, cho cảnh sát hai cái. Vì vậy mà ông ấy bị đẩy vào xe cũi rồi bị kéo đi, nghe bảo để cho trấn tĩnh lại. Ôi chao, thời nay có nhiều chuyện lắm, bà ạ. Việc này là tổn thất lớn cho nhà nước Áo. Ngày tôi còn ở quân đội thì có một tay infanterista⦾ bắn chết ông hejtman⦾. Hắn nạp đạn vào khẩu súng trường rồi đi vào văn phòng của ông ấy. Người ta bảo hắn là hắn chẳng có nhiệm vụ gì ở đấy, nhưng hắn cứ lải nhải là phải nói chuyện với đại úy. Ông này đi ra và ngay lập tức ra lệnh phạt cấm rời doanh trại, thế là hắn nhằm thẳng vào tim ông ấy mà bóp cò. Viên đạn xuyên qua người ông ấy, rồi lại còn gây thiệt hại cả trong văn phòng nữa. Nó làm vỡ lọ mực, mực ấy đổ ra công văn giấy tờ.”
“Ối, thế còn người lính ấy thì sao hả cậu?” một hồi sau bà Müllerová hỏi, lúc Švejk mặc áo.
“Hắn thắt cổ bằng dây đeo quần,” Švejk nói, tay phủi bụi cái mũ cứng. “Nhưng cái dây đeo quần ấy cũng chẳng phải là của hắn, mà hắn mượn của cai ngục, bảo là mượn vì quần bị tụt. Chứ chẳng lẽ ngồi chờ bị xử bắn hay sao? Bà biết đấy, những lúc như thế người ta thường bối rối đầu óc không biết làm sao. Cai ngục bị giáng cấp, cộng với sáu tháng tù nữa, nhưng ông ta chẳng ngồi tù mà bỏ trốn đi Thụy Sĩ, bây giờ thì làm cha giảng đạo của một tôn giáo nào ấy. Thời nay có ít người trung thực lắm bà ạ. Tôi cho là ở
Sarajevo, ngài Đại Công tước cũng đã nghĩ nhầm về kẻ bắn ngài. Lúc trông thấy người đàn ông ấy, chắc ngài nghĩ rằng ‘À, đấy là người tử tế, người ấy chào đón mình kia mà.’ Ấy thế mà hắn lại nổ súng bắn ngài. Hắn chỉ bắn ngài một phát, hay bao nhiêu?”
“Báo viết là ngài Đại Công tước bị bắn nát cả người, cậu ạ. Hắn trút tất tần tật đạn vào ngài.”
“Súng bắn thì nhanh lắm, nhanh kinh khủng, bà Müllerová ạ. Giá mà làm việc đó thì tôi sẽ mua khẩu Browning. Trông nó giống như đồ chơi, nhưng mà chỉ trong vòng hai phút thôi là bắn chết được đến hai chục Đại Công tước, bất kể béo gầy. Đương nhiên là nhằm vào ngài Đại Công tước to béo thì chắc chắn hơn là vào ngài Đại Công tước gầy gò; ấy là nói chuyện với bà vậy thôi. Bà còn nhớ hồi người ta bắn chết nhà vua ở Bồ Đào Nha không? Ông vua ấy rất béo, vâng, bà biết đấy, là nhà vua thì không thể gầy được. Thôi, bây giờ thì tôi ra quán U Kalicha⦾ đây. Nếu có người đến hỏi lấy con Phốc hươu tôi đã nhận tiền cọc thì bà bảo là tôi đang để nó ở ngoại ô, rằng tôi mới xén tai cho nó, chừng nào chưa lành thì còn chưa được mang nó đi, kẻo nó bị lạnh. Bà để chìa khóa cho tôi chỗ bà coi nhà nhé!”
Trong quán U Kalicha chỉ có một người khách đang ngồi. Đó là ông cảnh sát mật Bretschneider⦾, người của An ninh Quốc gia. Ông chủ quán Palivec đang rửa bát đĩa, còn ông Bretschneider thì cố gắng gợi một câu chuyện quan trọng với ông chủ quán, nhưng vô hiệu.
Ông Palivec là người thô tục có tiếng, lời nào nói ra cũng xen thêm đít hay cứt. Ấy thế mà ông lại là con mọt sách, ông luôn bảo mọi người hãy đọc những gì Victor Hugo đã viết khi miêu tả câu trả lời cuối cùng của đội Cận vệ Hoàng đế Napoleon cho người Anh trong chiến trận Waterloo.
“Mùa hè đẹp đấy chứ nhỉ?” ông Bretschneider cố gợi một câu chuyện nghiêm chỉnh.
“Chẳng ra cái cứt gì,” ông chủ quán Palivec trả lời, tay xếp đĩa vào tủ.
“Ở Sarajevo người ta làm ghê quá,” ông Bretschneider lại nói với hy vọng mong manh.
“Ở Sarajevo nào?” ông Palivec hỏi lại, “Quán rượu ở Nusle ấy ư? Ngày nào ở đấy chẳng có đám đánh nhau, ông biết đấy, Nusle mà!”
“Sarajevo ở Bosna cơ, ông chủ quán ạ. Người ta đã bắn chết ngài Đại Công tước đấy. Ông bảo sao?”
ẳ
“Tôi chẳng dây vào những chuyện ấy làm gì, có liếm đít tôi thì liếm chứ đừng lôi tôi vào đấy.” Ông Palivec lịch sự trả lời và châm lửa hút tẩu. “Thời buổi này dính vào những chuyện ấy là mất mạng như chơi. Tôi làm nhà hàng, ai đến đây uống bia thì tôi rót. Nhưng mà cái Sarajevo, cái chính trị hay cái ngài Đại Công tước đã chết ấy chẳng phải là chuyện của chúng tôi, vớ vẩn vào đấy thì có mà đi Pankrác⦾ sớm.”
Ông Bretschneider im bặt và thất vọng nhìn cái quán vắng tanh.
Một lúc sau, ông lại lên tiếng: “Ngày trước ở đây có treo chân dung Hoàng đế, đúng chỗ bây giờ có cái gương kia.”
“Ừ, ông nói phải,” ông Palivec trả lời, “có treo ở đấy, nhưng ruồi ỉa vào đây, thế là tôi phải cất lên tầng mái. Ông biết đấy, kẻo lại có người nói này nói nọ phiền ra, tôi chả muốn bận vào thân.”
“Ở Sarajevo chắc là phải kinh khủng lắm, ông chủ quán nhỉ?”
Câu hỏi trực tiếp nham hiểm khiến ông Palivec trả lời một cách hết sức thận trọng:
“Vào những lúc này thì ở Bosna và Hercegovina thường nóng kinh khủng. Hồi tôi còn đi lính ở đấy thì người ta thường phải chườm đá lên đầu ông obrlajtnant⦾ của chúng tôi.”
“Ông đã ở trung đoàn nào, hả ông chủ quán?”
“Tôi không nhớ thứ nhỏ mọn cỏn con ấy, tôi chẳng bao giờ quan tâm đến những chuyện vớ vẩn như thế, cũng chẳng bao giờ tò mò bận tâm làm gì,” ông chủ quán đáp, “tò mò quá chỉ tổ trước họa vào thân.”
Lần này thì ông cảnh sát mật hoàn toàn im lặng. Khuôn mặt ủ ê của ông chỉ tươi lên khi trông thấy Švejk tới. Vừa vào đến quán, Švejk đã gọi một cốc bia đen, kèm theo lời nhận xét:
“Hôm nay ở Vienna người ta cũng có tang.”
Mắt ông Bretschneider sáng lên đầy hy vọng; ông nói ngắn gọn: “Ở Konopiště có treo mười lá cờ đen.”
“Lẽ ra thì phải có mười hai lá,” Švejk uống một ngụm bia, rồi nói. “Vì sao anh lại nghĩ là phải có mười hai lá?” ông Bretschneider hỏi.
“Để cho đủ số, đủ một tá, cho dễ đếm, với lại bao giờ tính theo tá thì cũng rẻ hơn.” Švejk trả lời.
Không ai nói gì. Švejk thở dài phá tan im lặng:
“Thế là ngài đã về chầu trời rồi, cầu trời cho ngài được vinh quang mãi mãi. Nhưng sao mà ngài chẳng chờ cho đến lúc được làm hoàng đế. Khi tôi còn phục vụ ở quân ngũ thì có một ông tướng bị ngã ngựa rồi chết, ấy thế mà cứ im như không. Khi đến giúp ông ấy lên ngựa, người ta mới ngạc nhiên thấy là ông ấy đã chết rồi. Mà khi đó ông ấy cũng đang chờ thăng lên chức feldmaršál⦾ đấy! Việc ấy xảy ra trong một cuộc diễu binh. Các cuộc diễu binh chẳng bao giờ mang lại cái gì tốt đẹp cả. Ở Sarajevo cũng thế, cũng diễu binh. Tôi nhớ là có lần tôi tham gia một cuộc diễu binh tương tự, nhưng quân phục của tôi thì lại bị thiếu hai mươi cái cúc. Vì chuyện ấy mà tôi bị biệt giam mười bốn ngày, bị trói quặt chân tay, nằm mất hai ngày. Nhưng mà trong quân đội thì phải có kỷ luật, không thì chẳng ai coi cái gì ra cái gì. Ông trung úy Makovec của chúng tôi bao giờ cũng bảo: ‘Phải có kỷ luật, đồ ngu độn ạ. Không thì các anh sẽ leo cây như lũ khỉ vậy. Nhưng mà quân đội sẽ rèn các anh thành người, lũ ngu xuẩn ạ.’ Có đúng không nào? Các ông cứ thử tưởng tượng cái cảnh ở công viên, thí dụ ở Karlák⦾, mà trên cây nào cũng có một người lính vô kỷ luật đang leo trèo xem nào. Đó là cái bao giờ tôi cũng sợ nhất.”
“Ở Sarajevo, người Serbia đã làm việc ấy.” Ông Bretschneider tiếp tục.
“Ông nhầm rồi,” Švejk nói, “người Thổ Nhĩ Kỳ đấy, họ làm thế là vì Bosna và Hercegovina.”
Và Švejk lý giải quan điểm của mình về chính sách đối ngoại của nước Áo ở bán đảo Balkan. Năm 1912, người Thổ Nhĩ Kỳ thua trận với Serbia, Bulgaria và Hy Lạp, và đã muốn nước Áo giúp họ. Nhưng vì không được giúp nên họ đã bắn chết Ferdinand.
“Ông có thích người Thổ Nhĩ Kỳ không?” Švejk quay sang hỏi chủ quán Palivec, “Ông có thích lũ chó ngoại đạo ấy không? Ông không thích, có phải không?”
“Khách nào cũng là khách,” ông Palivec nói, “kể cả người Thổ Nhĩ Kỳ. Với nhà hàng chúng tôi thì chẳng có chính trị chính em gì hết. Đã đến đây thì trả tiền bia đi, rồi ngồi đây mà ba hoa tán gẫu thế nào tùy thích. Đấy là nguyên tắc của tôi, chứ tôi chẳng quan tâm đến việc nếu kẻ giết ngài
Ferdinand của chúng ta là người Serbia hay Thổ Nhĩ Kỳ, là tín đồ Công
giáo hay tín đồ Hồi giáo, người vô chính phủ hay người theo đảng Séc trẻ⦾ .”
“Vâng, ông chủ quán ạ,” ông Bretschneider lên tiếng, lại hy vọng là ít ra một trong hai người sẽ sa lưới, “nhưng ông cũng phải công nhận rằng đó là tổn thất lớn cho nước Áo.”
Švejk trả lời thay ông chủ quán:
“Tổn thất là cái rõ, không chối cãi được rồi. Tổn thất kinh khủng. Không thể thay thế ngài Ferdinand bằng một thằng ngu nào đó được. Chỉ có điều đáng lẽ ngài phải béo hơn thế nữa.”
“Anh nghĩ thế là sao?” ông Bretschneider chợt tỉnh cả người.
“Tôi nghĩ thế là sao ư?” Švejk hào hứng đáp. “Chỉ đơn giản là vậy. Giá mà ngài béo hơn, thì chắc chắn trước đó ngài đã bị tai biến mạch máu não mà chết rồi, khi ngài đuổi mấy mụ đàn bà đến nhặt củi kiếm nấm trong rừng của ngài ở Konopiště. Giá mà thế thì ngài đã không phải chết một cách nhục nhã như thế này. Ngẫm lại thì thấy ngài là chú của Hoàng đế, mà họ còn bắn ngài. Quả thật là xấu hổ, người ta viết đầy trên báo chí về chuyện ấy. Trước đây, Budějovice⦾ của chúng tôi có một người buôn bán gia súc tên là Břetislav Ludvík. Ông ấy bị người ta đâm chết ở ngoài chợ chỉ vì một cuộc cãi nhau nhỏ. Ông ấy có thằng con tên là Bohuslav; sau đó nó đi bán lợn ở đâu cũng chẳng ai mua cho, ai cũng bảo: ‘Đây là con trai của kẻ bị đâm chết, chắc nó cũng là đứa chẳng tử tế gì.’ Thế là nó phải nhảy cầu ở Krumlov⦾ xuống sông Vltava⦾, người ta phải vớt nó lên, phải làm nó sống lại, phải tống nước ra khỏi bụng nó, vậy mà nó chết trong tay bác sĩ khi ông này tiêm cho nó.”
“Anh so sánh lạ thật đấy,” ông Bretschneider nói đầy ẩn ý, “đầu tiên anh nói đến ngài Ferdinand, rồi sau đó lại kể về kẻ buôn bán gia súc.”
“Đâu có thế,” Švejk bào chữa, “trời trừng phạt tôi, nếu tôi muốn so sánh ai với ai. Ông chủ quán biết tôi đấy. Tôi không bao giờ so sánh ai với ai, có phải không nào? Tôi chỉ không muốn ở vào địa vị bà quả phụ của ngài Đại Công tước thôi. Bây giờ thì bà ấy biết làm sao đây? Mấy đứa con thành trẻ mồ côi, đất ở Konopiště thành đất không chủ. Lại đi lấy một Đại Công tước mới nào khác ư? Như thế thì được ích lợi gì? Lại sẽ đi với ngài ấy đến Sarajevo, để rồi thành bà quả phụ lần thứ hai hay sao? Trước đây, ở
Zliv gần Hluboká⦾ có một ông coi rừng, ông ấy có cái tên xấu xí là Pind’our⦾. Ông ấy bị bọn lâm tặc bắn chết, để lại bà quả phụ với hai đứa con. Một năm sau, bà này đi bước nữa, lại lấy một người coi rừng tên là Pepík Šavel ở Mydlovary⦾, và ông này cũng bị lâm tặc bắn chết. Rồi bà ấy đi lấy chồng lần thứ ba, cũng lại lấy người coi rừng. Bà ấy bảo là ‘Đến lần thứ ba thì mọi việc sẽ tốt đẹp, nếu không thì tôi chẳng biết sẽ phải làm gì nữa.’ Tất nhiên là cả ông thứ ba cũng bị bắn chết, lúc đó thì bà ấy đã có với các ông chồng cả thảy sáu mặt con. Bà ấy đi đến tận văn phòng của ngài Công tước ở Hluboká để than phiền về nỗi khổ sở bất hạnh của mình với các ông coi rừng. Người ta khuyên bà lấy ông Jareš là người coi hồ cá ở Ražice⦾. Nhưng các ông có biết rồi lại thế nào không? Bọn đánh cá ở hồ đã dìm chết ông ấy, mà ông bà thì đã có với nhau hai mụn con. Sau đó, bà ấy đi lấy ông thợ hoạn ở Vodňany. Một đêm, ông này lấy rìu chém chết bà, rồi ra đầu thú. Khi bị đem ra treo cổ trước tòa án vùng ở huyện Písek⦾, ông ấy cắn đứt mũi cha cố rồi bảo là hoàn toàn không ân hận hối tiếc gì cả, và cũng còn nói thêm cái gì đó rất xấu xa về Hoàng đế.”
“Thế anh có biết ông ấy nói gì về Hoàng đế không?” ông Bretschneider hỏi bằng giọng chứa chan hy vọng.
“Tôi không thể nói cho ông được, vì không ai là người dám nhắc lại cái ấy. Nhưng nghe bảo đó là điều khủng khiếp và ghê gớm lắm, đến mức mà một ông ủy viên tòa án lúc đó ở đấy đã nghe thấy, rồi phát điên. Cho đến bây giờ, người ta vẫn còn biệt giam ông ấy, để điều đó không bị lộ ra. Cái ấy không phải là chuyện xúc phạm Hoàng đế một cách bình thường mà người ta nói khi say rượu đâu.”
“Thế những gì xúc phạm Hoàng đế mà người ta nói khi say rượu?” ông Bretschneider hỏi.
“Thôi thôi, tôi xin các ông, nói chuyện khác đi,” ông chủ quán Palivec lên tiếng, “các ông biết là tôi không thích những chuyện ấy. Tán gẫu linh tinh rồi hối không kịp.”
“Những gì xúc phạm Hoàng đế mà người ta nói khi say rượu ư?” Švejk nhắc lại. “Đủ thứ. Người ta uống rượu vào rồi say, rồi nghe quốc ca Áo, rồi người ta sẽ bắt đầu nói đủ thứ. Người ta nghĩ ra bao nhiêu chuyện về Hoàng đế, nhiều đến mức giá mà nó chỉ đúng một nửa thôi thì cũng đủ cho
Hoàng đế phải xấu hổ cả đời. Nhưng mà quả thật là ông già không đáng bị nói xấu như thế. Ông cứ nghĩ mà xem. Rudolf, con trai Hoàng đế, đã chết lúc còn trẻ, còn đang sung sức.⦾ Hoàng hậu Elisabeth của Hoàng đế thì bị
đâm chết bằng cái giũa, Đại Công tước Johann⦾ biến mất, còn Hoàng đế Mexico, em trai Hoàng đế, thì bị xử bắn ở chân tường thành một pháo đài nào đấy.⦾ Bây giờ thì Hoàng đế đến tuổi già rồi mà chú của ngài lại bị bắn chết. Họa có là người bằng sắt mới chịu đựng nổi từng ấy chuyện. Ấy thế mà một thằng say rượu nào đấy lại đi chửi bới Hoàng đế. Nếu bây giờ mà có việc gì xảy ra thì tôi sẽ tự nguyện đi phục vụ và xả thân vì Hoàng đế.”
Švejk uống một hơi bia dài và tiếp tục:
“Các ông nghĩ là Hoàng đế chịu để yên thế ư? Thế thì các ông chưa biết rõ ngài. Chiến tranh với người Thổ Nhĩ Kỳ sẽ phải xảy ra. Các ngươi giết chú của ta thì ta vả vào mặt các ngươi. Chiến tranh là cái chắc. Serbia và Nga sẽ giúp chúng ta trong cuộc chiến tranh ấy. Sẽ đánh thẳng tay, sẽ có đổ máu!”
Trong giây phút tiên tri ấy, trông Švejk thật đẹp. Gương mặt hồn nhiên tươi cười tròn trặn như trăng rằm của anh rạng rỡ vì hào hứng. Anh thấy mọi việc đều rõ ràng như vậy.
“Có thể là,” Švejk tiếp tục nói về tương lai của nước Áo, “trong trường hợp có chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ, người Đức sẽ đánh chúng ta, bởi vì người Đức và người Thổ Nhĩ Kỳ về phe với nhau. Lũ ấy là đồ đểu không ai bằng trên thế giới. Nhưng mà chúng ta có thể liên kết với Pháp. Từ năm bảy mốt Pháp đã nhăm nhe muốn đánh Đức rồi. Mọi việc sẽ xảy ra, chiến tranh sẽ xảy ra, tôi sẽ không nói gì hơn nữa.”
Ông Bretschneider đứng dậy và trịnh trọng nói:
“Anh sẽ không phải nói gì hơn nữa, anh đi với tôi ra ngoài hành lang, tôi có chuyện nói với anh.”
Švejk đi theo viên cảnh sát mặc thường phục ra hành lang. Ở ngoài đó, anh hơi ngạc nhiên thấy người khách cùng uống bia với mình chỉ cho anh xem huy hiệu có hình con đại bàng⦾ và tuyên bố bắt anh, sẽ giải lên sở cảnh sát ngay lập tức. Švejk cố gắng giải thích rằng có lẽ là người ấy nhầm, chứ anh hoàn toàn vô tội, rằng anh đã không hề nói một lời nào có thể xúc phạm đến ai.
Nhưng Bretschneider bảo Švejk rằng thực sự anh đã phạm một số tội, và một trong những tội ấy là tội phản quốc.
Cả hai quay trở lại quán và Švejk nói với ông Palivec:
“Ông tính cho tôi năm cốc bia với cái bánh sừng bò có xúc xích. Còn bây giờ thì rót cho tôi một ly rượu mận nữa, rồi tôi phải đi, vì tôi bị bắt.”
Ông Bretschneider cũng đưa cho ông Palivec xem huy hiệu cảnh sát mang hình chim đại bàng, nhìn ông ấy một lúc rồi hỏi:
“Ông có vợ hả?”
“Vâng.”
“Bà ấy có thể trông nom cửa hàng trong lúc ông đi vắng được không?” “Trông được.”
“Ờ, vậy thì ổn rồi, ông chủ quán ạ,” Bretschneider vui vẻ nói, “ông gọi bà ấy đến đây, giao cửa hàng cho bà ấy, tối nay chúng tôi đến dẫn ông đi.”
“Đừng lo lắng làm gì cả,” Švejk an ủi ông chủ quán, “tôi đi đến đấy chỉ vì tội phản quốc thôi!”
“Nhưng còn tôi thì vì tội gì kia chứ?” ông Palivec ca thán. “Tôi đã thận trọng đến thế cơ mà!”
Bretschneider bật cười và đắc thắng trả lời: “Vì ông đã nói là ruồi ỉa vào Hoàng đế. Rồi người ta sẽ tẩy não ông để cho ông quên Hoàng đế đi!”
Và dưới sự tháp tùng của viên cảnh sát mặc thường phục, Švejk rời quán U Kalicha. Khi ra đến ngoài đường, anh nhìn vào mặt hắn rồi cười thân thiện và hỏi:
“Tôi có phải đi xuống vỉa hè không?”
“Tại sao?”
“Tại vì tôi nghĩ là khi bị bắt thì tôi không có quyền được đi trên vỉa hè.”
Khi cả hai vào đến cổng sở cảnh sát, Švejk nói: “Thế mà chả mấy chốc đã tới nơi rồi. Ông có hay đến quán U Kalicha không?”
Trong khi người ta đưa Švejk vào phòng tiếp ở sở cảnh sát, ông Palivec giao việc trông coi quán U Kalicha cho bà vợ đang nước mắt ngắn dài. Ông an ủi vợ theo cách đặc biệt của mình:
“Đừng khóc, đừng gào! Chỉ vì cái ảnh Hoàng đế bị ruồi ỉa thì họ làm gì được tôi cơ chứ!”
Thế là người lính tốt Švejk đã can thiệp đến Đại chiến Thế giới một cách duyên dáng đáng yêu như vậy. Việc Švejk nhìn thấy được tương lai xa xôi sẽ là điều các nhà sử học quan tâm đến. Nếu mà sau này, tình hình có diễn biến khác đi so với những gì anh đã nói ở quán U Kalicha, thì chúng ta phải nhớ rằng anh không hề bao giờ được đào tạo, chuẩn bị gì về những kiến thức ngoại giao.
švejk ở sở cảnh sát
V
ụ ám sát ở Sarajevo đẩy đến sở cảnh sát nhiều nạn nhân. Người nọ kế người kia, họ bị giải đến đó, và ông thanh tra cảnh sát già ở phòng tiếp nhận bảo họ bằng giọng tử tế:
“Dính vào chuyện Ferdinand liệu có bõ không hả?”
Người ta giam Švejk ở một trong nhiều phòng tạm giam trên tầng hai. Có sáu người làm bạn cùng phòng với anh. Năm người trong số ấy ngồi
xung quanh bàn, người đàn ông trung tuổi còn lại thì ngồi trên cái giường sắt ở góc phòng, như thể muốn tránh xa những người kia.
Švejk bắt đầu hỏi từng người lý do tại sao bị giam. Năm người ngồi ở bàn đều trả lời hầu như hoàn toàn giống nhau: “Tại vì Sarajevo!” – “Tại vì Ferdinand!” – “Tại vì vụ ám sát ngài Đại Công tước!” – “Vì Ferdinand!” – “Tại vì người ta giết ngài Đại Công tước ở Sarajevo!”
Người đàn ông thứ sáu, người cố tránh xa năm người kia, thì nói rằng không muốn dính líu gì đến họ cả, để khỏi bị đổ vấy lên đầu chuyện ám sát Đại Công tước, rằng anh ta bị giam ở đây chỉ vì giết một ông già ở Holice để cướp của thôi.
Švejk ngồi vào bàn giữa những kẻ chống đối, những người đã kể đến chục lần về chuyện vì sao họ bị bắt.
Trừ một trường hợp riêng biệt, còn thì tất cả đều gặp họa hoặc ở quán ăn, ở quán rượu, hay ở quán cà phê. Trường hợp riêng biệt đó là chuyện của một ông to béo khác thường, có đeo kính, với đôi mắt mọng lên vì khóc. Ông này bị bắt ở nhà, bởi vì hai ngày trước khi xảy ra vụ ám sát ở Sarajevo, ông đã trả tiền ăn ở quán Brejška cho hai sinh viên, đồng thời là hai kỹ thuật viên người Serbia. Rồi thám tử Brix đã tận mắt thấy ông ấy say rượu và ngồi cùng với hai người ấy trong quán Montmart ở phố Řetožová, và theo biên bản ông đã ký tên khẳng định, thì ông cũng lại trả tiền ăn cho họ. Trả lời các câu hỏi điều tra sơ bộ ở sở cảnh sát, ông cứ kêu và lặp đi lặp lại:
“Tôi có cửa hàng giấy.”
Và ngược lại, người ta cũng nói đi nói lại với ông là “Cái ấy chẳng thanh minh được cho ông!”
Người đàn ông bé nhỏ bị bắt ở quán rượu là một giáo sư dạy môn lịch sử, ông đã kể cho ông chủ quán ở đấy nghe về lịch sử các vụ ám sát. Ông bị bắt đúng vào lúc nói lời kết thúc phân tích khía cạnh tâm lý của từng vụ ám sát:
“Ý tưởng ám sát đơn giản như quả trứng của Colombus.”
“Cũng đơn giản như việc ông sẽ đi Pankrác,” khi hỏi cung giáo sư, ủy viên cảnh sát bổ sung tuyên bố của giáo sư như vậy.
Người chống đối thứ ba là chủ tịch một hội từ thiện mang tên Dobromil ⦾ ở Hodkovičky. Đúng vào ngày xảy ra vụ ám sát, hội Dobromil tổ chức một buổi tiệc sân vườn có kèm biểu diễn ca nhạc. Ông hạ sĩ hiến binh đến yêu cầu mọi người giải tán, rằng nước Áo đang có tang, nhưng ông chủ tịch của hội Dobromil nói một cách nhẹ nhàng: “Xin ông đợi một chút, để họ hát xong Hei, Slované⦾ đã.” Bây giờ, ông ấy ngồi đó, cúi gục đầu và than vãn:
“Tháng Tám này chúng tôi bầu ban chấp hành mới, nếu đến lúc ấy tôi vẫn chưa về nhà thì có thể là người ta sẽ không bầu tôi. Mà tôi thì đã làm chủ tịch hội được mười nhiệm kỳ rồi, tôi chịu sao nổi cái nhục nhã ấy.”
Ngài Ferdinand quá cố còn gây trớ trêu cho người bị giam thứ tư. Đó là người đàn ông phẩm cách trong sạch và chưa từng có điều tiếng gì bao giờ. Suốt hai ngày trời, ông né tránh hết thảy mọi chuyện trò về Ferdinand. Mãi cho đến tận lúc chơi mariáš⦾ vào buổi tối ở quán cà phê, khi cắt quân vua mang hình quả sồi bằng quân bài chủ là con bảy mang hình quả cầu,⦾ ông mới nói:
“Bảy viên giống như ở Sarajevo!”
Còn người đàn ông thứ năm, như đã tự kể là bị giam “tại vì người ta giết ngài Đại Công tước ở Sarajevo,” thì cho đến bây giờ vẫn còn đang dựng tóc gáy, thành ra cái đầu ông trông giống như đầu của con chó Schnauzer. Người ta bắt ông ở cửa hàng ăn, mặc dù ở đấy ông đã không hề nói một lời nào, thậm chí cũng không hề đọc báo, về việc Ferdinand bị giết. Lúc ấy, ông đang ngồi một mình ở bàn thì có một người đàn ông đi tới, ngồi xuống chiếc ghế đối diện và hỏi nhanh:
“Ông đã đọc chưa?”
“Chưa đọc.”
“Ông có biết việc ấy không?”
“Không biết.”
“Nhưng mà ông biết đó là việc gì chứ?”
“Không biết, tôi không bận tâm đến.”
“Nhưng mà ông nên quan tâm đến việc ấy chứ!”
“Tôi không biết nên quan tâm đến việc gì. Tôi hút điếu xì gà, uống mấy cốc bia, ăn chiều, nhưng báo thì không đọc. Báo chí viết giả dối, tôi bực bội để mà làm gì?”
“Thế ông không quan tâm cả đến vụ giết người ở Sarajevo à?”
“Tôi chẳng quan tâm đến bất kỳ một vụ giết người nào cả, cho dù nó ở Praha, ở Vienna, ở Sarajevo, hay là ở London. Cái ấy là việc của chính quyền, của tòa án và cảnh sát. Nhưng mà nếu có lúc nào, ở đâu, có ai bị người ta giết thì đáng đời hắn thôi, chứ sao lại ngu, lại không thận trọng đến nỗi để bị giết chết.”
Đấy là những lời cuối cùng ông ấy nói về chuyện này. Từ lúc đó, cứ năm phút một lần, ông lại kêu: “Tôi vô tội, tôi vô tội!”
Ông đã kêu như thế ở cổng vào sở cảnh sát, rồi sẽ kêu như vậy khi bị giải đến tòa án hình sự ở Praha, rồi cũng với những lời ấy ông bước vào phòng giam trong nhà tù.
Sau khi nghe tất cả những câu chuyện chống đối khủng khiếp ấy, Švejk thấy nên giải thích cho mọi người về tình trạng hoàn toàn vô vọng của họ.
“Tất cả chúng ta đang ở trong tình thế xấu lắm,” anh bắt đầu những lời an ủi, “các ông bảo rằng không thể có gì xảy ra được với các ông và với tất cả chúng ta là không đúng. Chúng ta có cảnh sát để làm gì, nếu mà cảnh sát không trừng phạt chúng ta vì cái mồm ba hoa của ta. Phải cái thời nguy hiểm, khi mà các Đại Công tước bị bắn chết, thì không ai được phép ngạc nhiên là bị giải đến sở cảnh sát. Người ta làm tất cả những việc này là vì tiếng tăm của Đại Công tước, để khuếch trương danh tiếng của ngài trước khi người ta chôn ngài. Còn ở đây, chúng ta càng đông bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu, vì sẽ vui hơn. Hồi tôi còn phục vụ trong quân đội, có khi đến một nửa số chúng tôi bị giam. Và có biết bao nhiêu người vô tội đã bị kết án. Và cái điều ấy không chỉ trong quân đội, mà còn ở tòa án nữa. Tôi nhớ một lần, có một cô bị kết tội là đã bóp chết hai đứa con sinh đôi mới đẻ. Cho dù cô ấy đã thề là không thể bóp chết hai đứa sinh đôi được, khi mà cô ấy chỉ đẻ ra có mỗi một đứa con gái, rằng cô ấy đã bóp chết được nó mà con bé hoàn toàn không đau đớn gì, rốt cuộc cô ấy vẫn bị kết án về tội giết hai người. Hay là chuyện một tay Digan⦾ vô tội ở Záběhlice. Trong đêm Giáng sinh, hắn lẻn vào cửa hàng thực phẩm và tạp hóa. Hắn đã thề là
ẳ
chỉ vào đấy để sưởi ấm thôi, nhưng nói thế cũng chẳng đỡ hơn được tí nào. Một khi mà tòa án đã chạm tay vào cái gì thì nguy cái đó. Nhưng mà cái nguy ấy cũng phải có các ông ạ. Có thể không phải tất cả mọi người đều là những kẻ tồi tàn, như vẫn thường có giả thiết như vậy, nhưng ngày nay thì làm sao mà phân biệt được ai là người tốt, ai là kẻ xấu, nhất là bây giờ đang lúc hệ trọng, khi mà người ta giết chết ngài Ferdinand. Hồi tôi còn phục vụ trong quân đội tại Budějovice, thì có kẻ đã bắn chết con chó của ông đại úy ở trong rừng phía sau sân tập. Khi biết chuyện, ông ấy cho gọi tất cả chúng tôi đến, rồi đứng đấy và bảo cứ đếm đến mười, trúng ai là thứ mười thì hãy đứng ra khỏi hàng. Còn tôi thì khỏi phải nói, tất nhiên tôi cũng là người thứ mười. Thế là chúng tôi đứng nghiêm không hề chớp mắt. Ông ấy đi quanh chúng tôi và nói: ‘Bọn đốn mạt, đồ khốn nạn, lũ khốn kiếp, quân độc ác bất nhân, vì con chó mà tôi chỉ muốn biệt giam các anh, bắn chết các anh, băm xác các anh ra, bỏ các anh vào chảo. Để các anh biết là tôi chẳng thương tiếc gì các anh, tất cả sẽ bị phạt mười bốn ngày không được rời doanh trại?’ Đấy, các ông thấy chưa, ấy là hồi đó mới chỉ vì con chó thôi đấy, chứ bây giờ thì đến tận ngài Đại Công tước cơ mà. Vì thế phải có thứ gây kinh hãi tột độ, để xứng tầm với cái đám tang ấy chứ.”
“Tôi vô tội, tôi vô tội,” người đàn ông có tóc dựng đứng lại kêu lên.
“Đức Chúa Jesus cũng là người vô tội,” Švejk nói, “vậy mà vẫn bị người ta đóng đinh trên thập tự giá. Không ở đâu, không bao giờ, và không ai quan tâm đến một người vô tội nào cả. Như người ta vẫn thường nói với chúng tôi trong quân đội là Maul halten und weiter dienen!⦾ Đó là cái tốt nhất và tuyệt vời hơn cả.”
Nói đoạn, Švejk ngả lưng xuống cái giường sắt và ngủ ngon lành.
Trong khi đó, có hai người nữa bị giải đến. Một người là người Bosna, ông này đi đi lại lại trong phòng, nghiến răng kèn kẹt và cứ mở miệng ra là chửi: ‘Jebem ti dušu.’⦾ Ông ấy đang rất sợ là cái rổ hàng bán rong của mình sẽ bị mất ở sở cảnh sát.
Người thứ hai chính là ông chủ quán Palivec. Nhìn thấy Švejk là người quen, ông bèn đến đánh thức Švejk dậy và nói với anh bằng một giọng đầy bi thảm:
“Tôi cũng đã đến đây rồi.”
“Quả thật là tôi mừng lắm. Tôi biết là ông ấy sẽ giữ lời, khi bảo ông rằng họ sẽ đến dẫn ông đi. Chính xác như thế là cái tốt.”
Nhưng ông Palivec nói rằng sự chính xác ấy chẳng là cái cứt gì cả, và hỏi khẽ Švejk xem đám người bị bắt này có phải là bọn trộm cắp không, vì nếu thế thì có thể làm tổn hại đến thương nhân như ông. Švejk nói cho ông Palivec biết là ở đây, ngoài một người bị bắt vì giết ông già ở Holice để cướp của, tất cả mọi người còn lại cùng phe với họ, tức là đều bị bắt vì ngài Đại Công tước.
Ông Palivec lấy làm tự ái và bảo rằng ông đến đây không phải vì một Đại Công tước ngu ngốc nào cả, mà là vì Hoàng đế. Và bởi vì mọi người bắt đầu tỏ ra quan tâm đến việc đó, ông kể cho họ nghe về chuyện lũ ruồi phóng uế lên Hoàng đế như thế nào.
“Quân vô loại, chúng làm ô uế ngài,” ông kết thúc chuyện của mình “cuối cùng thì lũ ruồi ấy đẩy tôi vào nhà tù. Tôi sẽ không tha tội cho chúng đâu!” ông thêm lời đe dọa.
Švejk lại ngủ tiếp, nhưng không được lâu, bởi vì có người tới dẫn anh đi hỏi cung.
Thế là bước lên bậc thang dẫn tới nơi hỏi cung ở bộ phận thứ ba, Švejk mang cây thập tự giá của mình lên đỉnh đồi Golgotha mà không hề ý thức rằng mình là tử đạo.
Khi nhìn thấy tấm biển Cấm khạc nhổ ra hành lang, Švejk xin viên cảnh sát cho phép nhổ vào ống nhổ, rồi với gương mặt rạng rỡ hồn nhiên, anh bước vào văn phòng và cất tiếng chào:
“Xin chào tất cả các ông ạ!”
Thay cho câu trả lời, một người nào đó huých vào sườn anh, rồi đi đến đứng trước cái bàn. Ngồi phía sau bàn là một người đàn ông có bộ mặt viên chức lạnh lùng với những đường nét hung ác của thú dữ, trông như thể ông ta vừa bước ra từ sách Các kiểu tội phạm của Lombroso⦾.
Người đàn ông ấy nhìn Švejk một cách hung tợn và bảo: “Đừng ngây cái mặt đần độn ra như thế!”
“Biết làm sao được ạ?” Švejk nghiêm trang trả lời, “tôi đã bị xuất ngũ vì ngu ngốc, hội đồng đặc biệt đã chính thức tuyên bố tôi là người ngu độn. Vâng, tôi là thằng ngu chính thức.”
Người đàn ông có vẻ mặt giống kiểu tội phạm nghiến răng: “Cứ theo cái anh bị buộc tội và các tội anh có thì anh là người bình thường.”
Rồi ông ta kể ra một loạt đủ các tội của Švejk, trước tiên là tội phản quốc và cuối cùng là tội xúc phạm Hoàng đế và các thành viên của triều đình. Nổi bật trong những tội ấy là việc tán thành vụ ám sát ngài Đại Công tước Ferdinand, từ đó dẫn đến một loạt tội phạm mới mà trong đó rõ ràng có tội kích động, bởi nó xảy ra nơi công cộng.
“Thế nào, anh bảo sao, hả?” người đàn ông có vẻ mặt hung dữ thú vật đắc thắng hỏi.
“Dạ, cái đó nhiều thật,” Švejk trả lời một cách hồn nhiên, “cái gì nhiều quá thì cũng không tốt.”
“Đấy, thấy chưa, anh thừa nhận điều ấy!”
“Tôi thừa nhận tất cả mọi thứ ạ, phải nghiêm khắc, chứ không nghiêm khắc thì chẳng ai làm được việc gì. Giống như hồi tôi còn phục vụ trong quân đội…”
“Câm mồm!” ông ủy viên cảnh sát hét lên, “chỉ khi nào tôi hỏi thì anh mới được nói, hiểu chưa?”
“Sao mà không hiểu ạ?” Švejk nói, “xin báo cáo là tôi có thể hiểu được ngọn ngành tất cả những gì ông nói.”
“Anh có quan hệ với ai?”
“Với bà giúp việc của tôi ạ, thưa ông?
“Thế trong số các nhóm chính trị ở đây, anh có quen biết ai không?”
“Có ạ, thưa ông. Con chó cái ạ, tôi mua báo buổi chiều Chính trị dân tộc ⦾.”
Bà Müllerova
“Xéo!” người đàn ông có bộ mặt như thú vật gào lên.
Khi bị giải đi khỏi văn phòng, Švejk nói: “Thưa ông, xin chúc ông ngủ ngon ạ.”
Trở về phòng tạm giam, Švejk báo cho tất cả mọi người bị giam biết rằng hỏi cung chỉ là trò đùa. “Họ quát tháo ta một tí, nhưng cuối cùng thì họ đuổi ta đi. Còn trước đây ư,” Švejk tiếp tục, “trước đây thì nó tàn bạo hơn nhiều. Ngày xưa, tôi có đọc một quyển sách, ở đấy viết là bị cáo phải đi trên sắt nung đỏ, phải uống chì nóng chảy, làm thế để biết bị cáo có phải là người vô tội không. Hay nếu anh ta không chịu thú tội thì người ta lồng giày Tây Ban Nha⦾ vào chân anh ta rồi kéo lên thang, hay người ta đốt mạng sườn bị cáo bằng đuốc cứu hỏa, giống như ngày xưa đã làm như vậy với Đức Thánh Jan Nepomucký⦾. Nghe bảo Đức Thánh kêu gào ghê lắm, kêu cho đến tận lúc bị bỏ vào bao không thấm nước rồi bị quẳng từ cầu Eliška xuống sông. Những trường hợp như vậy rất nhiều, ấy là chưa kể còn bị chẻ làm tư, hay bị cắm vào cọc ở chỗ nào đó gần Viện Bảo tàng nữa. Thành ra khi chỉ bị giam vào ngục tối thôi thì kẻ bị giam cảm thấy như
được sống lại. Thời nay thì bị bắt giam chỉ là trò đùa thôi,” Švejk hào hứng tiếp tục, “ta không bị chẻ làm tư này, chẳng bị mang giày Tây Ban Nha này, ta có giường sắt này, ta có bàn này, ta có ghế này, chẳng bị chen chúc nhau này, người ta cho ta ăn súp này, cho ta ăn bánh mì này, cho nước uống này,
chỗ đi vệ sinh thì ở sát bên mũi này. Ở đâu đâu cũng thấy sự tiến bộ. Chỉ có điều là quả thật chỗ hỏi cung hơi xa, phải đi qua ba hành lang ở tầng trên, nhưng mà được cái ngoài hành lang sạch sẽ và nhộn nhịp. Người ta
giải người này đến chỗ này, giải kẻ khác đến chỗ kia, người trẻ người già, đàn ông đàn bà, đủ cả. Ta thấy vui vì không phải ở đó một mình. Ai cũng hài lòng đi đường mình và không phải sợ sẽ nghe thông báo ở phòng hỏi cung là: ‘Chúng tôi đã bàn với nhau rồi, ngày mai anh sẽ bị chẻ làm tư, hoặc bị thiêu sống, tùy theo nguyện vọng cuối cùng của anh.’ Chắc chắn đó là cái khó chọn, tôi cho rằng vào lúc ấy thì nhiều người trong chúng ta cũng sẽ bối rối lúng túng, các ông ạ. Thế đấy, các điều kiện thời nay tốt hơn nhiều cho chúng ta.”
Vừa lúc Švejk kết thúc lời biện hộ cho nhà tù hiện đại của công dân thì người coi phòng gian mở cửa gọi:
“Švejk, mặc quần áo vào để đi hỏi cung.”
“Vâng tôi sẽ mặc quần áo,” Švejk trả lời, “tôi chả phản đối gì chuyện đó cả, nhưng mà tôi e rằng có nhầm lẫn gì chăng, vì tôi đã bị đuổi khỏi phòng hỏi cung rồi. Hơn nữa, tôi sợ là các ông ở cùng phòng đây sẽ giận tôi, rằng tôi được đi hỏi cung liền hai lần, còn họ thì cho đến tận bây giờ, chiều tối rồi mà vẫn chưa được đến đấy lần nào. Họ có thể ghen tị với tôi.”
“Ra đây ngay, đừng lôi thôi!” Đó là câu đáp lại lời nói quân tử của Švejk.
Thế là Švejk lại đứng trước người đàn ông có khuôn mặt tội phạm. Không hề nói lời mở đầu, ông ta hỏi Švejk thẳng thừng và nghiêm khắc:
“Anh có thú nhận tất cả không?”
Švejk nhìn kẻ tàn nhẫn đó bằng đôi mắt xanh hiền hậu và nhẹ nhàng trả lời:
“Thưa ông, nếu ông muốn tôi thú nhận thì tôi thú nhận, cái đó chẳng có hại gì cho tôi. Nhưng mà nếu ông bảo rằng: ‘Švejk, anh đừng thú nhận một
tội nào cả,’ thì tôi sẽ quanh co chối cãi cho đến hơi thở cuối cùng.”
Người đàn ông nghiêm khắc ấy viết cái gì đó lên giấy rồi đưa bút cho Švejk, bảo anh hãy ký tên vào đấy.
Thế là Švejk ký tên vào tờ tố giác của Bretschneider có chú thích này:
Tất cả những lời buộc tội tôi trên đây đều dựa trên sự thật.
— Josef Švejk
Sau khi ký, Švejk quay sang hỏi người đàn ông nghiêm khắc: “Tôi có còn phải ký thêm gì nữa không ạ? Hay là sáng mai lại đến đây?”
“Sáng ngày mai người ta sẽ giải anh đến tòa án hình sự.” Švejk nhận được câu trả lời.
“Vào lúc mấy giờ ạ, thưa ông? Ối trời, để tôi khỏi ngủ quên mất.”
“Xéo!” Lần thứ hai trong ngày, tiếng gầm ấy vang lên từ phía bên kia chiếc bàn trước mặt Švejk.
Khi trở lại nơi ở mới sau song sắt, Švejk nói với viên cảnh sát dẫn anh: “Tất cả mọi thứ ở đây đều dễ dàng và nhanh như chớp.”
Ngay sau khi cửa đóng lại, tất cả mọi người trong phòng giam đều tới tấp hỏi anh đủ thứ, và Švejk trả lời rõ ràng:
“Tôi vừa mới thú tội là có lẽ tôi đã giết ngài Đại Công tước.”
Cả sáu người đàn ông kinh hoàng rúc vào các mảnh chăn đầy rận, chỉ có ông người Bosna nói:
“Dobro došli.”⦾
Ngả mình lên cái giường sắt, Švejk nói:
“Dở quá, ở đây chẳng có đồng hồ báo thức.”
Buổi sáng hôm sau, người ta đánh thức Švejk dậy mà không cần đến đồng hồ báo thức, rồi đúng vào lúc sáu giờ người ta chở anh đến tòa án hình sự trong chiếc xe cảnh sát màu xanh lá cây chuyên vận chuyển tù nhân.
“Dậy sớm thì làm được nhiều việc.” Švejk nói với những người đồng hành, khi chiếc xe màu xanh lăn bánh rời cổng sở cảnh sát.
švejk và các bác sĩ của tòa án
N
hững căn phòng sạch sẽ và ấm cúng ở tòa án hình sự địa phương gây cho Švejk ấn tượng thoải mái nhất – các bức tường màu trắng, các chấn song sắt màu đen và cả giám thị trưởng nhà tù tạm giam, ông Demartini to béo với cái cổ áo màu tím và vòng viền cũng màu tím ở trên chiếc mũ cảnh sát. Màu tím không những chỉ là màu được quy định ở đây, mà còn là màu quy định cho các buổi lễ Công giáo vào ngày Thứ Tư Lễ Tro và ngày Thứ Sáu Tốt lành.
Lịch sử vẻ vang của thời Roma thống trị Jerusalem đã quay trở lại. Người ta giải tù nhân đến trình trước những Pontius Pilatus⦾ của năm 1914 ở tầng mặt đất. Và các dự thẩm viên, những Pilatus của thời đại mới, lẽ ra phải rửa tay vì danh dự thì lại cho người ra quán Teissig mua thịt bò xốt ớt và bia Pilsen về, rồi sau đó liên tục gửi cáo trạng mới lên công tố viên.
Tại đây, phần lớn tất cả mọi logic đều bị mất đi, và điều luật thì chiến thắng – nó bóp cổ, nó làm điều ngu xuẩn, nó giận dữ, nó tươi cười, nó đe dọa, nó giết người và không tha thứ. Các dự thẩm viên là những kẻ tung hứng luật pháp, là những người thông thạo các bộ luật, là những kẻ ăn sống nuốt tươi bị cáo, là những con hổ của rừng thẳm Áo luôn nhăm nhe nhảy vô bị cáo theo con số của các điều luật.
Nhưng tương tự như ở sở cảnh sát, cũng có mấy ông là trường hợp ngoại lệ. Họ không thật coi trọng luật pháp, bởi vì ở đâu mà chả tìm ra được bông lúa giữa đám cỏ.
Người ta dẫn Švejk tới một ông như thế để lấy cung. Đó là một người đàn ông luống tuổi trông có vẻ hiền hậu tốt bụng. Trước đây, khi thẩm vấn kẻ giết người có tiếng tên là Valeš, bao giờ ông cũng không quên bảo hắn: “Xin mời ông ngồi, ông Valeš, ở đây đang có một cái ghế trống.”
Khi Švejk được giải đến, với vẻ thân thiện nhã nhặn vốn có, ông mời Švejk ngồi xuống rồi nói:
“À, vậy ra anh là Švejk đấy nhỉ?”
“Vâng ạ, tôi nghĩ dứt khoát tôi phải là Švejk ạ,” Švejk trả lời, “bởi vì bố tôi tên là Švejk và mẹ tôi là bà Šveiková. Tôi sẽ khiến họ phải hổ thẹn, nếu tôi phủ nhận tên mình.”
Nụ cười tử tế thoáng qua khuôn mặt ông dự thẩm:
“Thế nào? Anh đã làm lắm chuyện rõ là hay. Anh phải chịu trách nhiệm về nhiều việc.”
“Vâng, tôi bao giờ cũng chịu trách nhiệm về nhiều việc ạ,” Švejk nở nụ cười còn tử tế, thân thiện hơn so với dự thẩm viên. “Kính thưa ông, có thể tôi còn chịu trách nhiệm về nhiều việc hơn cả ông nữa ạ.”
“Đúng thế, cứ theo biên bản mà anh đã ký thì đó là cái rõ ràng.” Ông dự thẩm nói bằng giọng không kém thân thiện. “Này, thế ở sở cảnh sát người ta có cưỡng ép gì anh không đấy?”
“Không đâu ạ, làm gì có chuyện ấy, kính thưa ông! Chính tôi đã hỏi họ xem tôi có phải ký cái đó không, và họ bảo tôi hãy ký, thế là tôi nghe lời họ. Chẳng lẽ tôi lại đi cãi nhau với họ chỉ vì cái chữ ký của mình, vì làm thế thì dứt khoát tôi chẳng được gì. Phải có kỷ luật trật tự chứ ạ!”
“Này, anh Švejk, anh có cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh không?”
“Dạ, hoàn toàn khỏe mạnh thì không ạ, thưa ông. Tôi bị thấp khớp, phải bôi thuốc mỡ ạ.”
Người đàn ông luống tuổi lại cười thân thiện: “Này, anh bảo sao, nếu chúng tôi đưa anh sang các bác sĩ tòa án để kiểm tra?”
“Tôi nghĩ là sức khỏe của tôi không đến nỗi để các bác sĩ phải mất thời gian với tôi đâu ạ. Ở sở cảnh sát cũng có một bác sĩ đã khám cho tôi rồi, xem tôi có bị bệnh lậu không?”
“Nhưng anh ạ, chúng tôi cứ thử gửi anh đến các bác sĩ tòa án xem sao. Chúng tôi sẽ lập hội đồng, cho tạm giữ anh để anh nghỉ ngơi. Còn bây giờ thì tôi hỏi anh một câu nữa: theo biên bản thì nghe nói anh đã tuyên bố và tuyên truyền là chiến tranh sẽ sớm bùng nổ, có phải không?”
“Vâng ạ, kính thưa ông, sẽ bùng nổ trong thời gian sớm nhất ạ.” “Này, thế thỉnh thoảng anh có bị lên cơn không?”
“Dạ, không ạ. Chỉ duy một lần ở quảng trường Karel có một cái ô tô lên cơn suýt đâm tôi thôi, nhưng mà cũng đã lâu lắm rồi ạ.”
Cuộc thẩm vấn dừng lại ở đó. Švejk bắt tay ông dự thẩm rồi trở về phòng mình. Anh nói với những người cùng phòng:
“Thế là vì vụ ám sát ngài Đại Công tước Ferdinand mà bác sĩ tòa án sẽ kiểm tra tôi đấy.”
“Bác sĩ tòa án cũng đã kiểm tra tôi,” một nam thanh niên nói, “lần ấy vì mấy cái thảm mà tôi bị gọi đến bồi thẩm đoàn. Người ta chứng nhận tôi là người có đầu óc đần độn. Bây giờ tôi chiếm cái máy đập lúa chạy hơi nước, nhưng chẳng ai làm gì được tôi. Hôm qua luật sư của tôi bảo là một khi mà người ta đã chứng nhận tôi là người có đầu óc đần độn rồi thì tôi phải tranh thủ lấy đó làm lợi cho mình cả đời.”
“Tôi không tin bọn bác sĩ tòa án một tí nào cả,” một người đàn ông có vẻ mặt thông minh nói, “lần ấy tôi làm giả mạo trái phiếu, nhưng để phòng ngừa mọi tình huống, tôi đã đi nghe các buổi thuyết trình của bác sĩ Heveroch⦾. Khi bị bắt thì tôi đã giả làm người bị bệnh tâm thần, giống hệt như bác sĩ Heveroch đã miêu tả. Tôi cắn vào chân một bác sĩ tòa án của hội đồng giám định, uống cạn lọ mực, rồi, xin lỗi các ông, trước mặt cả hội đồng, tôi đại tiện vào góc phòng. Nhưng vì cắn vào bắp chân một người của họ mà họ chứng nhận tôi hoàn toàn khỏe mạnh, thế là hỏng chuyện.”
“Tôi chẳng hề sợ màn kiểm tra của các ông ấy một tẹo nào,” Švejk tuyên bố. “Hồi tôi còn phục vụ trong quân đội thì có một ông bác sĩ thú y đã kiểm tra tôi rồi, và kết quả rất tốt.”
“Bác sĩ tòa án toàn là bọn đểu giả,” một người bé nhỏ lưng còng nói, “cách đây không lâu, người ta tình cờ đào được một bộ xương ở bãi cỏ nhà tôi, các bác sĩ nói là nó bị giết do một vật cùn đập vào đầu cách đây bốn
chục năm. Tôi ba mươi tám tuổi mà bị bắt giam, mặc dù tôi có giấy chứng nhận lễ Rửa tội, có bản sao giấy khai sinh, cả đăng ký hộ khẩu nữa.”
“Tôi nghĩ là,” Švejk nói, “chúng ta nên nhìn mọi sự với con mắt công bằng hơn. Ai cũng có thể nhầm lẫn, và phải nhầm, nếu mà người ấy phải suy nghĩ nhiều về cái gì đó. Các bác sĩ tòa án cũng chỉ là người, mà con người thì có cái sai lầm của mình. Giống như một lần vào ban đêm ở Nusle, đúng chỗ có cái cầu bắc qua sông Botič, vừa lúc tôi từ quán U Banzetů⦾ về thì có một người đàn ông đi về phía tôi. Hắn quật roi lên đầu tôi, khi tôi ngã lăn xuống đất thì hắn soi đèn nhìn rồi bảo: ‘Nhầm rồi, đây chẳng phải là nó.’ Điên tiết vì nhầm nên hắn quật lên lưng tôi thêm một roi nữa. Nhầm cho đến chết là cái tự nhiên của con người. Cũng giống chuyện một ông nọ ban đêm nhặt được con chó dại gần chết cóng, mang nó về nhà rồi cho vào giường của bà vợ. Sau khi được ủ ấm rồi tỉnh lại, nó cắn cả nhà, cào xé thằng bé con đang nằm trong nôi rồi nuốt chửng luôn. Hay là chuyện nhầm lẫn của tay thợ tiện ở khu nhà chỗ tôi đó. Hắn mở khóa cửa vào một nhà thờ nhỏ ở Podolí vì nghĩ là về nhà mình. Hắn cởi giày trong phòng thánh vì nghĩ là đang ở trong bếp nhà mình. Hắn leo lên nằm trên bàn thờ thánh vì nghĩ là nằm trên giường ở nhà mình. Và hắn đắp lên người mấy tấm vải có thêu chữ thánh, lại còn lấy sách Phúc Âm và mấy quyển sách Thánh khác để gối đầu cho cao nữa. Đến sáng thì bị người coi nhà thờ phát hiện, hắn tỉnh ra và bảo người coi nhà thờ là hắn đã nhầm. Ông này bảo: ‘Nhầm gì mà lại hay thế nhỉ! Tại vì cái nhầm này mà sẽ phải làm lễ dâng hiến đấy.’ Sau đó, tay thợ tiện này phải đến bác sĩ tòa án và các ông ấy đã chứng minh rõ ràng cho hắn biết rằng hắn hoàn toàn tỉnh táo và khỏe mạnh về tinh thần. Bởi lẽ nếu mà say rượu thì hắn đã chẳng thể nào chọc được chìa khóa trúng vào ổ khóa ở cửa nhà thờ. Cuối cùng thì hắn chết ở nhà tù Pankrác. Tôi kể cho các ông nghe chuyện con chó của cảnh sát ở Kladno nhầm lẫn thế nào. Đó là con chó lai sói của ông rytmistr ⦾ Rotter nổi tiếng. Ông ấy nuôi chó và dùng chúng để thử mọi cách với lũ đi phượt lang thang, đến mức mà họ bắt đầu lảng tránh vùng Kladno. Thế là ông ấy ra lệnh bằng cách nào cũng phải bắt được một người đáng nghi ngờ nào đó. Một ngày, cảnh sát giải tới ông Rotter một người ăn mặc rất tử tế mà họ tìm thấy trong rừng ở Lány, lúc ông này đang ngồi trên một gốc cây đã chặt. Ngay lập tức, ông Rotter cho cắt một mẩu vải ở đuôi áo khoác của người ấy, mang nó cho các con chó cảnh sát ngửi, sau đó giải người ấy
đến một cái lò gạch ở ngoại ô rồi thả chó lần theo dấu vết. Chúng tìm thấy người ấy, rồi người ta lại đưa người ấy về. Sau đó, người ấy phải trèo thang để lên tầng mái, rồi nhảy qua tường, nhảy xuống hồ và các con chó cũng nhảy theo. Cuối cùng mới vỡ lẽ ra rằng đấy là một người cấp tiến và là đại biểu quốc hội Séc. Người ấy đi chơi rừng Lány vì đã chán ngấy quốc hội. Vì thế, tôi nói rằng con người là sinh linh hay sai sót, thường hay nhầm, cho dù đó là người có học, hay kẻ ngu si đần độn không có học thì cũng vậy. Kể cả các bộ trưởng cũng nhầm lẫn.”
Hội đồng các bác sĩ tòa án, với nhiệm vụ quyết định xem cái thế giới tinh thần của Švejk có đủ rộng để tương ứng với những tội mà anh bị buộc hay không, gồm có ba người đàn ông vô cùng đáng kính với những ý kiến hoàn toàn khác nhau, ý kiến của một người khác hẳn bất kỳ ý kiến nào của hai người còn lại.
Ở đây, có hiện diện của ba trường phái khoa học cũng như các quan điểm khác nhau của các bác sĩ tâm thần.
Nếu trong trường hợp của Švejk có một sự trùng hợp hoàn toàn giữa các trường phái khoa học đối ngược nhau ấy, thì chỉ có thể đơn giản giải thích được điều đó bằng ấn tượng kinh ngạc mà Švejk mang lại cho cả hội đồng. Bước vào căn phòng, nơi mà trạng thái tinh thần của mình sẽ được nghiên cứu, Švejk hô to khi nhìn thấy chân dung Quốc vương Áo treo ở trên tường: “Hoàng đế Franz Josef đệ nhất vạn tuế, thưa các ông!”
Sự việc thế là hoàn toàn rõ ràng. Biểu hiện tự phát của Švejk đã loại bỏ hàng loạt câu hỏi, chỉ còn lại một số câu hỏi quan trọng nhất, mà dựa vào các câu trả lời có thể khẳng định được ý kiến ban đầu về Švejk trên cơ sở hệ thống của bác sĩ tâm thần Kallerson, bác sĩ Heveroch và một người Anh mang tên Weiking.
“Radi có nặng hơn chì không?”
“Thưa, tôi không cân nó ạ,” Švejk trả lời với nụ cười dễ thương. “Anh có tin vào ngày tận thế không?”
“Trước hết, tôi phải trông thấy ngày tận thế ấy đã ạ.” Švejk thờ ơ trả lời, “nhưng dứt khoát là tôi không chờ nó trong ngày mai ạ.”
“Anh có thể tính được đường kính của trái đất không?”
“Cái đó thì tôi chịu,” Švejk đáp, “nhưng mà thưa các ông, tôi cũng xin đưa ra cho các ông một câu đố: có một cái nhà bốn tầng, mỗi một tầng có tám cửa sổ. Trên mái nhà có hai cửa sổ mái và hai ống khói. Trong mỗi một tầng có hai người ở thuê. Bây giờ thì xin các ông hãy nói cho tôi biết: bà của người coi nhà chết vào năm nào?”
Các bác sĩ tòa án đưa mắt nhìn nhau đầy ý nghĩa, nhưng dù sao thì một người còn hỏi câu này nữa:
“Anh có biết mực sâu nhất của Thái Bình Dương là bao nhiêu không?”
“Thưa, cái ấy tôi không biết,” Švejk trả lời, “nhưng mà tôi nghĩ là dứt khoát nó phải sâu hơn chỗ sông Vltava ở bên dưới vách đá của Vyšehrad⦾ ạ.”
Chủ tịch hội đồng hỏi ngắn gọn: “Đã đủ chưa?” nhưng dẫu sao thì một thành viên nữa của hội đồng còn muốn đặt câu hỏi này:
“12.897 nhân 13.863 là bao nhiêu?”
“729,” Švejk trả lời trong nháy mắt.
“Tôi nghĩ như vậy là hoàn toàn đủ,” chủ tịch hội đồng nói, “các ông có thể giải bị cáo trở về chỗ cũ được rồi.”
“Xin cảm ơn các ông,” Švejk kính cẩn lên tiếng, “đối với tôi như vậy cũng hoàn toàn đủ ạ.”
Sau khi Švejk đi khỏi, cả hội đồng ba người nhất trí rằng, theo tất cả các luật tự nhiên do các nhà tâm thần học đã phát minh ra thì Švejk rõ ràng là một kẻ đần độn và ngu si. Ngoài những điều khác ra thì bản báo cáo gửi dự thẩm viên cũng còn có ghi thế này:
Chúng tôi, các bác sĩ tòa án ký tên dưới đây, khẳng định sự hoàn toàn đần độn và ngu ngốc bẩm sinh của Josef Švejk. Câu nói “Hoàng đế Franz Josef đệ nhất vạn tuế!” của Josef Švejk khi được dẫn đến trước hội đồng hoàn toàn đủ để chứng tỏ rõ ràng trạng thái tinh thần của kẻ ngu si. Vì thế, hội đồng ký tên dưới đây để nghị:
1. Ngừng điều tra Josef Švejk.
2. Chuyển Josef Švejk sang bệnh viện tâm thần để theo dõi và xác định trạng thái tinh thần của anh ta có nguy hiểm như thế nào đối với mọi
người xung quanh.
Trong khi bản báo cáo ấy được chuẩn bị thì Švejk kể cho những người bạn tù: “Họ chẳng thèm hỏi gì về Ferdinand mà chỉ nói với tôi về những điều còn ngốc nghếch hơn nhiều. Cuối cùng thì chúng tôi bảo là những gì chúng tôi đã nói với nhau là hoàn toàn đủ, rồi chia tay nhau.”
“Tôi chẳng tin ai hết,” người đàn ông bé nhỏ lưng còng có bãi cỏ mà người ta tình cờ đào được bộ xương, bình luận, “toàn quân trộm cắp cả.”
“Ấy, cả quân trộm cắp cũng phải có,” Švejk vừa nói vừa ngả mình xuống nệm rơm, “nếu mà tất cả mọi người đều đối xử tốt với nhau cả thì chẳng mấy chốc mà quay ra đánh đấm nhau ngay.”
švejk bị đuổi khỏi nhà thương điên
S
au này, kể về cuộc sống ở trong nhà thương điên, Švejk đã nói bằng giọng ca ngợi đặc biệt khác thường: “Quả thật, tôi không hiểu tại sao mà những người điên lại bực bội khi được giữ ở trong bệnh viện. Ở đấy người ta có thể bò trần truồng ở trên sàn nhà, rít như chó sói, lên cơn và cắn xé. Nếu mà có ai làm những chuyện ấy ở nơi công cộng thì chắc mọi người sẽ lấy làm ngạc nhiên, chứ ở đấy thì nó là chuyện hết sức bình thường. Ở đây có cái tự do mà cả những người theo chủ nghĩa xã hội cũng không bao giờ mơ tưởng tới được. Người ta có thể tự cho mình là ông Trời hay là Đức Mẹ Maria, hay Giáo hoàng, hay Quốc vương Anh, hay Hoàng đế, hoặc
Đức Thánh Václav⦾. Cho dù người tuyên bố mình là Đức Thánh Václav thì còn đang luôn luôn bị trói, bị trần truồng và đang nằm ở chỗ cách ly. Ở trong nhà thương điên cũng có một người tuyên bố rằng anh ta là Tổng giám mục, anh ta chẳng làm gì khác ngoài việc ăn, rồi còn thải ngay ra đấy cái mà, xin các ông thứ lỗi, đồng nghĩa với chữ phân, nhưng ở đó thì cũng chẳng một ai xấu hổ vì chuyện ấy. Một người khác thì thậm chí tự xưng là Kyrillos và Methodioso⦾ để được ăn hai suất. Rồi có một ông thì nói là đang có chửa và mời tất cả mọi người đến dự lễ rửa tội cho con mình. Rất nhiều trong số những người bị giam là người chơi cờ, chính trị gia, người đánh cá, hướng đạo sinh, người sưu tầm tem và nhà nhiếp ảnh nghiệp dư. Một người bị giam vì mấy cái xoong cũ mà ông ấy gọi là hũ đựng tro cốt. Một người khác thì lúc nào cũng phải mặc áo bó tay để không thể tính được khi nào sẽ là ngày tận thế. Tôi cũng đã nói chuyện với một số giáo sư. Một người trong số đó luôn luôn nói cho tôi biết rằng cái nôi của người Digan nằm ở núi Krkonoše⦾, còn người khác thì giải thích cho tôi là bên trong trái đất còn có một quả đất lớn hơn quả bên ngoài.
“Ở đấy, ai muốn nói gì thì nói, và nói điều mà vừa lúc ấy mình muốn nói, cứ như người ấy đang ở trong quốc hội vậy. Có lúc người ta kể chuyện cổ tích rồi đánh nhau, nếu mà chuyện kết thúc rất không có hậu với một nàng công chúa nào đó. Hung hăng nhất là một ông tự coi mình là tập thứ mười sáu của bộ Từ điển bách khoa Otto⦾, rồi cứ yêu cầu mọi người mở ông ấy ra để tra từ ‘máy đóng thùng carton’, nếu không thì ông ấy toi đời. Ông ấy chỉ bình tĩnh lại khi người ta mặc áo bó cho. Lúc đó, ông ấy hài lòng cho rằng mình được đưa vào máy in ép và xin mọi người cắt xén ông theo kiểu hiện đại. Nói chung, cuộc sống ở trong nhà thương điên giống như cuộc sống trên thiên đường. Anh có thể hò hét, gầm gào, hát hò, khóc lóc, kêu be be, hét inh ỏi, nhảy nhót, cầu nguyện, lộn tròn, đi bằng tứ chi, nhảy lò cò, chạy quanh phòng, khiêu vũ, nhảy chân sáo, ngồi xổm cả ngày, hay leo tường. Không một ai đến bảo anh là: ‘Anh không được phép làm cái này, làm thế là không nên, là đáng xấu hổ, vậy mà anh lại là người có học ư?’ Nhưng thật ra, ở trong bệnh viện cũng có những người điên hoàn toàn im lặng. Chẳng hạn có một nhà sáng chế có học thức liên tục ngoáy tay vào mũi và suốt cả ngày mới nói một lần là: ‘Tôi vừa mới phát minh ra điện.’ Như tôi đã nói với các ông, ở nhà thương điên rất hay và mấy ngày sống ở đó là những khoảnh khắc đẹp nhất trong đời tôi.”
Quả thật như vậy, chỉ nguyên cảnh đón tiếp Švejk ở nhà thương điên, khi người ta đưa anh từ tòa án hình sự đến đó để theo dõi, cũng đã vượt ngoài sự chờ đợi của anh. Trước hết, người ta lột sạch quần áo của anh, đưa cho anh một cái áo khoác dài dùng cho bệnh nhân rồi dẫn anh đi tắm. Người ta thân mật xốc nách anh đi, trong lúc một nam y tá kể cho anh nghe chuyện tiếu lâm về người Do Thái. Ở trong nhà tắm, người ta ngâm anh vào bồn nước nóng, rồi kéo anh ra đứng dưới vòi hoa sen nước lạnh. Họ làm như vậy ba lần, sau đó hỏi anh có thấy thích không. Anh trả lời rằng thế này tốt hơn nhà tắm công cộng ở gần cầu Karel⦾, rằng anh rất thích tắm. “Nếu mà các ông còn cắt móng tay móng chân và cắt tóc cho tôi nữa thì thật là hoàn thiện, tôi sẽ hoàn toàn sung sướng.” Švejk mỉm cười vui vẻ.
Cả nguyện vọng đó cũng được đáp ứng. Sau khi đã kỳ cọ kỹ càng cho Švejk bằng miếng bọt biển, người ta quấn ga trải giường quanh người anh rồi khiêng anh đến khu vực thứ nhất, đặt anh vào giường, đắp chăn và đề nghị anh ngủ.
Cho đến bây giờ, Švejk vẫn kể về chuyện đó một cách xúc động: “Các ông thử tưởng tượng mà xem, họ khiêng tôi, thật sự họ khiêng tôi, lúc ấy tôi thấy sung sướng vô cùng.”
Và Švejk đã ngủ rất ngon. Rồi người ta mang đến một cốc sữa với một ổ bánh mì nhỏ và đánh thức anh dậy. Chiếc bánh được cắt ra thành từng miếng bé. Một người giữ hai tay Švejk, người thứ hai nhúng những miếng bánh đó vào sữa và đút cho anh ăn, giống như nhồi béo con ngỗng vậy. Khi cho Švejk ăn xong, họ xốc nách và dẫn anh ra nhà vệ sinh. Ở đó, họ yêu cầu anh đi tiểu tiện và đại tiện.
Cả về khoảnh khắc đẹp đẽ này Švejk cũng kể bằng giọng cảm động, chắc tôi không phải lặp lại y nguyên lời của Švejk về những gì người ta đã làm với anh, mà chỉ nhắc một câu anh đã nói thôi: “Lúc ấy, một người đã bế tôi.”
Khi đưa Švejk trở lại phòng, người ta đặt anh vào giường và bảo anh ngủ. Khi anh đã ngủ được thì họ đánh thức anh dậy và dẫn anh đến phòng khám. Trần như nhộng, Švejk đứng trước mặt hai người bác sĩ và chợt nhớ đến thời gian vẻ vang đi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự của mình. Tự nhiên, anh buột miệng: “Tauglich.”⦾
“Anh nói cái gì thế?” một bác sĩ lên tiếng. “Anh hãy bước về phía trước năm bước rồi lùi lại năm bước.”
Švejk bước mười bước.
“Tôi đã bảo anh bước năm bước kia mà!” Ông bác sĩ nói. “Vài bước đi đối với tôi chả quan trọng gì,” Švejk trả lời.
Sau đó các bác sĩ yêu cầu Švejk ngồi xuống ghế, một người gõ vào đầu gối anh rồi nói với người kia rằng phản xạ hoàn toàn bình thường. Nhưng người thứ hai lắc đầu và tự gõ đầu gối Švejk, còn người thứ nhất thì vạch mí mắt Švejk để kiểm tra đồng tử. Sau đó cả hai đi tới bàn và nói với nhau mấy từ Latin.
“Này, anh có biết hát không?” một bác sĩ hỏi Švejk. “Anh có thể hát cho chúng tôi nghe một bài hát nào được không?”
“Tất nhiên rồi, thưa các ông,” Švejk trả lời. “Mặc dù tôi không có giọng hát, cũng chẳng có khả năng nghe nhạc nhưng tôi sẽ cố gắng, nếu các ông muốn giải trí.”
Và Švejk hát:
Trong ghế bành sao tu sĩ trẻ
gục đầu vào tay phải của anh?
Đắng cay nóng bỏng hai dòng lệ
chảy dài trên đôi má xanh xao.
“Tiếp theo nữa thì tôi không biết” Švejk nói. “Nếu các ông muốn thì tôi sẽ hát bài này:
Ôi nhớ em, sao anh nhớ em,
nhớ đến đau tim, đến quặn lòng,
khi anh lặng im nhìn nơi ấy,
về chốn xa vời, anh thấy em…”
“Tiếp theo tôi cũng không biết.” Švejk thở dài. “Tôi còn biết lời thứ nhất của bài ‘Quê hương tôi nơi đâu’⦾ cũng biết bài ‘Từ lúc bình minh, tướng Windischgrätz⦾, cùng các binh sĩ bắt đầu chiến tranh’ và cả mấy bài hát dân gian nữa, thí dụ ‘Xin Chúa phù hộ Hoàng đế Franz’ và ‘Khi chúng ta tiến quân về Jaroměř’ cả bài ‘Chúng con ca tụng Đức Mẹ Maria ngàn lần’...”
Hai ông bác sĩ nhìn nhau rồi một ông hỏi Švejk: “Này, anh đã được kiểm tra tâm thần bao giờ chưa?”
“Ở trong quân đội ạ,” Švejk trả lời một cách trịnh trọng và tự hào, “tôi đã được các bác sĩ quân y chính thức công nhận là kẻ ngu độn.”
“Tôi có cảm giác là anh giả vờ.”
“Thưa các ông,” Švejk bào chữa, “tôi hoàn toàn không giả vờ, tôi là người thật sự ngu độn, các ông có thể hỏi Văn phòng của trung đoàn 91 ở České Budějovice, hoặc Sở chỉ huy dự bị ở Karlín.”
Người có tuổi hơn trong hai bác sĩ phẩy tay bất lực, rồi chỉ vào Švejk và nói với các y tá: “Các anh trả lại quần áo cho người này, rồi đưa hắn đến phòng ở nhóm hạng ba, hành lang thứ nhất. Sau đó một anh quay lại đây, mang tất cả giấy tờ về hắn sang văn phòng. Bảo mọi người ở đấy khẩn trương giải quyết giấy tờ cho khỏi phải bận bịu lâu với hắn.”
Các bác sĩ đưa mắt nhìn Švejk bằng cái nhìn chết người khi anh lễ phép cúi xuống và kính cẩn đi giật lùi ra phía cửa. Khi một y tá hỏi Švejk đang làm trò gì ngu xuẩn vậy thì anh trả lời: “Tại vì tôi không mặc quần áo, tôi đang trần truồng và không muốn để cho các ông nhìn thấy cái gì cả, kẻo các ông lại nghĩ là tôi không lễ phép, hay thô tục.”
Từ khi nhận được lệnh trả lại quần áo cho Švejk, các y tá hoàn toàn không quan tâm gì đến anh nữa. Họ yêu cầu anh mặc quần áo rồi một người dẫn anh đến phòng ở nhóm hạng ba. Tại đây, trong mấy ngày chờ văn phòng làm giấy tờ đuổi anh, Švejk có cơ hội tốt để quan sát mọi chuyện. Các bác sĩ đã thất vọng viết giấy chứng nhận rằng Švejk là người “giả bệnh trì độn.” Nhưng bởi vì người ta để Švejk xuất viện trước giờ ăn trưa nên đã xảy ra một va chạm nhỏ.
Số là Švejk tuyên bố rằng một khi đã đuổi ai ra khỏi nhà thương điên thì không được phép đuổi mà không cho người ấy ăn trưa.
Cuối cùng, ông bảo vệ bệnh viện gọi cảnh sát đến chấm dứt sự ồn ào vi phạm trật tự công cộng đó. Và viên cảnh sát giải Švejk đến thẳng phòng cảnh sát ở phố Salmova⦾.
švejk ở phòng cảnh sát tại phố salmova S
au những ngày rạng rỡ tuyệt đẹp ở bệnh viện tâm thần, Švejk bắt đầu phải trải qua các thời khắc bị ngược đãi. Viên thanh tra cảnh sát Braun bố trí cuộc gặp gỡ với Švejk bằng sự tàn bạo của của các vệ sĩ La Mã thời hoàng đế Nero dễ thương. Tàn nhẫn như thời xưa, khi vệ sĩ La Mã nói ‘Quẳng tên Cơ đốc giáo vô lại ấy cho sư tử,’ viên thanh tra cảnh sát Braun ra lệnh: “Tống hắn vào phòng tạm giam!” Không hơn không kém một lời nào, đồng thời đôi mắt ông ta sáng lên một sự khao khát đồi bại.
Švejk cúi đầu và hãnh diện tuyên bố: “Tôi xin sẵn sàng, thưa các ông. Tôi nghĩ phòng tạm giam có nghĩa như nhà tù, thế thì nó cũng chẳng đến nỗi nào.”
“Này, đừng quá trớn!” viên cảnh sát nói. Và Švejk trả lời: “Tôi là người hoàn toàn khiêm tốn, tôi biết ơn về tất cả những gì các ông làm cho tôi.”
Trong phòng tạm giam, một người đàn ông đang ngồi nghĩ ngợi trên cái giường gỗ. Vẻ mặt thờ ơ của ông ta chẳng hề tỏ ra một sự mong đợi nào về việc khi có tiếng lạch cạch trong ổ khóa cửa phòng giam thì cánh cửa ấy sẽ mở ra trả lại tự do cho ông.
“Xin kính chào ông,” Švejk nói và ngồi xuống chiếc giường gỗ, “bây giờ là khoảng mấy giờ ông nhỉ?”
“Giờ giấc chả là gì đối với tôi,” người đàn ông đang nghĩ ngợi trả lời.
“Ở đây xem ra không đến nỗi nào,” Švejk tiếp tục gợi chuyện, “cái giường này đóng bằng gỗ ván đây.”
Người đàn ông đáng kính không trả lời, ông ta đứng lên và bắt đầu đi đi lại lại thật nhanh ở cái khoảng trống bé con từ giường ra đến cửa, trông như thể đang vội vàng đi cứu vớt cái gì đó.
Trong lúc ấy, Švejk chăm chú nhìn các dòng chữ nguệch ngoạc trên tường. Có câu của một tù nhân thề với trời sẽ chiến đấu một mất một còn với cảnh sát. Câu ấy viết thế này: “Chúng mày sẽ phải chịu tội.” Một tù nhân khác viết: “Để cho tao yên, đồ chó ghẻ!” Một tù nhân nữa thì khẳng định sự thật: “Tôi bị giam ở đây ngày 5.6.1913, được đối xử tử tế. Josef Mareček, thương nhân ở Vršovice.” Ở đó còn có cả một câu sâu sắc làm rung động: “Xin Chúa rủ lòng thương…” Ngay bên dưới câu ấy thì lại có câu: “Liếm đ. tao” Nhưng chữ ‘đ.’ bị gạch đi, cạnh nó là chữ viết hoa đuôi áo. Có một tâm hồn thi sĩ nào đó còn viết bài thơ ở bên cạnh:
Anh ngồi ủ rũ bên bờ suối,
nhìn mặt trời qua lúc cuối ngày,
ánh hoàng hôn sáng đồi xa ấy
anh thấy em yêu chốn quê nhà.
Người đàn ông chạy đi chạy lại giống như chạy marathon ở khoảng trống giữa giường và cửa. Bây giờ ông ngừng lại, quay trở về giường ngồi xuống chỗ cũ, gục đầu vào lòng bàn tay rồi bỗng nhiên gào lên: “Thả tôi ra!”
“Không, chúng nó không thả,” ông ta lẩm bẩm một mình, “không thả và không thả. Tôi đã ở đây suốt từ sáu giờ sáng đến bây giờ.”
Ông ta đột nhiên cởi mở hơn, ngồi thẳng người lên và hỏi Švejk: “Tôi kết thúc cho xong nợ ở đây thôi, anh có dây thắt lưng không?”
“Tôi rất sẵn lòng giúp ông,” Švejk vừa nói vừa tháo dây thắt lưng, “tôi chưa bao giờ trông thấy người treo cổ bằng dây thắt lưng trong phòng giam… Chỉ có điều đáng tiếc là,” Švejk nói và nhìn quanh, “ở đây chẳng có cái móc nào cả. Nắm đấm cửa sổ không giữ nổi ông đâu. Họa chăng ông quỳ xuống mà treo cổ ở giường, giống như cậu tu sĩ ở tu viện Emauzy đã treo cổ ở cây thánh giá, mà cũng chỉ vì một cô gái trẻ người Do Thái thôi. Tôi rất thích những người tự tử, vậy thì xin ông vui vẻ mà làm ngay đi!”
Švejk dúi dây thắt lưng vào tay người đàn ông đang buồn bã ủ ê. Ông này nhìn cái dây, quẳng nó vào xó phòng rồi bật khóc, đưa hai bàn tay đen đúa lên quệt nước mắt và gào lên: “Tôi có con nhỏ. Tôi bị giam vì say rượu, vì sống vô đạo đức, ối Jesus Maria, khổ thân vợ tôi, người ta sẽ nói gì về tôi ở công sở hả trời? Tôi có con nhỏ, tôi bị giam vì say rượu và sống vô đạo đức…” Ông ấy cứ thế nói mãi không thôi.
Nhưng cuối cùng thì ông ấy cũng bình tĩnh lại một chút, đi đến cửa rồi bắt đầu co chân đạp và đấm tay vào cánh cửa. Bên ngoài có tiếng chân bước và tiếng người hỏi: “Muốn gì đấy hả?”
“Thả tôi ra!” người đàn ông nói bằng giọng của người hoàn toàn không còn mục đích sống.
“Ra đâu?” phía bên ngoài hỏi.
“Ra công sở!” ông bố, người chồng, viên chức, kẻ nghiện rượu và tên trụy lạc bất hạnh trả lời.
Một tiếng cười vang lên, tiếng cười kinh khủng phá tan cái im lặng bên ngoài hành lang, rồi tiếng chân bước từ từ xa dần.
“Tôi có cảm giác là ông ấy thù ghét ông, khi mà ông ấy cười ông như thế,” Švejk nói, trong khi đó người đàn ông tuyệt vọng ngồi xuống giường với anh. “Một người coi tù như hắn ta, khi mà có tức giận về điều gì thì có thể làm nhiều việc ghê gớm lắm, khi mà tức giận nhiều hơn thì hắn làm tất cả mọi chuyện. Nếu không muốn thắt cổ tự tử thì ông hãy ngồi yên, chờ xem sự thể biến chuyển ra sao. Nếu ông là nhân viên công sở, ông có vợ, nếu lại có con nhỏ, thì thú thực tôi thấy đó là điều khủng khiếp. Nếu tôi không nhầm thì chắc ông cho là ông sẽ bị đuổi khỏi công sở?”
“Tôi không thể nói được,” người đàn ông thở dài, “bởi vì tôi không nhớ tôi đã làm gì, chỉ biết là người ta đuổi tôi khỏi một chỗ nào đó, nhưng tôi thì muốn trở lại chỗ ấy để hút điếu xì gà. Ấy thế mà trước đó, mọi việc đã bắt đầu rất đàng hoàng. Ông trưởng ban của chúng tôi ăn mừng ngày tên thánh, ông ấy mời chúng tôi đến quán rượu thứ nhất, rồi đến quán thứ hai, rồi đến quán thứ ba, đến quán thứ tư, đến quán thứ năm, quán thứ sáu, quán thứ bảy, thứ tám, thứ chín…”
“Ông có muốn tôi giúp ông đếm không?” Švejk hỏi. “Cái ấy thì tôi thạo lắm, có lần chỉ trong một đêm, tôi đã đi đến hai mươi tám quán. Nhưng có trời chứng giám, chỗ nào tôi cũng chỉ uống nhiều nhất là ba cốc bia thôi.”
“Nói tóm lại,” kẻ cấp dưới bất hạnh của ông trưởng ban, người đã ăn mừng ngày tên thành một cách hoành tráng như thế, tiếp tục kể, “khi đã đi đến khoảng hơn chục các ổ bia rượu thì chúng tôi phát hiện ra là ông trưởng ban biến đi đâu mất rồi, mặc dù chúng tôi đã buộc ông ấy bằng sợi dây rồi kéo đi theo cùng như dắt chó. Thế là chúng tôi đi tìm ông ấy ở khắp nơi, cuối cùng thì chúng tôi lạc nhau. Tôi bị kẹt lại ở một trong những quán cà phê đêm ở Vinohrady, một quán rất tử tế đấy. Tôi đã uống thẳng từ chai một thứ rượu mùi hay gì gì ấy. Tôi không nhớ sau đó tôi đã làm gì, chỉ biết là ngay khi giải tôi đến trạm thì hai ông cảnh sát đã báo là tôi say rượu, rằng tôi đã có hành vi vô đạo đức, rằng tôi đã đánh một quý bà, đã lấy dao nhíp rạch cái mũ của ai đấy mà tôi đã lấy xuống từ cái móc áo, rằng tôi đã đuổi ban nhạc nữ, rằng trước mặt tất cả mọi người tôi đã buộc tội người bồi bàn là ăn cắp hai mươi koruna⦾, rằng tôi đã hất đổ cái mặt bàn bằng đá cẩm thạch bàn chỗ tôi ngồi, rằng tôi cố ý nhổ nước bọt vào cốc cà phê đen của một quý ông ngồi ở bàn bên cạnh. Thế thôi, chứ tôi không làm gì nhiều hơn, ít ra thì tôi không thể nhớ ra được tôi còn làm gì
thêm nữa không. Nhưng anh hãy tin tôi, rằng tôi là người tử tế, thông minh, là người không nghĩ đến cái gì khác ngoài gia đình mình. Anh bảo sao? Tôi đâu có phải là kẻ côn đồ kia chứ!”
“Ông phải bỏ nhiều công sức để lật phiến đá cẩm thạch ấy, hay chỉ hất một cái là nó đổ?” Thay câu trả lời, Švejk quan tâm hỏi.
“Chỉ hất có một cái thôi.” Người đàn ông thông minh trả lời.
“Thế thì hỏng rồi,” Švejk trầm ngâm. “Người ta sẽ chứng minh là ông đã chuẩn bị làm việc đó và luyện tập chăm chỉ từ trước. Thế cà phê mà ông đã nhổ bọt vào là cà phê có pha rượu Rum, hay không pha?” Không đợi trả lời, Švejk giải thích: “Nếu mà có pha rượu Rum thì gay hơn, bởi lẽ nó đắt hơn. Ở tòa án thì cái gì cũng được tính gộp lại, để ít ra nó đủ tới mức quy tội phạm.”
“Ở tòa án…” ông bố có lương tâm của gia đình thất vọng lẩm bẩm, ông cúi gục đầu xuống trong trạng thái bứt rứt khó chịu, khi mà con người bị lương tâm nuốt chửng…⦾
“Thế ở nhà mọi người đã biết chuyện ông bị bắt chưa,” Švejk hỏi, “hay là còn chờ cho đến khi báo đăng tin?”
“Anh nghĩ là chuyện này mà báo cũng đăng tin ư?” Nạn nhân cuộc liên hoan mừng ngày tên thánh của người bề trên ngây thơ hỏi lại.
“Cái đó thì quá là rõ ràng rồi,” Švejk trả lời thẳng thừng, bởi đối với mọi người, anh không bao giờ giấu giếm điều gì. “Chuyện của ông sẽ làm độc giả báo chí vô cùng thích thú. Tôi cũng thích đọc mục về những người say rượu và các chuyện lộn xộn phá phách họ gây ra. Cách đây không lâu,
ở quán U Kalicha có một người khách tự đập vỡ đầu mình bằng cốc thủy tinh. Hắn tung cốc lên cao rồi hứng nó cho rơi trúng đầu. Người ta giải hắn đi, và chỉ sáng hôm sau là chúng tôi đã đọc tin ấy ở báo rồi. Hay ở Bendlovka, tôi cho tay nhân viên dịch vụ tang lễ một cái tát, hắn tát trả lại tôi một cái, thế là người ta đã bắt chúng tôi để cả hai giảng hòa với nhau, chỉ có vậy thôi mà báo buổi chiều đã đăng tin ngay lập tức. Hay chuyện một ông ủy viên hội đồng làm vỡ hai cái đế lót ly ở quán cà phê U Mrtvoly. Ông nghĩ là người ta bỏ qua cho ông ấy ư? Ngay ngày hôm sau ông ấy đã bị lên báo. Từ nhà tù, ông chỉ có thể gửi đăng báo lời đính chính, rằng cái tin mà báo đã viết về ông chẳng có liên quan gì đến ông, rằng ông chẳng có ẳ
họ hàng gì, cũng chẳng có chung đụng gì với người mang cái tên giống ông, rồi ông viết thư về nhà bảo người nhà cắt giữ cho ông cái tin đính chính ấy, để ông có thể đọc khi ra tù. Ông rét hay sao đấy?” Švejk ân cần hỏi, khi nhìn thấy người đàn ông thông minh đang run cầm cập. “Những ngày cuối hè năm nay xem ra rất lạnh.”
“Thôi chết tôi rồi,” người đồng phòng với Švejk thổn thức, “thôi thế là thôi rồi, chẳng được thăng tiến nữa rồi.”
“Vâng, thế là thôi rồi,” Švejk sẵn sàng tán thành. “Không biết khi ông ra tù người ta có nhận lại ông vào công sở không, nếu không thì không biết trong thời gian ngắn như thế ông tìm đâu ra được chỗ làm khác, bởi vì cho dù ông chỉ xin làm việc cho người chuyên đi chôn súc vật ốm chết thôi, thì người ta cũng đòi hỏi giấy chứng nhận hạnh kiểm tốt. Ấy là còn chưa kể đến chuyện là làm các công việc sung sướng ấy cũng chẳng bõ bèn gì. Thế vợ con ông sống bằng gì trong lúc ông ngồi tù? Hay là bà ấy phải đi ăn xin, rồi dạy bọn trẻ nhà ông đủ thói hư tật xấu?”
Tiếng nức nở vang lên: “Tội nghiệp các con tôi! Tội nghiệp nhà tôi!”
Kẻ sám hối vô ý thức đứng lên và bắt đầu kể chuyện về các con mình: ông ấy có năm con, thằng lớn nhất mười hai tuổi, là hướng đạo sinh. Nó chỉ uống nước thôi, và là tấm gương mẫu mực cho bố nó, người lâm vào cảnh này lần đầu tiên trong đời.
“Hướng đạo sinh ư?” Švejk thốt lên. “Tôi thích nghe chuyện về hướng đạo sinh lắm. Một lần, ở Mydlovary gần Zliv, huyện Hluboká, tỉnh lỵ České Budějovice, đúng lúc trung đoàn 91 chúng tôi tập trận thì nông dân vùng đó tổ chức vào rừng để lùng bắt hướng đạo sinh mà số lượng của chúng càng ngày càng tăng. Họ bắt được ba hướng đạo sinh. Khi bị trói, đứa nhỏ nhất trong bọn chúng rền rĩ, gào thét, than vãn làm cho đến cả chúng tôi, những người lính cứng rắn, cũng không thể nhìn nổi mà phải bỏ đi chỗ khác. Cả ba hướng đạo sinh lúc bị trói đã cắn tám người nông dân. Sau đó, bị ăn roi ở chỗ ông thị trưởng, cả bọn thú nhận rằng không có một đồng cỏ nào ở trong vùng đó mà chúng không lăn lộn khi nằm tắm nắng. Tiếp nữa thì cánh đồng lúa mạch đen chuẩn bị gặt ở Ražice bị cháy là chuyện hoàn toàn tình cờ, khi mà chúng nổi lửa nướng con nai non ở đó, và con nai ấy thì chúng đã đâm trộm bằng dao ở trong rừng. Tại đại bản
doanh của chúng ở trong rừng, người ta tìm thấy hơn nửa tấn xương gia súc và xương động vật hoang dã, một đống cực to toàn hạt anh đào, rất nhiều táo xanh cắn dở và nhiều đồ ăn ngon khác nữa.”
Nhưng ông bố tội nghiệp của chú hướng đạo sinh vẫn không thể lấy lại bình tĩnh được.
“Tôi đã làm gì thế này hả trời?” ông than vãn, “Tôi đã làm mất danh dự rồi.”
“Ừ, ông làm mất rồi.” Švejk trả lời bằng cái thẳng thắn vốn có của mình. “Những gì đã xảy ra sẽ làm ông mất danh tiếng cả đời, bởi vì đến lúc đọc báo, những người thân quen của ông sẽ thêm mắm dặm muối vào
đó. Đấy là cái bao giờ người ta cũng làm, nhưng mà ông đừng bận tâm đến điều ấy làm gì. Trên thế gian này, con số những người bị mang tiếng xấu, bị mất danh tiếng ít ra cũng nhiều gấp mười lần so với những người có danh tiếng trong sạch. Đó chỉ là một điều vô cùng nhỏ mọn thôi.”
Ngoài hành lang có tiếng chân bước mạnh, tiếng chìa khóa lạch cạch trong ổ khóa rồi cửa mở ra, người cảnh sát gọi tên Švejk.
“Xin ông thứ lỗi cho,” Švejk hào hiệp nói, “tôi mới đến đây lúc mười hai giờ, nhưng mà ông này thì đã ở đây suốt từ sáu giờ sáng. Tôi không vội đâu.”
Thay vào câu trả lời, cánh tay lực lưỡng của người cảnh sát kéo Švejk ra ngoài hành lang rồi người ấy im lặng đưa anh lên cầu thang tới tầng hai.
Ngồi sau bàn ở trong phòng thứ hai là ủy viên cảnh sát, một người đàn ông béo mập với vẻ mặt vui tươi thân thiện. Ông nhìn về phía Švejk:
“Vậy ra anh là Švejk hả? Nhưng làm thế nào mà anh lại đến đây được?”
“Bằng cách hoàn toàn bình thường, thưa ông,” Švejk trả lời, “tôi được một ông cảnh sát đưa đến đây, bởi vì tôi đã không chịu để người ta đuổi khỏi nhà thương điên mà không được ăn trưa. Vì như thế thì chẳng khác gì việc người ta coi tôi như một con điếm.”
“Này, anh Švejk ạ,” ông ủy viên cảnh sát ân cần nói, “việc gì mà chúng tôi phải bận tâm với anh ở đây? Chúng tôi chuyển anh đến sở cảnh sát thì có phải là tốt hơn không?”
“Vâng, như ta thường nói,” Švejk hài lòng trả lời, “thì ông là người làm chủ tình hình. Trời về chiều rồi, bây giờ mà đi sang sở cảnh sát thì cũng như là làm chuyến đi dạo ngắn thoải mái.”
“Tôi lấy làm mừng là chúng ta nhất trí được với nhau.” Ông ủy viên cảnh sát vui vẻ nói, “Thống nhất được với nhau thì tốt hơn, có đúng không, hả anh Švejk?”
“Vâng ạ, bao giờ tôi cũng rất thích hỏi ý kiến mọi người,” Švejk đáp lời. “Thưa ông ủy viên cảnh sát, tôi sẽ không bao giờ quên ơn ông, xin ông tin là như vậy.”
Švejk kính cẩn cúi chào và đi cùng với một cảnh sát xuống phòng bảo vệ. Mười lăm phút sau, Švejk đã đi cùng với người cảnh sát thứ hai tới góc phố Ječná và quảng trường Karel. Người này cắp nách một quyển sách dày với cái tên bằng tiếng Đức Danh sách người bị bắt giam.
Ở đầu phố Spálená, Švejk và người tháp tùng của anh gặp một nhóm người đứng chen chúc nhau trước một tấm áp phích treo ở đó.
“Đấy là công bố tuyên chiến của Hoàng đế,” viên cảnh sát nói với Švejk.
“Tôi đã đoán trước mà,” Švejk đáp, “nhưng mọi người ở nhà thương điên vẫn chưa biết gì, mặc dù ở đấy họ phải là người biết trước nhất.”
“Anh nghĩ thế là thế nào?” viên cảnh sát hỏi Švejk.
“Tại vì ở đấy có rất nhiều sĩ quan bị giam.” Švejk giải thích. Khi đi tới một nhóm người khác đang xúm quanh tấm áp phích, Švejk hô to:
“Xin chào Hoàng đế Franz Josef! Chúng ta sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này.”
Một người trong đám đông đang hào hứng ấn cái mũ của Švejk xuống đến tận tai. Thế là đám đông đưa người lính tốt Švejk trở lại cổng vào sở cảnh sát.
“Tôi nhắc lại một lần nữa, là cuộc chiến tranh này nhất định chúng ta sẽ thắng!” Bằng những lời đó, Švejk chia tay mọi người đã đi theo anh.
Và từ một nơi nào đó trong lịch sử xa xưa, một sự thật đã quay trở về với châu Âu, rằng tương lai làm vỡ cả các kế hoạch của hiện tại.
švejk trở về nhà và kết thúc vòng luẩn quẩn Ở
tòa nhà của sở cảnh sát có thể cảm thấy con mắt vô hình của Đế chế muốn thăm dò xem dân chúng hào hứng phấn khởi đến mức nào đối với cuộc chiến tranh. Trừ một vài trường hợp đặc biệt là một số người không phủ nhận điều mình là con em của một dân tộc phải đổ máu vì quyền lợi của Đế chế, những người còn lại của sở cảnh sát là nhóm người tuyệt vời, gồm những kẻ quan liêu khát máu như thú dữ, chỉ luôn nghĩ đến nhà tù và giá treo cổ để bảo vệ sự sống còn của các điều luật.
Đồng thời, những kẻ ấy đối xử với các nạn nhân của mình bằng một sự tử tế lịch lãm mỉa mai và luôn lựa chọn trước từng lời một cách kỹ càng. “Tôi rất lấy làm tiếc,” một trong những con thú dữ vằn đen vàng⦾ ấy nói với Švejk, khi người ta giải anh tới trước hắn, “tôi rất lấy làm tiếc là anh lại rơi vào tay chúng tôi. Chúng tôi đã nghĩ là anh sẽ cải tạo tốt hơn, nhưng mà chúng tôi đã nhầm.”
Švejk im lặng gật gật đầu và trên khuôn mặt anh có cái vẻ vô tội đến mức làm con thú đen vàng ấy ngạc nhiên nhìn anh rồi gằn giọng:
“Đừng làm ra cái vẻ ngu ngốc như thế!”
Nhưng hắn lập tức đổi giọng tử tế và tiếp tục:
“Chúng tôi chẳng thích thú gì khi phải bắt giữ anh, tôi có thể khẳng định với anh rằng theo tôi thì tội của anh không nặng lắm, bởi vì với cái trí tuệ thấp kém của mình thì chắc chắn là anh đã bị người ta lôi kéo. Anh hãy nói cho tôi biết ai là người rủ rê anh làm những điều ngu ngốc như thế, hả anh Švejk?”
Švejk hung hăng ho rồi lên tiếng: “Thưa ông, tôi chẳng biết gì về bất kỳ một điều ngu ngốc nào cả ạ.”
“Theo như thông báo của cảnh sát viên đưa anh về đây, thì anh đã làm dân chúng kéo đến tụ tập ở góc đường có dán áp phích tuyên chiến, rồi làm mọi người phẫn nộ vì anh đã hò hét ‘Xin chào Hoàng đế Franz Josef. Chúng ta sẽ thắng cuộc chiến tranh này.’ Như thế không phải là điều ngu ngốc hay sao?” Hắn nói bằng giọng của người cha.
“Tôi đã không đừng được ạ,” Švejk tuyên bố và ngước cặp mắt hiền lành nhìn vào mắt kẻ điều tra. “Tôi đã bực mình khi thấy tất cả mọi người đều đọc lời tuyên chiến mà không hề biểu hiện một sự vui mừng nào cả. Chẳng có ai hô vinh quang, chẳng có ai mừng rỡ, hoàn toàn chẳng có biểu hiện gì cả, thưa ông. Và tôi, lính cựu của trung đoàn 91, tôi không thể nhìn cái cảnh ấy được, thành ra tôi đã hô những câu ấy. Và tôi nghĩ là nếu ở vào địa vị tôi thì ông cũng sẽ làm đúng như tôi. Một khi có chiến tranh thì phải thắng, và phải hô Hoàng đế quang vinh chứ! Cái này thì không ai có thể bảo được tôi phải làm khác đi!”
Bị đuối lý, con thú dữ màu đen vàng không chịu nổi cái nhìn của con cừu vô tội Švejk, hắn cụp mắt xuống đám công văn giấy tờ và nói:
“Tôi hoàn toàn thừa nhận cái nhiệt tình của anh, nếu mà nó được biểu hiện ở những tình huống khác. Nhưng mà chính anh cũng thấy rõ là khi cảnh sát đang áp giải anh thì cái biểu hiện tinh thần yêu nước ấy có thể tác động, và phải tác động lên đám đông một cách mỉa mai, chứ không nghiêm chỉnh.”
“Khi mà cảnh sát áp giải một người nào đi,” Švejk trả lời, “thì lúc ấy là lúc nghiêm trọng trong cuộc đời. Và nếu ngay cả trong lúc nghiêm trọng đó mà người ấy vẫn không quên phải làm gì khi có chiến tranh, thì tôi nghĩ là người ấy không đến nỗi là người xấu.”
Con thú dữ đen vàng hầm hừ và lại nhìn vào mắt Švejk.
Švejk đáp lại bằng cái nhìn ấm áp, vô tội, giản dị và dịu dàng. Cả hai chăm chú nhìn nhau một lúc như thế.
“Này Švejk, quỷ tha ma bắt anh đi,” cuối cùng viên công chức nói, “nếu mà anh lại phải đến đây lần nữa thì tôi sẽ không hỏi anh cái gì cả, mà tống cổ anh lên thẳng tòa án quân sự ở Hradčany⦾ hiểu không?”
“Dạ, nhờ trời, xin đội ơn ông ạ. Tôi làm nghề bán chó, nếu bao giờ cần chó thuần chủng thì xin ông cứ đến tôi ạ.”
Và thế là Švejk lại được trả tự do để trở về nhà.
Švejk suy nghĩ xem trước khi về nhà có nên ghé vào quán U Kalicha không, cuối cùng thì anh mở cánh cửa mà cách đó không lâu anh đã đi ra cùng với điệp viên Bretschneider.
Bên quầy bia là sự im lặng như trong nhà mồ. Chỉ có mấy người khách đang ngồi, một trong những người đó là ông coi nhà thờ Thánh Apollinaris. Tất cả mọi người đều có khuôn mặt buồn bã ủ ê. Phía sau quầy là bà vợ ông chủ quán, đôi mắt vô hồn nhìn vào vòi rót bia.
“Tôi về rồi đây,” Švejk vui vẻ nói, “bà cho tôi cốc bia. Thế ông Palivec đâu, chắc cũng đã về nhà rồi, phải không?”
Bà vợ ông chủ quán bật khóc, bà đau khổ rền rĩ, giọng lạc đi: “Người ta… cho… nhà tôi… mười năm… tuần trước.”
Chủ quán Palivec
“Ái chà,” Švejk nói, “thế thì đã ngồi được một tuần rồi.”
“Nhà tôi đã thận trọng đến thế, chính ông ấy bao giờ cũng bảo là mình thận trọng.”
Mọi người khách trong quán vẫn ngồi im phăng phắc, chẳng ai nói lời nào, như thể hồn vía ông chủ quán Palivec đang luẩn quẩn quanh đó bảo họ hãy thận trọng hơn nữa.
“Thận trọng không bao giờ thừa,” Švejk nói, rồi ngồi xuống bàn. Bà chủ quán đặt trước mặt anh cốc bia, trong bọt bia có mấy chấm nhỏ do nước mắt bà nhỏ xuống khi bà mang đến cho anh.
“Thời buổi này là thế, nó bắt người ta phải thận trọng.” Švejk tiếp tục.
“Hôm qua chúng tôi đã làm hai đám tang,” người coi nhà thờ Thánh Apollinaris lái câu chuyện sang hướng khác.
“Chắc hẳn là có ai đã chết,” người khách thứ hai nói, và người thứ ba hỏi thêm:
“Thế ở hai đám ấy có đặt quan tài lên bục cao không?”
“Tôi muốn biết,” Švejk nói, “trong chiến tranh thì lễ tang quân đội sẽ cử hành thế nào?”
Tất cả mọi người khách đồng loạt đứng dậy, trả tiền rồi lặng lẽ rời quán. Chỉ còn Švejk ngồi lại với bà chủ quán.
“Tôi không ngờ là người ta lại có thể kết án người vô tội tới mười năm. Tôi đã nghe nói là có người vô tội bị tù năm năm, nhưng mà mười năm thì hơi quá.”
“Nhưng mà nhà tôi đã thú tội,” bà chủ quán nức nở, “ông ấy nói ở đây về những con ruồi như thế nào thì cũng nhắc lại nguyên như thế ở sở cảnh sát, cả ở tòa án. Hôm tòa xử, tôi đã ở đấy để làm nhân chứng, nhưng mà tôi làm chứng thế nào được, khi mà họ bảo tôi là tôi có quan hệ gia đình với nhà tôi, rằng tôi có thể không phải làm chứng. Tôi sợ vì cái quan hệ gia đình chẳng may còn thêm chuyện lôi thôi gì nữa, thành ra tôi bỏ không làm chứng. Ối giời ơi, khổ thân nhà tôi, ông ấy quay sang nhìn tôi, cho đến chết tôi cũng không quên được cái nhìn ấy. Lúc bị giải đi sau khi tuyên án, ông ấy gào lên ngoài hành lang như phát dại ‘Lý tưởng Tự do muôn năm!’”
“Thế ông Bretschneider có còn đến đây không?” Švejk hỏi.
“Có đến đây mấy lần,” vợ ông chủ quán đáp, “lần nào cũng uống một hai cốc bia, hỏi tôi ai thường vào quán, lắng nghe khách nói chuyện về bóng đá. Còn khách thì mỗi khi thấy ông ta cũng chỉ nói chuyện với nhau về bóng đá thôi. Ông ấy thì cứ nhấp nhổm không yên, như thể lúc nào cũng muốn quằn quại lên cơn. Trong suốt bằng ấy ngày chỉ có một ông thợ bọc ghế ở phố Přičná bị mắc mưu ông ấy thôi.”
“Cái ấy là việc cần có kinh nghiệm,” Švejk nhận định, “cái ông thợ bọc ghế ấy có phải là người ngốc không?”
“Chắc cũng như nhà tôi ấy,” bà chủ quán vừa nói vừa khóc. “Ông Bretschneider hỏi ông ấy liệu có cầm súng bắn người Serbia không, ông ấy bảo là không biết bắn, rằng chỉ duy nhất có một lần ông ấy đã bắn thủng được một cái vương miện ở quầy bắn súng giải trí. Rồi tất cả chúng tôi nghe thấy ông Bretschneider nói rằng ‘À, lại có một tội phản quốc mới!’ Thế là ông ấy rời quán cùng với ông thợ bọc ghế, rồi ông này không thấy về nhà nữa.”
“Còn có nhiều người không về nhà, bà ạ,” Švejk nói, “xin bà cho cốc Rum.”
Khi bà chủ quán rót cho Švejk cốc rượu Rum thứ hai thì viên mật thám Bretschneider vào quán. Hắn đảo mắt nhìn quanh quầy và cái quán vắng tanh rồi ngồi vào bàn của Švejk, gọi một cốc bia và chờ xem Švejk sẽ nói gì.
Švejk lấy từ giá treo áo một tờ báo, đọc phần quảng cáo ở phía sau và lên tiếng:
“À xem này, ông Čimpera ở số 5 đường Straškova, làng Račiněves bán trang trại với gần bốn héc-ta ruộng; ở đấy có trường học và tàu hỏa.”
Bretschneider sốt ruột gõ gõ nhịp ngón tay lên bàn, quay sang nhìn Švejk và nói:
“Tôi lấy làm lạ, vì sao mà anh quan tâm đến trang trại, hả anh Švejk?”
“Ôi, ông đấy à?” Švejk nói và đưa tay bắt, “Tôi chẳng nhận ra ông được ngay, trí nhớ tôi kém ông ạ. Nếu tôi không nhầm thì lần gặp nhau gần đây nhất là lần chúng ta chia tay nhau ở phòng tiếp người tạm giam ở sở cảnh sát. Thế từ dạo ấy đến giờ ông làm gì? Ông có hay đến đây không?”
“Hôm nay tôi đến đây để gặp anh,” Bretschneider nói, “ở sở cảnh sát người ta bảo tôi là anh bán chó. Tôi cần một con Phốc hươu đẹp hay một con Phốc sóc, hay một con nào tương tự như thế.”
“Tôi có thể tìm cho ông tất cả các loại ấy.” Švejk trả lời, “Ông muốn chó thuần chủng, hay là loại chạy rông ngoài đường?”
“Tôi nghĩ là,” Bretschneider đáp, “tôi quyết định lấy con thuần chủng.”
“Thế ông không muốn chó cảnh sát à?” Švejk hỏi, “Con chó đánh hơi được ngay mọi thứ và tìm ra dấu vết tội ác ấy mà! Một ông hàng thịt ở Višovice có con chó như thế, nhưng lại chỉ dùng nó để kéo xe hàng. Như ta thường nói thì con chó ấy chọn nhầm nghề.”
“Tôi muốn con Phốc sóc,” Bretschneider bình tĩnh nói một cách ngoan cố, “một con Phốc sóc không cắn.”
“Thế tức là ông muốn con Phốc sóc không có răng ư?” Švejk hỏi lại. “Tôi biết một con như thế của một ông chủ quán ở Dejvice.”
“Thôi, tốt hơn thì tôi lấy con Phốc hươu vậy.” Bretschneider ngập ngừng lên tiếng. Những hiểu biết về chó của hắn mới chỉ hoàn toàn ở mức vỡ lòng và giá như không nhận được lệnh của sở cảnh sát thì sẽ chẳng bao giờ hắn biết gì về chó.
Thế nhưng mà mệnh lệnh đã được ra một cách chính xác, rõ ràng và dứt khoát. Đó là việc làm sao thân quen hơn với Švejk thông qua việc mua chó, và vì thế mà Bretschneider được phép chọn, kể cả được chi một khoản tiền để mua chó.
“Phốc hươu có loại lớn và loại nhỏ,” Švejk trả lời, “tôi có biết hai con bé và ba con to. Tất cả năm con ấy đều có thể bị đặt lên đùi được. Tôi đặc biệt khuyên ông nên mua.”
“Vâng, tôi thấy hay đấy,” Bretschneider tuyên bố, “thế giá bao nhiêu một con?”
“Cái ấy còn tùy cỡ,” Švejk đáp, “cái ấy phụ thuộc vào con to, hay bé. Phốc không phải là con bê ông ạ, ở giống chó này thì ngược lại, càng bé càng đắt.”
“Tôi nghĩ sẽ lấy những con to biết trông nhà được,” Bretschneider nói, trong bụng lo lắng về chuyện có thể gây tốn kém nhiều cho quỹ bí mật của cảnh sát quốc gia.
“Được,” Švejk nói, “tôi có thể bán cho ông giá năm chục koruna một con to, còn con to hơn nữa thì bốn nhăm koruna. Ấy, chúng ta cũng còn quên mất một việc. Ông muốn lấy chó non hay chó già hơn, chó đực hay chó cái?”
“Với tôi thì thế nào cũng được.” Bretschneider trả lời và cảm thấy hết sức lúng túng với các vấn đề không quen. “Anh cứ kiếm cho tôi rồi bảy giờ tối ngày mai tôi đến lấy. Được không?”
“Vâng, ông cứ đến, sẽ có.” Švejk trả lời khô khan. “Nhưng mà trong trường hợp này thì tôi phải yêu cầu ông đặt cọc ba chục koruna.”
“Không có vấn đề gì,” Bretschneider nói và đưa tiền cho Švejk. “Còn bây giờ thì ta uống mỗi người một ly rượu vang, tôi trả tiền.”
Khi cả hai uống cạn, Švejk gọi một ly rượu nữa tính vào phiếu thanh toán của mình. Sau đó, Bretschneider bảo Švejk là không việc gì phải sợ hắn, vì hôm nay hắn không làm việc công, và vì thế Švejk có thể nói chuyện với hắn về chính trị.
Švejk tuyên bố là anh không bao giờ nói về chính trị ở quán ăn, và tất cả mọi chuyện về chính trị là chuyện cho trẻ con.
Ngược lại, Bretschneider mạnh dạn hơn và tuyên bố rằng bất kỳ nhà nước yếu kém nào cũng bị định trước là sẽ bị tiêu diệt và hỏi ý kiến của Švejk về điều này.
Švejk tuyên bố rằng anh chẳng có liên quan gì đến nhà nước, nhưng mà có một lần anh phải chăm sóc một con chó non thuộc giống Bernard. Anh đã cho nó ăn lương khô của quân đội, ấy thế mà cuối cùng nó cũng ngoèo.
Khi cả hai đã uống cạn đến ly rượu thứ năm, Bretschneider tự xưng mình là người theo chủ nghĩa vô chính phủ và hỏi Švejk xem có thể đăng ký vào tổ chức nào được không.
Švejk nói là có lần, có một người theo chủ nghĩa vô chính phủ đã mua của anh một con Leonberger giá một trăm koruna, hẹn trả dần, nhưng cho đến bây giờ người ấy vẫn còn nợ anh tiền trả đợt cuối.
Khi uống ly rượu thứ sáu, Bretschneider nói về cách mạng, về việc chống tổng động viên, và Švejk nghiêng người về phía hắn rồi ghé tai nói thầm:
“Này, có một người khách vừa vào quán, cẩn thận kẻo người ấy nghe thấy ông nói, rồi có thể ông bị chuyện lôi thôi… Ông nhìn kìa, bà chủ quán lại khóc kia kìa.”
Quả thật, bà vợ ông chủ quán đang ngồi khóc ở đằng sau quầy.
“Sao mà bà khóc, hở bà chủ quán?” Bretschneider hỏi, “Ba tháng nữa là chúng ta chiến thắng, sẽ có ân xá, chồng bà sẽ ra tù, rồi chúng tôi sẽ đến đây đánh chén một bữa thỏa thích… Hay là anh không nghĩ rằng chúng ta sẽ thắng?” Hắn quay sang hỏi Švejk.
“Quanh co mãi mà làm gì,” Švejk đáp, “phải thắng, thế thôi! Nhưng bây giờ thì tôi phải về nhà đây.”
Švejk trả tiền rồi trở về với bà giúp việc Müllerová. Bà ấy hốt hoảng giật mình khi thấy người đàn ông vặn chìa khóa mở cửa vào phòng chính là Švejk.
“Ối cậu ơi, tôi cứ tưởng là phải mấy năm nữa cậu mới về.” Thực thà như mọi khi, bà Müllerová nói. “Trong lúc cậu vắng nhà, tôi đã thương hại mà cho một người gác cửa quán cà phê đêm đến đây ở. Cũng tại vì người ta đã khám nhà ba lần, nhưng chẳng tìm ra được cái gì nên họ bảo thế là cậu toi đời, vì cậu tinh ranh.”
Ngay lập tức, Švejk phát hiện ra là người đàn ông xa lạ ấy đã thu xếp trong phòng của anh một chỗ ở rất đàng hoàng. Hắn ngủ trên giường của anh, và thậm chí còn cư xử cao thượng đến mức là chỉ nằm có một nửa giường, nửa kia nhường cho một sinh linh tóc dài lúc đó đang mang ơn được ngủ, với hai tay vòng ôm cổ hắn, còn xung quanh giường thì có quần áo của quý ông và quý cô quăng vứt lung tung. Chỉ nhìn cái bừa bộn rối
loạn ấy cũng đủ thấy là người gác cửa quán cà phê đêm trở về phòng cùng với quý cô trong trạng thái vui vẻ.
“Này anh,” Švejk lay lay kẻ chiếm đóng, “dậy đi kẻo trễ giờ ăn trưa. Tôi sẽ rất lấy làm ân hận, nếu mà anh nói về tôi rằng tôi đuổi anh đi đúng vào lúc anh không kiếm được bữa trưa ở đâu.”
Người gác cửa quán cà phê đêm rất ngái ngủ, phải mất một lúc lâu hắn mới hiểu ra là chủ nhân của cái giường đã trở về và đang đòi lại quyền lợi của mình.
Theo thói quen của tất cả những người gác cửa các quán cà phê đêm, người đàn ông này cũng tuyên bố rằng sẽ nện cho bất kỳ kẻ nào đánh thức hắn một trận nên thân, rồi quay người ngủ tiếp.
Švejk vơ quần áo của hắn mang đến tận giường, rồi lay hắn thật mạnh:
“Này, nếu anh không mặc quần áo vào thì tôi sẽ tống cổ anh ra đường không quần áo. Nhưng tốt hơn cho anh là xéo khỏi đây mà có quần áo trên người.”
“Tôi đã muốn ngủ đến tám giờ tối,” người gác cửa mặc quần và làu bàu, “tôi trả hai koruna mỗi ngày cho bà ấy thì tôi có quyền đưa các cô gái từ quán cà phê về đây chứ. Này Marena, dậy đi!”
Khi dựng cổ áo để thắt cà vạt, hắn đã tỉnh táo lại đến mức có thể khẳng định cho Švejk biết rằng quán cà phê đêm Cây trinh nữ là một trong những quán đêm tử tế nhất mà chỉ các quý cô có sổ chứng nhận của cảnh sát là hoàn toàn đảm bảo thì mới được đến. Và hắn nồng nhiệt mời Švejk đến quán đó.
Ngược lại, quý cô của hắn chẳng tỏ vẻ hài lòng chút nào với Švejk và đã nói mấy câu hết sức lịch sự, trong đó câu lịch sự nhất là “Ối xin chào thầy cả!”
Sau khi hai kẻ xâm chiếm phòng cuốn gói, Švejk định giải quyết vấn đề với bà Müllerová, nhưng bà biệt tăm, anh chỉ nhìn thấy mẩu giấy có mấy chữ bà viết nguệch ngoạc bằng bút chì. Bà giải thích vô cùng nhẹ nhàng suy nghĩ của mình về sự kiện bất hạnh là đã cho người gác cửa quán cà phê đêm mượn giường của anh: “Xin cậu thứ lỗi cho, tôi chẳng bao giờ trông thấy cậu nữa, vì tôi sẽ nhảy cửa sổ.”
“Đồ điêu toa!” Švejk nói và ngồi chờ.
Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, bà Müllerová bất hạnh rón rén đi vào bếp, trên khuôn mặt đau khổ của bà có cả sự mong đợi được Švejk an ủi.
“Nếu muốn nhảy cửa sổ,” Švejk nói, “thì bà vào phòng ngủ mà nhảy, tôi đã mở cửa sổ rồi. Tôi khuyên bà không nên nhảy từ cửa sổ phòng bếp, vì bà sẽ ngã xuống luống hoa hồng làm nát hoa rồi lại phải đền. Từ cửa sổ phòng ngủ bà sẽ rơi thẳng xuống vỉa hè, nếu gặp may thì bà sẽ chỉ gẫy cổ. Nếu không may thì bà sẽ gẫy hết xương sườn, gẫy cả tay lẫn chân, rồi bà sẽ phải trả tiền nằm viện.”
Bà Müllerová bật khóc, lặng lẽ đi vào phòng ngủ đóng cửa sổ, và khi trở lại phòng bếp bà bảo:
“Gió lùa lắm, không tốt cho bệnh thấp khớp của cậu.”
Rồi bà đi vào phòng ngủ xếp gọn chăn gối và dọn dẹp phòng hết sức cẩn thận chu đáo. Sau đó, hai mắt rưng rưng, bà quay lại phòng bếp nói với Švejk: “Cậu ơi, hai con chó con nhốt ở ngoài sân bị chết rồi, còn con Bernard thì chạy trốn đi đâu mất lúc người ta đến khám nhà.”
“Ôi trời ơi,” Švejk kêu lên, “khổ thân nó, có thể nó sẽ bị lôi thôi, chắc chắn bây giờ cảnh sát đang tìm nó.”
“Nó cắn một ông cảnh sát cậu ạ. Lúc khám nhà, ông ấy đã lôi nó từ gầm giường ra,” bà Müllerová tiếp tục, “lúc đầu thì có một ông bảo là có ai đang ở dưới gầm giường, thế là nhân danh pháp luật người ta yêu cầu nó chui ra, nhưng nó không chịu, người ta mới lôi nó ra. Nó đã muốn nuốt tất cả mọi người, rồi phóng qua cửa biến mất không về nữa cậu ạ. Người ta cũng tra hỏi tôi, rằng ai hay đến đây, rằng chúng ta có nhận được tiền của ai từ nước ngoài không. Sau đấy thì họ nói xa xôi là tôi ngu, khi tôi bảo họ rằng rất ít khi có tiền từ nước ngoài, rằng lần gần đây nhất là sáu mươi koruna của ông hiệu trưởng ở Brno, rằng đấy là tiền đặt cọc mua con mèo Angora cậu đăng quảng cáo ở báo Chính trị dân tộc, nhưng sau đấy thì cậu lại cho vào hộp đựng chà là một con chó sục cáo non mù mắt rồi gửi cho ông ấy. Sau đó thì họ nói với tôi rất ân cần tử tế và bảo tôi cho người gác cửa quán cà phê đêm ấy đến đây ở, để tôi khỏi phải sợ người mà họ đã đuổi đi…”
“Tôi gặp toàn chuyện rủi ro với các cơ quan, bà ạ. Bây giờ thì bà sẽ thấy có rất nhiều người đến đây hỏi mua chó,” Švejk thở dài.
Không biết sau này, sau khi đảo chính, những ông nào có dịp được xem tài liệu lưu trữ của cảnh sát, có giải mã được các mục Bretschneider ghi trong quỹ bí mật của cảnh sát quốc gia hay không. Các mục ấy ghi là B… 40 K, F… 50 K, L… 80 K, v.v. nhưng chắc chắn họ sẽ nhầm, nếu nghĩ rằng B, F, L là chữ viết tắt tên của những người vì số tiền 40, 50, 80 koruna v.v. đã bán dân tộc Séc cho con đại bàng đen vàng.
Bretschneider
Đúng ra thì B có nghĩa là Bernard, F có nghĩa là Fox Terrier và L có nghĩa là Leonberger. Tất cả những con chó ấy đã được Bretschneider mua của Švejk và được đem về sở cảnh sát. Nhưng tất cả bọn chúng đều là những con chó ma chê quỷ hờn, và cái chủ yếu là hoàn toàn không có một chút gì chung với bất kỳ một loại chó thuần chủng nào mà Švejk đã nói với Bretschneider.
Con chó gọi là Bernard là con lai giữa chó săn vịt Poodle không thuần chủng với một con chó hoang chạy rông ngoài đường phố. Con gọi là Fox
Terrier có hai cái tai như chó Lạp xưởng, mình to như cỡ chó Rotti với những cái chân vặn vẹo như bị bệnh còi xương. Còn con gọi là Leonberger thì có cái đầu giống chó Schnauzer, có chiều cao của chó Lạp xưởng và có cái đuôi cụt, còn cái mông trần trụi của nó thì trông giống hệt loại chó sục trụi lông Hoa Kỳ nổi tiếng.
Sau đó, cả ông thám tử Kalous cũng tới gặp Švejk để mua chó. Từ nhà Švejk, ông ta mang về một con quái vật trông giống như linh cẩu đốm và có cái bờm như chó chăn cừu Collie. Và thế là quỹ bí mật có thêm mục chi mới D… 90 K. D ở đây có nghĩa là Great Dane. Vâng, con quái vật ấy đóng vai chó Great Dane…
Nhưng, cũng giống như Bretschneider, cả thám tử Kalous cũng không dò la được gì ở Švejk. Bất kỳ một câu chuyện nào nói về chính trị, dù khôn khéo đến đâu, cũng đều bị Švejk chuyển sang nói về việc chữa bệnh sài sốt
cho lũ chó con. Và tất cả những cạm bẫy nham hiểm tinh khôn nhất giăng ra đều kết thúc bằng việc Bretschneider từ chỗ Švejk lại dắt về thêm một con quái vật mới, lai tạp đến không tưởng tượng nổi.
Và đó là cái kết thúc của nhà thám tử nổi tiếng Bretschneider. Khi đã có trong căn hộ tới bảy con quái vật gớm ghiếc như thế, nhà thám tử tự giam mình cùng với chúng ở căn phòng phía sau và chẳng cho chúng ăn gì, và thế là lũ chó đã ăn thịt ông ta.
Thám tử Bretschneider là người trung thực đến mức tiết kiệm cả tiền tang lễ của nhà nước.
Ở mục “Thăng tiến trong nghiệp vụ” trong công văn giấy tờ về Bretschneider tại sở cảnh sát có điền một câu đầy bi thảm: “Bị chó nhà ăn thịt.”
Sau này, khi được biết về sự kiện buồn thảm đó, Švejk nói:
“Tôi chỉ không biết người ta xếp lại bộ xương của ông ấy như thế nào trong ngày phán xét cuối cùng.”
"""