"
Tuyển Tập Truyện Dịch - Miêng full mobi pdf epub azw3 [Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Truyện Dịch - Miêng full mobi pdf epub azw3 [Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
TUYỂN TẬP TRUYỆN DỊCH Tác giả: Miêng
Ebook: @nguyenthanh-cuibap Nguồn text:Internet
"T
TỰA
raduttore, traditore" ("Dịch là phản"). Biết thế mà vẫn dịch. Biết thế mà vẫn "phản bội", đôi khi không phải một mà hai lần : nhiều truyện ở đây đã đến với độc giả từ một bản không phải là nguyên tác ! Nếu không may bị chất vấn, chắc đương sự chỉ có thể chống chế bằng một luận cứ : tôi không nuôi cao vọng dịch hay và sát, chỉ mong dịch sao cho thoát !
Tôi vẫn mơ cho Miêng một ngày mai. Như một tác giả, chứ không phải dịch giả. Tôi thường trách Miêng mất quá nhiều thời giờ cho việc dịch thuật, xao lãng chuyện sáng tác. Nhưng làm sao có thể ngăn một người muốn luôn luôn sống chân thật, trọn vẹn với tình cảm của mình ? Làm sao có thể cản một con tim xúc động trước những chuyện người, rất người, quá người này, để vượt trên mọi rào chắn ngôn ngữ và văn hoá, cùng chia sẻ với các nhân vật trong truyện một cảnh ngộ hoặc khôi hài, hoặc thơ mộng, hoặc trớ trêu, hoặc bi đát... - nghĩa là loại hoàn cảnh có thể buộc mỗi người trong chúng ta lộ nguyên chân tướng ?
Từ mọi phía, những đầu óc tỉnh thức nói với chúng ta : văn chương bây giờ chỉ còn là một trò chơi ngôn ngữ. Và tất nhiên, trong cái trò chơi ấy, thì dịch văn kẻ khác là loại trò chơi dại dột vào bậc nhất đối với người cầm bút - trừ phi để kiếm tiền. Cứ tưởng tượng một hoạ sĩ, thay vì say mê sáng tạo những hình thể, màu sắc độc đáo của mình, lại mải miết sao vẽ các hoạ phẩm của những bậc thầy đã nổi tiếng ! Giới thiệu các nhà văn đã thành danh, dù ở mức độ quốc tế hay quốc gia, đều là một chuyện thừa tương tự ; và cũng
tương tự, nó chỉ có thể làm rõ thêm khoảng cách, trong tư thế tác giả, giữa kẻ dịch và người được dịch.
Thật ra, văn chương bao giờ chẳng là một trò chơi ? Ngay từ khi mới xuất hiện. Chỉ có luật chơi là thay đổi tùy nơi, tùy thời. Song điều may mắn là trước bất cứ một trò chơi gì, luật chơi nào, người ta vẫn có thể bày tỏ một thái độ : "chơi thật" hoặc "chơi chơi". Nếu "chơi thật" là đầu tư tất cả tâm trí vào đấy, vì và chỉ vì trân trọng một khiá cạnh nào đó của văn chương, dù biết trước mọi thua thiệt, dù phải lội ngược thời trang, thì Miêng đã chơi rất thật.
Hãy đọc tập truyện dịch này với tất cả sự nghiêm khắc cần thiết về mặt ngôn từ và kỹ thuật chuyển ngữ. Nhưng hãy khoan thai bước vào những cảnh ngộ trong truyện với tất cả tấm lòng, để cùng chia sẻ với các tác giả và người dịch, để sống với những nhân vật trong truyện, một chút gì nòi tình chúng ta hằng gọi là nhân tính.
Phạm Trọng Luật,
Paris 09/2000
Hwang Sun-Won,1953 - (Kwabu).
BÀ GÓA
B
à Hàn rất hãnh diện là trong đời, không một người đàn ông nào sờ được vào thân thể bà, dù chỉ là một lọn tóc.
Hồi mười lăm tuổi - cái tuổi hãy còn vô tư - bà đã được hứa hôn với con trai cả cụ Kim, bậc danh giá trong làng. Trước lễ cưới ít lâu, người con trai té cây chết. Cụ Hàn bố, cứ nhắc nhở là" trung thần bất sự nhị quân ", tôi trung không thờ hai chúa, cho nên "tiết phụ bất tòng nhị phu", gái tiết không thờ hai chồng : kết luận, cụ ra lệnh con để tang chồng ba năm tròn. Mãn tang, cụ gửi con về nhà chồng dĩ nhiên chẳng còn chồng nữa. Cô gái lớn lên và già ở đó, goá bụa và trinh trắng, đầy phẩm hạnh, mòn nhẵn với thời gian như viên sỏi bị nước mài dũa, cho đến năm vào tuổi bảy mươi.
Từ khi nào chỉ có trời mới biết, bà Hàn coi đàn ông là đồ vật bẩn thỉu. Bây giờ cũng vậy, tuy đã thất tuần, bà rất nhạy cảm trước mùi đàn ông và bày tỏ vẻ ghê tởm bằng cách nhíu mày. Ai mà có mùi mồ hôi thì được bà mời tránh xa, khỏi phải màu mè.
Bà cũng không thích trẻ con, có lẽ tại thói quen lâu ngày của cuộc đời đơn độc. Từ lâu, bà con trong họ đã vận động thu xếp để bà nuôi một trong những đứa cháu, nhưng bà không nhận.
Trẻ nhỏ - tụi nó đánh hơi thần kỳ - cũng không ưa gì "bà cô" thiếu ngọt ngào này. Một hôm, mấy đứa cháu gái đòi bà kể chuyện...
- Ngày xưa, có nhiều chuyện ghê gớm xảy ra...
- Chuyện gì vậy bà ?
- Ban đêm, họ bắt cóc mấy bà goá.
- Thiệt hả bà ? Mà ai bắt cóc họ vậy ?
- Mấy tụi lưu manh...
- Mà tại sao chớ ?
- Ðể hiếp họ.
- "Hiếp" là gì bà ?
- À cái đó, tụi con không cần biết, tụi con... Ban đêm bà rất sợ, bà run...
- Bà ? Mà tại sao lại là bà ?
- Bởi vì họ ưa bắt cóc những cô xinh xắn.
- Nhưng bà là bà cô già mà ?
- Thời đó bà rất xinh. Bà phải bôi lọ lên cho thành xấu xí đi. - Thiệt hả bà ?
Bà lại kể cùng câu chuyện này cho các cháu gái trong dịp khác. Mới đầu thì chúng còn hỏi tới hỏi lui vì tò mò. Nhưng rồi cứ nghe hoài một chuyện, thét chúng nản, cảm thấy bị bà dùng làm thính giả bất đắc dĩ, chán ngắt, nên tìm cách tránh.
Bà Hàn than phiền là tụi con gái thời nay đứa nào cũng xảo trá vô dụng, rồi rút về phòng nằm dài. Phòng bà luôn luôn ngăn nắp. Bà thường trực tự lau chùi dẫu tìm ra người làm không khó khăn gì. Vì sống một mình, bà bị ám ảnh về mục vệ sinh ngăn nắp, cho chính bà và người chung quanh.
Toàn thị tộc họ Hàn kính trọng bà, niềm kính trọng lớn theo đối với những người có tuổi. Bà là người lớn tuổi nhất trong họ, lại nữa bà là con cháu của chi phái cả họ Hàn.
Tuy đã già nhưng tuổi tác không đánh dấu mấy trên mặt bà. Tầm vóc bề thế của bà làm người ta không chú ý mấy đến lời bà phàn nàn. Thời son trẻ chắc bà không có cái đẹp tế nhị và mong manh. Và thường như ở những người đàn bà không hề sinh nở, lưng bà không còng, mắt không xếp nếp, mũi và tai vẫn giữ được vẻ thanh tú. Vết nhăn trên mặt không sâu lắm và gân bàn tay hãy còn mềm mại.
Khi buồn chán, bà thường đi thăm cô em dâu họ xa ở làng dưới.
Cô "em dâu" này, bà Phúc, cũng goá nhưng không còn trinh. Hồi mười bảy tuổi bà đã có chồng, là em bà con của bà Hàn. Người chồng mới mười hai tuổi. Hai năm sau, ông chết vì bệnh dịch.
Người đàn bà goá sống với bố mẹ chồng trong gần hai mươi năm trời. Khi ông bố chồng trút hơi thở cuối cùng, bà cất một túp nhà tranh ở làng dưới để canh tác đất đai. Mặc dù trẻ hơn bà Hàn bốn năm tuổi, nhưng trông bà Phúc lại già hơn chị họ. Nếp nhăn hằn sâu trên khuôn mặt da màu đồng và tay gân guốc như đàn ông.
Khi bà Hàn ở nhà bà Phúc và bà này muốn cắt trái bí, bà Hàn cầm phụ một tay. Hay khi bà Phúc ngồi vào xa bắt đầu kéo sợï, bà
Hàn giúp quấn chỉ vào trục. Và nếu bà Phúc mỏi muốn nằm nghỉ thì bà chị họ cũng nằm bên cạnh chốc lát. Bà Hàn chẳng bao giờ quên tự hỏi tại sao cô em dâu họ mặc dầu chỉ có một thân một mình, chẳng phải lo cho ai, lại có thể để căn phòng bừa bộn đến thế.
Một hôm bà Hàn ghé thăm bà Phúc, nằm lại chơi một lát, và dầu trời không lạnh, bà cũng bị cảm. Gia đình cho người đi hốt thuốc Tàu ở ông lang cách đấy hai cây số.
Khi một trong những người cháu vào phòng bà với ấm thuốc trên tay, bà nói bất ngờ :
- Khi thím chết, mày chôn thím trên núi của tổ tiên nhé ! - Sao thím nói gở vậy ? Uống hết thuốc này là thím khoẻ liền mà.
Anh ta trả lời mà trong đầu thì nghĩ đúng rồi, một người già cỡ đó thì cũng như cái đèn sẽ tắt khi hết dầu thôi. Vậy thì tốt hơn hết là nhân cơ hội thuận tiện này phải hỏi ý kiến bà để giải quyết vấn đề cho xong :
- Khi thím mất, nếu mai táng thím cùng trong mộ chú con, thím nghĩ sao ? Ai cũng cho là vị trí mộ phần chú rất lý tưởng.
Bà Hàn tức thì chĩa cho thằng cháu cái nhìn nẩy lửa :
- Không bao giờ ! Tao biết đó là chồng tao, nhưng tao không muốn nằm cạnh ông ấy. Tại sao chết rồi tao lại đi gần một thằng đàn ông trong khi tao sống trinh tiết trong gần bảy chục năm trời ? Xương cốt ổng hẳn đã mục rữa rồi, không còn dấu vết gì. Trời đất, mộ của một thằng đàn ông ! Khiếp quá ! Tao không bao giờ muốn nghe nói chuyện đó nữa, mày hiểu chưa ?
Mặt bà đỏ rực lên như mặt con gái, không chỉ vì cơn sốt. Rồi bất chợt giật nẩy mình, bà la lên :
- Cút khỏi đây ngay ! Mày có cái gì hôi rình vậy ? Tụi đàn ông bây giống nhau quá, đứa nào cũng thối ! À cái mùi này ! Thật chịu không nổi !...
Tay bà làm dấu đuổi anh ta ra, mũi bà nhăn lại. Và không đợi gì thêm, bà quay lưng.
Sau ba ngày, bà Hàn có thể rời khỏi giường bệnh.
Hôm đó là một ngày xuân êm ả. Bà đi thăm cô em dâu. Bà ăn bận ấm áp, khoác áo choàng. Ðây là lần ra ngoài đầu tiên từ khi bị cảm.
Ðốt lửa trong bếp và quét nền đất xong, bà Phúc đặt bà Hàn nằm chỗ ấm nhất trong phòng.
- Dạo sau này hình như chị bị bệnh hả ?
- Ừ, bệnh ba ngày. Liền sau lần cuối ghé đây.
- Thường thì chị mạnh khỏe mà...
- À không, cũng chẳng còn bao lâu nữa đâu.
- Ðể chị coi, chị còn thọ hơn em.
- Mà sống lâu như vậy làm chi ? Từ đây tới đó còn vui thú gì nữa ? Nếu chết thì tôi cũng không có gì tiếc rẻ cả...
- Dầu sao, cả đời chị chẳng bao giờ có gì lo âu đau buồn cả. - Ðúng vậy, cả đời tôi không biết xấu hổ là gì.
Bà Phúc tiếp tục xe sợi :
- Một bà goá, mất chồng khi còn trẻ mà sống như chị quả là ngoại lệ.
Bà Phúc ngừng tay chốc lát, vẻ mơ màng.
- Nhưng chị biết không, có một trường hợp khác xa của chị. Bà vừa nói vừa hướng mắt về phía bà Hàn.
Ðất dưới gối vừa được quét sạch. Vậy mà bà Hàn khám phá ra có ít bụi, bà thổi đi, có vẻ phật ý. Cái nhìn của bà lướt từ những trái bầu trái bí chất đống trong góc tới đống giẻ rách rải rác trên chỗ đất ít được sưởi ấm. Làm sao nó có thể để căn phòng trong tình trạng như vầy khi mà nó chỉ một mình ?
Bà Phúc ngần ngừ như thể kể câu chuyện này là không phải, nhưng rồi cũng thốt ra :
Trong đời này, có một bà goá khác... Bà đã kết hôn với một cậu con trai, thực tế chỉ là một thằng bé con. Cậu chồng bé con của cô còn đi học, học chữ Tàu cổ. Cậu viết chữ rất đẹp. Cô ta thích chữ viết của chồng hơn là chính anh chồng. Ðối với cô, niềm vui duy nhất của cuộc hôn nhân là cất giữ cẩn thận những chữ viết của chồng.
Mùa hè sau ngày cưới hai năm, cơn dịch thương hàn làm chết nhiều người ở các làng trong vùng. Người chồng cũng không thoát khỏi. Cậu ta chết sau mười ngày bị sốt. Người vợ cố hết sức để cứu chồng : ngay cả chặt một ngón tay cho chồng uống máu tươi theo lời khuyên của các cụ. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Cô mang
tang chồng trong ba năm. Thỉnh thoảng đem những chữ chồng viết ra vừa lặng lẽ ngắm nghía vừa chua xót nghĩ tới thân phận mình.
Bố mẹ chồng cô là điền chủ khá giàu. Ðể giúp họ, cô làm lụng cực nhọc, ở nhà cũng như ngoài đồng.
Một năm trời đại hạn, mọi người trong gia đình đều phải góp hết sức mình để ngày đêm tưới nước cho đám ruộng gần con suối cạnh làng.
Một bữa khuya, người goá phụ trẻ chợt thức giấc. Cô nghe có tiếng động, hình như có người mở cửa phòng. Cô nằm bất động, câm lặng trong bóng tối. Cô cảm nhận rất gần hơi thở khan khản đàn ông. Cô thử ngồi lên : một sức mạnh đè lên ngực cô, sức nặng của hai bàn tay trai tráng. Cô muốn la lên nhưng có cái gì làm cô ngừng ngay lại : đó là mùi nước bùn, đến từ thân thể một người vừa tắm sông. Người goá phụ trẻ cảm thấy không còn sức lực.
Không nghi ngờ gì nữa, đích thị là anh ta rồi ! Từ mùa xuân, nông trại bố mẹ chồng có thêm hai cánh tay giúp sức của một người bà con xa. Mồ côi từ nhỏ, anh ta đi đó đây khắp các vùng xa xôi rồi trở về cố quận. Dù sao nông trại cũng cần người, cậu em trai chồng không thể kham nổi mọi việc một mình. Vậy là họ thuê anh.
Anh có dáng dấp dong dỏng cao, mũi rõ nét. Tánh tình trầm mặc ít lời, không bao giờ dính vào những cuộc trò chuyện tầm phào. Người ta nói anh đã từng làm tá điền ở nông trại nào đó trong một thời gian, nhưng vì không hạp với chủ, anh đã bỏ ông ta giữa ruộng trong một ngày đẹp trời rồi ra đi không thèm nhận tiền, dù là lương của rất nhiều năm.
Thỉnh thoảng cô và anh tình cờ gặp nhau, ví dụ trong sân, cái nhìn của người goá phụ trẻ bắt gặp cái nhìn của người đàn ông. Một cái nhìn rắn rỏi như chưa bao giờ cô có thể nhìn thấy trong mắt cậu chồng quá cố. Con tim goá phụ rộn ràng và mặt cô nóng bừng.
Mấy hôm nay người đàn ông rất bận bịu, cùng làm với ông bố chồng công việc dẫn thủy. Ðêm đó cũng vậy, anh ta cũng phải lao dịch.
Dưới thân thể của người đàn ông có mùi nước bùn, cô ráng suy nghĩ... Nếu cô chết đi, mọi việc sẽ tự dàn xếp trong chốc lát.
Cô sẽ tự tử, ừ, cô muốn làm thế lắm. Trầm mình, hay treo cổ ? Tốt hơn hết là nuốt chất sút hóa học dùng để rửa chén.
Sáng hôm sau, vào kho chứa đồ, cô dở nắp đậy cái bình vẫn đựng sút ra. Nó trống rỗng. Cô trực nhớ là mẹ chồng đã cho bà hàng xóm mượn hôm qua hôm kia gì đó. Vậy là phải chờ tới lần họp chợ tới.
Ðêm sau, cô khoá phòng mình bên trong. Dĩ nhiên là giấc ngủ không đến. Cô cố vểnh tai nghe từng tiếng động, không đừng được. Và cô giật thót người khi những con chim đêm tới đậu trên mái trước.
Cuối cùng cô giải quyết bằng cách bỏ móc khoá cửa ra. Nếu vạn nhất người ta tới và cửa bị khoá thì tiếng động của cái móc sẽ làm ồn đến tận phòng bố mẹ chồng. Ðiều đó còn nguy hơn nữa !
Ngày đông chợ, bà hàng xóm trả lại chất sút đã mượn. Cô nấu hết chăn màn trong nhà và giật mình nhận ra là không biết từ bao giờ, cô cứ mang tâm trạng chờ đêm xuống.
Khi nhựa xuân tràn trề trên các cây liễu gần con suối trước nhà, vòng eo của người goá trẻ tròn trịa trông thấy. Cô siết chặt thắt lưng thêm chút nữa.
Một hôm trong bóng đêm, người đàn ông thì thầm :
- Mình đi khỏi đây đi, đi lập nghiệp chỗ khác. Ở những tỉnh mà hợp tác xã lo việc dẫn thủy, đời sống dễ dãi hơn nhiều. Ở đây khi thì nước nhiều quá, khi lại không đủ.
Cô im lặng, vùi trong bóng tối. Nhưng trong thâm tâm cô đã lấy quyết định rồi. Ðiều gì tốt cho anh ấy cũng sẽ tốt cho cô, và cái xấu cũng vậy.
Họ chọn đêm cuối cùng của tháng, một đêm không trăng. Người đàn ông đi trước và chờ cô ở chân đê, phía ngoài làng. Cô chờ đến tiếng gà gáy lần thứ hai mới rón rén bước ra khỏi phòng.
Cô bước xuống bực đá ngạch cửa. Rồi với những bước chân chó sói, trong sân, cô hướng về phía cổng. Nhưng thình lình cô khựng lại.
Giọng ông bố chồng trầm trầm và nghiêm khắc từ phòng chính vẳng đến tận chỗ cô :
- Bà đừng xía vào. Tôi cũng đã nhận thấy ít lâu nay rồi.
Mẹ chồng đáp lại nhưng cô nghe không rõ. Giọng đàn ông nói tiếp :
- Dù gì đi nữa thì bà cũng im đi ! Nếu không tôi sẽ lấy rìu chẻ vỡ sọ nó ra. Cứ để mặc tôi làm !
Bỗng chốc người goá trẻ cảm thấy lương tâm thức dậy. Cô tự nhủ cô không có quyền bỏ đi tìm hạnh phúc cho riêng mình. Phải chờ tự bố chồng quyết định lấy. Phải không ?
Cô trở về phòng và cảm thấy chưa bao giờ lòng mình thanh thản đến thế. Anh ấy cứ đi đi. Ừ, trong tận cùng thâm tâm, cô hy vọng là chờ lâu quá, người đàn ông sẽ chán nản bỏ đi một mình.
Nhưng người đàn ông quay về trước khi trời sáng. Anh hổn hển hỏi cô chuyện gì đã xảy ra. Anh tưởng là cô bị ông bố chồng giữ lại. Anh đặt xuống hòn đá to mà anh đã chuẩn bị để chống cự với ông, nếu cần. Vừa sung sướng vì anh trở lại, vừa kinh hoàng, cô khóc gập người, cố ghìm tiếng nấc.
Ngày hôm sau, lợi dụng lúc nghỉ tay, ông bố chồng dặn cô là từ nay thôi đừng ra giếng lấy nước nữa. Ông nói với giọng hết sức dịu dàng làm cô càng khiếp. Cô thích nghe cái câu mà cô đã tình cờ nghe được đêm trước hơn.
Ðầu mùa hè, cô khai hoa nở nhụy. May quá vào nửa đêm, chỉ có vầng trăng lưỡi liềm treo trên trời.
Cô sinh nở không khó khăn gì, trên lớp rơm, và tự mình cắt lấy cuống rốn.
Người đàn ông đi vào. Anh dang tay về phía đứa bé hãy còn dính đầy máu và cựa quậy tứ tung dưới ngọn đèn leo lét. Người goá phụ trẻ bất chợt đưa tay ngăn cản anh. Ðứa bé này, nhất định phải vất nó trong góc núi nào đó hoặc bên bờ suối. Họ đã đồng ý với nhau như thế rồi, mặc dầu chưa bao giờ thốt ra tiếng nào. Nhưng cô muốn giữ đứa bé sống, ít nhất cho tới khi bắt buộc phải bỏ rơi nó.
Người đàn ông bắt đầu bọc nó trong rơm, vẻ khó khăn. Cô bèn nảy ra một ý : cô mở tủ lấy ra một đống giấy - những tờ giấy nháp của cậu chồng quá cố. Cô không tỏ vẻ tiếc rẻ gì, ngược lại còn cảm thấy biết ơn : may sao có giấy này để bọc đứa bé sơ sinh !
Người đàn ông ra khỏi phòng, đứa bé trên tay.
Người goá phụ trẻ nghe tiếng bước chân ở bực cửa nhà. Ông bố chồng ! Trong chớp mắt, cô thấy lưỡi rìu loé sáng. Chính cô phải nhận nhát rìu đó. Vội vàng xô mạnh cửa, cô lao ra đứng chắn giữa ông bố chồng và người đàn ông.
Với vẻ tự tin tuyệt vời, ông bố chồng đưa cho anh cái thư :
- Tới địa chỉ này. Hình như là cháu tao vừa mới sinh mà đứa bé chết. Mày gửi đứa bé cho nó.
Giọng ông trầm tĩnh đáng nể, vậy mà tay cầm lá thư run bần bật dưới trăng.
Một ánh sáng sống động trong mắt người đàn ông. Cầm cái thư không nói lời nào, anh quay lưng bỏ đi.
- Còn mày, vào ngủ đi con.
Lát sau cô nghe tiếng bố chồng tự tay khêu lửa trong lò.
Ðêm đó ếch kêu ồm ộp vang rền trong cánh đồng trước nhà không ngớt.
Một tháng sau ông bố chồng nói với cô là ở dưới đó đứa bé mạnh khỏe, không thiếu sữa.
Vào khoảng đứa bé đầy năm, ông báo tin với con dâu là nghe đâu bố thằng bé đã lấy nó lại cách đó mấy hôm. Ðêm đó, một vầng trăng lưỡi liềm lơ lửng trên trời và tiếng ếch vang rền suốt đêm trong đám ruộng trước nhà.
Hai mươi năm trôi qua. Bà mẹ chồng chết, rồi năm sau ông bố chồng chết theo. Mấy ngày trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông gọi con dâu đến bên đầu giường :
- Bố đã phạm tội nặng với con. Hồi đó bố chỉ nghĩ tới việc cứu vãn danh dự gia đình. Tiếp theo là bố ân hận... Nên bố đã nhờ người dò la tin tức cha thằng bé khắp nơi. Nhưng bố tìm không ra... Con sẽ đau khổ suốt đời còn lại...
Ông cố giữ hai mi khép chặt nhưng vô ích, nước mắt trào ra. - Không đâu mà, bố !
Cô nghĩ là chính cô đã làm khổ ông bố già ghê gớm. Cô cúi xuống vùi đầu vào cạnh sườn ông cụ.
Ðể cho ông cụ máu, cô chặt đứt ngón nhẫn bàn tay mặt : muốn bố lành bịnh, đáng lẽ cô đã phải hiến hết máu mình.
Sau cái chết của bố chồng, cô để căn nhà rộng rãi cho em chồng, cất một căn nhà tranh ở làng dưới và ở đó.
Hè năm ngoái, một hôm đã trễ lắm rồi, sau khi nhổ hết mấy luống khoai cuối cùng, bà tính chuẩn bị bữa ăn tối thì nghe tiếng gọi của một người lạ mặt. Sau cánh cửa đan mắt cáo, trong bóng râm buổi tối, một người đàn ông đứng tuổi hỏi bà có thể cho anh ta qua đêm không. Vì căn nhà nằm ngay lối vào làng, thỉnh thoảng khách đi đường xin vào tá túc.
Ăn tối xong, người khách không quên khen món canh khoai. Anh đốt một điếu thuốc rồi hỏi thăm bà Phúc nào đó có sống trong làng này không. Bà goá phụ cảm thấy tim mình thót lên. Với bàn tay run rẩy, bà khêu thêm ngọn đèn. A cái mũi, cái sống mũi rõ nét này ! Không chủ ý, bà thổi tắt đèn đi.
Người khách tưởng là vì tuổi tác, tai bà cụ nghễnh ngãng không nghe nên hỏi lại là bà cụ Phúc có sống trong làng này không. Giọng bà run run :
- Bà ấy chết lâu rồi.
- Cháu cũng nghĩ vậy.
Anh thổi một hơi khói dài.
Bà goá thấy tiếc là đã tắt đèn nhưng lại không có can đảm thắp lại. Bà cũng thấy tiếc là đã trả lời như vậy. Bà có cảm tưởng mấy tiếng đó đã làm bà mất vĩnh viễn những gì quý báu nhất đối với bà. Nhưng lát sau bà lại nghĩ là thôi, như vậy tốt hơn. Kỷ niệm trong cơn hấp hối của bố chồng trở lại trong trí nhớ. "Bố đã phạm tội nặng với con. Hồi đó bố chỉ nghĩ cứu vãn danh dự gia đình. Con sẽ đau khổ suốt đời còn lại"... "Không đâu mà, bố !"
Bà goá bước ra ngoài. Trăng lưỡi liềm sáng trên trời. Tiếng ếch ồm ộp vang rền vẳng lên từ các thửa ruộng.
Người khách theo bà ra sân như thể anh ta cũng vậy, cũng không muốn ngủ. Anh ngồi bên cạnh bà goá rất lâu, không nói gì.
- Khi ngồi như vầy, kỷ niệm với cha cháu lại trở về. Cha cháu có thói quen ngồi trong sân những đêm mà ếch kêu rền như đêm nay,
tới nỗi khuya cũng không biết. Cháu cũng vậy, cháu cũng có thói quen đó hồi nào không hay.
- Cha cậu mất từ bao giờ ?
- Hôm nay là bảy ngày rồi. Trước khi mất, cha cháu cho biết là cháu có một người mẹ. Trước giờ cháu cứ tưởng cháu mất mẹ từ nhỏ. Cha cháu nói tên làng mẹ cháu ở, và tên mẹ cháu. Khi cái lễ thứ ba làm xong, cháu chạy thẳng tới đây. Mà mẹ cháu lại không còn trên đời nữa... Còn bác, bác biết rõ mẹ cháu chớ ?
- Dĩ nhiên... tôi nghĩ..., bây giờ... trong làng này chắc còn tôi là người duy nhất biết bà cụ. Bốn chục năm rồi đấy ! Khi tôi nghĩ tới ngày đó... ngay cả hôm nay...
- ... Ngay cả hôm nay ?
Bà goá phải cố gắng lắm để tiếp :
- Bà ấy rất đáng yêu.
- Tìm ngôi mộ có khó không bác ?
Bà cụ gật đầu trong bóng đêm :
- Dĩ nhiên... Bốn chục năm rồi... Còn con cái, cậu có mấy con ?
- Cháu có ba trai hai gái. Thằng con lớn đã bắt đầu làm việc năm nay, cháu nghĩ vậy là cha cháu cũng sắp được nghỉ ngơi chút đỉnh. Vậy mà cha cháu lại mất rồi. Cha cháu chỉ có cháu và tự giết mình bằng cách làm việc quần quật suốt đời.
Chỉ tới tảng sáng thì bà cụ mới ngủ được, một giấc ngủ đầy mộng mị. Mấy đứa cháu nội đông đúc như đàn ếch trong cánh đồng trước
nhà, chúng nhảy múa vui vẻ chung quanh bà và la hét thật to như đàn ếch. Bà nội thoát được khỏi chúng và đi trốn, mặc dù trong thâm tâm lại không muốn rời xa chúng chút nào. Bà khóc vì mủi lòng và hối tiếc.
Buổi sáng khi bà sửa soạn bữa điểm tâm thì người khách trọ quét sân. Bà nài nỉ anh đừng làm nhưng anh cứ tiếp tục. Anh bảo là đó là việc anh làm mỗi ngày ở nhà, và anh không thể ngồi yên chẳng làm gì.
Rồi anh hỏi bà có muốn anh bỏ khoai nằm ở góc sân vào bao không. Anh lau từng cái một, gỡ đất còn dính rồi bỏ vào bao, xếp vào kho thóc. Bà không thể không nhìn, từ cửa bếp, người đàn ông bản tính tự tin này !
Khi anh sắp từ giã, bà biếu anh hai trái bầu buộc vào nhau bằng một băng vải. Thoạt tiên anh từ chối : anh không thể nhận quà của người mà anh chưa cám ơn đủ đã cho anh tá túc qua đêm. Nhưng vì bà cụ ép mãi, nói là mấy trái bầu tốt nhất hái từ năm ngoái phải ăn cho hết, anh đành nhận.
Lúc anh bước qua cánh cửa đan mắt cáo, bà gọi :
- À này !
Từ tối qua, bà muốn biết anh ta cư ngụ ở đâu. Nhưng khi anh ngừng bước và quay về phía bà, bà chỉ tiến tới gần và vuốt nhẹ lên lưng anh như phủi bụi. Rồi bà sửa lại ve áo khoác của anh.
Bất chợt anh la lên và nắm lấy tay bà :
- Trời đất ! Cha cháu nói là mẹ cháu cũng có ngón nhẫn bàn tay trái bị cắt !
Bà cụ run rẩy toàn thân, lấy hết can đảm chìa cho anh xem bàn tay kia.
- Ô, bác hy sinh luôn cả ngón nhẫn bàn tay phải... Hai tay bác cho thấy là đời sống bác thật không dễ chút nào !
Anh tự nhủ là nếu mẹ mình còn sống, hẳn cụ giống hệt bà cụ này.
Người khách quay nhìn lại nhiều lần, ngay cả khi đã ra khỏi làng. Xa hơn, anh còn dừng trên khúc đường ngoằn ngoèo dẫn tới đèo, còn ngoái nhìn lại.
Bà goá không còn sức đứng vững nữa, phải tựa người vào hàng dậu...
- Chị à, vâng, còn có một bà goá trẻ khác, bà goá trẻ như vậy đó.
Hai bàn tay xe sợi - những bàn tay thiếu mất hai ngón - đơ ra một lát như bị đóng đinh.
Miệng hé mở, bà Hàn đã ngủ chỉ có trời mới biết tự lúc nào. Dịch theo bản tiếng Pháp : "Une veuve",
của Choi Mi-Kyung và Jean-Noel Juttet
Paris, Janvier 1998 - Aout 2000
HWANG Sun-Won (1915-2000)
Viết truyện, tiểu luận và làm thơ. Cùng với vài ba tác giả khác, Hwang Sun-Won được xem là cha đẻ của nền văn học Hàn Quốc hiện đại, và là tác giả đương đại duy nhất được đưa vào chương trình giáo dục. Du học ở Nhật, ông làm quen với Anh ngữ và văn
học Tây Phương tại đại học Waseda ; cũng tại đây, ông bắt đầu viết những truyện ngắn đầu tay. Sinh trưởng ở miền Bắc, ông đã chọn sống ở miền Nam khi đất nước chia đôi. Là nhân chứng của lịch sử Hàn Quốc, từ thời Nhật thuộc, qua cuộc chiến tranh Nam Bắc, cho đến công cuộc kỹ nghệ hoá ngày nay, ông không tha thiết mấy với những vấn đề tư tưởng hay lịch sử, mà chỉ chú trọng đến cuộc sống của thường dân, theo ông có lẽ là nạn nhân hơn là tác nhân của lịch sử. Xuất thân là nông dân, tác phẩm của ông là trí nhớ của đời sống nông thôn, là tâm hồn của một Hàn Quốc muôn thuở đang trên đường lột xác. Tác phẩm của ông phần lớn đã đượç dịch sang Anh văn, một số ít sang tiếng Pháp ("La Chienne de Moknomi", "Les Étoiles", "Le Vieux potier", "La Veuve", "L'Averse", "Ensemble", "Petite Ourse", "Le sacrifice du coq"...). Ông vừa tạ thế tại Séoul đêm 14 rạng 15-9-2000.
O'Henry - (After twenty years).
HAI MƯƠI NĂM SAU
V
iên cảnh sát đi tuần ngược lên đại lộ một cách oai phong. Vẻ oai phong cố hữu chớ không cố tình lấy le vì chẳng mấy ai chứng kiến. Lúc đó chỉ mới khoảng mười giờ đêm, nhưng từng đợt gió lạnh và trời muốn mưa làm đường sá vắng hẳn người.
Viên cảnh sát kiểm tra từng nhà, quay tròn cây ma trắc bằng động tác rắc rối ngoạn mục, thỉnh thoảng anh quay lại nhìn dọc đại lộ dài yên tĩnh với cái nhìn đầy cảnh giác. Thân hình vạm vỡ vẻ đàng hoàng tự tin, viên cảnh sát là hình ảnh đẹp đẽ của người giữ an bình xã hội. Ở khu này mọi sinh hoạt ngừng rất sớm. Thảng hoặc mới thấy ánh đèn tiệm thuốc lá hay một cái bar mở cửa suốt đêm, nhưng phần đông là tiệm tùng nên cửa đã đóng từ lâu rồi.
Khi đến giữa chừng một dãy nhà, viên cảnh sát bỗng dưng chậm bước. Ở lối vào tối thui tiệm bán đồ ngũ kim, một người đàn ông đang đứng tựa vào đấy, điếu xì gà chưa đốt trên môi. Khi viên cảnh sát đến bên cạnh, người đàn ông nói vội vàng giọng chắc nịch :
- Mọi việc đều ổn cả, ông cảnh sát ạ. Tôi chỉ chờ người bạn. Ðây là cái hẹn đã định trước từ hai mươi năm rồi. Ông thấy có vẻ lạ lùng phải không ? Vậy tôi giải thích cho ông nghe, nếu ông muốn chắc chắn là mọi việc đều bình thường, hợp pháp. Cũng gần khoảng hai mươi năm nay, trước kia có tiệm ăn tên" Big Joe Brady's "ngay chỗ tiệm đồ này đây.
- Tiệm ăn đó đã bị phá năm năm nay rồi. Viên cảnh sát xác nhận.
Người đàn ông đứng chỗ lối vào bật diêm châm thuốc. Ngọn lửa soi rõ khuôn mặt hơi xanh, quai hàm vuông, cặp mắt sắc bén với cái thẹo trắng nhỏ gần chân mày phải. Cái kẹp cà vạt nạm cục kim cương to tướng hơi kỳ. Anh ta nói :
- Tối nay là hai mươi năm rồi, tôi đã ăn tối tại" Big Joe Brady's "ở đây với Jimmy Wells, bạn thân nhất của tôi, người tuyệt vời nhất thế giới. Cậu ấy và tôi cùng lớn lên ở đất Nữu Ước này y như hai anh em. Lúc đó tôi mười tám và Jimmy hai mươi. Sáng hôm sau tôi phải đi miền Tây kiếm tiền. Ông không thể lôi Jimmy ra khỏi Nữu Ước được đâu. Cậu ta cho Nữu Ước là mảnh đất không đâu hơn trên đời. Rồi đêm đó chúng tôi giao ước là sẽ gặp lại hai mươi năm sau, đúng ngày giờ này, bất kể điều kiện sống như thế nào và bao nhiêu xa xôi cách trở phải vượt qua. Tin rằng trong hai mươi năm, số phận mỗi đứa đã được vạch rõ và của cải cũng đã có rồi, dù là gì chăng nữa.
Viên cảnh sát nói :
- Thú vị nhỉ. Nhưng tôi thấy giữa hai cuộc gặp gỡ có hơi lâu. Anh không bao giờ nhận được tin tức gì của bạn từ khi ra đi sao ?
- Có chớ. Chúng tôicó liên lạc một thời gian. Nhưng vài năm sau bặt tin nhau. Ông coi, miền Tây là một áp-phe khá lớn nên tôi xuôi ngược khắp nơi như thổ công. Tôi biết Jimmy sẽ gặp tôi ở đây nếu cậu ta còn sống, bởi vì cậu luôn luôn là người chân thật và trung thành nhất thế gian. Cậu không quên đâu. Tôi vượt cả ngàn cây số để tới đây tối nay, và sẽ được đền bù nếu bạn tôi cũng tới.
Người đứng chờ rút trong túi ra cái đồng hồ khá đẹp, nắp cẩn hột xoàn. Anh ta nói :
- Mười giờ kém ba phút. Chúng tôi đã chia tay ở đây, trước cửa tiệm ăn lúc đúng mười giờ.
Viên cảnh sát hỏi :
- Anh thành công ở miền Tây lắm phải không ?.
- Còn phải nói ! Giá Jimmy làm được một nửa như tôi ! Cậu ta hơi chậm chạp nhưng là người rất tốt. Tôi đã phải vật lộn với mấy tên cáo già thứ dữ để lập gia tài. Ở Nữu Ước con người đâm ra ù lì đi. Phải là miền Tây mới làm người ta sắc bén ra.
Viên cảnh sát quay tròn cây ma trắc bước đi vài bước :
- Tôi tiếp tục đi tuần nhé. Hy vọng là bạn anh sắp tới. Anh ta phải đến thật đúng giờ à ?
- Ô, không, tôi để dôi ra cho cậu ta ít nhất là nửa giờ chứ. Nếu Jimmy còn trên quả đất này thì cậu ta sẽ đến khoảng giờ đó. Xin chào ông cảnh sát.
- Chào anh.
Viên cảnh sát trả lời và tiếp tục cuộc tuần tiễu, kiểm tra từng cửa khi đi qua.
Trời đổ cơn mưa bụi thật lạnh và gió thổi từng cơn. Một ít người đi bộ còn trong khu này đang rảo bước, buồn rầu im lặng, cổ áo kéo cao, hai tay thọc sâu trong túi. Ở lối vào tiệm bán đồ ngũ kim, người đàn ông đã vượt cả ngàn cây số để giữ đúng một cái hẹn bấp bênh
đến độ vô lý với người bạn thời niên thiếu, đang hút xì gà và chờ đợi.
Anh ta đợi khoảng hai mươi phút thì một người đàn ông cao lớn mặc áo khoác dài, cổ áo dựng đứng tận tai, từ đầu đường kia vội vã tiến tới. Anh ta đến thẳng chỗ người đứng chờ và hơi ngập ngừng hỏi :
- Cậu đấy hả, Bob ?
Người đàn ông đứng chờ ở lối vào la lên :
- Cậu đấy hả, Jimmy Wells ?
Người mới tới vừa reo vừa cầm hai tay bạn trong tay mình :
- Trời ơi ! Ðích thị là Bob, đúng như hai với hai là bốn. Tớ chắc chắn là sẽ gặp cậu ở đây nếu cậu còn sống trên đời. Hừm, ừ, hai mươi năm quả là dài. Cái quán ăn cũ đã biến mất rồi Bob à. Tớ muốn nó còn đó, như vậy tụi mình lại có thể ăn tối với nhau. Miền Tây đãi ngộ cậu ra sao, hở ông bạn già ?
- Tuyệt. Nó cho tớ tất cả những gì tớ muốn. Cậu thay đổi nhiều đấy, Jimmy. Tớ không bao giờ nghĩ là cậu cao như vậy, ít nhất cũng cao hơn cả ngón tay.
- Ờ, sau hai mươi tuổi tớ có cao thêm chút đỉnh.
- Ở Nữu Ước có thành công không, Jimmy ?
- Tàm tạm thôi. Tớ có việc làm ở một trong các bộ của thành phố. Ði, Bob, tụi mình tới một chỗ tớ biết để nói nhiều về thời gian qua cho yên tĩnh.
Tay trong tay, hai người đi ngược lên phố. Người tới từ miền Tây, mà tánh tự cao được phóng đại bằng thành công, bắt đầu kể những nét chính về lịch sử nghề nghiệp mình. Người kia thì chìm kín trong áo khoác, chăm chú lắng nghe.
Ở góc đường có tiệm thuốc tây sáng rực ánh đèn. Khi họ tới dưới ánh sáng chói chang ấy, hai người cùng lúc quay lại chăm chăm nhìn mặt nhau.
Người đến từ miền Tây bỗng dừng lại nới tay ra. Anh ta nói khô khan :
- Anh không phải là Jimmy Wells. Hai mươi năm quả thực là lâu, nhưng không đủ lâu để biến cái mũi khoặm thành mũi tẹt được.
Người cao lớn trả lời :
- Ðôi khi thời gian ấy đủ để thay đổi một người chân thực thành kẻ bất lương. Anh đang trong tình trạng bị bắt từ mười phút rồi," công tử "Bob ạ. Chicago nghĩ là anh sẽ đi một vòng gần chỗ chúng tôi nên điện cho biết là họ muốn tán gẫu với anh một chút. Anh bình tĩnh nghe đấy chứ ? Như vậy là hợp lý. Giờ thì, trước khi đến bót, anh hãy đọc cái giấy người ta nhờ tôi trao tận tay anh cái đã. Anh có thể đọc trước cửa kiếng này. Của cảnh sát viên Wells gửi cho anh đấy.
Người đến từ miền Tây mở miếng giấy nhỏ người kia vừa đưa. Tay anh ta bất động khi bắt đầu đọc, nhưng khi đọc xong thì nó run lên. Mảnh giấy có vẻ ngắn gọn :
" Bob, tớ đã đến chỗ hẹn đúng giờ. Khi cậu bật diêm châm xì gà thì tớ thấy đó là khuôn mặt mà Chicago đang tìm. Không biết sao tớ
không thể tự mình làm công việc ấy, nên đã tìm một cảnh sát viên mặc thường phục đến để thi hành. Jimmy".
MIÊNG
Paris, Mars 1995
O'HENRY (1862-1910)
Tên thật là William Sydney Porter. O'Henry sinh ở Greensboro (North Carolina), và nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Rời ghế nhà trường từ tuổi 15, ông đã làm đủ thứ nghề và học nhiều ngoại ngữ để kiếm sống. Năm 1896, bị nghi ngờ ăn cắp tiền của một nhà băng nơi ông làm việc ở Austin, ông trốn sang Honduras và chỉ trở về khoảng 2 năm sau, khi nghe tin vợ đau nặng. Ông bị kết án 5 năm tù tại nhà lao Columbus (Ohio), song chỉ ở đấy 3 năm 3 tháng nhờ hạnh kiểm tốt. Ðiều lý thú là chính trong nhà lao mà ông bắt đầu viết truyện ngắn với nhiều bút hiệu. Ra tù, ông định cư tại New York từ năm 1902, và tiếp tục viết. Năm 1903, tờ "World" ở New York thuê ông viết mỗi tuần một truyện, đăng ngày Chúa Nhật. Ông nổi tiếng nhờ các truyện ngắn này và xuất bản được tất cả là 10 tuyển tập, từ 1904 cho tới 1910, năm ông mất tại New York. Những quyển nổi tiếng nhất in dưới dạng sách bỏ túi (London, Minster Classics) là : "Cabbages and Kings", "The Four Millions", "The Voice of the City", "Strictly Business", "Six and Sevens", "Waifs and Strays", "The Ransom of Red Chief"... Khung cảnh khi thì cuộc đời thô thiển và giản dị của miền Tây và Nam Hoa Kỳ, khi thì cuộc đời trong những thành phố lớn, nhất là New York. Nhân vật thường là những tên vô lại, không đạo đức, được diễn tả một cách sống động, tự nhiên. Ðoạn cuối của câu chuyện thường được kết cấu một cách khéo léo, luôn luôn bất ngờ như trong truyện "After twenty years", rút ra từ "O'Henry Stories" (London, Minster Classics). Từ 1918, bút hiệu của
ông được dùng cho một giải thưởng tiếng tăm - giải O'Henry - để trao tặng cho truyện ngắn nào được xem là hay nhất trong năm ở Hoa Kỳ.
Jim Phelan - (Curtain).
BỨC MÀN
"N
hà tù Fenfield, bên phải". Chiếc xe ca chạy chậm lại và du khách dán mắt vào cảnh tượng quái dị : giữa phong cảnh xanh tươi dễ chịu của đồng quê, một toà nhà khổng lồ bằng gạch đỏ sừng sững đứng chen mấy dãy nhà nhỏ san sát nhau càng làm nó tăng thêm vẻ bao la.
"Tù khổ sai, bên trái". Hướng dẫn viên du lịch biết rõ việc mình làm, biết đúng chỗ nào có gì đáng xem trên con đường anh ta đi qua mỗi ngày. Khoảng hai chục cái đầu quay từ nhà tù sang tù nhân, đúng y như những du khách khác đã làm trong các cuộc hành trình khác. Họ há mồm ra nhìn với vẻ ngỡ ngàng, nhíu mày hay rùng mình quay mặt đi tùy tính khí mỗi người, trong khi chiếc xe ca từ từ lăn bánh xuống đồi.
Vài trăm người đang làm việc rải rác trên đồng và đường làng. Trang bị bằng cày, cuốc, rìu và bay thợ nề, người của nhà lao đang bù đầu với công việc khổ sai của họ. Chỗ này một nhóm người kéo cây đã đẵn, chỗ kia một nhóm khác đang cố kéo cái xe mà chính họ bị móc vào đấy. Nhiều nhóm khác, mỗi nhóm có một người bận đồ xanh trông chừng, đang xây một bức tường sắp xong. Gần đó một đứa con nít chơi đùa và một cô gái đứng bên đường cái, nhìn du khách đi qua.
Thỉnh thoảng một du khách bình phẩm rằng Fenfield đã đổi khác. Họ luôn luôn chờ thấy một bức tường, một bức tường cao khép kín
cái im lặng và điều bí ẩn bên trong nhà lao. Các hướng dẫn viên biết rõ điều ấy, nên luôn luôn giới thiệu nhà tù trước, rồi sau mới cho du khách cái cảm giác rờn rợn với câu "Tù khổ sai, bên trái". Thông thường du khách bị xúc động mạnh khi nhìn thấy tù nhân lác đác khắp nơi - phía bên ngoài bức tường kinh dị đó.
Xe ca vừa chạy nhanh vừa rít lên và du khách hướng cái nhìn về chỗ khác. Tù nhân các nhóm làm việc hơi ngẩng đầu lên. Mấy cái trò đó đã quen thuộc quá rồi. Mỗi ngày, nhiều xe ca chạy qua với cùng một thứ khẩu hiệu "Nhà tù Fenfield, bên phải. Tù khổ sai, bên trái". Mỗi ngày, du khách dán cái nhìn vào tù nhân đang làm việc trên đồng, nhìn vào những người cai tù, nhìn vào bức tường chưa hoàn thành.
Bức tường bao một vòng thô ráp chung quanh nhà lao. Có lẽ dài khoảng một dặm. Hàng trăm năm nay, nơi đó vẫn mở ngỏ cho mọi người. Tù khổ sai làm việc trên đồng cỏ hay trên đường, trong khi cư dân quanh vùng chăm lo công việc của mình, không ai để ý ai. Rồi từ mấy năm nay, bức tường được bắt đầu xây lên. Chậm chạp trong cái vòng tròn bất thường, nó bò dài ra tới các đầu ranh giới của nhà lao. Cuối cùng, bây giờ nó hầu như gặp lại điểm khởi đầu. Cái vòng tròn gần như toàn vẹn.
"Fenfield... bên mặt... Tù khổ sai... bên trái". Cô gái đứng gần đường cái quay bỏ đi khi một chiếc xe ca khác đang chầm chậm xuống dốc. Cô đi ngang qua trước nhóm người đang làm việc chỗ bức tường và tiến về phía một căn nhà lớn nằm cạnh cửa nhà lao. Nhóm người lo việc xây cất không để ý gì đến cô, có lẽ cô là người qua lại thường xuyên. Cô gái có vẻ người giúp việc, mang giỏ thức ăn và tờ báo ; cả cô cũng vậy, cô cũng có vẻ quen thuộc với khung cảnh này lắm rồi.
Khi đi qua lỗ hổng bức tường, cô chậm bước. Viên cai tù quay lại nói chuyện với tù nhân. Một gói nhỏ từ tay cô gái rớt ra trên đống đá. Rồi cô quay trở lại lối đi dẫn về nhà.
Lỗ hổng trên tường nhỏ, rộng khoảng hơn hai mươi bộ, hai mươi bộ cuối cùng của một dặm. Một con đường nhỏ băng qua đó, dùng cho cả cư dân quanh vùng và tù nhân. Sắp tới, khi bức tường hoàn thành, cư dân sẽ phải tìm một lối đi khác và sẽ không thấy tù nhân xuất hiện nữa. Nhưng hiện tại con đường cũ vẫn còn đó, điểm tiếp xúc cuối cùng giữa hai thế giới - tù tội và tự do.
Khoảng hai mươi người làm việc trong nhóm xây cất, đang nâng từng tảng đá to, trộn vữa, đẩy xe cút kít. Xa hơn, một người làm việc một mình với cái bay và cái bàn xoa. Chàng thanh niên có lẽ vào khoảng hai mươi bảy tuổi, cao lớn, tóc hoe vàng, mang nẹp xanh trên tay áo và con số thêu xanh trên mũ cát két. Khi cô người làm đi ngang qua, anh không ngẩng đầu lên. Nhưng khi cô vừa đi khỏi, anh đặt cái bay xuống và băng qua lỗ hổng của tường.
Viên cai tù không để ý gì. Ngay cả cư dân vùng đó cũng thừa biết là một người "mang nẹp xanh" có thể di chuyển đó đây không hề bị theo dõi. Người tù khổ sai nâng vài tảng đá trong đống đá bỏ lên xe cút kít rồi đẩy đi qua lỗ tường. Sau mấy phút anh lại trát vữa với vẻ chuyên cần, nhưng bàn tay cầm cái bay có dấu một gói con con. Lén lút, nghe ngóng như một con chim hoảng sợ, anh chọn lúc người cai và các tù nhân khác đang bận bịu, nhét nhanh cái gói nhỏ vào dây nịt.
Vài phút sau, cô gái ra khỏi lối đi và bước chầm chậm xuống đường. Cô ngần ngừ một giây rất ngắn gần đống đá, lấy lại tờ báo rơi dưới đất rồi rảo chân rời xa sau khi liếc một cái tới "anh chàng mang nẹp xanh".
Trên băng đá gần lối đi công cộng, trong khi những du khách đi ngang qua, cô đọc mảnh giấy mà anh đã thả rơi trên đống đá, anh viết : "Maeve yêu quí, vì Chúa, xin em đừng lo lắng quá như vậy. Ngay cho dù anh có bị ở đây suốt đời chăng nữa thì mình vẫn còn có thể gặp nhau kia mà. Em yêu, khi thành hôn, mình không hề nghĩ rằng chưa đầy một năm sau anh lại bị tù. Tuy vậy sáu năm nay anh cảm thấy gần như sung sướng ở đây, nhờ vào tình yêu và lòng can đảm của em. Sẽ có, sẽ phải có cách nào đó để mình gặp nhau".
Cô gái làm một cử chỉ sốt ruột rồi vẫn ngồi, với cái nhìn trống vắng, đầu óc cô chú mục nghĩ tới câu chuyện đã xảy ra. Sáu năm trước, đang ở tột đỉnh hạnh phúc thì tai hoạ giáng xuống đầu họ. Buổi tối liên hoan ai cũng uống nhiều, rồi cãi cọ, một tiếng súng nổ và cuộc điều tra tiến hành. Vụ kiện xử qua loa và được án giảm khinh nhờ lòng khoan hồng. Rồi những năm tinh thần bị dằn vặt với giải pháp tuyệt vọng là đi làm con sen cho người ta để được gần anh.
Họ rất cẩn trọng. Không bao giờ, chưa một lần nào dám liều lĩnh. Một mẩu giấy vứt xuống đất hay một lời nói nhanh ; đôi khi nếu tình hình thuận lợi, họ trao nhau vội vã một cái hôn nồng nàn. Chỉ thế thôi. Tuy nhiên như anh đã nói, là anh hầu như hoàn toàn sung sướng. Nhưng bây giờ - cô làm một cử chỉ nhỏ lần nữa rồi chụp vội mảnh giấy trên đùi, với vẻ bứt rứt.
Trở lại gần bức tường mọc cao dần lên, người tù mang nẹp xanh quỳ trong một góc vắng để đọc mảnh giấy anh vừa nhặt khi nãy. Maeve viết : "Jack, anh phải nghe em. Ðây là cơ hội cuối cùng của anh. Anh không có gì để mất cả, bởi nếu anh bỏ qua dịp này, chúng ta sẽ xa nhau vĩnh viễn. Nếu anh nắm lấy cơ hội và thất bại thì điều tệ nhất có thể xảy ra là sự xa cách thôi. Chiều nay, trước khi mọi
người đi về thì anh đến nhé. Thật là tuyệt vọng, em biết, nhưng chúng ta cũng đang tuyệt vọng lắm rồi".
Người tù khổ sai nhìn quanh một cách lén lút với vẻ gì còn nặng nề hơn là nỗi lo âu trong mắt anh. Anh loáy hoáy viết vội vã trên mảnh giấy còn giữa chừng, rồi ngừng lại, thở dài rít lên và bắt đầu viết tiếp. Còn đủ thời gian vừa đúng cho một lần chuyển đá nữa trước khi các nhóm làm việc đi ăn trưa. Mấy phút sau, tù khổ sai về từ các cánh đồng và bià đường, nối tiếp nhau vượt qua lối đi của bức tường ; người ta nghe một tiếng gầm nặng nề, tiếng xì xào nổi lên trong nhà lao lớn rồi sự im lặng của buổi trưa rơi xuống Fenfield.
Trong sự yên tĩnh của bữa ăn trưa, Maeve nhặt mảnh giấy thứ hai không khó khăn gì, trước khi nhanh chân trở về với những bận rộn thường ngày trong căn nhà bên cạnh. Nhiều lần trong suốt buổi chiều, những khi nghỉ chốc lát giữa các việc làm, cô cố kềm chế tiếng nức nở khi đọc lại mảnh giấy cuối cùng. Anh viết : "Maeve yêu quí, anh tin chắc là em có lý. Nhưng không cần gì phải vội em ạ. Gượm đã, Maeve ạ, hãy gượm đã. Vẫn còn ngày mai, hay một ngày nào đó, trước khi bức tường hoàn thành. Liều lĩnh hấp tấp có khi là điên rồ. Ngày mai - hay ngày kia - nói với các anh ấy hãy sẵn sàng. J."
Chiều xuống, khi xong mọi việc, Maeve trở lại chỗ lỗ hổng nơi con đường băng qua. Cô nhìn thẳng phía trước, không hề liếc về phía các tù nhân đang làm việc. Rồi, thình lình, cô dừng lại, nhìn sững, kinh hãi.
Phía bên trong lỗ hổng có rất đông người đang làm việc. Tất cả nhân sự tù khổ sai của Fenfield đều ở đó, một đám đông khổng lồ đang ở gần lỗ hổng. Không một người bận đồ xám nào có mặt trên
đồng hay trên đường. Mọi người đều ở bên trong và bức tường mọc lên rất nhanh. Lỗ hổng khép lại.
Jack ở đó. Cô thấy anh bên kia thành lũy đang mọc dần lên trong khi anh đang làm việc giữa đám đông. Nơi lỗ hổng đã cao lên khoảng bốn bộ rồi, một bức tường dựng lên trước mắt cô. Số người làm việc đông hơn trước gấp năm lần và những tảng đá được đưa lên như có phép lạ.
Maeve nhìn chồng, đưa tay lên giữa chừng rồi buông thõng xuống. Cô kêu lên cục cục ngớ ngẩn vô nghĩa, trong khi chính anh đẩy tảng đá cuối cùng vào chỗ. Hàng cuối cùng trải dài ra hết sức nhanh đến khi chỉ còn một khoảng trống nhỏ, chỉ một ô vuông vừa đủ lồng khuôn mặt anh trong chốc lát. Anh nhìn không nói gì, nhưng đôi mắt như bật lên một tiếng kêu thảng thốt. Rồi tảng đá bịt kín khoảng trống cuối cùng và Maeve im sững, chết lặng trước bức tường khổng lồ khép kín muôn đời sự im vắng và bí ẩn bên trong.
MIÊNG
Paris, Aout 1995
PHELAN, Jim (1895-1960)
Viết truyện và tự truyện. Sinh trong một gia đình nghèo ở Dublin, Jim Phelan lần lượt làm diễn viên, thợ rèn, nhân viên nhà băng, ký giả... Ông sống cuộc đời lang thang, đôi khi phải vào tù. Từ kinh nghiệm sống này ông đã viết "Letters from the Big House" (London, Cresset, 1943) một tuyển tập truyện ngắn miêu tả thế giới lao tù với một cái nhìn sắc bén của thảm cảnh đôi khi xen lẫn khôi hài đen, như trong truyện "The Curtain" ở đây. Jim Phelan cũng viết "Bog Blossom Stories" (London, Sidgwick & Jackson, 1948), nhiều tiểu
thuyết, và một quyển tự truyện "The Name's Phelan" (London, Sidgwick & Jackson, 1948).
Milan Kundera- (Bohême, giữa 1959 và 1968).
EDOUARD VÀ THƯỢNG ÐẾ
1
C
húng ta hãy bắt đầu câu chuyện của Edouard trong căn nhà nhỏ của người anh cả, ở làng. Người anh nằm dài trên đi văng nói với Edouard :
- Mày có thể đi gặp mụ đó chẳng có gì sợ cả. Chắc chắn mẻ là một con đàn bà khốn nạn, nhưng tao tin là ngay cả với hạng người đó, họ cũng có ý thức. Chính vì hồi xưa con mẻ chơi đểu tao một cú mà bây giờ chắc mẻ sẽ vui lòng giúp mày để chuộc lại lỗi lầm.
Anh của Edouard vẫn không thay đổi : một người tốt và lười. Ngày Staline chết (lâu lắm rồi, thời Edouard chỉ là một đứa bé), có lẽ anh cũng đã đi tới đi lui, rồi nằm ườn gà gật trên đi văng như vậy trong căn phòng sinh viên sát mái. Ngày hôm sau, anh tới trường không hay biết gì, và chợt thấy Cechackowa, cô bạn cùng lớp, đứng giữa đại sảnh trong dáng bất động tráng lệ tựa bức tượng đau khổ, anh đi quanh cô ta ba vòng rồi phá lên cười. Bị xúc phạm, cô ta cho đấy là một sự khiêu khích chính trị và anh của Edouard phải bỏ học, về làng làm việc. Bây giờ ở đây anh có căn nhà, con chó, vợ, hai con và ngay cả nhà nghỉ mát cuối tuần.
Và lúc này anh đang duỗi dài trên đi văng trong căn nhà làng, giải thích cho Edouard :
- Người ta mệnh danh con mẻ là cánh tay trả thù của giai cấp công nhân. Nhưng đừng lấy đó làm ngại. Bây giờ con mẻ là người chín chắn, và luôn luôn yếu đuối với bọn trẻ. Chính vì vậy mà mẻ sẽ giúp mày.
Dạo đó Edouard còn rất trẻ. Cậu vừa xong đại học (ngay nơi người anh bị trục xuất) và đang tìm việc. Theo lời khuyên của anh, sáng hôm sau cậu đến gõ cửa văn phòng bà giám đốc. Cậu gặp một bà cao lớn xương xẩu, tóc đen nhờn, mắt đen, với hàng lông tơ cũng đen dưới mũi. Vẻ xấu xí này giúp cậu tránh được cái khớp thường có khi đối diện với sắc đẹp phụ nữ, đến nỗi cậu nói chuyện với bà dễ dàng không bối rối, với tất cả dịu dàng lịch lãm. Giọng điệu này rõ ràng làm bà giám đốc hài lòng, và bà xác nhận nhiều lần với vẻ kích động trông thấy :
- Ở đây chúng tôi cần những người trẻ.
Và bà hứa sẽ yểm trợ đơn dự tuyển của cậu.
2
Edouard thành giáo viên trong một tỉnh nhỏ ở Bohême như vậy. Anh không khổ cũng chẳng sướng. Anh thường cố phân biệt cái nghiêm trọng và cái không nghiêm trọng, và xếp nghề dạy của mình vào loại không nghiêm trọng. Không phải vì nghề dạy tự nó thiếu tầm quan trọng (vả lại anh gắn bó với nó chỉ vì không kiếm sống bằng cách nào khác được), mà vì anh cho nó là tầm phào so với con người thực của mình. Anh không chọn nó. Nhu cầu xã hội, lời khen thành phần cán bộ, giấy chứng nhận trường trung học, rồi kết quả các cuộc thi tuyển đã áp đặt nó lên anh. Sự liên hợp những sức mạnh này đã thẩy anh từ cửa trung học vào cửa đại học (như cần trục thẩy cái bao lên xe cam nhông). Anh miễn cưỡng ghi danh (sự
thất bại của ông anh là điềm xấu), nhưng cuối cùng anh cam chịu. Dù vậy, anh hiểu rằng nghề nghiệp là một trong những cái ngẫu nhiên của đời mình - nó dính vào da anh như bộ râu mép giả buồn cười.
Nhưng nếu việc bắt buộc là điều không nghiêm trọng (buồn cười), thì cái nghiêm trọng có khi lại là chuyện tình cờ : ở chỗ trọ mới, Edouard gặp một cô gái anh cho là đẹp và bắt đầu dành hết thời giờ cho cô với sự nghiêm chỉnh gần như chân thật. Cô tên Alice và, như anh phải tự xác nhận ngay từ buổi hẹn hò đầu tiên với nỗi buồn vô hạn : cô là người rất dè dặt và đức hạnh.
Trong những lúc đi dạo chiều tối, nhiều lần anh thử ôm vai cô rồi vuốt nhẹ bìa ngực phải từ phía sau, mỗi lần cô đều chộp tay anh đẩy ra. Một tối anh thử lại trò này lần nữa, và khi vừa (một lần nữa) đẩy tay anh ra, cô bất chợt dừng lại, hỏi :
- Anh có tin vào Thượng đế không ?
Ðôi tai tế nhị của Edouard thoáng thấy sự nằn nì kín đáo trong câu hỏi, và anh quên khuấy bộ ngực.
- Anh có tin vào Thượng đế không ?
Alice hỏi lại và Edouard không dám trả lời.
Chúng ta đừng trách anh không cam đảm trả lời thẳng thắn. Anh cảm thấy quá lạc lõng trong thành phố mới này và quá thích Alice, nên không thể liều lĩnh làm mất cảm tình của cô chỉ vì một câu trả lời cộc lốc đơn giản.
- Còn em ? Anh hỏi để câu giờ.
- Tin chứ.
Alice đáp và lại nài anh trả lời.
Cho tới bây giờ, chưa lúc nào ý nghĩ tin vào Thượng đế nẩy ra trong đầu Edouard. Nhưng anh hiểu là không nên thú nhận điều đó, mà trái lại, phải chụp lấy cơ hội này và biến đức tin thành con ngựa gỗ thật đẹp, rồi ẩn mình vào bụng nó như trong điển tích, để sau đó kín đáo trượt nhẹ vô tim cô gái. Có điều anh không thể nói với Alice một cách giản dị, ừ, anh tin vào Thượng đế ; anh không phải là người trâng tráo và rất xấu hổ nếu phải nói dối ; anh ghê tởm tính đơn giản thô bỉ của sự nói dối. Nếu nói dối là cần thiết, ít nhất anh cũng muốn giữ lại cái gì giống sự thực nhất. Nên anh trả lời bằng giọng hết sức tư lự :
- Anh cũng không biết phải trả lời em sao về câu hỏi này, Alice à. Dĩ nhiên anh tin vào Thượng đế, nhưng... Anh ngập ngừng và Alice nhướng mắt ngạc nhiên nhìn - Nhưng anh muốn hoàn toàn thẳng thắn với em. Anh có thể hoàn toàn thẳng thắn với em không ?
- Phải vậy chứ. Nếu không chúng ta chẳng có gì chung với nhau cả.
- Thật sao ?
- Thật.
- Thỉnh thoảng anh có vài nghi hoặc. Edouard nói gịong nghẹn ngào. Có khi anh tự hỏi không biết Thượng đế có thực sự hiện hữu không ?
- Làm sao anh có thể nghi ngờ điều đó ?
Alice nói gần như la lên.
Edouard nín thinh và sau một lúc suy nghĩ, viện dẫn luận cứ muôn đời :
- Khi anh nhìn thấy bao nhiêu đau khổ chung quanh, anh thường tự hỏi có thể nào Thượng đế hiện hữu mà lại cho phép như vậy.
Anh nói với giọng buồn tới nỗi Alice phải cầm tay anh :
- Vâng, đúng thế, đời nhiều đau khổ quá. Em biết lắm chứ. Nhưng chính vì vậy mà càng phải tin vào Thượng đế. Không có Người, tất cả những đau khổ này sẽ là vô ích. Sẽ chẳng có gì có nghĩa cả. Và như vậy thì em cũng không sống nổi nữa.
- Chắc em có lý.
Edouard nói với vẻ trầm ngâm và tháp tùng cô đi nhà thờ chúa nhật sau đó. Anh nhúng tay vào bồn nước phép, làm dấu thánh giá. Tiếp theo là phần làm lễ và thiên hạ hát. Anh cùng hát với họ bài thánh ca mà anh chỉ mơ hồ nhớ giai điệu chớ không nhớ lời. Cho nên anh quyết định thay lời bằng những nguyên âm khác nhau, và hát mỗi nốt chậm hơn một chút xíu, vì thực anh cũng chẳng biết rõ giai điệu lắm. Vậy mà khi nhận thấy mình hát đúng, anh cao hứng để giọng vang lên, bởi lần đầu tiên trong đời, anh khám phá mình có giọng trầm rất ấm. Rồi thiên hạ đọc kinh" Lạy Cha "có mấy bà cụ quỳ xuống. Không cưỡng được cám dỗ, anh cũng quỳ lên mấy tấm đá lát. Anh làm dấu thánh với cử chỉ thái quá, và khi làm điều này, anh nghiệm thấy cảm giác tuyệt vời với ý nghĩ mình có thể làm điều chưa bao giờ làm trong đời, điều anh không thể làm ở trường, không thể làm ngoài đường phố, không làm được bất cứ ở đâu. Anh cảm thấy tự do kỳ diệu.
Khi mọi việc xong xuôi, Alice nhìn anh với ánh mắt nồng nhiệt hỏi :
- Anh còn có thể nói là anh nghi ngờ sự hiện hữu của Thượng đế không ?
- Không.
Edouard đáp, và Alice bảo :
- Em muốn dạy anh yêu kính Người như em yêu kính Người vậy.
Họ dừng lại trên sân thánh đường và tâm hồn anh đầy tiếng cười. Khổ cho anh, đúng lúc ấy bà giám đốc đi ngang qua gần đấy trông thấy hai người.
3
Thật là phiền. Thực ra tôi phải nhắc lại (cho ai không nhớ lịch sử) là trong thời gian đó, lui tới nhà thờ không bị cấm nhưng cũng đâu phải không nguy hiểm.
Ðiều này chẳng có gì khó hiểu cả. Những người đã đấu tranh cho cái họ gọi là cách mạng thì giữ về nó một niềm kiêu hãnh lớn : niềm kiêu hãnh đã đứng bên phía chính nghĩa của chiến tuyến. Mười hay mười hai năm sau (câu chuyện của chúng ta xảy ra vào thời điểm ấy), chiến tuyến bắt đầu biến mất cùng với phe chính nghĩa và phe tà ngụy của nó. Nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người đã theo cách mạng cảm thấy ấm ức sốt ruột tìm kiếm chiến tuyến thay thế. Nhờ tôn giáo, họ lại có thể một lần nữa đứng về phía chính nghĩa (trong vai trò kẻ vô thần chống lại người có đức tin), và giữ nguyên vẹn sự cường điệu quen thuộc quý báu về tính ưu việt của mình.
Nhưng thật tình mà nói, cái chiến tuyến thay thế này cũng là món hời cho người khác, trong diện đó có Alice - tiết lộ điều này bây giờ có lẽ cũng không quá sớm ! Cũng như bà giám đốc muốn đứng về phía chính nghĩa, Alice muốn ở vào phía đối lập. Cửa hàng của ba cô đã bị quốc hữu hoá trong những ngày gọi là cách mạng, và Alice ghét những kẻ đã chơi ba cô vố đó. Nhưng làm sao cô có thể bày tỏ lòng thù hận của mình ? Phải vác dao đi trả thù cho cha à ? Ðấy không phải là phong cách Bohême. Alice có phương thức hay hơn để diễn tả sự chống đối của mình : cô đầu tư lòng tin vào Thượng đế.
Thượng đế tốt lành đã đến cứu rỗi cả hai phía, và nhờ Người mà Edouard bị kẹt giữa hai lằn đạn.
Sáng thứ hai, khi bà giám đốc tới tìm Edouard trong phòng giáo sư, anh cảm thấy hết sức bất an. Vì chưng anh đã không gợi được bầu không khí thân mật như trong buổi gặp lần đầu, bởi từ ngày đó (do dại dột hay lơ đễnh), anh không hề nối lại cuộc trò chuyện lịch sự. Nên bà giám đốc hỏi với nụ cười lạnh nhạt lộ liễu :
- Mình thấy nhau hôm qua phải không ?
- Vâng, mình thấy nhau.
Edouard trả lời. Bà giám đốc nói tiếp :
- Tôi không hiểu được tại sao một thanh niên lại có thể đi nhà thờ. Edouard so vai vẻ bối rối ngượng nghịu, và bà giám đốc gật gù : - Một thanh niên.
- Tôi vào thăm mặt trong ba-rốc của thánh đường.
Edouard nói với vẻ xin lỗi. Bà giám đốc mỉa mai :
- A, thì ra vậy. Tôi không hề biết là anh thích kiến trúc.
Ðàm đạo kiểu này Edouard không thích chút nào. Anh nhớ lại là anh mình đã đi vòng quanh cô bạn đồng liêu ba lần, rồi phá ra cười nắc nẻ. Vận xui gia đình có vẻ muốn lặp lại làm anh sợ. Thứ bảy, anh điện thoại cho Alice xin lỗi nói là anh sẽ không đi nhà thờ vì bị lạnh.
Tuần sau khi gặp nhau, Alice nói giọng trách móc :" Anh yếu như sứa "và Edouard có cảm tưởng là lời cô gái không chút tình cảm. Nên anh bắt đầu nói với cô (một cách mơ hồ và úp mở thôi, bởi vì anh xấu hổ phải thú nhận nỗi lo sợ và nguyên do thực của nó) về những khó khăn họ gây cho anh ở trường và về bà giám đốc khủng khiếp cứ công kích anh không có lý do. Anh muốn gợi lòng trắc ẩn của cô, nhưng cô bảo :" Em thì..., bà sếp em rất tốt ", và bắt đầu vừa cười, vừa kể những chuyện lặt vặt ở sở. Edouard nghe cô líu lo vui vẻ, còn anh thì càng lúc càng u ám.
4
Thưa quý vị, đấy là những tuần đau khổ. Edouard ham muốn Alice cực độ. Thân thể cô kích thích anh và thân thể này tuyệt đối nằm ngoài tầm tay anh. Khung cảnh hẹn hò của họ cũng làm khổ thân anh nữa : vòng vo cả một hoặc hai tiếng đồng hồ trong những con đường tối, hay đi xi-nê. Tính đơn điệu và khả năng khiêu dâm ít ỏi của hai loại này (không có gì khác !) khiến Edouard nghĩ kết quả sẽ khả quan hơn nếu anh gặp Alice trong khung cảnh khác. Với vẻ mặt thật vô tội, anh bèn đề nghị Alice đi chơi cuối tuần ở nhà quê, nơi anh mình có nhà nghỉ mát bên bờ sông, trong thung lũng đầy cây cối. Anh say sưa miêu tả cho cô sự quyến rũ trong lành của
thiên nhiên, nhưng Alice (luôn luôn ngây thơ và tin tưởng trong các địa hạt khác) hiểu anh muốn hướng tới đâu nên từ chối mãnh liệt. Bởi vì đâu phải chỉ một mình Alice kháng cự lại anh - mà chính là ông Chúa (muôn đời thận trọng và cảnh giác) của Alice chứ không ai khác.
Tất cả tinh thể của ông Chúa này chỉ nằm trong một ý nghĩ (ổng chẳng có ham muốn hay ý kiến gì khác ráo), là sự ngăn cấm quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân. Như vậy, đây là một ông Chúa khá buồn cười, nhưng ta cũng không nên vì thế mà chế giễu Alice. Trong mười điều răn Moise đã truyền đạt cho nhân loại, thì có tới chín điều không thể bị linh hồn cô để vướng víu hiểm nghèo nào, bởi vì Alice chẳng hề muốn giết ai, cũng không muốn làm ô danh bố mẹ, không thèm thuồng chồng người ; chỉ có một điều nghe không hiển nhiên mấy, và chính vì thế mới là thách thức thực sự đối với cô : đấy là điều răn thứ bảy, cái điều răn trứ danh mi không được thông dâm. Ðể hoàn tất, phơi bày, và minh chứng niềm tin đạo của mình, chính là trên điều răn đó, và chỉ trên điều răn đó thôi, mà Alice phải hoàn toàn lưu ý. Vì vậy mà từ một Thượng đế mơ hồ, bàng bạc và trừu tượng, cô đã hoàn thành một ông Chúa hoàn toàn xác định, khả tri và cụ thể : ông Chúa-Chống-Thông-dâm.
Nhưng xin hỏi quý vị, sự thông dâm thực sự bắt đầu từ chỗ nào ? Mỗi người đàn bà thiết lập giới hạn này theo các tiêu chuẩn hoàn toàn huyền bí. Alice sẵn lòng để Edouard hôn, và sau vô số thử thách của anh, cô bằng lòng để vuốt ve vú mình, nhưng ở giữa thân thể thì cô vạch một đường ranh cứng nhắc, không thể vượt qua được, phía bên dưới là lãnh thổ của ngăn cấm thánh thiện, sự không nhân nhượng của Moise, và sự giận dữ của Chúa.
Edouard bắt đầu đọc thánh kinh nghiên cứu những bài viết về thần học ; anh quyết định đối đầu với Alice bằng vũ khí của chính cô. Anh nói :
- Bé Alice của anh ơi, đối với người yêu kính Chúa thì không có gì phải cấm đoán cả. Vì khi ta ao ước điều gì, là ta ước muốn bởi Ơn Trên. Chúa chỉ muốn một điều, là chúng ta phải được dẫn dắt bởi tình yêu.
Alice đáp :
- Tất nhiên rồi, song không phải cái thứ tình yêu anh nghĩ đâu. Edouard nói :
- Chỉ có một tình yêu thôi..
-
-- Nếu thế thì tiện cho anh quá há ? Nhưng quả thật là Chúa đã lập ra những điều răn và chúng ta phải tuân theo mà thôi.
-
-- Ðúng, Chúa của Cựu Ước, chứ Chúa của Cơ Ðốc thì không. -
- Alice vặn lại.
- Cái gì ? Chỉ có một Thượng Ðế duy nhất.
Edouard tiếp :
- Ðúng. Có điều người Do Thái của Cựu Ước lại không quan niệm Thượng Ðế như chúng ta. Trước khi Chúa giáng thế, con người trước tiên phải tuân theo hệ thống giới luật và răn đe của thần thánh. Còn linh hồn mình nghĩ gì thì không đáng kể mấy. Nhưng Chúa coi những điều cấm đoán và mệnh lệnh ấy là bề ngoài. Dưới mắt Chúa, điều quan trọng là con người trong thâm sâu của nó như thế nào. Khi con người được thúc đẩy bởi lòng tin và nhiệt tâm thì mọi hành động của nó đều tốt lành và làm Chúa hài lòng. Cho nên Thánh Phao Lồ đã nói : mọi chuyện đều trong sạch đối với người trong trắng.
Alice cãi.
- Với điều kiện là phải trong trắng thật cơ.
- Và Thánh Augustin cũng nói : hãy yêu kính Chúa và làm những gì mi muốn. Em hiểu không Alice ? Hãy yêu kính Chúa, và hãy làm những gì em muốn.
- Nhưng mà em lại không muốn cái điều anh muốn.
Alice trả lời, và Edouard hiểu là lần này cuộc tấn công thần học của anh đã thất bại, nên buông lửng :
- Em không thương anh.
Alice đáp với một sự ngắn gọn đến khiếp :
- Có chứ ! Chính vì vậy mà em không muốn tụi mình làm điều không nên làm.
Như tôi đã nói, đấy là những tuần lễ đau khổ. Và nỗi dằn vặt càng mãnh liệt hơn nữa khi sự ham muốn Alice của Edouard không chỉ
đơn thuần là một thân xác ham muốn một thân thể khác ; mà ngược lại, khi thân xác kia càng xua đuổi bao nhiêu thì anh lại càng buồn, càng nhớ nhung và càng ao ước chiếm đoạt trái tim cô gái bấy nhiêu. Nhưng cả thân thể lẫn con tim của Alice đều không đoái hoài tới nỗi phiền muộn của anh, cả hai đều lạnh lùng như nhau, khép kín như nhau, và tự mãn với mình.
Ở Alice, điều làm Edouard khó chịu nhất là sự dè chừng khó lay chuyển của cô. Mặc dầu là một thanh niên có thể nói điềm đạm, anh bắt đầu mơ tưởng tới hành động cực đoan nào đó có khả năng kéo Alice ra khỏi thái độ bất khả lung lạc ấy. Và vì rất nguy hiểm nếu khiêu khích cô quá trớn bằng sự phạm thượng hay trơ trẽn (thói quen tự nhiên của anh), anh bèn chọn sự thái quá ngược lại (nên khó khăn hơn) ; mặc dù xuất phát từ thái độ Alice, nó sẽ đẩy thái độ của cô đến cực điểm và làm cô phải xấu hổ về sự dè dặt đến lãnh đạm của mình. Nói cách khác : Edouard bày tỏ lòng sùng đạo một cách quá trớn. Anh không bỏ lỡ dịp nào đi nhà thờ (lòng ham muốn Alice của anh còn mãnh liệt hơn cả nỗi lo sợ phiền toái), và đến đấy anh cư xử với sự nhún mình kỳ lạ. Hở chút là anh quỳ ngay xuống trong khi Alice đứng đọc kinh hay làm dấu thánh bên cạnh, vì sợ vớ tuột chỉ.
Một hôm Edouard trách niềm tin của cô tẻ lạnh. Anh lặp lại lời Chúa : "Những kẻ cầu xin ta : Thượng đế, Thượng đế ! không phải ai cũng sẽ vào được nước trời hết đâu". Anh chê niềm tin của cô là hình thức, bề ngoài, mong manh. Anh trách cuộc đời tiện nghi của cô. Anh chê cô quá tự mãn. Anh trách là cô chẳng nhìn thấy gì khác chung quanh ngoài bản thân cô.
Và trong khi nói (Alice không chờ đợi sự công kích này nên chống chế rất yếu ớt), Edouard trông thấy bức thánh giá dựng giữa đường
: chữ thập cũ bằng đồng với tượng Chúa bằng sắt trắng đã rỉ. Mạnh bạo rút tay khỏi tay Alice và dừng lại (để chống trả sự hờ hững của cô gái và đánh dấu bước đầu cuộc tấn công mới của mình), anh làm dấu thánh với vẻ hung hăng rất khoa trương. Nhưng chưa kịp nhận thấy cử chỉ này gây nên hậu quả gì ở Alice, vì đúng vào lúc ấy, anh bắt gặp bà gác dan nhà trường bên kia đường. Bà nhìn anh. Edouard chợt hiểu là mình vừa thua đậm.
5
Nỗi lo sợ của Edouard được xác định ngay hai ngày sau, khi bà gác dan chặn anh trong hành lang cao giọng sang sảng rằng anh phải trình diện tại văn phòng bà giám đốc trưa mai :
- Chúng tôi cần nói chuyện với anh, đồng chí ạ.
Edouard lo lắng. Chiều tối, anh tới chỗ hẹn với Alice như thường lệ để tản bộ với cô trong phố, nhưng bỏ lòng sùng đạo mãnh liệt ở nhà. Anh mất tinh thần và muốn chia sẻ với Alice những gì đang xảy ra cho bản thân, nhưng anh không can đảm, bởi anh biết rằng để bảo toàn công việc chẳng thích thú gì (nhưng cần thiết) này, anh sẵn sàng chối bỏ Chúa không chút do dự. Nên anh không nói gì về tai hoạ bị gọi lên trình diện, và đương nhiên là không thể chờ đợi lời an ủi nào. Ngày hôm sau, anh bước vào văn phòng bà giám đốc với cảm tưởng của người hoàn toàn lẻ loi.
Bốn quan toà chờ Edouard trong phòng : bà giám đốc, bà gác dan, một đồng nghiệp của anh (nhỏ con, mang kiếng) và một ông (tóc xám tro) mà anh chưa từng biết, nghe mọi người gọi là đồng chí thanh tra. Bà giám đốc mời Edouard ngồi rồi nói là họ gọi anh đến để đàm luận hoàn toàn thân tình không chính thức, bởi vì tất cả mọi đồng nghiệp đều rất lo lắng về lối cư xử của anh ngoài phạm vi nhà
trường. Khi nói những điều này, bà nhìn ông thanh tra, và ông thanh tra gật đầu đồng tình ; rồi bà hướng mắt về giáo viên mang kính vẫn nhìn bà chăm chú trong suốt thời gian ấy ; và khi bắt gặp ánh mắt bà, anh này liền bắt đầu một bài diễn văn lê thê. Anh ta nói rằng chúng ta muốn đào tạo một lớp trẻ lành mạnh không thiên kiến, và rằng chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về giới trẻ này, bởi vì chúng ta (những giáo chức) phải làm gương cho họ ; vì vậy nên không thể dung thứ sự có mặt của những kẻ theo phái thầy tu giữa chúng ta ; anh ta khai triển dông dài tư tưởng này và chấm dứt với lời tuyên bố rằng thái độ của Edouard là điều tai tiếng cho cả trường.
Mấy phút trước, Edouard tin là mình sẽ chối bỏ ông Chúa mới nhận thức này, và sẽ nói thật rằng việc tới nhà thờ, việc làm dấu thánh nơi công cộng chỉ là trò chơi. Nhưng bây giờ, đối diện với tình huống, anh cảm thấy không thể thú thực ; dù sao anh cũng không thể nói với bốn người rất nghiêm trang và đầy nhiệt tình này là họ đã sôi nổi trước một hiểu lầm, một chuyện tầm phào. Anh hiểu nếu nói điều đó, sẽ vô tình chế giễu sự nghiêm chỉnh của họ ; anh hiểu những người này chỉ chờ đợi lời thoái thác xin lỗi, rồi họ sẵn sàng bỏ qua tất cả. Cũng hiểu rằng (bất ngờ thôi, vì đâu có thì giờ suy nghĩ), điều quan trọng nhất với anh trong lúc này là làm như đấy là sự thật, hay chính xác hơn, giả sao cho giống với ý nghĩ của những người này về anh ; nếu muốn đính chính ý nghĩ của họ phần nào, thì cũng phải ít nhiều chấp nhận nó. Anh hỏi :
- Thưa các đồng chí, tôi có thể nói thẳng thắn được không ? Bà giám đốc trả lời :
- Ðương nhiên. Chính vì vậy mà đồng chí ngồi đây.
- Và các đồng chí sẽ không ghét tôi chứ ?
Bà giám đốc đáp :
- Cứ nói những gì đồng chí muốn nói.
- Vậy thì, tôi sẽ thú thực hết. Tôi thực sự tin vào Thượng đế.
Edouard nhìn lên các quan toà và xác nhận là họ có vẻ nhẹ nhỏm trông thấy, chỉ có bà gác dan kêu rầm lên :
- Ngày nay sao đồng chí ? Ở thời buổi chúng ta à ?
- Tôi biết trước là các đồng chí sẽ nổi giận nếu tôi nói sự thật. Nhưng tôi không biết nói dối. Ðừng bắt tôi phải nói những điều dối trá.
Edouard tiếp. Bà giám đốc nói với anh (dịu dàng) :
- Không ai bắt đồng chí nói dối. Ðồng chí có lý khi nói hết sự thực. Nhưng điều tôi muốn là phải giải thích làm sao lại đi tin vào Thượng đế, một thanh niên như đồng chí !
Ông nhà giáo lên giọng, hoàn toàn kích động :
- Ngày nay, vào thời điểm mà chúng ta phóng vệ tinh lên mặt trăng !
- Không làm sao được. Tôi đâu muốn tin vào Thượng đế. Thực tình. Tôi không muốn.
- Thế là thế nào, anh không muốn, bởi vì anh tin !
Ông tóc xám can thiệp (với giọng đặc biệt khả ái). Edouard thấp giọng lặp lại lời thú nhận :
- Tôi không muốn tin, lại tin.
Ông giáo mang kiếng cười :
- Sao mà mâu thuẫn quá đi mất !
- Thưa đồng chí, có sao tôi nói vậy. Tôi hoàn toàn hiểu là niềm tin vào Thượng đế tách chúng ta khỏi hiện thực. Còn gì là chủ nghĩa xã hội nếu mọi người tin rằng vũ trụ thuộc quyền năng của Thượng đế ? Sẽ không ai làm gì nữa cả, và mọi người đều phó thác vào Thượng đế.
Bà giám đốc tán thành.
- Ðúng thế.
- Chưa ai chứng minh được sự hiện hữu của Thượng đế cả. Ông giáo mang kính tuyên bố. Edouard tiếp tục :
- Sự khác biệt giữa lịch sử nhân loại và thời tiền sử là con người bây giờ nắm vận mạng mình trong tay và không cần tới Thượng đế nữa.
Bà giám đốc nói :
- Tin vào Thượng đế dẫn tới tin ở định mệnh.
Edouard tiếp :
- Niềm tin vào Thượng đế là tàn tích thời Trung cổ.
Sau đó bà giám đốc nói vài điều gì nữa, rồi ông giáo mang kiếng, rồi Edouard, rồi ông thanh tra, và tất cả những tư duy này bổ túc nhau, hài hoà đến nỗi cuối cùng, ông giáo mang kiếng không chịu nổi, phải ngắt lời Edouard :
- Vậy thì tại sao đồng chí làm dấu thánh trên đường phố, khi đồng chí hiểu tất cả những điều ấy ?
Edouard ngó ông ta với cái nhìn buồn rười rượi đáp : - Bởi vì tôi tin vào Thượng đế.
Ông giáo mang kính sôi nổi lặp lại :
- Nhưng mà mâu thuẫn quá đi mất !
- Vâng, có mâu thuẫn giữa kiến thức và đức tin. Tôi thú nhận là niềm tin vào Thượng đế dẫn tới mê muội. Tôi công nhận rằng tốt hơn hết là Thượng đế không nên hiện hữu. Nhưng tôi làm gì được khi mà chỗ này, trong tận cùng thâm tâm - vừa nói Edouard vừa chỉ vào tim mình - tôi cảm thấy Người hiện hữu ? Xin các đồng chí hãy hiểu cho ! Có sao tôi nói vậy, tốt hơn hết là nói sự thực, tôi không muốn làm người đạo đức giả, tôi chỉ muốn tôi như thế nào thì các đồng chí hiểu tôi như thế.
Rồi Edouard cúi đầu.
Ông giáo mang kiếng thật thiển cận ; ông ta không biết rằng ngay cả nhà cách mạng triệt để nhất cũng chỉ nhìn thấy ở bạo lực tội ác cần thiết, trong khi thiện tâm của cách mạng chính là cải tạo. Ngay bản thân ông ta, kẻ chỉ một sớm một chiều đã giác ngộ cách mạng, ông ta chưa hề gợi được sự kính trọng nào ở bà giám đốc, và không mảy may ngờ rằng trong lúc này đây, Edouard - kẻ vừa tự gửi gấm
số phận vào tay những người đang xét xử mình như một đối tượng cải tạo, dù khó khăn song hoàn toàn có thể chỉnh huấn được - lại có giá trị hơn ông ta gấp ngàn lần. Và chính vì không ngờ điều ấy nên ông ta lại tấn công Edouard mãnh liệt, tuyên bố rằng người không có khả năng chối bỏ niềm tin kiểu trung cổ đều là người thời Trung cổ, không có chỗ đứng trong trường học hiện đại.
Bà giám đốc để ông ta hết lời rồi chỉnh :
- Tôi không muốn lấy đầu ai cả. Ðồng chí đã chân thành nói hết sự thật với chúng ta. Ðó là điều mà chúng ta phải lưu ý.
Rồi bà quay về phía Edouard :
- Các đồng chí dĩ nhiên có lý khi nói một thầy tu không thể dạy dỗ giới trẻ của chúng ta được. Vậy thì tự đồng chí hãy cho biết đồng chí đề nghị cái gì ?
Edouard nói với vẻ đau khổ :
- Tôi không biết, thưa các đồng chí.
Ông thanh tra lên tiếng :
- Tôi nghĩ thế này. Cuộc chiến đấu giữa cái cũ và mới không chỉ diễn ra trong lớp học, mà còn nơi mỗi cá nhân. Chúng ta đang chứng kiến chính cuộc đấu tranh này ở đồng chí đây. Ðồng chí Edouard biết hết, nhưng cảm tính kéo đồng chí lùi lại. Chúng ta phải giúp đỡ đồng chí để lý lẽ chiến thắng.
Bà giám đốc ghi nhận. Rồi nói :
- Tốt lắm. Tôi sẽ đích thân lo liệu cho đồng chí ấy.
6
Như vậy Edouard đã thành công trong việc tránh được nguy cơ cấp thời ; tương lai nghề giáo của anh nằm riêng trong tay bà giám đốc, điều làm anh rốt cuộc thấy hoàn toàn hài lòng : nhớ tới nhận xét của ông anh, là bà giám đốc luôn luôn có chỗ nhược với giới trẻ, và với tất cả tin tưởng bấp bênh của tuổi thanh niên (hôm nay thái quá, ngày mai lại bị xói lở bởi hoài nghi), anh quyết định vượt thắng cuộc thử thách bằng cách chiếm đoạt lòng ưu ái vị nữ chúa của mình, trong tư thế nam nhi.
Sau đó mấy hôm, khi tới văn phòng bà giám đốc như đã thỏa thuận, anh thử lấy giọng điệu thung dung thư thái và không để lỡ cơ hội nào chêm vào câu chuyện một nhận xét thân mật, một lời khen tế nhị, hay nhấn mạnh với sự mập mờ kín đáo trên cảnh ngộ đặc biệt của mình : tình cảnh người đàn ông mà số phận đang nằm trong tay một người đàn bà. Nhưng anh đâu được phép tự mình chọn lựa giọng điệu câu chuyện. Bà giám đốc nói năng hết sức khả ái nhưng với vẻ dè dặt tuyệt đối ; bà hỏi anh đọc gì, tự chỉ định một số tựa sách và khuyên nên đọc, bởi rõ ràng là bà muốn thực hiện công tác lâu dài trên phần hồn của anh. Ðể kết thúc, bà mời anh gặp tại nhà riêng.
Thái độ thận trọng này đã đẩy lui được sự tin tưởng nhởn nhơ của Edouard, và anh bước vào nhà bà giám đốc, đầu cúi xuống, không còn mảy may ý định áp đảo bà bằng vẻ duyên dáng nam nhi. Bà mời anh ngồi vào ghế phô tơi và bắt đầu cuộc trò chuyện bằng giọng thân mật, hỏi muốn uống gì :
- Chắc là cà phê ?
Anh nói không.
- Vậy thì rượu ?
Anh cảm thấy ngượng nghịu :
- Nếu đồng chí có cô-nhắc.
Và tức thì anh e là đã nói cái gì không đúng chỗ, đúng lúc.. Nhưng bà giám đốc trả lời khả ái :
- Không, tôi không có cô-nhắc, tôi chỉ có một ít rượu vang...
Và bà mang ra một chai đã vơi phân nửa, chỉ còn lại vừa đủ hai ly.
Rồi nói Edouard không nên xem bà như pháp quan tôn giáo ; tất nhiên ai cũng có quyền có những tin tưởng mà họ cho là đúng ; song hiển nhiên người ta có thể tự hỏi (bà vội nói thêm) người như vậy có chỗ đứng hay không trong ngành giáo dục ; vì vậy nên họ thấy bắt buộc phải mời gọi Edouard (dù là miễn cưỡng) để thảo luận, và rất hài lòng (ít ra là bà và ông thanh tra) vì anh đã nói với họ một cách chân thành không tìm cách chối biến. Sau đó bà đã nói rất lâu với ông thanh tra về Edouard, và họ quyết định sẽ gọi Edouard trong sáu tháng nữa cho cuộc trao đổi khác ; từ đây tới đó, bà giám đốc phải giúp anh tiến hoá bằng ảnh hưởng của mình. Và nhấn mạnh thêm lần nữa rằng sự hỗ trợ bà muốn đem đến cho anh chỉ có thể là sự giúp đỡ thân tình, rằng bà không phải pháp quan tôn giáo cũng không phải công an. Sau đó bà nói về ông giáo đã công kích Edouard nặng nề, và thêm :
- Ông ta cũng vậy, có nhiều chuyện bực dọc, vì thế ông ta rất hả dạ gây phiền lụy cho người khác. Và cả bà gác dan cũng đi rao khắp nơi là đồng chí ngạo mạn, ngoan cố, bo bo bám giữ quan điểm của
mình. Bà ta cho là đồng chí đáng bị đuổi ra khỏi trường, và không có cách nào làm bà ta đổi ý đâu. Ðương nhiên tôi không đồng ý, nhưng mặt khác, cũng nên thông cảm với bà ta. Tôi cũng vậy, tôi không thích giao phó con tôi cho một ông thầy công khai làm dấu thánh giá ngoài đường phố.
Bà giám đốc trình bày với Edouard bằng tràng dài nhiều câu liên tục như vậy, khi thì quyến rũ với hứa hẹn khoan hồng, lúc lại doạ dẫm với khả năng khắc nghiệt của bà, và tiếp theo, để chứng tỏ cuộc gặp gỡ giữa họ quả là câu chuyện thân tình, bà chuyển sang đề tài khác : nói về sách vở, dẫn Edouard tới tủ sách, nghị luận dông dài về quyển "L'Âme enchantée" của Romain Rolland, bực mình vì anh chưa đọc. Rồi hỏi ở trường anh có hài lòng không, và sau câu trả lời đúng quy ước, bà bắt đầu nói với vẻ liến thoắng : nói bà biết ơn số mệnh về nghề nghiệp mình, rằng rất thích công việc ở trường, bởi vì ở đây bà tiếp cận tương lai bằng những liên hệ cụ thể và thường xuyên bằng cách dạy dỗ trẻ nhỏ ; và rằng chung cuộc chỉ có tương lai mới biện minh được những đau khổ hiện hữu đầy rẫy chung quanh chúng ta...
Anh nói chêm :
- Vâng, phải công nhận điều đó.
- .... Nếu không nghĩ là mình phải sống cho cái gì đó lớn hơn đời mình, thì chắc chắn tôi không sống nổi.
Nói những lời này, bỗng dưng bà có vẻ thành thực hẳn, và Edouard không rõ lắm là qua đó bà muốn thổ lộ hay bắt đầu cuộc luận chiến tư tưởng hệ về ý nghĩa cuộc đời ; anh ưng nhìn thấy ở đấy một lời bóng gió cá nhân, và hỏi với giọng nghẹn ngào kín đáo :
- Còn cuộc đời riêng của đồng chí thì sao ?
Bà giám đốc lặp lại :
- Ðời tôi ?
- Vâng, đời đồng chí. Nó không làm đồng chí hài lòng à ?
Nụ cười chua chát nở trên môi bà giám đốc, và Edouard hầu như thương hại. Trông bà xấu xí đến cảm động ; mái tóc đen đóng khung khuôn mặt thuôn dài xương xẩu với hàng lông đen dưới mũi hình thù râu mép. Bỗng nhiên anh nhận thấy tất cả chuỗi buồn phiền trong đời bà ; anh bắt gặp nét nhục cảm mãnh liệt, cũng đồng thời trông thấy sự xấu xí đã khiến nhục cảm ấy không thể được thỏa mãn ; anh tưởng tượng con người này đã từng cuồng si hoá thân thành bức tượng sống đau khổ ngày Stalin chết, đã từng say mê tham dự không biết bao nhiêu buổi hội họp, say mê chống đối cái ông Jésus khốn khổ như thế nào, và anh chợt hiểu tất cả những thứ ấy chỉ là nơi trút tháo buồn tẻ cho nỗi ham muốn không thể trôi theo dòng chảy nào như ý. Edouard còn trẻ và khả năng xót thương chưa mòn mỏi. Anh nhìn bà giám đốc với lòng thông cảm. Như thể xấu hổ vì sự im lặng bất ngờ này, bà nói giọng vui vẻ gắng gượng :
- Dầu sao, vấn đề không phải ở đó, Edouard à. Người ta không chỉ sống cho mình mà thôi. Người ta luôn luôn sống cho cái gì đó.
Bà nhìn sâu hơn vào mắt anh :
- Nhưng vấn đề là phải biết cho cái gì. Cho hiện thực hay giả tưởng. Thượng đế là một ý tưởng đẹp. Nhưng tương lai con người, Edouard, mới là hiện thực. Và chính cho cái hiện thực này mà tôi sống, mà tôi đã hy sinh tất cả.
Những câu này cũng vậy, bà tuyên bố với sự vững tin đến độ Edouard không dứt nổi lòng cảm thông đã bất ngờ dấy lên trong anh vài phút trước ; anh thấy thật ngu xuẩn phải dối trá trâng tráo như vậy với người khác, và ngỡ rằng cái chiều thân tình hơn của cuộc đàm luận rốt cuộc đã cho anh cơ hội từ bỏ điều gian trá bất xứng (và lại khó nữa chứ) của mình. Anh vội vàng trấn an :
- Nhưng tôi hoàn toàn đồng ý với đồng chí.. Tôi cũng vậy, tôi thích hiện thực hơn chứ. Ðồng chí biết không, lòng sùng đạo của tôi ấy à, chẳng nên xem nó nghiêm trọng đến thế !
Nhưng anh nhận thức tức khắc là không bao giờ nên để chút dấy động tình cảm bất chợt đánh lừa. Bà giám đốc ngạc nhiên nhìn anh nói với giọng lạnh lùng hiển nhiên :
- Thôi, đừng đóng kịch. Cái mà tôi thích là sự bộc trực của đồng chí. Lúc này đồng chí lại đang cố làm cho người ta ngộ nhận về mình.
Không, Edouard không được phép từ bỏ bộ cánh hoá trang tôn giáo mà hôm nào anh đã khoác ; anh đành lòng ngay và cố xóa cảm tưởng xấu vừa gây nên :
- Ðâu có, tôi không hề muốn lẩn tránh. Dĩ nhiên, tôi tin vào Thượng đế chứ, và không bao giờ có thể chối bỏ điều này. Chỉ muốn nói là tôi cũng tin vào tương lai nhân loại, vào tiến bộ, vào tất cả những thứ đó nữa. Nếu không tin vậy thì công tác dạy học của tôi dùng để làm gì, trẻ nhỏ ra đời để làm gì, và cả cuộc đời chúng ta dùng để làm gì ? Nhưng đấy, tôi tin rằng Thượng đế cũng muốn xã hội phải cải thiện và tiến bộ. Tôi nghĩ có thể tin cùng lúc vào Thượng đế và vào chủ nghĩa cộng sản, có thể dung hoà hai cái đó.
Bà giám đốc nói với giọng quyền uy hết sức mẫu tử : - Không ! Không thể hoà giải hai thứ đó với nhau được. Edouard buồn bã nói :
- Tôi biết. Không nên ghét tôi.
- Tôi không ghét đồng chí. Ðồng chí còn trẻ nên ương ngạnh bám vào cái mình muốn tin. Không ai có thể hiểu rõ đồng chí bằng tôi. Tôi cũng vậy, cũng đã từng trẻ như đồng chí. Tôi thừa biết tuổi trẻ ra sao. Và chính nét trẻ trung làm tôi thích ở đồng chí. Tôi thấy đồng chí dễ mến.
Cuối cùng nó cũng đến. Không sớm hơn cũng chẳng muộn hơn, mà đúng lúc này, đúng lúc tốt nhất. (Thời cơ này, ta thấy là Edouard không hề lựa chọn, mà chính nó đã dùng anh để tự hoàn tất.) Khi bà giám đốc nói thấy anh dễ thương, anh trả lời với giọng không mấy diễn cảm :
- Tôi cũng vậy, tôi thấy mến đồng chí.
- Thực à ?
- Thực.
Bà giám đốc đáp lại.
- Thôi nào, một bà già như tôi !
Edouard không thể làm gì khác hơn là trả lời :
- Không đúng đâu.
- Ðúng chứ.
Edouard chỉ có thể nói rất ân cần :
- Ðồng chí không già chút nào. Nói như vậy là ngu xuẩn. - Ðồng chí tin vậy à ?
- Dĩ nhiên. Tôi mến đồng chí lắm.
- Ðừng nói dối đấy nhé. Ðồng chí biết là không được nói dối. - Tôi không nói dối. Ðồng chí đẹp.
Bà giám đốc bĩu môi hoài nghi.
- Ðẹp ?
- Vâng, đẹp.
Edouard nói, và như e ngại sự khó tin lộ liễu của lời xác nhận đó, anh vội vàng chống chế bằng luận cứ khác :
- Tôi thích những người tóc nâu như đồng chí.
Bà giám đốc hỏi :
- Ðồng chí thích người tóc nâu ?
Edouard trả lời :
- Ðiên cuồng.
- Vậy thì sao không bao giờ đồng chí đến thăm tôi từ khi tới trường ? Tôi có cảm tưởng là đồng chí muốn tránh mặt.
Edouard đáp :
- Tôi ngại. Mọi người sẽ cho là tôi liếm gót đồng chí. Sẽ không ai tin rằng tôi đến thăm chỉ vì mến đồng chí cả.
Bà giám đốc nói :
- Bây giờ thì đồng chí chẳng có gì phải sợ nữa. Nay người ta đã ra quyết định là mình phải thỉnh thoảng gặp nhau.
Bà nhìn vào mắt anh với đôi ngươi nâu to (phải công nhận là đâu phải không đẹp), và khi anh chào ra về, bà vuốt ve nhè nhẹ tay anh, đến nỗi anh chàng dại dột này từ giã bà với cảm giác lâng lâng của kẻ chiến thắng.
7
Edouard chắc mẫm rằng câu chuyện phiền toái này đâm ra có lời cho anh, và chúa nhật sau đó tới nhà thờ với Alice trong vẻ nhởn nhơ trơ trẽn ; hơn thế nữa, anh đã lấy lại sự an tâm hoàn toàn, vì (mặc dù ý tưởng này chỉ gợi nơi ta nụ cười tội nghiệp) cuộc viếng thăm bà giám đốc, nghĩ lại, đã cung cấp cho anh bằng cớ hùng hồn về vẻ duyên dáng nam nhi của mình.
Vả lại, chúa nhật đó, Edouard nhận thấy ngay khi vừa tới nhà thờ là Alice có gì thay đổi : họ mới gặp nhau là cô nắm ngay cánh tay anh không buông ra nữa, ngay cả bên trong thánh đường ; bình thường, cô tỏ vẻ kín đáo dè dặt, nhưng hôm ấy cô quay khắp mọi hướng gật đầu tươi cười chào cả chục bạn bè và người quen biết.
Thật lạ lùng, anh chẳng hiểu gì cả.
Hôm sau nữa, khi đi dạo trên những con đường tối, Edouard ngạc nhiên xác nhận là những cái hôn của Alice, bình thường nhạt nhẽo một cách đáng buồn bao nhiêu, nay bỗng dưng trở thành ướt át, ấm áp cuồng nhiệt bấy nhiêu. Khi cùng cô dừng lại áp vào cột đèn, anh thấy đôi mắt đắm đuối nhìn mình.
- Em thương anh, anh biết không - Alice đột ngột nói với giọng nồng nàn, và cô bịt miệng anh ngay - Không, đừng nói gì hết. Em xấu hổ vì em. Em không muốn nghe gì cả.
Họ đi thêm mấy bước nữa rồi dừng và Alice nói :
- Bây giờ thì em hiểu tất cả. Em hiểu vì sao anh trách móc sự hờ hững của em.
Nhưng Edouard chẳng hiểu gì ráo và ưng giữ im lặng ; họ lại đi vài bước nữa rồi Alice bảo :
- Còn anh thì chẳng chịu nói gì cả. Tại sao anh không nói với em ?
- Mà em muốn anh nói với em cái gì ?
- A, đúng là anh - Alice nói với vẻ hứng khởi nhưng trầm tĩnh - Người khác thì đã phô trương khoác lác rầm rĩ, còn anh thì im. Nhưng chính vì vậy mà em thương anh.
Edouard bắt đầu hiểu chuyện gì nhưng vẫn hỏi :
- Em nói chuyện gì ?
- Về những chuyện đã xảy ra cho anh.
- Mà làm sao em biết ?
- Coi kìa ! Ai mà không biết. Họ gọi anh lên, họ hăm dọa anh, còn anh thì cười vào mũi họ. Anh không chối bỏ gì hết. Ai cũng khâm phục anh.
- Nhưng anh không hề nói gì với ai cả.
- Ðừng ngây thơ. Chuyện như vậy thường gây chấn động ngay. Dầu sao cũng đâu phải chuyện đùa. Anh tưởng thời buổi này mà còn dễ kiếm một người có chút can đảm à ?
Edouard thừa biết là ở tỉnh nhỏ, một hiện tượng chẳng đáng gì cũng mau chóng biến thành giai thoại, song anh không ngờ giai thoại lại có thể phát sinh ngay từ những chuyện tầm phào mà bản thân anh cũng không bao giờ xem là quan trọng. Anh chưa hiểu thấu đáo đồng bào cần anh tới mức nào : họ vô cùng yêu kính các thánh tử đạo như mọi người đều biết, bởi vì các vị chứng minh bằng chính sự hiện hữu của mình, rằng cuộc đời chỉ cho phép ta chọn lựa giữa hoặc nhắm mắt tuân lệnh hoặc bị bịt mắt lôi ra pháp trường, và qua đó, xác nhận sự bất động thoải mái của họ là đúng đắn. Không ai còn nghi ngờ là Edouard sẽ bị giao cho đao phủ, và mọi người phao tin này với vẻ thán phục mãn nguyện, đến nỗi giờ đây, qua trung gian Alice, Edouard nhìn thấy ngay trước mắt hình ảnh huy hoàng bản thân mình đang bị đóng đinh trên thập tự giá. Anh phản ứng với tất cả điềm nhiên nói :
- Dĩ nhiên là anh không chối gì cả. Nhưng mà tự nhiên thôi. Bất cứ ai cũng xử sự như vậy.
Alice kêu lên :
- Bất cứ ai ?. Thử nhìn chung quanh xem cách thiên hạ cư xử ! Hèn lắm ! Họ dám chối cả mẹ đấy !
Edouard im, Alice cũng im. Họ sánh bước, nắm tay nhau. Rồi Alice nói nhỏ :
- Em sẽ làm bất cứ cái gì vì anh.
Ðó là câu hưa hề ai nói với Edouard ; câu nói đó là một ân sủng của Trời. Tất nhiên, đâu phải Edouard không biết đây là ân huệ mà anh không xứng đáng. Nhưng anh nghĩ, bởi vì số phận đã từ chối ban cho những gì anh đáng được hưởng, thì bây giờ anh có quyền nhận những cái mình không xứng đáng. Anh nói :
- Chẳng ai làm gì cho anh được nữa !
Alice thì thầm :
- Sao vậy ?
- Họ sẽ đuổi anh khỏi trường, và những kẻ coi anh như người hùng sẽ không vì anh mà rục rịch, dù chỉ một ngón tay. Ðiều duy nhất chắc chắn là : cuối cùng, anh sẽ hoàn toàn cô độc.
Alice vừa nói vừa lắc đầu :
- Không đâu.
- Thật thế.
Alice lặp lại gần như hét lên :
- Không !
- Mọi người đều đã bỏ rơi anh.
- Em sẽ không bao giờ bỏ rơi anh.
Edouard buồn rầu nói :
- Cả em nữa, cuối cùng rồi em cũng sẽ bỏ rơi anh thôi. - Không bao giờ !
-
-- Thật thế, Alice à, em đâu có yêu anh. Em chưa bao giờ yêu anh hết cả.
- Không đúng.
Alice nói khẽ, và Edouard mãn nguyện xác nhận là mắt cô sũng ướt.
- Không, Alice à. Mấy chuyện đó anh cảm thấy được mà. Em luôn luôn tẻ lạnh với anh. Khi yêu, không bao giờ người đàn bà cư xử như vậy. Anh biết mà. Và bây giờ em cảm thấy thương hại anh, bởi vì em biết là người ta sắp triệt hạ anh. Nhưng em không yêu anh và anh không muốn em có những ý nghĩ sai lạc trong đầu.
Họ vẫn bước đều, cùng im lặng, tay trong tay. Alice khóc lặng lẽ, nhưng thình lình cô dừng lại nói giữa cơn nức nở :
- Không, không đúng ! Anh không có quyền nói như vậy. Không phải đâu.
- Phải mà.
Và vì Alice vẫn cứ khóc, anh đề nghị cô về nhà quê với anh thứ bảy tới. Nơi anh của anh có căn nhà nghỉ mát, trong thung lũng xinh xắn bên bờ sông, và chỉ có hai đứa với nhau thôi. Mặt đẫm lệ, Alice nín thinh chấp thuận.
8
Chuyện đó xảy ra hôm thứ ba, và khi được mời tới nhà bà giám đốc lần nữa ngày thứ năm, Edouard đến với lòng an nhiên vui vẻ, bởi anh tin chắc sự duyên dáng của mình sẽ biến đổi hoàn toàn vụ việc nhà thờ thành làn khói mỏng manh. Nhưng điều thường xảy ra trong đời là : cứ tưởng tượng sẽ đóng vai mình chọn trong vở kịch nào đó, nhưng lại không ngờ phối cảnh đã bị kín đáo thay đổi, đến nỗi kịch sĩ ta phải thủ diễn vai tuồng khác, hoàn toàn không tập dượt.
Edouard ngồi trong cùng cái ghế hôm trước, đối diện với bà giám đốc ; giữa họ là cái bàn thấp có chai cô-nhắc hai ly hai bên. Và chai cô-nhắc này chính là cách bày biện mới mà một người đàn ông tinh tế chừng mực phải hiểu ngay nó không còn liên hệ gì đến câu chuyện nhà thờ nữa.
Nhưng lúc đầu chàng Edouard ngây thơ quá tự mãn về mình nên không cảm thấy gì ngay. Anh vui vẻ tham dự vào cuộc trò chuyện mào đầu (về đề tài chung chung mơ hồ), nốc cạn ly và lộ vẻ mau chán chuyện một cách không thể nào ngờ nghệch hơn. Sau khoảng nửa tiếng hay một tiếng đồng hồ, bà giám đốc khéo léo luồn đề tài có tính cách riêng tư vào câu chuyện ; bắt đầu nói về mình, lâu ly, và những lời này phải đặt trước Edouard một nhân vật với những nét bà muốn có : một người đàn bà biết điều, đứng tuổi, không sung sướng lắm, nhưng đàng hoàng và cam phận, một người đàn bà chẳng những không hối tiếc gì mà còn hài lòng đã sống độc thân, bởi vì nếu lập gia đình thì bà ta đã không nếm được trọn vẹn hương vị độc lập và thoả thích riêng tư trong căn hộ nhỏ xinh xắn - nơi bà thấy rất hạnh phúc và hy vọng Edouard cũng không thấy bực bội.
- Không, ở đây tôi thấy rất dễ chịu.
Edouard nói điều đó với giọng nghèn nghẹn, bởi vì bất chợt anh cảm thấy không thoải mái. Chai cô-nhắc (mà anh đã thiếu cẩn trọng đòi hỏi trong lần gặp đầu) đang hiện diện trên bàn (với sự vội vàng doạ dẫm), bốn bức tường của căn hộ (giới hạn không gian càng lúc càng hẹp, càng lúc càng khép kín), cuộc độc thoại của bà giám đốc (tập trung vào những đề tài càng lúc càng riêng tư), cái nhìn của bà (dán chặt vào anh một cách nguy hiểm), tất cả những thứ đó khiến anh từ từ ý thức được sự thay đổi chương trình ; anh chợt hiểu mình đang bị đặt trong tình trạng mà sự tiến hoá không còn tránh được nữa ; và anh thấy rõ ràng điều nguy hiểm cho nghề nghiệp mình không phải mối ác cảm của bà giám đốc đối với anh, mà trái lại, chính là ác cảm xác thịt của anh trước người đàn bà xương xẩu với hàng lông dưới mũi đang thôi thúc anh uống tiếp. Anh thấy cổ họng nghẹn lại.
Anh vâng lời bà giám đốc và cạn ly, nhưng hiện thời nỗi lo âu mạnh tới nỗi rượu vào cũng vô hiệu. Trái lại, bà giám đốc đã uống nhiều ly, đã hoàn toàn bỏ hẳn thái độ dè dặt thường lệ, và lời lẽ bà chứa đựng nỗi hưng phấn hầu như đe doạ :
- Có một điều tôi thèm muốn ở cậu, đó là sự trẻ trung. Cậu chưa thể hiểu thế nào là thất vọng, là hết ảo tưởng. Cậu còn nhìn thế giới dưới màu sắc của hy vọng và cái đẹp.
Bà chồm tới ngang mặt Edouard trên chiếc bàn thấp, và trong một im lặng buồn bã (với nụ cười đông cứng) bà dán cái nhìn vào anh cặp mắt thật to ; còn anh, lúc ấy, tự nhủ rằng nếu không say được chút nào, thì e buổi tối nay sẽ là một thất bại ghê gớm của mình. Anh trút rượu vào ly nốc nhanh một hơi dài.
- Nhưng tôi muốn nhìn cuộc đời dưới cùng những màu sắc ấy, những màu sắc như ở cậu !
Rồi bà rời ghế, ưỡn ngực lên và nói :
- Có thực là cậu có cảm tình với tôi không ? Thực không ? Bà đi vòng cái bàn, rồi nắm tay áo Edouard :
- Thật không ?
- Thật !
- Tới đây, mình nhảy.
Bà thả tay áo Edouard tiến tới bấm nút rađiô, vặn cho tới lúc bắt được nhạc khiêu vũ. Rồi bà đứng lên, tươi cười trước mặt anh. Edouard cũng đứng lên, ôm bà giám đốc dìu ngang căn phòng theo điệu nhạc. Bà giám đốc đặt nhẹ đầu lên vai anh, rồi thình lình ngước lên nhìn vào mắt anh hát lầm rầm.
Edouard khó chịu tới nỗi rời bà giám đốc nhiều lần để uống. Anh không còn ao ước nào mãnh liệt hơn là chấm dứt trò dập dờn bất tận khiếp đảm này, đồng thời cũng rất sợ lúc chấm hết, bởi vì chắc nó còn hãi hùng hơn nữa. Cho nên anh cứ tiếp tục dìu người đàn bà đang hát nho nhỏ ngang dọc trong căn phòng chật chội, vừa nhảy vừa rình (với nỗi sốt ruột đầy âu lo) cái hậu quả trông đợi ở rượu. Khi cuối cùng có cảm tưởng là mọi giác quan đều đã rối nhoà với hơi cô-nhắc, một tay anh ghì bà giám đốc vào người, còn tay kia thì đặt lên ngực bà.
Vâng, Edouard vừa làm cử chỉ mà chỉ nghĩ tới thôi cũng đủ làm anh ghê rợn từ lúc bắt đầu buổi tối ; không biết anh sẵn sàng trả cái giá nào để khỏi phải làm, và nếu dẫu sao anh cũng đã làm rồi thì, cứ tin tôi đi, chính vì anh bị bắt buộc phải làm ; tình huống anh lạc vào ngay từ ban chiều không cho lối thoát nào nữa ; người ta có thể làm
nó chậm lại, nhưng không có cách nào ngăn cản, đến nỗi khi để tay lên ngực bà giám đốc, anh chỉ tuân hành mệnh lệnh của một tất yếu không tài nào tránh khỏi.
Song hậu quả của thái độ Edouard đã vượt quá mọi dự đoán. Như dưới phép lạ chiếc đũa thần, bà giám đốc bắt đầu trăn trở trong tay anh, rồi áp vào miệng anh cái môi trên lông lá của mình. Sau đó bà ta đẩy anh xuống đi-văng, rồi với cử chỉ co quíu hơi thở hổn hển, bà cắn vào môi và đầu lưỡi làm Edouard đau điếng. Tới đó bà vuột khỏi tay anh nói "Chờ tí !", rồi chạy vào phòng tắm.
Edouard liếm ngón tay thấy lưỡi chảy tí máu. Vết cắn đau đến nỗi làm lắng ngay chút cơn say đã khó nhọc chuốc lấy, và anh lại thấy cổ họng nghèn nghẹn lần nữa với ý thức những gì đang chờ đợi mình. Anh nghe tiếng nước chảy ồn ào từ phòng tắm. Anh chộp chai cô-nhắc đưa lên môi tu ừng ực.
Nhưng bà giám đốc lại xuất hiện ở cửa, mặc chiếc áo ngủ trong suốt (có đăng ten trên ngực), từ từ tiến đến Edouard. Bà ôm anh. Rồi lại tránh ra giọng trách móc :
- Sao cậu còn bận đồ ?
Edouard bỏ áo vét và vừa nhìn bà giám đốc (đang dán vào anh cặp mắt thực to), anh chỉ ngại một điều, là thân xác có thể sẽ phá hoại ý chí anh. Vì thế, nhằm kích thích dục vọng, anh nói với giọng không mấy chững chạc :
- Cởi hết đồ ra.
Bằng cử chỉ mạnh bạo, bà ngoan ngoãn lột cái áo ngủ với tất cả nhiệt tình, để lộ thân hình mảnh khảnh trắng hếu và chùm lông rậm
đen nổi bật lên trong cảnh chơ vơ tẻ ngắt. Bà tiến tới gần, chầm chậm, và Edouard chợt nhận ra với tất cả hãi hùng những gì đã đoán trước : đúng là thân thể anh hoàn toàn tê liệt bởi lo âu.
Thưa quý vị, tôi biết rằng với thời gian chắc quý vị đã quen với những bất tuân tạm thời của thân thể, và điều đó chẳng mảy may làm quý vị lo âu. Nhưng quý vị không hiểu ư ? Edouard lúc bấy giờ đang ở tuổi thanh xuân mà ! Cho nên mỗi bận phá thối của thân xác đều đẩy anh vào cơn kinh hoảng cùng cực, và anh coi đó như vết nhục không thể cứu chữa được, dù nhân chứng của những lúc trớ trêu ấy là khuôn mặt xinh xắn nào, hay bộ mặt buồn cười xấu xí như bà giám đốc. Rồi họ chỉ còn cách nhau một bước, và anh phát hoảng vì không biết phải làm gì, bất chợt không hiểu sao (đây là hậu quả của cơn xung động hơn là thủ đoạn có suy nghĩ) anh buột mồm nhảy tránh sang bên :
- Ðừng, đừng, lạy Chúa, đừng ! Ðó là tội lỗi, đó sẽ là tội lỗi ! Nhưng bà giám đốc vẫn tiến tới lẩm bẩm :
- Sao lại tội lỗi ? Chẳng có gì là tội lỗi sất !
Edouard tị nạn sau cái bàn mà mấy phút trước họ cùng ngồi với nhau :
- Không, tôi không có quyền, tôi không có quyền.
Bà giám đốc đẩy chiếc phô-tơi cản đường tiếp tục tới gần Edouard, cặp mắt to đen vẫn chằm chặp không rời :
- Chả tội lỗi gì cả, chả tội lỗi gì cả !
Edouard đi vòng cái bàn, chỉ còn bộ đi-văng đằng sau anh thôi ; bà giám đốc thì sát bên cạnh rồi. Không thoát được nữa, và chắc là do nỗi tuyệt vọng cực độ của giây phút cùng đường này sai khiến, anh ra lệnh :
- Quỳ xuống !
Bà nhìn không hiểu, nhưng khi giọng nói tuyệt vọng mà cứng rắn lặp lại : "Quỳ xuống", thì bà quỳ xuống trước mặt anh nhiệt tình và ôm chân anh.
- Buông tôi ra ! Anh hét lên. Chắp tay lại !
Một lần nữa bà lại nhìn anh không hiểu.
- Chắp tay lại ! Nghe chưa ?
Bà chắp tay. Anh hạ lệnh :
- Ðọc kinh đi !
Bà chắp hai tay lại nhìn lên anh với đôi mắt nhiệt cuồng. Anh la to :
- Ðọc kinh đi ! Ðể Chúa tha tội cho chúng ta !
Hai tay vẫn chắp, bà nhìn Edouard với cặp mắt to đến nỗi ngoài việc lời được chút thì giờ quý báu trong tư thế từ trên cao nhìn xuống này, anh bắt đầu thấy mất đi ý nghĩ khủng khiếp rằng mình chỉ là con mồi, nên tìm lại được sự an tâm. Anh lùi lại để có cái nhìn toàn thể về bà và nhắc lại mệnh lệnh :
- Ðọc kinh đi !
Rồi vì bà vẫn tiếp tục im lặng, anh hét :
- Ðọc to lên !
Mà thực : người đàn bà quỳ gối, gầy guộc và trần truồng, bắt đầu đọc : "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, ý Cha ngự đến..."
Vừa đọc những lời kinh này, bà vừa nhìn lên Edouard như thể chính anh là Ðức Chúa Trời. Anh quan sát bà với một thích thú gia tăng : cái bà quỳ trước mặt anh là bà giám đốc đang bị kẻ dưới tay hạ nhục ; cái bà quỳ trước mặt anh là nhà cách mạng vô thần đang bị động tác cầu nguyện lột truồng hạ nhục ; cái bà quỳ trước mặt anh là một người đàn bà cầu nguyện đang bị sự trần truồng của mình hạ nhục.
Hình ảnh điếm nhục ba mặt này làm Edouard ngây ngất, và một việc không chờ đợi lại xảy ra : xác thịt anh chấm dứt trò kháng chiến thụ động : cu cậu cửng lên !
Tới lúc bà giám đốc nói : "Nhưng chớ để chúng con sa chước cám dỗ", anh vội vã bứt hết áo quần. Khi bà vừa xong "Amen", anh cuồng bạo kéo đứng lên lôi tới đi-văng.
9
Chuyện đó xảy ra ngày thứ năm, thứ bảy Edouard dẫn Alice về nhà quê, tới nhà anh mình. Anh của Edouard đón tiếp vui vẻ và cho mượn chìa khóa căn nhà nghỉ mát.
Hai kẻ yêu nhau dạo chơi suốt buổi chiều trong rừng và trên đồng cỏ. Họ hôn nhau và Edouard có thể xác nhận, bằng chính đôi tay mãn nguyện, là đường ranh tưởng tượng vạch ngang rốn, để ngăn
cách vùng ngây thơ vô tội với vùng thông dâm tội lỗi, đã hoàn toàn mất hết giá trị. Phản ứng đầu tiên của anh là muốn xác nhận bằng lời cái biến cố chờ đợi đã lâu này, nhưng anh ngần ngừ rồi nghĩ tốt hơn hết nên giữ im lặng.
Có thể Edouard đã nhận thức rất chín chắn : sự trở trái bất ngờ của Alice rõ ràng không dính líu gì đến cố gắng anh đã vận dụng trong nhiều tuần lễ để thuyết phục cô, nó chẳng liên hệ gì đến luận điệu duy lý của anh. Ngược lại, nó chỉ được xây dựng trên tin đồn tuẫn đạo của Edouard, nghĩa là trên một ngộ nhận, và ngay cả cái kết luận mà Alice rút ra từ sự nhầm lẫn này cũng hoàn toàn phi lý. Bởi vì, chúng ta thử suy nghĩ lại một chút mà xem : tại sao Alice phải vi phạm thánh luật, chỉ vì anh giữ đức tin đến mức có thể lụy thân vì đạo ? Chẳng lẽ cô phải phản bội Chúa trước Edouard, chỉ vì anh đã từ chối phản bội Chúa trước ủy ban điều tra của trường hay sao ?
Trong những điều kiện này, một chút sơ hở nào tuyên bố ra cũng có nguy cơ là lật tẩy cho Alice thấy sự bất nhất của thái độ mình. Vậy nên tốt hơn hết là Edouard im lặng, và sự câm nín của anh chẳng gây chút chú ý nào, vì Alice tự nói một mình đủ rồi, cô vui vẻ không có gì chứng tỏ rằng sự thay đổi trong tâm hồn mình là bi thảm hay đau đớn cả.
Khi đêm xuống, họ trở về căn nhà nghỉ mát, thắp đèn, trải giường ra, rồi hôn nhau, và Alice yêu cầu Edouard tắt đèn. Nhưng vì cửa sổ vẫn để lọt vào cái tranh tối tranh sáng ban đêm, Edouard cũng phải đóng nốt cửa sổ lại theo lời yêu cầu của Alice. Trong bóng tối hoàn toàn, Alice cởi bỏ hết quần áo hiến thân cho anh.
Edouard đã chờ đợi giây phút này trong bao tuần nay, và lạ lùng chưa, bây giờ khi cuối cùng đã hoàn tất, tầm quan trọng của nó lại không tương ứng chút nào với sự chờ đợi lâu lắc của anh. Ðộng tác
làm tình, ngược lại, có vẻ dễ dàng và tự nhiên tới nỗi anh hơi đãng trí và cố xua đuổi một cách vô hiệu ý nghĩ thoáng qua trong đầu : Edouard hình dung lại nỗi khổ tâm mình trước sự lạnh nhạt của Alice trong nhiều tuần dài lê thê vô ích vừa qua, anh hình dung lại tất cả những phiền toái cô đã gây cho anh ở trường, và thay vì biết ơn cô đã tự hiến thân cho mình, anh lại cảm thấy oán hận hằn thù. Anh phẫn nộ cô đã phản bội ông Chúa-Chống-Thông-dâm của cô, mà trước kia cô cuồng nhiệt sùng bái, một cách quá dễ dãi không ân hận. Anh phẫn nộ là không một ham muốn, một biến cố, một xáo trộn nào có khả năng dao động sự bình thản của cô ; anh phẫn nộ là cô đã sống như thế không hề cảm thấy bị xâu xé, mà trái lại quá dễ dàng và đầy tự tin. Dưới ách nặng của sự căm phẫn này, Edouard cố yêu cuồng bạo điên khùng, để khiến cô phải thốt lên một tiếng kêu, một tiếng rên, một lời phàn nàn, hay chỉ một lời gì, nhưng anh thất bại. Cô bé hoàn toàn câm nín và bất kể mọi nỗ lực của anh, sự quấn quýt của họ chấm dứt một cách khiêm tốn trong yên lặng.
Sau đó cô thu rúc vào lòng anh thiếp ngủ dễ dàng, trong khi Edouard còn tỉnh táo rất lâu để nhận thức là mình không cảm thấy chút hạnh phúc nào. Anh cố hình dung Alice (không phải diện mạo bên ngoài, mà trong thực chất con người) và anh chợt hiểu là anh chỉ biết cô rất tản mạn.
Chúng ta hãy dừng lại chỗ này chốc lát : Alice, như vẫn hiển hiện trước mắt anh cho đến bây giờ, là một sinh vật cứng cáp dù còn ngây thơ, với đường nét khá rõ ràng : trong mắt Edouard, dường như ở cô, sự đơn giản đáng yêu của thân thể hoàn toàn phù hợp với sự giản dị sơ đẳng của đức tin, và sự đơn giản của thân phận là nguyên do của thái độ hành xử. Cho tới lúc ấy, anh vẫn xem cô là một thực thể nhất quán chặt chẽ : mặc dù đã trêu chọc, nguyền rủa,
mưu lừa cô bằng xảo thuật, anh không thể không quý trọng cô (dù là bất đắc dĩ).
Nhưng bây giờ thì cái bẫy của tin đồn (cái bẫy mà Edouard không dự tính) đã bẻ gẫy sự thống nhất của nhân vật này, và anh tự nhủ là những ý tưởng của Alice thực sự chỉ là lớp dát trên số mệnh cô thôi, cũng như thân phận cô chỉ là lớp dát trên thân thể cô, và anh chỉ còn nhìn thấy ở cô sự kết hợp hoàn toàn ngẫu nhiên giữa một thân xác, vài ý tưởng với một dòng đời, một sự lắp ráp vô cơ, võ đoán và mong manh. Edouard hình dung lại Alice (đang thở sâu bên trũng vai anh) nhìn thấy một bên là thân thể cô và bên kia là những ý tưởng. Anh ham thích thân thể này, còn ý tưởng thì anh thấy buồn cười, và thân xác cùng với những ý tưởng đó không tạo nên sự thuần nhất nào cả ; anh thấy cô như đường vẽ mất hút trong tờ giấy thấm : chẳng còn đường nét nào, hình thù gì rõ ràng.
Vâng, Edouard thực sự ham thích tấm thân này. Sáng hôm sau khi Alice thức dậy, anh buộc cô phải để trần truồng, và cô, mới hôm qua, còn bắt phải đóng cửa sổ, bẻn lẽn vì ánh sáng nhợt nhạt các vì sao, thì bây giờ đã quên đi sự thẹn thùng của mình. Anh quan sát cô (tung tăng vui vẻ đi tìm gói trà và bánh nướng ăn sáng), và lát sau cô phát hiện anh có vẻ lo âu. Cô hỏi có chuyện gì. Edouard trả lời là phải đi thăm người anh sau bữa điểm tâm.
Vì ông anh hỏi ở trường mọi việc ra sao, Edouard trả lời là không đến nỗi tệ, ông anh bảo :
- Con mẹ Cechackowa này là một con khốn nạn, nhưng anh đã tha lỗi cho con mẻ từ lâu rồi. Anh tha lỗi vì con mẻ không hiểu con mẻ làm gì. Con mẻ muốn làm hại anh, nhưng chính nhờ con mẻ mà anh được sung sướng như vầy. Anh sống khá hơn với nghề trồng
trọt, và sự tiếp xúc với thiên nhiên cứu anh khỏi những hoài nghi mà dân thành thị hay mắc phải.
- Em cũng vậy, bà này đem lại cho em may mắn.
Edouard nói với vẻ suy tư, và kể cho ông anh nghe là anh yêu Alice, là anh đã giả vờ tin vào Chúa, rằng anh đã phải ra trước hội đồng, rằng cái bà Cechackowa này muốn cải tạo anh, và rằng Alice cuối cùng đã hiến thân cho anh, coi anh như thánh tử đạo. Nhưng anh không kể hết cặn kẽ đã buộc bà giám đốc đọc kinh "Lạy Cha" như thế nào, vì chợt có cảm tưởng bắt gặp tia nhìn trách móc trong mắt ông anh. Anh nín im và ông anh bảo :
- Có thể anh có nhiều khuyết điểm, nhưng có một điều anh chắc chắn. Anh không bao giờ đóng kịch và luôn luôn nói với mọi người những gì anh nghĩ, trước mặt.
Edouard rất yêu quý ông anh và vẻ không tán đồng của ông làm anh thấy tổn thương. Anh muốn biện minh và họ lại bắt đầu cãi nhau. Ðể chấm dứt, Edouard nói :
- Em biết anh luôn luôn là người ngay thẳng và anh hãnh diện về điều đó. Nhưng anh cứ tự hỏi xem : tại sao phải nói sự thật ? Cái gì bắt buộc ta ? Và tại sao phải coi sự chân thành là một đức tính ? Giả dụ anh gặp thằng điên tự cho mình là con cá, cứ một mực cho rằng tất cả mọi người đều là cá. Anh có cãi lý với hắn không ? Anh có cởi hết quần áo trước mặt hắn để chứng minh là anh không có vây không ? Có nói cho hắn nghe trước mặt là anh đang nghĩ gì không ? Nói em nghe đi !
Ông anh nín thinh, Edouard tiếp lời :
- Nếu anh chỉ nói lên sự thật, chỉ nói những gì anh thực sự nghĩ về hắn, điều đó có nghĩa là anh bằng lòng tranh luận đứng đắn với một thằng khùng, là chính anh cũng điên nốt. Với tất cả người chung quanh ta cũng vậy thôi. Nếu anh cứ khăng khăng nói sự thật với họ, có nghĩa là anh coi điều họ nói là quan trọng. Và coi là nghiêm trọng cái không lấy gì làm quan trọng cho lắm, tức là đã tự mình đánh mất hết cả sự đứng đắn của mình rồi. Em thì, em phải nói dối để không quan trọng hoá mấy thằng khùng và để tự mình khỏi phát điên !
10
Ngày chúa nhật trôi qua và đôi tình nhân quay về ; chỉ có họ trong toa tàu (một lần nữa, cô bé lại líu lo vui vẻ) và Edouard nhớ lại rằng chỉ mới đây anh còn hoan hỉ đến mức nào, với ý nghĩ sẽ tìm thấy trong con người hồn nhiên của Alice sự nghiêm chỉnh mà những ràng buộc đời sống không bao giờ mang lại cho anh, và anh buồn bã hiểu ra (trong khi bánh xe đập tình tứ vào các điểm nối đường rầy) rằng cuộc phiêu lưu tình ái vừa sống với Alice quả là dấm dớ, nó chỉ nẩy nở bởi tình cờ và nhầm lẫn, thiếu đứng đắn và vô nghĩa ; nghe lại những lời, nhìn lại cử chỉ của Alice (cô đang siết tay anh), anh cho đó là những dấu hiệu chẳng nghĩa lý gì, là loại giấy bạc không tiền bảo chứng, là khối nặng của giấy lộn ; anh không thể cho nó giá trị nào hơn là cái giá trị mà Ðức Chúa có thể cấp cho lời cầu nguyện của bà giám đốc trần truồng. Và bỗng nhiên Edouard tự nhủ rằng tất cả những con người anh đang chung đụng trong thành phố này thực sự chỉ là những đường vẽ chìm hút trong tờ giấy thấm, là những sinh vật mà thái độ cư xử hoàn toàn có thể đánh đổi được, những sinh vật không có thực chất bền vững. Nhưng điều tệ hại hơn, tệ hại hơn nhiều (anh tự nhủ sau đó) là chính anh cũng chỉ là cái bóng mờ của những nhân-vật-bóng-ma này, bởi vì anh đã vét cạn trí thông minh của mình trong ý đồ duy nhất là thích nghi với và
rập khuôn theo họ ; và cho dẫu anh có khinh thường, bắt chước họ với nụ cười trong bụng, cho dẫu anh có ngầm chế giễu họ (đồng thời biện minh cho cố gắng hoà đồng của mình) bằng cách ấy, sự kiện này cũng không thay đổi được gì hết, bởi vì sự bắt chước, ngay cả với ác ý, cũng chỉ vẫn là sự bắt chước, một cái bóng cười khẩy mỉa mai, cũng chỉ vẫn là một cái bóng, nghĩa là cái gì thứ yếu, phụ thuộc, khốn cùng.
Thực là sỉ nhục, sỉ nhục kinh khủng. Bánh xe vẫn đập tình tứ vào điểm nối đường rầy (cô bé líu lo) và Edouard nói :
- Alice, em có sung sướng không ?
- Có.
- Anh thì, anh tuyệt vọng.
- Anh điên hả ?
- Ðáng lẽ chúng ta đừng làm điều ấy. Không nên.
- Anh có chuyện gì vậy ? Chính anh muốn mà !
- Ừ. Ðó là cái lỗi lớn nhất của anh, Chúa sẽ không tha thứ anh. Ðó là tội lỗi, Alice à.
- Em van anh, có chuyện gì vậy ? Cô gái trầm tĩnh nói. Chính anh cứ lặp đi lặp lại là Chúa muốn tình yêu, trước hết là tình yêu mà !
Khi Edouard nhận thấy Alice đã điềm nhiên chiếm hữu câu ngụy biện thần học mà mới đây còn chẳng hiệu quả gì cho cuộc chiến đấu gay go của anh, anh phát cáu.
- Anh nói vậy để thử lòng em. Bây giờ thì anh biết em trung thành với Chúa đến mức nào ! Nhưng ai có thể phản bội Chúa, thì còn có khả năng phản bội con người gấp trăm lần !
Alice luôn luôn tìm ra câu trả lời mới, có sẵn. Nhưng nếu khôn ngoan hơn, thì cô đã chẳng nên nói ra, bởi vì những câu trả lời này chỉ khơi dậy cơn cuồng nộ báo thù của anh. Edouard nói rất lâu, nói nhiều và hay đến nỗi (anh dùng cả những chữ buồn nôn và ghê tởm xác thịt), rốt cuộc, anh cũng rứt ra được từ khuôn mặt bình thản và dịu dàng này một tiếng nấc, nước mắt và lời rên rỉ.
Ở nhà ga, anh nói "Vĩnh biệt" với cô bé và bỏ mặc cô ràn rụa. Khi về tới nhà, chỉ vài giờ sau, khi cơn thịnh nộ kỳ quái này cuối cùng dịu xuống, anh mới chợt ý thức tất cả hậu quả anh vừa gây ra : hình dung tấm thân đẹp đẽ mà, mới sáng nay thôi, còn trần truồng nhảy nhót trước mặt anh, và khi tự nhủ là chính anh đã tự nguyện xua đuổi nó, thì anh lại thấy ngu xuẩn và muốn cho mình vài cái tát.
Nhưng cái gì đã làm rồi là chuyện đã qua, và ta không thể thay đổi được gì nữa.
Dù sao, để tôn trọng sự thực, tôi phải nói thêm rằng : nếu ý nghĩ tấm thân đẹp đẽ kia từ nay vượt khỏi tầm tay mình đã gây cho Edouard nỗi buồn vu vơ, thì nó cũng là một mất mát mà anh cam chịu nhanh chóng. Sau khi đến thành phố nhỏ này ít lâu, anh đã đau khổ vì thiếu tình yêu xác thịt, nhưng đây chỉ là một thiếu thốn hoàn toàn tạm thời. Edouard không còn khổ sở vì sự thiếu hụt đó nữa. Anh đến thăm bà giám đốc mỗi tuần một lần (thói quen đã giải thoát thân thể anh khỏig lo âu lúc đầu), và anh quyết định sẽ còn tới bà đều đặn khi mà mọi việc ở trường chưa dứt khoát quang đãng. Hơn nữa anh còn thử quyến rũ nhiều bà, nhiều cô khác với sự thành công mỗi ngày một dễ dàng. Sự kiện này khiến anh đâm ra trân
trọng những lúc cô độc hơn, và anh bắt đầu yêu thích những lúc đi dạo một mình mà thỉnh thoảng anh cũng lợi dụng (xin lưu ý thêm chút đỉnh về chi tiết này) để đánh một vòng tới nhà thờ.
Không, xin quý vị đừng sợ, Edouard không tìm thấy đức tin đâu. Tôi không có ý định thăng hoa câu chuyện bằng một nghịch lý hiển nhiên đến thế. Nhưng với ý nghĩ hầu như chắc chắn là Thượng đế không hiện hữu, Edouard thường trăn trở trong đầu ý nghĩ về Thượng đế, với lòng nuối tiếc.
Thượng đế chính là cái thực thể, trong khi Edouard (nhiều năm đã trôi qua từ sau cuộc phiêu lưu với Alice và bà giám đốc) chưa bao giờ tìm thấy thực tính trong tình yêu, trong nghề nghiệp, trong tư tưởng. Anh quá chân thật để chấp nhận rằng mình đã tìm thấy điều chính yếu trong đời ở những cái không có thực tính, nhưng anh cũng quá yếu đuối để không âm thầm ao ước cái gì có thực chất.
À, thưa quý bà quý ông, thật buồn khi sống mà không thể lấy gì làm nghiêm trọng, dù là sự vật hay con người.
Vì vậy mà Edouard cảm thấy ước vọng có Thượng đế, bởi vì chỉ có Người mới tránh được cái ràng buộc phải hiện, chỉ cần hữu mà thôi ; bởi vì chỉ có Thượng đế (chỉ có Người, duy nhất và không hiện hữu) mới là cái phản đề có thực chất với thế gian này, cái thế gian càng hiện hữu bao nhiêu lại càng không có thực tính bấy nhiêu.
Cho nên thỉnh thoảng Edouard tới ngồi trong nhà thờ hướng đôi mắt mơ màng lên vòm cung thánh đường. Và vào chính lúc đó thì chúng ta từ giã anh : buổi xế đã trôi qua, nhà thờ trở nên vắng lặng, Edouard ngồi trên băng gỗ cảm thấy buồn với ý nghĩ sao Thượng đế không hiện hữu. Nhưng trong giây phút ấy, nỗi buồn man mác đến nỗi thình lình từ trong tận cùng đáy lòng, anh nhìn thấy khuôn mặt
"""