"
Và Rồi Chẳng Còn Ai - Agatha Christie & Việt Hà (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Và Rồi Chẳng Còn Ai - Agatha Christie & Việt Hà (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mười tên lính nhỏ đi ăn; Một tên chết nghẹn,
giờ còn chín tên.
Chín tên thức muộn trong đêm; Một quên không dậy,
tám tên ngậm ngùi.
Devon du thuyền chúng chơi; Một tên nằm lại,
bảy thời ra đi.
Bảy tên bổ củi làm chi;
Bổ đôi một đứa,
sáu tên muộn phiền.
Sáu đem tổ ong ra nghiền; Một ong đốt chết,
còn năm sững sờ.
Đến tòa năm đứa kia chờ; Một vào Thượng thẩm,
bốn ra biển ngồi
Bốn tên cùng ra biển trời; Trích đỏ nuốt một,
giờ còn lại ba
Vườn thú ba đứa la cà;
Gấu to vồ một,
còn hai vẹn toàn.
Hai tên đi dưới nắng vàng;
Một khô cong chết,
một tên bơ phờ.
Còn tên lính nhỏ thẫn thờ
Hắn đi treo cổ
mình lên trần nhà.
Và rồi chẳng còn một ai.
FRANK GREEN, 1869.
Chương 1
Ở góc toa hút thuốc hạng nhất là ngài thẩm phán Wargrave, người gần đây đã rời chức về hưu. Ông vừa bập một hơi xì gà vừa đảo qua mục tin chính trị của thời báo Times với ánh mắt lộ rõ vẻ thích thú.
Để tờ báo xuống, ông đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Lúc này tàu đã qua Somerset. Ông nhìn chiếc đồng hồ đeo tay - vẫn còn hai tiếng nữa. Ông điểm lại trong đầu tất cả những gì liên quan tới Đảo Chiến Binh được đăng trên báo chí. Đầu tiên là tin một tay triệu phú người Mỹ say mê du thuyền đã mua đảo, rồi đến một bài viết miêu tả căn biệt thự xa xỉ tân thời mà hắn xây trên đó, ngoài khơi vịnh Devon. Chẳng may cô vợ ba mới cưới của tay triệu phú nọ lại sợ đi thuyền, thế nên mới dẫn tới việc cả cơ ngơi lẫn hòn đảo nọ bị rao bán. Một loạt quảng cáo rùm beng về hòn đảo liền xuất hiện trên báo. Rồi sau đó có một lời xác nhận khô khan rằng cả chỗ đó đã được một quý ngài tên Owen mua lại. Tiếp đến là một loạt tin đồn được những tay ký giả báo lá cải truyền đi. Đảo Chiến Binh thực ra được mua lại bởi một quý cô tên là Gabrielle Turl, một ngôi sao Hollywood! Cô ta muốn lui về đó vài tháng để thoát khỏi sự săm soi của công chúng. Tờ báo Con ong bận bịu thì lại khéo léo ám chỉ rằng chỗ đó dành cho giới Hoàng gia cư trú??! Tờ báo Quý ông Merryweather thì được rỉ tai là chỗ đó được mua lại cho tuần trăng mật - ngài Bá tước trẻ tên L - cuối cùng cũng phải chịu đầu hàng Thần tình yêu! Còn tờ Jonas thì biết
chắc rằng nơi đó đã được Hải quân Anh mua lại nhằm thực hiện những thí nghiệm vô cùng bí mật.
Chuyện Đảo Chiến Binh chiếm lĩnh mục tin tức đã rõ như ban ngày! Ngài thẩm phán Wargrave rút từ túi áo ra một lá thư. Nét chữ gần như không ai đọc nổi, chỉ trừ vài cụm từ ở chỗ này chỗ nọ là nổi bật rõ ràng đến bất ngờ. Lawrence thân mến… đã quá lâu rồi tôi không nhận được tin tức từ ông… phải đến Đảo Chiến Binh bằng được… một nơi đầy mê hoặc… nhiều điều để nói… những ngày xưa cũ… hòa mình vào thiên nhiên… tắm mình trong ánh mặt trời… 12:40 từ Paddington… gặp ông ở Oakbridge… và người gửi thư đã kết lại với một chữ ký bắt mắt: Mãi mãi thương mến, Constance Culmington.
Thẩm phán Wargrave mò lại trong trí nhớ của mình lần cuối cùng ông gặp quý cô Constance Culmington. Chắc là đã bảy - không, tám năm về trước. Lúc ấy cô đang ở Ý để hưởng ánh nắng mặt trời và giao hòa với thiên nhiên cùng những người nông dân Ý. Về sau, ông nghe nói cô đã tới Syria, nơi mà cô được tắm trong cái nắng còn gay gắt hơn, và sống với thiên nhiên cùng những người du mục.
Ông ngẫm nghĩ, Constance Culmington đích thị là loại phụ nữ có thể đi mua một hòn đảo rồi thêu dệt nên những điều kỳ bí xung quanh mình! Gật đầu nhè nhẹ tán thưởng với lối suy luận logic của mình, ông thẩm phán Wargrave mặc cho đầu mình gục xuống…
Và ông ngủ thiếp đi…
Trong một toa khách hạng ba cùng năm hành khách khác là Vera Claythorne, lúc này cô đang ngả đầu ra sau với đôi mắt nhắm nghiền. Đi tàu
hỏa vào một ngày như thế này mới nóng nực làm sao! Cũng thật tuyệt khi được đi ra biển! Mà cũng may mắn lắm cô mới có được công việc này. Cứ khi nào cô muốn có một kỳ nghỉ thì hầu như luôn đồng nghĩa với việc phải đi trông nom một bầy trẻ con - mà kỳ nghỉ của một thư ký còn khó kiếm hơn nữa. Thậm chí cả cơ quan môi giới cũng chẳng đem lại nhiều hy vọng.
Và rồi lá thư đó tới.
Tôi đã nhận được lời giới thiệu về cô thông qua hãng môi giới Phụ nữ tài giỏi. Tôi cũng hiểu rằng họ có biết cô từ trước. Và tôi cũng rất thoải mái về mức lương cô yêu cầu. Rất mong cô tới bắt đầu công việc này vào ngày 8 tháng Tám. Chuyến tàu sẽ khởi hành lúc 12:40 từ ga Paddington và cô sẽ được đón tại ga Oakbridge. Tôi cũng kèm theo đây năm tờ một bảng cho khoản chi phí.
Thân ái,
Una Nancy Owen
Và ở góc trên cùng là địa chỉ đính kèm tem thư, Đảo Chiến Binh, Sticklehaven, Devon…
Đảo Chiến Binh! Chà, mấy ngày nay chẳng có gì ngoài tin đó trên báo! Đủ các thể loại manh mối và những lời đồn hấp dẫn. Mặc dù có khi phần lớn số đó là bịa đặt. Nhưng chắc chắn là căn nhà đã được một tay triệu phú xây nên và được ví như là tận cùng của sự xa xỉ.
Mệt mỏi vì một học kỳ đầy căng thẳng vừa qua ở trường, Vera Claythorne tự nhủ: “Làm một cô chủ trò ở một trường học hạng ba thật chẳng lợi lộc gì… Giá mình có được việc làm ở một trường học tử tế nào đó.”
Và rồi, một cảm giác lãnh lẽo phủ lấy tim cô, cô nghĩ: “Nhưng cũng may lắm mình mới có được việc này. Nói cho cùng, cũng chẳng ai thích cái tiếng bị điều tra, kể cả viên điều tra có cho mình trắng án đi nữa!”
Cô nhớ là ông ta thậm chí còn khen ngợi cô vì sự bình tĩnh và lòng dũng cảm. Với một cuộc điều tra thì như vậy là tốt lắm rồi. Và bà Hamilton cũng đối xử rất tốt với cô - chỉ có Hugo - nhưng cô sẽ không nhớ tới Hugo nữa!
Bỗng nhiên, người cô run lên bất chấp cái nóng bức trong toa tàu và cô ước gì mình không phải đi ra biển. Hình ảnh ấy lại hiện rõ trong tâm trí cô. Đầu của Cyril, nhấp nhô lên xuống, cố bơi ra chỗ tảng đá… Lên xuống - lên xuống… Và cô nữa, bơi những sải dễ dàng điêu luyện ở phía sau - rẽ mình qua làn nước trong lúc cô biết, quá đỗi chắc chắn, rằng cô sẽ không tới kịp…
Biển - với màu xanh sâu thẳm ấm áp của nó - những buổi sáng nằm dài trên bãi biển - Hugo - Hugo, người từng nói yêu cô…
Cô không được nghĩ tới Hugo nữa…
Cô mở mắt và cau mày xem xét người đàn ông ngồi đối diện. Đó là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt ngăm nâu, đôi mắt sáng màu hơi gần nhau và một vẻ ngạo mạn, gần như độc ác nơi khóe miệng.
Cô thầm nghĩ: ‘Hẳn là anh ta đã từng đến những nơi hay ho trên thế giới và đã chứng kiến nhiều thứ thú vị…’
Chỉ với một lần liếc mắt nhanh như chớp, Philip Lombard đã có thể đưa ra kết luận về cô gái ngồi đối diện và tự nhủ: ‘Khá hấp dẫn - có vẻ một cô giáo dạy học đây.’
Một khách hàng điềm tĩnh, anh tiếp tục đoán - và là một người luôn làm
chủ tình thế - dù trong tình trường hay chiến trường. Anh thà khiêu chiến với cô ta còn hơn…
Anh cau mày. Không, phải dừng ngay mấy thứ đó. Đây là chuyện làm ăn. Anh phải tập trung vào công việc của mình.
Mà chính xác thì là việc gì cơ chứ, anh thắc mắc? Cái tên Do Thái nhỏ thó đó tỏ vẻ rõ là bí hiểm.
“Anh cầm lấy mà không thì thôi, đại úy Lombard.”
Anh trầm ngâm nói: “Một trăm đồng gui-nê, hử?”
Anh nói với cái giọng bình thường như thể một trăm gui-nê chẳng hề quan trọng mấy với mình. Một trăm gui-nê trong lúc anh chỉ còn đủ tiền cho đúng một bữa tử tế cuối cùng! Dù vậy, anh chắc mẩm rằng tên Do Thái nhỏ thó nọ chẳng hề bị anh qua mặt - đó chính là thứ đáng ghét nhất về dân Do Thái, chẳng ai lừa được chúng trong chuyện tiền nong bao giờ - chúng biết hết cả!
Giữ giọng bình thường, anh tiếp: “Và ông không thể cho tôi biết thêm gì hết sao?”
Isaac Morris lắc cái đầu nhẵn nhụi của lão một cách tự tin. “Không, thưa đại úy Lombard, mọi thứ chỉ có vậy. Ông chủ tôi biết rõ rằng ngài có tiếng giỏi xoay xở trong tình thế khó khăn. Tôi được giao việc gửi lại cho ngài một trăm đồng gui-nê và bù lại ngài sẽ đến Sticklehaven, ở Devon. Ga gần đây nhất là Oakbridge, sẽ có người đợi ở đó để đưa ngài đến Sticklehaven và ngài sẽ tới Đảo Chiến Binh bằng thuyền máy. Chủ nhân của tôi sẽ tiếp đón ngài tại đó.”
Lombard đột ngột ngắt lời: “Tôi phải ở đó trong bao lâu?” “Khoảng một tuần là cùng.”
Vân vê hàng ria của mình, đại úy Lombard nói: “Ông hiểu là tôi sẽ không làm điều gì - bất hợp pháp chứ?” Vừa nói anh vừa ném một ánh nhìn sắc lẻm về phía đối diện. Một thoáng cười mỉm lướt qua khóe miệng đặc trưng Do Thái của lão Morris khi lão nghiêm trang trả lời: “Nếu có bất cứ điều gì bất hợp pháp, tất nhiên ngài hoàn toàn có quyền từ chối.”
Lão già nhỏ thó khốn kiếp, cười với lại cợt! Cứ như thể lão đã biết tỏng Lombard trước đây vốn chẳng coi pháp luật ra gì. Miệng Lombard khẽ mở ra một cái nhếch mép.
Ờ đấy, anh cũng đã có một đôi lần phạm pháp! Nhưng mọi việc rồi đều êm xuôi cả! Chẳng việc gì mà anh phải giới hạn bản thân hết… Không, anh chẳng cần biết đến giới hạn nào sất. Anh bắt đầu hình dung đến cái cảnh tận hưởng vui thú trên Đảo Chiến Binh ra sao…
Trong một toa dành cho người không hút thuốc, cụ bà Emily Brent đang ngồi thẳng thớm như thường lệ. Cụ đã sáu mươi lăm tuổi và cụ không hề chấp thuận tác phong uể oải. Cha của cụ, một Đại tá thuộc lớp người đi trước, từng rất chú trọng về phong thái nói chung.
Lớp trẻ ngày nay thì lại dễ dãi một cách đáng xấu hổ - từ điệu bộ cho đến tất tần tật mọi việc khác…
Được bao bọc trong vầng hào quang của sự chỉn chu và những nguyên tắc bất di bất dịch, cụ Brent ngồi trong toa khách hạng ba chật chội và đánh bại cái nóng nực cũng như sự bất tiện mà nó mang lại. Thiên hạ ngày nay thì rối rít loạn xị lên vì toàn những chuyện không đâu! Nào là muốn tiêm thuốc tê trước khi nhổ răng - nào là uống thuốc ngủ nếu chẳng may mất ngủ - họ muốn những chiếc ghế bành thoải mái với gối đệm và lũ con gái thì
xõa xượi nằm thượt ra đến hở cả nửa người ở những bãi biển hè. Cụ Brent mím chặt môi. Cụ như muốn nhớ lại một vài cá nhân tiêu biểu làm ví dụ.
Cụ nhớ lại kỳ nghỉ hè năm ngoái. Dù thế, năm nay sẽ khác hoàn toàn. Đảo Chiến Binh…
Cụ rà lại bức thư mà cụ đã đọc đi đọc lại nhiều lần trong đầu. Kính gửi bà Brent,
Mong là bà vẫn chưa quên tôi chứ? Chúng ta đã gặp nhau ở nhà nghỉ Belhaven một ngày tháng Tám mấy năm về trước, và thật có duyên khi chúng ta có nhiều điểm chung.
Tôi cũng đang mở một nhà khách của riêng mình tại đây, trên một hòn đảo ngoài khơi vịnh Devon. Thiết nghĩ sẽ thật là dễ chịu khi có một nơi như thế này, với thức ăn ngon lành và một người đáng kính ghé thăm. Sẽ không có cảnh khỏa thân hay cái loa nhạc nào vào nửa đêm nữa. Tôi rất lấy làm hân hạnh nếu bà có thể thu xếp được và đến đây vào kỳ nghỉ hè, tại Đảo Chiến Binh - hoàn toàn miễn phí - như một vị khách của tôi. Liệu đầu tháng Tám có thích hợp với bà không? Có lẽ là ngày mùng 8 chăng?
Thân mến,
U.N.O
Tên gì kia nhỉ? Chữ ký hơi khó nhìn. Cụ Emily Brent nôn nóng nghĩ: “Nhiều người có chữ ký không thể nhìn nổi.”
Cụ cố tua lại những người cụ đã gặp ở Belhaven trong óc. Cụ từng ở đó trong hai mùa hè liên tiếp. Có một người phụ nữ trung niên nào đó rất tốt -
bà - bà - ôi bà ta tên gì vậy nhỉ? Cha của bà ấy từng là một vị linh mục. Và còn một bà Olton - Ormen - không, chắc chắn là Oliver! Đúng rồi - là Oliver.
Đảo Chiến Binh! Có biết bao nhiêu là tin báo đưa về Đảo Chiến Binh rồi - tin gì đó về một ngôi sao điện ảnh - hay là một tay triệu phú người Mỹ vậy nhỉ?
Tất nhiên là những nơi như vậy thường bị bán giá rẻ - những hòn đảo đâu có hợp gu tất cả mọi người. Thiên hạ nghĩ rằng nó lãng mạn nhưng đến khi ở đó thì họ lại nhận ra chỉ có mỗi sự bất tiện và rồi lại sẵn lòng rao bán.
Cụ Emily Brent thầm nhủ: “Gì thì gì mình vẫn sẽ có được một kỳ nghỉ miễn phí ở đó.”
Với số tiền lương ngày càng giảm và bao nhiêu cổ tức chưa được trả hết, thì dịp này rất đáng để suy xét. Chỉ ước gì cụ có thể nhớ thêm đôi chút về bà - hay cô - Oliver kia?
Tướng Macarthur nhìn ra ngoài cửa sổ toa xe lửa. Tàu vừa tới địa phận hạt Exeter, nơi ông cần đổi chuyến. Thật đáng nguyền rủa, mấy cái xe lửa chậm lề mề này! Cái Đảo Chiến Binh đó, tính theo đường chim bay thì lấy gì làm xa cơ chứ.
Ông còn đang lờ mờ về cái tên Owen nọ. Hình như là một người bạn của Spoof Leggard - và của Johnnie Dyer.
“- Một, hai người bạn nối khố của ông cũng đang trên đường tới - để ôn lại kỷ niệm xưa.”
Chà, ông lấy làm thích thú khi trò chuyện về quá khứ. Gần đây ông còn có cảm giác như thể đám bạn cũ đang cố tình lánh mặt mình vậy. Tất cả là
vì cái tin đồn nhố nhăng ấy! Thề có đấng tối cao, mọi chuyện đã quá nặng nề - đã gần ba mươi năm rồi! Chắc là cái thằng Armitage đã phun ra. Thằng ranh khốn kiếp! Thằng nhãi đó biết cái gì cơ chứ? Ờ thì cũng chẳng mấy tốt lành gì khi cứ nghĩ đi nghĩ lại mấy cái chuyện này! Người ta cũng thi thoảng tưởng tượng ra các thứ - như việc có một tên đang nhìn mình chằm chằm chẳng hạn.
Hòn Đảo Chiến Binh này, chà, ông rất muốn được thấy nó. Đã có quá nhiều tin đồn thổi rồi. Hình như còn có cái lời đồn gì đó về việc Hải quân Anh hay Bộ Quốc phòng hay Không quân đã nắm quyền sở hữu hòn đảo.
Tay triệu phú trẻ người Mỹ nọ, Elmer Robson, mới thực là người xây ngôi nhà. Cả hàng ngàn đô-la, thiên hạ đồn vậy. Toàn xa xỉ trần tục… Exeter! Còn những một tiếng nữa! Mà ông thì không muốn phải chờ đợi. Ông muốn đi tiếp luôn…
Bác sĩ Armstrong còn đang lái chiếc xe hiệu Morris qua vùng đồng bằng Salisbury. Ông đang rất mệt mỏi… Thành công cũng có giá của nó. Còn nhớ cái thời ông phải ngồi trong văn phòng tư vấn trên phố Harley, ăn mặc chỉnh tề, vây quanh toàn là những thứ máy móc hiện đại nhất với đồ nội thất đắt tiền nhất và ông chờ đợi - ông chờ cho qua những ngày tháng trống rỗng để đến cái ngày mạo hiểm đổi lấy thành công hoặc thất bại…
Cuối cùng thì cũng thành công! Ông đã gặp may! Tất nhiên là may mắn cộng thêm cái tài của ông nữa. Ông là một người lành nghề - nhưng thế chưa đủ để thành đạt. Người ta cần có cả vận may nữa. Và ông đã có nó! Một chẩn đoán chính xác, một vài bà bệnh nhân cũ mang ơn mình - loại phụ nữ có tiền có thế - và thế là tin tức bay xa. “Bà thử gặp ông Armstrong
xem - một người đàn ông khá trẻ - nhưng rất thông minh - những năm qua Pam đã gặp đủ mọi loại người và ông sẽ giải quyết mọi vấn đề ngay tức khắc!” Mọi chuyện đã diễn ra như thế.
Và giờ thì bác sĩ Armstrong chắc chắn đã đến đích. Ngày làm việc bận kín lịch, ông ít khi có thì giờ rảnh rang. Và thế là, vào buổi sáng tháng Tám ấy, ông cảm thấy vui mừng vì được rời khỏi London để tận hưởng vài ngày nghỉ trên hòn đảo ngoài khơi Devon kia. Mà cũng chẳng phải là kỳ nghỉ gì cho cam. Bức thư mà ông nhận được khá tối nghĩa về khoản nội dung, nhưng chẳng có gì là không rõ ràng về tờ séc kèm theo hết. Một khoản tiền khổng lồ. Nhà Owen nọ chắc phải bơi trong tiền. Nhưng cũng có vẻ hơi khó nhằn, một ông chồng lo lắng cho sức khỏe của bà vợ và muốn có một bản báo cáo tình trạng sức khỏe của bà ta miễn sao bà ấy không hay biết. Rốt cuộc bà vợ kia sẽ không hề biết là có một bác sĩ tới khám. Thần kinh của bà ta…
Lại thần kinh nữa! Đôi mày của ông bác sĩ nhướn lên. Đúng là đàn bà và thần kinh của họ! Thì, nó cũng chỉ tốt cho chuyện làm ăn thôi. Đến nửa số phụ nữ đến gặp ông để tư vấn chẳng bị làm sao ngoài chứng chán chường, nhưng họ cũng chẳng mấy cảm kích khi nghe nói vậy đâu! Và thế là lại phải tìm ra một cái gì đó khác.
“Một tình trạng hơi bất thường của (một từ dài ngoằng nào đó) nhưng chẳng có gì nghiêm trọng - chỉ cần làm đúng là được. Một phương pháp chữa trị đơn giản thôi.”
Thực tình, thuốc men hầu hết cũng là thứ tạo niềm tin cho người ta. Và ông lại có một cách cư xử đàng hoàng - ông có thể gây niềm tin và gieo hy vọng.
May mắn thay ông cũng đã bình tĩnh lại sau cái chuyện mười - không,
mười lăm năm trước. Xém chút nữa là gay to rồi! Ông đã đến rụng rời chân tay. Cú sốc đã kéo ông trở lại. Ông cai hẳn rượu từ đó. Thề có đức Chúa trời, chỉ một chút nữa thôi là mọi thứ đã kết thúc…
Một tiếng còi với sức tàn phá xé tai phát ra từ một chiếc siêu xe thể thao Dalmain vừa vượt qua ông với tốc độ tám mươi dặm một giờ. Bác sĩ Armstrong xém nữa là lao vào hàng rào bên đường. Lại là mấy thằng ranh con hay phá phách khắp nơi. Ông ghét cay ghét đắng chúng. Đó cũng lại là một lần suýt chết. Thằng ranh mất dạy!
Tony Marston, trong lúc phóng xe ầm ầm tới Mere, nghĩ thầm: “Cái số xe hơi lết trên đường nhiều đến phát kinh lên được. Lúc nào cũng có cái gì đó ngáng đường. Đã thế lại còn nằm chềnh ềnh giữa đường nữa chứ! Dù gì thì lái xe ở Anh cũng thật đáng nản… không như ở Pháp, anh có thể phóng thoải mái…”
Có nên dừng lại làm ly rượu không nhỉ, hay phóng tiếp? Còn một đống thời gian mà! Chỉ còn có hơn một trăm dặm chút xíu. Anh sẽ mua rượu gin và ít bia gừng uống. Ngày gì mà nóng chảy cả mỡ!
Chắc trên cái đảo đó cũng có mấy thứ hay ho - nếu thời tiết đẹp lâu. Mà mấy người nhà Owen này là ai, anh thắc mắc? Chắc giàu nứt đố đổ vách. Tay bán hàng rất rành đánh hơi chuyện mấy người như thế. Tất nhiên, lão phải làm vậy, tội nghiệp lão, còn chẳng có một xu dính túi…
Hy vọng họ sẽ đãi khách với rượu ngon. Chẳng biết đâu mà lần với mấy tên tự làm ra tiền chứ không phải đẻ ra đã có tiền. Đáng tiếc là mẩu tin Gabriella Turl mua Đảo Chiến Binh lại không đúng. Anh thích được giao du với đám diễn viên nổi tiếng hơn.
Đành thôi, chắc ở đó cũng phải có mấy em chứ…
Bước ra khỏi khách sạn, anh vươn vai, ngáp một cái, ngước nhìn bầu trời xanh trên cao và trèo vào chiếc xe Dalmain.
Phải đến vài cô gái nhìn anh đầy ngưỡng mộ - thân hình cân đối cao một mét tám mươi hai, mái tóc óng mượt, khuôn mặt rám nắng, và đôi mắt xanh biếc vô cùng.
Anh nhấn ga rồ máy rồi lướt qua con phố hẹp. Người già và mấy đứa bé bán rong phải nhảy dựng lên tránh cho an toàn. Bọn trẻ thì dõi theo với ánh mắt hâm mộ.
Anthony Marston đắc thắng tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Ông Blore lúc này đang trong một chuyến tàu chậm chạp đến Plymouth. Ngoài ông ra chỉ còn một người nữa trong toa tàu, một cụ già từng đi biển với đôi mắt lèm nhèm. Hiện cụ già đã ngủ gật.
Ông Blore đang cẩn thận ghi chép vào quyển sổ nhỏ.
“Thế là đủ,” ông lẩm bẩm. “Emily Brent, Vera Claythorne, bác sĩ Armstrong, Anthony Marston, ông già thẩm phán Wargrave, Philip Lombard, tướng Macarthur, C.M.G., D.S.O. Người quản gia và vợ ông ta: ông bà Rogers.”
Ông gập quyển sổ lại rồi đút nó vào túi. Ông liếc nhìn phía góc toa tàu và người đàn ông đang ngủ.
“Có một trong tám rồi này,” ông Blore thẩm định một cách chính xác. Ông nhẩm lại mọi thứ trong đầu một cách cẩn thận đầy lương tâm. “Công việc chắc chẳng mấy khó khăn.” Ông nghiền ngẫm. “Khó mà
vuột tay vụ này được. Hy vọng nhìn mình không đến nỗi nào.” Nghĩ rồi người đàn ông đứng dậy, lo lắng soi mình qua tấm kính. Khuôn mặt phản chiếu trong gương có vẻ đặc trưng của lính với hàng ria mép. Chẳng có mấy biểu cảm ở gương mặt ấy. Đôi mắt xám lạnh và hơi gần nhau.
“Có thể là một thiếu tá,” ông Blore nói. “Không, mình quên béng. Có một lão già ở đó cũng từng trong quân đội. Lão sẽ nhận ra mình ngay.” “Nam Phi,” ông Blore thốt lên. “Phải rồi! Chẳng một ai trong số đó có bất cứ mối liên hệ nào với Nam Phi, và mình vừa đọc mẩu tin du lịch kia nên có thể nói trôi chảy được.”
Cũng thật may là có đủ loại thuộc địa trên đời. Và một người trở về từ Nam Phi như ông Blore cảm thấy mình có thể hòa nhập với bất cứ giai tầng nào chẳng chút khó khăn.
Đảo Chiến Binh. Ông nhớ nó từ khi còn là một đứa bé con. Đủ loại đá nhuốm vị biển vây quanh bởi hải âu - nằm cách bờ biển khoảng một dặm. Thật là một ý tưởng nực cười khi đến đó xây nhà! Thời tiết ở đó mới tệ làm sao! Nhưng mấy tay triệu phú cũng nhiều khi bốc đồng! Cụ già ở trong góc lúc này đã tỉnh dậy và nói: “Chẳng bao giờ lường trước được biển cả đâu - không bao giờ hết!”
Ông Blore nói dỗ dành: “Đúng thế. Không ai lường được.” Cụ già nấc lên hai lần, tỏ ra rầu rĩ: “Sắp có cơn cớ đây.”
Ông Blore nhẹ nhàng chỉnh lại: “Đâu, không phải đâu cụ ơi, hôm nay đẹp trời mà.”
Cụ già giận dữ: “Có một cơn giông mà. Tôi có thể ngửi được nó.” “Chắc cụ nói đúng.” Ông Blore nói hòa giải.
Đoàn tàu dừng lại ở một trạm ga và cụ già loạng choạng đứng dậy. “Tới nơi tôi xuống rồi.” Cụ quờ tay phải ô cửa sổ. Ông Blore bèn giúp cụ.
Cụ già đứng nơi cánh cửa, giơ bàn tay chào trang nghiêm và chớp chớp đôi mắt kèm nhèm của cụ.
“Hãy cẩn trọng và cầu nguyện,” cụ nhắc nhở. “Cẩn trọng và cầu nguyện. Ngày xét xử cuối cùng đã cận kề rồi.”
Cụ nhào người khỏi cánh cửa ngã xuống nền sân ga. Vẫn tư thế nằm như vậy, cụ ngước mắt nhìn ông Blore và nói với giọng vô cùng trịnh trọng: “Tôi đang nói về anh đó, chàng trai trẻ ạ. Ngày phán xử cuối cùng đến gần rồi.”
Ngồi lặng thinh nơi chỗ ngồi của mình, ông Blore thầm nhủ: Lão còn gần ngày tận thế hơn mình ấy chứ!
Nhưng, kỳ thực mà nói, ông ta đã lầm…
Chương 2
Đứng ngoài ga Oakbridge lúc này là một nhóm người có vẻ phân vân giây lát. Phía sau họ là người khuân vác đồ với đống hành lý. Một trong số đó gọi: “Jim!”
Một người lái xe tắc-xi bước đến.
“Mọi người đến Đảo Chiến Binh phải không ạ?” Anh ta hỏi với giọng Devon nhè nhẹ. Có bốn giọng trả lời - và gần như ngay lập tức họ quay ra nhìn nhau vẻ giấu giếm.
Người lái xe trả lời, quay sang ngài thẩm phán Wargrave vì ông là một người cao tuổi trong nhóm: “Ở đây có hai chiếc xe, thưa ông. Một chiếc lại phải đợi chuyến tàu chậm từ ga Exeter - chỉ năm phút thôi - vì có một quý ông đang trên chuyến đó. Có lẽ một người trong số các vị không thấy phiền nếu phải đợi chứ? Như thế mọi người sẽ được thoải mái hơn.”
Vera Claythorne, với ý thức rõ ràng về vị trí thư ký của mình, cất tiếng ngay.
“Tôi sẽ đợi,” cô cho biết, “nếu mọi người đều muốn đi ngay?” Cô nhìn ba người còn lại, cái nhìn và giọng nói của cô có chút gì đó như ra lệnh do cô đã quen lối ra oai trong nghề của mình. Có thể cô đã từng chỉ đạo cho lũ trẻ được chơi séc quần vợt nào trong trường.
Cụ Brent nói một cách cứng nhắc: “Cảm ơn cô,” rồi khom người vào một chiếc tắc-xi mà cửa đã được người lái xe mở sẵn. Thẩm phán Wargrave
theo sau cụ.
Đại úy Lombard bèn nói: “Tôi sẽ ở lại đợi với quý cô…”
“Claythorne,” Vera đáp lời.
“Tên tôi là Lombard, Philip Lombard.”
Mấy người khuân đồ lúc này đang xếp hành lý vào xe tắc-xi. Bên trong, ông thẩm phán Wargrave nói với vẻ thận trọng pháp lý đúng mực. “Thời tiết thật là đẹp làm sao.”
Cụ Brent đáp lời: “Đúng là đẹp thật.”
Một quý ông thật nổi bật, cụ nghĩ. Hoàn toàn khác với những loại người thường thấy ở những nhà nghỉ gần biển. Rõ ràng là bà hay cô Oliver gì đó có những mối quan hệ khá tốt. Ông thẩm phán Wargrave hỏi: “Bà có biết nhiều về nơi này không?”
“Tôi đã từng đến Cornwall và Torquay, nhưng đây là lần đầu tiên tôi đặt chân tới Devon.”
Ông thẩm phán nói: “Tôi cũng chưa biết nhiều về nơi này cho lắm.” Chiếc tắc-xi bắt đầu lăn bánh.
Người lái chiếc xe tắc-xi thứ hai liền hỏi: “Cô có muốn ngồi đợi ở phía trong không?”
Vera đáp một cách dứt khoát: “Không hề.”
Đại úy Lombard mỉm cười. Anh nói: “Chỗ bức tường đầy nắng kia nhìn hấp dẫn hơn. Trừ khi cô muốn vào trong trạm ga?”
“Không, thực tình. Tôi thấy rất vui vì thoát được khỏi chiếc tàu chật chội đó.”
Anh trả lời: “Đúng là đi bằng tàu hỏa trong thời tiết như thế này hơi khó chịu thật.”
Vera đáp kiểu mẫu mực: “Tôi hy vọng nó được lâu, ý tôi là thời tiết ấy. Cái nắng của nước Anh thật là không thể tin được.”
Lombard liền hỏi một câu không được độc đáo cho lắm: “Cô từng đến đây chưa?”
“Chưa, tôi chưa bao giờ tới đây.” Cô mau lẹ nói thêm, với chủ đích làm rõ vị trí của mình ngay từ đầu. “Tôi thậm chí còn chưa được gặp bà chủ của mình.”
“Bà chủ của cô ư?”
“Đúng vậy, tôi là thư ký riêng của bà Owen.”
“Ồ, tôi hiểu rồi.” Điệu bộ của anh liền có chút thay đổi. Giọng anh trở nên thêm chắc chắn - và cởi mở hơn. Anh nói: “Thế có lạ không?” Vera cười.
“Ồ, không, tôi không nghĩ vậy. Vì cô thư ký trước của bà ấy đột nhiên bị ốm và phải nhờ đến một công ty môi giới để tìm người thay thế và họ đã cử tôi.”
“Ra là vậy. Lỡ đến mà cô không thích công việc đó thì sao?” Vera lại cười.
“À, đó chỉ là công việc tạm thời thôi - một công việc trong kỳ nghỉ. Tôi có việc ổn định ở một trường dành cho các bé gái. Thực ra thì, tôi cũng khá hồi hộp khi đến Đảo Chiến Binh này. Có quá nhiều tin trên báo mà. Chẳng phải hòn đảo đó rất thú vị sao?”
Lombard đáp: “Tôi cũng không rõ. Tôi chưa tới đó bao giờ.” “Ồ, thật thế sao? Nhà Owen hẳn rất quan tâm tới nó, tôi nghĩ vậy. Họ như thế nào? Hãy kể tôi nghe đi.”
Lombard nghĩ: Quái lạ, thế này - đúng ra thì mình đã phải gặp họ rồi chứ
nhỉ, hay sao? Anh đáp nhanh: “Có một con vò vẽ đang bò trên tay cô kìa. Không - cứ giữ yên như thế.” Đoạn anh vờ ngập ngừng như thể đúng thế thật. “Được rồi. Nó bay đi rồi!”
“Ôi, cảm ơn anh. Hè này có nhiều ong quá.”
“Vâng, tôi cho là do cái nóng. Mà chúng ta đang đợi ai nhỉ, cô biết không?”
“Tôi không biết chút gì cả.”
Một tiếng còi hụ ầm ĩ vang lên từ chiếc xe lửa đang tiến đến. Lombard nói: “Tàu hỏa đến rồi kìa.”
Một người đàn ông cao ráo ra dáng lính xuất hiện chỗ cánh cửa nhà ga. Mái tóc bạc của ông được miết xẹp xuống và ông ta có một hàng ria trắng cắt tỉa gọn gàng.
Người mang hành lý cho ông, có vẻ loạng choạng dưới sức nặng của chiếc va-li da nặng trịch, hướng về phía Vera và Lombard. Vera bước tới với vẻ đáng tin cậy. Cô lên tiếng: “Tôi là thư ký của bà Owen. Đang có một chiếc xe đợi chúng ta rồi.” Cô nói thêm, “Còn đây là anh Lombard.”
Đôi mắt người đàn ông sở hữu thứ màu xanh biển nhạt, sắc bén mặc cho vết thời gian để lại, nhìn Lombard ước chừng. Trong vài giây, một vẻ phán xét hiện rõ - nếu có ai đó nhận ra được.
“Nhìn khá điển trai. Nhưng có gì đó không ổn…”
Ba người liền bước lên chiếc xe tắc-xi đợi sẵn. Chiếc xe đi qua con phố nhỏ yên ắng của Oakbridge và đi tiếp khoảng một dặm trên đường cái Plymouth, rồi lao vào một mê cung của những con đường ngoằn ngoèo, dốc, xanh rờn và hẹp. Tướng Macarthur mở lời: “Tôi không hề biết gì về
Devon cả. Tôi ở bên đông Devon - giáp ngay với Dorset ấy.” Vera nhìn nhận: “Chỗ này thật là đẹp. Những ngọn đồi với đất đỏ và tất cả mọi thứ đều xanh, nhìn lại màu mỡ nữa.”
Philip Lombard nhận xét: “Chỉ có điều nó hơi cô lập… Tôi thích một nơi hướng ngoại hơn. Thế thì mới biết được mọi thứ diễn ra xung quanh…” Tướng Macarthur nói với anh: “Chắc cậu cũng có đi vài nơi trên thế giới rồi chứ?”
Lombard nhún vai khiêm nhường: “Cũng từng đi chỗ này chỗ khác, thưa ông.”
Anh nghĩ thầm: “Thể nào ông ta cũng hỏi xem mình có đủ tuổi đi lính hồi trước không cho mà xem. Mấy ông lính già toàn thế cả.” Nhưng tướng Macarthur không hề đả động đến cuộc chiến.
Xe đi lên một quả đồi dốc rồi xuống theo lối dích dắc đến Sticklehaven - chỉ có mỗi vài ngôi lán nhỏ với một hay hai chiếc thuyền đánh cá nhỏ phơi mình trên bãi biển.
Nhờ ánh sáng hoàng hôn chiếu rọi, lần đầu tiên họ thấy Đảo Chiến Binh nổi lên giữa biển hướng nam.
Vera thốt lên với vẻ ngạc nhiên: “Ôi, còn xa lắm.”
Cô đã hình dung hòn đảo khác hoàn toàn, gần với bờ, với chiếc vương miện là một ngôi nhà trắng xinh đẹp. Nhưng từ đây không thể thấy một ngôi nhà nào, chỉ rõ bóng của mấy tảng đá nom na ná như một cái đầu khổng lồ. Ở nó toát lên một vẻ gì đó hiểm trở. Cô khẽ rùng mình.
Bên ngoài nhà khách nhỏ Bảy Sao là ba người đang ngồi. Bóng lưng gù
gù của ông thẩm phán, dáng thẳng thớm của cụ Brent, và một người thứ ba - một người đàn ông to lớn thô kệch bước tới và tự giới thiệu: “Chúng tôi nghĩ là nên đợi các vị,” ông ta nói. “Đi liền một lúc cho tiện. Xin tự giới thiệu. Tên tôi là Davis. Nơi sinh ư, nơi chôn rau cắt rốn của tôi là Nam Phi, ha ha!”
Lão bật cười sảng khoái.
Ông thẩm phán Wargrave nhìn lão với ánh mắt lộ rõ sự ác cảm. Nhìn ông như thể đang muốn yêu cầu cả tòa án phải giải tán vậy. Cụ Emily Brent thì không chắc liệu mình có thích mấy dân thuộc địa hay không.
“Có ai muốn làm một nhấp trước khi nhổ neo không?” lão Davis hỏi một cách hiếu khách.
Không ai hưởng ứng lời đề nghị này, nên lão Davis quay ra và giơ ngón tay nói.
“Thế thì không nên chậm trễ nữa. Ông chủ và bà chủ tốt bụng của chúng ta đang chờ.” Lão giục.
Dường như lão Davis đã nhận ra sự kìm nén kỳ lạ bao trùm lên đoàn khách. Như thể việc nhắc tới ông bà chủ nhà làm mọi người tê liệt vậy. Đáp lại cái giơ tay ra hiệu của lão Davis, một người đàn ông vốn đang dựa lưng vào một bức tường gần đó liền rời chỗ của mình và tiến đến phía họ. Dáng đi lắc lư của ông như tuyên bố rằng ông là một người chuyên đi biển. Khuôn mặt ông ta dãi dầu mưa nắng với đôi mắt đen như đang cố giấu điều gì. Ông ta cất lên chất giọng nhẹ nhàng của xứ Devon. “Quý bà và quý ông đã sẵn sàng ra đảo chưa ạ? Thuyền đang đợi rồi. Còn có hai quý ông nữa đang trên đường tới đây bằng xe hơi nhưng ngài Owen đã bảo tôi không cần phải đợi họ, vì họ có thể sẽ đến bất cứ lúc nào.”
Đoàn khách lên thuyền. Người hướng dẫn chỉ cho họ qua một cái cầu tàu nhỏ bằng đá. Nằm bên cạnh nó là một chiếc thuyền máy.
Cụ Emily Brent nhìn nhận: “Chiếc thuyền này nhỏ quá.”
Người chủ chiếc thuyền trả lời đầy thuyết phục: “Con thuyền này rất tốt đó, thưa quý bà. Bà còn có thể đi nó đến Plymouth chỉ trong chớp mắt.” Ông thẩm phán Wargrave nói sắc lẻm: “Chúng tôi khá đông người mà.” “Nó còn chở được gấp đôi thế này nữa, thưa ông.”
Philip Lombard nói với giọng xoa dịu dễ dãi: “Cũng ổn mà. Thời tiết quá tốt rồi - không có sóng biển.”
Với vẻ hơi nghi ngờ, cụ Brent để người khác giúp mình lên thuyền. Những người còn lại thì theo sau. Không khí đoàn khách như vẫn có chút dè chừng. Như thể mỗi người trong số họ đều bị lúng túng trước những người còn lại.
Mọi người vừa chuẩn bị khởi hành thì người hướng dẫn đột ngột dừng lại, với chiếc neo thuyền trong tay.
Cuối con dốc dẫn vào làng có một chiếc xe đang đi tới. Một chiếc xe mạnh mẽ, tuyệt đẹp tới độ sự xuất hiện của nó không khác nào một bóng ma. Ngồi sau vô-lăng là một người đàn ông trẻ, mái tóc nâu hất ngược vì gió. Trong ánh chiều anh ta giống hệt một vị thần trẻ, chứ không còn là một người đàn ông nữa, một vị thần anh hùng nào đó bước ra từ thần thoại phương Bắc.
Anh ta nhấn còi và một tiếng kêu vang dội vọng lại từ những phiến đá trên vịnh.
Đó là một giây phút phi thường. Trong giây lát ấy, Anthony Marston có vẻ như bất tử. Kể từ đó có tới hơn một người trong đoàn khách nhớ tới
khoảnh khắc ấy.
Fred Narracott ngồi bên động cơ mà nghĩ về đoàn khách kỳ cục này. Chẳng hề giống như ông tưởng tượng về đám khách khứa của nhà Owen chút nào. Ông đã mong đợi một đoàn khách toàn những người sang trọng. Những quý bà váy áo là lượt và những quý ông trong bộ trang phục du thuyền với vẻ giàu có và quan trọng.
Chẳng bù cho đám khách của ông Elmer Robson. Một nụ cười mờ nhạt hiện trên miệng Fred Narracott khi ông nhớ đến đám khách của tay triệu phú nọ. Đó mới gọi là tiệc tùng - và cả những loại rượu mà họ đã dùng nữa chứ!
Cái ông Owen này hẳn phải là một quý ông khác thường. Thật buồn cười làm sao, Fred nghĩ, khi chưa một lần ông được thấy ông Owen - hay bà vợ của ông ta nữa. Chưa bao giờ ông ta đặt chân xuống đây cả. Tất cả mọi yêu cầu hay việc tiền nong đều do ông Morris lo toàn bộ. Lệnh bao giờ cũng rất rõ ràng và việc chi trả thì luôn mau lẹ, nhưng vẫn kỳ lạ thế cả thôi. Mấy bài báo có viết một chuyện gì đó bí ẩn về ông Owen. Ông Narracott cũng thấy như thế.
Hay có khi cuối cùng lại là cô Gabrielle Turl mua đảo nhỉ. Nhưng giả thuyết đó của ông bị gạt đi khi ông thăm dò đoàn khách. Không phải mấy người này rồi - chẳng ai trong số này có vẻ liên quan tới một ngôi sao điện ảnh cả.
Ông rút ra kết luận một cách khách quan.
Một bà cô già - thuộc dạng khó tính - ông cũng thừa biết kiểu người này. Ông dám cá là bà ta luôn ra lệnh này nọ. Ông lính già kia - có vẻ đúng thực
là lính. Cô gái nom ưa nhìn - nhưng chỉ tầm tầm, chứ không phải loại rạng rỡ - chẳng có vẻ gì là Hollywood về cô ta cả. Còn người đàn ông thô kệch xởi lởi kia - ông ta không phải là một quý ông thực thụ. Một thương nhân đã nghỉ hưu, thế mới đúng, Fred Narracott nghĩ. Quý ông còn lại, nom gầy đói với đôi mắt nhanh nhạy, là một người trông lạ lùng, đúng thế. Cũng có khi anh ta lại liên quan tới mấy tấm ảnh đó.
Không, chỉ có mỗi một người có vẻ thỏa mãn trên con thuyền. Người đàn ông cuối cùng, người đã tới bằng chiếc xe hơi (xe gì thế chứ! Loại xe đó trước nay chưa ai thấy ở Sticklehaven cả. Chắc một chiếc như thế phải tốn bộn tiền). Anh ta mới hợp với chốn này. Loại đẻ ra đã có tiền. Nếu đám khách khứa toàn những người như vậy… thì ông còn hiểu được…
Chuyện này nghĩ đi nghĩ lại đều thấy lạ - tất cả mọi việc đều kỳ lạ - rất kỳ lạ…
Con thuyền chòng chành gần đá. Cuối cùng thì ngôi nhà cũng đã lọt vào tầm nhìn. Phía nam hòn đảo lại khác biệt hoàn toàn. Sườn dốc phía đó thoai thoải trải nhẹ đến biển. Căn nhà quay về hướng nam - thấp và vuông vắn nom hiện đại với những ô cửa sổ tròn cho ánh sáng ùa vào.
Một ngôi nhà thú vị - một ngôi nhà đúng như đã mong đợi! Fred Narracott tắt động cơ, mũi thuyền chĩa nhẹ vào khoảng bến giữa hai tảng đá.
Philip Lombard sắc sảo nói: “Hẳn cập bến sẽ rất khó nếu thời tiết xấu.” Fred Narracott nói vui vẻ: “Không lên được Đảo Chiến Binh nếu có gió hướng nam đâu. Đôi khi nó bị cô lập phải đến một tuần hoặc hơn.” Vera Claythorne nghĩ: “Đồ ăn thức uống chắc sẽ khó khăn. Đấy là thứ tệ
nhất ở một hòn đảo. Tất cả mọi vấn đề trong nhà đều đáng lo nghĩ cả.” Con thuyền kêu kèn kẹt khi va phải đá. Fred Narracott nhảy khỏi thuyền rồi cùng Lombard giúp mọi người lên bờ. Narracott buộc thuyền vào mỏm đá. Rồi ông dẫn đường lên những bậc thang tạc từ đá.
Tướng Macarthur thốt lên: “A! Chỗ này hay thật!”
Nhưng ông không có thấy dễ chịu mấy. Cái chỗ kỳ cục chết tiệt. Khi đoàn khách đã lên bậc thang và tới hiên nhà ở trên, tinh thần của họ phấn chấn hẳn. Nơi cánh cửa mở dẫn vào nhà là một người quản gia thực thụ đang chờ, vẻ nghiêm trang của ông ta như trấn an mọi người. Và rồi chính ngôi nhà lại trở nên thật thu hút, khung cảnh nhìn từ mái hiên trở nên thật kỳ vĩ…
Người quản gia tiến tới khẽ nghiêng người chào. Ông ta là một người cao ráo, mảnh khảnh, mái tóc màu xám và nom đáng kính, ông ta lên tiếng: “Mời quý khách đi đường này.”
Trong sảnh lớn, đồ uống đã được dọn sẵn đâu vào đấy. Hàng hàng những chai. Tinh thần của Anthony Marston được khích lệ thêm một chút. Anh ta vừa mới nghĩ là vụ này có vẻ kỳ dị. Chẳng có ai anh quen cả! Chẳng hiểu lão Badger nghĩ ngợi thế nào mà để cho anh gia nhập vào cái đám này? Dù vậy, rượu có vẻ tạm ổn. Lại còn có nhiều đá nữa.
Mà lão quản gia kia đang nói gì vậy nhỉ?
Ông Owen - chẳng may bị trễ - nên không thể đến đây trước ngày mai. Lời chỉ dẫn - tất cả mọi thứ họ muốn - nếu mọi người muốn về phòng riêng của mình?… Bữa tối sẽ bắt đầu lúc tám giờ…
Vera theo bà Rogers lên gác. Bà mở sẵn một cánh cửa phía cuối hành lang
và Vera bước vào căn phòng ngủ trông vui mắt, khung cửa sổ to mở rộng ra hướng biển và một khung cửa khác nhìn ra hướng đông. Cô thốt lên hài lòng.
Bà Rogers hỏi han: “Tôi mong là đã có đủ các thứ cô cần rồi chứ?” Vera nhìn quanh. Hành lý của cô đã được mang lên và dỡ ra. Một bên là cánh cửa dẫn vào phòng tắm với gạch lát màu xanh dương nhạt. Cô trả lời vắn tắt: “Vâng, tôi nghĩ là đủ rồi.”
“Cô chỉ cần rung chuông nếu cần bất cứ thứ gì.”
Bà Rogers có một chất giọng đơn điệu đều đều. Vera nhìn bà, không tránh được cảm giác tò mò. Trông bà ấy trắng bệch như ma vậy! Nom rất đứng đắn, với mái tóc hất ra sau gương mặt và chiếc váy đen. Đôi mắt kỳ lạ luôn đảo từ chỗ này sang chỗ khác.
Vera nghĩ bụng: “Bà ấy như thể đang sợ chính cái bóng của mình vậy.” Đúng thế rồi - sợ hãi!
Bà ta trông như một người phụ nữ luôn phải chịu nỗi sợ hãi cái chết… Một cơn rùng mình chạy dọc theo sống lưng của Vera. Bà ta sợ điều gì mới được cơ chứ?
Cô cất giọng một cách thoải mái: “Tôi là thư ký mới của bà Owen. Chắc bà cũng đã biết.”
Bà Rogers đáp lời: “Không, thưa cô, tôi không biết gì hết. Chỉ có danh sách một loạt các quý bà quý ông và những ai ở phòng nào thôi.” Vera tỏ ra thắc mắc: “Bà Owen không nhắc tới tôi ư?”
Hàng mi bà Rogers chớp chớp.
“Tôi chưa được gặp bà Owen - cho tới giờ. Chúng tôi mới tới từ hai ngày trước.”
Những con người bất thường, cái nhà Owen này, Vera thầm nhủ. Rồi cô nói to: “Vậy có những ai làm việc ở đây?”
“Chỉ có tôi và ông Rogers thôi, thưa cô.”
Vera nhíu mày. Tám người trong nhà - mười người nếu tính cả ông bà chủ - và chỉ có một cặp vợ chồng làm mọi việc cho họ.
Bà Rogers giải thích thêm: “Tôi giỏi việc bếp núc và Rogers thì thạo việc nhà. Tất nhiên là tôi cũng không ngờ lại có nhiều người tới đây như vậy.”
Vera hỏi tới: “Liệu ông bà có lo xuể không?”
“Ồ có chứ, thưa cô, tôi lo được. Nếu nhiều khách đến thường xuyên thì có lẽ bà Owen cũng giúp một tay.”
Vera đáp: “Tôi cũng đoán vậy.”
Bà Rogers quay trở ra. Đôi chân bước trên sàn không một tiếng động. Bà lướt ra khỏi căn phòng như một cái bóng.
Vera đến bên cửa sổ và ngồi lên bậu cửa. Cô hơi băn khoăn. Tất cả mọi thứ - dường như - đều có vẻ kỳ cục. Sự vắng mặt của ông bà Owen, bà Rogers tái nhợt như ma. Và đám khách nữa! Đúng thế, đám khách cũng kỳ cục nốt. Một tập hợp toàn những người kỳ lạ.
Vera nghĩ: “Phải chi mình được gặp nhà Owen từ trước… Giá mình biết họ là người thế nào.”
Cô đứng dậy và đi đi lại lại quanh căn phòng.
Căn phòng ngủ hoàn hảo được trang trí kỹ lưỡng theo kiểu hiện đại. Tấm thảm màu trắng nhờ trải trên sàn gỗ sáng bóng, những bức tường màu nhạt, một tấm gương dài với các bóng đèn bao quanh. Cái kệ gỗ trên lò sưởi chẳng có đồ trang trí nào trừ một khối cẩm thạch đồ sộ có hình hài của một
con gấu, một bức tượng tân thời với một chiếc đồng hồ được khắc ở trong. Trên đó, trong khung ảnh bằng crôm sáng loáng, là một tấm vải da to vuông vức - một bài thơ.
Mười tên lính nhỏ đi ăn;
Một tên chết nghẹn
giờ còn chín tên.
Chín tên thức muộn trong đêm;
Một quên không dậy
tám tên ngậm ngùi.
Devon du thuyền chúng chơi;
Một tên nằm lại
bảy thời ra đi.
Bảy tên bổ củi làm chi;
Bổ đôi một đứa
sáu tên muộn phiền.
Sáu đem tổ ong ra nghiền;
Một ong đốt chết
còn năm sững sờ.
Đến tòa năm đứa kia chờ;
Một vào Thượng thẩm,
bốn ra biển ngồi
Bốn tên cùng ra biển trời
Trích đỏ nuốt một
giờ còn lại ba
Vườn thú ba đứa la cà;
Gấu to vồ một,
còn hai vẹn toàn.
Hai tên đi dưới nắng vàng;
Một khô cong chết
một tên bơ phờ.
Còn tên lính nhỏ thẫn thờ
Hắn đi treo cổ
mình lên trần nhà
Và rồi chẳng còn một ai.
Vera cười. Tất nhiên rồi! Đây là Đảo Chiến Binh mà!
Cô lại đến bên cửa sổ ngồi ngắm nhìn cảnh biển.
Biển mới rộng lớn làm sao! Từ đây cô không thể thấy được đất liền ở đâu cả - chỉ có mênh mông là nước biển xanh thẫm gợn sóng dưới ánh hoàng hôn.
Biển… Hôm nay thật hiền hòa - đôi khi lại thật dữ tợn… Biển có thể lôi tuột người ta xuống đáy của nó. Chìm nghỉm… Khi tìm thấy thì đã chết đuối… chết đuối ngoài khơi… Chết đuối - chết - đuối…
Không, cô sẽ không nhớ tới nữa… cô sẽ không nghĩ tới chuyện đó nữa! Tất cả mọi chuyện đều đã qua…
Bác sĩ Armstrong tới được Đảo Chiến Binh ngay khi mặt trời vừa bị nuốt chửng xuống lòng biển. Trong lúc đi, ông có chuyện trò với người coi
thuyền - một người dân địa phương. Ông sốt sắng muốn được biết đôi chút về chủ nhân của Đảo Chiến Binh, thế nhưng cái ông Narracott nọ lại có vẻ như thiếu thông tin một cách lạ lùng, hoặc có thể ông ta không muốn hé lộ điều gì.
Vì thế bác sĩ Armstrong đành nói chuyện phiếm về thời tiết và tình hình đánh cá.
Ông khá mệt mỏi sau cuộc hành trình dài. Mắt ông đau. Khi lái xe về hướng tây tức là người ta đang hướng thẳng về phía mặt trời chiếu. Đúng vậy, ông đang rất mệt. Biển và sự yên bình hoàn hảo của nó - chính là thứ ông cần. Ông đang rất muốn có được kỳ nghỉ thật dài. Tất nhiên là ông thừa sức chi trả cho việc đó, nhưng không thể bỏ dở công việc như vậy. Người ta sẽ sớm bị lãng quên trong thời buổi này. Không, khi ông đã đến đây rồi thì chỉ có đường làm việc không ngơi nghỉ mà thôi. Ông nghĩ: “Đằng nào cũng vậy, tối nay mình sẽ cố tưởng tượng là không phải quay lại - rằng mình đã thoát hẳn London, phố Harley và tất cả mọi thứ ở đó.”
Có một điều gì đó kỳ diệu nơi hòn đảo - chỉ từ đó thôi đã đủ gợi nên bao viễn cảnh. Người ta sẽ quên đi cái thế giới bên ngoài - chỉ riêng hòn đảo thôi đã là cả một thế giới riêng rồi. Có lẽ là một thế giới mà người ta sẽ không bao giờ rời khỏi đó để trở về.
Ông lại nghĩ: “Ta đang rời bỏ cuộc sống tầm thường phía sau.” Và, cười một mình, ông bắt đầu vạch ra các kế hoạch, những kế hoạch hay ho cho tương lai. Ông vẫn tiếp tục mỉm cười trong lúc leo lên những bậc đá.
Trong chiếc ghế bành trước hiên nhà là một người đàn ông có tuổi đang ngồi và trông ông ta có vẻ gì đó quen thuộc với bác sĩ Armstrong. Ông đã
nhìn thấy cái khuôn mặt ếch, cái cổ rùa, cái thái độ kênh kiệu - đúng vậy, và cả cặp mắt nhỏ sắc sảo đó ở đâu rồi nhỉ? Tất nhiên rồi, lão già Wargrave. Ông đã có lần phải làm chứng trước mặt lão. Nhìn lúc nào cũng như nửa thức nửa mê, nhưng luôn sáng suốt mỗi khi dính dáng tới chuyện luật pháp. Có hẳn trong tay mình bồi thẩm đoàn - người ta đồn rằng lão có thể quyết định thay cho họ bất cứ ngày nào trong tuần. Lão từng có được một vài lời tuyên án không ngờ từ phía họ. Thẩm phán treo cổ, vài người gọi như vậy.
Thật buồn cười khi gặp lão… ở đây - cách xa với thế giới.
Ông thẩm phán Wargrave thầm nghĩ: “Armstrong à? Còn nhớ hồi hắn ngồi ghế nhân chứng. Luôn chính xác và cảnh giác. Đám bác sĩ ấy đều là lũ ngốc cả. Hội phố Harley là tệ nhất trong số đó.” Đầu óc ông ngập chìm trong cuộc phỏng vấn gần đây giữa ông và một nhân vật khôn khéo từ chính con phố ấy.
Ông to tiếng càu nhàu: “Đồ uống ở trong sảnh ấy.”
Bác sĩ Armstrong đáp lại: “Tôi phải vào đáp lễ ông bà chủ chứ.” Ông thẩm phán Wargrave nhắm mắt lại lần nữa, nhìn giống loài bò sát một cách rõ rệt, và nói: “Ông không gặp được đâu.”
Bác sĩ Armstrong hoảng hốt: “Tại sao cơ?”
Ông thẩm phán trả lời: “Không có ông chủ và bà chủ. Mọi chuyện đều rất đáng tò mò. Không hiểu nơi này là kiểu gì nữa.”
Bác sĩ Armstrong nhìn người đối diện chằm chằm trong một phút. Khi ông nghĩ người đàn ông già đã thực sự ngủ rồi thì Wargrave đột ngột cất tiếng: “Ông có biết ai là Constance Culmington không?”
“Ừm - không, tôi nghĩ là không.”
“Cũng không quan trọng lắm,” thẩm phán trầm ngâm. “Đó là một người phụ nữ rất khó hiểu - và nét chữ thì hoàn toàn không thể đọc nổi. Tôi chỉ đang ngờ liệu mình có đến nhầm nhà hay không.”
Bác sĩ Armstrong lắc đầu và tiếp tục đi vào nhà.
Thẩm phán Wargrave ngẫm nghĩ lại về chủ đề Constance Culmington. Bà ta không đáng tin cậy như mọi phụ nữ khác.
Tâm trí ông tiếp tục nghĩ về hai người phụ nữ trong ngôi nhà, bà cụ già với đôi môi mím chặt và cô gái. Ông không quan tâm mấy đến cô gái nọ, loại phụ nữ trẻ lạnh lùng tinh ranh. Không, cả thảy là ba người, nếu tính cả bà Rogers nọ. Một người kỳ lạ, trông bà ta sợ gần chết. Một đôi vợ chồng đứng đắn và hiểu rõ công việc của họ.
Rogers vừa ra hiên nhà ngay phút đó, ông thẩm phán liền hỏi ông ta: “Ông có hay là quý bà Constance Culmington được mời không?” Rogers nhìn ông không rời mắt.
“Không, thưa ngài, tôi không hề biết.”
Cặp mày ông thẩm phán rướn cao. Nhưng ông chỉ lầm bầm, nghĩ ngợi. “Đảo Chiến Binh, hửm? Đúng là con sâu làm rầu nồi canh.”
Anthony Marston đang ngồi trong bồn tắm. Anh đang tận hưởng sự xa hoa trong hơi nước nóng. Chân tay anh đau nhức sau chuyến đi dài. Ít khi có ý nghĩ nào lướt qua đầu anh. Anthony là con người của cảm giác phấn khích - và của hành động.
Anh thầm nhủ: “Chắc mình phải trôi theo dòng thôi,” và rồi xua đi tất cả mọi chuyện ra khỏi đầu.
Làn nước ấm nóng - chân tay thì mỏi - chốc nữa cạo râu - rồi cocktail - bữa tối.
Rồi sau đó nữa?
Ông Blore đang thắt cà-vạt. Ông vốn không rành mấy chuyện như thế này lắm.
Chương 3
Bữa tối đã gần xong.
Thức ăn khá ngon, rượu thì hoàn hảo. Nhà Rogers đã phục vụ chu đáo. Mọi người đều lên tinh thần. Họ bắt đầu nói chuyện với nhau một cách cởi mở và thân mật hơn trước.
Ông thẩm phán Wargrave, khi đã mềm lòng bởi loại rượu porto hảo hạng, bắt đầu vui vẻ châm chọc, bác sĩ Armstrong và Tony Marston đang lắng nghe ông nói. Cụ Brent nói chuyện với tướng Macarthur, họ như đã tìm ra được một vài người quen của nhau. Vera Claythorne thì đặt ra những câu hỏi thông minh cho ông Davis về Nam Phi. Ông Davis tỏ ra hoàn toàn trôi chảy về chủ đề này. Lombard dõi theo cuộc trò chuyện. Một đôi lần anh có ngước lên thật nhanh, mắt se lại. Thi thoảng anh lại đưa mắt nhìn quanh bàn ăn, nghiên cứu những người xung quanh.
Anh đang mỉm cười một mình.
Một tuần - hửm?
Anh sẽ tận hưởng tuần sắp tới.
Trong phòng ngủ của mình, Emily Brent diện chiếc váy lụa đen sẵn sàng cho bữa tối, đang đọc quyển Kinh thánh của cụ. Môi cụ mấp máy lần theo từng chữ:
“Những tên ngoại đạo sẽ bị nhấn chìm trong đống đổ nát mà chúng gây nên: trong lưới mà chúng bủa giấu sẽ chính là bàn chân của chúng. Đức Chúa trời được biết tới bởi những bản án mà ngài thi hành: kẻ gian ác sẽ mắc vào chính thứ mà hắn làm ra. Lũ gian tà sẽ bị tống vào hỏa ngục.”
Môi cụ mím chặt. Cụ gập quyển Kinh thánh lại.
Đoạn ngồi dậy, cụ ghim chiếc trâm bảo ngọc vào cổ áo, rồi xuống nhà ăn tối.
Trông ông có ổn không nhỉ? Chắc là được rồi.
Chẳng ai tỏ vẻ thân mật với ông cả… cái cách họ nhìn nhau cũng thật buồn cười - như thể họ biết vậy…
Chà, cũng tại ông cả thôi.
Ông không có ý làm hỏng việc.
Ông ngước nhìn mấy câu vè được đóng khung trên kệ lò sưởi. Thật thú vị, khi để cái khung ở đó!
Ông ngẫm nghĩ: ‘Còn nhớ hòn đảo này khi mình là một đứa trẻ. Chẳng bao giờ ngờ rằng mình lại đi làm loại công việc này trong một ngôi nhà ở đây. Có lẽ không thấy trước tương lai cũng là một điều tốt.’
Tướng Macarthur thì trầm ngâm một mình.
Thật khốn thay, tất cả mọi thứ đều xui xẻo một cách kỳ cục! Ông chẳng bao giờ nghĩ là mình lại phải chờ đợi thế này…
Thà rằng ông bịa ra cớ gì đó rồi chuồn khỏi nơi đây… quẳng luôn cả phi vụ này…
Thế nhưng chiếc thuyền máy đã về đến đất liền rồi. Ông đành phải ở lại
thôi.
Còn tên Lombard kia nữa, trông bất thường thật. Không bình thường. Ông dám thề rằng tên đó không bình thường.
Ngay khi có chuông kêu, Philip Lombard ra khỏi phòng và bước tới cầu thang. Anh di chuyển như một con báo, uyển chuyển và không gây ra một tiếng động. Có điểm gì đó na ná giữa anh và con báo. Một loài thú săn mồi - nom đẹp mắt.
Anthony Marston đột ngột mở lời: “Mấy thứ này thật kỳ quái, đúng không?”
Ở giữa chiếc bàn tròn, trên một chiếc kệ tròn đựng cốc là mấy món đồ gốm sứ.
“Các chiến binh,” Tony nói. “Đảo Chiến Binh. Tôi chắc đó là ý tưởng cho cái này.”
Vera vươn người tới.
“Chắc vậy rồi. Có bao nhiêu chiếc vậy nhỉ? Mười phải không?” “Vâng - có mười cái.”
Vera thốt lên: “Thật thú vị! Tôi đoán đây chính là mười tên lính nhỏ trong bài vè trẻ con đó. Trong phòng ngủ của tôi có bài vè được đóng khung và treo trên kệ lò sưởi.”
Lombard góp lời: “Phòng tôi cũng thế.”
“Tôi nữa.”
“Phòng tôi cũng vậy.”
Tất cả mọi người đều lặp lại điệp khúc ấy. Vera nói tiếp: “Thật là một ý
tưởng hay ho, phải vậy không?”
Ông thẩm phán Wargrave càu nhàu: “Thật hết sức trẻ con,” rồi tự rót cho mình cốc rượu porto. Emily Brent nhìn Vera Claythorne. Vera Claythorne nhìn cụ Brent. Rồi cả hai người phụ nữ đứng dậy.
Trong phòng khách, những ô cửa sổ kiểu Pháp đang mở hướng ra hiên nhà, âm thanh của những con sóng đập vào đá ì ầm vọng tới tai họ. Emily Brent lên tiếng: “Âm thanh thật dễ chịu.”
Vera đáp gọn lỏn: “Tôi ghét nó.”
Cụ Brent nhìn cô với ánh mắt ngạc nhiên. Vera đỏ mặt. Cô nói, vẻ điềm tĩnh hơn: “Chỉ là sẽ không dễ chịu lắm nếu nơi này có bão thôi ạ.” Emily Brent đồng tình.
“Không nghi ngờ gì là hòn đảo sẽ bị cách biệt vào mùa đông,” cụ nói. “Sẽ không có người phục vụ nào muốn ở đây ấy chứ.”
Vera thì thầm: “Cũng khó tìm được người phục vụ nữa.”
Emily Brent nói: “Bà Oliver thật may mắn khi kiếm được hai người này. Người phụ nữ kia là một đầu bếp giỏi.”
Vera nghĩ: “Thật buồn cười là mấy người già luôn nhầm lẫn mấy cái tên với nhau.”
Cô đáp: “Vâng, bà Owen thật sự là rất may mắn.”
Emily Brent đã lấy một mẫu vải thêu ra khỏi túi của cụ. Vừa lúc ấy, khi đang chuẩn bị đơm kim, cụ khựng lại.
Cụ nói sắc lẻm: “Owen ư? Cô vừa nói là Owen?”
“Vâng.”
Emily Brent trả lời một cách sắc gọn: “Cả đời tôi chưa bao giờ gặp ai tên là Owen cả.”
Vera nhìn chằm chằm.
“Nhưng chắc hẳn là…”
Cô còn chưa kịp hoàn tất câu nói mình nói, cánh cửa đã bật mở và mấy người đàn ông nhập cuộc. Rogers theo họ với một khay đựng cà-phê. Ông thẩm phán tiến tới và ngồi xuống bên cạnh Emily Brent. Armstrong thì tới bên Vera. Tony Marston thong thả đến bên ô cửa sổ đang mở. Blore thì đang ngắm nghía một chiếc tượng nhỏ với vẻ ngạc nhiên vô tư - băn khoăn rằng có khi những góc cạnh kỳ lạ trên bức tượng là những nét dung mạo của phụ nữ. Tướng Macarthur thì đứng quay lưng lại phía lò sưởi. Ông vân vê hàng ria trắng nhỏ của mình. Bữa tối ngon tuyệt cú mèo! Tinh thần ông thêm phấn chấn. Lombard thì lật qua lật lại tờ báo Punch vốn nằm bên cạnh những tờ báo khác trên chiếc bàn kê cạnh tường. Rogers đi lại với chiếc khay cà-phê trên tay. Cà-phê rất ngon - đen đặc và rất nóng.
Cả đoàn khách đã có một bữa ăn ra trò. Họ thỏa mãn với bản thân và với cuộc sống nói chung. Kim đồng hồ điểm chín giờ kém hai mươi phút. Tĩnh lặng - một sự tĩnh lặng thoải mái ngập tràn.
Xuyên thủng sự tĩnh lặng đó là một giọng nói. Không hề báo trước, không giống tiếng người, thẩm thấu…
“Quý ông quý bà! Mong quý vị im lặng cho!”
Tất cả mọi người sững lại. Họ nhìn quanh - nhìn nhau, nhìn những bức tường. Ai đang nói vậy?
Giọng nói lại tiếp tục - đó là một giọng nói tông cao, rõ ràng: “Các người bị kết tội theo bản cáo trạng sau:
Edward George Armstrong, về việc ngươi đã làm vào ngày 14 tháng 3
năm 1925, gây ra cái chết của Louisa Mary Clees.
Emily Caroline Brent, vào ngày 5 tháng 11 năm 1931, ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của Beatrice Taylor.
William Henry Blore, ngươi đã gây ra cái chết của của James Stephen Landor vào ngày 10 tháng 10 năm 1928.
Vera Elizabeth Claythorne, vào ngày 11 tháng 8 năm 1935, ngươi đã sát hại Cyril Ogilvie Hamilton.
Philip Lombard, vào một ngày tháng 2 năm 1932, ngươi phạm tội gây ra cái chết của hai mươi mốt người đàn ông thuộc một bộ tộc ở Đông Phi. John Gordon Macarthur, vào ngày 4 tháng 1 năm 1917, ngươi đã cố ý đẩy nhân tình của vợ ngươi, Arthur Richmond, vào chỗ chết. Anthony James Marston, vào ngày 14 tháng 11 năm vừa rồi, ngươi đã gây ra cái chết của John và Lucy Combes.
Thomas Rogers và Ethel Rogers, vào ngày 6 tháng 5 năm 1929, các ngươi đã sát hại Jennifer Brady.
Lawrence John Wargrave, vào ngày 10 tháng 6 năm 1930, ngươi đã gây ra cái chết của Edward Seton.
Các tù nhân trước vành móng ngựa, các người có điều gì để thanh minh hay không?”
Giọng nói dừng lại.
Trong một khoảnh khắc là sự im bặt như hóa đá và rồi có một tiếng đổ vỡ vang dội! Rogers đã làm rơi khay cà-phê!
Ngay lúc ấy, từ đâu đó bên ngoài căn phòng, có một tiếng hét vang lên và rồi một tiếng thịch vẳng lại.
Lombard là người đầu tiên chạy ra. Anh nhảy bổ tới cánh cửa và ẩy ra
ngoài. Bên ngoài, nằm giữa mớ lộn xộn là bà Rogers.
Lombard gọi to: “Marston.”
Anthony chạy ra giúp. Hai người ở hai bên đỡ người phụ nữ dậy và dìu bà vào phòng nghỉ.
Bác sĩ Armstrong tới thật nhanh. Ông giúp họ đặt người phụ nữ lên ghế bành rồi cúi xuống. Ông nói trong gấp gáp: “Không sao đâu. Bà ấy chỉ ngất thôi. Bà ấy sẽ tỉnh lại sau ít phút.”
Lombard nói với ông Rogers: “Ông mau lấy ít rượu brandy.” Rogers, với khuôn mặt tái nhợt, đôi tay run rẩy, thì thầm: “Vâng, thưa ngài,” rồi mau lẹ ra khỏi phòng.
Vera kêu thất thanh: “Ai đã nói thế? Hắn ta ở đâu cơ chứ? Nghe như là… nghe như là…”
Tướng Macarthur lắp bắp: “Chuyện gì đang xảy ra vậy? Trò đùa gì quái gở vậy chứ?”
Tay ông lúc này đang run lên. Đôi vai oằn xuống. Trông ông đột nhiên như vừa già thêm mười tuổi.
Blore thì đang lau mặt với chiếc khăn tay của mình.
Chỉ có ngài thẩm phán Wargrave và cụ Brent là có vẻ không động đậy. Emily Brent vẫn ngồi thẳng lưng, ngẩng cao đầu. Hai bên má là đốm da sậm màu. Ông thẩm phán ngồi trong tư thế quen thuộc của mình, cái đầu như lún xuống cổ. Ông đưa tay gãi nhè nhẹ ở tai. Chỉ có đôi mắt là sống động, nhìn quanh căn phòng, bối rối, cảnh giác với vẻ thông thái.
Lần này lại là Lombard hành động. Armstrong còn đang bận bịu với người phụ nữ vừa ngất, Lombard thì lại không vướng tay chuyện gì để đưa ra quyết định.
Anh nói: “Giọng nói ấy? Nghe như là phát ra từ trong căn phòng.” Vera kêu lên: “Nhưng là ai cơ chứ? Ai? Rõ là không phải ai đó ở đây rồi.”
Giống như ông thẩm phán, mắt Lombard chậm rãi lướt quanh căn phòng. Tạm dừng một lúc nơi cánh cửa sổ đang mở, rồi anh lắc đầu quả quyết. Đột nhiên mắt anh sáng lên. Anh nhanh nhẹn di chuyển tới cánh cửa gần lò sưởi dẫn vào căn phòng kế bên.
Với một động tác mau lẹ, anh với lấy ngọn nến và ẩy cho cửa mở. Anh bước vào và ngay lập tức thốt lên đắc thắng: “À, ra là đây.” Những người khác liền bám theo. Chỉ có cụ Brent là vẫn giữ tư thế thẳng lưng, ngồi một mình trong chiếc ghế của cụ.
Trong căn phòng thứ hai có một cái bàn gần bức tường kề phòng khách. Trên bàn là một cái đài - loại cổ điển với chiếc kèn to được gắn cùng. Loa kèn hướng vào tường, và Lombard đẩy nó sang một bên để chỉ ra hai ba cái lỗ đã được đục một cách kín đáo trên tường.
Anh chỉnh chiếc loa thả cho cái cần chạm đĩa nhạc và ngay lập tức họ lại nghe được nội dung: “Các người bị kết tội theo bản cáo trạng sau…” Vera thét lên: “Tắt đi! Tắt nó đi! Thật kinh khủng!”
Lombard làm theo.
Bác sĩ Armstrong lên tiếng, kèm theo một cái thở phào nhẹ nhõm: “Một trò đùa dại đáng xấu hổ và vô tâm, chỉ vậy thôi.”
Giọng nói nhỏ, rõ ràng là của ông thẩm phán Wargrave cất lên: “Vậy ông nghĩ đây là một trò đùa ư?”
Vị bác sĩ nhìn lại ông chằm chằm.
“Vậy nó còn có thể là gì nữa?”
Bàn tay ông thẩm phán nhẹ nhàng đặt lên môi trên. Ông nói: “Hiện giờ tôi chưa sẵn sàng đưa ra ý kiến.”
Anthony Marston ngắt lời: “Xem này, có một điều mà mọi người đã quên. Tên quái quỷ nào đã bật cái loa và cho đĩa này vào?” Wargrave lẩm bẩm: “Đúng thế, tôi nghĩ chúng ta nên tìm hiểu chuyện đó.”
Nói rồi ông dẫn đầu đoàn người quay trở lại căn phòng khách. Những người khác nối bước theo sau.
Rogers vừa mới quay lại với một ly brandy. Cụ Brent thì cúi xem bà Rogers rên rỉ.
Một cách khéo léo, ông Rogers xen vào giữa hai người phụ nữ. “Nếu bà cho phép, thưa bà, tôi sẽ nói chuyện với bà ấy. Ethel - Ethel - mọi chuyện ổn rồi. Ổn rồi, mình nghe được không? Cố gắng bình tĩnh nào.” Nhịp thở của bà Rogers trở nên gấp gáp. Mắt bà mở thao láo đầy sợ hãi, cứ đảo lòng vòng quanh những khuôn mặt. Giọng của ông Rogers tỏ ra khẩn khoản.
“Cố bình tĩnh nào, Ethel.”
Bác sĩ Armstrong dịu dàng nói với bà: “Bà sẽ khỏe lại, bà Rogers. Chỉ là khó chịu một chút thôi.”
Người phụ nữ hỏi lại: “Tôi vừa ngất ư, thưa ngài?”
“Đúng vậy.”
“Là cái giọng đó - cái giọng khủng khiếp đó - như lời phán quyết vậy…” Mặt bà lại chuyển xanh, đôi mắt chớp chớp.
Bác sĩ Armstrong hỏi gọn: “Chai brandy đó đâu rồi?”
Rogers đã đặt nó nơi cái bàn nhỏ. Ai đó đưa cho vị bác sĩ và ông cúi
xuống người phụ nữ đang thở gấp.
“Uống cái này đi, bà Rogers.”
Bà ta uống, hơi nghẹn một chút và lại thở dốc. Hơi rượu mạnh làm bà khỏe lại. Mặt bà đã lấy lại sắc. Bà lên tiếng: “Tôi ổn rồi. Chỉ là… tôi vừa thấy khó chịu.”
Ông Rogers nói nhanh: “Tất nhiên rồi. Anh cũng thế. Đến mức làm rơi cả cái khay. Toàn là những lời dối trá độc ác! Tôi muốn biết…” Ông bị ngắt lời. Bởi một tiếng ho - chỉ là một tiếng ho khan nhưng lại có tác dụng ngăn ông khỏi kêu lên. Ông nhìn thẩm phán Wargrave chằm chằm và ông ta lại ho lần nữa. Rồi vị thẩm phán cất tiếng hỏi: “Ai đã đặt chiếc đĩa đó vào loa. Có phải ông không, ông Rogers?”
Ông Rogers phân bua: “Tôi không hề biết nó là cái gì. Thề trước Chúa, tôi không hề biết nó là cái gì, thưa ông. Nếu biết, tôi đã không cho nó vào rồi.”
Ông thẩm phán nói khô khan: “Điều này có lẽ cũng đúng. Nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết ông hãy giải thích, ông Rogers.”
Viên quản gia vuốt mặt với chiếc khăn tay. Ông ta trả lời bằng giọng thành thực: “Tôi chỉ làm theo yêu cầu thôi, thưa ngài, chỉ vậy thôi.” “Yêu cầu của ai?”
“Ông Owen.”
Ông thẩm phán nói: “Để tôi nhắc lại rõ nhé. Ông Owen đã… chính xác yêu cầu cái gì?”
Ông Rogers đáp: “Tôi phải để đĩa nhạc vào chiếc loa kia. Tôi thấy nó trong ngăn kéo và vợ tôi đã bật nó lên trong lúc tôi vào phòng khách với chiếc khay cà-phê.”
Ông thẩm phán thì thầm: “Một câu chuyện thật đáng ghi nhận.” Ông Rogers kêu lên: “Sự thật là thế, thưa ngài. Tôi thề trước Đức thánh rằng đây là sự thật. Tôi không biết nó là gì - dù chỉ là một chút. Trên nó có ghi chú hẳn hòi - tôi cứ ngỡ nó chỉ là một đĩa nhạc cổ điển.” Wargrave đưa mắt sang Lombard.
“Nó có đề tên gì không?”
Lombard gật đầu. Anh đột nhiên nhếch miệng cười, lộ ra hàm răng nhọn. Anh tiếp tục: “Đúng thế thật, thưa ông. Nó có tiêu đề là Khúc Thiên Nga…”
Tướng Macarthur đột ngột thốt lên. Ông cho biết: “Tất cả những chuyện này thật là vô lý - mâu thuẫn! Những lời buộc tội tày đình thế này! Phải có ai làm gì đi chứ. Cái tên Owen này dù có là ai đi nữa…”
Emily Brent ngắt lời. Giọng cụ thật sắc lẻm: “Đúng thế đó, ông ta là ai?” Ông thẩm phán xen ngang. Ông nói với chất giọng đầy thẩm quyền mà cả đời làm việc trong tòa đã mang lại. Ông nói: “Đấy chính là thứ mà chúng ta cần điều tra kỹ càng. Tôi đề nghị là trước tiên ông nên dẫn vợ mình đi ngủ, Rogers. Sau đó hãy quay trở lại đây.”
“Vâng, thưa ông.”
Bác sĩ Armstrong đề nghị: “Tôi sẽ giúp một tay, Rogers.” Dựa vào hai người đàn ông, bà Rogers liêu xiêu bước khỏi phòng. Khi họ đã đi khỏi, Tony Marston bèn nói: “Không biết anh thế nào chứ tôi phải nhấp mấy ngụm đã.”
Lombard tiếp lời: “Tôi cũng vậy.”
Tony nói: “Tôi sẽ kiếm đồ nhắm.”
Anh bước ra khỏi phòng.
Một hai giây sau anh quay lại.
“Thấy họ đã phục vụ với cái khay bên ngoài chuẩn bị đem vào rồi.” Anh ngồi xuống một cách cẩn thận. Một hai phút tiếp theo được dành cho việc phân chia đồ uống. Tướng Macarthur lấy rượu whisky mạnh và ông thẩm phán cũng thế. Tất cả mọi người đều thấy cần đến chất kích thích. Chỉ có cụ Emily Brent là đòi lấy một ly nước.
Bác sĩ Amrstrong quay trở lại phòng.
“Bà ấy ổn rồi,” ông cho biết. “Tôi đã cho bà ấy uống thuốc ngủ. Cái gì vậy, rượu phải không? Tôi cũng muốn một cốc.”
Vài người đàn ông rót thêm rượu vào cốc. Một lúc sau thì ông Rogers quay trở lại căn phòng.
Ông thẩm phán Wargrave lãnh lấy trách nhiệm tiến hành. Căn phòng trở thành một tòa án tạm thời.
Thẩm phán nói: “Bây giờ thì, ông Rogers, chúng ta cần đi đến cùng việc này. Ông Owen này là ai?”
Ông Rogers trợn tròn mắt.
“Ông ấy làm chủ chỗ này, thưa ông.”
“Tôi biết rõ việc đó rồi. Cái tôi muốn ông trả lời là ông biết gì về người đàn ông này?”
Rogers lắc đầu.
“Tôi không thể nói được, thưa ông. Ông thấy đấy, tôi chưa gặp ông ấy bao giờ.”
Một sự xáo động nhẹ lan đi khắp phòng.
Tướng Macarthur xen vào: “Ông chưa bao giờ gặp ông ta sao? Ý ông là gì?”
“Chúng tôi mới dọn tới đây chưa đến một tuần, thưa ông, vợ tôi và tôi. Chúng tôi được thuê trước bằng thư, qua một công ty môi giới. Công ty môi giới Regina ở Plymouth.”
Blore gật gù.
“Một công ty được thành lập từ lâu.” Ông cho hay.
Wargrave thắc mắc: “Ông có lá thư ấy ở đây không?”
“Lá thư giới thiệu chúng tôi ư? Không, thưa ông. Tôi không mang nó theo.”
“Vậy tiếp tục câu chuyện của ông đi. Ông được thuê, như ông đã nói, nhờ một bức thư.”
“Vâng, thưa ông. Chúng tôi phải đến vào một ngày đã định sẵn. Và chúng tôi đã làm như vậy. Tất cả mọi thứ ở đây đều rất ngăn nắp. Có rất nhiều thức ăn trong kho và mọi thứ đều rất đẹp. Chỉ cần phủi mỗi bụi mà thôi.”
“Còn gì nữa?”
“Không có gì nữa, thưa ông. Chúng tôi nhận được yêu cầu - lại bằng thư - là cần chuẩn bị các phòng cho một bữa tiệc tại gia, và rồi khoảng chiều hôm qua tôi nhận thêm được một lá thư của ông Owen. Lá thư có viết là ông bà Owen bị kẹt, rằng chúng tôi phải làm hết sức, và có cả chỉ dẫn về bữa tối, cà-phê và bật loa nghe nhạc.”
Thẩm phán nói một cách sắc lẻm: “Ông chắc là mình còn giữ lá thư đó không?”
“Vâng, thưa ông. Tôi có đem theo nó đây.”
Ông ta lấy từ trong túi áo ra bức thư. Vị thẩm phán cầm lấy. “Hừm,” ông thốt lên. “Gửi tới khách sạn Ritz và được đánh máy.” Với một động tác mau lẹ, Blore đã lách người tới bên cạnh thẩm phán. Ông ta nói: “Ông có thể cho tôi xem một lát chứ?”
Đoạn Blore rút lá thư khỏi tay vị thẩm phán, rồi đảo mắt khắp lượt. Ông ta thì thầm.
“Dùng máy hiệu Vương Miện. Hoàn toàn mới - không có lỗi. Giấy bìa - loại được dùng nhiều nhất từ trước đến giờ. Không thể rút ra được điều gì từ cái này cả. Có thể là vân tay, nhưng tôi nghi là khó.”
Ông Wargrave chú mục vào người vừa nói ra những điều ấy với một vẻ chú ý đến bất ngờ.
Anthony Marston đang đứng cạnh Blore và nhìn qua vai ông ta. Anh góp lời: “Ông ta có mấy cái tên Thiên Chúa mỹ miều phết, phải không? Ulick Norman Owen. Thật hết biết.”
Ông thẩm phán già nói mà hơi giật mình: “Tôi phải biết ơn cậu mới phải, cậu Marston. Cậu đã hướng sự chú ý của tôi đến một điểm rất đáng tò mò và gợi liên tưởng.”
Rồi nhìn hết thảy mọi người xung quanh và rướn cổ lên như một con rùa đang tức giận, ông nói: “Tôi nghĩ đã đến lúc mọi người cùng chia sẻ thông tin rồi. Tôi nghĩ, sẽ tốt hơn nếu mọi người đứng ra và nói những gì mình biết liên quan đến chủ nhân ngôi nhà này.” Ông dừng một lúc rồi tiếp tục, “Chúng ta đều là khách của ông ấy. Tôi nghĩ sẽ có ích nếu mỗi người tự giải thích rằng chúng ta quen ông ta như thế nào.”
Một giây phút tạm lắng và rồi cụ Emily Brent nói với vẻ quả quyết. “Có điều gì đó rất mờ ám về chuyện này,” cụ nhìn nhận. “Tôi đã nhận
được một lá thư với chữ ký không mấy rõ ràng để nhận ra. Bức thư có ghi là của một người phụ nữ mà tôi từng gặp vào một mùa hè hai hay ba năm về trước. Tôi nghĩ là cái tên đó hoặc là Ogden hoặc là Oliver. Tôi có biết một bà tên Oliver và một cô tên Ogden. Tôi hoàn toàn chắc chắn là chưa từng gặp, hay quen biết bất cứ ai là bà Owen cả.”
Ông thẩm phán Wargrave hỏi tới: “Bà có mang bức thư cùng không, bà Brent?”
“Vâng, tôi sẽ lấy cho ông xem.”
Cụ bước ra rồi một phút sau quay lại với lá thư.
Thẩm phán đọc bức thư. Ông nói: “Tôi bắt đầu hiểu ra rồi… còn cô Claythorne?”
Vera giải thích hoàn cảnh dẫn cô tới công việc thư ký thuê này. Ông thẩm phán tiếp tục: “Marston?”
Anthony trả lời: “Tôi nhận được một cú điện. Từ một người bạn. Badger Berkeley. Tôi khá bất ngờ lúc ấy vì cứ tưởng lão già đó đã đi Na Uy rồi. Lão bảo tôi tới đây.”
Lại một lần nữa Wargrave gật đầu. Ông nhắc: “Bác sĩ Amrstrong?” “Tôi được gọi tới đây vì công việc.”
“Tôi hiểu rồi. Vậy là ông không hề quen biết trước với gia đình này?” “Không. Có một người đồng nghiệp của tôi được nhắc đến trong lá thư.” Ông thẩm phán đoán định: “Để tăng độ tin cậy… Vâng, vậy còn người
đồng nghiệp kia, tôi đoán là, không liên lạc được với ông vào thời điểm đó?”
“Ừm - ơ - đúng thế.”
Lombard, người từ nãy giờ vẫn nhìn Blore chằm chặp, đột ngột nói:
“Xem này, tôi vừa nghĩ ra điều này…”
Ông thẩm phán giơ tay lên.
“Đợi một phút thôi…”
“Nhưng tôi…”
“Chúng ta sẽ nghe từng người nói một, anh Lombard. Chúng ta đang tập trung tìm hiểu nguyên nhân của việc tất cả được dẫn tới đây đêm nay. Tướng Macarthur?”
Vừa vân vê râu, ông tướng lẩm bẩm: “Tôi nhận được lá thư - từ ông Owen này - có nhắc tới vài người bạn già của tôi mà đáng lẽ phải tới đây rồi - để tôi khỏi bận tâm về lời mời thiếu trịnh trọng. Tôi không nghĩ là mình có đem lá thư theo.”
Wargrave tiếp tục: “Anh Lombard?”
Lombard lúc này khá tỉnh táo. Liệu anh có nên khai thành thực hay không đây? Anh đã đi đến quyết định.
“Cũng như thế thôi,” anh cho biết. “Có lời mời, nhắc đến vài người bạn - tôi đã tin như vậy. Và tôi xé lá thư rồi.”
Ông thẩm phán Wargrave hướng sự chú ý của mình vào ông Blore. Ngón trỏ của ông gõ nhẹ lên môi trên và giọng ông thì lịch sự một cách nguy hiểm.
Ông nói: “Ngay lúc này đây chúng ta đang có một chút trải nghiệm thật đáng lo lắng. Một giọng nói vô hình nào đó nêu đích danh từng người, đọc ra một số cáo trạng tỉ mỉ buộc tội chúng ta. Chúng ta sẽ giải quyết việc đó ngay lúc này. Hiện giờ tôi đang quan tâm về một điểm nhỏ. Trong số những cái tên được nhắc tới có William Henry Blore. Theo mọi người thấy thì không có ai tên Blore ở đây. Cái tên Davis không hề được nhắc tới. Ông có
gì để nói về việc này không, ông Davis?”
Blore giận dữ đáp: “Chỉ là nói hớ thôi mà. Tôi nghĩ tốt hơn tôi nên thú nhận tên tôi không phải là Davis.”
“Ông là William Henry Blore?”
“Đúng vậy.”
“Tôi muốn bổ sung điều này nữa,” Lombard xen vào, “không những là ông tới đây với một cái tên giả, ông Blore, mà tối nay tôi còn phát hiện ra ông đúng thực là một tay nói dối hạng nhất. Ông kể rằng ông đến từ Natal, Nam Phi. Tôi biết Nam Phi và vùng Natal và tôi sẵn sàng thề rằng ông chưa từng một lần đặt chân tới Nam Phi trong đời.”
Mọi cặp mắt đều hướng về phía Blore. Những đôi mắt giận dữ nghi ngờ. Anthony Marston tiến một bước về phía ông ta. Nắm đấm của anh cuộn chặt lại.
“Bây giờ thì sao, tên khốn?” Anh gằn giọng. “Có lời giải thích nào không?”
Blore quay đầu lại và bắt đầu bạnh hàm ra nói.
“Các quý ông nghĩ sai về tôi rồi,” ông ta tỏ bày. “Tôi có giấy ủy nhiệm và các ông có thể xem ngay đây. Tôi là một cựu đặc vụ điều tra tội phạm CID. Tôi có điều hành một văn phòng thám tử ở Plymouth. Tôi được giao nhiệm vụ này.”
Ông thẩm phán Wargrave hỏi: “Ai giao cho ông?”
“Ông Owen này này. Có gửi kèm theo cả một đống tiền cho mọi chi phí và hướng dẫn tôi phải làm gì theo ý ông ta. Tôi phải tham dự tiệc tại gia này, giả vờ làm khách. Tôi được đưa cho tên của các vị. Tôi phải xem chừng tất cả mọi người.”
“Có lý do gì không?”
Blore đáp một cách chua chát: “Vì mớ nữ trang của bà Owen. Bà Owen khỉ gì chứ! Tôi không tin là có một người như thế nữa.”
Ngón trỏ của vị thẩm phán lại nhịp lên môi, lần này với một vẻ cảm kích.
“Kết luận đó của ông, tôi nghĩ là hợp lý,” Ông nói. “Ulick Norman Owen! Trong lá thư gửi bà Brent, dù chữ ký phần họ rất nguệch ngoạc cái tên Thiên Chúa kia thì lại khá rõ ràng - Una Nancy - trong cả hai trường hợp nếu ta để ý, sẽ thấy cách viết tắt giống hệt. Ulick Norman Owen - Una Nancy Owen - hợp lại, sẽ thành U.N. Owen. Hay nếu nói hơi chệch đi sẽ thành UNKNOWN (VÔ DANH)!
Vera thảng thốt: “Nhưng như thế thì thật quái gở… điên rồ!” Thẩm phán gật gù, tán thành: “Ồ, vâng. Tôi không nghi ngờ là chúng ta đã được mời tới đây bởi một người điên - có khả năng là một tên giết người hàng loạt mất trí nguy hiểm.”
Chương 4
Một phút lặng thinh. Một sự im lặng do hoảng hốt và ngỡ ngàng. Rồi giọng nói nhỏ, rõ của viên thẩm phán lại bắt đầu chủ đề lần nữa. “Bây giờ chúng ta sẽ tiếp đến bước thứ hai trong việc điều tra. Dù vậy thì trước tiên, tôi nên bổ sung thông tin của mình vào danh sách.” Ông rút ra trong túi một lá thư và lia nó lên mặt bàn.
“Lá thư tự nhận là từ một người bạn cũ của tôi, quý bà Constance Culmington. Tôi đã không gặp bà ấy mấy năm nay. Bà ấy đã dời đến phía Đông. Đây đúng là loại thư khó hiểu và tối nghĩa mà bà ấy có thể viết, giục tôi đến gặp bà ấy tại đây và có nhắc đến ông bà chủ của bà ấy một cách mơ hồ. Cũng với phương pháp ấy, như mọi người đã thấy. Tôi chỉ nhắc lại vì nó khớp với những chứng cứ khác - từ đó mới hé lộ một điểm hay ho. Tên đã tụ họp chúng ta lại đây dù là ai đi nữa, thì cũng phải biết mọi người hoặc đã dành khá nhiều công sức tìm hiểu kỹ càng. Tên đó, dù có là ai, thì cũng phải biết quan hệ bạn bè giữa tôi với quý bà Constance - và quen cái phong cách viết thư của bà ấy. Hắn biết điều gì đó về đồng nghiệp của bác sĩ Armstrong và tung tích của người đó. Hắn biết tên thân mật của bạn cậu Marston và kiểu điện mà người đó sẽ gửi. Hắn biết chính xác nơi bà Brent ở hai năm trước vào kỳ nghỉ lễ và loại người bà ấy gặp gỡ tại đó. Hắn biết hết về mấy ông bạn già của tướng Macarthur.”
Ông ngưng lời một thoáng rồi nói tiếp: “Hắn biết, như mọi người thấy
đấy, rất nhiều thứ. Và ngoài những thứ hắn biết liên quan đến chúng ta ra, thì hắn còn buộc tội đích danh nữa.”
Ngay lập tức những tiếng đồng thanh rộ lên.
Tướng Macarthur la lên: “Toàn là lời dối trá cả! Vu khống!” Vera cũng thốt lên: “Thật là bất công!” Nhịp thở của cô gấp dần. “Độc ác!”
Ông Rogers cất giọng khàn khàn: “Nói dối - một lời nói dối ác độc… chúng tôi chưa bao giờ - không ai trong chúng tôi…”
Anthony Marston gầm gừ: “Không hiểu thằng khốn đần độn đó muốn cái gì nữa!”
Tay thẩm phán Wargrave giơ lên làm lắng đi tiếng ồn ã. Ông nói, cân nhắc từ ngữ với sự cẩn trọng: “Tôi muốn nói thế này. Người bạn ẩn danh của chúng ta có buộc tội tôi giết một người tên Edward Seton. Tôi có nhớ cái tên Seton đó rất rõ. Hắn trình tòa trong một vụ xử án tháng Sáu năm 1930 vì bị buộc tội giết một người phụ nữ cao tuổi. Hắn được bào chữa và gây được ấn tượng tốt trước bồi thẩm đoàn từ bục nhân chứng. Dù vậy, dựa theo bằng chứng, hắn hoàn toàn có tội. Tôi đã đưa ra kết luận từ đó, và bồi thẩm đoàn đã đưa ra lời phán quyết là Có Tội. Trong lúc thông qua án tử hình, tôi đã đồng ý với phán quyết đó. Một bản kháng án được tung ra lấy lý do là vì điều tra lạc hướng. Bản kháng án đã bị bác bỏ và hắn đã bị xét xử theo đúng luật. Tôi muốn nói với các vị rằng lương tâm tôi hoàn toàn không day dứt về vấn đề đó. Tôi đã làm nhiệm vụ của mình không hơn một li. Tôi đã cho xét xử đúng tội kẻ giết người.”
Armstrong dần nhớ ra. Vụ Seton! Bản phán quyết đã gây bất ngờ lớn. Ông đã gặp Matthews, cố vấn cho nhà vua vào một trong những ngày đang diễn ra vụ xét xử khi họ đang ăn tối ở nhà hàng. Matthew tỏ ra tự tin.
“Không còn nghi ngờ gì về vụ án đó hết. Tất nhiên là trắng án rồi.” Và sau đó ông nghe được những lời bình luận kiểu như: “Thẩm phán ra quyết định tử hình khiến bồi thẩm đoàn quay ngoắt lại kết luận hắn có tội. Dù vậy, mọi thứ hoàn toàn hợp pháp. Wargrave già biết rõ các điều luật. Coi bộ lão có mối hiềm khích gì đó với tên kia.” Tất cả những ký ức đó trở lại với tâm trí ông bác sĩ. Và trước khi ông kịp suy ngẫm về tính khôn ngoan của câu hỏi thì ông đã buột miệng: “Vậy ông có quen biết gì Seton không? Tôi muốn nói là trước vụ án ấy.”
Đôi mắt ti hí như của loài bò sát gặp mắt ông. Với giọng nói rõ ràng và lạnh lùng, ông thẩm phán trả lời: “Tôi không quen biết gì Seton trước vụ án hết.”
Armstrong tự nhủ: “Lão ấy đang nói dối - mình dám chắc là lão nói dối.” Vera Claythorne nói với giọng run rẩy: “Tôi muốn kể với mọi người. Về đứa trẻ đó - Cyril Hamilton. Tôi vốn là cô giáo nuôi dạy thằng bé. Nó bị cấm không được bơi xa bờ. Ngày hôm đó, nhân lúc tôi đang bị xao lãng, thằng bé đã đi bơi. Tôi phải cố theo sau nó… Tôi không thể bơi kịp đến chỗ thằng bé… Thật kinh khủng… Nhưng đó không phải lỗi của tôi. Tại buổi điều tra, viên cảnh sát đã miễn tội cho tôi. Và mẹ của đứa bé - bà ấy đã thật tử tế. Nếu đến bà ấy còn chẳng trách tội tôi, thì sao - tại sao cái giọng kia lại
nói vậy? Như thế là không công bằng - không công bằng…” Cô òa khóc, một cách đầy cay đắng.
Tướng Macarthur vỗ nhẹ lên vai cô.
Ông an ủi: “Được rồi, cô gái. Tất nhiên là điều đó không đúng rồi. Tên đó là một kẻ mất trí. Một tên tâm thần! Bị ám ảnh! Lại hiểu sai mọi thứ nữa.”
Rồi ông đứng thẳng, ưỡn ngực. Ông hô to: “Tốt nhất là để mặc đó không
cần tìm hiểu thêm nữa. Tuy nhiên, tôi thấy mình cần nói là - không có sự thật nào - không có một chút sự thật nào trong bất cứ điều gì tên kia nói về - ờm - về cậu Arthur Richmond kia hết. Richmond là một trong số sĩ quan của tôi. Tôi đã cử cậu ấy làm nhiệm vụ trinh sát. Cậu ấy bị giết. Đó là một phần của chiến tranh. Ước gì tôi có thể nói cho ra nhẽ - thật đáng thương thay bà vợ tôi. Người phụ nữ tuyệt vời nhất trên đời. Chắc chắn là thế - cũng như không ai lại đi nghi ngờ vợ Cæsar ấy!”
Tướng Macarthur ngồi xuống. Bàn tay run rẩy của ông lại vân vê hàng ria. Nỗ lực để nói ra được hết khiến ông phải trả một cái giá khá lớn. Lombard lên tiếng. Mắt anh tỏ vẻ khôi hài. Anh nói: “Về những người thổ dân đó…”
Marston hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra với họ?”
Philip Lombard nhếch mép.
“Câu chuyện hoàn toàn đúng như vậy! Tôi đã bỏ mặc họ! Đơn thuần là đấu tranh sinh tồn thôi. Chúng tôi bị lạc trong rừng. Tôi và một vài người khác đã lấy số thức ăn và biến khỏi chỗ đó.”
Tướng Macarthur nói vẻ nghiêm nghị: “Anh đã bỏ mặc người của anh - bỏ mặc họ cho chết đói ư?”
Lombard đáp: “Không phải là một hành động anh hùng cho lắm, tôi biết. Nhưng đấu tranh sinh tồn là nghĩa vụ hàng đầu của con người. Với lại người bản xứ cũng chẳng ngán ngại cái chết lắm, ông biết đấy. Họ không nghĩ về nó như người Châu Âu đâu.”
Vera ngước mặt khỏi hai bàn tay. Cô nói, nhìn anh bằng đôi mắt mở to: “Anh đã bỏ mặc họ… đến chết ư?”
Lombard đáp: “Tôi đã bỏ mặc họ đến chết.”
Vẻ khôi hài trong đôi mắt anh bắt gặp sự sợ hãi trong mắt cô. Anthony Marston nói với giọng chậm rãi bối rối: “Tôi vừa mới nghĩ ra - John và Lucy Combes ấy. Chắc là hai đứa bé mà tôi đã cán phải gần Cambridge. Thật xui hết mức.”
Thẩm phán Wargrave nói chua chát: “Xui cho chúng, hay cho cậu?” Anthony đáp: “Thì, tôi mới nghĩ - là với tôi - nhưng chắc hẳn là, ông nói đúng, thưa ông, thật là tệ cho chúng. Tất nhiên đó hoàn toàn là tai nạn. Chúng chạy ra khỏi một cái nhà nhỏ hay gì đó. Tôi đã bị tước giấy phép lái xe trong một năm. Phiền toái hết chịu nổi.”
Bác sĩ Armstrong nói giọng quyết liệt: “Đi nhanh là trái luật - trái luật! Những người trẻ như cậu là mối họa cho cả xã hội này.”
Anthony nhún vai. Anh nói: “Đi nhanh chẳng có gì là sai hết. Đường phố nước Anh mới là vô vọng, hẳn là thế rồi. Chẳng ai đi được với tốc độ tử tế trên mấy cái đường đó.”
Anh mơ hồ nhìn quanh tìm chiếc cốc của mình, đứng bên bàn rồi cầm nó lên và tự rót cho mình thêm một cốc whisky pha sô-đa. Anh nói với qua vai: “Kiểu gì thì đó cũng không phải lỗi của tôi. Chỉ là một tai nạn thôi!”
Người quản gia Rogers, từ nãy giờ vẫn liếm môi và vặn vẹo đôi bàn tay tay của mình. Ông nói với giọng trầm và cung kính: “Không biết tôi có được phép nói đôi lời không, thưa ông.”
Lombard nói: “Cứ nói đi, Rogers.”
Ông Rogers hắng giọng và lại đưa lưỡi liếm môi một lần nữa. “Giọng nói có nhắc tới tôi, và bà Rogers, thưa ông. Và cả bà Brady nữa. Không có gì thật trong đó hết, thưa ông. Vợ chồng tôi đều đã ở bên bà Brady cho đến phút cuối cùng. Bà ấy vốn luôn trong tình trạng yếu như vậy,
thưa ông, đêm hôm đó - đêm đó bà ấy đã quá yếu. Điện thoại thì bị hỏng. Chúng tôi không thể gọi bác sĩ cho bà ấy. Tôi đã đích thân đi mời bác sĩ tới, thưa ông, đi bộ. Nhưng ông ấy đã đến quá muộn. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể cho bà ấy, thưa ông. Chúng tôi đã tận tụy giúp bà ấy. Bất cứ ai cũng sẽ nói với ông như vậy. Chưa ai từng nói điều gì ngược lại cả. Chưa bao giờ.”
Lombard nhìn kỹ khuôn mặt giần giật của người đàn ông, đôi môi khô, sự sợ hãi trong đôi mắt ông ta. Anh nhớ đến tiếng chiếc khay cà-phê rơi xuống đất. Anh nghĩ mà không bật ra thành tiếng: “Ồ vậy sao?”
Blore nói - với cái vẻ nhiệt huyết lấn lướt của một sĩ quan. Ông nói: “Nhưng ông được hưởng chút gì đó từ cái chết của bà ta chứ? Phải không?”
Rogers vươn thẳng người, ông nói với giọng chắc nịch: “Bà Brady có để lại tài sản để ghi nhận sự phục vụ tận tình của chúng tôi. Và có gì mà không được chứ, tôi đang muốn biết đây?”
Lombard nói: “Thế còn ông, ông Blore?”
“Tôi thì sao?”
“Tên ông có trong danh sách đó mà.”
Sắc mặt Blore chuyển sang tím.
“Landor, ý anh là thế chứ gì? Đó là vụ cướp ngân hàng - thương mại London.”
Ông thẩm phán Wargrave như bồn chồn. Ông nói: “Tôi còn nhớ. Tuy nó không xảy ra khi tôi còn nhậm chức, nhưng tôi nhớ vụ đó. Landor đã bị kết tội dựa trên bằng chứng ông đưa ra. Ông chính là người cảnh sát phụ trách vụ đó ư?”
Blore đáp: “Đúng thế.”
“Landor đã lĩnh án hình sự chung thân và chết trong Dartmoor chỉ một năm sau đó. Cậu ta khá yếu ớt.”
Blore nói: “Hắn là một tên gian manh. Chính hắn đã hạ gục người gác đêm. Vụ đó rõ ràng là chống lại hắn.”
Wargrave nói chậm rãi: “Tôi chắc ông được khen thưởng chứ, vì cách xử lý khôn khéo trong vụ đó.”
Blore nói cấm cẳn: “Tôi được thăng chức.”
Rồi ông ta nói tiếp với giọng nặng trịch: “Tôi chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi.”
Lombard cười lớn - một tràng cười hả hê ngẫu hứng. Anh nói: “Toàn người yêu trách nhiệm và tuân thủ luật lệ làm sao! Trừ tôi ra. Thế còn ông, bác sĩ - và tai nạn nghề nghiệp nho nhỏ của ông? Phẫu thuật trái phép, phải không?”
Cụ Emily Brent nhìn ông ta với ánh mắt lộ rõ vẻ khinh bỉ và cố ngồi cách ông ta một khoảng.
Bác sĩ Armstrong, với vẻ hoàn toàn tự chủ, lắc đầu với vẻ hài hước. “Tôi không hiểu rõ câu chuyện này cho lắm,” ông phân trần. “Cái tên đó không gây ấn tượng gì với tôi khi được nhắc đến cả. Tên gì nhỉ - Clees? Hay Close? Tôi thật sự không nhớ là từng có bệnh nhân tên như thế, hay liên quan gì đến cái chết nào cả. Toàn bộ chuyện là bí ẩn với tôi. Tất nhiên, cũng đã lâu quá rồi. Cũng có thể là một trong những ca phẫu thuật tại bệnh viện. Họ đến quá muộn, lại quá nhiều người. Rồi đến lúc bệnh nhân nào chết, thì họ lại luôn nhắc đến lỗi của bác sĩ.”
Ông thở dài, lắc đầu.
Ông nghĩ: Say rượu - chính là thế - say rượu… Và mình còn phẫu thuật chứ! Thần kinh thì loạn cả lên - tay thì run. Đúng là mình đã giết bà ấy. Khổ thân - bà già - nếu tỉnh táo thì việc đó đã quá đơn giản. May là còn có lòng trung thành của người trong nghề. Bà sơ biết thừa, đương nhiên - nhưng đã ngậm chặt miệng giùm. Chúa ơi, mình đã sốc! Tự kéo bản thân trở lại. Nhưng ai lại biết được chuyện đấy cơ chứ - sau từng ấy năm?
Một sự im lặng tràn ngập căn phòng. Tất cả mọi người đều nhìn Emily Brent, một cách giấu diếm hoặc công khai. Phải đến một, hai phút sau cụ mới nhận ra sự chờ đợi này. Cặp mày cụ rướn cao trên vầng trán hẹp. Cụ nói: “Mọi người đang chờ đợi ta phải nói điều gì? Ta không có gì để nói hết.”
Thẩm phán hỏi lại: “Không một chút gì sao, bà Brent?”
“Không gì hết.”
Môi cụ mím chặt lại.
Thẩm phán vuốt mặt mình. Ông nói với giọng êm ái: “Bà muốn giữ lại lời biện minh của mình sao?”
Cụ Brent nói lạnh lùng: “Không có gì mà phải biện hộ hết. Tôi luôn hành động đúng với những gì lương tâm mách bảo. Tôi chẳng có gì phải hổ thẹn cả.”
Một cảm giác không thỏa mãn bao trùm bầu không khí. Nhưng Emily Brent không phải loại người bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ của đám đông. Cụ ngồi không chút lay chuyển. Thẩm phán tằng hắng một hai lần. Rồi ông nói: “Cuộc điều tra của chúng ta dừng ở đây thôi. Bây giờ thì Rogers, còn ai ngoài chúng tôi và vợ chồng ông ở trên đảo này?”
“Không ai cả, thưa ông. Chẳng có ai hết.”
“Ông có chắc chắn là vậy không?”
“Hoàn toàn chắc, thưa ông.”
Wargrave nói: “Tôi cũng chưa rõ mục đích của việc ông chủ Vô Danh của chúng ta tụ họp tất cả ở đây. Nhưng theo tôi thì người này, dù là ai đi nữa, cũng không bình thường theo cái nghĩa mọi khi được chấp nhận.
Hắn ta có thể nguy hiểm. Theo ý tôi thì mọi người nên rời khỏi chỗ này càng sớm càng tốt. Tôi đề nghị chúng ta nên rời đi ngay tối nay.” Ông Rogers cho biết: “Xin lỗi, thưa ngài, nhưng không có con thuyền nào trên đảo cả.”
“Không có đến một cái ư?”
“Vâng, thưa ông.”
“Vậy ông liên lạc với đất liền như thế nào?”
“Fred Narracott, anh ta tới đây vào mỗi sáng, thưa ông. Anh ấy mang bánh mì với sữa cùng thư từ, rồi làm theo mệnh lệnh.”
Ông thẩm phán Wargrave nói: “Vậy thì tôi nghĩ là sẽ tốt hơn nếu chúng ta rời vào sáng mai ngay khi thuyền của Narracott cập bờ.” Một loạt điệp khúc đồng tình vang lên và trong đó có duy nhất một giọng bất mãn. Người phản đối đám đông ấy là Anthony Marston. “Thế có đúng tinh thần thượng võ không?” Anh lên tiếng. “Phải tìm cho ra nhẽ trò bí ẩn này trước khi về chứ. Tất cả mọi thứ như là một câu chuyện trinh thám vậy. Rất gay cấn mà.”
Thẩm phán nói giọng chua chát: “Cả đời, tôi chưa bao giờ ham hố gì cái ‘gay cấn’ như cách mà cậu gọi đâu.”
Anthony nhếch miệng nói: “Cả đời chỉ biết có luật pháp thì nông lắm! Tôi khoái mạo hiểm! Đây chính là cơ hội.”
Đoạn anh lấy ly rượu và nốc hết sạch chỉ với một hớp. Quá vội, chắc thế. Anh ta bị nghẹn - nghẹn nặng. Mặt anh méo mó, chuyển thành màu tím tái. Anh cố hớp lấy không khí - rồi trượt khỏi ghế của mình, ly rượu rơi khỏi bàn tay.
Chương 5
Mọi thứ quá đột ngột và khó lường đến nỗi mọi người đều sững sờ. Họ vẫn dán mắt vào cái hình thù co quắp trên sàn một cách ngu ngốc. Rồi bác sĩ Armstrong băng tới, quỳ bên cạnh chỗ Anthony. Ông ngước mắt lên với vẻ kinh hoàng.
Ông trầm hẳn giọng thì thầm vì kinh hãi: “Trời ơi! Anh ta chết rồi.” Họ không hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Không thể hiểu nổi ngay lúc đó.
Chết? Chết ư? Vị thần trẻ Bắc Âu đang còn trong thời kỳ sung sức cường tráng bị hạ gục chỉ trong giây lát. Thanh niên khỏe mạnh không thể chết như vậy được, bị nghẹn vì rượu whisky pha sô-đa… Không, họ không thể hiểu nổi.
Bác sĩ Armstrong đang soi xét kỹ khuôn mặt người đàn ông đã chết. Ông đưa mũi lại gần cặp môi tái nhợt co rúm. Rồi ông nhấc chiếc ly mà Anthony vừa dùng.
Tướng Macarthur không khỏi lấy làm thắc mắc: “Chết thật ư? Ý ông là cậu ấy bị nghẹn mà - chết được ư?”
Vị thầy thuốc nói: “Ông có thể gọi là nghẹn, nếu muốn. Chắc cậu ấy đã chết vì ngạt thở.”
Lần này thì ông đang ngửi chiếc ly. Ông chấm đầu ngón tay vào phần
cặn rồi đưa lên đầu lưỡi nếm đầy cảnh giác.
Thái độ ông thay đổi.
Tướng Macarthur nói: “Chẳng thể tin được là một người có thể chết như vậy - chỉ vì bị nghẹn.”
Emily Brent nói với giọng rõ ràng: “Ngay trong cuộc sống thì ta đã nằm trong cái chết rồi.”
Bác sĩ Armstrong đứng dậy. Ông nói cộc lốc: “Không, cậu ấy không hề chết vì nghẹn. Cái chết của Marston không thể gọi là cái chết bình thường được.”
Vera nói khẽ như thì thầm: “Vậy là - có gì đó - trong rượu whisky ư?” Armstrong gật đầu.
“Đúng thế. Không thể kết luận chính xác được. Có vẻ là do một loại xyanua. Không có mùi dễ nhận biết của axit prussic, cũng có thể là kali xyanua. Nó có phản ứng khá tức thì.”
Thẩm phán nói sắc lẻm: “Ở trong ly rượu của cậu ấy sao?” “Đúng.”
Bác sĩ sải bước đến bên chiếc bàn nơi có đồ uống, ông bật nút chai whisky rồi ngửi và nếm nó. Đoạn ông thử nước sô-đa. Ông lắc đầu. “Tất cả đều không có gì lạ.”
Lombard cũng lên tiếng: “Ý ông là - cậu ấy đích thân bỏ chất đó vào chiếc ly ư?”
Armstrong gật đầu với thái độ thất vọng kỳ lạ. Ông nói: “Có vẻ như vậy.”
Blore hỏi: “Tự tử à? Nhưng thế thì thật lạ.”
Vera tỏ ra từ tốn: “Chẳng ai tin được là anh ấy lại tự kết liễu bản thân
mình như thế. Anh ấy quá sôi nổi. Anh ấy - ờm - yêu bản thân mình! Cái lúc mà anh ấy đi xuống đồi trong chiếc xe chiều tối nay trông thật - thật là - ôi tôi không giải thích được!”
Nhưng bọn họ đều hiểu rõ ý cô. Anthony Marston, đang trên đỉnh cao của tuổi thanh xuân cường tráng, trông như một người bất tử vậy. Còn bây giờ, co quắp và méo mó, anh đang nằm trên sàn nhà.
Bác sĩ Armstrong đặt nghi vấn: “Còn có khả năng nào ngoài tự tử không?”
Dần dần mọi người đều lắc đầu. Chẳng còn cách giải thích nào hơn. Bản thân đồ uống thì không bị pha thuốc độc. Họ đều tận mắt thấy Anthony Marston tới bàn và tự rót cho mình ly rượu. Từ đó chỉ ra mỗi một điều là bất cứ chất xyanua nào trong đồ uống cũng phải do chính Anthony Marston bỏ vào. Thế nhưng - vì sao Anthony Marston lại tự tử?
Blore nói với vẻ suy ngẫm: “Ông biết không, bác sĩ. Tôi thấy mọi việc đều có gì đó không ổn. Tôi không nghĩ cậu Marston lại là loại người tự kết liễu bản thân như vậy.”
Armstrong tán thành: “Tôi cũng nghĩ vậy.”
Họ dừng ở đó. Còn gì để bàn tán nữa?
Armstrong cùng Lombard bê cái xác bất động của Anthony Marston tới chiếc giường của anh và để anh nằm đó với tấm khăn trùm lên trên. Khi họ xuống cầu thang một lần nữa, những người khác đang tụ lại thành một nhóm, hơi run rẩy, mặc dù tối hôm ấy không hề lạnh. Cụ Emily Brent đề nghị: “Chúng ta nên về phòng ngủ thôi. Khuya rồi.”
Lúc ấy là mười hai giờ kém hai mươi. Lời gợi ý ấy thật khôn ngoan - nhưng tất cả mọi người đều chần chừ. Cứ như thể họ đang muốn bám chặt vào nhau để đảm bảo an toàn.
Thẩm phán tán thành: “Vâng, chúng ta nên ngủ một giấc.” Ông Rogers cho biết: “Tôi vẫn chưa dọn dẹp xong - trong phòng ăn.” Lombard nói cụt ngủn: “Dọn vào buổi sáng ấy.”
Armstrong hỏi han ông ta: “Vợ ông sao rồi?”
“Tôi sẽ lên xem sao, thưa ông.”
Ông quay lại khoảng một, hai phút sau.
“Bà ấy ngủ ngon lành.”
“Tốt,” bác sĩ nói. “Đừng đánh thức bà ấy dậy.”
“Vâng, thưa ông. Tôi sẽ chỉ để các thứ như vậy trong phòng ăn tối và kiểm tra khóa kỹ càng, rồi tôi sẽ đi ngủ.”
Nói rồi người đàn ông sải bước qua sảnh tới phòng ăn tối. Những người khác dần dần bỏ lên gác, với điệu bộ miễn cưỡng chậm chạp.
Nếu như đây là một ngôi nhà cổ, với những ván gỗ cót két, và bóng tối, với những bức tường bít ván dày cộp, thì hẳn đã gây cảm giác rợn tóc gáy. Nhưng ngôi nhà này lại toàn những thứ hiện đại. Không góc tối - không ván gỗ nào bị vênh - tràn ngập ánh sáng với đèn điện - tất cả mọi thứ đều mới và sạch bóng. Chẳng có gì gọi là bí hiểm trong ngôi nhà này, không có gì bị che giấu. Nó chẳng mang bầu không khí gì như thế cả.
Theo một cách nào đó, đấy lại chính là điều đáng sợ nhất trong tất cả mọi thứ…
Họ chúc nhau ngủ ngon tại thềm chiếu nghỉ. Mỗi người về phòng riêng
của mình, và mỗi người tự động, hầu như chẳng chút suy nghĩ, khóa trái cửa lại…
Trong căn phòng nhạt màu dễ chịu của mình, ông thẩm phán Wargrave bắt đầu thay quần áo chuẩn bị đi ngủ.
Ông đang nghĩ tới Edward Seton.
Ông còn nhớ Seton rất rõ. Tóc thẳng, mắt xanh biển, cái thói quen nhìn thẳng vào mặt người khác với một vẻ thẳng thắn dễ chịu. Đó là lý do vì sao hắn đã gây được ấn tượng tốt đẹp với bồi thẩm đoàn.
Llewellyn, đại diện của tòa hình sự, có hơi vụng về một chút. Tên này có vẻ hăng hái quá độ, lại cố chứng tỏ quá nhiều.
Mặt khác thì Matthews, đại diện bên bị đơn, lại xoay xở tốt. Luận điểm thì rõ ràng. Phiên thẩm vấn khá hóc búa. Cách hắn ứng xử với thân chủ của mình trên bục nhân chứng cũng thật tài tình.
Và Seton đã vượt qua được màn thẩm vấn thử thách khá ổn. Hắn không quá phấn khích hay tỏ ra hăng hái. Ban bồi thẩm đã vô cùng ấn tượng. Đối với Matthews, có lẽ mọi thứ như đã chắc chắn trong tầm tay.
Thẩm phán lên dây cót cho chiếc đồng hồ cẩn thận rồi để bên cạnh giường.
Ông còn nhớ chính xác cảm giác của mình khi ngồi đó - lắng nghe, ghi chép, đánh giá mọi thứ, phân loại từng chứng cớ vụn vặt có thể dùng để chống lại tên tù nhân.
Ông đã rất khoái vụ án đó! Lần bào chữa cuối của Matthews thật xuất sắc. Llewellyn, tới lượt ngay sau đó, thì lại thất bại trong việc xóa đi cái ấn tượng tốt đẹp mà bên bào chữa đã gầy dựng được.
Và rồi đến lượt lời kết án của chính ông…
Một cách cẩn thận, thẩm phán Wargrave tháo hàm răng giả của mình rồi thả vào cốc nước. Cái miệng móm lộ ra. Thay vào đó là một đôi môi độc ác của thú săn mồi.
Đôi mắt lim dim, vị thẩm phán mỉm cười một mình.
Ông đã cho tên Seton đó một bài học đích đáng!
Với cơn đau âm ỉ do bệnh thấp khớp, ông trèo lên giường và tắt đèn điện.
Trong phòng khách dưới nhà, ông Rogers đang đứng lặng trong bối rối. Ông đang nhìn chằm chằm vào mấy hình thù bằng sứ ở giữa bàn. Ông lẩm bẩm một mình: “Thật lạ làm sao! Mình thề là khi nãy còn mười chiếc đúng.”
Tướng Macarthur vẫn đang trở mình liên tục hết bên này sang bên nọ. Giấc ngủ mãi không đến với ông.
Trong bóng tối ông liên tục thấy khuôn mặt của Arthur Richmond. Ông đã rất quý cậu ta - ông đã rất ưu đãi Arthur. Ông còn lấy làm hài lòng là Leslie cũng mến cậu.
Leslie thật thất thường. Đã có biết bao nhiêu người tốt mà Leslie cứ từ chối đây đẩy rồi tuyên bố là chán. “Nhạt nhẽo!” Chỉ một từ như vậy. Nhưng rõ là ả không thấy Arthur Richmond nhạt nhẽo tẹo nào. Chúng đã có cảm tình với nhau ngay từ đầu. Chúng trò chuyện với nhau về tất thảy
những vở kịch rồi âm nhạc và hội họa. Ả trêu chọc hắn, cười nhạo hắn, giễu cợt hắn. Và ông, Macarthur, đã vui vẻ với cái ý nghĩ là Leslie đã đối xử với cậu ta như một người mẹ với đứa con trai.
Mẹ con gì cơ chứ! Thật ngu xuẩn khi không nhớ ra là Richmond mới hai mươi tám so với Leslie đang hai mươi chín tuổi.
Ông đã yêu Leslie, ông đang hình dung ra ả. Khuôn mặt trái xoan, đôi mắt sâu lúng liếng xám màu, và mái tóc xoăn nâu dày. Ông đã yêu Leslie mà tin tưởng ả đến tuyệt đối.
Giữa nước Pháp, ngay trong lúc tồi tệ nhất nơi địa ngục, ông đã nghĩ đến ả, lấy bức ảnh của ả ra khỏi túi áo quân phục.
Và rồi - ông đã phát hiện ra!
Mọi thứ diễn ra y hệt như trong truyện. Bức thư bị đút vào nhầm phong bì.
Ả vốn vẫn viết cho cả hai người và đã đút lá thư cho Richmond vào bao phong bì gửi cho chồng. Thậm chí ngay lúc này, sau ngần ấy năm trời, ông vẫn còn nhớ như in cú sốc khi đó - đau điếng…
Chúa ơi, đau đớn làm sao!
Và cuộc tình ấy cũng đã diễn ra được một khoảng thời gian. Bức thư đã chỉ ra rõ ràng. Những dịp cuối tuần! Lần đi cuối của Richmond… Leslie - Leslie và Arthur!
Quỷ tha ma bắt hắn đi! Đáng nguyền rủa cái khuôn mặt cười cợt, cái cách hắn lanh lợi thưa: “Vâng, thưa ngài.” Thật dối trá, thật giả tạo! Cái loại đi ăn cướp vợ người khác!
Tất cả ngấm ngầm dồn nén lại - cơn tức giận giết người máu lạnh ấy. Ông đã cố tiếp tục tỏ ra bình thường - để không lộ ra điều gì. Ông đã cố
đối xử với Richmond hệt như trước.
Ông có thành công không? Ông nghĩ thế. Richmond không mảy may nghi ngờ. Tính khí thất thường là một chuyện dễ dàng gặp phải vì đó là nơi mà thần kinh con người luôn phải gồng lên chịu sức ép.
Chỉ có tên Armitage trẻ tuổi đó là có đôi lần nhìn ông với vẻ tò mò. Một tên trẻ tuổi, nhưng đã có cách nhìn nhận riêng, tên nhãi đó. Armitage, có lẽ, đã đoán được - khi mọi chuyện xảy ra.
Ông đã cố tình đẩy Richmond tới chỗ chết. Chỉ có phép mầu mới có thể giúp hắn thoát khỏi đó lành lặn. Phép mầu đó đã không xuất hiện. Đúng thế, ông đã ném Richmond vào chỗ chết mà không một chút hối tiếc. Mọi thứ đã khá dễ dàng. Sai lầm thì lúc nào chẳng gặp phải, lính luôn bị gửi đến chỗ chết một cách không cần thiết. Tất cả chỉ là sự khó hiểu, hoảng loạn. Mọi người sau đó có thể nói: “Lão Macarthur già có hơi mất trí một chút, mắc phải một số sai lầm khủng khiếp, hy sinh mất vài người tốt nhất của lão.” Họ cũng chẳng thể nói thêm gì nữa.
Nhưng tên Armitage trẻ kia lại khác. Hắn nhìn sĩ quan chỉ huy của hắn một cách kỳ lạ. Chắc hắn biết, rằng Richmond đã bị đẩy đến chỗ chết một cách có chủ ý.
(Sau khi chiến tranh kết thúc - liệu Armitage có hé răng điều gì không?) Leslie không hay biết. Leslie có lẽ đã khóc lóc vì tên tình nhân trẻ của ả (ông đoán vậy) nhưng màn nước mắt ấy đã chấm dứt trước khi ông trở về nước Anh. Ông chẳng bao giờ nói với ả là ông đã biết hết mọi chuyện. Họ lại tiếp tục sống với nhau - chỉ mỗi một điều, ả chẳng bao giờ còn thật như trước nữa. Và rồi, ba bốn năm sau, ả đã bị hai lần viêm phổi rồi qua đời. Đã lâu lắm rồi. Mười lăm năm - mười sáu năm?
Rồi ông rời khỏi quân đội và chuyển về sống ở Devon - mua một căn nhà nhỏ mà ông vẫn luôn muốn có. Hàng xóm thì tốt bụng - ấy là một nơi dễ chịu nhất trên đời. Chỉ có vài cuộc săn bắn hay đánh cá gì đó. Ông thường đến nhà thờ vào các Chủ nhật (trừ đúng những ngày mà có bài giảng đạo về việc vua David gửi Uriah ra tiền tuyến. Có điều gì đó khiến ông không thể đối mặt được với nó. Cái cảm giác khó chịu mà nó đem lại).
Tất cả mọi người đều rất thân thiện. Thoạt đầu thì như vậy. Về sau ông lại có cái cảm giác không mấy dễ chịu là người ta bàn tán sau lưng ông. Họ nhìn ông với con mắt khác, vì lẽ gì đó. Như thể họ đã nghe được chuyện gì - một lời đồn bịa đặt nào đó…
(Armitage ư? Coi như là Armitage đã nói vậy).
Từ đó ông cố lánh mặt mọi người - rút về ẩn dật. Thật chẳng mấy thoải mái gì khi có cảm giác mọi người thì thầm sau lưng mình. Và tất cả những thứ ấy đã trôi qua quá lâu rồi. Thật chẳng để làm gì nữa. Leslie nay đã lui về quá khứ và cả Arthur Richmond nữa. Chẳng có chuyện gì đáng để bận tâm nữa rồi.
Nhưng nó khiến cuộc đời thật cô đơn. Ông đã cố tránh mặt cả những người bạn lính già. (Nếu Armitage đã hé răng, thì họ cũng phải biết về chuyện đó).
Và bây giờ - buổi tối nay - cái giọng nói bí ẩn đó đã làm om sòm lên cái chuyện quá khứ được giấu kín ấy.
Ông đã đối mặt với chuyện đó ổn thỏa chứ? Giữ chặt cái miệng? Phản bội lại cái phần cảm giác tự nhiên - sự phẫn uất, sự khinh bỉ - và không hề mang mặc cảm tội lỗi, không chút bối rối? Thật khó mà nói được.
Chắc chắn một điều là chẳng ai có thể nghĩ lời buộc tội đó là thật. Còn có cả một mớ những điều phi lý khác, cũng khó tin hệt như vậy. Cả cô gái
khả ái đó nữa - giọng nói vu cho cô tội làm một đứa trẻ chết đuối! Thật ngu xuẩn! Một tên điên rồ tung ra những lời vu khống vô tội vạ. Emily Brent nữa - thực ra là người cháu gái của Tom Brent thuộc trung đoàn cũ. Giọng nói đã buộc tội bà ta giết người! Bất cứ ai dù có mù một mắt cũng thấy là người đàn bà đó sùng đạo hết mực - loại người có thể sánh vai cùng với mấy vị linh mục hay cha xứ.
Toàn mấy chuyện kỳ cục chết giẫm! Thật điên rồ, chẳng còn gì khác nữa.
Kể từ khi họ bước chân tới đây - mà đó là lúc nào nhỉ? Gì chứ, chết tiệt, cũng mới từ chiều nay chứ mấy! Thời gian có vẻ lâu hơn. Ông nghĩ: “Không biết đến bao giờ thoát khỏi cái chốn này.” Sáng mai, tất nhiên rồi, khi chiếc thuyền máy từ đất liền đến. Thật buồn cười, ngay lúc này ông không muốn thoát khỏi cái hòn đảo này lắm… Phải trở lại đất liền, trở lại ngôi nhà nhỏ của ông, trở lại với toàn những âu lo và rắc rối. Qua ô cửa sổ đang mở, ông có thể nghe thấy tiếng sóng xô vào đá - tiếng động có vẻ ầm ào hơn so với lúc tối. Gió cũng đang nổi lên.
Ông nghĩ: Âm thanh êm ái. Một nơi thật yên bình…
Ông nghĩ: Điều tuyệt vời nhất về một hòn đảo là một khi đã tới đó - người ta không thể đi đâu xa hơn nữa… người ta đã tới nơi cuối cùng… Đột nhiên, ông hiểu ra, rằng ông không muốn rời khỏi hòn đảo.
Vera Claythorne nằm trên giường, nhìn thao láo lên trần nhà. Chiếc đèn ngủ bên giường cô vẫn sáng. Cô thấy sợ bóng tối.
Cô đang ngẫm nghĩ: “Hugo… Hugo… Tại sao đêm nay mình lại thấy anh ấy gần như thế?… Ở đâu đó rất gần…
“Mà anh ấy đang ở đâu? Chẳng thể biết được. Mình cũng chẳng nên biết. Anh ấy chỉ biến mất - trong phút chốc - khỏi cuộc đời mình.” Thật vô ích khi cố gắng quên đi Hugo. Anh ấy luôn ở sát bên cạnh. Cô phải nghĩ tới anh ấy - để nhớ…
Cornwall…
Những phiến đá đen, bãi cát mềm mại vàng óng. Bà Hamilton, một người mập mạp, vui tính. Cyril lúc nào cũng mè nheo, kéo kéo tay cô. “Cháu muốn bơi ra chỗ đá cơ, cô Claythorne. Tại sao cháu lại không được bơi ra chỗ đá kia?”
Ngẩng mặt lên - cô bắt gặp ánh mắt Hugo đang nhìn mình. Tối hôm sau khi Cyril đã lên giường ngủ…
“Hãy đi dạo cùng tôi, cô Claythorne.”
“Tôi nghĩ là được thôi.”
Cuộc đi dạo trên bãi biển ấy thật tự nhiên. Ánh trăng đêm - bầu không khí trong nhẹ thổi vào từ Đại Tây Dương.
Và rồi, cánh tay Hugo ôm quàng lấy cô.
“Anh yêu em. Anh yêu em. Em biết là anh yêu em chứ, Vera?” Có, cô biết rõ. (Hoặc cô tưởng là cô biết).
“Anh không thể cầu hôn em được. Anh không có đến một xu dính túi. Tất cả những gì anh có thể làm là giữ được mạng sống cho mình. Thật kỳ lạ, em biết không, đã có lúc, trong khoảng ba tháng trời anh đã có cái cơ hội trở nên giàu có để mà mong đợi. Cyril chưa ra đời cho đến ba tháng sau cái chết của Maurice. Nếu nó là con gái…”
Nếu đứa bé là gái, thì Hugo đã được thừa hưởng cả gia tài. Anh đã khá thất vọng, anh thừa nhận như thế.
“Anh cũng không quá hy vọng, tất nhiên rồi. Nhưng anh có hơi sốc một chút. Thì biết sao được, may mắn là may mắn! Cyril là một đứa trẻ ngoan. Anh rất yêu quý nó.” Và anh cũng yêu mến nó thật. Luôn sẵn sàng chơi trò chơi hay làm trò cười cho cậu cháu trai bé nhỏ. Không có sự thù hằn gì trong con người Hugo.
Cyril không được khỏe mạnh cho lắm. Một đứa trẻ yếu đuối - không có khả năng chịu đựng. Ấy là dạng đứa trẻ mà, có lẽ, cũng chẳng thể sống được cho đến lúc lớn…
Và rồi…?
“Cô Claythorne, sao cháu lại không được bơi ra chỗ đá?” Cái câu nhõng nhẽo đầy khó chịu ấy cứ lặp đi lặp lại.
“Nó xa bờ quá, Cyril à.”
“Nhưng, cô Claythorne…”
Vera đứng dậy. Cô tới bên bàn trang điểm và nuốt lấy ba viên aspirin. Cô nghĩ: “Ước gì mình có được một giấc ngủ đúng nghĩa.” Cô nghĩ: “Nếu mình mà tự kết liễu bản thân thì mình đã uống cả tá viên
thuốc mê - hay thứ gì đó tương tự - chứ không phải xyanua!” Cô rùng mình khi nhớ tới khuôn mặt tím tái rúm ró của Anthony Marston.
Khi đi qua chỗ lò sưởi, cô nhìn vào bài thơ được đóng khung.
Mười tên lính nhỏ đi ăn,
Một tên chết nghẹn
giờ còn chín tên
Cô thầm nghĩ: “Thật kinh khủng - y hệt như những gì diễn ra tối nay vậy…”
Tại sao Anthony Marston lại muốn chết cơ chứ?
Cô không muốn chết.
Cô không thể tưởng tượng được ai đó lại muốn được chết… Cái chết là dành cho - những người khác…
Chương 6
Bác sĩ Armstrong đang mơ…
Trong căn phòng mổ nóng nực…
Chắc là bọn họ lại để nhiệt độ cao quá đây? Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt ông. Tay ông thì ướt nhẹp. Thật khó mà cầm chắc được dao mổ… Con dao mổ mới sắc làm sao…
Dễ mà giết người với một con dao như thế. Và dĩ nhiên rồi, lúc ấy ông đang giết người còn gì…
Toàn thân người đàn bà ấy nhìn có vẻ khác. Lúc nãy còn là một người béo mập nặng nề. Còn giờ lại trông gầy gò ốm yếu. Và khuôn mặt thì lại bị che khuất.
Người mà ông phải giết là ai vậy nhỉ?
Ông không thể nhớ nổi. Nhưng ông cần phải biết! Ông có nên hỏi bà sơ không?
Bà sơ đang theo dõi ông. Không, ông không thể hỏi bà ta được. Bà ta có vẻ nghi ngờ, ông thấy rõ điều đó.
Nhưng ai đang nằm trên bàn mổ mới được chứ?
Đáng lẽ họ không nên che khuôn mặt như vậy…
Giá như ông được thấy khuôn mặt đó…
A! Thế thì tốt hơn. Một viên tập sự đang kéo chiếc khăn che ra.
Emily Brent, ra vậy. Emily Brent chính là người mà ông cần giết. Mắt bà ta trông mới nham hiểm làm sao! Môi bà ta đang mấp máy. Bà ta đang nói gì vậy chứ?
“Ngay trong cuộc sống này thì chúng ta đã chết rồi…”
Bà ta đang cười. Không, y tá, đừng kéo khăn lên che tiếp. Tôi phải thấy, tôi phải gây mê. Ê-te đâu rồi? Tôi phải mang theo ê-te chứ. Các người làm gì với thuốc ê-te của tôi rồi, bà sơ? Chai rượu Châteauneuf-du-Pape ư? À, tốt quá.
Kéo cái khăn đó ra, y tá.
Tất nhiên rồi! Tôi biết ngay từ đầu mà! Đó là Anthony Marston! Mặt anh ta tím tái và co rúm lại, nhưng anh ta chưa chết hẳn - anh ta đang cười. Tôi thề là anh ta đang cười! Làm rung cả cái bàn mổ.
Cẩn thận kìa, cẩn thận chứ. Y tá, giữ chắc đi - giữ cho chắc… Bác sĩ Armstrong giật mình tỉnh dậy. Trời đã sáng. Ánh nắng đang ùa vào phòng.
Và có ai đó đang cúi người bên cạnh ông - lay người ông. Đó là ông Rogers. Ông Rogers, với khuôn mặt trắng bệch, lắp bắp: “Bác sĩ… bác sĩ!” Bác sĩ Armstrong tỉnh dậy ngay lập tức.
Ông ngồi bật dậy. Giọng nói thật sắc gọn: “Có chuyện gì vậy?” “Vợ tôi, thưa bác sĩ. Tôi không đánh thức được bà ấy. Chúa ơi! Tôi không làm cách nào đánh thức được bà ấy. Và… trông bà ấy có vẻ không bình thường.”
Bác sĩ Armstrong nhanh nhẹn và tỏ ra hữu ích. Ông choàng lên mình cái áo ngủ và đi theo ông Rogers.
Ông cúi xuống bên chiếc giường, nơi người phụ nữ đang nằm nghiêng
sang một bên không một động tĩnh, ông nhấc bàn tay lạnh lẽo, kéo mí mắt. Vài phút sau, ông mới đứng thẳng dậy và quay lại. Ông Rogers khẽ khàng: “Bà ấy… liệu có phải… bà ấy…?”
Ông ta liếm đôi môi khô.
Bác sĩ Armstrong gật đầu.
“Vâng, bà ấy đã qua đời.”
Mắt ông trầm ngâm nhìn người đàn ông đối diện, rồi lướt qua chiếc bàn cạnh giường, tới chỗ chậu rửa, rồi trở lại chỗ người phụ nữ đang ngủ. Ông Rogers hỏi: “Có phải… có phải… do t… tim bà ấy không, bác sĩ?” Bác sĩ Armstrong ngập ngừng một, hai phút trước khi trả lời. Rồi ông nói: “Sức khỏe bà ấy mọi khi thế nào?”
Viên quản gia trả lời: “Bà ấy có bị thấp khớp nhẹ.”
“Có bác sĩ nào kê đơn thuốc cho bà ấy không?”
“Bác sĩ ư?” Ông Rogers lặng nhìn. “Chẳng có bác sĩ nào cả trong suốt mấy năm trời - cả hai chúng tôi đều vậy.”
“Ông không có lý do gì để tin là bà ấy bị bệnh tim chứ?”
“Không, thưa bác sĩ. Tôi hầu như không biết gì hết.”
Armstrong hỏi tiếp: “Bà ấy ngủ có tốt không?”
Lúc này thì mắt ông Rogers xoáy thẳng vào mắt ông. Hai tay ông ta lại nắm lấy nhau vặn vẹo một cách khổ sở. Ông ta lẩm bẩm: “Bà ấy ngủ không được tốt cho lắm… Không.”
Ông bác sĩ nói gọn: “Bà ấy có uống thuốc gì để ngủ không?” Ông Rogers nhìn ông chằm chặp, vẻ ngạc nhiên.
“Uống thuốc ư? Để ngủ ư? Tôi không hay biết gì về chuyện đó. Tôi chắc chắn là bà ấy không dùng thuốc.”
Armstrong tới bên chậu rửa.
Ở đó có một vài chiếc lọ. Kem dưỡng tóc, nước hoa oải hương, lá cascara, dầu dưa chuột thoa tay, một lọ nước súc miệng, kem đánh răng và một ít dầu Elliman chữa thấp khớp.
Rogers giúp bằng cách mở ngăn kéo chỗ bàn trang điểm. Rồi họ tìm tiếp đến tủ quần áo. Nhưng không có dấu hiệu gì của thuốc ngủ hay bất cứ một viên thuốc nào.
Ông Rogers cho hay thêm: “Bà ấy chẳng ăn gì tối hôm qua, thưa ông, chỉ trừ mấy thứ tôi đưa…”
Khi tiếng chuông vang lên báo hiệu bữa sáng vào chín giờ thì mọi người đều đã thức giấc và đang đợi tiếng triệu tập.
Tướng Macarthur và thẩm phán vừa mới rảo bước trước hiên, trao đổi với nhau những câu nhận xét rời rạc về tình hình chính trị. Vera Claythorne và Philip Lombard đã lên đến ngọn đồi cao nhất trên đảo ngay sau ngôi nhà. Ở đó họ bắt gặp William Henry Blore, đang đứng nhìn đăm đăm về phía đất liền.
Ông ta lên tiếng: “Chưa thấy chiếc thuyền máy nào cả. Tôi đã đợi từ nãy đến giờ rồi.”
Vera cười nói: “Devon là một thị trấn ngái ngủ. Mọi thứ thường chậm chạp mà.”
Philip Lombard thì đang ngóng về phía khác, hướng ra biển. Anh đột ngột hỏi: “Mọi người thấy thời tiết thế nào?”
Ngước lên bầu trời, Blore nhận xét: “Tôi thấy có vẻ ổn.”
"""