"Văn Hoá Giao Tiếp Ứng Xử: Biết Co Biết Duỗi PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Văn Hoá Giao Tiếp Ứng Xử: Biết Co Biết Duỗi PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo ĐINH VIỄN TRÍ - ĐÔNG PHƯƠNG TRI NGỌC ANH dịch ----- VĂN HÓA GIAO TIẾP ỨNG XỬ (BIẾT CO BIẾT DUỖI) ----- Dịch từ nguyên bản tiếng Trung Quốc, NXB Nhân dân Nội Mông Cổ, tháng 12 năm 2000 ----- NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN Hà Nội - 2003 Thanks to VOZ Ebook Team. Editors: minhtran2159, Ryancabrera, thienphuc_love, Car parking Proofreaders: DoMinhT, thienphuc_love, Monday Night Messiah, Car parking Supporters: Ryn, Quan, ffffff Source: voz.vn Thân gửi tới độc giả của ebook “Biết co biết duỗi”! Trong quá trình thực hiện ebook cho tập sách này chúng tôi đã gặp những lỗi sau đây từ chính nguyên tác của NXB. - Lỗi chính tả và trình bày: bỏ dấu mũ cẩu thả, tuỳ tiện dùng “i”, “y”, lỗi “d”, “gi”, lỗi dấu câu”.”, “,” - Lỗi tên nhân vật: cùng một người nhưng mỗi câu chuyện tên có thể thay đổi về dấu, chữ lót, họ và cách sắp xếp của toàn bộ tên. - Lỗi diễn đạt: nhiều câu văn viết lủng củng, tối nghĩa, chấm phẩy tuỳ hứng. Một số câu tiếng Việt thuần nhưng vô nghĩa bởi các từ liên kết hoặc các cụm từ không có trong từ điển tiếng Việt. VOZ Ebook Team đã cố gắng tìm kiếm thông tin cũng như chỉnh sửa những lỗi sai này. Tuy nhiên, chất lượng bản chính có quá nhiều “sạn” nên ebook có thể vẫn tồn tại một số lỗi ngoài ý muốn. Hy vọng độc giả thông cảm và phản hồi tích cực. VOZ Ebook Team, project “Biết co biết duỗi”. 18/04/2022 MỤC LỤC Lời Nói Đầu Phần I: Trí Tuệ 1. Đầu Bông Lúa Mẩy Rủ Xuống Dưới, Đầu Bông Lúa Lép Hướng Lên Trời 2. Khương Thái Công Câu Cá, Ai Muốn Thì Đến Mắc Câu. Nhất Nhất Cầu “Duỗi” Trong “Câu” 3. An Không Thể Quên Nguy, Trị Không Thể Quên Loạn 4. Có Công Mài Sắt, Có Ngày Nên Kim 5. Bảo Kiếm Nhọn Từ Mài Giũa Mà Ra, Hoa Mai Thơm Do Giá Rét Mà Đến 6. Không Sợ Trăm Trận Bất Lợi, Chỉ Sợ Nản Lòng Nhụt Chí 7. Tìm Bóng Mát Giữa Cây Đại Thụ 8. Nhường Người Phần Hơn Không Phải Là Hèn Yếu 9. Tình Thì Tròn - Lý Thì Vuông 10. Mượn Gà Đẻ Trứng 11. Giấu Đuôi Làm Người 12. Muốn Lời Nói Có Uy Lực, Trước Tiên Mình Phải Hành Động Đúng Như Như Lời Nói Ấy 13. Nam Nhi Đại Trượng Phu Quỳ Gối Là Vàng 14. Lấy Vai Người Khác Làm Bàn Đạp Để Tiến Lên 15. Chỉ Cần Lưu Lại Được Núi Xanh Thì Không Lo Thiếu Củi Đốt 16. Lưu Lại Một Chút Tình, Sau Này Dễ Ăn Nói 17. Được Gió Phải Giương Buồm 18. Thuyền Vào Chỗ Vòng Phải Bẻ Bánh Lái 19. Vịnh Tránh Gió Sẽ Không Bắt Được Cá Mập Lớn 20. Dù Đứng Chết Cũng Quyết Không Sống Quỳ 21. Bệnh Có Nghìn Loại, Thuốc Có Vạn Biến 22. Tướng Có Nhiều Loại, Nam Nhi Mấy Người Tự Cường 23. Gặp Cầu Phải Xuống Ngựa, Qua Sông Chớ Tranh Thuyền 24. Quân Không Rời Trận, Xe Không Rời Bến 25. Giả Dương Thành Âm, Thừa Cơ Lơ Là Đánh Chỗ Lười 26. Khi Phải Nhượng Bộ Thì Nên Nhượng Bộ 27. Lòng Người Không Biết Đủ Như Rắn Nuốt Voi 28. Cung Kính Có Tiêu Tan Giận, Nhượng Bộ Có Thể Ngừng Chiến Tranh 29. Quân Tử Kết Giao Trọng Tình Nghĩa 30. Nước Xiết Cũng Có Sóng Quay Đầu 31. Ngựa Tốt Không Ăn Cỏ Bỏ 32. Ý Của Kẻ Say Không Nằm Ở Rượu 33. Đại Trượng Phu Báo Thù Mười Năm Chưa Muộn 34. Lòng Tham Vô Đáy, Được Voi Đòi Tiên 35. Thành Danh Nhờ Có Những Ngày Khổ Cực 36. Bảo Vệ Cây Non Như Bảo Vệ Mạng Sống 37. Đâm Lao Thì Phải Theo Lao 38. Lựa Gió Đẩy Thuyền 39. Thế Sự Minh Thông Cần Học Vấn, Nhân Tình Thấu Đạt Bởi Văn Chương 40. Cung Cứng Thì Hay Bị Gãy, Người “Cứng” Hay Gặp Họa 41. Có Cái Làm Được Tất Có Cái Không Thể 42. Muốn Nhìn Xa Thì Leo Cao Một Chút 43. Trong Nhu Có Cương, Trong Cương Có Nhu 44. Đại Dương Không Từ Chối Suối Nhỏ, Thái Sơn Không Chỉ Một Hòn Đất 45. Ông Trời Không Mở Mắt, Không Có Cửa Báo Đền Công Ơn 46. Chí Nhỏ Không Phải Là Quân Tử, Không “Độc” Không Phải Là Trượng Phu 47. Dùng Sức Khiến Người Tâm Phục Khẩu Phục 48. Thà Làm Cho Trời Giận Cũng Không Khiến Người Buồn 49. Không Gặp Trắc Trở Không Lùi Bước Phần II: Tu Thân 50. Tiện Lợi Cho Mọi Người, Tiện Lợi Cho Bản Thân 51. Không Vì Năm Đấu Gạo Mà Phải Khom Lưng 52. Đại Trượng Phu Biết Nhìn Xa Trông Rộng 53. Thà Làm Sen Trong Bùn, Chứ Không Làm Bèo Trên Mặt Nước 54. Người Giỏi Không Kiêu Ngạo, Kẻ Kiêu Ngạo Là Kẻ Bất Tài 55. Lời Nói Không Nên Quá Kiên Quyết Cứng Nhắc, Đừng Bước Đến Chỗ Cùng 56. Tự Mình Sống Tiết Kiệm, Loại Bỏ Sự Xa Hoa 57. Nam Nhi Không Cứng Rắn Không Bằng Cám Thô 58. Người Không Cốt Cách Cứng Cỏi Cũng Chẳng Lâu Bền 59. Hoành Phúc Bay Đến Chặn Không Nổi 60. Cổ Có Dài Thêm Nữa Cũng Không Cao Quá Đầu 61. Mượn Thang Lên Lầu 62. Dung Thứ Người, Thênh Thang Tiến Bước 63. Người Quân Tử Không Nhớ Đến Những Tội Ác Xưa 64. Tha Cho Người Không Phải Là Kẻ Ngu, Kẻ Ngu Không Thể Tha Cho Người 65. Rùa Không Nên Cười Ba Ba, Đều Sống Trong Bùn Cả Mà 66. Hoa Hồng Tuy Đẹp, Vẫn Cần Có Lá Xanh 67. Trong Sóng Gió Mới Có Anh Hùng, Trong Bão Tố Mới Gặp Hảo Hán 68. Muốn Tốt Đẹp, Hãy Nhường Nhịn Nhau 69. Thiện Ác Rồi Sẽ Báo Đền, Có Điều Là Sớm Hay Muộn Mà Thôi 70. Thà Chết Không Khuất Phục 71. Thà Chết Có Khí Tiết Chứ Không Sống Đời Nô Lệ 72. Người Sa Ngã Sửa Mình, Điều Đó Rất Đáng Quý 73. Khi Người Ta Phản Bội, Quỷ Sứ Sẽ Đến 74. Trên Bảng Không Có Tên, Dưới Chân Vẫn Có Đường Phần III: Kinh Nghiệm 75. Việc Đối Nhân Xử Thế Có Rất Nhiều Kiểu, Mỗi Kiểu Đều Có Đặc Sắc Riêng 76. Nhân Tài Ẩn Dật 77. Không Trói Buộc, Nhấn Chìm Nhân Tài 78. Chỉ Hướng Cao Vời Vợi Nhưng Vận Mệnh Lại Quá Mỏng Manh 79. Chim Muông Dựa Vào Rừng, Con Người Dựa Vào Hợp Tác 80. Cây Di Chuyển Thì Sẽ Chết, Người Di Chuyển Thì Sẽ Sống 81. Chưa Trải Qua Gian Nan Vất Vả Thì Chưa Trưởng Thành 82. Người Chịu Được Thiệt Thòi Là Người Tốt, Chịu Thiệt Là Phúc 83. Chỉ Làm Người Trượng Nghĩa Chứ Quyết Không Làm Kẻ Tham Lam 84. Ngọc Không Mài Không Thành Khí 85. Nhẫn Nhịn Một Lúc, Cả Đời Không Phiền Não 86. Lợn Sợ Béo, Người Sợ Nổi Tiếng 87. Có Bị Đánh Gãy Răng Cũng Nên Nuốt Vào Trong Bụng 88. Không Làm Việc Trái Với Lương Tâm Thì Không Sợ Nửa Đêm Ma Gõ Cửa Nhà 89. Nếu Thoát Được Thì Không Phải Là Tai Hoạ, Đã Là Tai Họa Thì Không Thể Thoát Nổi 90. Trốn Hổ Thì Chạy Xuống Núi, Tránh Hổ Thì Đi Đường Vòng 91. Đàn Ông Chết Vì Người Tri Kỷ, Phụ Nữ Nhẫn Nhịn Vì Người Làm Mình Vui 92. Trời Đất Luôn Vận Hành, Người Quân Tử Luôn Tự Cường 93. Áo Vải Ấm, Rau Hẹ Thơm, Quả Bầu Làm Lương Thực Nửa Năm 94. Khinh Cứng Chứ Không Khinh Mềm, Sợ Lý Chứ Không Sợ Dao 95. Làm Quan Mà Không Vì Dân Thì Chẳng Bằng Ở Nhà Bán Khoai Lang 96. Cây To Đón Gió, Quan Lớn Lắm Nguy Hiểm 97. Chăn Dài Thì Chớ Duỗi Chân 98. Anh Có Kế Đóng Cửa Của Anh, Tôi Có Kế Nhảy Tường Của Tôi 99. Người Thức Thời Là Tuấn Kiệt 100. Cùng Thì Biến, Biến Thì Thông, Thông Thì Lâu Dài 101. Xưa Nay Anh Hùng Đều Gặp Nhiều Gian Nan 102. Trăm Động Không Bằng Một Tĩnh 103. Quân Tử Dùng Mồm Miệng Chứ Không Dùng Tay Chân 104. Im Lặng Là Vàng 105. Nguồn Gốc Vui Vẻ Của Người Ba Phải 106. Nụ Cười Chỉ Lộ Một Phần Ba 107. Hồ Đồ Lại Càng Hồ Đồ 108. Người Biết Nhẫn Nhịn Thì Bản Thân Yên Ổn 109. Không Có Chỗ Cho Sự Phỉ Báng 110. Nhân Vật Lớn Nên Có Lòng Bao Dung Với Người Khác 111. Hận Thù Nên Cởi Bỏ Chứ Không Nên Kết Thêm 112. Đố Kị Là Liều Thuốc Độc Âm Ỉ 113. Không Khom Lưng Vì Năm Đấu Gạo 114. Làm Sạch Bóng Đen Của Cuộc Sống 115. Thanh Đạm Để Sáng Chí 116. Con Người Sống Đến Trung Tuổi Có Cái Nghĩ Ngợi, Có Cái Không Nghĩ Ngợi 117. Một Phút Quan Trọng 118. Lãng Tử Quay Đầu, Vàng Thau Không Đổi 119. Hài Hước Giúp Bạn Thoát Khỏi Lỗi Lầm 120. Ham Đức Và Ham Sắc 121. Thế Nào Là Người? 122. Hạn Chế Nhân Dục, Giữ Lấy Lý Trời 123. Lấy Tình Đo Tình, Lấy Tâm So Tâm 124. Phàm Việc Gì Cũng Không Oán Trời, Trách Người 125. Mình Vì Mọi Người, Mọi Người Vì Mình 126. Thường Nở Nụ Cười Thì Trời Đất Rộng 127. Trời Không Tuyệt Đường Sống Của Con Người 128. Vạn Sự Tùy Thuộc Vào Duyên Phận 129. Quân Tử Phải Phòng Họa Từ Khi Chưa Xẩy Ra 130. Thích Hợp Thì Dừng, Thấy Tốt Liền Thu LỜI NÓI ĐẦU I. Thế nào là “co”, thế nào là “duỗi”? Thế nào gọi là biết co, biết duỗi? Xin mời xem ba nhân vật phong lưu trong lịch sử là “Tam Lưu”: Lưu Bang, Lưu Bị, Lưu Bá Ôn. Sử sách gọi Lưu Bang là Hán Cao Tổ, vốn là một đình trưởng nhỏ bé ở Tứ Thuỷ, bị người đời mắng là một nho sinh “vô lại”. Nhưng ông mượn thao lược “co duỗi” của Trương Lương, sau khi vào quan ải trước Hạng Vũ một bước lại không tham lam hưởng lạc nhất thời trong cung nhà Tần mà lưu khỏi Hàm Dương, rút quân về Bá Thượng, đồng thời đích thân đến Hồng Môn tạ tội với Hạng Vũ, nhẫn nhục chịu trách phạt, xưng là bề tôi, lừa lấy được sự tín nhiệm của Hạng Vũ. Tiếp đó lại theo mưu kế của Hàn Tín đốt cháy ở đạo, nín nhịn Hạng Vũ nhưng thực tế lại tích cực chuẩn bị, ngầm vượt Trần Thương, cuối cùng thu phục được Trung Nguyên. Khi Hàn Tín có công đòi sắc phong, ông kìm nén giận dữ phong cho Hàn Tín là Tề Vương, cuối cùng Lưu Bang thắng được Sở Bá Vương Hạng Vũ “có sức bạt núi có tài cái thế”, gây dựng được đế nghiệp Tây Hán. Lưu Bang có được “đại duỗi” trong lúc “đại co”, còn Hạng Vũ “vô địch thiên hạ” khi cùng quẫn phải tự chặt đầu ở Ô Giang. Lưu Bị thuở nhỏ gia đình nghèo khó, từng phải dệt chiếu nuôi thân. Ban đầu, quân của ông thế cô lực mỏng đành dựa vào khe hở chiến tranh loạn lạc mà sống sót. Ông trước sau dựa vào Công Tôn Toản, Đào Khiêm, Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Biểu, dùng cách ẩn thân. Văn dựa vào Khổng Minh, võ nhờ ở Quan Trường mà chiến thắng ở Xích Bích, rồi lại nhờ thời cơ đoạt lấy Kinh Châu, tiến thêm bước nữa chiếm cứ Tứ Xuyên, khai sáng hai đại nghiệp Thục - Hán. Nhưng sau khi Quan Vũ bị hại chết lại đi ngược nguyên tắc ban đầu, tìm duỗi trong co, vì báo tình thân thiết mà chết ở thành Bạch Đế cuối cùng khiến cho đại nghiệp Thục - Hán bị huỷ hoại bởi tay con trai kế nghiệp là Lưu Thiện. Lưu Bị bỏ “co” mà huỷ hoại bởi “duỗi”. Lưu Bá Ôn, còn gọi là Lưu Cơ, vốn là công thần hàng đầu khai sáng nhà Minh, là quân sư nổi tiếng trong lịch sử. Sau khi giúp Chu Nguyên Chương đoạt được ngôi vua, nhận ra những trò tranh đấu, gạt bỏ lẫn nhau trong chốn quan trường, không màng đến công danh lợi lộc, thành công rồi thì rút lui, cáo lão về quê, tránh được họa sát thân trên “lầu mừng công”. Sau khi về quê, ông sáng tác ra “Xa đạm ca” (Ca tán gẫu) thuật lại những sự tích lịch sử về sự hưng, vong, thay, phế xưa nay dạy cho học trò diễn xướng, mượn đó để nói lên nỗi lòng than thở đối với nhân thế tranh giành. Lưu Bá Ôn là tấm gương lịch sử về việc “co” để cầu sinh “duỗi”. II. Thế nào là “co”, thế nào là “duỗi”? Thế nào gọi là biết cho biết duỗi, giỏi co giỏi duỗi, đại co, đại duỗi? Xin hãy xem các khái niệm trình bày trong sách này. Co là một kiểu hồ đồ rất khó làm được, một kiểu khiêm nhường, cung kính dạng “nước chảy chỗ trũng”. Co là “nín nhịn” cầu mong sống còn trong cảnh khốn đốn, là “nhẫn nhịn” đấu tranh trong lúc chịu nhục, là “tha thứ” trong khi tranh giành danh lợi, là “hài hoà” trong khi thế gian không có chiến tranh. Duỗi là mưu lược lấy lui để tiến, là nội công lấy mềm khắc cứng, là khí khái lấy yếu thắng mạnh. Duỗi là hai dòng tư duy “không thể mà không phải không thể”, là “có cũng không nhiều, hết cũng không ít” theo ý mình mong muốn, là binh pháp cao siêu “không đánh mà thắng” Người co và người duỗi buồn vui cay đắng cùng tồn tại, phúc họa như nhau, thành bại tương sinh. Tục ngữ xưa nói rằng: “Đại trượng phu có lúc vùng dậy, có khi nằm phục, biết co biết duỗi. Có khi không co duỗi, có khi co duỗi ít, có khi co duỗi nhiều”. Người đại co là thể hiện của mười đức tốt: công, thành, chí, hiếu, tín, trí, nhân, nghĩa, dũng, hoà. Người đại duỗi là biểu hiện của mười điều vĩ đại: công, nghiệp, thành, lập, khởi, hưng, đức, chính, kế, lược. Người giỏi co duỗi: Có tầm nhìn xa rộng, tấm lòng trong sạch. Có khí phách rộng lớn vô song, nghị lực siêu quần tuyệt đỉnh. Có trí tuệ uyên bác tinh thâm, tiếp bước người trước, mở lối cho người sau, có ý chí kiên cường nỗ lực đấu tranh, vì đạo nghĩa mà không chùn bước. Có tính cách chuyên tâm vững vàng, quán triệt trước sau, là chính khí đội trời đạp đất, còn mãi muôn đời, có tài hoa định liệu cơ mật, đạt đến độ chí thiện. Việc sâu thì co sâu, việc nông thì co nông, việc xa thì co xa, việc gần thì co gần, việc lớn thì co lớn, việc nhỏ thì co nhỏ, đó chính là sách lược biết co biết duỗi, giỏi co mà ôm ấp ý duỗi. Xử thế trong lúc co, lập chí trong lúc duỗi, làm người trong lúc co, lập đức trong lúc duỗi, làm việc trong lúc co, lập nghiệp trong lúc duỗi. Đó là tấm gương quý báu mà các thánh nhân hiền triết truyền lại cho đời sau. Tranh giành những được mất trước mắt, ham muốn vật chất riêng tư, giành giật ưu thế nhất thời là loại vô tri không biết trời cao đất dày là gì chứ không phải là “duỗi”. Khom lưng uốn gối là cách “co” của bọn phản bội. Đưa đón nịnh hót là cách “co” của bọn đầy tớ. Hận trời thù người, buồn chán số phận là cách “co” của kẻ lười nhác. Đã sai cho sai một thể, không biết đường sửa chữa là cách “co” của đồ bỏ đi. III. Trong “Các truyện Chu Dịch - quyển 6”, nhà tư tưởng lớn cuối Minh đầu Thanh là Vương Phu viết rằng: “Thị cố hữu vãng lai là nhi vô tử sinh. Vãng giả khuất giã, lai giả thân giã, tắc hữu khuất thân vô tăng giảm. Khuất giả cố hữu kì khuất dĩ lai thân, khải tiêu diệt nhi tất vô chi vị tai!”. Ý tứ là vật chất vận động thay đổi có đi có đến nhưng lại không có chết hay sinh ra, tức là vạn vật chưa từng được ai sinh ra và cũng chưa từng bị ai tiêu diệt. Đến tức là co, đi tức là duỗi, vật chất có sự co duỗi thay đổi thế chỗ cho nhau nhưng kỳ thực tổng lượng lại không hề có tăng hay giảm. Vương Phu lấy nước làm ví dụ rằng: “Như nước, lạnh thì là băng, nóng thì là hơi. Dựa vào sự khác nhau giữa băng và hơi đủ để biết thể thường của nước”. Lão Tử nói: “Gặp giá lạnh thì lấy hình thức cố định - kết thành băng nên tồn tại. Gặp phải nhiệt độ cao thì lấy thể khí - biến thành hơi để tồn tại”. Từ đó có thể thấy, môn “co duỗi học” của các triết gia xưa dạy người ta xử thế, an thân, lập mệnh vốn là tổng kết kinh nghiệm của hiệu pháp tự nhiên và mô phỏng vạn vật. Nhất co nhất duỗi nguyên là bản năng của con người và vạn vật, đồng thời cũng là trí năng xử thế để sinh tồn. Bản năng là sức mạnh tiềm tàng bẩm sinh, trí năng là công lao của sau này. Hãy phát huy bản năng của các bạn đi! Giữ gìn sự cân bằng về tâm lý, lúc nào cũng có tâm trạng tốt! Khai thác trí tuệ của các bạn, nắm chắc vận mệnh của các bạn trong tay, trước sau tất sẽ đứng vững ở vị trí không thể thất bại. TÁC GIẢ Sướng Xuân Viên (Bắc Kinh tháng 10 năm 1998) PHẦN I: TRÍ TUỆ 1. ĐẦU BÔNG LÚA MẨY RỦ XUỐNG DƯỚI, ĐẦU BÔNG LÚA LÉP HƯỚNG LÊN TRỜI Người có trí biết tự hạ mình, kẻ ngu muội hay giơ đầu chịu báng. Đứng ở nơi thấp trước thì sau đó mới biết được nỗi nguy hiểm khi leo bám lên cao. Đứng ở chỗ tối trước thì sau đó mới biết người ở chỗ sáng rõ tất sẽ bị ánh sáng chói mắt. Giữ tâm tình tĩnh lặng yên ổn trước thì sau đó mới biết những người ưa hoạt động thật là vất vả. Giữ tâm tính trầm mặc trước thì sau đó mới biết nói nhiều quả thật là phiền toái. Đời người có cả nỗi khổ lẫn niềm vui, nhưng chỉ có không ngừng tôi rèn trong gian lao thì mới có được hạnh phúc dài lâu. Vừa có lòng tin lại vừa phải có tinh thần biết co biết duỗi, an mà không quên nguy, còn mà không quên mất, trị mà không quên loạn. Nghĩ đến nguy thì mới cầu được an, biết co thì mới thấy được duỗi, nghĩ đến lùi thì mới có thể tiến, e loạn thì mới giữ được trị, tránh mất thì mới giữ được còn. Khi trả lời học trò làm gì mới giúp được đất nước tránh khỏi tai hoạ, Mạnh Tử nói rằng trước tiên phải thực hiện chính trị nhân đạo, không chỉ có vậy mà còn phải gắng sức đề phòng hoạn nạn ngay từ trong trứng nước. Khi đất nước không có mối lo bên trong, mối họa bên ngoài thì nhân cơ hội đó mà sửa sang chính trị, luật pháp. Như vậy đất nước sẽ tự nhiên cường thịnh. Thương Thang Vương chính là hiểu rất rõ quy luật này, bởi thế trước hết khiêm nhường cúi tấm thân vàng ngọc của một quốc vương mà bái Y Doãn, một kẻ đầu bếp nhỏ nhoi làm thầy, sau đó lại phong làm tướng quốc, cuối cùng đã gây dựng được nền móng cho nhà Ân Thương tồn tại trong suốt 639 năm. Bên bờ sông Y Thuỷ nước Thương có một nhà nông dân trồng dâu nuôi tằm. Trong nhà này có một người gọi là Y Doãn, rất giỏi nghề làm ruộng cấy lúa, trồng dâu nuôi tằm, đồng thời còn nghiên cứu đạo thi hành chính sự của các vị vua anh minh thời Tam hoàng Ngũ đế và Đại Vũ,... là một bậc hiền tài trị nước thời ấy. Y Doãn nghe nói Thương Thang Vương là một vị vua hiền đức, rất muốn đề xuất chủ trương trị nước, nhưng vẫn khổ tâm vì chưa có cơ hội. Thế là ông liền giả làm nô lệ của Cách Thị, phi tử của Thương Thang Vương, lấy thân phận của một đầu bếp đến gặp và thuật về đạo thi hành chính sự. Sau đó không lâu, Y Doãn liền tránh đi ẩn cư ở thôn quê, Thang Vương hiểu rõ Y Doãn đích thực là một hiền sĩ trị quốc nên quyết định đi mời ông. Thương Thang Vương phái sứ giả đem lễ vật đi mời Y Doãn, nhưng đây là một người an phận thủ thường, không dễ gì vào triều để làm quan. Ông nói với sứ giả: “Ta là một người sống tự tại quen rồi, tự mình trồng cây, tự mình ăn uống, không hiểu chuyện đại sự quốc gia, đa tạ Thang Vương đã quan tâm, quý trọng”, khéo léo tạ tuyệt lời mời của Thương Thang Vương. Thương Thang Vương thành tâm thật ý muốn mời Y Doãn nên lại sai người mang nhiều lễ vật hơn tới. Y Doãn thực sự hoảng hốt, vô cùng phân vân nói rằng: “Tôi là kẻ nông dân thôn dã bình thường, không có chút công lao nào, làm sao có thể nhận xằng lễ vật của Thang Vương, đâu dám nhận trách nhiệm ấy được?” và thoái thác không đi. Lúc ấy, một lãnh chúa đất phong có quyền sát sinh đối với dân chúng thuộc quyền của mình, nhưng Thương Thang Vương không giận vì Y Doãn thoái thác. Ông nghĩ, mời một người thực sự có bản lĩnh không thể dễ dàng như việc gọi đầy tớ, vừa hô đã đến ngay được. Lần thứ ba lại sai sứ giả đem những lễ phẩm cực kỳ quý báu, cưỡi ngựa thay y phục mới đi mời Y Doãn. Y Doãn thấy Thương Thang Vương thành tâm thành ý đến mời liền vui mừng tuân lệnh. Thương Thang Vương đích thân dẫn dân chúng ra ngoài thành nghênh đón, lại dùng nghi lễ cho khách để đối đãi. Hai người cùng nhau nói chuyện suốt cả ngày, tâm đầu ý hợp. Thương Thang Vương viết một phong thư khen Y Doãn là một kì tài mà tiến cử với Kiệt Vương. Kiệt Vương gặp Y Doãn, hỏi qua mấy câu liền không để ý gì đến, nói là không thể trọng dụng được. Y Doãn thấy Kiệt Vương chính sách tàn ngược, hoang dâm vô đạo, dự đoán nhà Hạ nhất định diệt vong. Trong thời gian ở kinh đô nước Hạ, ông khảo sát tỉ mỉ tình hình chính trị để chuẩn bị cho việc thảo phạt Hạ Kiệt về sau. Thương Thang Vương thấy Kiệt Vương không trọng dụng Y Doãn liền mời đến kinh đô nước Thương và phong làm tướng quốc, giao cho việc chính sự. Y Doãn giúp Thương Thang Vương, nỗ lực phát triển nông nghiệp, chế tạo binh khí, huấn luyện quân đội, làm cho nước Thương ngày càng vững mạnh. Kiệt Vương nghe nói nước Thương lớn mạnh liền triệu Thương Thang Vương về kinh đô nhà Hạ. Lúc ấy, Kiệt Vương ngày ngày đắm chìm trong tửu sắc, thân với bọn tiểu nhân, tàn hại đại thần hiền tài, có một đại thần là Quang Long Phùng thẳng thắn can gián, Kiệt Vương vô cùng tức giận đem giết chết. Các đại thần sợ đến nỗi tim đập chân run, mặt mày thất sắc. Thương Thang Vương không nén được tình cảm của mình bất giác bật khóc to, đau lòng vì mất đi hiền tài. Kiệt Vương liền mượn cớ này liền hạ lệnh giam Thương Thang Vương vào một nơi gọi là hạ đài. Vua Thương bị cầm tù, quần thần nước Thương ngơ ngác hoảng hốt, Y Doãn lại càng lo lắng bội phần, cuối cùng nghĩ ra một kế hay để cứu Thương Thang Vương. Ông sai người đi tìm kiếm tuyệt mỹ sắc nữ, sưu tầm đủ loại trân châu bảo ngọc đem dâng vua Kiệt, đồng thời biếu riêng một phần cho cận thần thân tín của Kiệt Vương là Triệu Lương. Kiệt Vương trông thấy mỹ nữ, châu báu nước Thương đem đến thì mặt mày rạng rỡ, Triệu Lương thì thừa cơ nói hay nói đẹp. Kiệt Vương dương dương đắc ý liền thả Thương Thang Vương về. Thương Thang Vương tận mắt thấy nỗi khổ cực bởi chính sách bạo ngược của Kiệt Vương, sau khi trở về kinh đô nhà Thương, dưới sự giúp đỡ của Y Doãn liền gấp rút thao luyện binh mã, tích trữ lương thực, lần lượt chinh phục các nước chư hầu nhà Hạ như Hàn, Cố, Côn, Ngô,... thế lực mở rộng rất nhanh. Năm 1711 trước Công Nguyên, Thương Thang Vương liên kết với các chư hầu khởi binh thảo phạt Hạ Kiệt, trước khi lên đường ban một bài hịch kể tội của Kiệt Vương - “Thương thể”. Thương Thang Vương dẫn các lộ đại quân, dưới sự giúp đỡ của Y Doãn, nhanh chóng áp sát kinh đô nhà Hạ. Kiệt Vương đốc thúc quân đội ra ứng chiến, quân sĩ sớm đã hận Kiệt Vương đến xương tuỷ, lâm trận liền tan vỡ, quay giáo đánh lại, Kiệt Vương đại bại, bị bắt sống làm tù binh. Các chư hầu tiến cử Thương Thang Vương làm thiên tử, xây dựng nhà Thương, Y Doãn giúp đỡ Thương Thang Vương, rất nhanh đã ổn định được thiên hạ. Sau khi Thương Thang Vương chết, Y Doãn lại lần lượt giúp đỡ ba người con cháu của ông là Ngoại Bính, Trung Vương, Thái Giáp làm thiên tử. Thái Giáp kế vị ba năm thì không giữ pháp lệnh do Thương Thang Vương lập ra, Y Doãn nhiều lần khuyên can nhưng vẫn không hối cải nên đem nhốt vào Đồng Quán, lệnh cho không được quay lại, đích thân Y Doãn nhiếp chính. Thái Giáp ở trong Đồng Quán ba năm thì bắt đầu hối cải, sửa mình, đổi ác thành thiện. Y Doãn lại sai người đến đón về, giao lại chính quyền. Thái Giáp nhận giáo huấn, cần cù chính sự, tu nhân tích đức, các chư hầu đều rất khâm phục, không dám nổi loạn, trăm họ được hưởng cuộc sống yên bình. Y Doãn viết ba thiên “Thái Giáp huấn” ca ngợi chính sách của Thái Giáp là đức chính (chính sách có đức). Y Doãn sống hơn một trăm tuổi, hơn hai mươi năm làm tướng quốc, đặt nền móng chính trị vững chắc cho vương triều nhà Thương thống trị kéo dài trong suốt sáu trăm năm, trở thành hiện tượng nổi tiếng số một trong lịch sử Trung Quốc. 2. KHƯƠNG THÁI CÔNG CÂU CÁ, AI MUỐN THÌ ĐẾN MẮC CÂU. NHẤT NHẤT CẦU “DUỖI” TRONG “CÂU” Rất nhiều người có tài thường khiêm nhường ẩn cư dưới tay của những kẻ đần độn bởi lẽ trong tay của người hiền không có quyền lực, mà lũ bất tài sở dĩ có thể điều khiển được người hiền cũng chỉ là bởi vì chúng tạm thời chiếm được ngôi cao. Ngay cả bậc thánh quân Đường Nghiêm trong truyền thuyết cũng như vậy. Khi còn là một người dân hết sức bình thường, ông muốn nhờ người hàng xóm giúp đỡ nhưng cho dù hét đến vỡ cổ họng cũng không có ai đáp lại. Cho đến sau này khi ông xưng vương thì liền có thể nhất hô bách ứng, ban bố cấm lệnh không ai dám không theo. Lã Thượng nghèo khổ, lúc tuổi già sống ẩn cư, buông câu ở bờ sông Vị. Khi đi săn, Chu Văn Vương gặp ông, hai bên nói chuyện hết sức tâm đầu ý hợp, liền bái làm thầy. Sau Lã Thượng giúp Vũ Vương đánh bại nhà Ân, lập nên nhà Chu, để lại tiếng thơm muôn đời. Bất kể là sớm hay muộn thì cơ hội để một con người thể hiện tài năng của mình vẫn luôn luôn có. Khi cơ hội hiển hiện ra trước mắt mình thì phải lập tức nắm ngay lấy, nắm thật chặt, chớ để tuột vào tay người khác. Có một lần Tây Bá hầu Cơ Xương muốn đem tuỳ tùng đi săn, trước lúc xuất phát bảo Thái sư bói một quẻ, Thái sư nói rằng: “Hôm nay đi săn rất tốt” rồi lại nói rằng: “Hôm nay đi săn, vật săn được không phải rồng cũng không phải lân, không phải hổ cũng không phải gấu, mà là được tài năng giúp đỡ cho nhà vua”. Cơ Xương vô cùng mừng rỡ liền dắt theo tuỳ tùng, men theo bờ bắc Vị Thuỷ mà đi. Hai bên bờ Vị Thuỷ cây cỏ um tùm rậm rạp, họ vừa đuổi theo dã thú, vừa đi về phía trước. Đột nhiên từ dưới bờ sông vẳng lại khúc hát rất lạ của một người đánh cá. Đi tìm hiểu ra hóa là đây là khúc hát do một ông già câu cá ở bên bờ Hàn Khê làm. Người này họ Khương, tên là Thượng, tự là Tử Nha. Tổ tiên của ông được phong ở đất Vận, lại gọi là Lã Thượng. Thời trẻ Khương Thượng ở kinh đô nhà Thương lấy việc giết bò làm nghiệp, sau đó mở một quán cơm nhỏ ở Vu Tân, bây giờ tuổi đã cao, nghèo khổ, lấy nghề câu cá làm kế sinh nhai. Cơ Xương dẫn người tùy tùng theo hướng người đánh cá chỉ đến bên bờ Hàn Khê. Nơi đây rất tĩnh lặng, dưới gốc cây liễu cao lớn bên bờ khe có một hòn đá lớn phẳng tựa như một cái bàn, trên đó chỉ thấy cần câu mà không thấy người đi câu đâu cả. Cơ Xương cầm cần câu than: “Vương triều nhà Thương bại hoại, thiên hạ hoang mang hoảng loạn, quân tử hiền tài lại ẩn cư không ra, Cơ Xương sao có thể quỳ gối mà cầu được!”. Rồi liền thành tâm chờ đợi, cho mãi đến khi mặt trời khuất sau núi, màn đêm dần buông vẫn không thấy bóng Khương Thượng đâu. Các đại thần không kiên nhẫn được nữa, lần lượt nói: “Đại vương không nên nhẹ dạ cả tin lời của kẻ tiểu dân, lão già này chưa chắc đã là người đại hiền, để ngày mai thần đưa hắn đến gặp là được rồi”. Cơ Xương bảo với họ rằng: “Cầu người hiền, chọn hào kiệt lẽ ra phải long trọng, hôm nay đến không thành tâm nên mới trốn xa, ta phải học theo cách cầu hiền của người xưa, trở về đợi đến ngày tốt sẽ đi đón thì mới là lễ lớn kính hiền”. Qua mấy ngày, Cơ Xương mặc áo mới, đem theo đại đội người ngựa, tinh kỳ phấp phới, đội lễ đến đón Khương Tử Nha, còn cách Bàn Khê rất xa đã xuống xe, đi bộ vào trong rừng núi. Đến bên khe, từ xa đã trông thấy một ông già ngồi trên bàn đá, đang câu cá, Cơ Xương liền đến bên cạnh, thân thiết trò chuyện, không lâu sau đã phát hiện ngay ra người này học rộng, uyên bác, đúng là bậc đại hiền mình từng mơ ước. Thế là liền cung kính nói với Lã Thượng: “Người như tiên sinh đúng là kỳ tài trong thiên hạ! Lão Thái Công nhà tôi khi còn sống từng nói với tôi rằng về sau tất sẽ có một người đại tài giúp đỡ cai trị đất nước. Lúc ấy nước Chu của chúng ta sẽ thịnh vượng. Thái Công nhà tôi trông mong tiên sinh đã lâu lắm rồi. Hôm nay tôi mang chén rượu nhạt đến mời mong tiên sinh giúp đỡ cho nhà Chu”. Khương Tử Nha nói: “Tôi đã già rồi, văn không thể an bang, võ không thể định quốc, e rằng phải phụ lòng mong của bệ hạ, khiến bệ hạ phải đi không mấy bận”. Cơ Xương nói: “Tiên sinh có đạo đức, hà tất phải giấu kế lạ trong lòng, nhẫn tâm để trăm họ phải thê thảm, chịu cảnh lầm than mà vất vả ngồi câu ở đây”. Nói rồi hạ lệnh cho tùy tùng bày lễ vật ra. Khương Tử Nha sớm đã biết Tây Bá Hầu Cơ Xương đãi người thành thật, rất có khí chất của vị vua, sáng lập đại nghiệp, liền nhận lời mời làm Thần tử của nhà Chu. Theo truyền thuyết lúc bấy giờ Khương Tử Nha đã 70 tuổi (cũng có người nói ông là lãnh tụ bộ lạc trẻ tuổi). Cơ Xương có được Khương Tử Nha đúng là như hổ thêm cánh. Về sau ông kết đồng minh với hai nước Ngu, Nhuế, thế lực lại càng lớn mạnh. Lúc này, Cơ Xương tự xưng là Tiếp Nhận “Vương Mệnh”, hơn 40 nước chư hầu ở xung quanh đều đến chúc mừng, tôn làm Chu Văn Vương. Từ đó Tây Bá Hầu đổi sang gọi là Chu Văn Vương, thay thế chân mệnh thiên tử của Thương Vương. Chu Văn Vương “thụ mệnh” được 2 năm, Khương Tử Nha đem quân đi đánh tộc Đại Nhung ở phía Tây giành thắng lợi, tiếp đó lại yêu cầu Văn Vương đi đánh nước Mật Tu ở Tây Bắc. Con thứ ba của Chu Văn Vương tên là Tiên phản đối rằng: “Vua nước Mật Tu anh minh, tài giỏi, đánh ông ta trước không hay đâu”. Khương Tử Nha nói: “Muốn lập uy thì phải đánh nước mạnh, không phục tùng trước”. Chu Văn Vương rất tán thành chủ trương của Khương Tử Nha, liền xuất quân đánh nước Mật Tu, chiếm được toàn bộ lãnh thổ. Khương Tử Nha liền liên tiếp đánh thắng hai trận, thừa thắng đánh vào nước Lê ở rất gần kinh đô nhà Thương, nước Lê lập tức đầu hàng. Năm sau nhà Chu lại sai quân đi đánh chiếm được nước Hàn ở phía Nam nước Lê, là nơi Thương Trụ Vương thường đến săn bắn. Như vậy, thế lực nhà Chu đã thâm nhập vào tận khu vực trung tâm của vương triều nhà Thương. Đến những năm cuối đời của Chu Văn Vương, Khương Tử Nha lại đem quân chiếm nước Sùng. Nhà Chu dời đô đến kinh đô trước đây của nước Sùng, gây dựng nền móng lật đổ vương triều nhà Thương. Sau khi Chu Văn Vương ốm chết, con thứ hai là Phát kế vị, tức là Chu Vũ Vương. Được sự giúp đỡ của tướng phụ Lã Thượng, lật đổ được vương triều nhà Thương, bạo chúa Trụ Vương tự thiêu, gây dựng vương triều nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Do lập nên kỳ công trong quá trình gây dựng nhà Chu, Khương Tử Nha được phong ở nước Tề, trở thành ông Tổ của nước Tề. Bền lòng và nghị lực là mặt quan trọng của việc biết co biết duỗi, bởi vì giấc mộng sự nghiệp của con người thường bị vây hãm trong khoảng cách nhỏ hẹp của hoàn cảnh, được thần thời gian bảo hộ, đòi hỏi phải dùng toàn bộ sức sống để tranh đấu với nó, lấy tư cách của người chiến thắng mà đoạt lấy, khiến cho nó trở thành thứ không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày cho tới những giờ khắc cuối cùng của cuộc đời. Nếu chúng ta có quan niệm tư tưởng như kiểu sớm Tần chiều Sở (thất thường) đối với sự nghiệp, hay là có trạng thái lúc nóng lúc lạnh như thể bị sốt rét thì đó là căn bệnh chết người không sao cứu chữa được. Bởi vậy Mạnh Tử nói rằng “Phơi nắng một ngày rồi chịu lạnh mười ngày thì không thể phát triển được” và: “Đào giếng sâu mấy trượng vẫn không thấy mạch nước coi như là cái giếng bỏ đi”. Ở một mặt khác lại càng không thể cầu gấp, mong đạt ngay được. Cổ ngữ nói: “Cầu để được ngay thì không thể đạt được mục đích”. Lại nói: “Tiến độ nhanh thì co rút cũng nhanh”. Trong sách “Mạnh Tử” có một câu chuyện ngụ ngôn là: “Nước Tống có một người cho rằng lúa mạ nhà mình lớn quá chậm liền nhổ từng gốc cho cao lên và tự cho rằng làm như vậy là giúp cho nó lớn nhanh hơn. Sau đó về nhà với vẻ đắc ý, nói với con: Hôm nay cha mệt quá chừng, cha đã giúp lúa nhà mình lớn cao lên rồi. Con ông ta chạy ra đồng xem thì thấy lúa đã chết cả”. Bởi vậy nói rằng nếu ta muốn rèn luyện được một tấm lòng bền bỉ thì trước hết phải rèn luyện cho mình một lòng yêu thích công việc, sau đó lại bồi dưỡng một trạng thái tâm lý không cầu để được ngay, làm việc chắc chắn, từ từ mà tiến. Muốn mau chóng đạt được thì khó lòng đáp ứng được tâm trạng cấp thiết của ảo tưởng, khó lòng thiết thực lập nên sự nghiệp. Không đạt được yêu cầu về tâm lý thì rất dễ hỏng cả tâm khí. Tâm khí hỏng thì sẽ mù tịt, dễ dàng từ bỏ hay thay đổi sự nghiệp, cũng khó có thể bền lòng. Không bền lòng thì sự nghiệp khó thành, muốn đạt nhanh cũng không thể được. Bởi vậy mới nói rằng: “Thời gian muốn nó nhanh mà công lực không muốn nhanh, công lực muốn nhanh mà hiệu quả không muốn nhanh, sớm chín thì là tài nhỏ, đại khí tất phải thành muộn, tích luỹ dày thì thành công lớn. Ngày tháng tích lũy, kiên trì không nghỉ thì ngày ngày tăng tiến, điều này phải dựa vào lòng bền bỉ của quân vương”. Bởi vậy Khổng Tử nói: “Người giỏi ta chưa từng gặp, chỉ gặp được người bền lòng. Như vậy là được rồi. Không có coi là có, thiếu coi là đủ, đại khái cho là hết mức, thì khó mà bền lòng”. Và: “Bền lòng thì không có chỗ sai, lợi ích kiên định, đồng thời lợi cũng có được”. Có người nói: “Phàm là sự nghiệp thành công đều là vì bền lòng, những gì thất bại đều là do thiếu kiên nhẫn, bởi vậy người ta lập nghiệp quý là ở chỗ giữ được lòng kiên nhẫn để chờ đợi thành công, giữ đến cuối cùng thì tất đạt được”. Trong bài thơ “ở chỗ buông câu Bàn Khê” Lã Ẩn viết: “Năm ấy Lã Vọng dựng miếu hoang. Tung móc câu nước ai biết được”. Khương Tử Nha sớm tối tu dưỡng bên bờ Vị Thuỷ, tìm cái thần trong lúc câu. Phàm là người có chí hướng lớn, có tài năng vượt bậc thì quyết không cam lòng ôm ấp không thể hiện được, quyết không cam lòng để cho tài trí của mình lặng lẽ mất đi, chẳng qua là chờ đợi một vị vua hiền minh và một thời cơ nhất định mà thôi. 3. AN KHÔNG THỂ QUÊN NGUY, TRỊ KHÔNG THỂ QUÊN LOẠN Co trong lúc an, duỗi trong lúc trị. Để xây dựng một tòa miếu đường huy hoàng cần phải dùng rất nhiều xà trụ, xin hỏi những xà trụ vừa chắc vừa to ấy có phải là những cành nhánh sinh ra từ cây lớn hay không? Chiếc áo lông chồn trắng tinh kia sao có thể tạo ra chỉ từ một bộ lông? Cũng với một quy luật như vậy, những việc trị loạn, an nguy, tồn vong, vinh nhục của một đất nước cũng quyết không phải là nhờ ở sức mạnh của một cá nhân mà có thể đạt được. Nếu không sử dụng nhân tài rộng rãi, thì làm sao có thể làm được tốt những chuyện đại sự quốc gia. Vì chiêu mộ chí sĩ hiền tài trong thiên hạ, những người Chu Công cầu kiến tiếp đãi quả thật “một bọt nước ba lần nắm rồi bỏ, một miếng cơm ba lần thổ rồi nuốt”. Chu Công là con của Văn Vương, em của Vũ Vương, chú của Thành Vương, lại đứng ở ngôi vị Tướng Quốc mà nói, thực tế là sự cân nhắc “sợ mất thiên hạ làm đầu”. Đất nước muốn hưng vượng, giàu mạnh mà chỉ dựa vào sức lực của mấy người thì không làm được, phải dựa vào từ kẻ thất phu đến con “đại bàng đầu đàn”. Bất kể là ở tầng lớp nào, người quản lý nào thì trách nhiệm quan trọng nhất vẫn là chiêu mộ, tiếp đãi nhân tài, như vậy mới có thể hình thành nên cục thế “quần tinh công nguyệt” (Các vì sao cùng xúm quanh vầng trăng). Chu Công tên là Đáng là con của Chu Văn Vương, em của Chu Vũ Vương. Lúc đầu được phong ở đất Chu, bởi vậy mới gọi là Chu Công. Ông không chỉ là người trung thành mà còn rất có tài. Sau khi lên ngôi, Vũ Vương trước sau đều trọng dụng Chu Công, Chu Công theo Chu Vũ Vương chinh chiến nhiều năm, cuối cùng lật đổ nhà Ân Thương, lập nên nhà Chu. Chu Công chịu ảnh hưởng rất lớn của cha là Chu Văn Vương, từ nhỏ đã thấu hiểu mối quan hệ giữa việc cầu hiền và gây dựng đại nghiệp, cho dù là địa vị rất hiển hách nhưng đối với các sĩ phu hiền tài vẫn vô cùng kính trọng. Có khi trong lúc đang gội đầu nghe nói có người cầu kiến liền không do dự mà vắt tóc ướt đến gặp, thậm chí chỉ trong một lần gội đầu mà nhiều bận gián đoạn như vậy. Những lúc ăn cơm, nghe nói có người cầu kiến ông cũng vội nhả thức ăn trong miệng ra để đi gặp, không bao giờ chậm trễ, thậm chí một bữa ăn phải ngắt quãng mấy lần. Danh tiếng Chu Công chiêu hiền đãi sĩ lan truyền khắp thiên hạ, các chí sĩ hiền tài đều muốn đến dưới cửa nhà ông. Chu Công rất quý trọng Khương Tử Nha và một bậc hiền tài hơn người khác là Chiêu Công, khi có việc luôn khiêm tốn nhờ họ chỉ bảo. Cho dù ý kiến của mình là đúng, ý kiến của người là sai nhưng cũng không hề ỷ thế lấn lướt người, cậy công mà kiêu ngạo. Khương Tử Nha rất giỏi chỉ huy tác chiến, tư tưởng lại hơi có chút thiên kiến, ông nói: “Đối với những người mà mình yêu quý thì yêu đến cả chim chóc nơi người đó ở, còn đối với những kẻ mà mình căm ghét thì phải đốt sạch giết sạch đề phòng hậu hoạ. Chúng ta phải dùng chính sách cứng rắn”. Chiêu Công nói: “Không được! Càng giết ít người càng tốt. Ai phản lại chúng ta là phạm tội, giết ngay không tha, ai phục theo chúng ta thì có thể giữ lại mạng sống”. Chu Công cho rằng lúc ấy vừa rồi mới lật đổ nhà Thương xong, lực lượng của nhà Chu chưa thực mạnh, nếu dựa vào chủ trương của Khương Tử Nha thì tức là bắt buộc thế lực cũ nổi loạn. Làm theo ý của Chiêu Công cũng sẽ dẫn đến động loạn. Ông nói: “Những người của nhà Ân đa số đã từng phản đối chúng ta, đó là một việc rất tự nhiên, nay chúng ta không tính lại nợ cũ. Trước đây là quý tộc thì nay vẫn là quý tộc, đất đai nhà cửa của ai nên trả về người ấy, bất kể là quý tộc nhà Chu hay quý tộc nhà Ân, hễ ai bảo vệ vua mới thì cho chỗ tốt. Từ nay về sau, nếu ai phản lại vua mới thì ta phạt thật nặng. Như vậy người Ân thấy có đường sống mới không gây nhiễu”. Vũ Vương thấy Chu Công nói thật có lý liền làm theo ý kiến của ông và phong con của Trụ Vương là Vũ Canh làm Ân hầu, tiếp tục quản lý khu vực cũ của nhà Ân. Đồng thời lại thiết lập “tam giám” xung quanh khu vực này để giám sát về vũ lực, lần lượt do 3 người em khác của Vũ Vương đảm nhận. Chu Công vẫn ở lại bên cạnh Vũ Vương. Từ đó ông lại càng khiêm tốn, thường đến nhờ Khương Tử Nha, Chiêu Công chỉ bảo, khiến họ càng cảm động. Khi Vũ Vương sắp lâm chung mới uỷ thác cho Chu Công con trai yêu quý mới 13 tuổi thừa kế ngôi vị, tức là Chu Thành Vương. Chu Công đảm nhận trọng trách trị quốc, cần cù chịu khó, dốc lòng tâm huyết cùng Khương Đại Công (Khương Tử Nha), Chiêu Công chế định các pháp lệnh, chế độ, giúp cho vương triều nhà Chu ổn định. Chu Công ở lại kinh đô giúp đỡ Thành Vương, liền sai con trai là Bá Cầm thay mình thụ phong ở đất Lỗ. Trước khi đi, Chu Công dặn Bá Cầm rằng: “Ta là con của Chu Văn Vương, là em của Chu Vũ Vương, là chú của Chu Thành Vương, địa vị cũng là hiển quý rồi. Tuy thế, ta vẫn “một bọt nước ba lần nắm rồi bỏ, một miếng cơm ba lần nhổ rồi nuốt”, đối đãi hiền tài chưa bao giờ không chu đáo. Cho dù như vậy vẫn lo mất đi hiền sĩ trong thiên hạ. Con đến nước Lỗ nhất định phải ghi nhớ đạo lý cơ bản của việc trị quốc này”. Chu Công coi việc chiêu nạp hiền tài là việc lớn quan trọng nhất. Đấy là nguyên nhân chủ yếu đủ để giúp ông lập nghiệp. Ông là tấm gương về chiêu hiền đãi sĩ cho đời sau học tập. Trong cuộc sống hiện nay, qua lại ăn ở với người, ta cũng đều phải lấy thành tâm, thiện ý, hoà khí, lễ độ mà đối đãi. Không kể là đối với thầy hay bạn, trên hay dưới đều phải ăn ở thành thực. Đó cũng là điều mà các triết gia xưa kia từng nói: “Thành thật có thể động lòng trời, có thể cảm lòng người” và “thành thực với người thì dù xa xôi cũng thành thân mật, giả dối với người thì dù thân thiết cũng thành xa lạ”. Phẩm cách con người luôn chẳng biết đâu là thiếu đủ. Cách đối đãi với người cũng phải tùy thuộc vào người. Gặp người giả dối thì lấy lòng thành cảm động họ, gặp người tàn bạo thì lấy hoà khí hun đúc họ, gặp người tham lam vô độ thì lấy liêm sỉ tặng cho họ, gặp người tư lợi ngả nghiêng thì lấy nhân nghĩa khí tiết cổ vũ họ. Như vậy thì cả thiên hạ đều nằm trong sự cai trị của ta. Đào Giác nói: “Phàm là đãi người, nhận vật đều phải lấy mình làm chính, đừng bao giờ làm theo người khác. Nếu người khác bạc đãi ta thì ta cũng bạc đãi họ, nếu người khác lạnh nhạt với ta thì ta cũng lạnh nhạt lại với họ. Thậm chí người khác phỉ báng ta thì ta cũng phỉ báng họ tức là cũng cùng trình độ hiểu biết với họ. Tốt nhất là họ bạc đãi ta thì ta hậu đãi họ. Họ ngạo mạn với ta thì ta cung kính họ, họ phỉ báng ta thì ta ca ngợi họ. Như vậy mới có thể xoay chuyển người mà không bị người xoay chuyển mình”. Trong “Tống sử” ghi lại rằng: “Vương Đán thường tiến cử Khấu Chuẩn mà Khấu Chuẩn nhiều lần kể tội Vương Đán. Chân Tông bảo với ông nhưng Vương Đán lại ca ngợi Khấu Chuẩn là trung thần. Sau mấy lần rồi Khấu Chuẩn cũng tự than là mình không bằng được Vương Đán”. Đây là ví dụ thực tế về việc lấy đức báo oán. Thánh nhân đãi người thường là tìm kiếm cái vô tội trong chỗ có tội, thấy được chỗ không sai trong chỗ sai, tìm được cái đáng khoan dung trong cái không thể khoan dung, tìm được cái đáng tha thứ trong cái không thể tha thứ. Tìm hết sự trung thành của người, dung nạp sự khéo léo của người, bao dung cho những sai sót nhỏ khiến cho họ cảm động và không oán hận, thay đổi sai lầm đi theo cái thiện, đó chính là tấm lòng thuần hậu, là việc làm nhân đức. Bởi vậy Lý Tây Âu nói: “Không nên công kích quá nghiêm khắc sai sót của người mà phải xem xét xem họ có tiếp thu được hay không, giáo dục người ta theo cái thiện đòi hỏi không thể quá cao, phải khiến cho họ làm được. Ca ngợi cái thiện của người phải dựa vào sự việc, không nên hà khắc đòi hỏi tấm lòng của người. Công kích sai lầm của người thì nên tha thứ cho tấm lòng của người, không nên câu nệ những sai sót cũ”. Đây là cách giữ lại đường lui cho người ta. Cổ nhân dạy rằng: “Đối đãi quân tử thì dễ, đối đãi tiểu nhân thì khó. Đối đãi kẻ tiểu nhân có tài càng khó, đối đãi kẻ tiểu nhân có công cũng khó không kém”. Vì vậy đối đãi người chỉ có cách là bằng lòng rộng lượng nồng hậu. Đối đãi người quân tử đã phải như vậy, đối đãi kẻ tiểu nhân càng phải như vậy. Bất kể là đối đãi ai thì vẫn luôn phải dành ra một con đường lui để họ còn nuối tiếc. Nhà Phật nói: “Bỏ đao giết người xuống thì lập tức thành Phật”. Cũng có người sớm thì là tiểu nhân mà đến tối đã thay đổi thành quân tử. Lã Khôn từng nói: “Khi con người đã đến lúc không còn gì để nuối tiếc nữa, thì sự tôn kính của vua, của cha cũng không thể khiến họ nghiêm túc, có nung trong vạc dầu cũng không thể làm họ sợ hãi, có dạy bảo trăm ngàn lời cũng không làm họ hiểu được. Đến mức này thì thánh nhân cũng không thể làm gì. Thánh nhân biết họ như vậy thì lần nào cũng giữ thể diện cho họ, lượng thứ cho tình riêng của họ mà không đến nỗi khiến họ không còn gì để nuối tiếc”. 4. CÓ CÔNG MÀI SẮT, CÓ NGÀY NÊN KIM Co trong khi “khó”, duỗi trong lúc “thành”. Một người có được tinh thần biết co biết duỗi và tiết tháo quang minh lỗi lạc đều là do mài giũa trong gian khó mà nên. Một người có tài thao lược kinh bang trị quốc và trí tuệ hơn người cũng đều là từ mài giũa với thái độ cẩn thận, tỉ mỉ mà thành. Trong “Luận ngữ” Khổng Tử nói: “Có thể bắt được tướng giữa đám ba quân mà không thể đạt được chí của kẻ thất phu”. Bắt tướng trong đám ba quân vốn không phải là chuyện tầm thường nhưng cuối cùng vẫn có khả năng thành công, kẻ thất phu tuy rằng tầm thường nhưng khi chí hướng đã kiên định thì sức mạnh bên ngoài khó lòng thay đổi được. Bởi vậy người xưa có câu: “Người có chí thì việc tất thành”. Đương nhiên, từ “lập chí” đến “thành sự” không phải là được trong chốc lát. Trên thực tế, con đường đi đến thành công không thể nói là bằng phẳng được. Mà đối với trắc trở và thất bại, nếu không nỗ lực phấn đấu với thái độ tiến thủ tích cực thì khó có thể thành công. Tinh thần nỗ lực phấn đấu vì một mục đích, một mục tiêu, lý tưởng nhất định là biểu hiện của ý chí tự lực tự cường không ngừng nghỉ. Văn Vương bị tù ở Mỹ Lý mà viết nên “Dịch”, Tư Mã Thiên hổ thẹn vì bị tội cung hình (bị thiến) mà viết ra “Sử ký”. Tôn Mạc buồn vì bị khoét bánh chè mà nổi dậy ở Đông Sơn. Ở họ đều thể hiện một tinh thần tự lực tự cường không ngừng nghỉ, không sợ khó khăn trắc trở. Tôn Tẫn được tôi luyện qua bao kiếp nạn, cuối cùng hiểu được thế gian còn có hai chữ “hiểm ác”. Nỗi khổ về tâm trí và vết thương về gân cốt càng khiến cho ông thêm trưởng thành, ý chí càng thêm kiên cường. Trí tuệ, sự uyên bác và đặc biệt là thiên tài quân sự đã được phát huy đến mức nhuần nhuyễn, tuyệt đối trong vũ đài chính trị của nước Tề. Mới đầu Tôn Tẫn đã tin Bàng Quyên, vốn là một kẻ hay đố kị, sau khi đến nước Ngụy được Ngụy Huệ Vương phong, làm “khách khanh”. Khoảng nửa năm sau Bàng Quyên mượn danh nghĩa anh họ là Tôn Bình làm giả một bức thư nhà sai người đem đến chỗ Tôn Tẫn. Sau đó đem việc này nói với Ngụy Huệ Vương, rồi bắt Tôn Tẫn với tội danh là tư thông với nước Tề, đem chặt gãy hai chân và thích chữ lên mặt. Bàng Quyên không hại chết Tôn Tẫn mà rơi mấy giọt “nước mắt cá sấu”, đổ tất cả tội lỗi lên đầu Ngụy Huệ Vương, thể hiện vẻ trong sạch vô tội. Làm như vậy không phải là bởi nghĩa đồng môn mà là muốn có được 13 thiên binh pháp tổ truyền của Tôn Tẫn. Tôn Tẫn thấy Bàng Quyên có ơn với mình nên ghi lại tỉ mỉ từng dòng binh thư, chuẩn bị truyền lại cho Bàng Quyên. Ai ngờ ít lâu sau thì mọi chuyện bại lộ, có một kẻ tôi tớ đem dụng tâm hiểm ác của Bàng Quyên kể cho Tôn Tẫn. Lúc này Tôn Tẫn mới thấy rõ bộ mặt thật của Bàng Quyên nên đem đốt binh thư, giả bộ điên khùng, nhẫn nại chịu đựng bao điều khổ nhục, khiến Bàng Quyên không để tâm đến chủ ý của mình. Vua Tề đã nghe về tài năng của Tôn Tẫn từ lâu, khi được biết Tôn Tẫn phải chịu nhục ở nước Ngụy liền sang sứ giả lấy danh nghĩa là đến thăm nước Ngụy, giấu Tôn Tẫn vào trong xe ngựa, lén lút đưa về nước Tề. Khi Tôn Tẫn gặp Tề Uy Vương thì nước Tề đã được cải cách, thực lực đất nước đã nâng cao lên rất nhiều. Vì vậy Tề Uy Vương muốn khoa trương thanh thế với bên ngoài, khống chế chư hầu, tranh bá nghiệp với nước Ngụy, cho nên rất cần có nhân tài về quân sự. Tôn Tẫn đến khiến cho Tề Uy Vương cầu tài như nắng hạn gặp mưa rào, cảm thấy tiếc vì gặp quá muộn. Vua tôi người hỏi người đáp, cực kỳ tâm đầu hợp ý. Tài học và trí tuệ của Tôn Tẫn đã giải tỏa mọi vấn đề khó khăn về chính trị, quân sự và ngoại giao của Tề Uy Vương. Tề Uy Vương vô cùng khâm phục tài trí của Tôn Tẫn, thỉnh cầu ông làm thay mình, dạy dỗ binh pháp, Tôn Tẫn lại không chịu nhận, khiêm nhường nói rằng mình là kẻ phạm tội bị phạt được Tề Vương triệu kiến đã là vinh hạnh lắm rồi, được làm bề tôi dưới trướng Tề Vương đã là vô cùng mãn nguyện. Thế là Tề Uy Vương liền xây phủ đệ ở Tắc Hạ cho Tôn Tẫn, đối đãi theo lễ khanh đại phu. Năm 354 trước Công Nguyên, (năm Chu Hiển Vương thứ 15, Ngụy Huệ Vương thứ 17, Tề Uy Vương thứ 25, Tần Hiếu Công thứ 8), nước Triệu tấn công nước Vệ, ép nước Vệ phải triều cống. Nước Vệ trước đây vốn triều cống nước Ngụy nay về chầu nước Triệu đương nhiên là Ngụy không thể bằng lòng. Lại thêm nước Triệu từng can dự vào việc tranh ngôi của vua nước Ngụy, thù cũ hận mới, Ngụy Huệ Vương quyết định xuất quân đánh Triệu. Ngụy Huệ Vương sai Bàng Quyên thống lĩnh đại quân tấn công nước Triệu. Do quân Ngụy lính khoẻ, ngựa tốt, lương thảo đầy đủ nên quân Triệu không có sức đối địch lại, Triệu Thành Hầu đành phải hạ lệnh cố thủ chờ tiếp viện. Quân Ngụy bao vây thành Hàm Đan tầng tầng lớp lớp, thế mạnh như vũ bão. Hai nước Tề, Triệu liên minh với nhau trên cơ sở cùng phản đối bá nghiệp của Ngụy Huệ Vương, vì vậy vua Triệu là Triệu Thành Hầu sai sứ giả đến nước Tề cầu viện, lại xin dâng Trung Sơn để làm lễ tạ. Về việc có nghiên cứu Triệu hay không, vua tôi nhà Tề bàn bạc vô cùng kịch liệt. Tể tướng Châu Kị phản đối, ông cho rằng hai nước Triệu, Ngụy đánh lẫn nhau thì có thể làm cho thực lực của họ suy yếu, như vậy nước Tề có thể thừa cơ phát triển sức mạnh của mình. Quan điểm của đại phu Thuần Vu Khôn lại khác, ông ta cho rằng nếu để cho nước Ngụy giành thắng lợi thì thế lực của họ tất sẽ tăng lên nhiều, có thể nguy cấp đến sự an toàn của nước Triệu. Cuối cùng thì nên theo ý kiến nào? Tề Uy Vương chưa thể quyết đoán ngay được nên đi hỏi ý kiến Tôn Tẫn. Tôn Tẫn nói: “Nên đi cứu nước Triệu, vấn đề là ở chỗ lúc nào sẽ xuất quân? Trước mắt thế quân Nguỵ đang mạnh, xuất quân lúc này rất không có lợi cho ta. Như được biết thì thành Hàm Đan phòng ngự rất kiên cố, nước Ngụy không thể công phá ngay được. Ta có thể xuất quân chậm một chút, đợi lúc quân Ngụy mệt mỏi sẽ hành động thì hẳn dễ dàng giải vây cho Hàm Đan”. Tề Uy Vương cho rằng Tôn Tẫn phân tích rất có lý liền quyết định tạm hoãn xuất quân. Đến mùa xuân năm sau, Tề Uy Vương cho rằng thời cơ đã chín muồi liền chuẩn bị đi cứu Triệu. Ông giao cho Tôn Tẫn làm đại tướng, Tôn Tẫn từ chối rằng: “Không được, thần là một tội nhân tàn tật, nhận chức đại tướng tất sẽ bị quân địch chê cười. Đại vương nên mời Điền đại phu làm đại tướng”. Thế là Tề Uy Vương phong Điền Kị làm đại tướng, Tôn Tẫn làm quân sư phụ trách việc mưu tính chiến lược, chiến thuật. Đại quân nước Tề xuất phát từ kinh đô Lâm Tri, đi 10 ngày đã đến bờ Nam sông Hoàng Hà. Tôn Tẫn ra lệnh cho quân sĩ dừng lại mà không qua sông tiếp tục tiến lên. Lúc này quân Ngụy bao vây Hàm Đan lại chĩa mũi nhọn sang nước Vệ ở cận bên, chia quân ra đánh nước Vệ và uy hiếp nước Tống ở phía Đông. Quân Ngụy chia quân ra làm hai đường khiến Điền Kị vô cùng khó hiểu. Tôn Tẫn giải thích rằng: “Giặc đánh đã lâu, nay tấn công Vệ, uy hiếp Tống là để lập hành lang ngăn cách, vì thế mà hành động như vậy”. Điền Kị hỏi: “Bây giờ ta nên làm thế nào”? Tôn Tẫn nói: “Thế giặc vẫn rất mạnh, không thể giao đấu chính diện với chúng được, cách tốt nhất là đánh vào tâm lý sợ hãi của quân Ngụy, liên kết với quân Vệ, Tống, chủ động đánh vào hậu phương quân Ngụy, làm rối loạn hoàn toàn kế hoạch của chúng”. Điền Kị hỏi: “Ta đánh vào đâu thì thích hợp?”. Tôn Tẫn nói: “Binh pháp nói rằng: “Đánh vào chỗ phải cứu”. Vùng Tương Lăng (Phía Tây huyện Tuy, Hà Nam) của nước Ngụy, thành tuy không lớn nhưng phạm vi quản hạt rộng, người đông, lương thực dồi dào, là trung tâm kinh tế ở phía Đông của Ngụy. Chỉ cần chúng ta phái một bộ phận binh lực, liên kết với quân Tống, Vệ đánh vào chỗ này thì quân Ngụy tất thôi đánh Vệ mà quay về cứu Tương Lăng”. Điền Kị hỏi: “Ta sai ai đi thì hợp?” Tôn Tẫn nói: “Người này phải thuộc binh pháp và có khả năng tác chiến độc lập”. Điền Kị nói: “Hai vị đại phu là Tề Thành và Cao Đường đáp ứng điều kiện này”. Tôn Tẫn nói: “Lần này xuất quân phải khiến cho quân Ngụy tưởng lầm cho rằng là chủ lực của ta. Điều này phải nhờ Tề Thành, Cao Đường hư trương thanh thế, chia quân làm hai đường, trước sau hai bên bao vây Tương Lăng”. Thế là Điền Kị theo kế sách của Tôn Tẫn sai Tề Thành và Cao Đường liên kết với Tống, Vệ tấn công Tương Lăng. Tình hình Tương Lăng nguy cấp, Ngụy Huệ Vương buộc lòng phải hạ lệnh cho Bàng Quyên dừng đánh Vệ mà quay về tăng viện cho Tương Lăng. Do binh lực không đủ, lại thêm quân Ngụy quá đông nên chiến dịch Tương Lăng kết thúc với sự đại bại của Tề Thành, Cao Đường. Tin chiến dịch Cao Lăng thất bại khiến cho Điền Kị dạ như lửa đốt, lập tức triệu kiến Tôn Tẫn để hỏi kế sách tiếp theo. Ai ngờ Tôn Tẫn nghe theo chẳng thấy chút nào là kinh ngạc, nói chắc nịch rằng: “Không nên căng thẳng, đây là việc đã tính từ trước, bây giờ cuộc chiến mới chính thức bắt đầu”. Điền Kị nghi hoặc không hiểu hỏi: “Việc này giải thích làm sao?”. Tôn Tẫn nói: “Lực lượng quân Ngụy rất mạnh, cho dù liên quân Tề, Triệu trong công ngoài kích cũng không nhất định thắng lợi, lại thêm quân Triệu bị vây khốn trong thành, hai bên không liên lạc được với nhau, căn bản không có cách gì phối hợp, sức chiến đấu lại càng không phát huy được. Lực lượng địch quá mạnh, muốn chiến thắng thì phải đánh chỗ hư, tránh chỗ thực. Nhưng chỗ hư của Ngụy ở đâu? Hiện nay quân chủ lực của Ngụy tập kết quanh Hàm Đan, lại còn phân bố ở Tương Lăng, kinh đô Đại Lương nhất định bỏ trống. Ta chỉ cần trực tiếp đánh vào Đại Lương, Ngụy Huệ Vương tất vô cùng sợ hãi mà lệnh cho quân vây Triệu quay về cứu, Hàm Đan tất tự nhiên được giải vây. Đồng thời quân Ngụy trên đường vội vã trở về tất nhiên sức chiến đấu bị suy yếu, ta chỉ cần cho quân mai phục, đột kích, quân Ngụy mệt mỏi lo giữ mạng tất sẽ dễ dàng bị đánh bại. Đây là kế một mũi tên trúng hai đích”. Thế là Điền Kị theo kế của Tôn Tẫn sai quân lẳng lặng tiến lên, đi về phía Tây tấn công vào Đại Lương. Được tin quân Tề đánh Đại Lương, Ngụy Huệ Vương vô cùng sợ hãi, lệnh cho Bàng Quyên hoả tốc đem quân bao vây Hàm Đan về tăng viện cho Đại Lương. Bàng Quyên được lệnh liền vội vã quay về, vòng vây Hàm Đan kéo dài nửa năm cuối cùng được giải tỏa. Bàng Quyên cho rằng quân Tề đã áp sát Đại Lương, ai ngờ quân Tề nghe được quân Ngụy đã rút hết liền mai phục ở Quế Lăng (Tây Nam huyện Trường Hoàn ở Hà Nam). Quân Ngụy đang trong lúc vội vàng không phát hiện ra phục binh, trong chốc lát đã lọt vào vòng vây. Hai bên ứng chiến, quân Ngụy đại bại, chết hơn hai vạn, Bàng Quyên may mắn chạy thoát. Bá nghiệp của Ngụy Huệ Vương bị công kích trầm trọng. Chiến dịch Quế Lăng là một ví dụ huy hoàng trong lịch sử quân sự Trung Quốc. Quân Tề lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, giành được thắng lợi sau cùng, công đầu thuộc về mưu lược đúng đắn của Tôn Tẫn. Chiến dịch này cùng lúc kiểm nghiệm lại và phát triển thêm lý luận quân sự của Tôn Tẫn. Đồng thời nó cũng chỉ ra cho chúng ta một bài học sâu sắc là: Chữ “khó” chỉ có trong từ điển của những kẻ ngu muội. Nếu như chúng ta có thể vượt qua khó khăn trở ngại, không hề lay chuyển, gian khổ phấn đấu, tích lũy từng ít một, bền bỉ lâu ngày thì kết quả tự nhiên sẽ rất khả quan. Khi trả lời Phàn Trì hỏi về chữ nhân, Khổng Tử nói: “Nhân tức là trước vượt qua gian nan mà sau có thu hoạch. Đây đã gọi là đã làm được nhân”. Nếu như không khó khăn trước thì không thể có thu hoạch, trước mà dễ dàng thì không thể nói là thành công lớn. Trước vui thì không thể nói là kết cục tốt đẹp. Bởi vậy mới nói rằng, nghịch cảnh là hoàn cảnh thích hợp nhất cho con người phấn đấu vươn lên và cũng là hoàn cảnh tốt nhất để rèn luyện con người, để nâng cao tài năng, học vấn. “Chu Dịch” được Văn Vương hoàn thành trong lúc bị giam cầm. “Xuân Thu” của Khổng Tử viết trong lúc bị nguy nan. Bài phú “Li tao” của Khuất Nguyên làm trong khi đi đày. “Quốc ngữ” của Tạ Khâu hoàn thành sau khi 2 mắt bị mù. “Binh pháp Tôn Tử” ra đời sau khi bị chặt gãy 2 chân. “Lã lãm” của Lã Bất Vi ra đời sau khi bị đày sang Thục. “Thuyết nan”, “Cô phẫn” của Hàn Phi Tử ra đời khi ở trong ngục nhà Tần. “Sử kí” của Tư Mã Thiên ra đời sau khi thân thể đã tàn phế. Những người này đều là trong lúc khó khăn không cúi đầu, không nản lòng, tiếp tục phấn đấu mà tạo nên mốc son trong lịch sử. Bởi vậy ngạn ngữ nói: “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Một nhân vật vĩ đại và một sự nghiệp vĩ đại chí ít cũng phải trải qua mấy lần gian khó nhục nhã và thất bại. Lấy tấm lòng kiên định phấn đấu trong nguy nan thì mới có thể phá được cửa ải khó khăn nguy hiểm. Nhẫn nại lao khổ, vào sinh ra tử, không sợ bất kỳ đau đớn nào về thể xác, về tinh thần, bằng nghị lực lớn nhất, lòng can đảm vững chắc nhất, dũng cảm tiến lên phía trước chưa đạt được mục đích thì thề không ngơi nghỉ. Câu “thất bại là mẹ thành công” người đời thường nói không phải là câu cách ngôn ngọt ngào mà là bài học thực tế có được qua biết bao nhiêu cay đắng. Trải qua một lần thất bại thì tăng một phần hiểu biết, thêm một phần kinh nghiệm, thất bại càng nhiều thì thành công sau này càng lớn. Bởi vậy, chỉ cần đứng trước thất bại không nản lòng, không bi quan, không tiêu cực, thì nhất định có thu hoạch, có thành công. 5. BẢO KIẾM NHỌN TỪ MÀI GIŨA MÀ RA, HOA MAI THƠM DO GIÁ RÉT MÀ ĐẾN Co mài nên “nhọn”, duỗi ngửi thấy “thơm”. Khi Khổng Tử bị vây khốn ở nước Trần, nước Sái, chịu đựng đói rét, nhìn khắp cảnh vật xung quanh, bèn than với học trò: “Trời đã lạnh, sương tuyết đã rơi vậy mà thật khó hiểu được màu xanh của tùng, bách”. Đây tức là Khổng Tử lấy những cảm nhận của mình qua mấy mươi lần thăng trầm để biểu đạt sự tán dương cây tùng cây bách. Tục ngữ có câu: “Bảo kiếm nhọn từ mài giũa mà ra, hoa mai thơm do giá rét mà đến”. Nghiệp lớn anh hùng không phải có được trong chốc lát, nếu không trải qua phong sương thì làm sao có hoa mai thơm nức? Người lập đại công, dựng đại nghiệp đều phải trải qua sự phấn đấu gian khổ vô cùng. Người có chí hướng lớn mà chỉ dựa vào mài giũa không thôi thì chưa đủ. Bởi vì những người chịu mài giũa và chịu được mài giũa tương đối nhiều nhưng không nhất định ai cũng đều nổi danh, đều trở thành anh hùng, đều thành công. Sự nghiệp lại càng không thể có được, hoàn thành được nhờ vào may mắn và sự đại khái qua loa mà luôn luôn phải giữ thái độ thận trọng như đứng trước vực sâu, như dẫm lên băng mỏng, tích luỹ từng li từng tí để có được. Với tấm lòng rộng lượng, quang minh lỗi lạc, tích lũy dần, biết co biết duỗi với con mắt chiến lược sâu xa, lại thêm ý chí kiên cường, nhân cách hoàn mĩ, thì mới có thể đặt nền móng vững chắc cho thành công trong sự nghiệp của mình. Tô Tần là người Lạc Dương thời Đông Chu, tương truyền đã từng là học trò của Quỷ Cốc Tử, học binh pháp của Khương Tử Nha. Học thành tài xong, lần lượt đi khắp các nước, mong muốn kiếm một chức quan nhưng trước sau đều không được coi trọng, trong lúc chán nản bất đắc dĩ trở về quê, tìm cơ hội phát triển. Lúc ấy các nước chư hầu lớn đua nhau xưng vương, đến Chu Thiên Tử trên danh nghĩa cũng bị gạt sang một bên. Những thần dân trong địa hạt của vương thất nhà Chu đứng trước cục diện thế lực chính trị đã hoàn toàn mất, vô cùng thất vọng. Chính trị lại không có tiền đồ nên họ đành dốc sức vào phát triển kinh tế. Trong tình hình này hiển nhiên là “binh pháp Khương Đại Công” chẳng dùng vào đâu cả. Người nhà và bạn bè thân thích của Tô Tần hết sức thất vọng bởi những gì ông đã học. Theo họ thì bất kỳ khả năng buôn bán, kiếm tiền nào cũng có giá trị gấp nhiều lần những giấy mực của mấy trăm năm trước. Hành động của Tô Tần không được họ hiểu ra mà trái lại còn trở thành trò cười cho họ. Đối mặt với những dằn vặt và thất bại này, Tô Tần không hề nản lòng mà trái lại còn khích lệ ông quyết tâm hiển đạt thành danh. Từ đó ông đóng cửa không ra ngoài, tập trung đọc sách. Để mình khỏi lười nhác, ông buộc tóc lên nhà, lấy dùi đâm vào đùi. Câu chuyện “Huyền lương trùy cổ” (tóc cột đùi đâm dùi) bắt nguồn từ đây. Học để vận dụng là mục đích đọc sách của Tô Tần, ông hiểu sâu sắc rằng nếu chỉ theo sách vở mà không rút ra được những quy luật có ích cho thế gian thì không thể có được sự tôn kính và trọng dụng của người khác, khi đó có đọc nhiều sách cũng vô dụng. Vì vậy, ông đặc biệt coi trọng những sách vở kết hợp giữa gợi mở về trí tuệ và giá trị thực dụng. Có một lần ngẫu nhiên, Tô Tần tìm thấy trong kho sách nhà Chu hai quyển “Khương Đại Công âm phù”, ông cảm thấy cực kỳ quý báu, thế là vất vả đọc suốt ngày đêm, nghiền ngẫm từng li từng tí, bỏ công sức hơn một năm, thấy rất có ích. Ngoài ra ông còn nghiên cứu tỉ mỉ tình hình chính trị, địa hình các nước, số lượng binh mã và lòng dạ của chư hầu. Thông qua kết hợp lý luận và thực tế, ông tự cho rằng đã có đủ lý do để thuyết phục nhiều vị vua đương thời. Tô Tần một lần nữa ra đi, trạm dừng đầu tiên là đến chỗ Chu Hiển Vương giãi bày lý luận của mình nhưng không thành. Bởi vì quan lại nhà Chu đã hoàn toàn thất vọng với tiền đồ chính trị, lại thêm Tô Tần thân phận thấp kém, họ căn bản không để tâm đến anh học trò yếu ớt nghèo kiết xác này. Cho dù “xuất quân” bất lợi, Tô Tần vẫn không dễ dàng buông xuôi. Ông cảm thấy những nước chư hầu khác muốn phát triển trong áp lực cạnh tranh kịch liệt nhất định cần lý luận của mình. Nước Tần mới nổi có tiềm lực nhất, nếu có thể đứng vững trên vũ đài chính trị nước Tần thì hẳn sẽ làm nên chuyện lớn. Thế là ông liền đến thẳng nước Tần ở phía Tây tuyên truyền lý luận của mình với Tần Huệ Vương. Tô Tần ôm ấp lòng tin trọn vẹn, gửi gắm hy vọng sâu sắc khi bước qua ải Hàm Cốc, ai ngờ lại bị Tần Huệ Vương lạnh nhạt, từ đó về sau lòng nhiệt tình đầy ắp của Tô Tần biến thành lòng căm hận, quyết tâm báo thù nước Tần. Thế là ông sống ẩn cư, khổ tâm nghiên cứu, trải qua khoảng một năm cuối cùng tạo ra một chiến lược để chế ngự nước Tần - chiến lược hợp tung - tức là kết hợp nhiều kẻ yếu để đánh một kẻ mạnh, liên kết sức mạnh của các nước chư hầu để chế ngự chủ trương mở rộng ra bên ngoài của nhà Tần. Ý chí ngoan cường và tính cách kiên quyết mưu cầu công lợi của Tô Tần đã quyết định ông như mũi tên chỉ có thể rời dây cung đến chết không quay lại. Nước Yên, cường quốc quân sự trở thành mục tiêu tiếp theo của ông. Ông ở nước Yên đợi hơn một năm, cuối cùng đến bước sơn cùng thuỷ tận thì coi như đã tìm được cơ hội, gặp được Yên Văn Công. Tô Tần dùng trí thức uyên bác của mình phân tích hợp tình hợp lý cho Yên Văn Công về tình hình nước Yên. Ông nói: “Nước Yên phía Đông có Triều Tiên, Liêu Đông, phía Bắc có Lâm Hồ, Lâu Phiền, phía Tây có Vân Trung, Cửu Nguyên, phía Nam có sông Đàm Luân, Địch Thuỷ. Lãnh thổ hơn 2000 dặm, quân sĩ mấy chục vạn người, chiến xa 600 chiếc, kỵ binh hơn 6000, lương thực tích trữ dồi dào, có thể dùng trong nhiều năm. Hạt Thạch và Nhạn Môn ở phía Nam vô cùng giàu có, vùng đất phía Bắc trồng nhiều táo, vải, trăm họ cho dù không làm ruộng cũng có đủ táo, vải để ăn. Tóm lại, đây là một vùng trời bán hậu lộc, sản vật dồi dào”. Những lời tốt đẹp của Tô Tần khiến cho Yên Văn Hầu vô cùng vừa lòng. Tiếp đó ông chính thức đi vào chủ đề: “Nhưng so với nước Triệu ở phía Tây, nước Tề ở phía Nam thì lực lượng nước Yên thể hiện ra chưa đủ. Những năm gần đây nước Triệu đã lớn mạnh, nước Tề cũng lớn mạnh, mà nước họ chiến tranh liên miên, còn nước Yên nhỏ yếu thì lại bình yên vô sự. Đại vương đã từng tìm hiểu kỹ nguyên do trong đó chưa?” Yên Văn Hầu nói: “Người nói thử xem”. Tô Tần giải thích: “Sở dĩ nước Yên luôn bình yên vô sự chủ yếu là do nước Triệu ở phía Tây Nam đã chặn sự xâm lược của nước Tần hùng mạnh ở phía Tây lại. Nước Tần muốn tấn công nước Yên từ phía Đông Bắc thì phải qua nước Triệu, điều này nước Triệu quyết không cho phép. Gần đây nước Tần và nước Triệu đã xảy ra 5 cuộc chiến với quy mô lớn, hai bên có lúc thắng lúc thua, thực lực đều bị suy yếu. Lực lượng của nước Yên lại chẳng hề bị tổn hại, vì thế mà họ không dám tuỳ tiện xâm lược. Trên thực tế, nước Tần dù có lớn mạnh nữa cũng không uy hiếp được nước Yên bao nhiêu. Nếu như họ muốn trừ Vân Chung và Cửu Nguyên ở phía Bắc, trực tiếp tấn công vào nước Yên thì phải vượt qua Đại quận và Thượng Cốc, khoảng cách này có tới mấy nghìn dặm. Cho dù một lúc có thể công hãm được thành trì nước Yên thì khi nước Yên phản công, quân Tần cô lập, không có viện binh tất không giữ nổi thành, bởi vậy nước Yên không phải lo nước Tần uy hiếp. Thế nhưng đối với nước Triệu lại không phải như vậy, chỉ cần hạ lệnh một tiếng là không đến 10 ngày mấy chục vạn đại quân đã tập kết ở biên giới phía Đông, lại chỉ cần 4, 5 ngày nữa là có thể vượt qua sông Thuận Đà, Địch Thuỷ, uy hiếp kinh đô. Theo tình hình như vậy, nước Tần đánh nước Yên là tác chiến ở ngoài xa nghìn dặm, nước Triệu tấn công nước Yên là tác chiến ở trăm dặm. Cái hoạ ở ngoài nghìn dặm và cái hoạ ở trong ở trăm dặm cái nào cần xem xét đến trước. Câu trả lời chẳng cần nói cũng đã hiểu. Bởi vậy, thần đề nghị đại vương thay đổi mối quan hệ với Triệu, liên minh với họ, khiến cho lực lượng ở Trung Nguyên kết thành một mối cùng đối phó với nước Tần. Như vậy thì nước Yên không còn gì đáng phải lo lắng nữa”. Yên Văn Công tán thành đề nghị của Tô Tần, nhưng lo rằng lòng người ở các chư hầu không đủ. Ông nói: “Tiên sinh nói rất có lý nhưng nước Yên yếu nhỏ, nước Triệu ở phía Tây và nước Tề ở phía Nam đều là những cường quốc, nếu như sách lược hợp tung của tiên sinh quả thật có thể thực hiện được đạt được mục đích liên kết Tề, Triệu với nước Yên yên định thì ta sẽ tiếp thu ý kiến của tiên sinh, đem sức lực của nước Yên nhập vào cuộc vận động hợp tung của tiên sinh”. Tô Tần nói mình muốn đi thương lượng với Triệu Hầu trước, Yên Văn Công liền cho xe ngựa, vải vóc và lệ phí để sang Triệu hành động. Tô Tần đến nước Triệu, lúc này Hầu Phụng Dương đã chết, Triệu Hầu nghe nói có khách đến liền đích thân ra thềm đón và nói: “Ngài hạ cố đến đây có điều gì dạy bảo?” Tô Tần nói: “Mấu chốt trong việc trị quốc là khiến cho trăm họ bình yên. Hiện nay ở phía Đông thực lực mạnh nhất là Tề, ở phía Tây thực lực mạnh nhất là Tần. Nếu như coi như cả Tề và Tần đều là địch thì nhất định đất nước không thể yên ổn được. Nhưng nếu kết giao với nước Tề thì có thể đánh được Tần, hoặc là liên kết với Tần thì có đánh được Tề, trăm họ nhất định cũng được yên ổn. Thế nhưng nước Triệu phải chọn chính sách nào mới có thể đạt được lợi ích lớn nhất? Tôi cho rằng nên bắt đầu từ những mặt dưới đây: Đối với nước Tề mà nói thì Tề là một nước thương nghiệp, bình thường không thể chủ động gây ra chiến tranh ở Trung Nguyên. Nhưng nước Tần lại khác, sản vật của Tần không phong phú, của cải không nhiều, muốn tăng sức mạnh đất nước thì phải cướp đoạt của các nước ở phía Đông. Bởi vậy họ nhất định dùng nhiều biện pháp cứng rắn, tìm mọi cách để mở rộng thế lực. Nếu nhà vua liên minh với Tần thì sẽ làm yếu đi thế lực của hai nước Hàn, Ngụy. Nước Ngụy địch không được nước Tần có thể cắt Hà Tây cho Tần, nước Hàn địch không nổi nước Tần có thể cắt thành Nghi Dương cho Tần. Tần có được hai nơi này thì thế lực sẽ tăng nhanh, quay lại uy hiếp trực tiếp đến sự an toàn của nước Triệu. Trong số chư hầu của Trung nguyên thì nước Triệu có lực lượng quân sự mạnh nhất, quân sĩ hàng mấy chục vạn, chiến xa hàng nghìn chiếc, ngựa chiến hàng vạn con, lương thực có thể dùng đến mấy năm. Đất đai nước Triệu trải dài hơn 2000 dặm, phía Tây có Trường Sơn, Nam có Chương Hà, Đông có Thanh Hà, Bắc có nước Yên. Ba mặt Đông Nam Tây lợi về cố thủ, nước Yến ở phía Bắc nước nhỏ thế yếu cũng không đáng lo. Kẻ địch chủ yếu của nước Triệu là nước Tần ở phía Tây. Sở dĩ hiện nay nước Tần chưa dám ngang nhiên tấn công nước Triệu là vì sợ nước Ngụy, nước Hàn thừa cơ tấn công phía sau lưng. Ở điểm này, nước Hàn và nước Ngụy lại là bức tường ngăn cản nước Tần hùng mạnh tấn công nước Triệu. Nhưng phía Tây của hai nước Hàn, Ngụy không có núi cao sông sâu, không thích hợp phòng thủ. Nước Tần chỉ cần dùng chính sách tằm ăn lá dâu là có thể nhanh chóng đánh chiếm kinh đô của hai nước này. Một khi Hàn, Ngụy đầu hàng Tần thì nỗi lo phía sau được giải toả, tất sẽ xâm lăng nước Triệu. Đây là việc đại vương cần phải xem xét. Thần đã nghiên cứu rất tỉ mỉ địa hình và chính trị của các nơi. Đất đai của các nước ở Trung Nguyên rộng bằng nước Tần, quân đội đông hơn hàng chục lần. Nếu như 6 nước Hàn, Triều, Ngụy, Tề, Yên, Sở liên kết với nhau thành một khối để chống lại nước Tần ở phía Tây thì còn sợ không đánh nổi ư. Nhưng nếu lần lượt khuất phục nước Tần thì 6 nước sẽ bị nước Tần thống trị. Khuất phục nước Tần hay là liên kết để đánh lại nó, hai kết cục này đâu là tốt, đâu là xấu không cần phải nói nữa. Nếu 6 nước liên hợp lại, khống chế thế lực của nước Tần từ ải Hàm Cốc về phía Tây thì bá nghiệp của nước Triệu ở Trung Nguyên rất có hy vọng.” Triệu Túc Hầu vốn là một thanh niên cương trực, khí huyết, những lời nói này của Tô Tần khiến ông vô cùng kích động, mừng rỡ nói rằng: “Quả nhân tuổi còn trẻ, thời gian nắm chính sự lại chưa lâu, chưa từng nghe thấy sách lược trị quốc an bang tuyệt vời như vậy. Ta nguyện đem sức lực của nước Triệu giúp tiên sinh thực hiện lý tưởng”. Thế là Triệu Túc Hầu cấp cho Tô Tần một trăm cỗ xe ngựa, một nghìn cây vàng, một trăm đôi ngọc bích, hai nghìn xấp lụa để đi hội ước chư hầu kết liên minh hợp tung. Quả nhiên hiểu biết uyên bác và tài năng hùng biện của Tô Tần khiến người ta phải khâm phục. Thế nhưng thành công trong chuyến du thuyết lại càng được quyết định nhiều hơn bởi ông trước sau tràn đầy lòng tự tin ở hành động của mình. Bởi vậy mà nói rằng lòng tự tin có thể đem đến cho con người dũng khí trong công việc và cuộc sống. Lòng tự tin là hòn đá nền móng để cho người ta triển khai hoài bão lớn lao. Tự tin vốn có sức lực xung thiên, nếu bỏ đi điều này thì sẽ là cửa địa ngục. Xưa có một nhà triết học nói rằng: “Tự biết mình thì sáng suốt, tự tin mình thì mạnh mẽ”. Lòng tự tin là điều kiện số một của các vĩ nhân và tất cả các thành công trong sự nghiệp. Chỉ có lòng tự tôn mà không có lòng tự tin thì không cuồng vọng cũng là khoác lác. Tiêu Bá Nạp nói: “Người có lòng tự tin có thể biến cái nhỏ bé thành vĩ đại, biến kẻ bình thường thành thần thánh”. Những đức tốt như kiên nhẫn, tiến thủ, nhẫn nại, dũng cảm, bền bỉ, khắc phục khó khăn, chiến thắng hiểm nguy... trong cuộc đời đều được sinh ra từ lòng tự tin. Có người từng nói rằng: “Tự tin là gốc rễ của thành công. Tự tin có thể tăng cường tài năng khiến cho tinh lực càng thêm hưng vượng, giúp đỡ tâm năng, tăng cường sức lực, đồng thời cũng phát huy được rất nhiều đức tính tốt trong cuộc sống, sản sinh ra khả năng chỉ đạo”. Trải qua bao lần thất bại rồi lại trỗi dậy, kiên cường bất khuất không hề lay chuyển, đó không phải là lấy tự tin làm nền móng thì sao có thể được như vậy? “Nghiêu là người, Thuấn cũng là người. Họ làm được thì ta tất cũng làm được”. Chính vì có lòng tin như vậy mà sau đó Tô Tần có được một nghị lực và dũng khí chưa đạt được mục đích thì thề không ngơi nghỉ, cuối cùng có được ấn tượng của 6 nước. 6. KHÔNG SỢ TRĂM TRẬN BẤT LỢI, CHỈ SỢ NẢN LÒNG NHỤT CHÍ Nhụt chí thì không có chỗ nào để “duỗi”. Mọi việc thành công hay thất bại có quan hệ rất lớn bởi hoàn cảnh khách quan, nhưng nhân tố quyết định vẫn là ở tự bản thân mỗi người. Bởi vậy phải ôm ấp một lòng tin kiên định, bền bỉ nỗ lực phấn đấu, phải có tinh thần phấn đấu “trời cho khỏe mạnh, quân tử không ngừng tự cường”. Đặc biệt là sau khi thất bại, lâm vào nghịch cảnh thì càng không thể cam chịu nhụt chí, thụt lùi, gục ngã. Cần phải bình tĩnh trở lại, suy xét kỹ càng tiềm lực và sở trường của bản thân, xây dựng lòng tự tin kiên định ở cuộc sống, khiến cho tinh thần phấn chấn, sống động trở lại “trời sinh ra ta có tài tất hữu dụng, nghìn vàng tiêu hết lại có ngay”, tin tưởng rằng nhất định sẽ tìm thấy điểm khởi đầu của thành công. Mỗi người đều có cơ hội để thành công, nhưng phải nhờ vào việc bản thân nắm chắc được nó, tuy trên đường đi sẽ có lúc thất bại nhưng chỉ cần niềm tin kiên cường của bạn vẫn đứng vững thì không có sức mạnh có thể quật ngã, huỷ diệt bạn. Cho dù có là những tay công tử phóng đãng hay những kẻ ở trong song sắt, nếu không phải là tự chuốc lấy diệt vong thì không ai có thể khiến cho người đó tiêu vong được. Chỉ cần xây dựng lòng tin vào cuộc sống mới thì “lãng tử quay đầu lại, vàng thau mãi không đổi”. Quản Trọng là người có chí hơn người, đương nhiên có thể trải qua khó khăn mài giũa, quyết không hề nản lòng nhục chí, lúc cần co thì co, lúc nên duỗi thì duỗi, hơn nữa lại là người rất biết duỗi rộng quyền cước. Đủ thấy anh hùng khí đoản, hận trời thù người không phải là có khí chất của một người kiên cường. Chỉ có người biết co biết duỗi thì mới có thể thành đại nghiệp. Quản Trọng vốn là hóa thân của một hiền tướng. Thế nhưng từ xưa anh hùng phải trải qua nhiều lần mài giũa bởi khó khăn thì mới thể hiện được tài trí anh hùng của mình. Quản Trọng không cố giữ cái khí tiết bề tôi hủ bại, biết suy tính lợi hại mà thông hiểu sự thay đổi của con người, trong lúc nguy cấp thể hiện trí tuệ, sáng tác bài hát cổ động mọi người mà thoát khỏi tay địch; rất sáng suốt tự biết mình, lại biết ai là người dùng được, tiến cử nhân tài cùng giúp vương nghiệp; đầy bụng kinh luân, vô số thao lược, biết bao kế sách trị quốc hưng bang, phò tá quân vương mưu đồ bá nghiệp. Tất cả đều thể hiện ra tài trí lớn lao của ông. Sau khi Tề Hoàn Công lên ngôi, Quản Trọng, Chiêu Hốt tiếp tục phò tá công tử Cưu lánh nạn ở nước Lỗ. Để trừ hậu hoạ, Tề Hoàn Công sai Bão Thúc Nha đem đại quân áp sát biên giới ép Lỗ Trang Công giết công tử Cưu, dẫn dụ Quản Trọng, Chiêu Hốt về nước Tề xử lý. Khi sắp bước lên xe tù, Chiêu Hốt ngửa mặt lên trời đau xót khóc rằng: “Làm con chết vì hiếu, làm tôi chết vì trung, đó là bổn phận của con người”. Nói rồi đập đầu vào cột ngã ra đất mà chết. Quản Trọng lại nói: “Từ xưa có bề tôi chết cũng có bề tôi sống. Ta muốn về Tề báo oán cho công tử Cưu”. Nói rồi bèn tự mình bước vào trong xe tù. Quan nước Lỗ là Thi Bá ở đấy thấy cảnh như vậy liền nói nhỏ với Lỗ Trang Công: “Thần xem tướng Quản Trọng tất sẽ không chết. Người này là kỳ tài trong thiên hạ, nếu không chết mà được về nước Tề trọng dụng thì tất sẽ khiến cho nước Tề xưng bá thiên hạ. Chi bằng đại vương thỉnh cầu nước Tề đừng giết ông ta, ông ta nhất định sẽ cảm kích chúng ta. Như vậy thì có thể dùng cho ta được”. Trang Công nói: “Quản Trọng là kẻ thù của Tề hầu, ta không dễ gì xin được”. Thi Bá nói: “Nếu ta không thể dùng được thì chi bằng giết ông ta đi, đem thi thể về trả cho nước Tề”. Trang Công thấy ý này rất đúng. Kỳ thực Lỗ Thần Thi Bá phân tích rất đúng. Nước Tề lấy danh nghĩa là đi bắt Quản Trọng về để trừng trị nhưng thực tế là muốn trọng dụng Quản Trọng để chấn hưng nước Tề. Vì vậy sau khi Bão Thúc Nha hay tin Lỗ Trang Công muốn giết Quản Trọng liền lập tức sai người đến nói với Lỗ Trang Công rằng: “Quản Trọng từng tự tay bắn vua nước chúng tôi, vua chúng tôi hận y đến tận xương tuỷ, muốn tự tay giết chết”. Trang Công không biết nói tại sao đành phải giao Quản Trọng và thi thể của công tử Cưu, Chiêu Hốt về nước. Quản Trọng ở trên xe tù hiểu ra ý của Tề Hoàn Công và Bão Thúc Nha, cũng đoán được nước Lỗ tất sẽ nghĩ lại mà sai người đuổi theo giết mình, thế là trong bụng nghĩ ra một kế soạn ra bài hát Hoàng Hộc Ca (khúc hát thiên nga vàng) dạy cho các binh sĩ đẩy xe hát, lời hát là: “Lòng tự tin của họ không bằng người, không hơn người, bắt đầu từ tư tưởng lười nhác, tự cam chịu rớt lại sau”. Anh hùng hào kiệt là ở lòng tự tin hơn hẳn người và tự tin rằng nhất định thắng người nên không ngừng tự cường, không ngừng phấn đấu. Bởi vậy phải có lòng tin phi thường thì mới có thành công phi thường trong sự nghiệp. Một con người vứt bỏ lòng tin thì coi như đã buông rơi vũ khí trong tay, cam chịu thất bại. Nghĩ về lòng tin, nếu như anh có lòng tin ở thượng đế mà tôi không có thì tôi mãi mãi không được gặp thượng đế; nếu tôi có lòng tin ở Phật và thánh nhân mà anh không có lòng tin có thể thành Phật, thành thánh nhân thì anh mãi mãi không thể thành Phật thành thánh nhân. Bất kể là lên thiên đàng hay là về sống ở mảnh đất yên tĩnh tại nơi Tây Phương Cực Lạc thì vẫn luôn phải dùng sức mạnh và lòng tin của bản thân, từng bước từng bước đi về nơi ấy, cho đến lúc tới nơi mới dừng lại. Lòng tin là hoà quyện tính yếu ớt của cuộc đời có hạn với tinh thần kiên cường trong cuộc đời vô hạn. Từ đó sản sinh ra một loại sức mạnh lên trên bên trong vô cùng to lớn thì có thể bước đi không ngừng nghỉ cho đến khi đạt được mục đích lý tưởng của mình mới thôi. Có lòng tự tin thì có dũng khí chiến thắng khó khăn. Có lòng tự tin thì mới có thể theo đuổi những sự nghiệp vĩ đại mà người xưa không dám theo đuổi với một tâm trạng tốt nhất. “Thiên nga vàng, thiên nga vàng! Cánh bị chặt, chân bị trói, không bay không hót hề, nằm trong lồng. Trời cao đất dày hề! Đinh Dương Cửu hề, gặp Bách Lục. Vươn cổ kêu hề, rồi lại khóc. Thiên nga vàng, thiên nga vàng! Trời sinh mi có cánh hề, biết bay, trời sinh mi có chân hề, biết chạy. Gặp phải lưới này hề, ai chuộc được? Chỉ mong phá tung ra hề, chẳng biết bay lên ra đường lớn. Than thở với đại nhân kia hề, bàng quan mà dấn bước!” Binh lính đẩy xe tù vừa đi vừa hát, vui vẻ đến mức quên cả mệt nhọc, đi nhanh như chạy, chỉ qua một ngày đã đến biên giới nước Lỗ. Lỗ Trang Công quả nhiên tỉnh ngộ vội sai công tử Yển đuổi theo. Quản Trọng có thể trong chỗ chết tìm được đường sống mà rời khỏi nước Lỗ ngoài việc giải phân tích tình hình còn có một nhân tố cực kỳ quan trọng khác là có tài ứng biến khi gặp thời cơ, đối mặt với hiểm nguy mà trong lòng có kế sách đối phó. Sau khi trở về nước Tề, Quản Trọng vào triều bái kiến và tạ tội với Tề Hoàn Công. Hoàn Công đích thân đỡ dậy nói: “Quả nhân có việc muốn thỉnh giáo. Tề là một nước lớn, Hy Công từng dùng uy khiến chư hầu quy phục, người đời gọi là Tiểu Bá. Nhưng từ thời Tương Công đến nay, chính sự bị quên lãng, sức nước suy yếu, nay ta vừa lên ngôi, lòng người còn chưa định được, thế nước không mạnh, ta muốn chỉnh đốn lại triều chính, lập lại kỷ cương, không biết người có kế hay nào không?” Thế là Quản Trọng trình bày với Tề Hoàn Công quan điểm làm sao để trị quốc, mưu đồ nghiệp bá. Ông nói: “Lễ, nghĩa, liêm, sỉ là gốc rễ để lập nước, như vậy mới khiến cho dân chúng dùng được cho mình. Nhưng muốn dùng dân thì trước hết phải yêu dân”. Hoàn Công hỏi: “Đạo yêu dân là gì?” Quản Trọng đáp: “Đạo yêu dân là nước thì lo tu sửa ở nước, nhà thì lo sửa sang nhà ở, khiến cho dân gần gũi; giảm hình phạt, bớt thuế khóa, khiến cho dân no đủ; sai các hiền sĩ dạy học khắp cả nước, khiến cho dân biết có lễ tiết”. Đó cũng có nghĩa là liên kết với sự nghiệp của muôn dân, bổng lộc bổ sung cho nhau, thân thiện với dân. Rộng lượng miễn tội cũ, cứu giúp họ hàng xưa, lập tự cho những người không có kẻ nối dõi, như vậy thì nhân dân có thể sinh đẻ đầy đàn. Giảm nhẹ hình phạt, bớt thu thuế khóa thì nhân dân sẽ no đủ. Tuyển chọn hiền sĩ ở các nơi, giáo hóa cho dân chúng trong nước khiến cho họ đều biết tuân theo quy củ. Làm như vậy thì có thể đáp ứng được nguyện vọng của dân, tranh thủ được lòng dân và củng cố được chính quyền nhà nước. Quản Trọng còn bàn với Tề Hoàn Công nhiều ý tưởng cải cách về các mặt nội chính và ngoại giao. Nghe nói hai người nói chuyện thoải mái suốt ba ngày ba đêm, Hoàn Công thấy từng câu từng lời của Quản Trọng đều hợp ý, dễ nghe, không hề cảm thấy chút gì mệt mỏi cả. Sau khi bái chào, Quản Trọng liền bắt tay vào thực hiện tư tưởng lấy dân làm gốc “chính trị hưng thịnh nhờ thuận lòng dân, chính trị suy thoái vì trái với lòng dân”. Về phát triển sản xuất nông nghiệp, ông chủ trương không để lỡ mùa vụ trong cả bốn mùa, đảm bảo lương thực đầy đủ, tích trữ dồi dào. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, ông phá vỡ hạn chế của chế độ canh điền trước kia, thuế nông thu dựa vào số lượng lương thực, độ màu mỡ của đất và hoàn cảnh của năm ấy. Năm mất mùa thì không thu thuế, đợi đến năm sau giảm bớt đói kém sẽ thu bù. Về thương nghiệp và thủ công nghiệp, ông bố trí thợ thuyền ở nơi gần quan phủ, nhà buôn ở khu vực cạnh chợ để ai cũng an cư lạc nghiệp. Đồng thời tăng cường đúc và quản lý tiền tệ, chú ý điều chỉnh giá cả, nới lỏng thu thuế chợ, thuế phu, thuế lưu thông hàng hóa, tích trữ tiền bạc, khiến cho dân giàu nước mạnh. Kiên trì lấy “tứ duy” (lễ, nghĩa, liêm, sĩ) để dạy bảo trăm họ, khiến cho mọi dân thần phục, lệnh vua được thi hành thuận lợi, chấn hưng thế nước. Người nắm chính sự đất nước, bày mưu tính kế sâu xa đòi hỏi phải biết nhìn xa trông rộng, có những sự không thể đoán trước. Bày được mưu cao kế sâu cho nước nhà chủ yếu là do hiểu được cách “Cải cách tăng giảm” và sách lược “phòng chống tệ nạn”. Quản Trọng áp dụng một loạt các biện pháp về chính trị về kinh tế, quân sự khiến cho nước Tề từ một chỗ từ một nước nhỏ bé chỉ có một trăm dặm đất phong sát bờ biển bỗng chốc trở thành một nước lớn có vai trò hết sức quan trọng trong thời Xuân Thu. Điều này chứng minh rằng quả thật ông rất hiểu về điểm này. 7. TÌM BÓNG MÁT GIỮA CÂY ĐẠI THỤ Khi co cũng phải chọn chỗ dựa. Muốn thành công trong sự nghiệp lớn mà chỉ dựa vào sức lực của bản thân mình thì chưa đủ, khi sức mình chưa mạnh thì phải tìm cách mượn sức của kẻ khác để giương cao ngọn cờ lớn với danh nghĩa của một phe có danh vọng và thực lực, gửi thân dưới hàng rào che chở của người, tìm chỗ dựa vững chắc. Mở ra một khoảng trời đất dưới bóng cây đại thụ của phe khác. Đây không chỉ là mưu lược mà còn là sản phẩm trí tuệ của kinh nghiệm thành công. Tháng 5 năm 617 thời nhà Tùy, trấn thủ Thái Nguyên là Lý Uyên từ trước vẫn luôn giấu tài, nay nhận thấy thời cơ đã chín muồi liền lập tức khởi binh phản lại nhà Tùy. Lúc ấy, giặc Đột Quyết ở Đông ở Tây đều cường thịnh trở lại mà Thái Nguyên lại là nơi thường xuyên bị kỵ binh Đột Quyết đến quấy nhiễu. Để trừ mối lo về sau, Lý Uyên tự tay viết thư cầu hoà Đột Quyết với thái độ cực kỳ cung kính, đồng thời dâng tặng lễ vật rất hậu, mong mỏi được giúp đỡ. Đột Quyết lại trả lời rằng Lý Uyên phải tự lập làm thiên tử thì mới đem quân đến tiếp viện. Thấy Đột Quyết cường thịnh muốn Lý Uyên trở thành thiên tử, văn võ tướng sĩ dưới trướng đều mừng rỡ, hoan nghênh, nườm nượp khuyên Lý Uyên gấp rút dựng ngai vàng, lên ngôi Hoàng Đế. Đương nhiên, Lý Uyên cũng mơ làm hoàng đế, nhưng lúc đó lại bình tĩnh khác thường, suy xét rất nhiều, rất xa. Theo cục thế thời bấy giờ, khởi nghĩa nông dân cuồn cuộn nổi lên trong cả nước, đa số họ đều giương ngọn cờ với ý định rất rõ ràng là lật đổ chế độ chính trị của nhà Tuỳ, khiến cho trăm họ vốn đã chịu đủ chính sách ngang ngược của Tùy Dương Đế lũ lượt đi theo, thanh thế của quân đội nông dân lớn mạnh nhanh chóng. Đương nhiên Lý Uyên cũng muốn thay thế Tùy Dương Đế nhưng xét thấy mình vẫn chưa phải là quân nông dân khởi nghĩa bởi vì đối tượng mà ông muốn dựa vào chủ yếu là giới quý tộc mới nổi, các quan lại và các thế lực cường hào. Những người thuộc thế lực này không giống như nông dân, bọn họ có ý thức “trung quân” rất sâu sắc, chỉ phản đối riêng một ông vua, chỉ muốn thay một “hôn quân bạo chúa” bằng một “minh chủ hiền quân” mà thôi, quyết không dung tha cho người nào muốn lật đổ cả một chế độ chính trị. Thấy rõ vương triều nhà Tùy đương thời sắp sụp đổ, chế độ tập quyền trung ương tiếng là còn nhưng thật sự đã tiêu vong, còn quan lại quý tộc địa phương thì tập trung binh mã riêng, có thực lực rất lớn. Để đảm bảo địa vị cát cứ một phương, bọn họ khống chế lực lượng vũ trang, bất kể về trang bị vũ khí hay chiến đấu đều không giao cho quân đội chính quy của triều đình, nắm chắc đằng chuôi. Lực lượng nông dân nhỏ bé mà phân tán không thể nào so sánh với họ được. Hơn nữa, căn cứ vào việc trấn áp phản quân Dương Huyền Cảm một cách nhanh chóng, quyết đoán, tàn nhẫn trước đó không lâu thì Tùy Dương Đế Dương Quảng lại càng căm ghét tầng lớp quý tộc phản loạn đến tận xương tuỷ. Nhà Tuỳ tuy sắp vào quan tài nhưng xét cho cùng vẫn nắm chính quyền của cả một nước. Nếu như Tùy Dương Đế tập trung lực lượng tiêu diệt thì e rằng trong giờ khắc ấy dẫu có mười Lý Uyên cũng khó lòng thoát khỏi nạn diệt vong này. Sau khi suy xét rất kỹ càng, Lý Uyên bác bỏ kiến nghị của thuộc hạ, không những không tự lập vương mà trái lại còn giương cờ hiệu “tôn Tùy”, tôn Tùy Dương Đế là Thái Thượng hoàng, lập cháu của Dương Quảng là Dương Lệ đang trấn thủ Quan Trung lên làm vua, đồng thời ban hịch đến các huyện quận, thay đổi sắc cờ. Như vậy phía Đột Quyết sẽ cho rằng thanh thế của Lý Uyên lớn mạnh sẽ nhanh chóng tự lập vương, ý kiến của họ cũng đã được tiếp nhận nên không dám tuỳ ý xâm phạm quấy nhiễu, đồng thời cũng có điều kiện để giúp đỡ. Còn về phía những người đương quyền trong triều đình nhà Tuỳ đương nhiên là hoài nghi Lý Uyên có dã tâm nhưng ông đã giương cờ hiệu tôn Tùy. Hơn nữa lúc ấy quân đội nông dân khởi nghĩa với mục đích rõ ràng là lật đổ chính quyền nhà Tùy đang đầy rẫy khắp nơi, chỉ đối phó với họ còn chưa đủ sức, đâu có thể dồn sức mà đánh Lý Uyên? Vì vậy ngoài việc bố trí một lực lượng nhỏ để phòng ngự thì chưa thể chủ động xuất quân thảo phạt Lý Uyên ngay được. Lý Uyên bèn thừa cơ lập kế hoạch phát triển lực lượng lớn mạnh từng bước. Điều quan trọng hơn nữa là cờ hiệu “Tôn Tuỳ” của Lý Uyên hợp với tư tưởng “trung quân” rất sâu sắc của tầng lớp quý tộc sĩ đại phu. Mà Lý Uyên lại mới lập Dương Lệ lên làm vua, theo những người này thì triều đình tất phải trải qua một lần thay đổi quan lại lớn. Đối với họ, đây chính là một cơ hội hiếm có để thăng quan phát tài, ai nhập quân đội Lý Uyên trước thì càng giành được cơ hội tốt hơn. Thế là rất nhiều quý tộc sĩ đại phu nắm tinh binh trong tay lũ lượt sung vào dưới trướng Lý Uyên, khiến cho thực lực của ông chốc lát tăng lên rất nhanh. Đương nhiên khẩu hiệu “Tôn Tùy” của Lý Uyên rốt cuộc là một kế thích nghi tạm thời. Ông chỉ coi triều đình nhà Tuỳ như là một cái cây đang trong quá trình mục nát mà thôi. Khi bản thân chỉ là một mầm non vừa nhô khỏi mặt đất thì nhạy bén dùng rễ cây quấn quanh cây đại thụ này mà hút chất dinh dưỡng, lại nhờ cây này che chở gió mưa, thậm chí còn khiến cho cây đại thụ lầm tưởng mầm non này chính là một phần thân thể mình mà càng tận tâm bảo vệ, từ đó Lý Uyên có được điều kiện để phát triển một cách nhanh chóng, đợi đến khi thời gian, hoàn cảnh đổi thay liền một đá hất tung cây đại thụ nhà Tuỳ đã mục ruỗng, dựng lên vương triều nhà Đường, bản thân lại được lòng của quảng đại quần chúng nhân dân nhiều hơn nữa. “Tạm gửi thân nhờ cây lớn”. Quân Đường dùng cách này mà từ chỗ nhỏ yếu nhanh chóng lớn mạnh. Lý Uyên dùng kế sao mà tuyệt diệu vậy! 8. NHƯỜNG NGƯỜI PHẦN HƠN KHÔNG PHẢI LÀ HÈN YẾU “Nhường để làm được việc”. Trong đối nhân xử thế, khi xảy ra sự cố đều phải có thái độ nhượng bộ người khác trước mới gọi là cao minh. Bởi nhường người khác một bước chính là sự chuẩn bị tốt nhất cho sau này. Vì vậy, bất luận là vì nghiệp lớn hay chỉ là tiện cho người thì nhường người một bước đều để lại cho mình một sự thuận tiện cho sau này mà thôi. Về đối nhân xử thế, nhượng bộ và được mất từ xưa đã có rất nhiều bài học, duy chỉ Liệt Tử là có một sự giải thích độc đáo ở phương diện này. Ví dụ trong “Thiên Thụy” Liệt Tử có viết: “Nếu là người thông minh, tính toán lợi hại, xem xét thật giả, suy đoán lòng người thì cái được là một nửa, cái mất cũng một nửa. Nếu người không thông minh lắm, không tính toán lợi hại, được thua, không cần biết thực hư thì cái được cũng chiếm một nửa mà cái mất cũng chiếm một nửa. Vậy thì có sự khác biệt gì giữa tính toán và không tính toán, xét đoán và không xét đoán. Chỉ có không tính toán xét đoán gì thì mới có sự tính toán đánh giá toàn diện, mới có thể thành công hoàn toàn mà không có thất bại”. Vì vậy mới nói, nhượng bộ người khác không phải là khiếp sợ, trong “nhượng” có “duỗi”, trong “nhượng” có thuật. Tấn Văn Công Trùng Nhĩ trong thời gian sống lưu vong ở nước ngoài đã phiêu bạt đến nước Sở, Sở Thành Vương tiếp đãi ông rất hậu hĩnh như đối với một vị quân vương. Một lần trong bữa tiệc chiêu đãi Trùng Nhĩ, Thành Vương có hỏi “Công tử sau này có dịp trở về nước làm Quốc vương thì sẽ lấy gì báo đáp ta?”. Tấn Văn Công lúc đó đáp: “Ngọc quý, mỹ nữ và tơ lụa thì ở nước ngài quá nhiều, lông chim quý, ngà voi đều từ nước ngài mà ra, những thứ mà lưu lạc được đến nước tôi chẳng qua cũng chỉ là những đồ thừa của các ngài. Tôi thật không biết lấy gì để báo đáp”. Nhưng Sở Thành Vương vẫn muốn theo đuổi vấn đề này, liền nói tiếp: “Tuy rằng sự thật đúng như ngài nói, nhưng ngài cũng phải có chút gì báo đáp ta chứ!” Trùng Nhĩ suy nghĩ một lúc rồi nói: “Nhờ hồng phúc của Ngài, nếu như Trùng Nhĩ này có thể trở về nước Tấn, nếu có một ngày xảy ra chiến tranh, chẳng may quân đội hai nước đối mặt nhau ở Trung Nguyên thì tôi sẽ hạ lệnh cho quân đội lui về sau chín mươi dặm để báo đáp tấm thịnh tình của ngài. Nếu như vậy mà ngài vẫn không vừa ý, không hiểu cho ta thì ta chỉ còn một cách là cưỡi ngựa bắn tên cùng ngài quyết chiến một phen”. Năm 632 trước Công Nguyên, Tấn Văn Công dùng mưu kế của trung quân nguyên soái Tiên Chẩn li gián Doãn Tữ Ngọc, đem quân lên phía Bắc chinh phạt nước Tấn. Tấn Văn Công thấy quân Sở đã tiến đến gần, bèn hạ lệnh cho quân Tấn rút lui về sau 90 dặm (thời xưa, một ngày hành quân 30 dặm gọi là một xá, ở đây có nghĩa là lui về sau 3 xá). Tướng sĩ quân Tấn thấy quân Sở đã tiến đến gần xâm phạm rồi mình lại rút về phía sau thì đều không hiểu gì cả, bọn họ đều cho rằng quân vương nước Tấn trốn chạy quân thần nước Sở, đây chính là hành động sỉ nhục. Hơn nữa, quân Sở ở bên ngoài đánh trận liên tiếp, mãi vẫn không thắng được quân Tống, chí khí quân sĩ đã suy sụp dân, quân Tấn không nên lui quân. Quan nước Tấn là Cô Yển giải thích với mọi người rằng: “Quốc vương Tấn làm như vậy là để báo đáp ân huệ năm xưa của nước Sở, lúc đó có hẹn rằng: Hai nước nếu giao binh xảy ra thì quân Tấn sẽ lui về sau 3 xá để báo đáp”. Nếu như Quốc vương nói lời không giữ lời thì chúng ta sẽ bị đuối lý. Kỳ thực, Tấn Văn Công hạ lệnh lui quân về sau 90 dặm, một mặt là thực hiện lời hứa, quan trọng hơn chính là yêu cầu thiết yếu về mặt quân sự, muốn nhân đây kích động tinh thần quân sĩ, đồng thời cũng chính là tránh cho quân Tấn khỏi mũi nhọn quân Sở, làm tăng thêm sự kiêu ngạo của Tữ Ngọc, sau đó sẽ chọn thời cơ và địa thế thích hợp để quyết chiến với quân Sở. Quả nhiên sau khi quân Tấn lui về Thành Bộc thì các nước Tống, Tề, Tấn cũng lần lượt phái quân đến, ủng hộ hành động của Tấn Văn Công. Trong khi đó nội bộ quân Sở, một số tướng sĩ thấy quân Tấn lui binh ba xá thì cũng chủ trương nhân cơ hội này rút quân về Sở, nhưng Tữ Ngọc kiên quyết không đồng ý. Ông ta cho rằng quân Tấn lui về sau là sợ uy lực của quân Sở, liền đó dẫn quân truy đuổi đến tận ngọn núi ở Thành Trị mới hạ trại. Kết quả là trận chiến ở Thành Bộc, quân Sở bị liên quân do Tấn Văn Công dẫn đầu đánh cho đại bại. Thời đại Chiến quốc cách nay đã 2400 năm, bảy nước tranh hùng, trong đó Ngụy, Tề đều là những nước mạnh. Một năm nọ, Ngụy, Tề ký kết điều ước đồng minh, liên hợp quân sự. Nhưng Tề phá bỏ điều ước, tấn công Ngụy. Ngụy Huệ vương vô cùng phẫn nộ, ngầm sai hung thủ hành thích Tề vương. Vì chuyện này, Huệ vương đã triệu tập trọng thần, kết quả là ý kiến tán thành và phản đối ngay tức thời khó có thể quyết định được. Lúc này Tề tướng Huệ Tử liền tiến cử Đại Tấn Nhân với Huệ vương. Đại Tấn Nhân sau khi được mời đến liền nói với Huệ vương: “Đại Vương có biết loài động vật ốc sên không?” “Đương nhiên là biết”. Huệ vương đáp. “Con ốc sên trên chân trái của nó có một quốc gia gọi là Xúc Thị, bên chân phải có một quốc gia gọi là Man Thị. Hai nước vì vấn đề lãnh thổ nên chuyện binh đao xảy ra không ngớt. Một lần, hai nước đánh trận mười lăm ngày, con số người bị chết và bị thương lên đến hàng vạn mới thôi”. “A, không phải người pha trò cười đấy chứ?” Huệ vương tỏ vẻ không hiểu. “Đây hoàn toàn không phải là chuyện đùa, Đại vương, ngài có cho rằng bốn phía trong vũ trụ có tận cùng không? “Chắc chắn là không có tận cùng rồi!” Huệ vương trả lời. “Vậy thì, hãy đặt mình vào vị trí một người đã từng đi khắp thế giới vô tận này để nhận xét thì những nước chư hầu trên mặt đất này không phải đều là rất nhỏ bé sao?” “Trong số những nước đó có nước Ngụy, trong nước Ngụy có Lương Đô, trong Lương Đô lại có Đại vương đang sống ở trong đó. Từ đó thấy rằng, Đại vương cùng Xúc Thị, Man Thị so sánh cũng không có gì khác biệt lắm. “Cái gì, không có gì khác biệt?”, nghe lời nói của Đại Tấn Nhân, Huệ vương lộ rõ vẻ buồn bã và thất vọng. Đúng như vậy, nên nhìn nhận vấn đề bằng một tầm mắt quan sát rộng lớn. Tự xem xét mình cũng rất có lý, chỉ có cách hãy đặt mình vào không gian và thời gian rộng lớn thì mới biết được phương hướng mình đang tồn tại và cố gắng phấn đấu để đạt tới. Khi đã thành công thì có thể vui mừng tận hưởng hạnh phúc, khi thất bại thì có thể tìm thấy lý do để tự an ủi mình. Đời người cũng vậy, chỉ cần chúng ta bước ra khỏi tầm nhìn của con ốc sên thì bất kể ngọn gió nào cũng đều là gió lành. 9. TÌNH THÌ TRÒN - LÝ THÌ VUÔNG Vuông là co lại. Tròn là duỗi ra. Khổng Tử nói: “Sự vĩ đại của vua Thuấn chính là ở chỗ biết không thể giành lấy, ham học vấn, đồng thời biết vận dụng vào thực tiễn, biết che giấu lỗi lầm của người khác và biết khen ngợi những điểm tốt của người khác - nắm chắc hai thái cực đó, lấy sự trung dung vận dụng trong dân chúng, đây chính là sự vĩ đại nhất của vua Thuấn. Cũng có nghĩa là có thể dùng đạo đức tốt nhất và đạo cao thượng nhất để trị dân. Trong cuốn Đại Học viết: “Cương lĩnh chung của Đại Học là phát huy đức tính sẵn có trong người, sửa đổi và cách tân những tư tưởng cũ và tập tục xấu để có thể đạt tới độ hoàn thiện nhất”. Muốn đạt tới một mức độ hoàn thiện nhất tức là phải đạt tới mức độ tận cùng của đạo Trung Dung. Trung Dung sản sinh ra thích hợp, rồi lại từ thích hợp mà ra hợp lý, và từ hợp lý mà định ra Lễ. Vì vậy có thể nói, toàn bộ những hành vi đạo đức trong xã hội loài người, thậm chí cả những hành vi pháp luật cũng đều cần phải phù hợp với đạo Trung Dung, đồng thời không được đòi hỏi quá để đạt tới cái thiện. Khổng Tử nói với Tăng Tử: “Đạo của ta lấy ‘Nhất’ làm gốc”; nói với Tử Cống: “Xuyên suốt toàn bộ tư tưởng của ta là ‘Nhất’. Cái ‘Nhất’ này chính là trung, chính là vuông tròn. Vì vậy trong cuốn “Đạo đức kinh - 39 chương” có viết: “Những vật mà đã đạt được đạo có: Thiên có được ‘Nhất’ chính là thanh minh, địa có được ‘Nhất’ chính là yên tĩnh, thần có được ‘Nhất’ chính là anh linh, lòng sông có được ‘Nhất’ chính là phong phú dư thừa, vạn vật có được ‘Nhất’ chính là sinh trưởng, Hầu vương có được ‘Nhất’ sẽ trở thành người đứng đầu trong thiên hạ”. Vì vậy “Nhất” chính là đạo, chính là trung, mà trung thì chỉ có một chứ không có hai. Có phải có trái, có trên có dưới, có tam có tứ thì không còn là trung nữa. Âm dương tương giao sinh ra vạn vật, mà tương giao nhất thiết phải ở trong trung. Đạt được “Nhất” cũng chính là đạt được thiên. Đạt được trung, đạt được thiên là có thể thích hợp, có thích hợp là có thể hoà, có hoà là có thể sinh vạn vật. Vì vậy Trang Tử cho rằng đạo thông tạo “Nhất”, vừa cho rằng chỉ có người thông đạt mới có thể thông được nhất. Do đó vạn vật có được nhất là sinh trưởng, quốc gia có được nhất là có thể đại trị, loài người có được nhất là vạn sự hoà thuận. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận trong vòng mười ba năm đã tiêu diệt năm nước chư hầu là Nam Bình, Vũ Hán, Tây Thục, Nam Hán, Nam Đường, thống nhất phương nam. Vậy thì, Triệu Khuông Dận đối đãi thế nào với các vị vua đầu hàng? Theo ghi chép của bộ sách thứ nhất “Tục tư trị thông giám”: Tống Thái Tổ tháng hai năm Càn Đức thứ nhất (năm Công nguyên 963), sau khi diệt Nam Bình vẫn lệnh cho Cao Tục Xung làm Kinh Nam tiết độ sứ. Cũng tháng bảy năm đó, sau khi tiêu diệt Vũ Bình, Chu Bảo Quyền vào kinh. Tống Thái Tổ hạ chỉ đặc xá tội cho Chu Bảo Quyền, đồng thời vẫn cho Chu Bảo Quyền làm Tả Thiên Ngưu vệ Thượng tướng quân. Tháng bảy năm Càn Đức thứ ba (năm Công nguyên 965), sau khi diệt được Tây Thục, Tống Thái Tổ tấn phong Mạnh Hoà làm Hiệu đại sư kiêm Trung thư lệnh, phong Tần Quốc Công. Sau khi Mạnh Hoà chết, Tống Thái Tổ đã tạm hoãn việc lên triều trong năm ngày, để tang Mạnh Hoà, phong Thượng thư lệnh, truy phong Sở vương. Tháng sáu năm Khai Bảo thứ tư (năm 971) sau khi Nam Hán bị tiêu diệt, Tống Thái Tổ vẫn để Lưu Trương làm đại tướng quân, phong là Tư Xích Hầu, ngoài ra còn được thưởng năm vạn quan tiền, năm mươi xe lúa gạo. Tháng giêng năm Khai Bảo thứ chín (năm 976) sau khi tiêu diệt Nam Đường, Tống Thái Tổ vẫn để Lý Tinh làm Tả thượng tướng quân, phong là Vi Mệnh Hầu. Các con cháu họ hàng của ông ta cũng được hưởng lộc, thăng quan. Những câu chuyện ở trên đã nói chính là thái độ, cách đối xử của Tống Thái Tổ đối với từng Giáng Vương. Không chỉ có vậy, Triệu Khuông Dận đối đãi với các quân vương đầu hàng đều rất hậu hĩnh. Mẫu thân của Mạnh Khởi ở Tây Thục sau khi đến phủ Khai Phong, Triệu Khuông Dận lập tức phong bà làm Quốc mẫu, đồng thời thể hiện rõ cho thấy rằng bà ta có thể quay về Tây Thục bất cứ lúc nào. Mẫu thân của Mạnh Khởi tâu với Tống Thái Tổ rằng: “Thiếp không thể không nghĩ đến Tây Thục, bởi thiếp là người Thái Nguyên. Được quay trở về quê hương Tịnh Châu chính là nguyện vọng duy nhất của thiếp”. Thái Tổ đáp: “Nếu đã như vậy thì đợi sau khi ta giành được Thái Nguyên sẽ đưa quốc mẫu trở về”. Có thể thấy rằng, Triệu Khuông Dận đã áp dụng sách lược ưu đãi đối với các quân vương thất trận. Ông ta cho rằng những quân vương này khi đó đang nắm giữ trong tay binh quyền lớn của các nước nghìn dặm quanh đó, nhưng cuối cùng cũng bị đánh bại. Bây giờ họ “Thân cô thế cô nơi đất khách, không sợ họ sẽ nổi loạn ư? Nếu đối đãi với họ tử tế thì sẽ trừ bỏ được sức mạnh của các vị quân vương đã đầu hàng đó”. Sách lược hậu đãi các quân vương đã đầu hàng của Triệu Khuông Dận quả thực đã có tác dụng to lớn. Hậu đãi các quân vương đã đầu hàng không chỉ có thể làm hạ thấp ý chí hận thù, chống đối của người dân mà còn có thể làm cho thế lực quân sự của các tàn quân kia sẽ không thể hoặc khó khăn để khơi dậy sự phản kháng của người dân, đồng thời có thể thu hút được nhiều sự ủng hộ về nhân lực, vật lực. Từ đó mà các lực lượng đối kháng nếu không bị tiêu diệt trong nháy mắt thì sẽ không xuất đầu lộ diện nữa. Đồng thời việc hậu đãi các quân vương đã đầu hàng còn ảnh hưởng đến vua các nước chư hầu chưa thống nhất, đưa ra cho họ một con đường: Đầu hàng thì sống, chống cự thì chết. Triệu Khuông Dận đối với các quân vương đầu hàng về sau này là phong cho quan chức càng to, tước vị càng cao, tiền tài ngày càng nhiều, ý đồ cũng chỉ là như thế. Có một sự thật làm cho mọi người phải tín phục. Đó là câu chuyện thần phục Ngô Việt vương Tiền Thúc. Tiền Thúc sau khi thất bại ở Khai Phong, hơn mười vị đại thần thượng thư Tống Triều khuyên Hoàng đế nhân cơ hội này giữ Ngô Việt vương không cho ông ta quay trở về Kinh Châu. Triệu Khuông Dận không nghe lời tấu của quần thần, vẫn cho Tiền Thúc quay về Ngô Việt. Sau này Tiền Thúc cùng Trần Hồng của Chương, Quyền quả thật đều chủ động vào triều xưng thần. Từ trước đến nay, để thống nhất thiên hạ thì cần phải huy động vũ lực, xưng hùng tranh bá, chém giết lẫn nhau. Tống Thái Tổ chưa cần mạnh tay hành động đã giành được giang sơn của người khác. Điều này có quan hệ to lớn đến sách lược hậu đãi các quân vương đã đầu hàng, lung lạc lòng người của ông ta. Nếu như vừa bắt đầu mà ông ta áp dụng chính sách chém giết, tàn sát đối với các quân vương đã đầu hàng thì những vị vua các nước chư hầu chưa bị bại trận nhất định sẽ chiến đấu đến cùng. Như vậy thì rõ ràng là quy mô của cuộc chiến tranh sẽ mở rộng, kéo dài thời gian chiến tranh. Điều này rõ ràng rất bất lợi cho triều Tống. Sách lược trị quan trị dân tốt nhất là minh oan cho dân. Với quan thì nói lời ngon ngọt, thấu tình đạt lý. Cả hai đều không đắc tội, đều vui mừng hoan hỉ. Năm Thái Tổ thứ nhất, tại vùng biên cương phương Bắc quân Liêu nhiều lần quấy nhiễu, đại đa số người dân phải rời bỏ quê hương, chạy tới kinh thành mưu sinh, đồng thời cũng mang cả sự hỗn loạn kinh hoàng tới vùng đất Trung Nguyên. Nghe lời kiến nghị của đại thần, Thái Tổ lệnh cho Đồng Tôn Hải, Vương Ngạn Thắng, Lý Hán Siêu đến biên cương trấn thủ. Chính sự nỗ lực của các mãnh tướng đã làm cho tình hình an ninh biên cương trở nên tốt hơn nhiều. Có một ngày, Tống Thái Tổ đang cùng các đại thần bàn luận về chuyện xét công ban thưởng các tướng trấn thủ biên giới thì nghe tin có một người dân vùng Quan Nam Bắc Bộ đến kinh thành tố cáo Lý Hán Siêu. Tống Thái Tổ trong lòng lấy làm không vui suy đi tính lại liền sai người giải cáo trạng vào đại diện. Một lúc sau người cáo trạng, ăn mặc rách rưới, râu tóc bám bụi đường đã bết lại thành từng cục, tiến vào đại điện. Người cáo trạng quỳ dưới điện, cúi đầu không nói một lời nào. Tống Thái Tổ nhìn người cáo trạng, nghiêm mặt hỏi: “Người quỳ dưới kia có phải đến tố cáo Lý Hán Siêu không? “Vâng” - lão Hán đáp. Tống Thái Tổ lại hỏi: “Ngươi hãy đem oan khuất của mình ra kể cho ta nghe, hãy kể cho đúng sự thực”. Lão Hán vội vàng đáp: “Tiểu dân không dám, tiểu dân từ trước tới nay không có oán thù gì với Lý tướng quân, nhưng Lý tướng quân không những mượn tiền không trả lại còn cướp mất con gái tiểu dân. Tiểu dân gặp ông ta đòi con thì bị ông ta đánh mắng cho một trận. Những lời tiểu dân nói đều là sự thực, mong Hoàng thượng minh xét, giải oan cho tiểu dân, tiểu dân dẫu chết cũng cam lòng”. Nói rồi, lão Hán liền vén vạt áo lên để lộ ra những vết thương, khóc rất thương tâm. Thái Tổ cũng có chút đồng tình với lão Hán, liền hỏi: “Con gái của ngươi có thể gả cho hạng người như thế nào?” Lão Hán thực thà đáp: “Dân gia tiên nữ có thể gả cho ai được, chẳng qua cũng chỉ có thể gả cho con nhà nông”. Nói rồi liền lấy tay lau nước mắt. Triệu Khuông Dận nhìn lão Hán, cười mà hỏi tiếp: “Trước khi Lý tướng quân đến Quan Nam, người Liêu có phải ngày nào cũng đến xâm phạm quấy nhiễu không? Lão Hán lập tức lộ rõ vẻ đau khổ: “Đương nhiên rồi, lúc đó người Liêu ở phía Bắc năm nào cũng đến Quan Nam cướp lương thực tài sản, đến ngay cả con gái rất xấu nó cũng không tha, cảnh tượng thật thê thảm”. Tống Thái Tổ lại hỏi: “Thế tình hình hiện nay thế nào? Lão Hán đáp: “Từ khi Lý tướng quân đem binh lính đến Quan Nam trấn áp, bọn người kia rất ít khi đến cướp của đoạt người”. Tống Thái Tổ làm ra vẻ không vui mà nói: “Lý Hán Siêu là tướng yêu của trẫm, con gái người được làm vợ ông ấy không tốt hơn làm vợ một nông dân ư? Tốt xấu cũng đều là gia thất của một tướng quân. Nếu như Quan Nam không không có Lý tướng quân trấn thủ thì con gái của ngươi, nhà cửa ruộng vườn của ngươi có được bảo toàn không? Chuyện dù có như vậy mà cũng đáng kể đến mức lên tận kinh thành kêu oan ư? Nếu lần sau mà còn giở trò như vậy, ta quyết không khoan dung với nhà ngươi”. Nói rồi, liền hạ lệnh cho quân lính đưa lão Hán đó ra khỏi cung. Tống Thái Tổ tại sao lại đối đãi như vậy với lão Hán? Có phải là ông đồng ý và cho phép cấp dưới của mình làm như vậy? Không phải. Mục đích chính ông ta làm như thế là muốn nhân cơ hội trước mặt các quan đại thần thể hiện lòng tin yêu bảo vệ thân tử của mình, cũng là để giữ sĩ diện cho Lý Hán Siêu, cho ông ta yên tâm ở biên giới mà trấn thủ, cố gắng hết mình cho triều đình. Sau khi lão Hán đi rồi, chỉ vài ngày sau Tống Thái Tổ liền sai người bí mật đem bức thư do đích thân ông viết đến nơi Lý Hán Siêu đóng quân. Tống Thái Tổ viết: “Ái khanh vì ta trấn thủ biên cương, tận tâm tận lực, trẫm rất biết. Nhưng người dân bị mất đứa con gái cũng rất đáng thương, ái khanh nên nhanh chóng trả lại người dân ấy con gái và hãy đến trả cho họ món nợ tiền, trẫm cũng không truy cứu chuyện này nữa. Mong rằng từ nay về sau ái khanh sẽ không làm chuyện như thế nữa. Nếu như ái khanh không có tiền thì có thể nói thật với trẫm, hà cớ gì phải cướp tiền của dân? Tiền thì có thể mượn được nhưng thê thiếp thì làm sao có thể cướp được?”. Lý Hán Siêu đọc xong thư, thấy rằng hoàng thượng đối với mình khoan dung như vậy, trong lòng rất cảm động, lập tức nghe theo ý chỉ của hoàng thượng, đem người và tiền trả lại cho lão Hán, lại còn viết một bức thư tạ tội với hoàng thượng. Sau đó, Tống Thái Tổ sai người đưa rất nhiều tiền cho Lý Hán Siêu và Lý tướng quân từ đó cũng không làm chuyện hồ đồ nữa. Lão Hán thấy con gái trở về lại được trả lại tiền bạc thì rất vui mừng, cảm tạ long ân của hoàng thượng. Tổng Thái Tổ thực hiện biện pháp ngoài mặt thì không tỏ thái độ nhưng ngầm sai người đi giải quyết vừa làm Lý Hán Siêu cảm kích vô cùng lại vừa làm vừa lòng dân. Công lao tu dưỡng của một người nếu đạt được đến mức thành tâm thành ý thì có thể cảm động lên tận trời xanh, biến cái không thể thành có thể. Ví như việc Trâu Diễn phải chịu ấm ức làm cảm động cả trời xanh, khiến giữa mùa hè trời giáng sương mù để biểu lộ lòng bất bình cho Trâu Diễn. Vợ của Khởi Thực vì đau buồn trước cái chết của chồng mà khóc, làm sập cả trường thành, thậm chí ngay cả đá kim thạch cứng nhất cũng bị sức mạnh của tấm lòng chân thành của bà xuyên thủng. Ngược lại, nếu một người mà trong đầu có những ý nghĩ giả dối, tâm địa đen tối, với mọi người, họ chẳng qua cũng chỉ là những con người trống rỗng mà thôi, thể xác thì vẫn tồn tại nhưng linh hồn thì đã chết rồi. Giống như một cái cây mà ruột không thẳng, sống với mọi người thì cũng sẽ làm cho mọi người khinh bỉ coi thường thậm chí ghét bỏ. Việc dùng những lời lẽ nông cạn để cầu danh thì đối với ranh giới của sự thông đạt đạo nghĩa mà nói, khoảng cách đã ngày càng xa rồi. Nếu như Tống Thái Tổ không biết chăm lo cho thuộc hạ của mình, không thương xót dân tình thì sẽ không thể làm cho các đại tướng yên tâm mà trấn thủ nơi biên cương. Nếu dân tình mà oán thán, lòng dân không vui tức là trị nước không tốt, vì vậy có thể nói phải biết từ tình lý mới lập được pháp, mới có thể làm được nghiệp lớn. 10. MƯỢN GÀ ĐẺ TRỨNG Duỗi trong “mượn”. Lưu Đắc Kỷ thời Đại Tống vì muốn giữ ngôi vị cao sang tôn quý của mình nên rất biết cách lấy lòng Chân Tông. Để mình có thể trở thành thái hậu, Lưu Đắc Kỷ đã ngầm nhờ thị tỳ Lý Thị Nhi sinh cho mình hoàng thái tử, cuối cùng thì đã đạt được ngôi vị lý tưởng mình hằng mơ ước. Năm Cảnh Đức thứ tư, hoàng hậu Chân Tông Quách Thị bệnh mà ốm chết, ngôi hoàng hậu để trống, chuyện lập ai làm hoàng hậu trở thành chuyện lớn trong triều lúc đó. Trong số hàng nghìn phi tần trong cung, người mà Chân Tông ưu ái nhất phải kể đến Lưu Đắc Kỷ nhỏ nhắn xinh xắn, thắt đáy lưng ong, mặt mày thanh tú, gần giống Triệu Phi Yến thời nhà Hán. Sau khi hoàng hậu Quách Thị chết, Lưu Đắc Kỷ ngoài mặt làm ra vẻ đau đớn xót thương, nhưng trong bụng lại như mở cờ, thầm nghĩ: “hoàng hậu Quách Thị chết thật đáng, trước mắt ngôi vị hoàng hậu vẫn còn đang bỏ trống, cơ hội ngàn năm có một nhất quyết không thể để cho kẻ khác chiếm mất. Ta nhất định phải làm cho hoàng thượng phong ta là hoàng hậu, sống một đời vinh hoa phú quý”. Liền lúc đó, Lưu Đắc Kỷ liền trổ hết tài nghệ lấy lòng Chân Tông. Mỗi khi nhìn thấy Chân Tông liền nói lời ngon ngọt, đầu mày cuối mắt, mang chút vẻ phong tình. Lưu Đắc Kỷ hiểu rất rõ tình hình hậu cung lúc đó. Trước mắt, hoàng thượng đã quá 40 tuổi mà vẫn chưa có con nối dõi thường thở vắn than dài, u sầu phiền não. Vốn là Quách hoàng hậu đã sinh được 3 con trai: Con trưởng Triệu Đề, con thứ Triệu Cát, con út là Triệu Để nhưng đều đã mất sớm. Dương Phi trăm lần cầu tự, khó khăn lắm mới sinh được một con trai nhưng cũng chết yểu. Hoàng thượng sốt ruột muốn có con lại tuyển thêm cháu gái của tể tướng Thẩm Luân của triều trước làm tài nhân nhưng Thẩm thị cũng không sinh được con. Cho đến nay, hoàng thượng vẫn không có con nối dõi. Nếu so sánh về thân thế thì rõ ràng Lưu Đắc phi không phải là đối thủ của các phi tần khác. Ông tổ của Dương phi đã từng có một thời chiến công hiển hách lẫy lừng. Thúc phụ của Dương phi - Dương Chi thì vẫn còn đang nhậm chức Phó sứ chỉ huy Thiên vũ quân của bản triều, nên lấy vua cũng là môn đăng hộ đối. Thẩm Tài Nhân tuy là tiến cung sau nhưng tổ phụ là Tể tướng triều trước, phụ thân vẫn là quan triều đình, công danh hiển hách. Còn Lưu Đắc phi xuất thân hèn kém, đi theo người nước Thục tên là Cung Mĩ lưu lạc tới kinh thành, vì dung mạo đẹp mà có cơ hội được gặp hoàng thượng. Do đó nếu nói về thân thế gia cảnh thì Lưu Đắc phi không thể nào bằng đối thủ. Nếu muốn trở thành người chủ hậu cung thì việc hết sức cấp bách là phải sinh cho hoàng thượng một người con nối dõi. Chỉ có như vậy mới có thể đánh bại các đối thủ. Lưu Đắc phi ngoài mặt vẫn làm ra khiêm tốn nhưng trong lòng lại muốn nhanh chóng sinh cho hoàng thượng một đứa con để nhờ đó mà đoạt được ngôi cao, nhưng cầu tự cũng không linh nghiệm, thời gian thì ngày càng trôi đi không có động tĩnh gì. Triều đình cũng đã bắt đầu nghị luận về việc phong hoàng hậu. “Chuyện này phải làm như thế nào đây? Chẳng lẽ ta không thể sinh con được?” Lưu Đắc phi trong lòng hết sức lo lắng, nếu như tự mình không sinh được hoàng tử thì chắc chắn sẽ không được làm hoàng hậu. Tình thế cấp bách, Lưu Đắc phi liền nghĩ ra một diệu kế. Bà tìm đến người hầu gái Lý thị, dặn dò kỹ lưỡng. Đêm hôm đó, người hầu hạ hoàng thượng không phải là Lưu Đắc phi mà là Lý thị, còn Lưu Đắc phi cam tâm tình nguyện ôm khăn đệm trải giường mang gối. Đúng là mệnh của hoàng đế Chân Tông có đứa con này, Lý thị sau khi hầu hạ hoàng thượng đêm đó thì mang thai. Sau đó không lâu, quả nhiên Lý thị sinh ra một đứa con trai, Chân Tông đặt tên nó là Thụ Ích. Lý thị cũng vì thế mà được phong là Tài nhân. Lưu Đắc phi xem Thụ Ích như là con đẻ của mình, nuôi dưỡng cẩn thận khéo léo. Một mặt Lưu Đắc phi dặn dò tâm phúc chỉ được nói Thụ Ích là do mình sinh ra, không được để lộ chân tướng sự việc, một mặt khác lại ra sức thỉnh cầu Chân Tông lập mình làm hoàng hậu. Chân Tông vốn sủng ái Lưu Đắc phi nên đối với chuyện Lưu Đắc phi nhận Thụ Ích làm con trai cũng không phản đối, đồng thời quyết định lập bà ta làm hoàng hậu. Khi Chân Tông đem chuyện lập Lưu Đắc phi làm hoàng hậu nói với các đại thần trong triều, Triệu Nhân An đã đứng ra tâu rằng: “Bệ hạ muốn lập hoàng hậu, chi bằng hãy lập Thẩm tài nhân, Thẩm tài nhân xuất thân cao quý” - đây chính là cái đích mà mọi người cùng hướng tới. Chân Tông tỏ vẻ rất giận dữ nói: “Triệu Nhân An, hoàng hậu không thể chỉ căn cứ vào xuất thân mà lập, hơn nữa Lưu Đắc phi là mẹ đẻ của thái tử, lập làm hoàng hậu thì không gì đáng nói nữa”. Quần thần suy đi tính lại, thấy hoàng thượng chỉ có mỗi một đứa con trai, nếu không lập mẹ để làm hoàng hậu thì còn có thể lập ai bây giờ? Vì vậy mà cũng không ai tấu trình phản đối nữa. Lưu Đức phi ở trong hoàn cảnh không thể sinh con nhưng đã tận dụng phương pháp “Mượn gà đẻ trứng” nhờ Lý thị sinh ra “con đẻ của mình”. Con làm thái tử thì mẹ cũng làm hoàng hậu. Mong muốn của bà ta cuối cùng cũng được thực hiện. Con người đối với công danh phú quý đều phải lấy ý trời và vận mệnh làm gốc, không được yêu cầu quá cao. Đối với học vấn, đạo đức cũng phải làm được “an thiên lập mệnh” cố gắng mà đạt được. Nhưng tất cả những điều này đều phụ thuộc vào chính mình, đương nhiên cũng có lúc số mệnh và cơ hội lại hoà vào lẫn lộn với nhau, giống như Đường Bá Hổ đã nói: “Người tính không bằng trời tính”, con người lòng dạ dối trá thì sẽ không được bình yên. Trong cái phép tắc ở đời này, tất cả phải xóa bỏ được sự tính toán và lòng dạ dối trá của con người. Như thế tự nhiên sẽ có hoàn cảnh mới hồn hậu, nhân hoà, thanh nhàn tự tại. Trước đây Khổng Tử khi nhìn thấy một loại khí cụ đặc biệt: nếu đổ đầy thì sẽ bị đổ, liền than vãn: “Làm sao lại có cái đạo lý đồ vật có thể có mà không thể đổ đầy được?” Tử Lộ liền nói: “Xin hỏi, thế có cách nào làm đầy được nó không ạ?”. Khổng Tử nói: “Làm đầy, nó sẽ đổ”. Tử Lộ lại hỏi: “Như vậy thì sẽ phải làm như thế nào?”. “Thông minh mưu trí cũng tồn tại trong nó cái ngu dốt, công lao lớn bao trùm thiên hạ cũng có chút nhượng bộ bên trong, dũng khí chấn động đất trời nhưng cũng tồn tại trong nó là sự nhút nhát khiếp nhược. Đây chính là đạo lý giảm bớt tổn thất”. Lời giảng của Khổng Tử và quan niệm của Lão Tử về cơ bản thì không có gì khác biệt, người muốn hỏi Lão Tử cho rõ ràng chính là Khổng Tử. Trên thực tế, học vấn của Khổng Tử và Lão Tử nhìn chung mà nói đều là đạo lý, tuy đường đi khác nhau nhưng cùng chung một mục đích, chỉ có điều là ý tưởng của Lão Tử cao hơn một bậc. Vương Lưu Canh từng nói: “Lưu lại một chút may mắn để trả lại cho tạo hóa, lưu lại một chút bổng lộc để trả lại cho triều đình, lưu lại một chút tiền tài để trả lại cho dân, và lưu lại một chút phúc để trả lại cho con cháu”. Trương Vô Tận cũng nói: “Việc không thể làm đến cùng, lực không thể dùng cạn, lời nói không thể nói hết, phúc không thể hưởng trọn, phàm là những cái dùng không hết thì sẽ là lâu dài bất tận”. Tận có nghĩa là đạt tới cực, nếu đạt đến cực thì nó sẽ phản hồi lại. Đây chính là ý đồ cảnh cáo về sự đầy đủ cực điểm. Trong cuốn “Thượng thư” cũng có viết: “Tự mãn thì sẽ tổn hại, khiêm tốn thì sẽ có ích”. Vì vậy mà con người không được chỉ mưu cầu cái mạnh mẽ mà còn phải biết khuất phục cái yếu, không thể chỉ mưu cầu tiến thủ mà cũng phải biết can tâm tình nguyện rút lui. 11. GIẤU ĐUÔI LÀM NGƯỜI Duỗi trong sự “Giả ngây giả ngô”. Những người luôn nghị kỵ người khác thì cũng luôn bị người khác nghi ngờ, những người luôn nghi ngờ về hành vi của người khác thì luôn luôn lấy tâm của kẻ tiểu nhân để đền đáp tấm lòng của người quân tử, nhằm làm cho lời nói, hành vi của mình hợp với lòng người. Khổng Tử nói: “Không được nghi ngờ người khác đang che giấu ý nghĩ hành vi của mình, cũng không được nghi ngờ người khác không trung thực, nhưng khi gặp phải kẻ không trung thực hoặc những chuyện giả dối lừa gạt thì phải sớm cảnh giác. Có như vậy thì mới được coi là người hiền minh”. Lâm Xung trong truyện “Thuỷ Hử” đã nhiều lần bị người mưu hại nhưng vẫn còn thật lòng tin có người hẹn mình đến Bạch Hổ Đường, thậm chí khi đến rừng Hắc Tùng vẫn còn nói những lời ngu ngốc: “Không thù không oán, mong tha mạng”. Đây chính là kiểu người thực thà hóa ngu. Ngay cả Lưu Bị thời Tam Quốc giả ngu giả ngốc cũng chỉ là cái ngu ngốc trong mưu lược của ông ta. Đây chính là nghệ thuật giấu tài. Thời gian Lưu Bị ở Đế Cốc chỉ là tạm thời tìm đến với Tào Tháo, người đang gặp vận may. Thực ra Lưu Bị đã âm mưu tham gia tổ chức diệt Tào. Chỉ có cách giả ngốc mới che giấu được kế hoạch của mình, nếu không cẩn thận thì sẽ vô tình để lộ kế hoạch, mọi sự vỡ lở tức là lúc đó sẽ rước họa diệt thân. Tào Tháo sau khi đánh bại Lã Bố, giành được Từ Châu, Lưu Bị vì thế lực mỏng manh nên chỉ còn cách che giấu ý đồ to lớn của mình, tạm thời phụ thuộc vào Tào Tháo. Tào Tháo trước đây cũng không an tâm về Lưu Bị, nên sau khi tiêu diệt Lã Bố đã lệnh cho Xa Vị trấn thủ Từ Châu, đem bọn Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi trở về Hứa Đô. Vì họ quy thuận ông ta nên cũng phải dụ dỗ họ bằng một chút lợi nhỏ. Thế là Tào Tháo liền đem Lưu Bị tấn kiến Hiến Đế. Nói về thứ vị, Lưu Bị vẫn là chú của Hiến Đế. Vì vậy, người ta gọi Lưu Bị là Lưu Hoàng Thúc. Trước đây Lưu Bị vốn là người Dự Châu, lần này Tào Tháo tấu xin cho ông ta làm Tả tướng quân. Tào Tháo vì muốn lôi kéo ông ta về với mình nên đối đãi với ông ta rất hậu hĩnh, khi đi ra đường thì ngồi cùng một xe, trong phủ thì cho ngồi ngang hàng, người bình thường nếu nhận được một hậu lễ như thế thì rất lấy làm vui sướng nhưng Lưu Bị lại không như vậy. Tào Tháo càng coi trọng ông ta, ông ta càng sợ, sợ rằng Tào Tháo biết được mưu đồ của ông ta thì sẽ không dung tha cho ông ta và lại e rằng sẽ lộ chuyện “Chiếu thư trong túi áo”. Bởi lẽ, Hiến Đế cũng nhiều lần muốn trừ bỏ, khống chế thế lực của Tào Tháo nên đã viết một bức chiếu thư thảo diệt Tào Tháo. Sau đó sai con gái của Đổng Thừa là Đổng quý nhân khâu trong một cái túi áo rồi đem tặng cùng với chiếc áo choàng cho Đổng Thừa. Đổng Thừa sau khi nhận được chiếu thư trong túi áo liền cùng với Chủng Tập, Hạo Tử Lan, Vương Phúc và Lưu Bị kết thành đồng minh. Vì chuyện này rất trọng đại, một ngọn gió cũng không thể lọt ra ngoài nên Lưu Bị giả vờ hồ đồ, trồng rau sau hoa viên. Đến ngay cả Quan Vũ, Trương Phi cũng không hiểu tại sao đại ca của mình lại trở thành người như vậy. Một hôm, Lưu Bị đang ở sau vườn trồng rau thì Hứa Chử, Trương Liêu chưa bẩm báo đã xông vào vườn sau, nói rằng Tào Tháo cho mời Lưu Bị, ông ta phải đi ngay. Lúc đó Quan Vũ và Trương Phi không bằng lòng với việc làm nhàn hạ tự đắc của Lưu Bị nên đã rủ nhau ra khỏi thành luyện bắn tên cả rồi. Lưu Bị đành phải một mình đi gặp Tào Tháo, trong lòng thấp thỏm không yên. Chẳng lẽ âm mưu của Đổng Thừa đã bị lộ rồi! Vì trong lòng còn giấu chuyện mờ ám nên Lưu Bị càng căng thẳng lo sợ. Tào Tháo nhìn thấy Lưu Bị ngay câu đầu đã hỏi: “Ngài ở nhà làm việc tốt thật đấy!” Lưu Bị như cảm thấy da thịt ở trên mặt trên đầu đã cứng lại rồi, hai chân run lên bần bật, sợ hãi đến mức không nói được một lời nào. May là sau khi Tào Tháo nói xong câu ấy liền nói tiếp: “Trồng rau cũng không phải là một việc dễ”. Lúc bấy giờ Lưu Bị mới hiểu ra rằng Tào Tháo nói “việc tốt” không phải nhằm chỉ chuyện mưu phản. Khi đó trong lòng mới yên tâm bớt lo sợ hơn. Tào Tháo kéo tay Lưu Bị đi ra sau hoa viên. Tào Tháo chỉ vào những quả mai chưa chín ở trong vườn, kể cho Lưu Bị nghe chuyện “nhìn mới hết khát” khi Tào Tháo chinh phạt Trương Tú xảy ra không lâu trước đây: “Trên đường đi chinh phạt, đường đất khô khan, anh em tướng sĩ miệng khô khốc, ta tay cầm roi ngựa chỉ về những rừng cây phía trước nói phía trước có một rừng mai, quả hãy còn xanh, có thể giải khát được”. Anh em tướng sĩ nghe vậy, ai nấy đều ứa nước miếng. Thế là lúc đó mọi người không còn cảm thấy khát nữa. Hôm nay ta nhìn thấy những quả mai xanh ở trong vườn sau, lại vô tình nhớ lại chuyện cũ, nên có ý mời ngài đến ăn mai thưởng rượu cùng ta”. Lưu Bị lúc này trong vẫn còn lo sợ suy nghĩ vẩn vơ, tuy rằng không để tâm nhưng cũng làm ra vẻ chăm chú lắng nghe. Trời tháng sáu như một đứa trẻ, nói thay đổi là thay đổi ngay. Vừa nãy trời còn nắng gắt thế mà bây giờ đã kéo đây mây đen. Gió thổi làm những cành mai rung lên, lá kêu xào xạc. Người ta thường nói: “Có gió thì sẽ có mưa”, Tào Tháo vội vàng cùng Lưu Bị trú vào trong một cái đình nhỏ. Lưu Bị lúc này mới nhìn thấy trong đình đã bày sẵn một đĩa mai xanh, một hũ rượu vừa hâm nóng, mới biết Tào Tháo đã sớm chuẩn bị trước. Hai người liền ngồi xuống cùng nhau uống rượu, nói chuyện trên trời dưới biển. Tại sao Tào Tháo lại mời riêng một mình Lưu Bị đến cùng uống rượu? Hóa ra ông cũng muốn nhân lúc rượu vào lời ra, thăm dò ý đồ của Lưu Bị xem xem Lưu Bị có giống mình không? Có ý đồ không chịu dưới người khác, muốn xưng vương xưng đế không? Khi rượu đã ngà ngà, Tào Tháo liền hỏi: “Huyền Đức, ngài đã đi nhiều, nhìn thấy nhiều và cũng biết nhiều. Xin hỏi ai có thể được coi là anh hùng hiện nay?” Lưu Bị không ngờ rằng đột nhiên Tào Tháo lại bàn đến vấn đề này nên nhất thời không biết Tào Tháo có ý đồ gì, liền đáp: “Tôi làm sao dám bàn luận chuyện này?”. Nói rồi dường như cũng hiểu được tám, chín phần dụng ý của Tào Tháo nên đánh trống lảng nói: “Viên Thuật ở Hoài Nam đã xưng đế, có thể coi là anh hùng chứ?” Tào Tháo cười đáp: “Ông ta ý à? Chẳng qua chỉ là bộ hài cốt trong mộ, ta đang muốn diệt ông ta đây!” Lưu Bị nói: “Viên Thiệu ở Hà Bắc xuất thân cao quý, môn sinh khắp thiên hạ. Hiện nay đang chiếm cứ bốn châu. Mưu sĩ đông, võ tướng giỏi, có thể coi là anh hùng được chứ?” Tào Tháo lại cười, đáp: “Viên Thiệu bên ngoài thì có vẻ lợi hại nhưng kỳ thực rất nhút nhát. Tuy rằng ông ta giỏi định ra kế hoạch nhưng đến lúc then chốt thì lại do dự không dám quyết. Loại người làm việc lớn sợ nguy hiểm, nhìn thấy lợi nhỏ mà không cần mạng sống như vậy, không thể gọi là anh hùng được”. Lưu Bị lại nói: “Lưu Biểu trấn giữ Kinh Châu, được mọi người phong làm thủ lĩnh “bát tuấn”, có thể gọi là anh hùng được không? Tào Tháo khinh thường nói: “Lưu Biểu chỉ có hư danh, không thể coi là anh hùng!” Lưu Bị lại nói tiếp: “Tôn Sách binh lực đương mạnh, đã trở thành lãnh tụ của Giang Đông, chắc chắn là anh hùng rồi”. Tào Tháo lắc đầu nói: “Tôn Sách chẳng qua mượn danh bố là Tôn Kiên, không thể gọi là anh hùng được”. Lưu Bị lại nói: “Vậy thì Lưu Chương ở Ích Châu có thể gọi là anh hùng được chăng?” Tào Tháo xua tay nói: “Lưu Chương chỉ dựa vào cái danh mình dòng dõi nhà Hán, chẳng qua cũng chỉ là con chó trông nhà cho người mà thôi, như vậy có thể coi là anh hùng được không? Lưu Bị thấy một loạt những nhà đại quân phiệt lợi hại mình vừa kể ra mà Tào Tháo đều không coi ra gì nên đành nói: “Vậy thì những người như Hán Trung Trương Lỗ, Tây Lương Hán Toại, Mã Thăng thì sao?”. Tào Tháo vừa nghe Lưu Bị kể ra những người vô danh thì không nhịn nổi cười xua tay nói: “Những kẻ tầm thường như vậy cũng đáng để lên mặt ư?” Lưu Bị lắc đầu nói: “Ngoài những người này ra, Lưu Bị tôi kiến thức nông cạn, quả thực không biết còn ai có thể xứng đáng là anh hùng cả!” Tào Tháo lúc này không cười nữa, nhìn Lưu Bị nói: “Anh hùng tức là người trong lòng phải có chí lớn, phải có mưu kế hay. Cái gọi là chí lớn là chí lớn ở trong trời đất. Cái gọi là kế hay mưu sâu thì chứa đựng trong nó cả vũ trụ”. Nói rồi ông ta quan sát rất kỹ phản ứng của Lưu Bị. Lưu Bị vỡ không hiểu hỏi thêm: “Xin được hỏi, ai có thể xứng đáng là anh hùng như thế được?” Tào Tháo lấy tay chỉ Lưu Bị rồi lại chỉ mình, làm ra vẻ bí mật nói: “Thiên hạ này, xứng đáng là anh hùng chỉ có ta và ông”. Nghe xong những lời như vậy, Lưu Bị không khỏi chột dạ, sợ đến nỗi tay rung lên rơi cả đũa xuống đất. May sao lúc đó chớp lại loé sáng, kèm theo là tiếng sấm nổ rền vang làm cho bầu trời như bị rách ra. Lưu Bị cúi xuống nhặt đũa từ từ nói: “Thiên uy thật là lợi hại, tiếng nổ này làm ta sợ quá!” Tào Tháo thông qua những lời bàn luận về anh hùng với Lưu Bị, lại thấy cảnh sét nổ, Lưu Bị sợ quá làm rơi cả đũa thì cho rằng Lưu Bị không những là người tầm mắt không rộng mà còn là kẻ nhát gan, tiếng sấm làm rơi đũa nên không nhịn nổi mà phá lên cười. Từ đó, Tào Tháo không còn canh phòng Lưu Bị nữa mà đã thả lỏng cho ông ta rất nhiều để cuối cùng Lưu Bị có cơ hội bỏ ông ta đến Từ Châu. Lưu Bị trước áp dụng kế giả ngây giả ngô, giấu thật bày giả, che giấu tài của mình, đã làm cho Tào Tháo bị lẫn lộn, làm cho lợi ích của mình được bảo toàn trong cái mông lung mơ hồ. Phàm là trong thế giới những chuyện trọng đại thì yêu cầu bí mật của nó càng trở nên quan trọng. Bí quyết để giành thắng lợi của những mưu lược, chiến lược, sách lược hoàn toàn phụ thuộc vào thắng lợi bằng lối đánh bất ngờ, thứ nhất là ở sự chuẩn bị kỹ càng chu toàn về kế sách, thứ hai là chuyện cơ mật không được để lộ. Vì vậy mà trong cuốn Kinh Dịch, Tiết Hào có viết: “Sơ cửu (mùng chín) không ra khỏi nhà không gặp điềm dữ”. Khổng Tử nói: “Lý do, nguyên nhân gây ra hoạ chính là việc lấy ngôn ngữ làm nấc thang đưa mình lên cao. Quân vương mà không giữ bí mật thì sẽ mất dần đi xung quanh mình những đại thần, các đại thần mà không bảo toàn được những chuyện cơ mật thì sẽ mang hoạ diệt thân. Những chuyện trọng đại nếu không được giữ bí mật thì sẽ khó có thể thành công. Vì vậy đã là quân tử thì phải biết giữ bí mật, không được dễ dàng nói ra”. Lão Tử nói: “Cá không thể sống ở dưới sâu, có như vậy thì nó mới được an toàn, những vũ khí tiên tiến hiện đại của quốc gia không thể tuỳ tiện phơi bày cho người khác xem”. Do đó, tất cả những mưu lược nhất thiết phải tuyệt đối bảo mật, ngay cả quỷ thần cũng phải khó đoán, tất cả những hành vi đều là huyền diệu thần kỳ. Có như vậy mới có thể gọi là “thần bí”. Quỷ Cốc Tử trong cuốn “Mưu Thiên” có viết: “Phương pháp của thánh nhân chính là che đậy và giấu giếm”, và trong cuốn “Ma Thiên” cũng viết “Mưu lược của thánh nhân ở chỗ tối thì nói là thần diệu, thành công ở chỗ sáng thì nói là thần minh”. Trên con đường sự nghiệp, nguyên tắc của chúng ta là cố gắng tìm hiểu bí mật người khác nhưng cũng phải cố gắng giấu đi bí mật của mình. Nhất là trong lúc đang ý đồ mưu lược lớn, kế hoạch lớn thì càng phải như vậy. Vì vậy mà Khương Đại Công trong cuốn binh pháp của ông có những chương nổi tiếng như: “Âm phú, Âm thư, đồng thời trình bày rõ ràng đạo thuật “Mưu thần chước quỷ, âm dương tương thắng” không thể nói là cách nói của ông không có căn cứ. Yết Tử trong cuốn: “Kinh binh bí thiết hai mươi tám” có nói: “Sự thành công của một kế hoạch là ở chỗ bảo mật, thất bại là ở chỗ bí mật bị lộ. Vì vậy mà những việc quan trọng trong lĩnh vực quân sự đều phải tuân thủ cơ mật. Nhiệm vụ của một người thì không được để cho hai người biết. Bí mật của ngày mai không để tiết lộ trong ngày hôm nay. Cần phải suy tính kỹ lưỡng từ những chi tiết mưu kế, không được vì mất thận trọng mà hoảng hốt, những việc mình làm mà đều bảo mật được cũng cần phải cẩn thận không để lộ trong lúc nói chuyện, vẻ mặt lúc nào cũng không được để lộ chút thần sắc nào, khi biểu lộ tình cảm cũng cần phải cẩn thận. Tuy là ngoài mặt, khi biểu lộ tình cảm giữ được bí mật nhưng phải cẩn thận, trong lúc ngủ mê không được nói ra. Trong quân đội cần phải che giấu ý đồ trước khi hành động, giao cho ai nhiệm vụ gì cũng không cần phải nói trước. Nếu như có một số chuyện nói trước được thì cũng đừng ngại nói với họ, đó cũng là cơ hội tốt để biểu lộ lòng tin của mình với họ. Thường xuyên gặp gỡ hỏi han chân thành với họ nhưng lại biết giữ bí mật chính là để bảo mật tốt hơn”. Trong lịch sử, vì một chút sơ xảy để lộ bí mật khiến mọi chuyện trở lên xôi hỏng bỏng không rất nhiều. Vì vậy mà Quỷ Cốc Tử trong cuốn “Ma thiên” có viết: “Những người giấu được bí mật, thoát được khỏi chuyện tình cảm, làm cho người không biết, quỷ không hay, thì công danh sự nghiệp sẽ rất cao mà lại không bị mang họa vào thân”. Trong cuốn “Hoài Nam Tử”, Thuyên Ngôn Huấn có viết: “Thánh nhân không vì danh mà thiệt thân, không để lộ mưu, không bị trí tuệ làm chủ, ẩn giấu trong cái vô hình, hành động không dấu vết. Vì vậy thánh nhân che giấu sự thông minh không để lại vết tích, giấu vết tích trong cái vô vị trong cuốn “Các bài học về binh lược” có viết: “Dụng binh cái quý là ở chỗ là mưu lược phải làm sao cho người khó đoán định, giấu được binh lực, làm cho địch không thể ngờ tới. Nếu để cho địch biết có nghĩa là mình bị địch hạn chế, chi phối, vì vậy nếu một người giỏi dụng binh thì: trên có thể che giấu được trời, dưới có thể che giấu được đất, giữa có thể che giấu được người”. Những kế hoạch quân sự, những mưu lược chính trị quan trọng, thì không có cái nào là không lấy việc cần phải che giấu là thượng sách, làm người cũng vậy. Những thứ có thể che giấu thì nhất định phải che giấu, những thứ có liên quan đến người thì không nói với người, những việc không cần thiết phải nói cho người thì không nói với người. Sở trường sở đoản của mình đều phải che giấu, đều phải nghĩ đến những việc mình làm. Biện pháp che giấu tốt nhất chính là giấu trong cái vô hình, không lộ tung tích. 12. MUỐN LỜI NÓI CÓ UY LỰC, TRƯỚC TIÊN MÌNH PHẢI HÀNH ĐỘNG ĐÚNG NHƯ NHƯ LỜI NÓI ẤY Duỗi trong “hành động đúng như lời nói”. Là một người lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp cao không chỉ biết làm báo cáo, ăn trôi nói chảy, biết dùng lời lẽ thuyết phục dân chúng mà còn quan trọng là phải biết dùng hành động của mình làm gương, ép mình vào kỷ luật. Bởi vì mỗi hành vi, mỗi cử chỉ lời nói của mình đều bị quần chúng nhân dân theo dõi quan sát chặt chẽ và động lực lớn nhất của họ cũng là hành động của mình. Đem hành động của mình thể hiện trên con đường sự nghiệp là cách có thể làm cảm động người ta nhất. Tục ngữ nói: “Hành động là bài học không có âm thanh”. Một loạt những lời nói đồng tình thân mật đều không bằng hành động xắn áo, bắt tay vào việc. Con người ta rất dễ bị một số chuyện nhỏ nhặt, bị tình cảm của những ơn huệ chi phối. Quan trọng hơn chính là hạ thấp quan niệm ham muốn vật chất và hưởng thụ, làm cho mình và quần chúng không có gì khác biệt, biến mình thành một người bình thường giống như quần chúng, yêu cầu người khác làm được việc thì trước tiên mình cũng phải làm được. Như vậy lời nói mới có tiếng vang, có thể thuyết phục được người khác. Những bình luận của mọi người về chuyện Tào Tháo “cắt tóc thay đầu”, quân lệnh nghiêm ngặt cũng không thống nhất. Có người cho rằng đây là do Tào Tháo giỏi về cơ biến nhưng có nhiều người lại cho rằng chuyện này đã lộ rõ sự hiểm ác, gian tà của Tào Tháo. Có người lại cho rằng chuyện này thể hiện rõ quân lệnh nghiêm minh của Tào Tháo. Chuyện này có tính phức tạp nhất định. Nữ Ngung nhận xét đơn giản rằng: “Tóc” không thể thay “Đầu”, “thay” chính là gian hiểm, đó chính là cách kiến giải nông cạn. Chúng tôi lại cho rằng chuyện này đã phản ánh được sự tài giỏi tùy cơ hành sự, trí tuệ quyền biến của Tào Tháo. Diễn biến của sự việc như sau: Tào Tháo hạ lệnh công bố cho mọi người gần xa biết: “Bất kể là đại tướng hay tiểu tướng quân, khi đi qua ruộng lúa mạch, nếu giẫm đạp lên cây thì bị tội chém đầu, quân lệnh nghiêm minh…” Một lần Tào Tháo đang cưỡi ngựa đi, bỗng nhiên ở giữa ruộng thình lình bay lên một con chim, con ngựa thấy lạ mắt liền lao xuống ruộng, giẫm nát cả một mảng rộng lớn. Tào Tháo lệnh cho Chư Bột xét tội giẫm nát ruộng lúa mạch của mình. Chư Bột nói: “Thừa tướng mà cũng phải nghị tội ư?” Tào Tháo đáp: “Ta đặt ra luật nhưng ta lại phạm luật!” Nói rồi Tào Tháo định rút kiếm cắt cổ tự sát. Quần thần vội vàng ngăn lại. Quách Gia nói: “Thời Xuân Thu có chủ nghĩa ‘Phép nước phải nể chủ’, Thừa tướng lãnh đạo đại quân lẽ nào phải tự phạt ư?” Tào Tháo trầm ngâm một lát, rồi nói tiếp: “Tuy rằng thời Xuân Thu có chủ nghĩa ‘Phép nước phải nể chủ’ song ta vẫn phải bị trị tội chết” và lấy kiếm cắt tóc mình. Tào Tháo nói: “Quyền cắt tóc thay chặt đầu”. Việc ngựa của Tào Tháo dẫm nát ruộng lúa mạch vốn không phải là cố ý, cũng không phải là vô tâm, vô ý gây ra mà là do sự việc xảy ra quá bất ngờ, không kịp trở tay. Như vậy thì lỗi của Tào Tháo không có gì là lớn lắm, chỉ cần nói ra tình hình là có thể có cách xử lý thích hợp. Như thế thì không thể không khiến lòng dân phục. Có điều là tên pháp quan quân sự đầu óc làm việc hơi máy móc, ông ta chỉ biết “Thừa tướng mà cũng bị nghị tội ư?” mà không biết ý của Tào Tháo là chủ nhân cơ hội này nói rõ tình hình sự việc là được. Tào Tháo lại không tiện nói ra lời giải thích cho mình nên đành phải giả vờ ra vẻ “Rút kiếm ra tự cắt cổ mình”. Quách Gia so với tên pháp quan kia thì thông minh hơn nhiều. Ông ta đã dẫn ra những điều kinh điển để khuyên Tào Tháo: “Thời Xuân Thu có chủ nghĩa ‘Phép nước phải nể chủ’. Thừa tướng lãnh đạo đại quân, lẽ nào phải tự phạt?” Tào Tháo thấy có người hiểu mình thì tự động rút lui. Kỳ thực Quách Gia cũng chỉ nói được một mặt của vấn đề là Tào Tháo làm chủ soái ba quân chứ cũng chưa nói được mặt quan trọng của vấn đề là sự việc ngựa của Tào Tháo dẫm nát ruộng lúa xảy ra ngoài ý muốn. Do đó, Tào Tháo mới “trầm ngâm một lúc” ông ta quyết định tự thực hiện hình phạt “cắt tóc thay đầu”. Sự việc này cũng là một lần biểu diễn tài nghệ của ông vua quyền thuật. Thử nghĩ mà xem, tóc thì sao có thể thay đầu được? Nhưng “tóc” của Thừa tướng lại không giống tóc của người thường, Thừa tướng vì sự việc xảy ra ngoài ý muốn: Ngựa giẫm nát ruộng lúa mạch đành tự cắt tóc mình. Nếu người khác vi phạm quân lệnh thì lẽ nào không chặt đầu? Quyền thuật của Tào Tháo hay ở chỗ ông ta không lấy nguyên nhân khách quan để gỡ tội cho mình mà dùng tóc của mình để thể hiện tính nghiêm minh của kỷ luật quân đội, để đạt được mục đích làm cho mọi người phải quy phục, loại quyền thuật này bất kể là nhìn từ ý đồ chủ quan hay từ hiệu quả khách quan thì đều rất đúng đắn chứ không hề có sự gian hiểm nào. Nên xem đây như là trí tuệ tài giỏi, tuỳ cơ ứng biến của Tào Tháo. Trong cuốn “Kinh Binh” của mình, Yến Tử trong khi để cập đến bí quyết cầm binh đánh trận đã từng nói: “Cần phải nghĩ đến lòng người, tự nhiên sẽ có cách. Nếu mặc quần áo giống binh sĩ, sau đó thì quên đi sương gió giá lạnh cùng sống và sinh hoạt cùng binh sĩ; quên đi đói khát trên lưng ngựa, cùng hành quân với binh sĩ, sau đó thì quên đi nguy hiểm ở quan ải; quên đi những lao khổ chinh chiến, xem những binh sĩ bị thương như chính mình đang bị thương vậy, sau đó thì quên đi những vết tích của đao kiếm, việc gì cũng chu đáo đồng tình cho nên chiến đấu hết mình, không sợ chết, không sợ bị thương, mạo hiểm binh đao lấy việc đánh trước làm gốc, cũng không biết mình đang bước vào nguy hiểm; ở vào hoàn cảnh nguy hiểm cũng như ở nơi yên bình, ăn phải thuốc độc mà vẫn như ăn mật ngọt”. Đây chính là cách những vị tướng lĩnh giỏi thời cổ đại và những người khéo léo vỗ về dân thường làm. Gia Cát Lượng nói: “Những vị tướng giỏi dẫn binh thời cổ xem việc đào tạo người khác như là đào tạo chính con của mình. Khi nguy hiểm thì mình phải đi trước, khi được thưởng công thì sẽ nhận sau. Khi có người chết thì đau xót và an táng chu đáo cho họ, đối với người bị thương thì chăm sóc, thấy người đói khát thì đưa cho họ khẩu phần ăn của mình, thấy người bị rét thì cởi áo đưa cho họ, gặp người thông minh thì kính trọng và lễ, gặp người dũng cảm thì khen ngợi họ, những người làm tướng lĩnh mà có thể làm được như vậy thì trận nào cũng thắng”. Không chỉ đối xử với binh lính như vậy mà đối với dân thường cũng phải như vậy nên cổ nhân có nói: “Căng tai, mở mắt ra nghe ngóng”, và còn nói: “Đùa người thì mất đức, đùa vật thì không có chí”. Khống chế được dục vọng, sự hưởng thụ về vật chất của mình thì trong lĩnh vực quân sự, các tướng lĩnh sẽ có được sự vận dụng ngày càng rộng lớn. Tư Mã Nhương Nghi của Trung Quốc cổ đại vì đánh trăm trận trăm thắng mà được thăng làm đại tướng. Khi chuẩn bị chống lại quân Tần, đã chém chết Trang Giả, làm theo lập uy, lập vị, lập pháp. Ông đã từng nói: “Thương vong của binh sĩ, ăn uống thuốc thang sinh hoạt bệnh tật… của binh sĩ đều phải thăm hỏi, phải nắm rõ tình hình lương thảo của quân đội, đãi ngộ binh sĩ và tình hình mọi mặt, chia đều khẩu phần ăn cùng binh sĩ và chia sẻ thắng thua cùng họ”. Sau ba ngày xuất quân, những người bị bệnh cũng yêu cầu được đi cùng, khi đánh trận đều xung phong ra chiến trường. Quân Tần nghe vậy thì rút lui, quân Yên cũng lội nước rút quân. Nhất Hạo Khởi là một vị tướng nổi tiếng thời xưa, phương pháp cầm quân của ông ta là cùng với binh sĩ hạ đẳng cùng ăn cùng mặc, khi ngủ không nằm đệm, khi hành quân không cưỡi ngựa, tự mình vác lương thực, cùng binh sĩ lao khổ. Khi binh sĩ bị mụn nhọt, lên sởi thì hút mủ cho họ. Vì vậy mà binh sĩ ai cũng rất vui lòng đi đánh trận. Tướng Sử Khả Pháp thời nhà Minh cũng không những dùng binh sĩ đồng cam cộng khổ mà còn thực hiện “Binh sĩ không no thì không được ăn trước”. Khi đôn đốc quân sĩ đánh trận thì chủ trương “Hành quân không bí mật, ăn không no, ba tháng hè không sợ nóng, mùa đông không mặc áo da, đi ngủ không cởi bỏ quần áo”. Đây đều là những việc làm có ảnh hưởng rất lớn. 13. NAM NHI ĐẠI TRƯỢNG PHU QUỲ GỐI LÀ VÀNG Đại trượng phu “thu mình” lại đáng giá ngàn vàng. Lão Tử nói: Những tướng lĩnh giỏi cầm binh đánh trận thì không khoe tài năng, người giỏi đánh trận không dễ bị kích động, người giỏi giành thắng lợi thì suy nghĩ kỹ về chiến thuật chiến lược, thường thì không phải giáp mặt quân địch nhưng vẫn giành thắng lợi; những người giỏi dùng người thì đối với người khiêm tốn, nhẫn nhịn. Trong cuốn “Thẩm định” của Tô Tuần thời Tống có viết: “Mưu lợi cho mình là dại, mưu lợi cho thiên hạ mới là khôn”. Vì mưu cầu lợi ích cho mình thì tư duy sẽ hẹp hòi, còn nếu mưu cầu cho lợi ích cho thiên hạ thì tư duy sẽ rộng lớn. Nguyên nhân chính của vấn đề là vì mình thì suy tính sẽ kỹ càng nên đem lợi ích của mình mà chà đạp lên lợi ích của người khác. Sự thay đổi về tư duy lúc khởi đầu sẽ dẫn đến thay đổi về tư duy khi kết thúc. Do đó chỉ có tư duy rộng mở, không bị ức chế bởi lợi ích cá nhân hẹp hòi ích kỷ thì mới có thể làm cho tư duy của một con người tỉnh táo, chính xác, thông minh. Đối với quyền lực và tiền tài, đương nhiên là không tiếp cận thì sẽ không bị đồng tiền làm hoen bẩn, ắt sẽ trong sạch. Nhưng khi tiếp xúc rồi song vẫn không bị nó làm cho nhơ bẩn thì sẽ càng trong sạch hơn nữa, mới có thể xem như là bậc Thánh hiền, nhân cách cao cả tinh khiết. Đối với mưu ma chước quỷ, người không biết thì được gọi là cao minh, những người biết rồi mà không sử dụng thì còn cao minh hơn nữa. Có câu nói: “Nam nhi dưới gối là hoàng kim, đại trượng phu thu mình một lần đáng giá ngàn vàng” Lý Uyên quỳ gối khuất phục có phải đáng giá “ngàn vàng”. Lý Uyên quỳ gối khuất phục có nghĩa là cơ nghiệp ba trăm năm của Đại Đường đã bắt đầu. Tùy Dương Đế Đại Nghiệp năm thứ 11 (năm 615), Lý Uyên nhận lệnh làm đại sứ dẹp loạn vùng Sơn Tây, Hà Đông, thảo phạt giặc cướp. Đối với những tên giặc cướp bình thường như Vô Thuỵ Nhi, Kính Bán Đà thì việc thảo phạt rất dễ dàng mà không tốn sức. Nhưng đối với giặc Đột Quyết vùng phía Bắc thì do Đột Quyết cậy mình có ngựa sắt, binh lính thì lại giỏi cưỡi ngựa bắn tên, nên thật là chuyện đau đầu. Qua nhiều lần giao chiến, Lý Uyên thắng ít thua nhiều nên quân Đột Quyết càng trắng trợn không nể gì cả. Lý Uyên rất giận, xem chúng là kẻ thù không đội trời chung. Năm 616 Công Nguyên, Lý Uyên được phong làm Lưu thủ Thái Nguyên, Đột Quyết đem hàng vạn binh mã nhiều lần đánh thành trì Thái Nguyên. Lý Uyên sai tướng Vương Khang Đạt dẫn hơn nghìn quân sĩ ra trận nhưng hầu như đều bị tiêu diệt. Sau đó may mắn dùng kế nghi binh mới miễn cưỡng làm cho quân Đột Quyết phải bỏ chạy. Tàn ác hơn nữa là tên đạo tặc Lưu Vũ Châu bất ngờ đánh vào quân Phần Dương (li cung của Tuỳ Vương Đế) bắt đi phụ nữ trong cung, sau đó đem dâng họ cho Đột Quyết. Đột Quyết lập tức phong Lưu Vũ Châu làm Định Dương Khả Hãn. Ngoài ra dưới sự che chở và ủng hộ giúp đỡ của Đột Quyết, hắn đã phản bội trọng trách của mình và thoát khỏi hoạ rơi đầu. Mọi người đều cho rằng Lý Uyên ôm mối thù khắc cốt ghi tâm này, sẽ cùng Đột Quyết quyết một trận sống mới, chẳng ngờ Lý Uyên lại sai mưu sĩ Lý Văn Tình làm sứ giả, hạ mình xưng thân với Đột Quyết, đồng thời nguyên đem tất cả “ngọc ngà mĩ nữ” dâng tặng Thuỷ Hoa Khả Hãn. Hành động hạ mình nhượng bộ của Lý Uyên, ngay cả đến con trai ông ta cũng cảm thấy nhục nhã. Lý Thế Dân, sau này khi kế ngôi, thường không quên nói “Đột Quyết ngang ngược, Thái Thượng Hoàng (tức Lý Uyên) xưng thân với Hạnh Lợi (tức Đột Quyết) không hẳn đã thấu tình đạt lý”. Lý Uyên thì lại: “Mọi người say một mình ta tỉnh”, ông có kế sách của riêng mình, nhẫn nhục, nhượng bộ tuy có xấu thể diện một chút nhưng ý thức được sự mềm dẻo, linh hoạt có thể trở thành đại trượng phu. Kỳ thực Lý Uyên căn cứ vào tình hình đại cục thiên hạ, đã tạm ngưng quyết định khởi binh chống Tùy. Phải khởi binh đã trở thành xu thế lớn. Thái Nguyên tuy là một căn cứ quân sự quan trọng nhưng lại không phải là nơi khởi nghiệp lý tưởng, cần thiết phải chuyển về Quan Trung, Thái Nguyên lại thành căn cứ địa không thể mất của quân Lý """