"
Tuyển Tập Lão Xá - Lão Xá full mobi pdf epub azw3 [Tuyển Tập]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tuyển Tập Lão Xá - Lão Xá full mobi pdf epub azw3 [Tuyển Tập]
Ebooks
Nhóm Zalo
TRUYỆN NGẮN
LÃO XÁ
Dịch từ nguyên bản Trung văn “Lạc Đà Tường tử” trong tủ sách “Hiện đại danh gia danh tác hân thưởng” do Nhà xuất bản Đài Hải xuất bản xã ấn hành năm 1998 tại Hà Bắc.
TRƯƠNG CHÍNH
PHƯƠNG VĂN - ÔNG VĂN TÙNG
(DỊCH VÀ GIỚI THIỆU)
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN VĂN CỪ
Biên tập: BAN VĂN HỌC
Trình bày: SAIGONBOOK
Bìa: TRẦN VĂN NHÂN
Sửa bản in: SAIGONBOOK
Đơn vị liên kết:
CÔNG TY TNHH PHÁT HÀNH SÁCH SÀI GÒN
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
Nguồn sách: Cải, Numeron (Scan và nhận dạng)
Soát lỗi: Mountain King (Tường Lạc Đà) - Chipply (Trăng Non)
Biên tập và làm ebook: Mountain King
Diễn đàn Thư viện Ebook
Topic: http://tve-4u.org/threads/truyen-ngan-lao-xa.17656/
LỜI GIỚI THIỆU
Lão Xá, tên thật là Thư Khánh Xuân, tự Xá Dư, sinh năm 1897. Ông được mọi người biết với bút danh Lão Xá từ khi cuốn Tường "lạc đà" ra đời.
Trong văn học hiện thực phê phán của Trung Quốc, cuốn Tường "lạc đà" được đặt ngang hàng với Ông giáo Chi của Diệp Thánh Đào, Gia đình của Ba Kim, Lôi Vũ của Tào Ngu, những nhà văn cùng một thế hệ.
Để bạn đọc thưởng thức và đánh giá đúng mức cuốn tiểu thuyết này, chúng tôi xin lưu ý một số điểm về thân thế và tư tưởng của tác giả.
Lão Xá là người Bắc Kinh, và là con nhà nghèo. Trong bài Tựa viết lấy in ở đầu Lão Xá tuyển tập xuất bản năm 1951, ông có nói, ông "xuất thân nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc đã quen từ nhỏ". Ông lại còn nói, ông "có bạn bè trong những người nghèo khổ, thường giúp đỡ lẫn nhau, đi lại với nhau rất thân thiết", cho nên ông "không những biết được đời sống của họ mà còn hiểu rõ nỗi lòng của họ nữa". Mặc dù đó là tình cảnh trước thời Ngũ tứ (1919), nhưng tình cảnh ấy ảnh hưởng rất nhiều đến sáng tác của ông sau này. Nhân vật chính trong tiểu thuyết hay kịch của ông phần lớn là dân các xóm nghèo Bắc Kinh. Đối với họ, ông có một mối đồng tình sâu sắc và chân thành.
Nhưng ông là một nhà trí thức. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Bắc Kinh, năm 1924, ông sang Anh dạy ngôn ngữ Trung Quốc ở Học viện Đông phương Luân Đôn cho đến năm 1930 mới về nước, nên không có dịp tham gia phong trào năm 1925 và cuộc nội chiến cách mạng lần thứ nhất năm 1927. Về nước, ông dạy ở trường Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Đảo, làm giám đốc ban văn nghệ trường Đại học Tề Lỗ ở Sơn Đông, rất ít có dịp tiếp xúc với cách mạng, và cũng chưa hề biết đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Điều đó có hạn chế nội dung tư tưởng trong tác phẩm của ông thời bấy giờ. Đúng như ông nói: "Tôi chỉ dựa vào một ít vốn sống và những nỗi uất ức tích lũy trong lòng từ thuở bé để phản kháng những kẻ áp bức và những nước đi áp bức".
Trong thời kháng chiến chống Nhật, ông lại là người hoạt động tích cực. Tháng 6 năm 1937, sau khi xảy ra vụ Lư Cầu Kiều, ông rời Bắc Kinh đi Hán Khẩu. Ngày 27 tháng 3 năm 1938, Hội liên hiệp văn nghệ chống địch toàn quốc thành lập, ông được cử làm hội trưởng, và tiếp tục sáng tác phục vụ kháng chiến. Ông bắt đầu viết kịch vào hồi này với vở Tổ quốc trên hết.
Sau giải phóng, ông nhiệt tình tham gia các phong trào chính trị, phụ trách nhiều công tác xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, theo đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, ông sáng tác nhiều hơn bao giờ hết. "Nhân dân cần cái gì, tôi viết cái đó. Hình thức văn nghệ nào tôi cũng xem như nhau, không phân biệt hình thức nào đáng sáng tác, hình thức nào không đáng sáng tác”1. Tác phẩm của ông thuộc đủ loại: thơ, kịch nói, kinh kịch, tương thanh, cổ từ 2 đều có tác dụng giáo dục rất lớn. Vở kịch Cống Long Tu của ông được đánh giá rất cao. Chính quyền nhân dân thành phố Bắc Kinh đã tặng ông danh hiệu "Nhà nghệ sĩ nhân dân".
Tường "lạc đà" là tác phẩm thuộc giai đoạn trước kháng chiến, viết năm 1935.
Đây là chuyện một anh kéo xe ở thành phố Bắc Kinh, nhưng thật ra cũng là chuyện người dân thành thị ở Trung Quốc khi chưa giải phóng, còn chịu hai tầng áp bức phong kiến và tư sản mại bản.
Tường vốn là nông dân. Cha mẹ chết, anh lên Bắc Kinh kiếm ăn, làm đủ mọi việc, cuối cùng thì đi kéo xe. Anh, người khỏe mạnh, tính tình thật thà; điều mong ước duy nhất của anh là có một chiếc xe riêng để kéo, không phải thuê của các hiệu. Ba năm vất vả, mồ hôi trộn lẫn nước mắt, tằn tiện từng đồng xu, anh đã được như ý muốn. Nhưng rồi quân phiệt hỗn chiến, bọn loạn binh cướp mất chiếc xe của anh và bắt anh đi theo hầu hạ chúng. Đến khi thoát được thân, thì tay trắng lại hoàn trắng tay. Thế mà anh cũng không nản lòng. Trở về Bắc Kinh, anh lại kéo xe, lại tiết kiệm từng đồng xu. Nhưng trong xã hội cũ một người thật thà như anh không thể ngoi lên được; muốn ngoi lên thì phải là một tay anh chị như lão Tư Lưu, chủ hiệu xe Nhân Hòa... Cho nên những chuyện không may dồn dập đến, tên mật thám Tôn cướp mất của anh ba mươi đồng bạc còn lại; vợ anh, ả Nĩu, có mang rồi vì ngu dốt mà chết oan; người con gái anh yêu - cô Phúc phải vào dãy "Nhà trắng", bán thân nuôi em, cuối cùng thì thắt cổ chết... Như thế, bảo anh không nhìn đời bằng một con mắt khác sao được. Thế rồi, Tường đối tính, bắt đẩu trụy lạc, gây gổ với mọi người, xem mọi người là thù địch. Những việc trước kia anh cho là chướng tai gai mắt thì bây giờ anh thấy thú vị. Anh không muốn làm ăn nữa, và cũng chẳng mong ước gì nữa.
Đó là quá trình sa đọa của bao nhiêu người trong xã hội cũ. Hoàn cảnh đã đẩy họ vào con đường đó, không cưỡng lại được. Chỉ có thay đổi hoàn cảnh, cải tạo xã hội thì những người như Tường mới có đất sống. Rõ ràng Lão Xá có ý định kết tội xã hội Trung Quốc thời đó, vạch trần tội ác của chế độ phong kiến, quân phiệt, mặc dù tác phẩm của ông chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ trong cuộc sống đương thời mà thôi. Õng muốn dùng hình tượng nghệ thuật nêu lên sự thực đau đón sau đây: trong xã hội
cũ, nếu thật thà, lương thiện thì không gặp bất hạnh này cũng gặp bất hạnh khác. Cừu không thể sống được giữa bầy sói. Muốn sống thì phải trở thành sói. Thực tế, nhiều tên lưu manh trước kia cũng hiền lành, chịu thương chịu khó làm ăn, họ trở thành lưu manh là vì hoàn cảnh xã hội. Cứ nhìn Tường đủ rõ. Cuối truyện, ta thấy Tường có một tâm trạng bi đát như thế nào!
"Về đến xưởng, anh ta vùi đầu ngủ hai ngày liền".
"... Rồi anh ta kéo xe ra, trong lòng trống rỗng, chẳng nghĩ ngợi mà cũng chẳng hy vọng gì. Chỉ vì cái bụng mà phải nhọc cái thân, bụng no rồi thì lại ngủ, còn cần gì phải suy nghĩ, phải hy vọng gì nữa? Nhìn con chó gầy giơ xương, chầu chực bên thúng khoai chờ được chút vỏ bỏ đi anh ta biết thân anh cũng chẳng khác gì con chó kia, chạy ra chạy vào suốt ngày cũng cốt chỉ để được ít vỏ khoai mà ăn. Cứ tạm bợ qua quít thế mà sống, chẳng cần suy nghĩ gì cả!"
Sự thực đau đớn đó, Lỗ Tấn đã nói lên bằng hình tượng Nhuận Thổ trong Cố hương, bây giờ Lão Xá lại nói lên trong hình tượng Tường "lạc đà". Có khác chăng là về sau Nhuận Thổ trở thành đần độn như pho tượng gỗ, còn Tường "lạc đà" thì có thể sẽ trở thành lưu manh. Thế thôi.
Tác giả đã gắn chặt vận mệnh một cá nhân với chế độ xã hội, tìm nguyên nhân những nỗi đau khổ của một cá nhân trong xã hội thối nát đương thời. Trong cuốn truyện này, Tường là nhân vật chính, nhưng xung quanh Tường, có nhiều hình tượng khác cũng được xây dựng để làm cho chân lý trên càng nổi bật: Phúc, ông Hai Cường, hai ông cháu bé Mã... Số phận của họ cũng bi thảm không thua gì số phận Tường. Nhất là Phúc. Trước đây, một người con gái nhà nghèo mà lại có chút nhan sắc thì thường không tránh khỏi con đường Phúc đã đi. Đời Phúc cũng là một kho tiểu thuyết.
Điều đặc biệt ở Lão Xá là chẳng những đối với nạn nhân trong truyện ông tỏ ra hết sức đồng tình, mà đối với nhân dân lao động nói chung, ông cũng nhìn bằng con mắt của người bạn. Ông nhìn thấy ở họ nhiều cái tốt hơn cái xấu. Không ở chỗ nào, ông tả họ bằng ngòi bút phũ phàng như nhiều nhà văn tiểu tư sản khác. Ông cố đặt mình vào địa vị họ mà đánh giá người này hay người nọ, hoặc nhìn cảnh vật thiên nhân. Cho nên mặc dù hồi bấy giờ Lão Xá chưa có lập trường của giai cấp vô sản như Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, nhưng ông cũng là một nhà văn tiến bộ, và tinh thần nhân đạo, thái độ sáng tác hiện thực của ông đã làm cho tác phẩm của ông được người đọc có cảm tình.
Tường "lạc đà" cũng có một vài chỗ yếu. Điều đó ngày nay rất dễ thấy. Chính tác giả thấy trước ai hết. Dưới đây là đoạn văn ông viết năm 1954, khi tái bản tác phẩm này:
"... Đây là một tác phẩm cũ mười chín năm về trước của tôi. Trong truyện, tuy tôi đồng tình với người dân nghèo, quý mến những phẩm chất tốt đẹp của họ, nhưng tôi đã không vạch ra được cho họ lối thoát. Họ sống một cách khổ sở, và chết một cách oan ức, đau thương. Đó chính là vì tôi chỉ nhìn thấy mặt đen tối của xã hội đương thời, mà chưa nhìn thấy ánh sáng của cách mạng, chưa nhận thức được chân lý của cách mạng. Mặt khác, chế độ kiếm duyệt tàn bạo thời bấy giờ cũng khiến tôi vùng lên. Truyện in ra chưa được bao lâu, tôi đã nhận được ý kiến của bà con nghèo: "Cứ như trong truyện thì chúng tôi khổ quá, chẳng còn hy vọng gì nữa!". Điều này khiến tôi vô cùng hố thẹn.
Mười chín năm qua, nhân dân lao động đã vùng lên. Ngay cả người như tôi đây mà cũng đã được hiểu biết ít chút về cách mạng, thật không thể không cảm tạ Đảng Cộng sản Trung Quốc và Mao Chủ tịch vĩ đại. Ngày
nay, tái bản cuốn truyện này, e chỉ có chút ý nghĩa sau đây: "Không quên những cái đen tối đáng sợ trong xã hội cũ, thì mới thấy hạnh phúc sáng tươi ngày nay là quý báu, và mới biết trân trọng nó".
Đó là những lời hết sức khiêm tốn, hết sức thành khẩn.
Về ngôn ngữ, tác phẩm của Lão Xá có một điểm đặc biệt, ông dùng nhiều phương ngôn Bắc Kinh, và theo các nhà phê bình Trung Quốc thì ông dùng rất khéo, rất hoạt. Ông lại dùng văn nói nhiều hơn văn viết. Nó làm cho tác phẩm sinh động hẳn lên và giữ được phong cách dân tộc. Có điều chính điểm đó lại gây khó khăn cho người dịch. Chúng tôi đã cố gắng khắc phục, nhưng không chắc đã làm được như ý muốn.
TRƯƠNG CHÍNH
Phần một
TƯỜNG LẠC ĐÀ
1
Chúng tôi muốn giới thiệu anh chàng Tường, chứ không phải con lạc đà, bởi vì "lạc đà" chỉ là một cái biệt hiệu. Vậy chúng tôi nói về anh chàng Tường trước, rồi nhân tiện sẽ nói qua mối liên quan giữa con lạc đà và anh ta. Như vậy cũng được.
Phu xe Bắc Bình3 có nhiều hạng: những anh trai trẻ, khỏe mạnh, nhanh chân thì thuê loại xe đẹp, kéo "cả ngày", muốn làm muốn nghỉ lúc nào cũng được, tự do tùy thích; lấy xe xong, đến đỗ sẵn ở bến xe hoặc trước cổng các nhà, chỉ chờ các ông khách cần đi nhanh; gặp may, loáng một cái, kiếm được một hai đồng; chẳng may, có khi toi cả ngày, đến "thuế xe" cũng không có, nhưng cóc cần. Các anh chàng thuộc hạng này đại khái chỉ mong mỏi hai điều: hoặc kéo xe tháng, hoặc tậu một chiếc xe riêng, có xe riêng thì kéo tháng hay kéo vặt cũng chẳng sao, đằng nào cũng là xe của mình.
Những anh lớn tuổi hơn hạng nói trên, hoặc vì sức yếu chạy chậm, hoặc vì còn vợ còn con, không dám ngồi không cả ngày, phần đông thuê những chiếc xe hơi cũ, xe với người trông cũng khá sạch mắt, cho nên khi đòi tiền vẫn được giá. Hạng phu xe này, có khi kéo "cả ngày", có khi kéo "nửa ngày". Nếu kéo nửa ngày, thì vì còn có sức, nên bất kỳ mùa đông hay mùa hè, bao giờ họ cũng "kéo đêm", Ban đêm, tất nhiên phải nhanh mắt, nhanh chân hơn ban ngày, tất nhiên tiền kiếm được cũng khá hơn.
Những anh khoảng trên bốn mươi, hoặc dưới hai mươi, e khó mà lọt vào hai hạng trên. Xe họ cũ kỹ lại không dám "kéo đêm", nên phải ra xe sơm sớm, mong kéo từ sáng tinh mơ cho tới độ ba bốn giờ chiều, kiếm đủ
"thuế xe" và cơm ăn. Xe cũ, chạy chậm, nên kéo nhiều đường đất mà tiền thì được ít. Đến các chợ bán rau, chở rau dưa hoa quả, đều là bọn họ cả. Ít tiền nhưng chẳng cần chạy nhanh!
Ở đây, hạng dưới hai chục tuổi, có anh làm nghề này từ năm mười một mười hai và rất ít anh quá hai mươi lại có thể trở thành hạng phu xe "sạch mắt", bởi vì khó nhọc từ tấm bé, họ khó lòng khỏe mạnh lên được. Có thể là họ kéo xe suốt đời, nhưng suốt đời chẳng bao giờ nổi đình nổi đám trong làng kéo xe. Hạng bốn mươi trở xuống, có người đã kéo đến chín mười năm rồi, gân cốt suy yếu khiến họ cam chịu tụt lại sau; dần dần họ biết sớm muộn rồi có phen cũng chết lăn quay giữa đường. Kiểu họ kéo xe, lối họ tùy cơ ứng biến mà đòi tiền, cái tài chạy tắt hay chạy vòng quanh của họ đủ cho họ nghĩ đến thời oanh liệt trước kia mà nở mũi tự phụ trước bọn đàn em. Nhưng chút hãnh diện đó không hề giảm bớt cái tương lai đen tối được; cũng chính vì thế mà sau khi lau mồ hôi họ vẫn thường khẽ thở dài. Có điều, so sánh với hạng phu trên bốn mươi, thì hầu như họ chưa lấy gì làm khổ lắm. Hạng sau này chắc trước kia không hề nghĩ rằng mình lại có duyên nợ với chiếc xe tay, đến lúc sống dở chết dở mới phải cầm lấy cái càng xe lên. Thầy phú-lít, bác loong-toong bị đuổi, người bán rong tiền lưng đã cạn, hoặc thợ thuyền bị thất nghiệp, đến bước không còn gì mà cầm, mà bán nữa, đành cắn răng, nuốt nước mắt, bước lên con đường này để đi đến cõi chết. Bọn họ thuở còn trai tráng có bao nhiêu sức lực đã đem bán sạch rồi, bây giờ phải đem những giọt máu và mồ hôi của tấm thân nuôi bằng ngô khoai4 mà đổ xuống mặt đường. Sức tàn, lực kiệt, không thạo nghề, không bạn bè, ngay cả ở trong làng kéo xe họ cũng chẳng được ai coi ra gì. Họ kéo những chiếc xe tã nhất, săm lốp một ngày xì hơi không biết bao nhiêu lần, vừa kéo vừa xin lỗi khách, và được mươi mười lăm xu đã cho là bở lắm.
Ngoài ra, do hoàn cảnh và sự hiểu biết, có một số phu xe lại đứng riêng ra thành một hạng. Những người sống ở khu Tây Uyển, Hải Điện tất nhiên chạy đường Tây Sơn, Yên Kinh, Thanh Hoa, tiện hơn; cũng như những người vùng ngoài cửa Vĩnh Định thì chạy đường Thanh Hà, Bắc Uyển; ở vùng ngoài cửa Vĩnh Định thì chạy đường Nam Uyển. Bọn họ đều chạy
đường trường cả chứ không thích kéo vặt, bởi vì kéo "cuốc" nào ra "cuốc" ấy, không thèm góp nhặt dăm ba đồng xu. Nhưng họ cũng vẫn chưa được "oách" bằng mấy anh xe ở khu Đông Giao dân hạng5. Những anh loại xe sang này chuyên kéo người ngoại quốc từ Đông Giao dân hạng5 đến Ngọc Tuyền Sơn, Di Hòa Viên, hoặc Tây Sơn. "Oách" cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi. Nguyên nhân khiến các anh em phu xe thường không dám đến tranh khách, chính là vì những tay làm ăn với người ngoại quốc đó có đôi chút hiểu biết khác người thường. Họ nói được tiếng ngoại quốc. Lính Anh, lính Pháp, thuê kéo đến Vạn Thị Sơn, Ứng Hòa Cung, "Tám ngõ lớn" họ đều hiểu cả. Họ có một lô tiếng ngoại quốc, không truyền cho ai. Lối chạy của họ cũng đặc biệt, cứ thủng thỉnh bước một, không nhanh mà cũng không chậm, đầu cúi xuống, không nhìn ngang nhìn ngửa, chạy sát vỉa hè, có vẻ mặc kệ đời và ta đây có sở trường riêng. Vì kéo cho người ngoại quốc nên họ không cần phải mang dấu, mà nhất loạt mặc áo cánh trắng tay, quần trắng hoặc đen, ống rất rộng, cổ chân đeo nịt; đi giày vải xanh má rộng đế dày, trông thật sạch sẽ, lanh lẹn, bảnh bao. Thấy kiểu ăn mặc đó, anh em các xe phu khác không bao giờ lại đến tranh khách hoặc chèn lên trước. Họ dường như thuộc vào một ngành nghề riêng biệt.
Có giới thiệu sơ qua như vậy rồi bây giờ nói đến vị trí của anh chàng Tường trong làng kéo xe, chúng tôi mới mong có thể nói rõ ràng chính xác như nói đến một cái đinh vít trong bộ máy.
Trước khi có duyên nợ với cái biệt hiệu "lạc đà" này, Tường là một anh phu xe sống khá tự do thoải mái, nghĩa là anh ta thuộc vào hạng trai trẻ khỏe mạnh và có xe riêng: xe của mình, muốn làm ăn ra sao tùy ý, thật là vào bậc nhất trong làng phu xe.
Được như thế quyết không phải là chuyện dễ. Một năm, hai năm, ít nhất cũng phải tới ba bốn năm, từng giọt từng giọt mồ hôi đổ xuống, chẳng biết đến hàng mấy mươi vạn giọt, dãi dầu sương gió, bóp mồm bóp miệng mới tậu được chiếc xe. Chiếc xe là kết quả và là sự bù đắp của mọi nỗi cực
khổ, xoay xở của anh ta, cũng giống như tấm huy chương của người dũng sĩ trải qua hàng trăm trận. Khi còn phải thuê xe người khác, anh ta chạy từ sáng đến tối, từ đông sang tây, từ nam chí bắc, y như con quay bị người ta quất cho xoay tít. Anh ta không tự chủ nữa, nhưng trong khi quay tít thò lò như thế, mắt anh ta vẫn không hoa, lòng anh ta vẫn không rối. Anh ta luôn luôn mơ tưởng một chiếc xe, nhờ nó anh ta sẽ được tự do, độc lập, một chiếc xe của mình như chân tay mình vậy. Có xe riêng, sẽ không phải chịu ức với bọn chủ thầu nữa, mà cũng chẳng cần phải a dua bợ đỡ người này người nọ. Có sức khỏe, lại có xe riêng, hàng ngày mở mắt ra là có miếng ăn rồi.
Anh ta không sợ khổ và cũng chẳng có những thói hư tật xấu, vốn có thể tha thứ nhưng không nên bắt chước, của các anh em xe phu khác. Sáng ý và chịu khó, anh ta có thể làm cho điều mình mơ ước trở thành sự thực. Giả dụ hoàn cảnh khấm khá hơn, hoặc được học hành chút ít, nhất định anh ta chẳng rơi vào "làng xe kéo". Và dù làm gì, anh ta cũng chẳng bao giờ chịu bỏ lỡ thời cơ. Khốn thay, anh ta lại cứ phải kéo xe. Thôi thì đành vậy. Trong cái nghề này, anh ta vẫn có thể tỏ ra mình là người sáng ý và có tài, dường như ngay ở dưới địa ngục, anh ta vẫn có thể làm một con quỷ khôn. Lớn lên ở thôn quê, mồ côi cha mẹ và có mấy mẫu ruộng xấu cũng mất nốt, năm mười tám anh ta đã phải mò lên tỉnh kiếm ăn. Với sức khỏe và tính thật thà của một gã trai quê, phàm việc gì đổ mồ hôi mà có miếng ăn là hầu như anh ta đã làm qua cả. Nhưng không bao lâu, anh ta nhận thấy, kéo xe dễ kiếm ra tiền nhất. Làm việc lao lực khác, kiếm chác có hạn. Còn kéo xe, khéo xoay xở và gặp dịp thì chưa biết lúc nào, ở chỗ nào đó, sẽ vớ được những món bở, qua cả lòng mong ước. Tất nhiên, anh ta cũng biết những cơ hội đó chẳng phải tình cờ mà đến; xe và người đều phải lo tươm tất, ra trò đã. Có của tốt đem bán mới mong gặp khách biết mua của về. Nghĩ đi nghĩ lại, anh ta thấy mình có đủ điều kiện: anh ta đang độ khỏe mạnh, trai tráng, chỉ hiềm chưa kéo xe bao giờ, nên không dám kéo xe đẹp ngay. Nhưng đó không phải là một khó khăn không thể vượt qua được. Sức vóc của anh ta, chỉ cần tập khoảng mươi mười lăm hôm nhất định sẽ chạy ra trò, rồi sẽ thuê một chiếc xe mới, chưa biết chừng chẳng bao lâu có thể tìm ra chỗ kéo xe tháng; sau nữa chịu khó tằn tiện độ một hai năm, cứ cho là bốn năm đi, nhất định sẽ sắm nổi một chiếc xe, một chiếc xe thật oách! Nhìn vào sức lực
đương trai của mình, anh ta cho chỉ là chuyện chóng hay chầy mà thôi. Đó là mục đích và là điều mong ước có thể đạt tới được, quyết không phải mơ tưởng hão huyền.
Sức vóc của anh ta phát triển trước tuổi, mới độ hai mươi mà người rất cao to; tuy mình mẩy, tay chân chưa được năm tháng rèn luyện thành thục, nhưng trông đã ra người lớn rồi - một người lớn mà mặt mũi dáng dấp vẫn còn mang theo cái vẻ ngây thơ, nghịch ngợm của trẻ con. Nhìn bọn phu xe "bậc nhất", anh ta nghĩ cách sẽ thắt bụng cho thon để càng lộ rõ bộ ngực như phiến sắt và tấm lưng như cánh phản. Ngoái cổ lại nhìn đôi vai của mình, anh ta thấy sao nó rộng thế, oai thế. Thắt bụng cho thon, mặc cái quần ống trắng rộng vào, gấu quần sẽ dùng dây ruột gà buộc lại, để lòi đôi bàn chân "ngoại khổ" ra! Rõ ràng anh ta có thể trở thành một anh phu xe thuộc loại xuất sắc nhất. Như người ngớ ngẩn, anh ta cười một mình.
Người anh ta không có gì đặc biệt, chỉ cái vẻ mặt là khiến anh ta dễ được cảm tình. Đầu không to lắm, con mắt tròn, mũi nở, hai hàng lông mày rậm và ngắn, tóc bao giờ cũng cạo nhẵn thín, má không bệu, cổ to gần như bằng đầu, mặt lúc nào cũng hồng hào; nổi bật hơn cả là vết sẹo khá to nằm giữa gò má và tai bên phải - ngày bé, anh ta nằm ngủ dưới gốc cây, bị lừa ngoạm cho một miếng. Anh ta cũng chẳng chú ý lắm đến vẻ người của mình. Anh ta thích bộ mặt của anh ta; cũng y như anh ta thích cái thân hình của anh ta; tất cả đều rắn chắc như thế kia! Dường như anh ta cho mặt cũng như tay chân, chỉ cần rắn chắc là tốt rồi. Đúng thế, sau khi lên tỉnh, anh ta vẫn có thể đầu lộn ngược trồng cây chuối một lúc rõ lâu. Lúc làm như thế, anh ta cảm thấy mình giống như một thân cây trên dưới thẳng đuột, phẳng lì.
Quả anh ta giống một thân cây thật, vững chãi, lặng lẽ, nhưng tràn đầy sức sống. Anh có những ý định, tính toán riêng, nhưng không muốn nói với ai. Trong làng phu xe, những nỗi bực dọc khó khăn riêng lại là đầu đề câu chuyện chung của mọi người. Ở bến xe, quán nước, rạp tuồng, họ đem
chuyện riêng ra mà kể lể, than thở, kêu ca. Những chuyện đó sau sẽ trở thành của chung, truyền từ đời này sang đời nọ, y như những bài dân ca. Tường vốn là người nhà quê, không được mồm mép như dân thành phố. Nếu như nhanh mồm nhanh miệng là một đức tính trời phú cho, thì anh ta vốn bẩm sinh không ưa nhiều lời, nên cũng chẳng muốn đua đòi cái tài bẻm mép của dân thành phố. Chuyện của anh ta, riêng mình anh ta biết, không bàn bạc với ai. Vì ít nói, nên anh ta chẳng có nhiều thì giờ để mà suy nghĩ. Dường như anh ta bao giờ cũng cứ nhìn vào cõi lòng mình. Một khi đã có chủ ý rồi, thì anh ta cứ theo con đường đã vạch sẵn trong óc. Nếu con đường đó không thông suốt thì hàng ngày liền, anh ta có thể cứ im lặng, chẳng nói chẳng rằng, cắn chặt răng lại, y như đang tự đay nghiến mình.
Anh ta quyết chí đi kéo xe, thế là đi kéo xe. Anh ta thuê một chiếc xe tàng, để luyện đôi chân đã. Ngày đầu tiên chẳng được đồng xu nào hết. Ngày hôm sau, làm ăn có khá hơn, nhưng lại phải nằm bẹp mất hai ngày, chân sưng như hai trái bầu, không sao nhấc nổi. Đau thế mà anh ta cũng gắng chịu. Anh ta biết đó là chuyện không thể tránh được; đã làm nghề kéo xe tất phải vượt qua cửa ải này, không vượt qua thì chẳng có gan đâu mà kéo.
Chân khỏi đau, anh ta đã dám chạy rồi. Điều đó làm cho anh ta sướng lắm, bởi vì những chuyện khác thì không có gì đáng lo nữa: tên phố anh ta thuộc làu, đôi khi có phải chạy vòng quanh tí chút, cũng chẳng sao, khỏe mạnh thì có ngại gì. Anh ta từng có kinh nghiệm đẩy, kéo, khiêng, gánh, nên kéo xe cũng chẳng lấy gì làm khó lắm. Huống hồ, anh ta có những chú ý riêng: cẩn thận nhiều vào, bớt cái trò tranh giành hơn thua đi, sẽ ít xảy ra tai nạn. Còn như chuyện đòi giá cả và tranh khách, thì vì mồm miệng chậm chạp, nên không địch nổi những tay lọc lõi. Biết rõ chỗ kém của mình, anh ta dứt khoát không hay đến "bến xe". Ở đâu không có xe, anh ta đỗ ở đó. Chỗ nắng, anh ta có thể đứng ung dung nói giá, có khi lại chẳng đòi bao nhiêu cả chỉ nói: "Xin cứ ngồi lên, rồi liệu đấy mà trả!". Trông anh ta có vẻ thật thà, mặt mũi lại sáng sủa dễ thương, dường như người ta chỉ có thể tin anh ta thôi, chứ không dám nghĩ cái anh chàng "ngốc nghếch gà tồ" này lại biết "chém đắt". Dù có nghi ngờ chăng nữa, cũng chỉ có thể cho anh ta là
một gã nhà quê mới lên tỉnh, chắc không thuộc đường, nên không biết đòi bao nhiêu. Đến khi họ hỏi "biết đường à?", thì anh ta cười, có vẻ ngốc nghếch, mà lại có vẻ hóm hỉnh, khiến khách đi xe chẳng biết làm gì cho phải.
Độ ba tuần lễ sau, anh ta đã chạy dẻo chân rồi. Anh ta biết kiểu chạy của mình trông gọn mắt lắm. Kiểu chạy là bằng cứ chứng tỏ năng lực và tư cách của một anh phu xe. Chạy xoạc cẳng như hai cái nan quạt mở rộng, đúng là tay mới ở nhà quê lên. Chạy đầu chúi xuống, chân kéo lê trên mặt đất, chạy mà chẳng nhanh hơn đi, nhưng trông vẫn có vẻ đang chạy, thì đúng là những lão trên năm mươi rồi. Những người giàu kinh nghiệm, nhưng sức yếu này lại còn có một mánh khóe khác: ngực hóp vào, chân giơ thật cao, cứ mỗi bước đầu lại nhô ra phía trước một cái, trông có vẻ đang chạy cật lực nhưng thật ra chẳng nhanh hơn người khác chút nào. Bọn họ nhờ vào "kiểu làm ăn" đó mà giữ được uy tín. Tường cố nhiên không theo mấy kiểu ấy. Chân dài nên bước rộng, sức mạnh nên chạy êm, nhịp nhàng, xe không lắc, khách thấy yên trí, thoải mái. Khi bảo đỗ, mặc dù xe đang chạy rất nhanh, anh ta chỉ cần bước chùng hai bước nữa, thế là xe dừng lại ngay. Sức lực của anh ta hầu như không chế được tất cả các bộ phận của xe. Lưng hơi khom khom về phía trước, hai tay đỡ nhẹ càng xe, điệu bộ trông gọn gàng, chính xác, không ra vẻ vội vã nhưng lại chạy rất nhanh, nhanh mà không nguy hiểm. Ngay trong làng kéo xe tháng cũng ít người chạy được như thế.
Anh ta đổi một chiếc xe mới. Ngay từ hôm đổi xe, anh ta đã hỏi dò biết rằng, như chiếc xe anh ta đang thuê đây - díp êm, trục tốt, áo tơi cánh gà đủ, đèn trước, đèn sau, còi đồng cổ dài giá hơn trăm bạc. Nếu như nước sơn và bộ trục kém một chút, thì một trăm cũng mua được rồi. Tóm lại, chỉ cần có một trăm đồng là anh ta có thể tậu được một chiếc xe. Bỗng anh ta nghĩ, một ngày dành dụm một hào, thì một trăm đồng phải là một nghìn ngày. Một nghìn ngày! Nói dồn một nghìn ngày lại như thế, anh ta hầu như không tính ra được nó dài bao nhiêu. Nhưng chí anh ta đã quyết, một nghìn ngày chứ một vạn ngày, thế nào cũng phải mua bằng được một chiếc xe. Anh ta đã nghĩ kỹ rồi, bước đầu cần phải kéo xe tháng. Gặp ông chủ giao thiệp
rộng, tiệc tùng nhiều, trung bình mỗi tháng độ mười bữa tiệc, là có thể kiếm vài ba đồng tiền cơm đãi phu xe. Thêm vào đó, mỗi tháng để dành độ tám chín hào, một đồng nữa, có thể được bốn hay năm đồng cũng nên, và thế là một năm góp được sáu chục? Như vậy hy vọng của anh ta không cao xa lắm nữa. Anh ta không hút thuốc, không uống rượu, không đánh bạc, không nghiện ngập say mê trò gì cả, lại không có gánh nặng vợ con, miễn chịu thắt lưng buộc bụng, thì chẳng việc gì không thành. Anh ta thề với mình: "Một năm rưỡi nữa, nhất định thằng Tường này phải mua cho được một chiếc xe! Xe mới, chứ không phải là xe chữa lại".
Thế rồi, anh ta kéo xe tháng thật. Có điều, thực tế không phải hoàn toàn giống như anh ta mong ước. Anh ta quả đã thắt lưng buộc bụng, nhưng một năm rưỡi trôi qua mà vẫn chưa được như nguyện. Kéo tháng thì đã kéo rồi, và đã kéo rất cẩn thận, nhưng không may, mọi việc trên đời này đâu phải chỉ có một chiều! Dù anh ta kéo rất cẩn thận, nhưng nhà chủ vẫn cứ không thuê nữa. Được độ hai ba tháng, có khi chín mười ngày, họ lại thôi, và anh ta lại tiếp tục đi kiếm chủ khác. Tất nhiên, anh ta vừa đi kiếm, vừa kéo lẻ. Đang cưỡi ngựa mà vẫn phải tìm ngựa, lòng anh ta không lúc nào thảnh thơi. Trong thời gian đó, anh ta lại thường gặp đen. Anh ta phải cố gắng phấn chấn lên, không riêng chỉ để kiếm lấy miếng ăn hàng ngày, mà còn phải tiếp tục dành dụm mua xe. Nhưng không phải cố gắng là mọi chuyện sẽ ổn cả. Nhấc càng xe lên, anh ta không thể chuyên tâm mà chạy, cứ như luôn luôn nghĩ gì ở đâu đâu ấy, càng nghĩ càng sợ hãi bực bội. Giá thử cứ như thế này mãi thì bao giờ mới có thể mua được xe? Tại sao lại như thế này? Chẳng lẽ mình lại là thằng không muốn khấm khá lên hay sao? Những lúc nghĩ ngợi lung tung như thế, anh ta quên mất cái tính cẩn thận thường ngày. Lốp xe đè vào mảnh sành, gai sắt, nổ bung, thế là đành phải nghỉ. Nguy hơn nữa, có khi đâm cả vào người đi đường, thậm chí có lần vì vội chèn lên trước mà văng mất nắp trục xe. Nếu như kéo tháng thì chẳng đời nào lại xảy ra những chuyện đen đủi ấy. Cứ gặp chuyện là anh ta buồn bực, thờ thẫn cả người. Xe hỏng, tất nhiên phải đền tiền, thế là như lửa đổ thêm dầu, anh ta lại càng nóng ruột. Sợ gặp phải những tai họa lớn hơn, có khi anh ta rầu rĩ nằm khoèo ngủ cả ngày ở nhà. Mở mắt ra thấy phí mất một ngày, anh ta lại hối, và tự giận mình. Còn nữa, trong thời kỳ này, càng lo, anh ta lại càng sống kham khổ, ăn uống chẳng ra gì. Anh ta tự cho mình là
xương đồng da sắt, thế mà cũng vẫn ốm như thường. Ốm, anh ta tiếc không dám bỏ tiền ra mua thuốc, cứ nằm liều, rút cục, ốm ngày càng nặng, không những bỏ tiền ra mua thuốc mà lại còn phải nghỉ mấy ngày liền. Những khó khăn đó khiến anh ta càng phải cắn răng cố gắng, nhưng số tiền mua xe không phải vì thế mà tích góp được nhanh chóng hơn.
Ba năm ròng rã, anh ta dành dụm đủ một trăm đồng!
Anh ta không thể chờ đợi được nữa. Vốn định tâm mua một chiếc xe thật hoàn toàn, thật mới và thật vừa ý, nhưng bây giờ chỉ có thể bằng vào một trăm đồng ấy mà mua thôi. Không thể nấn ná được nữa. Nhỡ có việc gì xảy ra lại hụt đi mất mấy đồng thì sao? Vừa may có chiếc xe mới đóng xong (có người đặt nhưng không có tiền lấy), đại khái cũng xấp xỉ như chiếc xe anh ta mong ước. Chiếc xe này vốn đáng giá những hơn trăm, nhưng vì có số tiền đặt cọc bỏ lại, nên hiệu xe bằng lòng bớt cho một ít. Tường, mặt đỏ gay, tay run run, xỉa chín mươi sáu đồng bạc ra
- Tôi lấy chiếc này!
Chủ hiệu xe định nài chẵn một trăm, nói đi nói lại mãi, kéo xe ra rồi lại kéo xe vào, giương mui lên rồi lại cụp mui xuống, bóp còi inh ỏi6, mỗi động tác kèm theo hàng tràng lời tán tụng. Cuối cùng, ông ta đưa chân đá vào vành xe mấy cái, nói:
- Đấy nghe này! Cứ boong boong y như tiếng chuông ấy! Kéo cho đến lúc xe hỏng, đũa có chiếc nào oằn cứ việc mang lại đây quẳng vào mặt tôi! Đúng một trăm, thiếu một xu cũng không được!
Tường lại đếm lại tiền:
- Tôi lấy chiếc này! Chín mươi sáu đồng đấy!
Chủ hiệu biết gặp phải người riết róng, đưa mắt nhìn số tiền, rồi lại nhìn anh ta, thở dài:
- Thôi, để lấy chỗ đi lại, bán cho anh đấy! Bảo đảm sáu tháng: trừ phi làm vỡ thùng xe, còn thì hỏng tôi xin chữa, không tính tiền. Giấy bảo đảm đây, cầm lấy!
Tay Tường lại càng run tợn. Anh ta cầm lấy giấy bảo đảm, kéo xe ra, dường như muốn khóc. Kéo đến một chỗ vắng, anh ta ngắm nghía thật kỹ chiếc xe của mình, thử soi vào mặt gỗ sơn! Càng ngắm càng thấy thích. Những chỗ không thật vừa ý cũng có thể bỏ qua, bởi vì đây là xe của mình! Ngắm một lúc, như thế cũng tựa như được nghỉ ngơi rồi, anh ta ngồi xuống cái đệm chân mới đan hình mắt cáo để thoát nước, nhìn cái còi bằng đồng sáng choang mắc ở càng xe. Bỗng anh ta sực nhớ, năm nay anh ta hăm hai tuổi. Bố mẹ mất sớm, nên anh ta cũng quên cả ngày sinh tháng đẻ. Từ dạo lên tỉnh đến nay, anh ta chưa ăn mừng sinh nhật lần nào. Được rồi! Hôm nay mua được xe mới, kể như là sinh nhật vậy. Sinh nhật của người mà cũng là sinh nhật của xe, càng dễ nhớ. Vả lại, xe là xương máu của mình, thì cũng không vì lý gì lại không thể coi xe như người.
Nên ăn mừng ngày "song thọ" này như thế nào đây? Tường đã có chủ định rồi: món khách đầu tiên phải là người cho sang, tuyệt đối không kéo đàn bà. Tốt nhất là kéo đến cửa Tiền, thứ đến là chợ Đông An. Kéo đến nơi,
sẽ vào một quán cơm tươm nhất, đánh một bữa, bánh rán nóng cặp chả cừu nướng chẳng hạn. Ăn xong, gặp món nào bở thì kéo nữa, không thì cho xe về nghỉ. Thế là ăn mừng sinh nhật rồi!
Từ ngày có xe, cuộc sống của anh ta ngày một khấm khá hơn. Kéo tháng cũng thế, mà kéo vặt cũng thế, hàng ngày anh ta chẳng phải lo đến cái món "thuế xe" nữa. Kéo được bao nhiêu là của mình tất. Lòng thảnh thơi, đối với mọi người anh ta càng hòa nhã, việc làm ăn cũng vừa thấy vừa ý. Kéo được nửa năm, anh ta lại có ước vọng to hơn: cứ thế này, làm độ hai năm, nhiều nhất là hai năm, anh ta lại có thể mua được một chiếc nữa. Một chiếc, rồi hai chiếc... Anh ta cũng sẽ mở một hiệu cho thuê xe.
Nhưng hy vọng phần lớn chẳng mấy khi thực hiện được. Anh chàng Tường cũng chẳng phải là một ngoại lệ.
2
Phấn khởi sinh ra mạnh bạo; từ khi có xe riêng, anh chàng Tường chạy càng nhanh hơn. Xe của mình tất nhiên thận trọng rồi, nhưng nhìn con người mình, lại nhìn xe mình, nếu không chạy thì anh ta thấy nó thế nào ấy.
Từ dạo lên tỉnh, anh ta đã cao hơn trước trên một tấc. Bản thân anh ta cảm thấy rằng còn phải cao thêm nữa. Phải, da thịt đã sắt lại, dáng người đã cứng cáp hơn, và trên mép lại đã có một hàng ria lơ thơ rồi, thế mà anh ta vẫn cho rằng còn phải cao thêm một chút mới phải.
Mỗi khi qua một cái cửa con hoặc một cái cổng đầu phố làm phải cúi khom xuống mới lọt, tuy không nói gì nhưng anh ta vui thầm trong bụng, bởi vì anh ta thấy mình đã cao rồi, mà vẫn còn đang cao thêm, hầu như đã là người lớn, mà vẫn là trẻ con, rất thích.
Người cao to như thế, lại kéo cái xe đẹp như thế, xe thì xe riêng, díp nhún lên nhún xuống êm ru, đến cả càng xe cũng nhè nhẹ rung lên; hòm xe bóng lộn, đệm trắng tinh, còi kêu to thế, mà không chạy nhanh hơn thì sao xứng với con người mình, sao xứng với xe? Cái đó chẳng phải là hư danh, mà tựa hồ như là trách nhiệm. Không chạy nhanh, chạy như bay thì không phát huy đầy đủ sức mạnh của mình và cái tốt đẹp của xe. Chiếc xe đó quả cũng đáng yêu thật, kéo được chừng nửa năm, dường như bộ phận nào cũng có tri giác và tình cảm. Khi Tường còng lưng lại, co chân lên hoặc vươn thẳng người ra, nó liền hưởng ứng ngay, giúp anh ta đúng như ý muốn. Giữa anh ta và nó không hề có chút gì cách biệt. Qua những quãng đường phẳng phiu, vắng người, anh ta có thể cầm càng một tay thôi, bánh cao su
lăn nhẹ trên đường, kêu vo vo, y như có cơn gió thoảng đẩy anh ta chạy tới vừa nhanh vừa vững. Đến nơi quần áo có thể vắt ra mồ hôi, như vừa vớt trong chậu nước ra. Anh ta thấy mệt mỏi, nhưng lại vui sướng lắm, một thứ mệt mỏi đáng tự hào, như vừa cưỡi một con ngựa hay vượt mấy chục dặm đường vậy.
Nếu mạnh bạo không phải là cẩu thả thì khi Tường mạnh bạo chạy như vậy, anh ta không thể cẩu thả một chút nào. Không chạy nhanh khách không vừa ý, chạy nhanh mà lại đâm hỏng xe thì mình lại khổ tâm. Xe là bản mệnh của anh ta, anh ta biết nên cẩn thận như thế nào rồi. Vừa cẩn thận vừa mạnh bạo, anh ta càng ngày càng tin ở mình, anh ta tin chắc rằng mình và xe đều bằng sắt cả.
Vì thế, không những anh ta dám mạnh bạo chạy, mà lại không bao giờ phải suy tính đến chuyện nên ra xe vào lúc nào. Anh ta thấy cái nghề đem sức ra kéo xe để giành giật miếng cơm là một nghề có khí phách bậc nhất ở gầm trời này. Anh ta muốn ra xe lúc nào thì ra, không ai ngăn được. Những lời đồn đại bên ngoài, anh ta không hề để ý nghe, nào là khu Tây Uyển có lính kéo đến, nào là vùng Trường Tân Điếm lại đánh nhau, nào là bên ngoài cửa Tây Trực lại bắt phu, nào là cửa Tề Hóa đã đóng lâu rồi, anh ta đều mặc kệ. Lẽ tất nhiên, phố xá đóng cửa, cảnh sát và bảo an vũ trang đầy đường; không muốn cố chuốc lấy phiền não, anh ta cũng vội vàng cho xe về như những người khác. Có điều anh ta vẫn không tin những lời đồn đại. Anh ta biết nên cẩn thận như thế nào rồi, nhất là vì xe là xe riêng, nhưng dù sao anh ta cũng vẫn là người nhà quê, không như người thành phố, thấy gió là biết sẽ mưa. Với lại thân hình anh ta cho phép anh ta tin tưởng rằng, giá thử chẳng may "gặp chuyện" thì thế nào cũng có cách, không đến nỗi thua thiệt nhiều. Anh ta không phải là người dễ bắt nạt, vóc người cao lớn thế kia, vai rộng thế kia cơ mà!
Hằng năm, tin chiến trận và những lời đồn đại hầu như cùng đến với lúa mạch mùa xuân. Bông lúa mạch và lưỡi lê có thể coi như tượng trưng
cho niềm hy vọng và nỗi lo sợ của người phương Bắc. Anh chàng Tường mua xe mới vừa được nửa năm, thì đúng vào lúc lúa mạch cần mưa xuân. Mưa xuân không nhất thiết chiều theo lòng mong ước của người ta mà rơi xuống, nhưng chiến tranh thì không kể có ai mong đợi hay không, vẫn cứ kéo đến như thường. Đồn đại cũng vậy, mà chuyện thật cũng vậy, Tường hầu như đã quên rằng mình đã từng làm công việc nhà nông; anh ta không quan tâm gì lắm đến chuyện chiến tranh sẽ tàn phá ruộng đồng, cũng chẳng chú ý đến chuyện có mưa hay không có mưa. Anh ta chỉ quan tâm đến chiếc xe của anh ta. Chiếc xe của anh ta có thế sản xuất ra được bánh nướng và các thức ăn khác. Nó là một mảnh ruộng vạn năng, một mảnh ruộng sống quý báu, ngoan ngoãn đi theo anh ta. Vì thiếu mưa, vì tin tức chiến sự, lương thực đều tăng giá, chuyện ấy thì Tường biết. Nhưng, cũng như những người khác trong thành phố, anh ta chỉ biết kêu ca lương thực đắt, mà chẳng có chú ý gì cả. Lương thực đắt, ừ thì cứ đắt đi, nào ai có cách gì làm cho nó rẻ được? Thái độ đó làm cho anh ta chỉ nghĩ đến cuộc sống của mình, mặc kệ mọi hoạn nạn tai ương.
Người thành phố, nếu như đối với mọi việc họ chẳng có cách gì giải quyết cả, thì họ lại có cái tài phao tin đồn nhảm có khi hoàn toàn bịa ra mà nói, có khi một kháo thành mười cốt để tỏ ra họ không phải ngu ngốc và không phải không có việc làm. Họ giống như những con cá nhỏ, lúc rỗi rãi lại ngoi lên mặt nước, nhả vài cái bong bóng hoàn toàn vô dụng, cũng lấy làm đắc ý lắm. Trong những lời đồn đại lý thú nhất là những lời đồn đại về chuyện đánh nhau. Những lời đồn đại khác thường thường trước sau vẫn chi là lời đồn đại, cũng giống như nói chuyện yêu tinh, không thể cứ nói mãi mà thấy thật. Còn những lời đồn đại về chiến sự, chính vì căn bản không có tin chính xác, nên rút cục "cắm gậy thấy bóng" ngay, về tiểu tiết so với thực tế, có thể sai nhiều, nhưng về chuyện có đánh nhau hay không, mười phần đúng tám chín. "Sắp đánh nhau rồi!". Câu nói đó vừa ra khỏi cửa miệng, thì sớm muộn thế nào cũng sẽ có đánh nhau; còn như ai đánh ai, đánh như thế nào thì mỗi người một phách. Tường không phải là không biết như thế. Có điều những người làm việc nặng - kéo xe cũng trong số đó - họ tuy không hoan nghênh chiến tranh, nhưng gặp phải chiến tranh, chưa chắc đã là rủi ro. Mỗi lần chiến tranh lan đến, hoảng nhất là những kẻ giàu sang. Vừa nghe phong thanh tình hình không ổn là họ vội vàng tính chuyện lánh
nạn. Đồng tiền xui họ đến nhanh, mà chạy cũng nhanh. Bản thân họ thì không chạy được, vì tiền bám vào chân quá nặng. Họ phải thuê rất nhiều người làm chân; hòm xiểng phải có người khiêng, già trẻ gái trai phải có xe kéo; những lúc ấy chân và tay của các anh em chuyên bán sức chân sức tay nhất loạt trở nên cao giá.
- Cửa Tiền, ga Đông!
- Đâu cơ?
- Ga... Đông?...
- À... Xin đúng một đồng tư! Không phải mặc cả. Thời buổi loạn lạc này!
Giữa tình hình như thế. Tường kéo xe ra khỏi thành. Người ta đồn đại đã mười ngày nay rồi, các thứ đều đã lên giá, nhưng chiến sự tựa hồ vẫn còn ở xa lắm, không thể trong chốc lát mà đánh tới Bắc Bình được. Tường vẫn kéo xe như thường, không vì lời đồn đại mà lười biếng. Một hôm, kéo đến Tây Thành, anh ta biết được đôi chút binh tình. Ở đường chùa Hộ quốc và đường phố Mới, không một ai gọi xe đi "Tây Uyển" "Thanh Hoa" cả! Anh ta lượn đi lượn lại một hồi ở đường phố Mới, nghe nói, xe không dám ra khỏi thành, ngoài cửa Tây Trực đang bắt xe; xe lớn, xe nhỏ, xe lừa, xe tay, bắt tất. Anh ta định uống một bát nước chè rồi kéo xe về phía nam mà đỗ. Bến xe vắng tanh, tỏ ra rằng nguy đến nơi. Anh ta tuy khá gan dạ, nhưng cũng chẳng nên tìm đi vào con đường chết. Giữa lúc đó thì ở phía nam có hai chiếc xe chạy tới, người ngồi trên xe giống như là học sinh; anh phu xe vừa chạy vừa gọi:
- Này, có đi Thanh Hoa không?
Mấy chiếc xe đỗ ở bến không cái nào lên tiếng. Người thì nhìn hai chiếc xe kia, cười nhạt, người thì ngậm điếu, ngồi yên, chẳng buồn ngẩng đầu lên nữa. Hai chiếc xe kia vẫn cứ gào:
- Câm cả rồi à? Đi Thanh Hoa không?
- Hai đồng thì đi!
Một anh xe trẻ tuổi, đầu húi trọc, người thấp, thấy không ai trả lời, liền nói một câu như để pha trò.
Hai chiếc xe kia liền đỗ lại:
- Kéo lại đây! Gọi cái nữa!
Anh ta ngớ người ra, dường như vẫn không biết xử trí ra sao. Những người kia vẫn ngồi yên. Tường thấy thế, biết ra khỏi thành nhất định nguy hiểm, nếu không thì hai đồng từ đây đến Thanh Hoa bình thường chỉ độ hai ba hào sao lại không có người tranh lấy? Anh ta cũng chẳng muốn kéo.
Nhưng cái anh chàng đầu trọc kia dường như đã có ý định, nếu ai cùng anh ta chạy cuốc này thì anh ta sẽ chạy ngay. Anh ta nhìn Tường chằm chằm:
- Thế nào, ông hộ pháp?
Hai tiếng "hộ pháp" làm Tường bật cười. Đó là một lời khen. Anh ta nghĩ thầm trong bụng: "Mình đã được khen thì cũng phải lấy lòng anh chàng đầu trọc bé người mà to gan kia mới đúng. Huống chi, hai đồng bạc, là hai đồng bạc, không phải chuyện ngày nào cũng gặp. Còn nguy hiểm ư? Lẽ nào lại vừa khéo đến thế? Huống hồ, hai hôm trước, có người nói Thiên Đàn đầy lính, thế mà anh ta thấy tận mắt chẳng có một mống nào hết". Nghĩ thế, anh ta liền kéo xe tới.
Đến cửa Tây Trực, nhìn trong cổng thành hầu như chẳng có ai qua lại, Tường hơi rợn. Anh chàng trọc kia cũng thấy không ổn, nhưng vẫn cười nói:
- Cứ việc kéo đi, anh bạn! Tai họa thì tránh cũng chẳng được nào, ăn thua là ở cả lúc này đây!
Tường thì biết không xuôi rồi, nhưng sống lăn lóc ở giữa phố phường này mấy năm nay, không thể giở thói bà già, nói rồi bỏ đó được.
Qua cửa Tây Trực, quả thật không gặp một chiếc xe nào cả. Tường cúi đầu chạy không dám nhìn hai bên đường nữa. Tim anh ta dường như thúc vào lồng ngực. Đến cầu Cao Lượng, anh ta đưa mắt nhìn bốn xung quanh. Không thấy một tên lính nào, anh ta mới hơi yên trí. Hai đồng rút cục vẫn là
hai đồng, anh ta tính toán, không có gan một chút thì làm gì vớ được món bở như thế. Bình thường, anh ta không hay nói, nhưng lúc này lại muốn nói với anh trọc kia vài câu. Phố xá im lặng đến phát sợ:
- Rẽ vào đường đất nhé! Đường cái...
Anh chàng trọc kia đã đoán được ý anh ta:
- Ừ, phải đấy, rẽ được vào đường tắt thế là ăn chắc rồi!
Nhưng, chưa rẽ được vào đường tắt thì Tường và anh chàng đầu trọc kia, cả xe lẫn người, bị khoảng mười tên lính tóm cổ lôi đi!
Tuy đã gần hết tiết dâng hương ở miếu Khai núi Diệu Phong rồi, nhưng đêm, đắp một tấm chăn đơn vẫn không chịu được. Trên thân Tường không có gì vướng víu, ngoài chiếc áo lính mỏng màu tro, và chiếc quần lính màu xanh, nồng nặc mùi mồ hôi từ khi anh ta chưa mặc, vốn dĩ đã thế rồi. Nhìn bộ quần áo rách rưới đó, anh ta nhớ đến chiếc áo cánh trắng mặc hồi xưa; so với bộ quần áo xanh lè này thì nó sạch sẽ và sang trọng biết mấy! Đúng thế, trên đời có rất nhiều cái sang trọng hơn màu xanh lè kia nhiều, nhưng Tường cũng biết, thân anh ta khó khăn lắm mới được bảnh bao sạch sẽ như thế. Ngửi mùi hôi rình trên người, anh ta thấy rõ đời sống lăn lộn và những thành công xưa kia thực vô cùng vẻ vang; vẻ vang một, anh ta thấy vẻ vang mười. Càng nghĩ đến những ngày qua, anh ta càng giận bọn lính kia. Áo quần, giày mũ của anh ta, xe của anh ta, thậm chí cái thắt lưng vải, bị chúng cướp sạch, chỉ để lại cho anh ta đầy người thương tích tím bầm; và hai bàn chân phỏng rộp! Có điều áo quần thì cũng chẳng đáng kể gì, thương tích trên người chẳng bao lâu rồi cũng khỏi, nhưng còn xe của anh ta, chiếc xe
phải đổ bao nhiêu mồ hôi nước mắt hàng mấy năm liền mới sắm được thì mất đứt rồi! Từ lúc kéo vào trại lính, thế là không thấy tăm hơi đâu nữa. Bao nhiêu nỗi đau khổ nhọc nhằn trong chớp mắt anh ta có thể quên đi được, nhưng không tài nào quên chiếc xe ấy!
Khổ cực, anh ta không sợ, nhưng sắm cho ra chiếc xe nữa, không phải là chuyện nói là làm được ngay. ít nhất cũng phải mấy năm! Thành công xưa kia thế là đi đứt. Anh ta phải ra sức làm lại từ đầu! Anh ta khóc! Không những anh ta căm thù bọn lính kia, mà còn căm thù tất cả mọi cái trên đời. Vì lẽ gì lại ức hiếp người ta đến nông nỗi này? Vì lẽ gì? Anh ta gào nên. "Ừ, vì lẽ gì?"
Gào lên như thế, tuy có hả được phần nào, nhưng anh ta liền nghĩ đến nguy hiểm. Thôi thì đành mặc kệ những cái khác đấy, hãy thoát lấy thân đã!
Anh ta đang ở đâu đây? Bản thân anh ta cũng chẳng trả lời cho đúng được. Mấy ngày nay, anh ta chạy theo bọn lính, mồ hôi chảy từ đầu đến gót chân. Khi đi thì phải khiêng phải kéo, hoặc đẩy các đồ vật của chúng nó; khi dừng lại thì phải gánh nước, nấu cơm, cho lừa ngựa ăn. Suốt ngày, từ sáng đến tối, anh ta phải dồn hết sức lực ra chân tay, còn bụng thì trống rỗng. Đêm đến, vừa đặt lưng xuống đất là ngủ thiếp đi như chết, và dù không bao giờ mở mắt ra nữa, cũng chưa chắc đã là chuyện không may.
Lúc đầu, anh ta nhớ tựa hồ bọn lính rút lui về phía núi Diệu Phong. Đến lớp núi sau, anh ta chỉ lo leo núi, và thấp thỏm chưa biết lúc nào trượt chân ngã lăn xuống khe, xương thịt để cho diều tha quạ mổ, nên chẳng còn để ý gì đến cái khác nữa. Loanh quanh trong núi bao nhiêu ngày, bỗng một hôm thấy đường núi thưa đi. Khi mặt trời xuống sau lưng anh ta, thì anh ta trông thấy đồng bằng ở đằng xa. Tiếng kèn cơm chiều gọi lính và phu quay về trại; có mấy tên vác ngang súng, dắt theo mấy con lạc đà.
Lạc đà! Lòng Tường rung động lên. Anh ta bỗng suy nghĩ được, y như người lạc đường tìm được dấu vết gì quen thuộc, trong phút chốc nhớ ra tất cả. Lạc đà không leo được núi, nhất định anh ta đã đến đồng bằng rồi. Theo chỗ anh ta biết, thì cả vùng Tây Bắc Bình, như Bát Lý Trang, Hoàng Thôn, Bắc Tân An, Ma Thạch Khẩu, Ngũ Lý Đồn, Tam Gia Điếm đều nuôi lạc đà. Chẳng lẽ quanh đi quẩn lại, lại về Ma Thạch Khẩu ư? Đó là chiến lược gì? - giá thử bọn lính chỉ biết chạy và ăn cướp kia cũng có chiến lược - thì Tường không biết, nhưng anh ta biết rõ rằng, nếu quả thật đây là Ma Thạch Khẩu thì bọn lính này tất không ra khỏi núi được, nên định xuống chân núi để tìm đường sống. Ma Thạch Khẩu là một địa điểm tốt, đi về phía Đông Bắc có thể đến Tây Sơn; đi về phía Nam có thể đến Trường Tân Diêm hoặc Phong Đài; ra khỏi cửa khẩu đi thẳng về phía Tây, cũng là một lối thoát. Anh ta tính toán hộ cho chúng nó như thế, và trong bụng cũng tự vạch ra cho mình một con đường: đã đến lúc bỏ trốn rồi đây. Vạn nhất chúng nó lại quay về vùng núi non quanh co kia thì dù có thoát khỏi tay chúng nó cũng không khỏi chết đói. Muốn trốn, phải nhân cơ hội này. Anh ta tin rằng, từ đây mà chạy thì một bước có thể chạy về Hải Điện! Tuy khoảng giữa còn bao nhiêu đường đất, nhưng anh ta đã thông thuộc cả. Nhắm mắt lại, anh ta liền có cả một bản đồ: đây là Ma Thạch Khẩu, trời ơi, nhất định đây phải là Ma Thạch Khẩu rồi! Anh ta sẽ rẽ lên phía Đông Bắc, qua núi Kim Đỉnh, lăng Lễ vương, thế là đến Bát Đại Xứ; từ Tứ Bình Đài chạy thẳng về phía Đông qua Hạnh Tử Khẩu, liền đến Nam Tân Trang. Để khỏi lộ, tốt nhất cứ men theo núi từ Bắc Tân Trang đi thẳng lên phía Bắc, qua Ngụy Gia Thôn, lại lên phía Bắc, qua bãi Nam Hà; cứ đi mãi lên phía Bắc, đến Hồng Sơn Đầu, phủ Kiệt Vương, Tĩnh Nghi Viên rồi! Đến được Tĩnh Nghi Viên thì nhắm mắt cũng có thể lần về được Hải Điện! Tim anh ta như muốn nhảy khỏi lổng ngực! Mấy hôm nay, máu trong người dường như ra cả tứ chi, lúc này dường như lại dồn cả về tim, tim nóng bỏng mà tứ chi lại lạnh đi; lòng hy vọng làm anh ta run lên.
Cho mãi đến tận nửa đêm, anh ta vẫn không sao nhắm mắt được. Hy vọng làm anh ta vui sướng, lo sợ làm anh ta kinh hoàng. Anh ta muốn ngủ nhưng không ngủ được. Trên nệm cỏ khô, tay chân anh ta như rã rời. Không
một tiếng động, chỉ còn sao trên trời nhấp nháy theo nhịp đập của trái tim. Lạc đà bỗng kêu lên mấy tiếng buồn bã, cách anh ta không xa. Anh ta thích tiếng kêu đó, như giữa ban đêm bỗng nghe tiếng gà gáy khiến người ta vừa buồn vừa vui.
Phía xa có tiếng đại bác, xa lắm, nhưng rõ ràng là tiếng đại bác. Anh ta không dám động đậy. Nhưng tức thì trại lính bỗng nhốn nháo lên. Anh ta nín thở, thời cơ đã đến! Anh ta biết chắc, bọn lính lại phải rút lui, và nhất định sẽ đi vào núi. Kinh nghiệm mấy ngày qua cho anh ta biết, phương pháp tác chiến của bọn lính này chẳng khác gì ong mắc kẹt trong nhà, bạ đâu đâm đầu vào đó. Có tiếng đại bác, nhất định bọn chúng lại bỏ chạy. Vậy thì, phải cẩn thận một tí mới được. Anh ta nín thở, bò chầm chậm, tìm mấy con lạc đà kia. Anh ta biết lạc đà cũng chẳng giúp gì cho anh ta đâu, nhưng anh ta với chúng cùng bị cầm tù, thì dường như cũng nên thương nhau mới phải. Trại lính lại càng nhốn nháo. Anh ta đã đến gần mấy con lạc đà kia rồi - trông giống như mấy cái gò đất nhô lên trong đêm tối. Ngoài tiếng thở phì phò, không có động tĩnh gì, dường như thiên hạ thái bình lắm. Điều đó khiến anh ta bạo dạn lên. Anh ta nằm phục xuống bên cạnh lạc đà, y như lính nằm phục sau những bao tải đựng cát. Anh ta vụt nghĩ ra rằng: tiếng đại bác từ phía Nam vọng tới, dù không phải thực tâm muốn choảng nhau, ít nhất cũng cảnh cáo cho biết: "Đường này không đi được!". Thế thì, bọn lính này nhất định phải rúc vào núi. Nếu phải leo núi thật, chúng không thể dắt lạc đà theo. Như vậy, số phận mấy con lạc đà này cũng chính là số phận anh ta. Nếu chúng không bỏ mấy con vật này lại, thế là anh ta hỏng việc. Chúng quên đi thế là anh ta thoát. Anh ta áp tai sát đất, lắng nghe có tiếng chân hay không, trống ngực đập liên hồi.
Chẳng hiểu anh ta chờ bao lâu, rút cục không có tên lính nào đến dắt lạc đà đi cả. Anh ta mạnh dạn ngồi dậy, nhìn qua khe trống giữa hai cái bướu lạc đà, chẳng thấy gì hết, xung quanh tối mò! Chuồn thôi! Chuồn! Muốn ra sao thì ra!
3
Đã chạy được hai ba chục bước rồi, Tường lại không muốn chạy nữa. Anh ta tiếc mấy con lạc đà kia. Gia tài của anh ta trên thế gian này hiện nay chỉ còn cái thân xác mà thôi. Dù chỉ là một đoạn thừng, anh ta cũng vui lòng nhặt lấy, không dùng được việc gì, thì cũng có thể an ủi cho anh ta phần nào, ít nhất trong tay cũng còn có được một đoạn thừng, không đến nỗi hoàn toàn tay trắng. Đành rằng phải chạy trốn, nhưng trần như nhộng, thì trốn làm gì? Anh ta nhất định phải kéo theo mấy con lạc đà kia. Tuy chưa nghĩ ra lạc đà sẽ được việc gì, nhưng dù sao cũng gọi là có, và cũng không phải là nhỏ mọn.
Anh ta lôi lạc đà đứng lên. Anh ta không thạo cách điều khiển chúng, nhưng anh ta không sợ, vì vốn người thôn quê nên anh ta dám đến gần các loại súc vật. Mấy con lạc đà chậm rãi đứng lên. Anh ta cũng chẳng nghĩ đến chuyện xem chúng nó có bị buộc lại với nhau hay không. Thấy dắt được, thế là anh ta liền rảo bước, không biết dắt một con hay cả bầy.
Vừa bước anh ta đã hối ngay, lạc đà phía trong cửa ải thường quen chở nặng nên đi chậm. Không những chậm mà còn thận trọng dò từng bước một. Lạc đà sợ trơn, một vũng nước, một vũng bùn, đều có thể làm chúng nó gãy chân hoặc trật bánh chè. Giá trị của lạc đà là ở bốn cái chân; chân gẫy thì hỏng hết! Mà Tường lại muốn thoát thân!
Nhưng anh ta không muốn bỏ chúng lại. Thôi thì muốn sự nhờ trời, mấy con lạc đà kia không mất tiền mua lẽ nào lại bỏ!
Vì kéo xe quen, Tường phân biệt phương hướng khá lắm. Tuy vậy, lòng anh lúc này hơi bối rối. Khi tìm được lạc đà, tâm trí anh ta hầu như đế cả vào chúng nó; đến khi lôi được chúng nó đứng lên, thì anh ta không còn biết đâu vào đâu nữa. Trời thì tối đen, bụng thì lo cuống cuồng, dù có biết nhìn sao đế tìm hướng, anh ta cũng chẳng thể ung dung mà nhìn. Theo con mắt anh ta, thì sao dường như còn luống cuống hơn cả anh ta nữa kia, cứ ngôi nọ va vào ngôi kia, ngôi kia va vào ngôi nọ, rối lên giữa bầu trời đen kịt. Tường không dám nhìn lên cứ cúi đầu tiến về phía trước, lòng lo sợ mà chân lại không dám bước nhanh. Anh ta nghĩ thế này: đã dắt lạc đà thì phải đi theo đường lớn, không thể cứ men theo sườn núi được. Từ Ma Thạch Khẩu - nếu như đây là Ma Thạch Khẩu - đến Hoàng Thôn là đường thẳng. Đó là đường cái cho lạc đà, và lại không phải đi vòng quanh. Đối với một anh phu xe, "đường không vòng quanh" có một giá trị rất lớn. Có điều, trên con đường này không có chỗ nào khuất cả. Nhỡ lại gặp lính thì sao? Dù không gặp đại binh, thì bộ quần áo lính rách mướp trên người, bùn đất trên mặt, với cái bộ tóc lù xù kia, liệu có thể làm cho người ta tin mình dong lạc đà được không? Không giống! Hoàn toàn không giống một anh dong lạc đà, nhưng lại rất giống một tên lính đào ngũ! Lính đào ngũ, quan trên tóm được là chuyện vặt thôi, nhưng dân làng tóm được, ít nhất cũng bị chôn sống! Nghĩ tới đó, anh ta run lên. Phía sau lưng, móng lạc đà khẽ gõ xuống mặt đường bỗng làm anh ta giật mình hoảng sợ. Muốn chạy thoát lấy thân thì phải quẳng mấy của nợ này lại, nhưng rút cục tay anh ta vẫn không chịu rời sợi thừng xỏ mũi lạc đà. Thôi thì cứ đi vậy, đến đâu hay đấy, gặp gì sẽ liệu sau. Sống thì thế là vớ được mấy con lạc đà! Chết thì đành với số phận!
Anh ta cởi chiếc áo lính, xé phứt cái cổ đi. Cả đôi khuy đồng còn chắc kia cũng dứt ra, quang vào bóng tối, chẳng nghe lấy một tiếng động. Sau đó, anh ta vắt chiếc áo không cổ không khuy đó lên người, hai ống tay buộc lại trước ngực, trông y như người đeo ba-lô. Anh ta cho như vậy sẽ làm người ta đỡ nghi là lính bại trận. Quần cũng xắn cao lên. Anh ta biết như thế chưa phải hoàn toàn giống người dong lạc đà, nhưng ít nhất cũng không phải hoàn toàn giống lính đào ngũ. Lại thêm bùn đầy mặt, mồ hôi đầy áo, đại khái cũng gần giống: "anh bán than". Anh ta suy nghĩ rất chậm, nhưng
rất chu đáo, và nghĩ ra được thì liền làm ngay. Đêm khuya tối tăm, chẳng ai thấy anh ta: anh ta vốn không phải làm như vậy ngay, nhưng anh ta không thể chờ đợi được. Anh ta không biết giờ giấc, có thể bỗng chốc trời sáng rõ. Đã không men theo đường núi thì ban ngày sẽ chẳng có chỗ nào mà ẩn nấp. Nếu ban ngày ban mặt mà cứ phải đi thì nên làm cho người ta tin mình là người bán than. Nghĩ thế, anh ta liền làm thế. Anh ta hoi mừng thầm trong bụng, dường như nguy hiểm đã qua, mà trước mắt là Bắc Bình rồi. Anh ta cần phải đi thật nhanh và yên ổn đến thành phố, bởi vì trong người không có lấy một đồng xu, không có lấy ít lương khô, chần chừ sao được. Nghĩ đến đó, anh ta định cưỡi lên lạc đà cho đõ mệt, như thế có thể chịu đói lâu hơn. Nhưng rồi lại không dám cưỡi, dù cho có dễ cưỡi, trước hết cũng bảo nó quỳ xuống mới trèo lên được. Thì giờ quý báu, không thể vẽ chuyện thêm phiền. Huống hồ, ngồi trên cao thì lại không trông rõ phía dưới chân, nếu lạc đà trượt ngã thi anh ta cũng lăn theo nốt. Không, cứ thế này thôi!
Đại khái anh ta cảm thấy đang đi theo đường cái. Đi về hướng nào, qua những chỗ nào, đều mù tịt. Đêm đã khuya. Mấy ngày nay mệt nhọc, khi bỏ trốn lại sợ hãi, cả tâm thần lẫn thể xác anh ta đều cảm thấy khó chịu. Đi được một thôi đường, bước chân cứ chầm chậm đều đều. Dần dần anh ta thấy buồn ngủ. Trời vẫn tối đen. Sương xuống lạnh và ẩm. Anh ta cứ thấy mơ mơ màng màng. Căng mắt ra mà nhìn mặt đường, thấy dường như chỗ nào cũng gồ ghề mấp mô, nhưng đặt chân xuống thì lại thấy bằng phẳng. Cẩn thận thế mà lại bị đánh lừa, anh ta càng không yên lòng, hầu như có phần bực bội. Dứt khoát không nhìn đường nữa, mà cứ nhìn thẳng, lây chân dò mà đi cũng được. Xung quanh chả trông thấy gì cả, dường như bóng tối của cả thế gian đang chờ đón anh ta, anh ta từ bóng tối đi ra, rồi lại trở vào trong bóng tối. Phía sau là mấy con lạc đà câm lặng như hến.
Dần dần anh ta đã quen với bóng tối, trong lòng cũng đã yên tĩnh, và mắt thì cứ díp lại. Chẳng hiểu là đang bước hay đã đứng dừng lại rồi, anh ta cứ thấy chập chờn, y như mặt bể đen ngòm đang nhấp nhô gợn sóng. Tâm thần anh ta cùng với bóng đen hòa thành một khối, cùng mơ mơ màng màng, cùng chập chà chập chờn, cùng bồn chồn hốt hoảng. Bỗng anh ta sực tỉnh, dường như nhớ ra chuyện gì, mà cũng dường như có nghe thấy tiếng
động gì đó, không nói rõ ra được, và anh ta lại căng mắt ra. Rõ ràng anh ta vẫn đang bước. Anh ta quên mất lúc nãy vừa nghĩ tới cái gì. Xung quanh vẫn yên lặng như tờ. Trống ngực đổ dồn một hổi, dần dần lặng xuống. Anh ta tự nhủ không nên nhắm mắt lại nữa, và cũng đừng nên nghĩ vớ vẩn, việc quan trọng nhất là vào được thành phố. Nhưng óc không nghĩ ngợi gì thì mắt dễ díp lại. Anh ta cần phải nghĩ đến một chuyện gì đó, để tỉnh ngủ. Anh ta biết rằng, nếu nằm lăn ra đây, thì có thể đánh một giấc ba ngày liền. Nghĩ gì bây giờ nhỉ? Đầu óc anh ta hơi choáng váng, người nhơm nhớp khó chịu, tóc ngứa ngáy, chân đau, miệng khô. Anh ta không nghĩ được gì khác, chỉ thương cho thân mình.
Nhưng ngay đến chuyện của bản thân anh ta, anh ta cũng không thể suy nghĩ cho kỹ càng. Đầu óc anh ta choáng váng và trống rỗng, dường như vừa nghĩ tới mình, thì lại quên ngay mình, y như cây nến sắp tắt, không chiếu sáng được bản thân nó. Lại thêm bốn xung quanh tối mò mò, khiến anh ta cảm thấy như anh ta đang vật vờ trong một bầu không khí đen ngòm, tuy biết mình vẫn còn sống, vẫn còn bước tới, nhưng không có cái gì chứng tỏ rằng mình vẫn đang đi, y như người trôi nổi một mình giữa biển khơi, không dám tin ở mình. Anh ta chưa từng lo buồn, nghi ngờ và cô quạnh đến như thế này bao giờ. Thường ngày, anh ta không thích đàn đúm bạn bè, nhưng một mình đứng dưới ánh nắng mặt trời, được mặt trời chiếu rọi khắp tứ chi, nhìn thấy vật này vật kia hiện ra trước mắt, anh ta cũng không đến nỗi sợ hãi. Bây giờ đây, tuy anh ta chưa cảm thấy sợ, nhưng cái cảm giác không xác định được gì cả khiến anh ta không thể chịu được. Giá thử mấy con lạc đà kia cũng láu lỉnh như lừa ngựa thì có lẽ anh ta phải tập trung tinh thần mà chú ý tới chúng nó. Nhưng lạc đà thì lại hiền lành như thế kia, lành đến nỗi khiến anh ta phải sốt ruột. Trong lúc tâm thần hốt hoảng, anh ta bỗng đâm ra nghi ngờ không hiểu chúng nó còn ở phía sau mình nữa hay không. Anh ta giật mình đánh thót một cái. Dường như anh ta tin rằng mấy con vật to lớn đó có thể nhẹ nhàng lẻn vào đường rẽ nào đó tôi mò mò, mà anh ta không biết gì hết, y như người lôi một tảng nước đá, dần dần tan biến đi đâu mất cả.
Chẳng hiểu anh ta ngồi xuống lúc nào. Dù cho lúc đó anh ta có chết đi vẫn còn tri giác, anh ta cũng không thể biết được mình đã ngồi xuống như thế nào, và vì sao lại ngồi xuống. Ngồi độ năm phút, cũng có thể là một tiếng đồng hồ, anh ta chẳng biết nữa. Anh ta cũng không biết mình ngồi xuống rồi mới ngủ hay là ngủ rồi mới ngồi. Có lẽ anh ta ngủ rồi mới ngồi, bởi vì anh ta đã mệt mỏi đến mức có thể đứng mà ngủ thiếp đi được.
Anh ta bỗng sực tình. Không phải ngủ no mắt rồi tự nhiên tỉnh dậy, mà là giật mình tình dậy, y như từ thế giới này nhảy sang thế giới khác, chỉ trong chớp mắt.
Anh ta thấy vẫn tối om, nhưng đã nghe rất rõ có tiếng gà gáy, rõ lắm như có một vật gì cứng vạch vào óc. Anh ta tỉnh hẳn. Lạc đà đâu rồi? Anh ta chẳng còn nghĩ đến chuyện gì khác nữa. Dây thừng vẫn trong tay, lạc đà vẫn ở cạnh anh ta, thế là anh ta yên tâm. Anh ta không buồn đứng dậy. Người mỏi nhừ, nhưng cũng không dám ngủ nữa. Anh ta cần phải suy tính, suy tính cho kỹ càng, tìm ra một cách gì đó thật hay. Giữa lúc đó anh ta nghĩ đến cái xe của anh ta, và anh ta kêu lên: "Trông mong vào đâu bây giờ?".
"Trông mong vào đâu bây giờ?" - Kêu suông như thế chẳng ăn thua gì! Anh ta đi lại, sờ vào mấy con lạc đà kia, cho đến bây giờ, anh ta vẫn chưa biết anh ta lôi đi được mấy con. Sờ ra rồi, tất cả là ba con. Anh ta chẳng biết như thế nhiều quá hay là ít quá. Ý nghĩ của anh ta tập trung vào ba con lạc đà đó, tuy chưa dứt khoát là sẽ làm ăn ra sao, nhưng anh ta lờ mờ cảm thấy rằng, tương lai của anh ta trông chờ vào cả ba con vật này.
"Sao không đem bán quách đi, mua một cái xe khác?" Anh ta như muốn nhảy lên! Nhưng anh ta vẫn không nhúc nhích, tuồng như có vẻ xấu hổ vì từ nãy không sao nghĩ ra được con đường thoát hết sức dễ dàng, hết
sức tiện lợi đó. Nỗi vui mừng át sự xấu hổ. Chí anh ta đã quyết. Vừa rồi chẳng phải nghe thấy tiếng gà gáy đó sao. Dù gà có khi một hai giờ đêm đã gáy, nhưng như vậy cũng chẳng mấy chốc nữa mà trời sáng. Đã có gà gáy tức là có xóm làng. Chưa biết chừng, đó là Bắc Tân An cũng nên. Ở đó có nuôi lạc đà, anh ta phải đến đó cho mau, vào lúc trời vừa sáng, bán được mấy con lạc đà đi là có thể vào thành phố mua luôn một chiếc xe. Loạn lạc thế này, xe tất phải rẻ. Anh ta chỉ nghĩ đến chuyện mua xe, dường như bán lạc đà là chuyện chẳng khó khăn chút nào cả.
Nghĩ đến mối quan hệ giữa lạc đà và mấy chiếc xe tay, anh ta thấy phấn chấn lên, khắp người dường như chả có chỗ nào đau đớn khó chịu cả. Giá thử anh ta nghĩ đem bán ba con lạc đà đó, có thể mua được một trăm mẫu ruộng, hoặc có thể mua được mấy hạt trân châu, thì anh ta cũng chẳng sướng đến thế. Anh ta đứng phắt dậy, kéo lạc đà đi. Anh ta không hiểu hiện nay giá lạc đà thế nào, chỉ nghe nói ngày xưa, cái thời chưa có xe lửa, một con lạc đà giá những năm mươi lượng bạc, bởi vì lạc đà khỏe, mà ăn lại đỡ tốn hơn lừa ngựa. Anh ta không mong bán được một trăm rưỡi lạng, chỉ mong được tám chín chục một trăm, vừa đủ mua chiếc xe thôi.
Càng đi trời càng sáng. Phải, ánh sáng ở phía trước, đúng là anh ta đang đi về hướng Đông. Dù nhầm đường, nhưng hướng thì không nhầm. Núi ở phía Tây, thành phố ờ phía Đông, anh ta biết rõ lắm. Bốn xung quanh, từ một vùng tối mò mò, dần dần đã thấy có chỗ tối chỗ sáng; tuy chưa phân biệt được màu sắc, nhưng đã thấy hình thù ruộng đồng cây cối phía xa chìm trong màu xám mênh mông. Sao thưa dần, trời phủ một lớp mây, mà lại cũng giống như một lớp sương, trông còn mờ mờ, nhưng so với lúc nãy thì cao hơn nhiều rồi. Hình như anh chàng Tường đã dám ngẩng đầu lên. Anh ta đã bắt đầu ngửi thấy mùi cỏ hai bên đường, và cũng đã nghe thấy mấy tiếng chim hót. Vì đã nhìn thấy hình bóng lờ mờ của các vật thể, tai mắt mồm mũi của anh ta dường như đều đã khôi phục được tác dụng vốn có của nó. Anh ta cũng đã thấy được mọi cái ở trên người anh ta, tuy rách rưới lôi thôi, nhưng vẫn có thể tin được rằng quả thực mình vẫn còn sống, y như sau cơn ác mộng, chợt tỉnh dậy, cảm thấy cuộc sống thật đáng quý. Nhìn người mình rồi, anh ta lại quay đầu nhìn mấy con lạc đà. Anh ta thấy chúng nó
cũng lôi thôi lếch thếch như anh ta, nhưng cũng đáng yêu như anh ta. Bây giờ là lúc súc vật rụng lông, trên mình lạc đà cũng đã lòi ra những đám da màu nâu nâu, rải rác mới có vài túm lông dài lơ thơ, mềm nhũn, chưa biết rụng lúc nào. Trông chúng nó giống như mấy tên ăn mày khổng lồ trong loài thú. Đáng thương nhất là cái cổ dài và trụi kia, dài ngoằng, trơ trụi, cong cong, đần độn, vươn mãi ra phía trước, y như những con rồng gầy gò bất đắc chí. Nhưng Tường không hề ghét bỏ chúng nó. Mặc dù chúng nó nhếch nhác thế nào chăng nữa, thì chúng nó vẫn là những con vật sống. Anh ta tự cho mình là người may mắn nhất trên đời, trời cho anh ta ba con vật quý báu đủ để đổi lấy một chiếc xe, đó chẳng phải là việc ngày nào cũng gặp. Anh ta không nhịn được, bật cười lên.
Nền trời xám đã thấy hơi hồng. Ruộng đồng và cây cối ở phía xa sẫm lại. Màu hồng dần dần hòa lẫn với màu xám, chỗ tím, chỗ đỏ tươi, nhưng phần lớn nền trời vẫn màu xám. Lại một lát nữa, trong màu hồng có thêm màu vàng thắm, màu nào cũng sáng. Tất cả mọi vật bỗng đều trở nên rõ nét. Sau đó, ráng ở phương Đông biến thành đỏ thẫm, và trên đỉnh đầu, nền trời trở sang màu xanh lam. Ráng đỏ tan dần, ánh vàng phát ra từng luồng, ngang là ráng, dọc là ánh sáng, dệt thành một tấm lưới nhện rực rỡ khổng lồ ở góc trời phía Đông Nam. Ruộng lúa, cây cỏ từ màu xanh tối trở sang màu xanh biếc, lóng lánh. Cành thông già lấp lánh ánh vàng, cánh chim bay lấp lánh ánh vàng, mọi vật đều tươi cười hớn hở. Nhìn làn ánh sáng thắm tươi đó, Tường muốn reo lên. Từ khi bị lính bắt đi, hầu như anh ta không hề được nhìn thấy bầu trời, bụng thì cứ nguyền rủa, đầu thì cứ cúi gằm xuống, quên cả ngày tháng, quên cả ông Trời. Bây giờ đây, anh ta tự do đi trên đường, càng đi càng thấy sáng. Ánh sáng chiếu sáng những hạt sương trên cỏ, chiếu sáng cả tóc tai anh ta, sưởi ấm lòng anh ta. Anh ta quên đi mọi nỗi khổ sở, hiểm nghèo, đau đớn; mặc cho thân hình anh ta lam lũ bẩn thỉu đến thế nào, ánh sáng và hơi ấm của mặt trời vẫn không từ bỏ anh ta. Anh ta đang sống trong một vũ trụ có ánh sáng và hơi ấm. Anh ta sung sướng muốn reo lên!
Nhìn bộ quần áo rách rưới trên người, lại nhìn ba con lạc đà trụi lông đứng phía sau, anh ta cười. Anh ta nghĩ bốn mạng, người và vật, nhếch nhác
thế kia mà lại có thể vượt khỏi vòng nguy hiểm, có thể dấn bước trên đường dưới ánh mặt trời thì lạ thật. Anh ta cho rằng chẳng cần nghĩ ai phải trái, tất cả đều là ý Trời. Anh ta yên trí bước thong thả, đã có Trời phù hộ cho thì chẳng lo sợ gì nữa. Đi đến đâu rồi? Anh ta không muốn hỏi, mặc dù đã thấy có đàn ông và đàn bà ra đồng làm. Cứ đi, lạc đà không bán được ngay hình như cũng chẳng có gì quan trọng lắm. Hãy vào thành đã rồi sẽ tính. Anh ta khao khát được thấy thành phố. Tuy ở đó anh ta không có bố mẹ thân thích, cũng chẳng có gia tài sản nghiệp, nhưng rút cục nơi đó vẫn là nhà anh ta. Cả thành phố đó là nhà anh ta, về đến đó là anh ta có thể xoay xở được. Phía xa có một xóm, không phải là xóm nhỏ, rặng liễu ngoài trông giống như một hàng vệ binh, xanh mà cao, cúi đầu nhìn những gian nhà thấp bé. Trên nóc vờn bay vài làn khói. Tiếng chó sủa xa xa vẳng tới, nghe rất vui tai. Anh ta chạy thẳng tới, chẳng phải nghĩ là sẽ gặp chuyện gì hay ở đó, mà dường như chỉ để tỏ ra anh ta chẳng sợ gì cả. Anh ta là người tốt, lẽ dĩ nhiên chẳng sợ những người dân lành trong thôn xóm. Lúc này đây, ai nấy đểu đang sống dưới ánh nắng xán lạn và hòa bình. Nếu có thể được, anh ta sẽ xin một hớp nước; dù không xin được cũng chẳng sao. Anh ta đã không chết rấp ở trong núi thì bây giờ khát thêm chút nữa, có đáng kể vào đâu!
Bầy chó châu cả về phía anh ta mà sủa, anh ta không để ý; đàn bà trẻ con chăm chú nhìn anh ta, khiến anh ta đâm ra mất tự nhiên. Anh ta nghĩ, chắc mình phải là một người chăn dắt lạc đà kỳ quặc lắm, nếu không, sao mọi người lại ngẩn ra mà nhìn thế kia? Anh ta buồn lắm, lính tráng không coi anh ta là người, nay đến xóm làng, mọi người nhìn anh ta như nhìn một con quái vật! Anh ta chẳng biết xử trí ra sao. Vóc người anh ta, sức lực anh ta, xưa nay vẫn khiến anh ta kiêu hãnh và tự hào, nhưng những ngày vừa qua, vô duyên vô cớ mà anh ta phải chịu bao nhiêu nỗi uất ức khốn khổ. Nhìn lên một nóc nhà, anh ta lại thấy ánh nắng xán lạn, nhưng ánh nắng hầu như không còn đẹp như lúc nãy.
Trên con đường độc đạo trong xóm, phân lợn, phân ngựa và nước bẩn đọng lại thành từng vũng, mùi hôi thôi bốc lên. Sợ lạc đà trượt ngã, Tường muốn dừng nghỉ một lát. Phía bắc đường có một nhà khá giả, đằng sau là nhà ngói, cổng chỉ chắn bằng một hàng rào gỗ, không có cánh, mà cũng
chẳng xây nóc. Tường thoáng nghĩ, nhà ngói, tất là nhà giàu; cổng không xây nóc, lại chỉ chắn bằng hàng rào, tất là nhà nuôi lạc đà! Hay lắm, nghi lại đây một lát, may ra có cơ bán được lạc đà đây!
"Sơ... sơ... sơ"...
Tường bảo lạc đà quỳ xuống, về các tiếng điều khiển lạc đà, anh ta chỉ biết mấy tiếng "sơ!" "sơ!" là bảo quỳ xuống. Anh ta dùng mấy tiếng đó một cách rất đắc ý, cốt tỏ cho người trong thôn biết anh ta cũng là một tay nhà nghề. Mấy con lạc đà quỳ xuống thật, và anh ta cũng đàng hoàng ngồi xuống dưới một cây liễu nhỏ. Mọi người nhìn anh ta, và anh ta cũng nhìn mọi người. Anh ta cho rằng, chỉ như vậy mới có thể làm cho người trong thôn bớt ngờ vực.
Ngồi một lát, thấy phía trong sân có một ông già đi ra, áo khoác vải xanh không gài cúc, mặt sáng sủa, trông biết ngay là một tay nhà giàu xứ quê. Tường đã nghĩ dứt khoát rồi, anh ta nói:
- Thưa cụ, có nước, xin cụ một bát!
- À!
Ông già xoa hai tay lấm vào ngực, nhìn Tường từ đầu đến chân rồi nhìn kỹ ba con lạc đà.
- Có đây! Ở đâu đến thế?
- Ớ phía tây kia, cụ ạ.
Tường không dám nói rõ, vì anh ta không biết đích xác.
- Bên phía tây có lính về kia mà!
Ông già nhìn chăm chăm vào cái quẩn lính của Tường.
- Cháu bị bọn chúng nó bắt, vừa trốn được ra đấy!
- Thế à! Lạc đà dắt qua cửa tây không can gì cả à?
- Bọn chúng nó rúc vào núi cả rồi, đường sá lại yên rồi, cụ ạ.
Ông già chậm rãi gật đầu:
- Ờ, anh chờ tí nhé, tôi vào lấy nước cho.
Tường cùng theo vào. Đến sân, anh ta trông thấy bốn con lạc đà.
- Hừ! Thành một đàn à? Ba mươi năm về trước, tôi đã từng có tới ba đàn kia! Bây giờ thời thế thay đổi rồi, ai nuôi nổi lạc đà được nữa!
Ông lão đứng thừ người ngắm bốn con vật kia, một lát, nói tiếp:
- Mấy hôm trước định cho chúng nó nhập bọn với mấy con của nhà bên hàng xóm đưa ra ngoài cửa khẩu để cho ăn cỏ non, nhưng phía đông có lính, phía tây cũng có lính, ai còn dám đi! Ngày hè thế này mà cứ để ở nhà, thật trông thấy mà xót ruột quá đi mất. Xem mấy con ruồi nhặng kìa! Mai kia nóng nực lên, lại còn muỗi nữa chứ, thật là cứ giương mắt lên mà nhìn những con vật khỏe mạnh thế kia phải chịu tội sống.
Ông già gật gù có vẻ cảm khái và buồn bực lắm.
- Cụ ạ, cụ lấy nốt ba con kia của cháu, nhập thành một đàn, cho nó đi ăn cỏ non cả thể. Loại vật này thích chạy nhảy, cả mùa hè để ở đây, ruồi muỗi đốt cũng đến chết dở.
Tường nói như van nài.
- Nhưng ai có tiền mà mua? Bây giờ đâu phải là lúc nuôi lạc đà!
- Cụ cứ lấy đi cụ ạ, cụ cho bao nhiêu cũng được. Bán rồi, cháu sẽ lên phố làm ăn.
Ông già lại chăm chú nhìn Tường một lượt nữa, thấy anh ta quả thật không phải trộm cướp, rồi quay lại nhìn mấy con vật đứng ngoài cửa, trong bụng có vẻ thích ba con lạc đà này lắm. Biết mua cũng chẳng ích gì, nhưng người thích sách thấy sách là muốn mua, người nuôi ngựa thấy ngựa là không rời ra nữa, người từng có ba đàn lạc đà cũng vậy thôi. Huống chi Tường lại nói là có thể bán rẻ. Người biết của thấy giá hời, thường quên không nghĩ mua về có ích gì không.
Ông già nói thực tình:
- Này anh này! Giá mà tôi có tiền thì tôi mua ngay đấy!
- Thôi cụ mua quách đi, gì mà không mua được!
Tường thành khẩn như thế, khiến ông già đâm khó xử.
- Nói thực tình, ba chục năm về trước thì mấy con này giá tới trăm rưỡi lạng; nhưng thời buổi này, loạn lạc, tôi... hay anh đến chỗ khác dạm xem sao!
- Cụ cho bao nhiêu cũng được thôi mà!
Tường không nghĩ ra được câu nào khác nữa. Anh ta biết ông cụ nói rất thực tình, nhưng anh ta không muốn chạy khắp nơi để hỏi bán - bán không được, có khi xảy ra chuyện gì lôi thôi cũng nên.
- Đây anh xem, hai ba chục đồng bạc, không nỡ mở miệng mà trả, nhưng xoay xở thêm cũng khó khăn lắm! Thời buổi này đành chịu!
Tường trong bụng hơi nản. Hai ba chục bạc? Còn lâu mới mua được xe! Nhưng một là, anh ta muốn bán ngay đi cho rồi, hai là, anh ta cũng không tin lại có thể may mắn gặp một người khách mua nữa.
- Cụ ạ, cụ cho bao nhiêu được bấy nhiêu.
- Thế nào? Xem anh không phải chuyên làm cái nghề này!
Tường liền nói thực.
- Ờ, thế ra anh đổi mạng lấy mấy con lạc đà này đấy ư?
Ông già có vẻ thương hại anh ta, mà cũng chẳng có vẻ yên tâm biết không phải của ăn cắp. Kể thì cũng chẳng khác gì của ăn cắp mấy, nhưng
dù sao cũng còn có bọn lính nữa cơ mà. Sau cơn binh hỏa, chuyện gì cũng không thể cứ theo lẽ thường được.
- Thế này nhé! Tôi đưa anh ba mươi lăm đồng. Tôi nói đây không phải là giá hời thì tôi cứ là con chó, mà tôi đào đâu ra thêm được một đồng nữa thì tôi cũng là con chó! Tôi hơn sáu mươi tuổi đầu rồi, ờ, biết nói thế nào đây...
Tường đâm ra lúng túng, về chuyện tiền nong, anh ta xưa nay vốn riết róng lắm. Nhưng mấy ngày vừa qua sống với bọn lính tráng, nay bỗng được nghe mấy lời thành thật và có tình của ông lão, anh ta thấy không tiện cò kè nữa. Huống chi, cẩm chắc ba mươi lăm đồng trong tay còn vững hơn và hy vọng sẽ có hàng vạn đồng, mặc dù đổi mạng lấy ba mươi lăm đồng thì ít thật! Riêng chỉ nói ba con lạc đà to tướng còn sống kia cũng đã không thể, tuyệt đối không thể, chỉ đáng giá có ba mươi lăm đồng! Nhưng biết làm thế nào?
- Vâng, để cho cụ đấy! Cháu xin cụ một điều, cụ cho cháu một cái áo, và có gì ăn, cụ cho cháu xin một miếng.
- Cái đó thì được!
Tường uống một thôi nước lạnh, rồi cầm ba mươi lăm đồng bạc sáng loáng, hai ổ bánh, mặc cái áo cánh rách cài kín ngực. Anh ta chừng như muốn bước một bước lên tới phố.
4
Tường nằm lại ba ngày ở một cái quán nhỏ tại Hải Điện, lúc lên cơn nóng, lúc lên cơn rét, mê sảng, lợi rộp lên tím bầm lại, chỉ khát nước chứ không muốn ăn gì cả. Nhịn đói ba ngày, chân hỏa suy, người mềm nhũn như cái kẹo hồng. Có lẽ ba ngày đó, trong cơn mê, anh ta đã đem cái mối liên lạc giữa anh ta và ba con lạc đà nói ra để người ngoài nghe được, nên vừa tỉnh dậy anh ta đã trở thành Tường "lạc đà" rồi!
Từ ngày lên tình, anh ta đã bị gọi là "Tường", dường như anh ta không có họ7; nay, chữ "Tường" lại đệm thêm hai chữ "lạc đà", do đó mà càng không ai để ý xem anh ta họ gì. Có họ hay không có họ, anh ta cũng chẳng để ý. Có điều, ba con lạc đà bán được có mấy đồng bạc, mà lại rước thêm một cái tên hiệu, anh ta cảm thấy như thế là lỗ vốn.
Vừa gượng dậy được, anh ta đã định ra ngoài xem tình hình ra sao. Anh ta không ngờ chân mình lại yếu đến thế, ra đến cửa đã phải ngồi thụp xuống đất, ngồi một hồi rõ lâu, xây xẩm cả mặt mũi, trán toát mồ hôi lạnh. Gắng gượng một lúc nữa, anh ta mở mắt ra, bụng sôi ùng ục, thấy hơi đói. Anh ta hết sức chậm rãi đứng lên, tìm một gánh "vằn thắn" bán rong, mua một bát. Anh ta vẫn ngồi ở dưới đất húp một ngụm nước dùng, thấy lợm giọng, ngậm mãi trong miệng, cố nhắm mắt nuốt, không muốn húp thêm nữa. Nhưng một lát sau, nước dùng nóng cứ thế là trôi tuồn tuột vào bụng, anh ta ợ hai cái rõ to. Anh ta biết mình sống lại rồi.
Bụng đã hơi no, anh ta mới ngắm thân mình. Người gầy xọp đi, cái quần rách bẩn đến mức không thể nào bẩn hơn được nữa. Anh ta ngại cử
động, nhưng lại muốn sạch sẽ gọn gàng ngay. Anh ta không muốn nhếch nhác bẩn thỉu như thế này mà vào phố. Có điều, muốn sạch sẽ gọn gàng thì phải mất tiền, phải húi tóc, thay quần áo, mua giày, bít tất, cái gì cũng tiền cả. Ba mươi lăm đồng nắm trong tay, không nên động đến một đồng nào, thế mà so với số tiền mua xe, cũng chưa thấm vào đâu! Nhưng anh ta thương cho cái thân anh ta. Tuy bị bọn lính bắt không bao lâu, nhưng bây giờ nghĩ lại, tất cả như trong một cơn ác mộng. Cơn ác mộng đó làm anh ta già hẳn đi, dường như bỗng chốc anh ta tăng lên hàng bao nhiêu tuổi. Nhìn chân tay to tướng của mình, anh ta biết rõ ràng là của mình, nhưng bỗng anh ta lại thấy như vớ được ở đâu ấy. Anh ta buồn lắm. Anh ta không dám nhớ lại những chuyện uất ức và nguy hiểm trước đây nữa. Tuy không nghĩ đến, nhưng chúng vẫn cứ hiện lên, cũng giống như những ngày u ám, tuy không ngẩng đầu nhìn trời, nhưng cũng biết trời đầy mây đen. Anh ta thấy con người anh ta đáng quý hết sức, không nên kham khổ quá. Anh ta đứng lên, biết mình còn yếu lắm, nhưng nóng ruột muốn đi sắm sửa ngay, dường như chi cắt tóc, thay quần áo, thế là khỏe liền.
Sắm sửa xong, tất cả chỉ mất có hai đồng hai hào. Một bộ quần áo vải thô, khổ hẹp và thưa, giá một đồng, đôi giày vải xanh, giá tám hào, bít tất sợi, giá một hào rưỡi, và một cái mũ cói, giá hai hào rưỡi. Bộ quần áo cũ cởi ra, đổi được hai bao diêm.
Cẩm hai bao diêm trong tay, anh ta theo con đường lớn, đi thẳng tới cửa Tây. Đi chưa được bao xa, đã thấy mệt mỏi rã rời. Nhưng anh ta nghiến chặt răng lại. Anh ta không thể đi xe. về mặt nào, đi xe cũng đều thấy không tiện cả: người nhà quê mà lại cho chín mười dặm đường là xa ư? Nói đùa đây chứ! Dù có ngã nhào xuống đây, không bò dậy được nữa, anh ta cũng sẽ cứ nằm như thế mà lăn vào thành, chứ quyết không chịu thua! Anh ta nghĩ, hôm nay nếu không vào tỉnh được, thế là đi đời thằng Tường! Anh ta nghĩ như vậy. Anh ta chi tin vào sức vóc mình, mặc kệ mọi bệnh tật!
Anh ta loạng choạng rảo bước. Đi khỏi Hài Điện chưa xa, anh ta thấy mắt toé đom đóm. Vịn vào cây liễu, anh ta định thần một hổi lâu. Trời đất quay cuồng rồi dần dẩn cũng đúng yên. Trái tim anh ta dường như từ một nơi rất xa quay trở về lồng ngực. Lau mổ hôi trên trán, anh ta lại rảo bước. Đã cắt tóc rồi, đã thay quần áo mới, giày mới rồi, anh ta cho rằng đối với bản thân mình, như vậy là chu đáo lắm; vậy thì cặp giò phải làm tròn trách nhiệm của nó chứ! Đi nào! Anh ta đi thẳng một mạch tới cửa ô. Nhìn người ngựa đi lại rộn rịp, nghe những tiếng ồn ào inh ỏi, ngửi cái mùi hôi, khô ráo, dẫm lên lớp bụi đường bẩn thỉu nhưng mềm mịn, Tường tưởng chừng như muốn nằm bò xuống mà hôn mảnh đất màu xám hôi hám, mảnh đất nảy sinh ra tiền bạc kia! Không có cha mẹ anh em, không có nhà cửa họ hàng, người bạn duy nhất của anh ta chính là cái thành phố cổ xưa này. Thành phố này đã cung cấp cho anh ta đủ thứ, dù cho ở đây có đói cũng dễ chịu hơn ở nhà quê nhiều. Ở đây có cái mà nhìn, có cái mà nghe, khắp nơi là ánh sáng, màu sắc, khắp nơi là âm thanh. Chỉ cần mình dốc sức ra, ở đây chẳng thiếu gì tiền, ở đây có đủ mọi thứ tốt đẹp, ăn không hết, mặc không hết. Ở đây dù đi ăn xin cũng còn xin được cá thịt, ở nhà quê thì chi bánh đúc ngô là hết. Vừa đến phía tây cầu Cao Lượng, anh ta liền ngồi xuống cạnh bờ sông, mấy giọt nước mắt nóng hổi trào ra.
Mặt trời đã ngả về tây. Hàng liễu già bên bờ sông nghiêng ngả, ngọn cây nhuốm vàng. Sông không có mấy tí nước, nhưng đầy rong, trông giống như cái đai bóng loáng, hẹp mà dài, màu xanh sẫm, bốc lên một mùi tanh tanh ẩm ướt. Lúa mạch ở bờ bắc đã trổ bông, trông thấp bé và khô, lá phủ một lớp bụi. Trong hồ sen ở phía nam sông, lá sen xanh, bé tí, yếu ớt lềnh bềnh trên mặt nước, xung quanh thỉnh thoảng nổi lên một ít bong bóng nước lăn tăn. Trên cầu, về phía đông, người và xe cộ qua lại, dưới bóng chiều trông có vẻ vội vàng, dường như tất cả đều cảm thấy bổn chồn lo lắng trước bóng hoàng hôn đang lấn tới. Tất cả những cảnh mắt thấy tai nghe đó đối với Tường đều thú vị đáng yêu vô cùng. Dường như chỉ có con sông nhỏ như thế mới xứng đáng gọi là sông; chỉ có cây, lúa, sen, cầu như thế kia mới đáng gọi là cây, là lúa, là sen, là cầu, bởi vì chúng là của đất Bắc Bình.
Ngồi ở đây, anh ta không cần phải vội nữa. Mọi cái trước mắt đều quen thuộc, đáng yêu. Hình như dù cho ngồi đây mà chết lịm đi, anh ta cũng rất vui lòng. Nghĩ một lúc rõ lâu, anh ta đến đầu cầu ăn một bát canh đậu: dấm, xì dầu, tương ớt, hành thái nhỏ, canh đậu trắng xóa, nóng sôi, bốc lên một mùi thơm ngào ngạt, thơm đến nỗi Tường phải nín thở. Anh ta bưng bát canh, nhìn những lát hành hoa xanh sẫm, tay cứ run run. Húp một miếng, đậu vào tới đâu, nóng ran tới đó. Anh ta lại múc thêm hai thìa nhỏ tương ớt nữa. Ăn hết một bát, mồ hôi vã ra ướt cả cạp quần. Anh ta nheo mắt lại, đưa bát:
- Cho bát nữa đây!
Anh ta đứng lên, thấy mình ra dáng con người lắm rồi. Mặt trời vẫn còn ở chỗ thấp nhất bên phía Tây. Ráng chiều chiếu xuống mặt sông đỏ hồng. Anh ta vui vẻ muốn reo lên. Sờ vết sẹo nhẵn nhụi trên mặt, nắn số tiền trong túi áo, rồi lại nhìn ánh mặt trời còn rớt lại trên thành lầu, anh ta cố quên bệnh tật, quên đi tất cả, và như có chút mơ ước gì đó anh ta quyết định đi thẳng vào trong thành.
Đủ mọi thứ xe cộ, đủ mọi hạng người chen chúc nhau ở cổng thành. Chẳng ai dám đi nhanh, nhưng ai cũng muốn vượt lên trước, tiếng roi quất, tiếng hò hét, tiếng chửi rủa, tiếng còi, tiếng nhạc, tiếng cười đều bị cổng thành - giống như cái máy phóng thanh - làm vang lên oang oang, dường như ai nấy đều có nói cả, đều ổn ào cả. Tường chen chân bước, tay rẽ lối, y như con cá to mà gầy nhang, đang rỡn sóng; anh ta len vào thành. Vừa nhìn thấy ngã tư phố Mới, đường xá rộng rãi, thẳng tắp, mắt anh ta sáng lên, sáng như thể luồng ánh sáng phản chiếu trên nóc nhà phía đằng đông kia. Đầu anh ta gật gù.
Chăn chiếu anh ta còn để cả đằng hãng xe Nhân Hòa đường cửa Tây An, tất nhiên anh ta muốn chạy thẳng tới đó. Vì chưa có vợ con, nên trước nay anh ta vẫn ở trong hãng xe Nhân Hòa, mặc dù không phải lúc nào cũng kéo xe cho hãng này. Lão Tư Lưu, chủ hãng, đã gần bảy mươi. Già nhưng vẫn láu cá. Thời còn trẻ, lão ta đã từng đăng lính gác kho, mở sòng bạc, buôn người, cho vay nợ lãi cắt cổ. Tư cách, tài năng cần thiết để làm những nghề ấy, sức mạnh, mánh khóe, thù đoạn, giao du, tiếng tăm v.v. lão ta đều có đủ, thời nhà Thanh, lão ta đã từng đánh nhau để hôi của, cướp đoạt đàn bà con gái nhà tử tế, đã từng bị cùm kẹp, nhưng lão ta không chau mày, không van xin. Việc kiện cáo đã làm lão ta thêm cứng rắn, đó chính là "tiếng tăm" của lão ta. Ra tù, vừa vặn gặp thời dân quốc, thế lực của bọn hiến binh cảnh sát ngày càng lớn, lão Tư Lưu thấy đã hết thời làm anh hùng rồi, dù Hoàng thiên bá8 sống lại cũng không ăn thua mấy nữa. Thế là lão ta mở một cửa hàng cho thuê xe kéo. Lăn lóc mãi với đời, lão ta đã biết được những mánh khóe đối phó với người nghèo. Lúc nào nên cứng, lúc nào nên mềm, lão ta khéo điều hòa cho đúng mức. Anh em phu xe không ai dám ngỗ ngược với lão ta. Lão ta trừng mắt hay lão ta cười hà hà, đều có thể làm cho anh em hồn xiêu phách lạc, như lơ lửng giữa thiên đường và địa ngục, đành phải làm theo lão ta. Đến bây giờ, lão ta có hơn sáu mươi chiếc xe, cái tàng nhất cũng vào loại còn mới tám chín mươi phần trăm. Lão ta không giữ xe cũ. Thuế xe ở xưởng lão so với các nơi khác cao hơn, nhưng ngày mồng ba tết, lão ta lại thu ít hơn các nơi khác độ hai ngày thuế. Xưởng của lão ta có chỗ ở, những anh chưa vợ con kéo xe của lão ta đều có thể đến đó ở mà không mất tiền - nhưng phải nộp đủ thuế xe mới được. Ai không nộp đủ mà còn lằng nhằng với lão ta thì lão ta giữ chăn chiếu lại, rồi tống cổ ra đường y như quẳng cái ấm vỡ. Ai có việc gì cần cấp, ốm đau nguy kịch, chỉ cần nói với lão ta một tiếng là lão ta không bỏ qua; khó khăn mấy lão ta cũng sốt sắng giúp đỡ. Đó cũng là "tiếng tăm" của lão ta.
Lão Tư Lưu có cái tướng hổ. Gần bảy mươi mà lưng chưa còng, cặp giò vẫn có thể cuốc bộ được một hai chục dặm. Hai con mắt tròn xoe, mũi to, mồm vuông, hai cái răng nanh gộc, mở miệng ra, y hệt ông ba mươi. Lão ta cũng cao bằng Tường, đầu cạo nhẵn thín, không để râu. Lão ta tự cho mình là ông Cọp, nhưng tiếc thay lại không có con giai, chỉ có một cô con gái băm bảy băm tám tuổi rồi mà vẫn chưa đi lấy chồng. Đã biết lão Tư
Lưu thì cũng nên biết qua cô con gái lão ta. Ả cũng có dáng dấp một con cọp cái, vì thế mà bọn đàn ông sợ khiếp vía cả. Ả giúp bố trông coi công việc thì cừ lắm, nhưng chẳng ai dám lấy. Cái gì ả cũng giống đàn ông, ngay cả khi quát mắng người ta cũng hùng hổ như đàn ông, có khi lại còn nhiều kiểu hơn nữa kia. Lão Tư Lưu thì lo việc ở ngoài, cô con gái thì lo việc ở trong, hai cha con kinh doanh cái hãng xe vững như thành. Hãng Nhân Hòa trở thành một hãng có thế lực trong giới xe tay. Cách thức làm ăn của cha con lão ta thường được anh em phu xe và các chủ xe nhắc tới luôn, y như các nhà trí thức nhắc tới kinh điển.
Trước kia khi chưa mua được xe riêng, Tường thuê xe của hãng Nhân Hòa. Tiền để dành, anh ta đưa cho lão Tư Lưu giữ hộ. Khi gom được đủ số, anh ta lấy ra mua xe mới.
Anh ta kéo chiếc xe đó về hãng:
- Cụ Tư ạ, cụ xem cái xe của cháu này!
Lão ta nhìn qua gật gù:
- Khá đấy!
Tường nói, vẻ tự đắc:
- Cháu vẫn xin ờ lại đây cụ ạ! Bao giờ cháu kéo xe tháng lúc ấy cháu sẽ đến nhà chủ ở.
Lão Tư Lưu lại gật đầu:
- Được thôi!
Thế là, tìm được chỗ kéo xe tháng thì Tường đến nhà chủ ở, mất việc, kéo lẻ, anh ta lại quay về hãng Nhân Hòa.
Không kéo xe của lão Tư Lưu, mà vẫn được ở lại hãng Nhân Hòa, theo các anh em phu xe khác, thì đó là một việc hiếm có. Vì thế, đã có người đoán mò, chắc là Tường có họ hàng gì đó với lão Tư Lưu. Lại có người còn nói, lão Tư Lưu đã nhắm Tường để gả cô con gái cho. Đoán mò như thế, tuy có ý ghen tị, nhưng vạn nhất mà đúng như vậy, mai sau lão Tư Lưu chết, hãng xe Nhân Hòa nhất định thuộc về Tường. Điều đó, họ chỉ dám đoán thế thôi, chứ trước mặt Tường họ chẳng dám nói câu gì khó nghe. Thực ra, lão Tư Lưu có ý biệt đãi Tường cũng là có lý do. Tường vốn là người ở vào hoàn cảnh mới, nhưng vẫn giữ được những tập quán cũ. Giả dụ anh ta có đi lính thì quyết cũng chẳng mặc quần áo lính vào là hoạnh hoẹ người khác. Ở hãng xe, anh ta chẳng bao giờ ngồi không, ráo mồ hôi là kiếm việc gì làm: lau xe, bơm xe, phơi áo tơi cánh gà, cho dầu mỡ... chẳng cần phải sai bảo, cứ tự ý làm, vui vẻ lắm, như một trò giải trí rất thú vị. Hãng xe thường vẫn có khoảng hai mươi anh em phu xe ở. Lúc cho xe về, họ không ngồi tán gẫu thì vùi đẩu vào ngủ. Chỉ có Tường là không chịu để rảnh tay lúc nào. Thoạt đầu, mọi người tưởng anh ta muốn nịnh hót, bợ đỡ lão Tư Lưu. Mấy ngày sau, họ thấy anh ta không hề có cái ý ấy, anh ta thẳng thắn tự nhiên lắm, cho nên cũng chẳng nói vào đâu được nữa. Lão Tư Lưu không hề khen Tường một câu nào, cũng không hề biệt đãi anh ta. Nhưng lão ta trong bụng đã có ý định. Lão ta biết Tường là tay làm ăn
được, dù cho không kéo xe lão ta nữa, lão ta vẫn cứ ưng cho Tường ở lại hãng. Có Tường ở đây, trước hết không cần nói đâu xa, sân cửa ngõ cứ sạch như li như lau. Ả Nĩu thì lại có vẻ thích anh chàng ngốc nghếch này hơn cả. Ả nói gì, anh ta cũng chú ý lắng nghe, không cãi lại. Những anh em phu xe khác, vì phải khổ sở nhiều nên ăn nói thường ngang bướng. Ả không sợ họ đâu, nhưng cũng chẳng thích đôi co với họ làm gì. Vì thế cho nên, bao nhiêu lời của ả, ả đều để dành cho Tường nghe cả. Khi Tường kéo xe tháng, bố con lão Tư Lưu dường như mất một người bạn. Đến khi anh quay về, thì lão ta chửi mắng mọi người cũng có phần nhẹ nhàng hơn...
Tường cầm hai bao diêm, vào hãng xe Nhân Hòa. Trời chưa tối, hai bố con lão Tư Lưu đang ăn cơm. Thấy anh ta về, ả Nĩu liền bỏ đũa xuống:
Anh Tường! Sói nó tha anh đi hay anh sang Phi châu đào mỏ vàng đây!
Ờ!...
Tường chẳng trả lời sao cả.
Đôi mắt tròn xoay của lão Tư Lưu đưa khắp người Tường. Lão ta cũng chẳng nói gì.
Tường đội cái mũ cói mới, ngồi ngay trước mặt hai bố con lão.
Ả Nĩu mời, như đối với một người bạn thân:
- Chưa ăn cơm thì ăn cả thể đi!
Tường vẫn ngồi nguyên, cảm thấy một niềm thân thiết không sao tả được. Trước nay, anh vẫn xem hãng xe Nhân Hòa này như nhà mình: kéo xe tháng, thường đổi chủ luôn; kéo lẻ, bây giờ người này, lát nữa người khác. Chỉ có đây là anh ta ở được lâu, là có người chuyện trò với anh. Nay, vừa thoát chết, lại được về với người quen thuộc, lại được mời mọc ăn uống, anh ta nửa như hơi nghi ngờ không hiểu có phải họ muốn trêu mình chăng, nửa như muốn rớt nước mắt.
Anh ta từ chối, hơi có vẻ làm khách:
- Tôi vừa ăn hai bát canh đậu rồi!
Mắt vẫn nhìn Tường chằm chặp, lão Tư Lưu hỏi:
- Anh đi làm gì thế? Xe đâu rồi?
Tường nhổ một bãi nước bọt:
- Xe ấy à?
Ả Nĩu cầm tay anh ta kéo tới bên mâm cơm, y như bà chị dâu chiều chú em chồng:
- Lại đây ăn bát cơm đã, không ai thuốc độc anh chết đâu mà sợ! Hai bát canh đậu thì ăn thua gì!
Tường chưa bưng bát vội, trước hết móc tiền trong túi ra:
- Cụ ạ, cụ giữ hộ cháu ba mươi đồng!
Rồi anh ta bỏ chỗ tiền lẻ vào túi.
Lão Tư Lưu dướn đuôi lông mày lên hỏi:
- Ở đâu ra thế?
Tường vừa ăn, vừa kể chuyện bị lính bắt.
Nghe xong lão Tư lắc đầu:
- Hừ, ngốc thật! Dắt về đây bán cho hàng thịt cũng được mấy chục bạc một con. Nếu vào mùa đông, lạc đà còn đủ lông thì ba con cũng phải sáu chục!
Tường vốn đã có ý tiếc, nay nghe nói thế, càng buồn hơn. Nhưng tiếp đó anh ta lại nghĩ rằng, đem ba con vật sống sờ sờ như thế mà bán cho cửa hàng thịt để họ chọc tiết thì cũng có phần thất đức. Anh ta và lạc đà đều cùng trốn thoát, nên cùng phải được sống cả. Anh ta chẳng nói gì hết, lòng anh ta bình tĩnh lại rồi.
Ả Nĩu dọn mâm bát, lão Tư thì ngửa cổ lên, như suy nghĩ điều gì. Bỗng lão ta cười, để lòi hai cái răng nanh, càng già lại càng chắc ra.
- Này, anh nói anh bị ốm ở Hải Điện phải không? Sao lại không theo đường cái Hoàng Thôn mà về thẳng đây?
- Cháu vòng phía Tây Sơn về đây, sợ đi đường cái có người đuổi theo, có khi người trong làng lại nghĩ quá đi, cho là đào ngũ!
Lão Tư lại cười, tròng con mắt đảo hai cái. Lão ta sợ Tường bịa chuyện ra như vậy. Ngộ nhỡ số ba mươi đồng bạc kia là của ăn cướp thì sao? Lão ta không thể oa trữ tang vật được. Lúc trẻ, mọi việc phạm pháp, lão ta làm cả rồi, bây giờ lão ta tự cho là đã cải tà quy chính, cho nên không thể không cẩn thận, mà còn biết nên cẩn thận như thế nào nữa. Câu chuyện của Tường chỉ có mỗi một khe hở đó thôi, nhưng nghe Tường giải thích như vậy, điềm nhiên chẳng chút lúng túng sợ hãi, nên lão ta cũng yên tâm. Lão ta chỉ số tiền, hỏi:
- Bây giờ làm thế nào đây?
- Xin theo lời cụ dạy thôi!
- Mua cái xe nữa nhá?
Lão ta lại cười, để lòi hai cái răng nanh ra, như có ý nói: "Mua xe riêng, rồi lại ở nhờ đây?"
Tường không nhìn vào răng của lão Tư mà chỉ băn khoăn suy nghĩ:
- Không đủ cụ ạ! Mua thì phải mua xe mới!
- Cho anh vay nhé? Lãi một phân thôi. Người ta thì hai phân rưỡi!
Tường lắc đầu.
- Mua xe trả góp cho người ta chẳng bằng trả tôi một phần lãi đâu!
Tường trả lời, vẻ suy nghĩ lung lắm:
- Cháu cũng chả mua trả góp. Cháu cứ để dành dần dần, đủ số rồi thì tiền trao cháo múc!
Lão Tư nhìn Tường, y như nhìn một vật gì kỳ quặc lắm, tuy đáng ghét đấy, nhưng không thể nào giận được. Một lát, lão ta cầm lấy tiền:
- Ba chục à? Đủ đấy chứ?
- Đủ đấy ạ!
Tường đứng dậy nói tiếp:
- Cháu đi ngủ đây. Biếu cụ bao diêm.
Anh ta đặt bao diêm lên bàn, đứng bần thần một lúc, rồi lại nói tiếp:
- Chuyện lạc đà, xin cụ đừng nói với ai.
5
Lão Tư Lưu quả thật không nói gì về Tường cả, nhưng câu chuyện mấy con lạc đà đã từ Hải Điện truyền vào thành rất nhanh. Trước kia, tuy không ai thấy Tường có nhược điểm gì, nhưng tính anh ta cứng cỏi, nên ít nhiều người ta cho rằng anh ta cô độc, khó chơi. Sau khi cái tên "Tường lạc đà" được truyền rộng ra, tuy Tường vẫn lầm lì mà làm ăn, không thân thiện gì với ai lắm, nhưng đối với anh ta, mọi người có phần nào vị nể. Có người nói anh ta bắt được đồng hồ vàng, có người nói anh ta vớ được ba trăm đồng bạc, và người tin rằng mình biết tường tận hơn thì gật đầu nói anh ta dắt ba chục con lạc đà từ Tây Sơn về. Mỗi người nói một phách, nhưng kết luận thì như nhau: "Tường bắt được của!". Đối với người bắt được của, dù người ta không có cảm tình, nhưng theo lệ thường người ta cũng kính nể. Bán sức kiếm miếng ăn là chuyện khó khăn như thế nên ai nấy đều mong mỏi bắt được của. Đó là chuyện nghìn năm mới có một lần, nên người đã gặp may, chắc hẳn phải khác thường: phúc lớn thì mệnh phải lớn. Vì vậy, cái tính lầm lì cô độc của Tường bỗng biến thành cái tính ít điều ít tiếng của người phú quý. Anh ta như thế là đúng, mà những người khác thì phải đổ xô đến mà nịnh hót anh ta. "Ghê thật! Nói đi nào! Anh Tường! Phát tài ra sao đấy?". Những lời ấy, ngày nào Tường cũng được nghe. Anh ta vẫn lặng thinh. Cho đến khi bị dồn quá, cái sẹo của anh ra hơi đỏ lên, anh ta mới nói:
- Phát tài gì? Con mẹ nó chứ! Thế cái xe của tôi đâu rồi?
Đúng, thật có như thế. Xe của anh ta đâu rồi? Mọi người bắt đầu suy nghĩ. Nhưng lo lắng hộ người ta bao giờ cũng chẳng bằng vui mừng cho người ta, thế là ai nấy quên bẵng chiếc xe của Tường, chỉ nghĩ đến vận may của anh ta thôi! ít ngày sau, anh em thấy Tường vẫn kéo xe, không đổi
nghề, hoặc mua nhà cửa đất cát gì cả, nên đối với anh ta có phần lạnh nhạt đi. Khi nhắc đến "Tường lạc đà", cũng không ai căn vặn vì sao lại là "lạc đà" nữa, dường như vốn nên gọi anh ta như thế.
Nhưng bản thân Tường thì không thể dễ dàng gì mà quên đi được chuyện đó. Anh ta buồn bực vì không thể mua ngay được một chiếc xe mới khác. Càng buồn bực thì lại càng nhớ đến cái xe trước kia. Từ sáng sớm đến tối mịt, anh ta ra sức mà làm, nhưng làm thì vẫn làm, vẫn cứ nhớ đến chuyện đó. Mà nhớ đến thì trong lòng lại thấy như thắt lại. Anh ta không khỏi nghĩ rằng, dù cho cố gắng đến đâu, cũng không thể vì mình đã cố gắng mà đời lại công bằng hơn. Vì lẽ gì mà chúng lại cướp không cái xe của anh ta cơ chứ? Dù sắm lại ngay được chiếc xe mới, nhưng biết đâu chẳng gặp phải chuyện như thế làn nữa? Anh ta cảm thấy những ngày qua thật như một cơn ác mộng, khiến anh ta hầu như không dám hy vọng gì về tương lai. Có lúc, thấy người ta rượu chè, cờ bạc, đi nhà thổ, anh ta như có ý thèm muốn. Cố gắng đã không ăn thua gì, thì sao lại chẳng vui cái vui trước mắt? Như bọn kia thế mà đúng. Anh ta không đi nhà thổ thì cũng nên uống một vài chén rượu, cho thoải mái một chút. Thuốc lá và rượu lúc này đối với anh ta hầu như có một sức quyến rũ đặc biệt. Anh ta thấy hai cái trò đó chẳng tốn kém bao nhiêu, nhưng nhất định đủ để an ủi anh ta, khiến anh ta vẫn có thể chịu khổ chịu sở mà xông tới, đồng thời cũng lại có thể quên được những nỗi đau khổ trong quá khứ.
Nhưng anh ta vẫn chưa dám động đến số tiền đó. Anh ta cần phải thừa được đồng nào để dành ngay đồng ấy, không như thế thì không thể nào anh ta được một chiếc xe riêng cho sơm sớm. Dù mua hôm nay, ngày mai bị cướp mất, anh ta cũng vẫn phải mua cho kỳ được. Đó là ý muốn của anh ta, là hy vọng của anh ta, thậm chí là điều anh ta tin tưởng như một thứ tôn giáo. Không kéo được xe riêng của mình, anh ta coi như là sống thừa. Anh ta không nghĩ được đến chuyện làm quan, chuyện làm giàu, chuyện mua sắm ruộng vườn nhà cửa; anh ta chỉ có thể kéo được xe thôi, hy vọng thực tế nhất của anh ta là mua xe, không mua được xe thì thật không phải với mình. Suốt ngày, từ sớm đến tối, anh ta chỉ nghĩ đến chuyện đó, tính toán số tiền của anh ta. Giả dụ quên được chuyện đó tức là anh ta quên bản thân anh
ta, và cảm thấy mình chỉ còn là một con vật biết chạy, chẳng có chút chí khí, chút tình người nào nữa. Xe đẹp đến đâu, nếu là xe thuê, thì anh ta cũng kéo uể oải, cứ thấy nặng chịch y như đeo tảng đá trên lưng. Xe thuê, anh ta vẫn chăm lau chùi sạch bóng và không bao giờ cho đụng chạm bừa. Nhung đó chì là tính cẩn thận chu đáo chứ không phải là một thú vui. Đúng thế, lau chùi xe của mình, cũng như đếm tiền của mình, mới vui thực sự. Anh ta vẫn cứ không hút thuốc, không uống rượu, ngay một chén trà ngon cũng dứt khoát không uống. Trong tiệm trà, những anh xe phu bảnh như anh ta, sau một cuốc nhanh như bay, thường vẫn kén loại trà một hào một gói, thêm hai gói đường kính, để "bổ khí tán hỏa". Khi anh ta chạy mồ hôi chảy ròng ròng, ngực nóng ran, anh ta cũng muốn như vậy lắm. Mà chẳng phải kiểu cách gì đâu, quả là cần phải nhấm nháp một hai chén trà như vậy. Nhưng anh ta chỉ nghĩ thế mà thôi, chứ anh ta vẫn cứ uống loại chè vụn một xu một gói. Có khi anh ta cũng đã tự xỉ vả mình, vì sao lại phải đày đọa tấm thân như vậy. Nhưng một anh phu xe muốn tháng tháng để dành một hai đồng, không thế thì sao để dành nổi. Anh ta cố nén lòng lại. Mua được xe đã, rồi hẵng hay. Có xe rồi thì muốn làm gì cũng được!
Tiêu tiền, Tường chặt chẽ như vậy, kiếm tiền, anh ta lại càng không lơ là. Không ai thuê kéo tháng thì anh ta kéo suốt cả ngày, ra xe sớm, về muộn, chưa kiếm được số tiền định sẵn, thì nhất định không chịu nghỉ, bất chấp thì giờ, bất chấp đôi chân. Có khi anh ta cố kéo cả ngày lẫn đêm. Trước kia, anh ta không muốn tranh khách của ai hết, nhất là đối với những người già yếu. Sức vóc của anh ta như thế, xe anh ta như thế, tranh khách với những người kia thì họ còn kiếm ăn vào đâu? Nhưng bây giờ thì anh ta bất chấp. Anh ta chỉ biết có tiền thôi. Được thêm đồng nào hay đồng ấy, chẳng kể được giá hay không được giá, chẳng kể phải tranh giành với ai. Anh ta chỉ biết có khách là kéo, thế thôi, y như một con dã thú đói phát cuồng. Khách lên xe là chạy, và trong lòng anh ta khoan khoái cảm thấy chỉ cứ chạy mãi không nghỉ chân mới hy vọng mua được xe. Dần dà, danh dự của anh chàng "Tường lạc đà" chẳng còn như hồi chỉ là "anh chàng Tường" nữa. Rất nhiều lần, tranh được khách, anh ta chạy liền, mặc kệ bao nhiêu tiếng chửi rủa phía sau. Anh ta chẳng đáp lời, cứ thế cúi đầu cúi cổ mà chạy, bụng nghĩ: "Không phải là để mua xe thì chẳng đời nào mình lại mặt dày mặt dạn thế!". Dường như anh ta muốn dùng lời nói đó để xin mọi người lượng thứ
cho. Nhưng anh ta lại không chịu nói thẳng ra cho mọi người biết, ở bến xe, hoặc trong quán nước, thấy mọi người trừng mắt nhìn mình, anh ta định phân bua, nhưng khi thấy ai cũng lạnh nhạt như thế, lại thêm thường ngày anh ta không chè chén, cờ bạc, tán hươu tán vượn với họ nên những lời định nói anh ta lại đành để trong bụng, không nói nữa. Lúc đầu thì khó chịu, sau dẩn dần thành xấu hổ, buồn bực, rồi anh ta cũng phát cáu lên. Họ trừng mắt nhìn anh ta, anh ta cũng trừng mắt nhìn lại. Nghĩ lại trước kia khi vừa trên núi trốn về, mọi người đối với anh ta kính nể như thế, vậy mà nay lại coi thường như thế, anh ta càng buồn. Nếu ở trong quán nước, thì anh ta ngồi một mình ôm ấm trà, nếu là ở bến xe thì anh ta ngồi một mình đếm mấy đồng xu vừa kiếm được, cố nén giận. Anh ta không muốn đánh nhau, mặc dù anh ta không hề sợ đánh nhau. Còn những người kia? Họ vốn cũng chẳng sợ đánh nhau, nhưng đọ sức với Tường thì cũng nên nghĩ cho kỹ đã. Trong bọn họ, không ai có thể là đối thủ của Tường cả, mà mấy người xúm lại đánh một người thì cũng chẳng phải là chuyện quang minh chính đại. Anh ta cố nén giận, chẳng nghĩ ra được cách gì cả, đành cố chịu đựng một thời gian, đợi khi nào mua được xe rồi thì dễ đối xử thôi. Có xe riêng, trước hết hàng ngày chẳng cần lo đến thuế má nữa, tất nhiên có thế rộng rãi hơn, chẳng phải tranh giành khách để mất lòng ai. Nghĩ thế, anh ta nhìn mọi người, như có ý nói: "Để rồi xem!"
Nói về riêng bản thân anh ta, thì anh ta cũng chẳng nên cố sống cố chết mà làm như thế mới phải. Trốn về được tới thành phố, không đợi khỏi bệnh và khỏe hẳn, anh ta đã vớ lấy xe kéo luôn, tuy chưa đến nỗi quỵ, nhưng thường cũng cảm thấy mệt nhoài. Mệt, anh ta không dám nghỉ, cứ cho rằng chạy toát mổ hôi độ vài lượt là bớt đau bớt nhức ngay. Về ăn uống, anh ta không dám bóp mồm bóp miệng, nhưng cũng chẳng dám ăn ngon một chút. Anh ta thấy mình gầy đi nhiều, nhưng vóc người vẫn cao lớn, gân cốt vẫn săn cúng, anh ta lại yên chí. Anh ta nghĩ tầm vóc to cao hơn người, thì nhất định có thể chịu đựng hơn người, hầu như không bao giờ anh ta lại nghĩ, tầm vóc to cao, mệt nhọc nhiều, thì lại càng cần bồi bổ nhiều. Ả Nĩu đã căn dặn anh ta mấy lần rồi: "Anh mà cứ làm thế thì ho lao đấy!".
Anh ta biết nói như thế là phải, nhưng vì công việc làm ăn chẳng được như ý, lại ít được ăn uổng bồi dưỡng, nên cơn hỏa trong người anh ta có vẻ thịnh. Anh ta trợn mắt:
- Không chạy thì đến bao giờ mới mua được xe!
Gặp phải người khác mà trợn mắt lên như thế, ít nhất ả Nĩu cũng phải chửi cho một thôi một hồi, nhưng với Tường ả rất mực mềm mỏng, quý mến. Ả chỉ trề môi mà rằng:
- Mua xe thì cũng phải từ từ chứ! Cứ làm như anh là xương đồng da sắt ấy! Nghỉ vài ba ngày cho khỏe đi!
Thấy Tường chẳng để vào tai, ả lại nói tiếp:
- Thôi, cứ ý anh, anh làm, có chết đừng oán tôi nhé!
Lão Tư Lưu cũng có phần xem thường Tường rồi: Tường làm cố mạng như thế, đi sớm về muộn, tất nhiên chẳng có lợi cho xe của lão ta. Tuy xe thuê cà ngày thì không có hạn giờ giấc nào cả, muốn cho xe ra cho xe về lúc nào cũng được. Nhưng ai cũng làm chết thôi như Tường thì xe ít nhất cũng phải hỏng sớm đến nửa năm. Vật gì bền chắc mấy mà dùng kiểu ấy cũng không chịu nổi. Lại nữa, Tường chỉ lo kéo xe, chẳng còn thì giờ đâu mà lau chùi xe giúp lão ta nữa, đó cũng là một điều thiệt. Lão ta có ý hơi không bằng lòng. Nhưng lão ta chẳng nói gì cả. Kéo cả ngày không hạn giờ giác, đó là lệ chung; giúp lau chùi xe pháo là chuyện tình nghĩa, chứ không phải là bổn phận. Để giữ tiếng, lão ta không tỏ vẻ gì với Tường để rước lây
chuyện khó chịu vào người. Lão ta chỉ để hơi lộ ý bất mãn ở khóe mắt, và mím chặt miệng lại. Có lúc, lão ta muốn tống cổ Tường đi, nhưng nhìn con lão, lão ta lại không dám làm như thế. Lão ta không hề có ý nhắm Tường làm con rể, có điều, con nó đã thích cái anh chàng gà tồ này, thì cũng không tiện sinh chuyện lôi thôi. Lão ta chỉ có độc mụn con gái, xem chừng cũng không còn hy vọng có ai đến rước đi nữa, vì vậy lão ta không thể tống cổ người bạn của con gái đi được. Nói thực tình, ả Nĩu được như thế, lão ta cũng chẳng muốn ả đi lấy chồng. Ý nghĩ đó khiến lão ta thật không phải với con, nên lão ta cũng có sợ con ít nhiều. Lão ta một đời chẳng sợ ai, thế mà nay về già lại đâm ra sợ con. Lão ngượng lắm, nhưng lại tìm ra được một cái lý: lão ta sợ một người, đủ chứng tỏ lão ta không phải là kẻ hoàn toàn bạt tử. Như vậy, có lẽ đến lúc sắp chết, lão ta sẽ tránh khỏi chuyện ác báo. Thôi được, lão ta nhận rằng lão ta sợ con gái, và vì thế không dám đuổi Tường đi. Nhưng như vậy dĩ nhiên không phải có ý nói lão ta có thể để mặc con gái muốn làm gì thì làm, và đi đến chỗ lấy Tường. Không. Lão ta thấy con mình vị tất không có ý đó, nhưng Tường thì không dám "đũa mốc chòi mâm son".
Vậy thì, lão ta chỉ cần để ý một chút là được, không nên làm con nó phải phiền lòng.
Tường không chú ý gì đến thái độ của lão Tư Lưu. Anh ta chẳng hơi đâu để ý đến chuyện vớ vẩn ấy. Giả dụ anh ta có ý rời bỏ xưởng Nhân Hòa thì quyết không phải vì tức khí vặt, mà chính là vì muốn có chỗ kéo xe tháng. Anh ta hơi chán trò kéo xe lẻ rồi, một là vì phải tranh giành khách, người ta khinh bỉ, hai là tiền kiếm được hàng ngày không nhất định, nay nhiều mai ít, không thể đoán trước chừng nào thì dành dụm đủ số tiền mua xe. Anh ta muốn cho chắc chắn, dù thừa ít cũng được, chỉ cần biết mỗi tháng thừa bao nhiêu cho nhất định, anh ta mới có hy vọng, mới yên tâm được. Anh ta là người muốn làm chuyện ăn chắc.
Thế rồi anh ta được kéo tháng. Hừ, lại vẫn cứ thấy không được như ý, như lúc còn kéo lẻ. Lần này anh ta kéo cho nhà ông Dương. Ông Dương là người Thượng Hải, vợ cả là người Thiên Tân, còn vợ hai là người Tô Châu. Một ông, hai bà, kẻ bắc người nam đẻ ra bao nhiêu con. Ngày đầu tiên đến làm, Tường thấy chóng cả mặt. Sáng tinh mơ, bà cả ngồi xe đi chợ. về đưa các cô các cậu đi học, trung học có, tiểu học có, vườn trẻ cũng có; nơi học khác nhau, lớn bé khác nhau, dáng dấp khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ đáng ghét như nhau. Nhất là lúc ngồi trên xe, đứa nào hiền lành nhất cũng quấy như khỉ. Kéo bọn trẻ đi học rồi, đến lượt kéo ông chủ đi làm. Kéo đến sở, vội vàng về, kéo bà hai đi chợ Đông An hoặc đến chơi nhà bạn. Lại đi đón bọn trẻ con về ăn cơm trưa. Ăn xong, lại đưa chúng đến trường, quay về, tưởng có thế ngồi ăn được, thế nhưng bà cả lại cất cái giọng Thiên Tân lên, bảo đi gánh nước. Nước ăn đã có người gánh, còn nước giặt giũ thì anh xe phải gánh. Công việc này khi mới đến, nhà chủ không nói trước, nhưng để cho qua chuyện, Tường chẳng dám nói đi nói lại, cứ lẳng lặng gánh đầy chum. Buông thùng xuống, định lấy cơm ăn, bà hai lại sai đi mua các thứ. Bà cả và bà hai bất hòa với nhau luôn, nhưng việc trong nhà hai bà nhất trí với nhau về nhiều điểm, trong đó có điểm không để cho người ở trong nhà rỗi rãi phút nào, và điểm nữa là không muốn thấy người ở ăn cơm. Tường có hiểu đâu chuyện ấy. Anh ta cứ tưởng, ngày đầu tiên đến làm, gặp phải ngày bận rộn như thế, nên anh ta cũng chẳng nói gì, móc hầu bao ra mua mấy cái bánh nướng. Tường coi đồng tiền liền khúc ruột, nhưng muốn không mất việc, đành phải cắn răng lại. Mua các thức về rồi, bà cả lại sai quét sân. Ông chủ, bà cả, bà hai mỗi khi đi đâu thì ăn mặc rất sang trọng, nhưng trong nhà ngoài sân thì bẩn như chuồng lợn. Tường nhìn cái sân mà buồn nôn, đành phải đi quét dọn vậy, quên mất anh xe không phải làm việc vặt như thế. Sân quét dọn sạch rồi, bà hai lại bảo tiện tay quét nhà nhân thể. Tường cũng chẳng từ chối. Anh ta lấy làm ngạc nhiên tại sao hai bà bề ngoài đẹp đẽ thế, mà trong nhà lại bẩn đến nỗi không muốn đặt chân vào nữa. Nhà quét xong xuôi rồi, bà hai liền giao đứa con vừa đầy năm cho bế. Anh ta chẳng biết tính sao. Công việc nặng nhọc, anh ta làm quen, nhưng trẻ con thì anh ta chưa bế bao giờ cả. Hai tay anh ta nâng lấy cậu ấm; không ôm chặt thì sợ rơi, mà ôm chặt thì sợ cậu ấm gãy xương. Anh ta toát cả mồ hôi. Anh ta định giao trả vú Trương - một người đàn bà chân to9 quê vùng Giang Bắc. Tìm được vú, vú liền mắng cho một thôi một hổi. Nhà này nuôi người, xưa nay vẫn dăm ba ngày lại thay đổi. Ông chủ và hai bà chủ coi người ở là gia nô, không bắt làm cho kiệt sức thì không xứng với đồng tiền
công bỏ ra. Chỉ vú Trương là ở được năm sáu năm nay thôi. Lý do duy nhất là vú dám mở miệng chửi trả. Không kể ông chủ hay bà cả bà hai, động đến vú, cơn giận bốc lên là vú liền cho ngay một trận. Với những câu chửi bới cay độc kiểu Thượng Hải của ông chủ, với giống mạnh mẽ người Thiên Tân của bà cả, với lời lẽ trôi chảy vùng Tô Châu của bà hai, xưa nay bộ ba ấy không ai địch nổi; bây giờ gặp phải vú Trương ương ngạch như thế, họ bắt đầu cảm thấy cái ý vị của chuyện có đi có lại, anh hùng gặp hảo hán, cho nên họ rất thích vú, coi vú như một người tâm phúc.
Sinh trưởng ở vùng quê phương Bắc, Tường ghét nhất cái trò già mồm già miệng. Nhưng anh ta chẳng dám đánh vú Trương, bởi vì hảo hán chẳng lẽ lại đi đánh nhau với đàn bà, và anh ta cũng chả buồn đáp lời. Anh ta chỉ trừng mắt nhìn vú. Vú cũng không dám mở miệng ra nữa, dường như đã thấy hơi nguy rồi. Giữa lúc ấy, bà cả sai Tường đi đón bọn trẻ về. Anh ta vội vàng trao cậu ấm cho bà hai. Bà hai tưởng anh ta có ý xem thường bà ta, liền chửi anh ta tối mặt tối mũi. Ý bà cả cũng không thích để Tường bế con cho bà hai, nay nghe thấy bà hai chửi Tường, nên bà ta cũng thao thao chửi một hổi, và người chịu chửi cũng vẫn là Tường. Tường trở thành cái bung xung chịu chửi. Anh ta vội vàng kéo xe đi, như quên cả giận, bởi vì xưa nay anh ta chưa từng thấy chuyện như thế bao giờ, bây giờ bỗng gặp phải, thấy choáng váng cả người.
Đứa này rồi đứa kia, lần lượt đón hết bọn trẻ về rồi, trong sân liền ồn ào hơn chợ. Tiếng ba người đàn bà quát tháo, tiếng bầy trẻ con khóc, y như lúc tan hát, cứ rối rít tít mù cả lên. Vừa may anh ta còn phải đi đón ông chủ nữa, nên vội vã kéo xe ra. Tiếng người la ngựa hí ngoài đường phố xem chừng lại còn dễ chịu hơn tiếng ồn ào trong nhà.
Cứ quay như chong chóng cho mãi tới mười hai giờ đêm, Tường mới được nghỉ mà thở một chút. Không những anh ta cảm thấy người mệt nhừ mà đầu óc cũng cứ váng lên. Cà nhà, lớn bé rõ ràng ngủ cả rồi, thế mà bên tai anh ta dường như vẫn còn nghe tiếng chửi bới của ông chủ và hai bà
chủ, y như có ba cái kèn hát đang quay loạn xạ trong đầu anh ta, khiến anh ta khó chịu quá. Chẳng thì giờ đâu mà nghĩ ngợi nữa, anh ta định đi ngủ. Vừa bước vào gian buồng xép dành cho anh ta, anh ta lạnh cả người và không buồn ngủ nữa. Một gian nhà có hai cái cửa ra vào, chia làm hai buồng bằng một bức ván. Vú Trương ở một bên, anh ta ở một bên. Trong nhà chả có đèn đóm gì cả. Trên tường, sát đường phố, có trổ một khuôn cửa sổ rộng khoảng hai thước, ngay dưới ngọn đèn đường, nhờ đó mà trong nhà hơi sáng một chút. Buồng vừa ẩm thấp vừa hôi hám, đất bám dưới nền nhà dày như tấm đồng. Sát tường kê một tấm phản, ngoài ra không có gì cả. Anh ta sờ vào tấm phản thấy nằm xuống thì phải gác chân lên tường, còn duỗi chân thẳng thì phải nhỏm nửa người dậy. Anh ta không quen cái thói nằm ngủ co lại như con tôm như thế. Nghĩ hồi lâu, anh ta liền kê chéo lại, hai đầu quay vào hai góc nhà, thế là có thể đặt đầu xuống, chân chỉ phải ghếch lên một tí, tạm qua đêm nay.
Anh ta mang chăn nệm từ ngoài cổng vào, trải qua loa, rồi nằm xuống. Chân ghếch lên, không quen, anh ta không sao ngủ được. Anh ta cố nhắm mắt lại, tự an ủi: "Thôi ngủ đi, mai còn phải dậy sớm cơ mà! Khố thế nào cũng còn chịu được, khố thế này sao chẳng cố chịu cho qua! Đừng thấy ăn uống không ra gì, việc nhiều mà ngại. Có lẽ ở đây thường đánh bài, khách khứa tiệc tùng luôn đấy! Bọn ta đi ra tỉnh để làm gì? Chẳng phải để kiếm tiền hay sao? Miễn là kiếm ra tiền, gì cũng chịu được tất!". Nghĩ vậy, trong lòng anh ta thấy dễ chịu hơn nhiều, gian buồng cũng không thấy hôi hám như trước nữa, rồi anh ta thiu thiu ngủ. Anh ta mơ mơ màng màng thấy có rệp, nhưng cũng chẳng nghĩ đến chuyện bắt.
Được hai ngày, Tường đã thấy nản lắm. Đến ngày thứ tư, có mấy khách đến chơi, và vú Trương vội bày bàn đánh bài. Lòng anh ta giống như mặt hồ đông cứng lại nay bỗng được cơn gió xuân ấm áp thổi tới. Các bà đánh bài, trẻ con giao cho người ở tất. Vú Trương bận hầu trà nước, nên bọn khỉ con đó tất nhiên Tường phải cai quản. Anh ta ghét bọn khỉ con này, nhưng liếc mắt nhìn trộm vào nhà, thấy bà cả đang giữ phần tiền hồ, có vẻ cẩn thận lắm. Anh ta nghĩ bụng: đừng nên cho rằng hai bà ấy nghiệt ngã, có khi cũng biết điều đây, nhân dịp này cho người ăn kẻ ở kiếm chác dăm ba hào. Anh
ta hết sức nhẫn nại trông nom lũ trẻ; vì số tiền hồ, anh ta coi bọn khỉ con kia là "các cô", "các cậu".
Canh bạc tan, bà chủ bắt anh ta kéo khách về. Hai bà khách cùng muốn về ngay một lúc, nên đành phải thuê thêm một chiếc xe nữa. Tường gọi một chiếc xe đến, bà cả móc hết túi nọ đến túi kia lấy tiền, định trả tiền xe cho khách. Bà khách từ chối khéo một hai câu, bà cả liền tru tréo lên:
- Sao lại thế, hở bà chị? Bà chị đến nhà em chơi mà em lại không trả cho bà chị được một cuốc xe hay sao? bà chị cứ ngồi lên đi!
Lúc đó, bà ta mới móc ra được một hào.
Lúc bà ta đưa tiền ra, Tường thấy rõ tay bà ta hơi run run. Đưa khách về rồi lại giúp vú Trương dọn dẹp bàn ghế, Tường đưa mắt nhìn bà chủ. Bà ta sai vú Trương đi lấy nước sôi; đợi vú ấy ra khỏi cửa, mới lấy ra một hào:
- Này cầm lấy, đừng có nhìn chằm chằm người ta như thế!
Tường tái mặt đi. Anh ta vươn thẳng người lên, dường như đầu muốn chạm tới xà nhà, tay nắm lấy tờ hào giấy kia, ném thẳng vào cái mặt béo phị của mụ chủ:
- Trả bốn ngày công đây!
- Sao, thôi à?
Nói xong, mụ nhìn Tường một cái, không nói gì nữa, trả anh ta bốn ngày công.
Để bọc chăn nệm lên xe, chưa ra khỏi cổng, anh ta đã nghe tiếng chửi vang lên trong sân.
6
Đêm đầu thu, từng làn gió lay động ánh sao, khóm lá. Tường ngửng đầu lên, nhìn dải ngân hà cao tít, thở dài. Trời mát thế này, lồng ngực anh ta lại to thế kia, nhưng dường như anh ta cảm thấy thiếu không khí, cứ thấy tức tức. Anh ta muốn ngồi xuống mà khóc một hồi. Sức vóc như thế, lại nhẫn nhục chịu thương chịu khó, mặc cho người ta coi như trâu chó, thế mà vẫn không giữ nổi công ăn việc làm! Anh ta không oán riêng gì nhà lão Dương, mà lờ mờ cảm thấy tuyệt vọng. E suốt đời không sao ngóc đầu lên được nữa! Kéo bọc chăn nệm, bước chân anh ta chậm dần lại, dường như chẳng phải chính anh ta trước đây có thể chạy một mạch hàng chín mười dặm đường.
Ra đến phố lớn, người qua lại đã thưa thớt, nhưng đèn đường vẫn rất sáng. Anh ta càng cảm thấy trống trải mờ mịt, không biết đi về ngả nào. về đâu bây giờ? Tất nhiên về hãng Nhân Hòa thôi. Anh ta cảm thấy đau khổ trong lòng. Buôn bán, đi làm thuê, không sợ không có khách, chỉ sợ có khách rồi mà lại không bán được hàng, không làm được việc. Giống như hàng ăn, hàng cắt tóc, có những ông khách vào, nhìn rồi lại quay ra. Tường biết rõ, làm rồi lại thôi là chuyện thường, đây không dùng thì kia lại có người mướn. Nhưng anh ta cố nhẫn nhục cốt để giữ lấy chỗ làm, cố mặt dày mày dạn để kiếm tiền mua lấy cái xe, ấy thế mà chỉ đậu được ba ngày rưỡi, chẳng khác gì bọn chuyên đi nếm cơm thiên hạ. Điểu đó khiến anh ta rất buồn. Anh ta thấy hầu như không còn mặt mũi nào mà bước vào hãng Nhân Hòa nữa, để cho người ta đem ra làm trò cười: "Đấy, thằng Tường lạc đà cũng chỉ được ba ngày có lẻ là phải chuồn! Hừ!".
Không về hãng Nhân Hòa thì còn đi đâu được? Để khỏi phải nghĩ ngợi loanh quanh về chuyện ấy mãi, anh ta đi thẳng tới đại lộ Cửa Tây An. Mặt
trước hãng Nhân Hòa là ba gian cửa hàng, gian giữa là quầy thu tiền, anh em phu xe chỉ được phép vào đó nộp tiền hoặc giao dịch công việc, chứ không được phép tự tiện đi quá vào trong, vì hai gian bên cạnh là phòng ngủ của hai cha con lão Tư Lưu. Cạnh gian bên trái là cổng xe ra vào, hai cánh sơn xanh, phía trên có một thanh sắt to tướng bẻ cong xuống, treo lủng lẳng một ngọn đèn điện rất sáng, không có chao. Dưới ngọn đèn điện treo bốn chữ sắt sơn nhũ "Hãng xe Nhân Hòa". Anh em phu xe cho xe ra xe vào và đi lại đều qua cổng này. Màu sơn xanh thẫm ở cánh cổng, cùng với bốn chữ vàng kia lấp lánh dưới ánh đèn điện sáng choang; ra vào lại toàn những chiếc xe rất đẹp, sơn đen, sơn vàng, bóng lộn, đệm tựa thì trắng toát, đến cả anh em phu xe cũng cảm thấy đôi chút kiêu hãnh, dường như tự cho mình là quý tộc trong hàng phu xe. Qua cổng lớn, qua gian nhà bến trái quay mặt ra phố là đến cái sân lớn vuông vức, giữa có mấy cây hoè già. Mấy gian nhà mé đông và mé tây đều không có tường phía mặt trước, là nơi để xe. Căn nhà mé nam và mấy gian nhà nhỏ bao quanh mảnh sân sau căn nhà mé nam kia là nơi phu xe ở.
Lúc đó khoảng hơn mười một giờ, Tường nhìn thấy ngọn đèn sáng choang và cô đơn trên cổng xưởng xe Nhân Hòa. Quầy thu tiền và gian nhà phía bên tay trái vẫn còn sáng. Anh ta biết ả Nĩu chưa ngủ. Anh ta rón rén đi tới, không muốn để cho ả trông thấy. Chính vì hằng ngày ả vẫn có ý nể anh ta, nên anh ta không muốn ả là người đầu tiên thấy sự thất bại của mình.
Anh ta vừa kéo xe qua dưới cửa sổ phòng ả, thì ả đã từ trong cổng đi ra:
- Ơ, anh Tường... sao...
Ả định hỏi tiếp, nhưng thấy Tường có vẻ ủ rũ, trên xe lại có cả chăn nệm, ả liền ngừng lại.
Sợ cái gì thì gặp cái ấy, Tường vừa ngượng vừa bực, đứng dừng lại, đờ người không nói được câu nào. Anh ta cứ nhìn ả chằm chằm. Ả hôm nay trông cũng có vẻ khác, không hiểu vì ánh đèn hay có đánh phấn mà mặt ả trắng hơn mọi ngày nhiều. Mặt trắng nên đã che lấp được rất nhiều vẻ dữ tợn. Môi thì rõ ràng là có thoa chút son, khiến ả có phần duyên dáng hơn. Thấy thế, Tường rất lấy làm lạ, trong lòng càng bối rối, bởi vì thường ngày anh ta không hề coi ả là đàn bà, nay bỗng thấy đôi môi đỏ chót, anh ta hơi mất tự nhiên. Ả mặc áo lụa ngắn màu xanh lá mạ, quần cẩm châu xanh thẫm, rộng ống. Dưới ánh đèn, chiếc áo lụa trông mềm mại, nhàn nhạt, vì ngắn nên để lòi tí cạp quần màu trắng, làm cho màu xanh lại càng thêm nổi. Chiếc quần rộng màu sẫm, gió thổi phơ phất, trông có vẻ hơi tối, dường như muốn tránh ánh đèn sáng choang kia mà hòa lẫn với bóng đêm. Tường không dám nhìn nữa, thẫn thờ cúi đầu xuống, trong óc còn lởn vởn hình ảnh chiếc áo lụa xanh bóng, ngắn cũn cỡn. Anh biết xưa nay ả Nĩu không hề diện như thê. Với gia tư nhà lão Tư Lưu, ả vốn có thể; nhưng cả ngày giao thiệp với anh em phu xe, nên ả chỉ mặc quần áo vải thôi, nếu là vải hoa thì cũng chọn thứ không sặc sỡ quá. Tường như thấy một cái gì lạ lắm; vừa quen thuộc, mà lại vừa lạ lùng, nên anh ta trong lòng hơi bối rối.
Vốn đang buồn, lại gặp cái của mới mẻ lạ lùng kia dưới ánh đèn sáng quắc, anh ta chẳng biết xử trí ra sao. Anh ta không muốn nhúc nhích, mà muốn ả Nĩu mau mau đi vào nhà, hoặc sai bảo anh ta làm việc gì. Anh ta hầu như không thể chịu đựng được sự giày vò chẳng ra thế nào cả mà khó chịu vô cùng.
Ả Nĩu lại gần, không nói to lắm:
- Này, sao đứng đờ ra thê? Vào cất xe đi, rồi mau mau quay lại đây. Có chuyện này nói với anh! Vào trong nhà nhé!
Thường ngày làm giúp ả công việc đã quen, anh ta đành phải nghe theo. Nhưng hôm nay ả khác hẳn ngày thường, nên anh ta rất muốn nghĩ xem đã. Cứ đứng đấy mà nghĩ càng thấy ngượng nghịu khó chịu; anh ta không biết làm thế nào, đành cho xe vào vậy. Nhìn gian nhà phía nam, thấy không có ánh đèn, chắc là đã ngủ cả rồi, có khi còn có người chưa cho xe về cũng nên. Cất xe xong, anh ta quay lên, đến trước cửa phòng ả Nĩu, bỗng anh ta thấy trống ngực đập thùm thụp.
- Vào đây! Có chuyện này cẩn nói với anh!
Ả thò đầu ra nói, nửa cười cợt, nửa nũng nịu.
Tường chậm rãi bước vào.
Trên bàn có mấy quả lê chưa chín lắm, vỏ còn xanh, một bình rượu, ba chiếc chén sứ trắng, một mâm cơm lớn bày nửa con gà quay xì dầu, và mấy món gan nướng, lòng xào v.v...
Ả chỉ cho anh ta một cái ghế, đợi anh ta ngồi xuống rồi mới nói:
- Này, hôm nay tôi ăn khao đấy. Anh cũng ăn một chút đi!
Nói xong, ả rót cho Tường một chén rượu. Mùi cay của rượu trắng, pha lẫn mùi thịt quay, thơm phức.
- Uống đi, ăn thịt gà đây này! Tôi ăn rồi, đừng đế phần tôi nữa! Tôi vừa lấy quân mạt chược bói một quẻ, biết là anh về, thế có nghiệm không?
Tường thẫn thờ nhìn chén rượu:
- Tôi không uống rượu đâu!
- Không uống thì đi đi! Người ta có lòng tốt, lại không ưng là làm sao? Ngốc ơi là ngốc. Cay không chết được đâu? Tôi cũng còn uống được bốn lạng10 nữa là! Không tin, xem đây này! - Ả nhấc chén rượu tợp một ngụm hết già nửa, nhắm mắt khà một tiếng, rồi giơ chén ra - Uống đi! Không uống tôi đè xuống đổ vào miệng đấy!
Tường đang tức anh ách, chưa làm sao cho hả được, bây giờ lại gặp phải cái trò khỉ này, thật chỉ muốn gây chuyện với ả một phen. Nhưng anh ta biết, xưa nay ả đối với mình rất tốt, mà đối với ai ả cũng xởi lởi như thế cả, chẳng nên làm ả giận. Anh ta nghĩ lại, không làm ả giận thì chi bằng thẳng thắn kể luôn cho ả nghe những điều uất ức trong lòng vậy! Anh ta vốn ít nói, nhưng hôm nay, hình như có hàng trăm hàng vạn mớ lời chất chứa trong lòng, không nói không chịu được. Nghĩ thế, anh ta thấy rằng ả không hề có ý trêu ghẹo mình, mà thành thực có quý mến mình. Anh ta đỡ lấy chén rượu, uống cạn. Chất cay, từ từ chảy xuống dạ dày, rõ ràng lắm, đến đâu biết đến đó. Anh ta đưa cổ ra, ưỡn thẳng ngực, nuốt ực liền hai cái vẻ khó khăn.
Ả Nĩu phá lên cười. Anh ta khổ sở lắm mới nuốt trôi ngụm rượu. Nghe ả cười, anh ta vội đưa mắt nhìn sang gian buồng phía đông.
Ả không cười nữa, nhưng mặt vẫn tươi roi rói:
Không có ai cả. Ông già đi mừng thọ bà cô tôi rồi. Cũng mất hai ba ngày. Bà cô ở tận Nam Uyển cơ.
Vừa nói ả vừa rót cho Tường một chén rượu nữa, đầy tràn.
Nghe thấy thế Tường bỗng cảm thấy dường như có chuyện gì không được chính đáng lắm. Đồng thời, anh ta lại tiếc rẻ không muốn bỏ đây mà đi. Mặt ả gần sát mặt anh ta thế kia, quần áo ả sạch sẽ trơn tru thế kia, môi ả đỏ thế kia, tất cả khiến anh ta cảm thấy như một thứ kích thích mới mẻ. Ả vẫn xấu lắm, nhưng so với ngày thường thì tươi tắn hơn, trông khác hẳn. Tuy vẫn là ả, nhưng có thêm được một cái gì. Anh ta không dám suy nghĩ tỉ mỉ hơn về những cái mới mẻ đó, ngay lúc đó không dám tùy tiện nhận, nhưng cũng không đành lòng từ chối. Mặt anh ta đỏ lên. Dường như để được can đảm hơn, anh ta lại tợp một ngụm rượu nữa. Lúc nãy, anh ta định kể cho ả nghe những nỗi bực dọc của mình nhưng bây giờ anh ta quên bẵng mất. Mặt đỏ nhừ, bất giác anh ta đưa mắt nhìn ả mấy cái. Càng nhìn, anh ta càng lúng túng. Mỗi lúc ả lại để lộ thêm những điểm gì đó nóng hôi hổi truyền sang anh ta. Dần dần ả biến thành một cái gì đó rất trừu tượng. Anh ta tự nhủ cần phải cẩn thận, nhưng lại thấy cần phải mạnh dạn lên. Anh ta uống liền ba chén rượu nữa, và quên mất thế nào là giữ gìn. Anh ta mơ mơ màng màng nhìn ả, không hiếu tại sao lại cảm thấy thích thú và mạnh bạo hẳn lên. Phải can đảm chộp ngay lấy cơ hội để cho biết mùi đời, để hưởng một chút khoái lạc. Ngày thường, anh ta hơi sợ ả, nhưng bây giờ ả không còn gì là đáng sợ cả. Ngược lại, anh ta trở thành một con người có uy thế,
có sức mạnh, tựa hồ có thể bắt lấy ả như bắt một con mèo. Đèn trong phòng tắt.
Hôm sau, Tường dậy rất sớm, kéo xe đi ra liền. Đầu hơi váng và cổ họng hơi đau, đó là vì lần đầu tiên uổng rượu, nên anh ta cũng chẳng chú ý đến. Anh ta ngồi trong ngõ hẻm, gió sớm nhè nhẹ phả vào mặt. Anh ta biết, váng đầu một tí rồi khỏi ngay. Nhưng có một tâm sự khác, làm cho anh ta buồn bực khó chịu, không sao dứt ra được. Việc đêm qua khiến anh ta nghi ngại, xấu hổ, khó chịu, và cảm thấy có phần nguy hiểm.
Anh ta chẳng hiểu ả Nĩu ra làm sao cả. Từ lâu ả không còn trinh tiết nữa. Mấy giờ đồng hồ trước đây, Tường mới biết. Trước nay anh ta vẫn kính trọng ả, và chưa nghe ai nói ả lăng nhăng bậy bạ bao giờ. Mặc dù đối với mọi người ả đều rất tự nhiên, xởi lởi, nhưng sau lưng ả, không ai bàn tán dị nghị gì cả. Dù có anh em phu xe nào đó nói xấu ả, thì cũng chỉ là kêu ả là tay đáo để, chứ chẳng phải là chuyện gì kia khác. Thế thì tại sao lại có cái chuyện đêm qua? Thật là khó hiểu và Tường cũng đâm ra nghi ngờ cả Tường. Biết anh ta không ở hãng nữa, vậy sao ả cứ một mực chờ anh ta? Giả dụ bất cứ ai cũng được cả thì sao?... Tường cúi đầu xuống. Anh ta từ thôn quê lên, tuy từ trước nay chưa tính chuyện vợ con, nhưng không phải trong bụng không hề nghĩ đến. Giả dụ anh ta đã có được xe riêng, làm ăn mát mặt hơn một chút, và muốn lấy vợ thì anh ta sẽ về quê cưới một cô gái mới lớn lên, khỏe mạnh, chịu thương chịu khó, biết làm ăn. Những anh chàng trạc tuổi anh ta ai mà chẳng lén lút đi nhà thổ, dù cho người cai quản kiềm chế hẳn hoi. Tường thì không hề đua đòi theo bọn họ, một là anh ta tự cho mình là người muốn khấn khá lên, không thể đem tiền cúng cho gái; hai là, chính bản thân anh ta đã từng trông thấy những thằng ngốc chỉ mới mười bảy mười tám tuổi đầu, mất tiền toi để rồi gục đẩu vào tường nhà xí mà chẳng đái ra được một giọt. Cuối cùng, anh ta có giữ gìn, không bừa bãi mới khỏi phụ lòng người vợ mai sau, bởi vì đã lấy vợ, tất phải lấy một cô gái trong sạch, vì thế mình cũng phải trong sạch mới được. Nhưng bây giờ, bây giờ... nghĩ đến ả Nĩu, nếu coi ả là bạn thôi, thì quả ả là một người bạn tốt; coi ả là đàn bà thì ả quả là một người đàn bà xấu, già, đáo để, không biết xấu hổ. Nghĩ đến bọn lính đã ăn cướp xe của anh ta, và suýt nữa thì làm
"""