"
Tù Nhân Thành Zenda - Anthony Hope & Lê Đình Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tù Nhân Thành Zenda - Anthony Hope & Lê Đình Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÙ NHÂN THÀNH ZENDA • The Prisoner Of Zenda • —★—
Tác giả: Anthony Hope
Người dịch: Lê Đình Chi
Phát hành: Nhà xuất bản Phụ Nữ 2015ebook©vctvegroup
CHƯƠNG 1
Dòng họ Rassendyll - cùng vài lời về gia tộc Elphberg
“Tôi không biết đến bao giờ chú mới chịu làm gì đó trong đời hả Rudolf?” - Chị dâu tôi hỏi.
“Chị Rose yêu quý,” - tôi vừa trả lời vừa đặt chiếc thìa ăn trứng xuống - “sao em lại phải làm gì đó trong đời chứ? Cuộc sống hiện tại của em rất thoải mái. Em có thu nhập gần đủ cho nhu cầu của mình (mà chị biết đấy, chẳng có thu nhập của ai là đủ bao giờ cả), em có một vị trí xã hội đáng ước ao: là em trai Lord Burlesdon, và là em chồng của vị phu nhân duyên dáng, nữ bá tước của anh ấy. Chị thấy đó, vậy là đủ rồi!”
“Chú hai mươi chín tuổi rồi đấy,” - chị dâu tôi nhận xét - “và chú chưa bao giờ làm gì ngoài...”
“Ăn không ngồi rồi phải không nào? Quả có vậy thật. Gia đình chúng ta không cần phải làm việc này việc nọ.”
Nhận xét này của tôi làm chị Rose phật ý, vì ai cũng biết (và vì thế chẳng có gì hại khi đề cập tới thực tế này) cho dù chị xinh đẹp và hoàn hảo, gia đình chị cũng khó lòng được coi là sở hữu cùng địa vị như dòng họ Rassendyll. Ngoài sự hấp dẫn của bản thân, chị dâu tôi còn sở hữu một tài sản lớn, và ông anh Robert của tôi thì đủ khôn ngoan để không bận tâm nhiều đến các bậc tiền bối của chị. Song kỳ thực các bậc tiền bối đúng là vấn đề trong đó nhận xét tiếp theo của chị Rose chứa đựng ít nhiều sự thật.
“Các danh gia vọng tộc nói chung thường tệ hơn những gia đình khác,” - Chị nói.
Nghe đến đây, tôi đưa tay lên vuốt tóc: tôi biết thừa ý chị muốn ám chỉ điều gì.
“Tôi lấy làm mừng là Robert tóc đen!” - Chị lớn tiếng.
Đúng lúc này, Robert (người dậy lúc bảy giờ và làm việc trước khi ăn sáng) bước vào. Anh tôi đưa mắt nhìn vợ: đôi má chị hơi ửng đỏ; anh tôi trìu mến vỗ nhẹ lên đó.
“Có chuyện gì thế, em yêu?” - Anh hỏi.
“Chị phản đối chuyện em không làm gì và có mái tóc đỏ,” - Tôi nói với giọng tổn thương.
“À phải! Tất nhiên là cậu ấy chẳng thể làm gì với mái tóc của mình,” - Rose thừa nhận.
“Nói chung chuyện này cứ mỗi thế hệ lại xảy đến với một người,” - anh trai tôi nói. - “Với cái mũi cũng thế. Rudolf sở hữu cả hai thứ.” “Em ước gì chúng không nảy ra,” - Rose nói, má vẫn đỏ bừng. “Bản thân em lại thấy thích chúng,” - tôi nói và vừa đứng dậy vừa cúi đầu về phía bức chân dung nữ bá tước Amelia.
Chị dâu tôi kêu lên đầy bực bội.
“Em ước gì anh cất bức tranh đó đi chỗ khác, Robert,” - Chị nói. “Kìa em!” - Anh tôi thốt lên.
“Lạy Chúa lòng lành!” - Tôi chêm vào.
“Như thế người ta có thể quên chuyện đó đi,” - Chị dâu tôi nói tiếp. “Khó lắm - với Rudolf luôn đó,” - Robert vừa nói vừa lắc đầu. “Sao lại phải quên nó đi chứ?” - Tôi hỏi.
“Rudolf!” - Chị dâu tôi gắt lên, má đỏ lựng trông thật đẹp. Tôi bật cười, và tiếp tục thưởng thức quả trứng của mình. Ít nhất tôi cũng đã chống đỡ được câu hỏi liệu tôi cần phải làm gì (nếu có gì đó cần làm thật). Và như thể để khép lại cuộc tranh luận - đồng thời cũng phải thừa nhận nhằm châm chọc bà chị dâu khó tính đáng mến của mình thêm chút nữa - tôi nhận xét:
“Thực ra chính em cũng thích làm một người của nhà Elphberg.” Khi đọc một câu chuyện, tôi luôn bỏ qua những lời giải thích; thế nhưng đến khi bắt đầu viết ra một câu chuyện, tôi lại thấy nhất định mình phải có một lời giải thích. Rõ ràng tôi cần giải thích tại sao chị dâu tôi lại bực mình đến thế với cái mũi và mái tóc tôi sở hữu, cũng như tại sao tôi lại dám mạo muội gọi mình là một người của nhà Elphberg. Vì phải nói rằng
dù dòng họ Rassendyll đã có địa vị thượng lưu qua nhiều thế hệ, song sở hữu dòng máu của nó thoạt nhìn tất nhiên chẳng thể biện minh được cho việc tuyên bố có quan hệ với gia tộc Elphberg hiển quý hơn nhiều hay tuyên bố mình là một thành viên của hoàng tộc này. Vì liệu có thể có mối quan hệ nào giữa Ruritania và Burlesdon, giữa cung điện Strelsau hay lâu đài Zenda với số nhà 305 Park Lane, West chứ?
Chẳng là thế này - và tôi phải thừa nhận mình sắp buộc phải bới lên đúng vụ tai tiếng mà quý phu nhân Burlesdon thân mến ước ao nhận chìm vào quên lãng - vào năm 1733, khi đó đức vua George II đang ngồi trên ngai vàng, thiên hạ đang thái bình, và đức vua cùng Hoàng tử xứ Wales vẫn chưa bất hòa với nhau, có một ông hoàng ghé thăm triều đình nước Anh, người sau này được biết đến trong lịch sử với tư cách đức vua Rudolf Đệ Tam của Ruritania. Hoàng tử là một thanh niên cao ráo, điển trai, được làm nổi bật (hay làm lu mờ bớt, về điều này thì tôi không có tư cách để nói) bởi một cái mũi có phần dài khác thường, sắc sảo và thẳng, cùng mái tóc màu đỏ sẫm - kỳ thực, đó là chiếc mũi và mái tóc đã trở thành dấu ấn của gia tộc Elphberg. Vị hoàng tử nán lại Anh vài tháng, nơi điện hạ được đón tiếp vô cùng lịch thiệp; thế nhưng cuối cùng vị khách hoàng gia lại rời đi trong bối cảnh khá ảm đạm. Vì điện hạ đã quyết đấu (và người đương thời đánh giá điện hạ quả là người đàng hoàng khi dẹp sang bên mọi câu hỏi về địa vị của mình) với một nhà quý tộc, khá nổi tiếng trong giới thượng lưu thời ấy, không phải vì sự xuất chúng của bản thân ông này, mà với tư cách là chồng của một bà vợ cực kỳ xinh đẹp. Trong cuộc quyết đấu, hoàng tử Rudolf nhận một vết thương nghiêm trọng, và sau khi hồi phục, điện hạ được vị đại sứ Ruritania, người cảm thấy hoàng tử quả là một mối phiền phức lớn, khéo léo kín đáo đưa về nước. Nhà quý tộc kia không bị thương trong cuộc quyết đấu; nhưng vì buổi sáng diễn ra cuộc quyết đấu trời khá lạnh và ẩm ướt, ông này bị cảm lạnh nặng, đã qua đời sáu tháng sau khi hoàng tử Rudolf về nước, không kịp có thời gian điều chỉnh mối quan hệ với vợ mình - người hai tháng sau đó sinh hạ một đứa bé thừa kế tước vị và lãnh địa của gia đình Burlesdon. Vị phu nhân kể trên chính là nữ bá tước Amelia, người có bức chân dung mà chị dâu tôi mong muốn gỡ bỏ khỏi phòng tranh tại Park Lane; và chồng bà là James, bá tước Burlesdon đời thứ năm, nam tước Rassendyll đời thứ hai mươi hai, cả hai tước hiệu đều hiện diện trong Danh sách quý tộc nước Anh, đồng thời cũng được tặng
huân chương Hiệp sĩ Dòng Garter. Về phần Rudolf, hoàng tử quay về Ruritania, cưới vợ, lên ngôi, và từ đó hậu duệ ngành trưởng trực hệ của ông vẫn tiếp tục ngự trên ngai vàng đến tận bây giờ - với một thời gian gián đoạn ngắn. Cuối cùng, nếu bạn đi dọc theo hành lang treo các bức chân dung tại Burlesdon, trong số chừng năm mươi bức chân dung thuộc về một thế kỷ rưỡi vừa qua, bạn sẽ tìm thấy năm hay sáu bức, trong đó có chân dung vị bá tước đời thứ sáu, nổi bật lên với cái mũi dài, thẳng, sắc sảo và mái tóc dày đỏ sẫm; năm hay sáu bức chân dung này cũng có mắt xanh, trong khi mắt đen là nét chung hay gặp hơn trong dòng họ Rassendyll.
Trên đây là lời giải thích, và tôi lấy làm mừng đã trình bày xong: những vết nhơ trên các dòng dõi danh giá luôn là chủ đề tế nhị, và chắc chắn tính di truyền mà chúng ta vẫn nghe nói đến rất nhiều này chính là kẻ chế chuyện ngồi lê đôi mách tinh tế nhất trên đời, luôn kín đáo cười nhạo báng và viết xen những ghi chú lạ lùng vào giữa các dòng trong bản Danh sách quý tộc.
Có thể thấy là chị dâu tôi, với một thói vô lý hẳn là đặc trưng riêng của chị (vì giờ đây chúng ta không còn được phép quy nó cho giới tính của chị nữa), nhìn nhận mái tóc của tôi gần như một sự xúc phạm mà tôi là kẻ phải chịu trách nhiệm, rồi từ đó hối hả đi tới suy đoán rằng vẻ bề ngoài này chính là dấu hiệu của những đặc tính bên trong mà tôi phải hoàn toàn khẳng định mình không hề có; và chị đang cố gắng chống đỡ cho lối suy diễn bất công này bằng cách chỉ trích cuộc sống vô tích sự tôi đang trải qua. Kỳ thực, nói gì thì nói, tôi đã tìm được rất nhiều niềm vui và cũng chẳng ít kiến thức. Tôi đã học trong một trường phổ thông Đức và một trường đại học Đức, vì thế có thể nói tiếng Đức cũng trơn tru hoàn hảo như tiếng Anh; tôi hoàn toàn thoải mái với tiếng Pháp, biết lõm bõm chút tiếng Ý và đủ tiếng Tây Ban Nha để chửi thề. Tôi tin mình là một tay kiếm dũng mãnh, dù khó có thể gọi là tinh tế, đồng thời cũng là một tay súng hạng cừ. Tôi có thể cưỡi bất cứ con vật gì có lưng để cưỡi; và cái đầu tôi cũng tỉnh táo bình tĩnh chẳng kém gì ai, bất chấp lớp phủ rực lửa bên trên nó. Nếu bạn nói tôi cần phải dành thời gian vào những lao động hữu ích, tôi quả là không thích hợp và chẳng có gì để nói ngoài việc cha mẹ tôi đã không làm gì để truyền lại cho tôi hai nghìn bảng mỗi năm và tính khí thích rong chơi.
“Sự khác biệt giữa chú và Robert,” - chị dâu tôi nói, chị thường nói khi đứng trên bục diễn thuyết (Chúa ban phước cho chị!), và còn thường xuyên
hơn thế như thể chị đang ở trên bục diễn thuyết - “là việc anh ấy nhận ra những bổn phận gắn liền với địa vị của mình, còn chú nhìn thấy những cơ hội của chú.”
“Với một người có tinh thần, chị Rose yêu quý,” - tôi đáp - “các cơ hội cũng là những bổn phận.”
“Vớ vẩn!” - chị lắc đầu, rồi lại tiếp tục sau giây lát - “Thế này nhé, vừa khéo có Sir Jacob Borrodaile đang sẵn lòng dành cho chú đúng thứ có lẽ thích hợp với chú đấy.”
“Xin nghìn lần cảm tạ!” - Tôi lẩm bẩm.
“Ông ấy sẽ nhận chức đại sứ sau sáu tháng nữa, và Robert nói anh ấy tin chắc ông sẽ nhận chú làm một tùy viên. Nhận lấy vị trí này đi, Rudolf, cho tôi vui lòng.”
Đến lúc này, khi chị dâu tôi đã đặt vấn đề theo cách đó, hơi cau đôi lông mày duyên dáng, vặn vẹo hai bàn tay nhỏ nhắn của chị, kèm theo vẻ phiền muộn mỗi lúc một đậm hơn trong mắt, tất cả đều chỉ vì một anh chàng vô công rồi nghề như tôi, một người dĩ nhiên mà nói chị không hề phải có chút trách nhiệm nào, tôi liền thấy áy náy. Hơn thế, tôi nghĩ rất có thể tôi sẽ trải qua thời gian trên cương vị được đề nghị với nhiều điều thú vị. Vì thế tôi liền nói:
“Chị yêu quý, nếu trong sáu tháng nữa không có trở ngại bất ngờ nào xuất hiện, và Sir Jacob ngỏ lời đề nghị với em, xin cứ treo cổ em lên nếu em không đi cùng ông ấy!”
“Ôi, Rudolf, chú thật tốt quá! Chị mừng lắm!”
“Ông ấy sẽ đi đâu vậy?”
“Ông ấy vẫn chưa biết; nhưng chắc đó sẽ là một chức đại sứ tốt.” “Thưa phu nhân,” - tôi nói - “vì bà tôi sẽ đi, dù đó chỉ là một chức công sứ rách như ăn mày. Khi tôi đã làm gì, tôi sẽ không làm nửa vời.” Vậy là tôi đã hứa; nhưng sáu tháng vẫn cứ là sáu tháng, dài chẳng khác gì vĩnh cửu, thế nên trong lúc chúng nằm trải ra giữa tôi và trách nhiệm tương lai của tôi (tôi đoán các tùy viên có trách nhiệm nào đó; nhưng là gì thì tôi không rõ, vì tôi chưa bao giờ làm tùy viên cho Sir Jacob hay bất cứ ai), tôi liền tìm một cách hay ho để tận dụng quãng thời gian này. Và một ý nghĩ chợt nảy ra thật tình cờ là tôi muốn đi thăm Ruritania. Có vẻ cũng lạ khi tôi chưa bao giờ đến thăm đất nước này; nhưng cha tôi (bất chấp thiện
cảm lén lút dành cho gia tộc Elphberg, điều đã dẫn ông tới chỗ đặt cho tôi, cậu con trai thứ hai của ông, cái tên nổi tiếng Rudolf của hoàng tộc kể trên) vẫn luôn phản đối không cho tôi đi, và kể từ khi cha tôi qua đời, anh trai tôi, dưới tác động của Rose, đã chấp nhận truyền thống gia đình dạy rằng cần tránh cho xa đất nước này. Nhưng một khi Ruritania đã len lỏi vào đầu óc tôi, tôi trở nên cồn cào vì tò mò muốn tận mắt nhìn thấy nó. Nói cho cùng, những mái tóc đỏ và những cái mũi dài đâu phải độc quyền của nhà Elphberg, câu chuyện cũ rích kia có vẻ là một lý do cực kỳ thiếu thuyết phục để cản trở tôi làm quen với một vương quốc rất thú vị và quan trọng, đất nước đã đóng một vai trò không hề nhỏ trong lịch sử châu Âu, và rất có thể sẽ tái hiện điều đó dưới sự dẫn dắt của một vị nguyên thủ trẻ trung đầy nhiệt huyết, như người ta vẫn đồn đại về quốc vương mới. Quyết tâm của tôi càng được khẳng định thêm khi đọc được trên tờ The Times tin Rudolf Đệ Ngũ sắp sửa đăng quang tại Strelsau trong vòng ba tuần nữa, buổi lễ sẽ được cử hành vô cùng long trọng. Tôi lập tức quyết định sẽ có mặt tại đó, và chuẩn bị lên đường. Nhưng dù tôi chưa bao giờ có thói quen cung cấp cho người thân biết thông tin về các chuyến đi của mình, và trong trường hợp này tôi đã lường trước sẽ gặp phải sự phản đối, tôi vẫn nói lộ ra sẽ chuẩn bị du lịch một chuyến đến Tyrol - một chốn tới lui quen thuộc của tôi - đồng thời làm dịu cơn bực bội của Rose bằng cách tuyên bố tôi dự định nghiên cứu các vấn đề chính trị và xã hội của cộng đồng cư dân rất đáng quan tâm sinh sống tại khu vực này.
“Có lẽ,” - tôi lấp lửng - “biết đâu lại chẳng có thành quả từ chuyến đi này.”
“Ý chú là sao?” - Chị hỏi.
“À,” - tôi dửng dưng đáp - “dường như có một khoảng trống có thể được bổ khuyết thông qua việc tìm hiểu thấu đáo về...”
“Ôi! Chú sẽ viết một cuốn sách ư?” - Chị reo lên, hân hoan vỗ tay. - “Thế thì tuyệt quá, phải không nào, Robert?”
“Đó là cách giới thiệu bản thân tốt nhất để bước vào chính giới ngày nay,” - anh trai tôi nhận xét, nhân tiện cũng xin nói luôn anh đã giới thiệu bản thân theo cách này vài lần. Burlesdon trong các Luận thuyết cổ và Thực tế hiện đại và Thành quả tối hậu, từ một sinh viên chính trị, cả hai đều là những tác phẩm có tiếng tăm được thừa nhận.
“Em tin là anh có lý, Bob thân mến,” - Tôi nói.
“Vậy hãy hứa chú sẽ viết đi,” - Rose chân thành nài nỉ.
“Không, em sẽ không hứa; nhưng nếu tìm đủ tư liệu thú vị, em sẽ viết.” “Thế cũng phải,” - Robert nói.
“Ồ, tư liệu không phải là vấn đề ở đây!” - Chị dâu tôi phụng phịu. Nhưng lần này chị không thể dành được từ tôi nhiều hơn một lời hứa có điều kiện. Nói thật lòng, tôi hẳn đã cược một món tiền kha khá rằng câu chuyện về chuyến du lịch hè năm đó của tôi sẽ chẳng làm tốn lấy một trang giấy hay một ngòi bút nào. Và điều đó cho thấy chúng ta biết ít đến chừng nào về những gì nằm trong tương lai; vì lúc này đây, trung thành với lời hứa có điều kiện của mình, tôi đang ngồi và viết một cuốn sách, điều tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ làm - dù cuốn sách này khó lòng đóng được vai trò làm lời giới thiệu để bước vào đời sống chính trị, và cũng chẳng có gì liên quan tới Tyrol.
Tôi e nó cũng sẽ không làm phu nhân Burlesdon hài lòng nếu tôi đưa cuốn sách ra dưới đôi mắt đầy phê phán của chị - một điều tôi không hề có ý định thực hiện.
CHƯƠNG 2
Về màu tóc của một quý ông
Bác William của tôi có một tôn chỉ là không ai ghé qua Paris mà không dành lấy hai mươi bốn giờ nán lại nơi này. Ông đưa ra tuyên bố của mình từ vốn trải đời chín chắn, còn tôi tôn vinh lời khuyên của ông bằng cách nán lại một ngày và một đêm tại khách sạn The Continental trên đường đến... Tyrol. Tôi ghé thăm George Featherly ở sứ quán, rồi hai chúng tôi ăn chiều tại nhà hàng Durand, sau đó tới nhà hát Opera; tiếp theo, hai chúng tôi có một bữa tối nhẹ, rồi tới thăm Bertram Bertrand, một thi sĩ cũng có chút tiếng tăm và là phóng viên thường trú tại Paris của tờ The Critic. Anh có một căn hộ vô cùng tiện nghi, chúng tôi gặp gỡ tại đó vài nhân vật dễ mến đang vừa hút thuốc vừa trò chuyện. Tuy nhiên, tôi nhận thấy bản thân Bertram lại có vẻ lơ đãng và hơi ủ dột, vậy nên khi chỉ còn lại hai chúng tôi với nhau, tôi liền đùa anh về vẻ thẫn thờ rầu rĩ đó. Chàng thi sĩ cự lại tôi một hồi, song cuối cùng đành vừa gieo mình xuống một chiếc xô pha vừa thốt lên:
“Được rồi; cậu thắng rồi. Tôi đang yêu, đang phát điên vì yêu đó!” “À, thế thì thơ cậu sẽ càng hay hơn,” - Tôi nói với giọng an ủi. Anh bạn tôi vò đầu và hút thuốc dữ dội. George Featherly, đang đứng tựa lưng vào bệ lò sưởi, mỉm cười ranh mãnh.
“Nếu là mối tình xưa đó,” - anh này nói - “cậu có thể quẳng nó đi được rồi, Bert. Ngày mai cô nàng sẽ rời Paris.”
“Tôi biết,” - Bertram cấm cẳn.
“Mà dù cô nàng có ở lại thì cũng đâu có gì khác biệt,” - anh chàng George không chút thương hại tiếp tục. - “Cô nàng đòi hỏi cao hơn các chàng cạo giấy, chàng trai của tôi ơi!”
“Quỷ bắt nàng đi!” - Bertram nói.
“Có thể tôi sẽ thấy quan tâm hơn,” - tôi dè dặt ngỏ ý - “nếu tôi biết các cậu đang nói về ai.”
“Antoinette Mauban,” - George nói.
“De Mauban,” - Bertram gằn giọng.
“Ái chà!” - tôi thốt lên, bỏ qua chữ “de” kia. “Không phải ý cậu là, Bert...?”
“Các người không thể để tôi yên được sao?”
“Cô nàng đi đâu vậy?” - Tôi hỏi, vì quý cô này cũng là một nhân vật có tiếng tăm.
George tung xủng xẻng những đồng xu của anh ta, mỉm cười nhìn Bertram khốn khổ thật tàn nhẫn, và khoái trá trả lời:
“Chẳng ai biết cả. Nhân tiện đây, Bert, tôi đã gặp một nhân vật xuất chúng tại nhà cô ta vào một buổi tối - ít nhất là một, chừng một tháng trước. Cậu đã bao giờ gặp ông ta chưa - công tước Strelsau ấy?” “Có, tôi gặp rồi,” - Bertram gắt lên.
“Tôi nghĩ ông ta là một người cực kỳ hoàn hảo.”
Chẳng khó để thấy những lời George nhận xét về ngài công tước là nhằm giày vò anh chàng Bertram khốn khổ thêm nữa, vì thế tôi đi tới suy đoán rằng vị công tước nọ đã để mắt tới quý bà de Mauban. Người phụ nữ này là một bà góa giàu có, xinh đẹp và theo như tiếng tăm được đồn đại, đầy tham vọng. Hoàn toàn có thể là cô này, theo như George nói, đang bay cao ngang với một nhân vật là mọi thứ anh ta có thể là, ngoại trừ sở hữu một địa vị hoàng gia theo nghĩa chặt chẽ: vì công tước là con trai đức vua đã quá cố của Ruritaria trong cuộc hôn nhân thứ hai không môn đăng hộ đối, và là em cùng cha khác mẹ với vị vua mới. Công tước vốn là con yêu của tiên vương, và từng có những bình phẩm không hài lòng khi ông ta được phong công tước, với danh hiệu của tước phong là thủ đô chứ không phải thành phố nào khác. Mẹ công tước có xuất thân tốt, nhưng không cao quý.
“Hiện không phải ông ta đang ở Paris chứ?” - Tôi hỏi.
“Ồ không! Ông ta đã về nước dự lễ đăng quang của nhà vua; một buổi lễ mà tôi xin nói là ông ta sẽ chẳng mấy thích. Nhưng Bert, anh bạn thân
mến ơi, đừng thất vọng! Ông ta sẽ không cưới người đẹp Antoinette đâu - ít nhất là trừ khi một kế hoạch khác chẳng đi tới đâu cả. Nhưng cô nàng vẫn có thể...” George ngừng lại, rồi nói thêm và bật cười: “Ân sủng hoàng gia quả là khó cưỡng - cậu biết điều đó mà, phải không Rudolf?”
“Quỷ bắt cậu đi!” - tôi nói, rồi tôi đứng dậy bỏ mặc anh chàng Bertram khốn khổ trong tay George, về lên giường ngủ.
Ngày hôm sau, George Featherly đi cùng tôi tới nhà ga, tại đó tôi mua một vé đi Dresden.
“Đi chiêm ngưỡng các bức tranh hả?” - George vừa hỏi vừa cười nhăn nhở.
George là một kẻ buôn chuyện, và nếu tôi cho anh ta biết mình lên đường tới Ruritania, tin này hẳn sẽ tới London sau ba ngày và chỉ sau một tuần là sẽ đến tận Park Lane. Vì thế, tôi đang định đáp lại bằng một câu đánh trống lảng thì anh ta giúp lương tâm tôi thoát khỏi gánh nặng khi đột ngột rời khỏi tôi và lao vụt đi chạy dọc qua ke ga. Đưa mắt nhìn theo, tôi thấy George nhấc mũ lên tới chào một phụ nữ duyên dáng mặc hợp thời trang vừa từ phòng vé đi ra. Người thiếu phụ có lẽ đã qua tuổi ba mươi một hay hai năm, cao ráo, tóc đen, có đường nét khá đầy đặn. Trong lúc George nói chuyện, tôi thấy thiếu phụ liếc mắt nhìn mình, lòng tự tôn phù phiếm của tôi bị tổn thương trước ý nghĩ rằng trong cảnh quấn kín một cái áo khoác lông thú và tấm choàng cổ (vì hôm ấy là một ngày tháng Tư lạnh giá), đầu đội mũ mềm đi đường kéo sụp xuống tận tai, hẳn trông tôi kém xa mức khá nhất của mình. Một khoảnh khắc sau, George đã lại ở cạnh tôi.
“Cậu có một người bạn đường thật quyến rũ,” - anh ta nói. “Chính là vị nữ thần của anh chàng Bert Bertrand tội nghiệp kia, Antoinette de Mauban, cũng như cậu, nàng tới Dresden - và, không nghi ngờ gì nữa, cũng để chiêm ngưỡng các bức tranh. Tuy vậy, kể cũng lạ là hiện tại cô nàng không khao khát hân hạnh được làm quen với cậu.”
“Tôi không hề yêu cầu được giới thiệu,” - Tôi nhận xét, ít nhiều thấy khó chịu.
“À, tôi đề nghị dẫn cậu tới gặp nàng, nhưng cô nàng đã nói, “Để lần khác.” Đừng bận tâm, anh bạn thân mến, biết đâu sẽ có một vụ tai nạn, rồi cậu sẽ có cơ hội cứu nàng và loại công tước Strelsau khỏi cuộc chơi!”
ẳ
Tuy nhiên, chẳng có tai nạn nào xảy đến với tôi hay phu nhân de Mauban. Tôi có thể nói về cô này cũng tự tin như về mình, vì sau một đêm nghỉ lại Dresden, tôi tiếp tục chuyến đi của mình, người thiếu phụ lại lên chuyến tàu cũ. Hiểu cô muốn được yên một mình, tôi cẩn thận tránh xa cô, nhưng tôi vẫn thấy cô đi cùng tuyến đường với mình cho tới tận cuối hành trình của tôi, và tôi tận dụng cơ hội để quan sát kỹ người thiếu phụ mà không bị phát hiện.
Ngay khi chúng tôi tới biên giới Ruritania (tại đây viên sĩ quan già phụ trách trạm hải quan hân hạnh dành cho tôi một cái nhìn chằm chặp tới mức tôi cảm thấy chắc chắn hơn trước về diện mạo đậm chất Elphberg của mình), tôi mua báo, tìm thấy trong đó tin tức ảnh hưởng tới chuyện đi lại của mình. Vì một lý do không được giải thích rõ, và có vẻ là một chuyện bí mật, thời điểm của lễ đăng quang đã đột ngột được đẩy sớm lên, buổi lễ sẽ diễn ra chỉ sau hai ngày nữa. Có vẻ cả nước đều xôn xao vì việc này, hiển nhiên là Strelsau đông nghịt người. Tất cả các phòng trọ đều được đặt kín, các khách sạn quá tải; tôi sẽ có rất ít cơ hội tìm được một chỗ trọ, và chắc chắn nếu có sẽ phải trả một mức giá quá quắt. Tôi quyết định dừng lại ở Zenda, một thị trấn nhỏ cách thủ đô năm mươi dặm, cách biên giới chừng mười dặm. Chuyến tàu của tôi tới đó vào buổi tối; tôi sẽ dành ngày hôm sau, thứ Ba, tha thẩn đi dạo trên các ngọn đồi, vốn được khen là rất đẹp, nhân tiện thăm qua tòa lâu đài nổi tiếng, rồi đi tàu hỏa tới Strelsau vào sáng thứ Tư, đến tối lại trở về Zenda ngủ.
Theo đúng dự định, tôi xuống tàu ở Zenda, và khi đoàn tàu chạy lướt qua nơi tôi đứng trên ke ga, tôi thấy người bạn đường của mình, phu nhân de Mauban ngồi nguyên trên ghế; rõ ràng người thiếu phụ sẽ đi thẳng tới Strelsau, vì, nhìn xa trông rộng hơn so với những gì tôi có thể tự phụ về mình, cô hẳn đã giữ sẵn chỗ lưu trú tại đó. Tôi mỉm cười thầm nghĩ George Featherly sẽ kinh ngạc thế nào khi biết cô và tôi đã là bạn đường trên quãng đường dài đến thế.
Tôi được chào đón rất niềm nở tại khách sạn - mà thực ra chỉ là một nhà trọ - do một bà già béo tốt và hai cô con gái quản lý. Họ là những người tử tế, ít nói, và có vẻ chẳng mấy quan tâm tới những sự kiện lớn lao sắp diễn ra tại Strelsau. Người hùng của bà chủ là công tước, vì hiện tại ông ta, theo di chúc của tiên vương, là chủ nhân lãnh địa Zenda và tòa lâu đài mọc lên sừng sững trên đỉnh ngọn đồi dốc phía cuối thung lũng, cách
nhà trọ này chừng một dặm. Trên thực tế, bà chủ nhà không hề do dự bày tỏ tiếc nuối về việc công tước không được ngồi lên ngai vàng thay vì anh trai ông.
“Chúng tôi biết công tước Michael,” - bà lão nói. - “Ông ấy luôn sống giữa chúng tôi; mọi người dân Ruritania đều biết công tước Michael. Nhưng nhà vua thì gần như là một người xa lạ; nhà vua đã ở nước ngoài nhiều đến mức tại đây cứ mười người thì thậm chí chưa đến một từng thấy mặt ngài ấy.”
“Và bây giờ,” - một trong hai cô gái trẻ xen vào phụ họa, - “người ta nói nhà vua đã cạo sạch bộ râu của mình, vậy là chẳng ai biết ngài ấy nữa.” “Cạo sạch râu!” - bà mẹ thốt lên. - “Ai nói thế?”
“Johann, người quản lý của công tước. Ông ấy đã thấy nhà vua.” “À, phải. Thưa quý ông, nhà vua lúc này đang ở tại căn nhà đi săn của công tước trong rừng; từ đây ngài sẽ tới Strelsau để đăng quang vào sáng thứ Tư.”
Tôi để tâm khi nghe được chuyện này, và quyết định ngày hôm sau sẽ đi dạo về phía căn nhà đi săn với hy vọng có cơ hội gặp được nhà vua. Bà lão chủ nhà tiếp tục liến thoắng:
“À, và tôi ước gì nhà vua cứ ở lại mà đi săn - thứ đó cùng với rượu vang (và thêm một thứ nữa) là tất cả những gì ngài ấy thích, người ta kể vậy đấy - và để cho công tước của chúng tôi được đăng quang vào thứ Tư. Tôi ước thế đấy, và tôi chẳng quan tâm những ai biết điều đó.”
“Thôi đi mẹ!” - Hai cô con gái nhắc nhở.
“Ôi dào, có khối người cũng nghĩ như tôi đấy!”
Tôi ngả người ra sau trên chiếc ghế bành lún sâu của mình, và bật cười trước thái độ hăng hái của bà lão.
“Về phần con,” - cô trẻ hơn và xinh hơn trong hai cô con gái, một thiếu nữ tóc sáng tròn trịa, tươi cười, lên tiếng, “Con ghét Michael Đen! Con thích một mái tóc đỏ Elphberg cơ, mẹ ơi! Người ta kể nhà vua có mái tóc cũng đỏ như một con cáo hay như...”
Cô gái cười phá lên đầy ranh mãnh trong khi liếc mắt một cái về phía tôi, rồi hếch mặt lên trước vẻ mặt đầy chê trách của cô chị.
“Trước đây đã có bao nhiêu người đàn ông từng nguyền rủa mái tóc đỏ của họ rồi,” - bà chủ nhà lẩm bẩm - và tôi nhớ tới James, bá tước Burlesdon đời thứ năm.
“Nhưng chưa từng có một phụ nữ nào!” - Cô gái kêu lên.
“À, có cả phụ nữ nữa, khi đã quá muộn,” - Câu trả lời nghiêm khắc vang lên, làm cô gái phải đỏ bừng mặt im lặng.
“Nhưng sao nhà vua lại có mặt ở đây?” - tôi hỏi, phá vỡ sự im lặng ngượng ngập. - “Bà vừa nói đây là lãnh địa của công tước cơ mà.” “Thưa ông, công tước mời nhà vua tới nghỉ tại đây cho đến thứ Tư. Công tước đang ở Strelsau chuẩn bị cho buổi tiếp khách của nhà vua.” “Vậy là họ rất thân thiết với nhau?”
“Không thể thân hơn,” - Bà lão đáp.
Nhưng cô bé hồng hào của tôi lại lắc đầu lần nữa; cô không thể bị kiềm chế quá lâu nên lại lên tiếng:
“Vâng, họ yêu quý nhau như những người đàn ông cùng muốn một địa vị và một người vợ!”
Bà lão gầm lên, song những lời nói cuối cùng của cô gái đã kích thích nỗi tò mò của tôi, và tôi can thiệp trước khi bà ta có thể bắt đầu quát nạt: “Cái gì, cùng một người vợ ư! Thế là thế nào, thưa tiểu thư?” “Cả thiên hạ ai chẳng biết Michael Đen - được rồi mẹ, là công tước - sẵn sàng đánh đổi linh hồn mình để cưới em họ ông ấy, công nương Flavia, cũng như việc công nương sẽ trở thành hoàng hậu.” “Quả thực,” - tôi nói - “tôi bắt đầu thấy thương hại cho công tước của quý vị rồi đấy. Nhưng nếu một người đàn ông sinh ra là con trai thứ, sao chứ, anh ta đành nhận lấy những gì người con cả để lại, và cảm thấy biết ơn Chúa hết mức anh ta có thể,” - rồi nghĩ tới bản thân mình, tôi nhún vai, bật cười. Rồi sau đó, tôi nghĩ tới cả Antoinette de Mauban và chuyến đi tới Strelsau của cô này.
“Michael Đen chẳng có mấy dính dáng tới...” - cô con gái bắt đầu lên tiếng thách thức cơn tức giận của bà mẹ, nhưng trong khi cô đang nói dở, một tiếng bước chân nặng nề vang lên trên sàn, và một giọng nói cộc cằn cất lên đầy đe dọa:
“Ai nói tới Michael Đen ngay trên đất phong của điện hạ vậy hả?”
Cô gái trẻ khẽ kêu lên, nửa sợ hãi, nửa thú vị - theo như tôi nghĩ. “Anh sẽ không tố cáo em đấy chứ, Johann?” - Cô này hỏi. “Hãy xem những lời huyên thuyên của con dẫn tới đâu nào,” - Bà lão nói.
Anh chàng vừa lên tiếng bước tới.
“Chúng ta có khách đấy, Johann,” - bà chủ nhà của tôi nói, và chàng trai nhấc mũ lên. Một khoảnh khắc sau, anh ta trông thấy tôi, và trước nỗi kinh ngạc của tôi, anh ta giật mình lùi lại một bước như thể vừa nhìn thấy điều gì đó kỳ diệu.
“Anh làm sao thế, Johann?” - cô con gái cả hỏi. - “Đây là một quý ông đang đi du lịch, tới để xem lễ đăng quang.”
Người đàn ông đã trấn tĩnh lại, nhưng lúc này anh ta nhìn tôi chăm chăm với cái nhìn săm soi, dò xét, gần như hung dữ.
“Chúc anh buổi tối tốt lành,” - Tôi nói.
“Chúc buổi tối tốt lành, thưa quý ông,” - Anh ta lẩm bẩm, vẫn chăm chú nhìn tôi, và cô gái vui tính bắt đầu cười phá lên trong khi gọi anh ta. “Thấy không, Johann, đó là màu anh thích đấy! Anh ấy bắt đầu nhận ra mái tóc của ông đấy, thưa ông. Đó không phải là màu chúng tôi hay thấy nhất ở đây, tại Zenda.”
“Tôi mong ông thứ lỗi, thưa ông,” - anh chàng Johann lắp bắp, với đôi mắt đầy lúng túng. - “Tôi không trông đợi sẽ gặp ai đó.”
“Hãy rót cho anh ấy một ly để uống mừng sức khỏe tôi; và tôi xin chúc anh ngủ ngon, đồng thời cảm ơn bà và hai tiểu thư đây, thưa bà và các quý cô, vì sự lịch thiệp và cuộc chuyện trò vui vẻ.”
Nói xong, tôi đứng dậy, hơi cúi người và quay ra cửa. Cô em gái chạy tới cầm nến soi đường cho tôi, còn chàng trai lùi lại để tôi đi qua, đôi mắt anh ta vẫn nhìn tôi chằm chặp. Khi tôi đi ngang qua trước mặt, anh ta vội bước lên một bước và hỏi:
“Làm ơn cho hỏi, thưa ông, ông có biết đức vua của chúng tôi không?” “Tôi chưa bao giờ thấy nhà vua,” - tôi đáp. - “Tôi hy vọng sẽ có dịp đó vào thứ Tư.”
Johann không nói gì thêm, nhưng tôi cảm thấy đôi mắt anh ta dõi theo tôi cho tới khi cánh cửa đóng lại. Người dẫn đường nhí nhảnh của tôi ngoái
lại nhìn tôi trong khi đi trước dẫn đường lên lầu, nói:
“Chẳng có chuyện anh Johann vui vẻ với một người có màu tóc như ông đâu, thưa ông.”
“Có lẽ anh ta ưa thích màu tóc của cô hơn chăng?” - Tôi gợi ý. “Thưa ông, ý em là ở một quý ông cơ,” - Cô gái trả lời, kèm theo một cái liếc mắt điệu đà.
“Màu tóc thì có quan trọng gì với một người đàn ông chứ?” - Tôi hỏi, cầm lấy mé bên kia của giá cắm nến.
“Không, nhưng em thích màu tóc của ông - đó là màu đỏ của nhà Elphberg.”
“Màu tóc ở một người đàn ông,” - tôi nói, - “chỉ đơn giản là màu tóc mà thôi!” - và đưa cho cô gái thứ gì đó chẳng có giá trị.
“Xin Chúa để cửa nhà bếp khóa kín!” - Cô gái nói.
“Amen!” - Tôi nói, và chia tay cô nàng.
Tuy nhiên, trên thực tế, như hiện giờ tôi biết rõ, màu tóc đôi khi lại có ý nghĩa rất quan trọng với một quý ông.
CHƯƠNG 3
Buổi tối vui vẻ với một người họ hàng xa
Tôi không vô lý tới mức có định kiến với anh chàng quản lý của công tước vì anh ta không thích màu tóc của tôi; và nếu có định kiến đi nữa, thái độ lịch sự và sốt sắng hết mức của anh ta (với tôi thì có vẻ là như vậy) vào sáng hôm sau hẳn cũng đã làm nó tiêu tan hết. Nghe nói tôi định đi Strelsau, Johann tới gặp tôi trong lúc tôi đang ăn sáng và nói rằng anh ta có một bà chị đã kết hôn với một thương gia giàu có sống ở thủ đô, có mời anh ta sử dụng một phòng tại nhà mình. Johann đã vui mừng nhận lời, nhưng bây giờ lại nhận ra bổn phận phải đảm nhiệm không cho phép anh ta vắng mặt tại đây. Vì vậy, anh ta khẩn khoản nài nỉ rằng nếu một chỗ ở khiêm tốn như thế (cho dù sạch sẽ và tiện nghi, anh ta nói thêm) làm tôi hài lòng, tôi có thể thay chỗ anh ta. Anh chàng quản lý cam kết bà chị mình sẽ ưng thuận, đồng thời cũng hăng hái kể lể về nỗi bất tiện cũng như cảnh chen chúc tôi sẽ phải chịu đựng trong hai lượt hành trình tới Strelsau và từ đó trở về nếu đi ngày hôm sau. Tôi chấp nhận đề nghị không chút do dự, vậy là Johann ra về đi gửi điện tín cho người chị, trong khi tôi đóng gói hành lý, chuẩn bị đáp chuyến tàu kế tiếp. Nhưng tôi vẫn tiếc rẻ chuyến đi dạo trong rừng cùng căn nhà đi săn, và khi cô con gái bà chủ nhà cho hay tôi có thể tới được tuyến đường sắt ở một ga xép bằng cách đi bộ chừng mười dặm qua khu rừng, tôi quyết định gửi thẳng hành lý của mình tới địa chỉ Johann đã cung cấp rồi đi bộ ra ga và theo sau nó tới Strelsau. Johann đã đi khỏi, không hề biết tôi vừa thay đổi kế hoạch; nhưng vì thay đổi này chỉ làm tôi tới nhà chị anh ta chậm hơn vài giờ, chẳng có lý do nào để mất công báo cho anh ta cả. Hiển nhiên bà chủ nhà tốt bụng kia sẽ chẳng hoài hơi lo lắng cho tôi.
Tôi ăn trưa sớm, cáo từ các vị chủ nhà trọ mến khách của mình và hứa sẽ ghé vào chỗ họ trên đường trở về, đoạn bắt đầu leo lên ngọn đồi dẫn tới lâu đài, rồi từ đó tới khu rừng của Zenda. Nửa giờ đi bộ thong thả đưa tôi tới lâu đài. Thời trước nó từng là một pháo đài, tòa tháp phòng thủ cũ kỹ vẫn được bảo tồn ở tình trạng tốt và rất đồ sộ. Đằng sau nó sừng sững một phần khác của tòa lâu đài nguyên thủy, còn ở đằng sau công trình này, tách biệt khỏi nó bởi một con hào sâu, rộng chạy quanh khu lâu đài cũ là một tòa dinh thự hiện đại đẹp mắt, được vị tiên vương quá cố xây dựng, hiện tại là dinh thự đồng quê của công tước Strelsau. Phần cũ và phần mới của lâu đài được nối với nhau bằng một cây cầu rút, cung cấp lối đi lại duy nhất giữa phần lâu đài cũ và thế giới bên ngoài; song dẫn tới tòa dinh thự hiện đại có cả một đại lộ rộng rãi, kiểu cách. Nơi này quả là một chỗ ở lý tưởng: khi Michael Đen muốn có bầu bạn, ông ta có thể sống trong dinh thự mới của mình; còn nếu bỗng trở nên yếm thế, công tước chỉ cần đi qua cầu rút và kéo nó lên (cây cầu trượt trên các con lăn), vậy là không gì ít hơn một trung đoàn kèm theo pháo binh mới có thể mời được ông ta ra. Tôi tiếp tục tản bộ, lấy làm mừng vì công tước Michael Đen tội nghiệp dù chẳng thể có được ngai vàng hay công nương thì ít nhất cũng có một tư dinh đàng hoàng chẳng kém cạnh ông hoàng nào ở châu Âu.
Chẳng mấy chốc tôi đã đi vào rừng, tiếp tục đi bộ chừng một giờ hay hơn dưới bóng râm mát mẻ của nó. Những cây đại thụ xòe tán đan quấn lấy nhau trên đầu tôi, ánh mặt trời xuyên xuống thành từng chấm sáng rực như kim cương, và cũng không lớn hơn những hạt kim cương là mấy. Tôi như bị nơi này thôi miên, rồi khi tìm thấy một thân cây đổ, tôi tựa lưng vào nó, duỗi chân thả lỏng toàn tâm toàn ý chiêm ngưỡng vẻ đẹp uy nghi của khu rừng và thoải mái thưởng thức một điếu xì gà ngon. Đến khi điếu xì gà hết, còn tôi (tôi cho là vậy) đã tận hưởng vẻ đẹp nhiều hết mức có thể, tôi chìm vào một giấc ngủ khoan khoái tột bực, mặc kệ chuyến tàu đi Strelsau của mình cũng như buổi chiều đang nhanh chóng tàn dần. Nhớ tới một chuyến tàu ở một nơi như thế có thể bị xếp vào tội báng bổ. Thay vào đó, tôi thiếp đi, mơ mình kết hôn với công nương Flavia và sống trong lâu đài Zenda, dành cả ngày dài tiêu dao bên tình yêu của mình trong những trảng cỏ giữa rừng - điều làm nên một giấc mơ thật ngọt ngào. Kỳ thực, tôi vừa đặt một nụ hôn đắm đuối lên đôi môi duyên dáng của công nương thì nghe
thấy (giọng nói này thoạt đầu có vẻ cũng là một phần của giấc mơ) ai đó thốt lên với âm điệu cộc cằn the thé.
“Sao chứ, quỷ quái thật! Cạo râu anh chàng này đi, và anh ta sẽ đúng là đức vua!”
Ý tưởng có vẻ đủ kỳ dị cho một giấc mơ: bằng việc hy sinh hàng ria rậm và chòm râu cằm được tỉa nhọn cẩn thận của mình, tôi sẽ biến thành một ông vua! Tôi đang định hôn công nương thêm lần nữa thì chợt nhận ra (hết sức miễn cương) là mình đã tỉnh.
Tôi mở mắt ra, thấy hai người đàn ông nhìn mình cực kỳ tò mò. Cả hai đều mặc đồ đi săn và cầm súng. Một người khá lùn, thân hình vạm vỡ với cái đầu hình viên đạn, sở hữu bộ ria cứng tua tủa ngả xám cùng cặp mắt nhỏ màu xanh nhạt hơi vằn máu. Người còn lại là một thanh niên vóc người xương xương, chiều cao trung bình, tóc đen và có phong thái lịch thiệp, cao quý. Tôi đoán người thứ nhất là một quân nhân già; người thứ hai là một nhà quý tộc quen thuộc với giới thượng lưu song cũng không xa lạ với đời quân ngũ. Thực tế sau đó cho thấy phỏng đoán của tôi là chính xác.
Người đàn ông lớn tuổi hơn lại gần tôi, ra hiệu bảo người thanh niên đi theo. Anh này làm vậy, lịch sự nhấc mũ lên chào. Tôi từ tốn đứng lên. “Anh ta cũng có cùng chiều cao nữa chứ!” - tôi nghe thấy người lớn tuổi lẩm bẩm trong khi ngắm nghía chiều cao một mét tám của tôi. Sau đó, vừa đưa tay lên mũ chào như một kỵ binh, ông ta vừa hỏi tôi: “Tôi có thể biết quý danh ngài được chứ?”
“Thưa các ngài, vì các ngài đã đi trước trong việc làm quen,” - tôi vừa nói vừa mỉm cười - “có lẽ các ngài nên cho tôi được biết trước tên họ.” Người thanh niên bước tới, mỉm cười niềm nở.
“Đây là đại tá Sapt,” - anh ta giới thiệu - “còn tôi là Fritz von Tarlenheim; cả hai chúng tôi đều đang phụng sự đức vua Ruritania.” Tôi cúi chào, bỏ mũ ra và trả lời:
“Tôi là Rudolf Rassendyll. Tôi là một du khách từ Anh tới; đã từng có lần trong một hay hai năm tôi phụng sự Nữ hoàng.”
“Vậy thì chúng ta là những chiến hữu,” - Tarlenheim đáp, đồng thời chìa tay ra, và tôi lập tức bắt tay anh.
“Rassendyll, Rassendyll!” - Đại tá Sapt lẩm bẩm; sau đó một tia vỡ lẽ lóe lên lướt qua khuôn mặt ông.
“Có Chúa chứng giám!” - viên đại tá thốt lên - “ngài là thành viên nhà Burlesdon chăng?”
“Anh trai tôi hiện là Lord Burlesdon,” - Tôi trả lời.
“Mái tóc của ngài đã để lộ danh tính ngài rồi,” - ông ta tặc lưỡi, chỉ vào mái tóc đang để trần của tôi. “Sao chứ, Fritz, cậu cũng biết câu chuyện phải không?”
Nhà quý tộc trẻ liếc nhìn tôi tỏ vẻ xin lỗi. Anh ta thể hiện thái độ tế nhị mà chị dâu tôi hẳn sẽ rất ngưỡng mộ. Để giúp chàng thanh niên cảm thấy thoải mái, tôi mỉm cười nhận xét:
“À! Có vẻ như câu chuyện cũng được biết đến ở đây như ở bên chúng tôi.”
“Biết ư!” - Sapt thốt lên. “Nếu ngài lưu lại đây, sẽ khó kiếm nổi một người đàn ông, hay đàn bà nào trên khắp Ruritania còn nghi ngờ về nó.” Tôi bắt đầu cảm thấy không thoải mái. Giá như biết trước đang mang theo mình một bằng chứng hiển nhiên rõ rệt đến thế, chắc tôi đã cân nhắc thật nhiều trước khi đặt chân tới Ruritania. Nói gì thì nói, giờ tôi cũng đã ở đây rồi.
Đúng lúc ấy, một tiếng gọi vang vọng cất lên từ phía khu rừng sau lưng chúng tôi:
“Fritz, Fritz! Cậu đâu rồi, chàng trai?”
Tarlenheim giật mình, hối hả nói: “Bệ hạ đấy!”
Ông già Sapt lại tặc lưỡi.
Rồi một quý ông trẻ tuổi nhảy ra từ đằng sau một thân cây, đứng cạnh chúng tôi. Khi đưa mắt nhìn người này, tôi bật thốt lên kinh ngạc; còn người này, khi thấy tôi, bất giác lùi lại ngỡ ngàng. Ngoại trừ bộ râu không cạo trên khuôn mặt tôi và phong cách kiêu hãnh có ý thức mà địa vị đem tới cho người thanh niên, cũng ngoại trừ cả việc anh ta có lẽ thiếu mất chừng một phân - không, còn ít hơn thế, nhưng vẫn có một chút kém hơn - so với chiều cao của tôi, đức vua Ruritania hoàn toàn có thể là Rudolf Rassendyll, và tôi, Rudolf, hoàn toàn có thể là nhà vua.
Trong khoảnh khắc, chúng tôi đứng bất động nhìn nhau. Sau đó tôi lại bỏ mũ ra lần nữa, cúi chào thật cung kính. Nhà vua cũng tìm lại được giọng nói, bàng hoàng hỏi:
“Đại tá, Fritz, quý ông này là ai vậy?”
Tôi đang định trả lời thì đại tá Sapt bước tới chen vào giữa nhà vua và tôi, bắt đầu nói với hoàng thượng bằng giọng gầm gừ khe khẽ. Nhà vua đứng cao vượt hẳn lên so với Sapt, đôi mắt bệ hạ thỉnh thoảng lại đưa sang tìm đôi mắt tôi. Tôi quan sát nhà vua hồi lâu thật kỹ lưỡng. Khuôn mặt nhà vua hơi đầy đặn hơn tôi, có hình ô van rõ nét hơn khuôn mặt tôi một chút, và tôi thầm nghĩ khuôn miệng bệ hạ thiếu vắng chút gì đó nét cương nghị (hay bướng bỉnh) có thể luận thấy từ đôi môi mím chặt của tôi. Nhưng bất chấp những điều này, vượt lên những khác biệt nhỏ nhoi, sự giống nhau đã đạt tới mức kinh ngạc, nổi bật, kỳ diệu.
Sapt ngừng lời, còn nhà vua vẫn cau mày. Sau đó, hai khóe miệng bệ hạ bắt đầu nhếch lên, cái mũi chúi xuống (hệt như mũi tôi khi tôi bật cười), đôi mắt sáng lấp lánh, và rồi, nhìn xem! Ngài bật ra một tràng cười không thể kìm nén nổi và không thể vui vẻ hơn, tiếng cười vang vọng trong rừng và cho hay đức vua là một con người vui tính.
“Gặp gỡ thật đúng lúc, người anh em họ!” nhà vua reo lên, bước tới chỗ tôi, vỗ mạnh lên lưng tôi, vẫn tiếp tục cười. “Ngài phải thứ lỗi cho ta nếu ta có hơi ngỡ ngàng. Người ta không thể trông đợi thấy bản sao của mình vào thời điểm này trong ngày, phải không nào, Fritz?”
“Tôi phải xin được thứ lỗi cho sự mạo muội của mình, thưa bệ hạ,” - tôi nói. - “Tôi tin rằng điều đó sẽ không làm tôi mất đi ân sủng của người.” “Có Chúa chứng giám! Ngài sẽ luôn được tận hưởng dung mạo của nhà vua,” - hoàng thượng phá lên cười - “dù ta có thích hay không, và, thưa ngài, ta sẽ rất vui mừng được thêm vào đó bất cứ ân sủng nào ta có thể. Ngài đang định đi đâu vậy?”
“Tới Strelsau, tâu bệ hạ - tới dự lễ đăng quang.”
Nhà vua nhìn sang các cận thần của mình: nhà vua vẫn mỉm cười, cho dù thái độ ẩn giấu chút gì đó không thoải mái. Nhưng khía cạnh hài hước của tình thế lại khống chế nhà vua.
“Fritz, Fritz,” nhà vua reo lên, “một nghìn crown để đổi lấy vẻ mặt cậu em Michael khi cậu ta thấy cặp đôi chúng ta!” và tiếng cười vui vẻ lại vang lên.
“Nghiêm túc mà nói,” - Fritz von Tarlenheim nhận xét - “tôi tự hỏi liệu việc ngài Rassendyll tới thăm Strelsau ngay lúc này có khôn ngoan không.” Nhà vua châm một điếu thuốc lá.
“Thế nào, Sapt?” - Nhà vua hỏi.
“Ngài ấy không được đi,” - Viên sĩ quan già gằn giọng.
“Nào, đại tá, ý ông là ta sẽ mang nợ ngài Rassendyll nếu...” “À, phải rồi! nói cho đúng là thế,” - Sapt vừa nói vừa lấy một cái tẩu to từ trong túi ra.
“Đủ rồi, thưa bệ hạ,” - tôi nói. - “Tôi sẽ rời Ruritania hôm nay.” “Không, quỷ tha ma bắt, ngài sẽ không làm thế - và không đôi co gì về việc ấy nữa, như Sapt vẫn thích nói. Vì ngài sẽ ăn tối với ta tối nay, mặc kệ sau đó có diễn ra chuyện gì. Nào, quý ông, không phải ngày nào ngài cũng gặp một người họ hàng mới đâu!”
“Tối nay chúng ta cần ăn tối chừng mực,” - Fritz von Tarlenheim nói. “Không đâu, khi có người anh em họ của ta là khách mời!” - nhà vua kêu lên; và trong khi Fritz nhún vai, bệ hạ nói thêm - “Ồ! Ta nhớ việc chúng ta phải lên đường sớm, Fritz.”
“Cả tôi cũng vậy - sáng mai,” - ông già Sapt vừa nói vừa bập tẩu thuốc. “Ồ, ông bạn già Sapt khôn ngoan!” - nhà vua kêu lên. - “Mà nhân tiện, ngài Rassendyll này, tên ngài là gì nhỉ?”
“Cũng là tên bệ hạ,” - Tôi cúi đầu đáp.
“À, điều đó cho thấy họ không hề xấu hổ vì chúng ta,” - hoàng thượng phá lên cười. “Vậy thì lại đây nào, anh em họ Rudolf; ta không có căn nhà nào của chính mình tại đây, nhưng chú em Michael yêu quý đã cho chúng ta mượn một căn nhà, và chúng ta sẽ cố gắng khoản đãi ngài;” - rồi nhà vua khoác tay tôi, vừa lệnh cho hai người kia đi theo vừa kéo tôi đi về phía tây, băng qua khu rừng.
Chúng tôi đi bộ trong hơn nửa giờ, nhà vua hút thuốc lá và chuyện trò huyên thuyên không ngừng. Người rất quan tâm tới gia đình tôi, cười hào hứng khi tôi kể về những bức chân dung mang mái tóc đỏ Elphberg trong
phòng tranh chân dung gia tộc tôi, và còn hào hứng hơn nữa khi biết chuyến đi tới Ruritania của tôi là bí mật.
“Ngài đành phải tới thăm người họ hàng tai tiếng của mình trong bí mật, phải không nào?” - Nhà vua hỏi.
Đột ngột ra khỏi khu rừng, chúng tôi tới một căn nhà đi săn nhỏ và thô kệch. Đó là một ngôi nhà một tầng, kiểu nông thôn, xây hoàn toàn bằng gỗ. Khi chúng tôi lại gần ngôi nhà, một người đàn ông nhỏ nhắn mặc chế phục trơn bước tới gặp chúng tôi. Người duy nhất còn lại mà tôi thấy tại nơi này là một phụ nữ béo tốt đã lớn tuổi, người sau đó tôi biết chính là mẹ Johann, người quản lý của công tước.
“Thế nào, bữa tối sẵn sàng chưa, Josef?” - Nhà vua hỏi.
Anh chàng người hầu nhỏ nhắn cho chúng tôi hay bữa tối đã sẵn sàng, và chẳng mấy chốc chúng tôi đã ngồi xuống trước một bữa ăn ê hề. Đồ ăn khá giản dị: nhà vua ăn rất hào hứng, Fritz von Tarlenheim chừng mực, ông già Sapt ngốn ngấu. Tôi thực hiện một màn trình diễn cừ khôi với dao và nĩa, đúng như thói quen của mình; nhà vua để ý tới màn trình diễn của tôi đầy tán thưởng.
“Chúng ta, những người nhà Elphberg, đều là những người ăn khỏe,” - Nhà vua nói. - “Nhưng gì thế này? Chúng ta đang ăn khô! Rượu vang, Josef! Rượu vang, anh bạn! Chúng ta có phải là súc vật không mà ăn không uống hả? Chúng ta có phải là bò không, Josef?”
Sau màn quở trách này, Josef hối hả mang rượu ra bày lên bàn ăn. “Hãy nhớ ngày mai!” - Fritz nói.
“Phải, ngày mai!” - Ông già Sapt tán thành.
Nhà vua uống cạn một cốc đầy vì “Anh em họ Rudolf,” như đã đủ nhã nhặn - hay vui vẻ - để gọi tôi; còn tôi cạn một cốc tương tự vì “Màu tóc đỏ Elphberg,” nghe đến đó nhà vua phá lên cười thật to.
Đến đây phải nói, dù món thịt được dọn ra chẳng có gì ấn tượng, thứ vang chúng tôi uống quả là vô giá và vượt quá mọi lời ca ngợi, vậy nên chúng tôi dành cho nó mối quan tâm xứng đáng. Một lần Fritz tìm cách chặn bàn tay nhà vua lại.
“Cái gì?” - nhà vua gắt lên. - “Hãy nhớ là ngài lên đường trước ta đấy, ngài Fritz, ngài cần chừng mực hơn ta thêm hai giờ đấy.” Fritz thấy ngay là tôi không hiểu.
“Ngài đại tá và tôi,” - anh giải thích - “rời khỏi đây lúc sáu giờ: chúng tôi phi ngựa xuống Zenda rồi quay lại đây cùng đội quân danh dự để đón bệ hạ lúc tám giờ, sau đó tất cả chúng tôi sẽ cùng đi ngựa ra ga.” “Quỷ sứ treo cổ cái đội danh dự ấy lên!” - Sapt hầm hừ.
“Ồ! Cậu em ta đã rất xã giao khi thỉnh cầu vinh hạnh cho trung đoàn của cậu ta,” - nhà vua nói. “Nào, anh em họ, ngài không cần phải đi sớm. Người đâu, thêm một chai nữa!”
Tôi cạn thêm một chai nữa, hay đúng hơn là một phần của một chai, vì nửa già của nó đã nhanh chóng du hành xuống cổ họng nhà vua. Fritz từ bỏ mọi nỗ lực thuyết phục: từ chỗ thuyết phục, anh ta lại bị thuyết phục, chẳng mấy chốc tất cả chúng tôi đều đầy ắp vang trong người hết mức được phép. Nhà vua bắt đầu nói về những gì ngài sẽ làm trong tương lai, ông già Sapt nói về những gì ông đã làm trong quá khứ, Fritz nói về một cô nàng xinh đẹp này hay một cô kia, còn tôi nói về những phẩm chất tuyệt vời của triều đại Elphberg. Tất cả chúng tôi cùng nói một lúc, và tuân thủ đúng từng chữ lời hô hào của Sapt hãy để mặc cho ngày hôm sau tự lo lấy thân nó.
Cuối cùng, nhà vua đặt cốc xuống và ngả người ra sau trên ghế. “Ta đã uống đủ rồi,” - Nhà vua nói.
“Tôi cũng không hề có ý phản bác lại bệ hạ,” - Tôi nói.
Quả thực nhận xét của nhà vua là hoàn toàn đúng cho tới khi đó. Ấy thế nhưng trong khi tôi đang nói, Josef đi vào đặt trước mặt nhà vua một chai rượu lâu niên tuyệt vời được bọc ngoài bằng giỏ đan từ sợi liễu gai. Chai rượu đã nằm quá lâu trong một hầm rượu tối om nào đó đến mức có vẻ đang chớp mắt nhấp nháy trong ánh nến.
“Điện hạ công tước Strelsau ra lệnh cho thần mang thứ vang này ra hầu bệ hạ khi bệ hạ đã chán tất cả các loại vang khác, và khẩn cầu bệ hạ hãy uống thử vì tình yêu đức ông dành cho anh trai mình.”
“Cừ lắm, Michael Đen,” - nhà vua nói - “Mở nút ra đi, Josef. Quỷ bắt cậu ta đi! Cậu ta tưởng ta sẽ chùn bước trước chai rượu này chắc?” Chai rượu được mở, Josef rót đầy cốc cho nhà vua. Ngài nếm thử rượu. Sau đó,
với vẻ trang trọng của một ông vua, bệ hạ nhìn quanh qua chúng tôi: “Thưa các ngài, các bạn của ta - Rudolf, anh em họ của ta (Thề có danh dự của ta, Rudolf, đó là một chuyện tai tiếng), tất cả đều là của ngài cho tới một nửa đất Ruritania. Nhưng đừng đòi hỏi ta dù chỉ một giọt từ chai rượu thần thánh này, thứ vang ta sẽ uống vì sức khỏe của... của gã khốn ma mãnh đó, em trai ta, Michael Đen.”
Đoạn nhà vua vớ lấy chai rượu dốc ngược vào miệng tu cạn rồi ném nó đi, sau đó gục đầu lên hai cánh tay để trên bàn.
Và chúng tôi uống để chúc nhà vua có những giấc mơ vui vẻ - và đó là tất cả những gì tôi còn nhớ về buổi tối đó. Có lẽ chỉ vậy là đủ.
CHƯƠNG 4
Nhà vua đúng hẹn
Tôi không rõ mình đã ngủ thiếp đi một phút hay một năm nữa. Tôi giật mình bừng tỉnh trong cơn rùng mình; khuôn mặt, mái tóc và cả quần áo tôi ướt sũng nước, đứng đối diện với tôi là ông già Sapt với nụ cười mỉa mai trên khuôn mặt cùng một cái xô rỗng trên tay. Fritz von Tarlenheim ngồi trên cái bàn cạnh ông ta, nhợt nhạt như một hồn ma, dưới đôi mắt quầng đen như quạ.
Tôi bực bội đứng bật dậy.
“Trò đùa của ông đi quá xa rồi đấy, thưa ông!” - Tôi hét lên. “Bình tĩnh, anh bạn, chúng ta không có thời gian để cãi cọ đâu. Chẳng cách nào khác có thể dựng anh bạn dậy được. Năm giờ rồi.” “Tôi sẽ cảm ơn ông, đại tá Sapt...” - Tôi lại bắt đầu, tâm trạng nóng phừng phừng bất chấp việc thân thể đang lạnh ngắt khó chịu. “Rassendyll,” - Fritz ngắt lời tôi, xuống khỏi bàn và cầm lấy cánh tay tôi - “nhìn đây.”
Nhà vua đang nằm dài dưới sàn. Khuôn mặt nhà vua cũng đỏ rực như mái tóc, và ngài đang thở nặng nề. Sapt, con chó già bất kính đó, vung chân đá mạnh vào ngài. Nhà vua chẳng hề cựa quậy, và nhịp thở của ngài cũng không hề bị gián đoạn. Tôi thấy khuôn mặt và mái tóc nhà vua cũng ướt sũng nước hệt như mình.
“Chúng tôi đã loay hoay với bệ hạ nửa tiếng đồng hồ rồi,” - Fritz nói. “Bệ hạ uống nhiều gấp ba so với bất cứ ai trong hai vị,” - Sapt cấm cẳn.
Tôi quỳ xuống xem mạch nhà vua. Yếu và chậm đến mức đáng báo động. Ba chúng tôi nhìn nhau.
“Có phải nó bị bỏ thuốc mê không - chai rượu cuối cùng đó?” - Tôi thì thầm hỏi.
“Tôi không biết,” - Sapt nói.
“Chúng ta cần gọi một bác sĩ.”
“Chẳng có bác sĩ nào trong vòng mười dặm, và một nghìn bác sĩ cũng không thể đưa bệ hạ tới Strelsau hôm nay được. Tôi biết vẻ mặt này. Bệ hạ sẽ không thể cựa quậy được trong sáu hay bảy giờ nữa.”
“Nhưng còn lễ đăng quang!” - Tôi kinh hoàng kêu lên.
Fritz nhún vai, như tôi bắt đầu thấy đây là thói quen của anh trong phần lớn các trường hợp. “Chúng ta phải báo là nhà vua bị ốm,” - Fritz nói. “Tôi cho là vậy,” - Tôi nói.
Ông già Sapt, trông có vẻ vẫn tỉnh như sáo, đã châm tẩu thuốc của mình và bập bập từng hơi thật mạnh.
“Nếu không đăng quang hôm nay,” - viên đại tá nói - “tôi dám cược một crown là bệ hạ sẽ chẳng bao giờ đăng quang hết.”
“Nhưng Chúa ơi, vì sao?”
“Cả đất nước có mặt tại đó để gặp gỡ bệ hạ; một nửa quân đội - à phải, và với Michael Đen cầm đầu. Chúng ta có thể báo tin là nhà vua đang say khướt chăng?”
“Là bệ hạ đang ốm,” - Tôi chỉnh lại.
“Ốm!” - Sapt nhắc lại cùng tiếng cười mỉa mai. - “Bọn họ biết quá rõ chứng bệnh của nhà vua. Bệ hạ đã từng “ốm” trước đây rồi!” “À, chúng ta đành cầu may với những gì họ nghĩ,” - Fritz bất lực nói. “Tôi sẽ đi báo tin và cố làm tốt nhất có thể.”
Sapt giơ bàn tay lên.
“Hãy nói cho tôi biết,” - ông ta nói. - “Cậu nghĩ nhà vua đã bị đánh thuốc mê?”
“Đúng thế,” - Tôi đáp.
“Và ai đã đánh thuốc mê bệ hạ?”
“Là tên khốn đáng nguyền rủa đó, Michael Đen,” - Fritz nghiến chặt răng nói.
“Phải,” - Sapt nói - “để nhà vua không thể có mặt trong lễ đăng quang. Ngài Rassendyll đây vẫn chưa biết anh bạn Michael đáng mến của chúng ta. Cậu nghĩ sao, Fritz, chẳng phải Michael đã là vua rồi sao? Chẳng phải đến một nửa Strelsau không có ứng cử viên nào khác cho ngai vàng? Có đức Chúa phục sinh, anh bạn thấy đấy, ngai vàng coi như đi đứt nếu nhà vua không xuất hiện tại Strelsau hôm nay. Ta biết Michael Đen lắm.”
“Chúng ta có thể mang bệ hạ tới thủ đô.” - Tôi nói.
“Và người sẽ chưng ra một bộ dạng đẹp đẽ làm sao.” - Sapt dè bỉu. Fritz von Tarlenheim úp mặt vào hai bàn tay. Nhà vua vẫn thở thật to và nặng nề. Sapt lại dùng chân lay lay nhà vua.
“Một ông vua say xỉn!” - ông nói - “nhưng đây lại là một người nhà Elphberg và là con trai của tiên vương, và cầu cho tôi bị mục rữa ra dưới địa ngục trước khi Michael Đen ngồi vào chỗ ngài ta!”
Trong một vài khoảnh khắc tất cả chúng tôi đều im lặng; sau đó Sapt, nhíu đôi lông mày xám rậm của mình lại, nhấc tẩu thuốc khỏi miệng và nói với tôi:
“Khi một người về già, anh ta tin vào Số Mệnh. Số Mệnh đã cử cậu tới đây. Giờ Số Mệnh sẽ gửi cậu tới Strelsau.”
Tôi loạng choạng lùi lại, lẩm bẩm: “Lạy Chúa lòng lành!” Fritz ngẩng lên nhìn với ánh mắt hau háu ngơ ngác.
“Không thể!” - tôi lẩm bẩm. - “Tôi sẽ bị nhận ra.”
“Đó là một nguy cơ - thay vì một tai họa chắc chắn,” - Sapt nói. - “Nếu cậu cạo râu đi, tôi dám cược cậu sẽ không bị nhận ra. Cậu sợ sao?” “Thưa ông!”
“Thôi nào, chàng trai, bình tĩnh nào; nhưng nếu bị nhận ra, cậu biết đấy, giá phải trả sẽ là tính mạng cậu - và cả tôi - và cả Fritz đây nữa. Nhưng nếu cậu không đi, tôi xin thề với cậu tối nay Michael Đen sẽ ngồi trên ngai vàng, còn bệ hạ sẽ nằm trong tù hoặc dưới mồ.”
“Nhà vua sẽ không bao giờ tha thứ điều đó,” - Tôi lắp bắp. “Chúng ta có phải đàn bà không đây? Ai thèm quan tâm tới sự tha thứ của ngài ấy chứ?”
Đồng hồ tích tắc năm mươi lần, rồi sáu mươi, rồi bảy mươi lần trong khi tôi đứng ngẫm nghĩ. Sau đó ông già Sapt nắm lấy bàn tay tôi, reo lên:
“Cậu sẽ đi chứ?”
“Vâng, tôi sẽ đi,” - Tôi nói, và tôi đưa mắt nhìn sang nhà vua đang nằm thẳng cẳng dưới sàn.
“Tối nay,” - Sapt hối hả thì thầm - “chúng ta sẽ ở lại trong cung điện. Ngay khi mọi người rời khỏi, cậu và tôi sẽ lên ngựa - Fritz phải ở lại đó canh gác phòng của nhà vua - rồi phi nước đại về đây. Nhà vua sẽ sẵn sàng - Josef sẽ báo cho ngài ấy biết - và nhà vua sẽ cưỡi ngựa cùng tôi trở lại Strelsau, còn cậu thúc ngựa lao như ma đuổi tới tận biên giới.”
Tôi tiếp nhận tất cả trong một giây, rồi gật đầu.
“Có một cơ hội,” - Fritz lên tiếng, cùng dấu hiệu bày tỏ hy vọng đầu tiên của anh.
“Nếu tôi không bị phát hiện,” - Tôi nói.
“Nếu chúng ta bị phát giác,” - Sapt nói. - “Tôi sẽ gửi Michael Đen xuống đất trước khi chính tôi xuống đó, vì vậy mong Chúa hãy giúp tôi! Ngồi xuống cái ghế đó đi, anh bạn.”
Tôi làm theo lời ông.
Viên đại tá lao vụt ra khỏi phòng, hối hả gọi “Josef! Josef!” Sau ba phút ông đã trở lại cùng Josef. Anh này bê theo một bình nước nóng, xà phòng và dao cạo. Anh ta run rẩy trong khi Sapt nói cho anh ta biết tình hình, và lệnh cho anh ta cạo râu cho tôi.
Đột nhiên Fritz vỗ mạnh xuống đùi mình:
“Nhưng còn đội danh dự! Chúng sẽ biết! Chúng sẽ biết!” “Ôi dào! Chúng ta sẽ không chờ đội danh dự. Chúng ta sẽ cưỡi ngựa tới Hofbau và lên tàu tại đó. Khi bọn chúng tới, chim đã sổ lồng rồi.” “Nhưng còn nhà vua?”
“Nhà vua sẽ ở dưới hầm rượu. Tôi sẽ mang người xuống dưới đó ngay bây giờ.”
“Nếu bọn họ tìm thấy người?”
“Chúng sẽ không thấy. Sao chúng có thể? Josef sẽ đuổi chúng đi.” “Nhưng...”
Sapt dậm chân.
“Không phải chúng ta đang chơi,” - ông gầm lên. - “Chúa ơi! Chẳng lẽ tôi không biết mối nguy hiểm sao? Nếu chúng tìm thấy bệ hạ thật, người
cũng sẽ không tệ hơn so với khi không thể đăng quang hôm nay tại Strelsau.”
Nói xong, ông đẩy cửa mở tung, cúi người xuống, vận ra một sức mạnh tôi không dám mơ viên đại tá có được, và nâng bổng nhà vua lên. Trong khi ông này làm vậy, bà lão, mẹ của anh chàng quản lý Johann, đứng trên ngưỡng cửa. Trong một khoảnh khắc bà ta đứng đó, rồi bà ta quay người lại, không hề tỏ ra ngạc nhiên, rồi lọc cọc bước xuống lối đi.
“Bà ta đã nghe thấy rồi sao?” - Fritz kêu lên.
“Tôi sẽ bịt mồm bà ta lại!” - Sapt lạnh lùng nói, và ông bế bổng nhà vua lên trên hai cánh tay.
Về phần mình, tôi ngồi xuống một chiếc ghế bành, và trong khi tôi ngồi đó, nửa ngỡ ngàng, Josef cắt và cạo cho tới khi râu ria của tôi là những thứ thuộc về quá khứ, khiến khuôn mặt tôi cũng nhẵn nhụi như nhà vua. Khi Fritz nhìn thấy tôi, anh hít một hơi dài và thốt lên:
“Có Jove chứng giám, chúng ta sẽ làm được!”
Lúc này đã sáu giờ, chúng tôi không còn thời gian để phí phạm. Sapt hối hả kéo tôi vào phòng của nhà vua, tôi mặc lên người bộ quân phục của một đại tá cận vệ, rồi trong khi xỏ chân vào đôi ủng của đấng quân vương tôi hỏi Sapt xem ông đã làm gì với bà lão.
“Mụ ta thề không hề nghe thấy gì,” - ông đại tá nói - “nhưng để chắc chắn tôi đã trói chân mụ ta lại, nhét một cái khăn mùi xoa vào miệng mụ và trói tay mụ, rồi nhốt mụ vào hầm chứa than, ngay cạnh chỗ nhà vua. Josef sau đó sẽ canh chừng cả hai người.”
Nghe đến đây tôi phá lên cười, ngay cả ông già Sapt cũng mỉm cười nghiêm nghị.
“Tôi nghĩ,” - ông nói - “khi Josef bảo với chúng nhà vua đã đi khỏi, chúng sẽ nghĩ đó là vì chúng ta nghi ngờ có chuyện không hay. Tôi dám thề rằng Michael Đen không trông đợi sẽ thấy người tại Strelsau hôm nay.”
Tôi đội chiếc mũ quân vương lên đầu. Ông già Sapt đưa cho tôi thanh kiếm của nhà vua, nhìn tôi thật lâu và cẩn thận.
“Ơn Chúa là bệ hạ đã cạo râu!” - Ông thốt lên.
“Vì sao ngài ấy làm thế?” - Tôi hỏi.
“Vì công nương Flavia nói nhà vua làm xước má nàng khi vui lòng ban tặng cho nàng một nụ hôn của người anh họ. Đi thôi nào, chúng ta lên ngựa thôi.”
“Ở đây mọi thứ đều an toàn chứ?”
“Chẳng có cái gì an toàn ở bất cứ đâu hết,” - Sapt nói - “nhưng ta không thể thu xếp để nó an toàn hơn.”
Lúc này, Fritz đã tới nhập bọn cùng chúng tôi trong bộ quân phục đại úy của cùng trung đoàn với bộ quân phục tôi đang mặc. Sau bốn phút, Sapt đã mặc xong quân phục. Josef thông báo ngựa đã sẵn sàng. Chúng tôi nhảy lên ngựa và bắt đầu phi nước kiệu nhanh. Trò chơi đã bắt đầu. Kết cục sẽ ra sao?
Không khí mát mẻ buổi sáng làm đầu óc tôi tỉnh táo, tôi có thể nhập tâm được tất cả những gì Sapt đã nói với mình. Ông thật tuyệt vời. Fritz hầu như không nói gì, phi ngựa như một người đang ngủ, nhưng còn Sapt, chẳng nói thêm một lời nào nữa về nhà vua, lập tức chỉ dẫn cho tôi thật chi tiết về lịch sử cuộc đời trong quá khứ của “tôi,” về gia đình tôi, sở thích, thú vui, điểm yếu của tôi, về bạn bè, cận thần, người hầu. Ông cho tôi biết các quy tắc lễ nghi của triều đình Ruritania, hứa sẽ thường trực có mặt cạnh tôi để chỉ ra tất cả những ai tôi nhất thiết phải biết, và cung cấp cho tôi manh mối để biết cần chào đón họ với mức độ ân cần ra sao.
“Nhân đây,” - ông hỏi - “tôi chắc cậu là người Công giáo chứ?” “Không hề,” - Tôi đáp.
“Chúa ơi, cậu ta là một tay dị giáo!” - Sapt rên lên, tiếp theo ông chuyển sang một bài lên lớp sơ cấp về những thói quen và quy định của đức tin Công giáo.
“Thật may,” - ông nói - “cậu không bị trông đợi phải biết nhiều, vì nhà vua có tiếng là lơ đễnh cẩu thả về những chuyện như thế. Nhưng cậu cần phải lễ phép mềm nhũn như bơ chảy với ngài Hồng y. Chúng ta hy vọng lôi kéo được ông ấy, vì Hồng y và Michael luôn ở tình trạng cãi cọ thường trực về việc ai có vị thế cao hơn.”
Lúc này chúng tôi đã tới ga. Fritz vừa đủ trấn tĩnh lại để giải thích với ông trưởng ga đang kinh ngạc rằng nhà vua đã thay đổi kế hoạch rồi. Đoàn tàu tới. Chúng tôi lên toa hạng nhất, và Sapt, tựa người lên đệm ghế, tiếp
tục bài lên lớp. Tôi nhìn đồng hồ của mình - đồng hồ của nhà vua, tất nhiên rồi. Vừa đúng tám giờ.
“Tôi tự hỏi không biết họ đã tới tìm chúng ta chưa,” - Tôi nói. “Hi vọng bọn chúng không tìm thấy nhà vua,” - Fritz căng thẳng nói, và lần này đến lượt Sapt nhún vai.
Đoàn tàu chuyển bánh suôn sẻ, và tới lúc chín giờ rưỡi, đưa mắt nhìn qua cửa sổ toa tàu, tôi thấy những tòa tháp cùng những chóp nhọn chỉa lên trời của một thành phố lớn.
“Thủ đô của ngài, thưa hoàng thượng,” - Ông già Sapt cười nhăn nhở kèm theo một cái khoát tay, rồi ông cúi người ra trước đặt ngón tay lên đếm mạch tôi. - “Hơi nhanh một chút,” - ông nói bằng giọng điệu cảu nhảu của mình.
“Tôi đâu có tạc bằng đá!” - Tôi thốt lên.
“Cậu sẽ làm được,” - ông nói và gật đầu. - “Chúng ta phải nói là anh bạn Fritz đây đang phát sốt phát rét lên. Uống cạn bình của cậu đi, Fritz, vì Chúa, chàng trai!”
Fritz làm như được yêu cầu.
“Chúng ta tới sớm một giờ,” - Sapt nói. - “Ta sẽ cho báo tin nhà vua đã tới, vì chắc vẫn chưa có ai ở đây để đón ta. Và trong lúc chờ đợi...” “Trong lúc chờ đợi,” - tôi nói - “quỷ sứ cứ việc treo cổ bệ hạ lên nếu ông ấy không có gì ăn sáng.”
“Cậu quả là một người nhà Elphberg, từng li từng tí,” - ông đại tá nói. Sau đó ông ngừng lại, nhìn chúng tôi, rồi khẽ nói tiếp - “Cầu Chúa cho chúng ta còn sống sót tối nay!”
“Amen!” - Fritz von Tarlenheim thì thầm.
Đoàn tàu dừng bánh. Fritz và Sapt bước ra ngoài, bỏ mũ, và giữ cửa mở cho tôi. Tôi nuốt cơn sợ đang trào lên cổ xuống, đội chắc mũ lên đầu, và (tôi không hề thấy xấu hổ phải nói ra điều này) thì thầm một lời cầu nguyện ngắn gửi tới Chúa. Sau đó, tôi bước xuống ke tại nhà ga Strelsau.
Một khoảnh khắc sau, mọi thứ đều rộn rã nhốn nháo: người hối hả chạy tới, mũ cầm tay, rồi lại hối hả chạy đi; người đưa tôi tới quán ăn tại nhà ga; người lên ngựa vội vã phi tới trại lính, tới nhà thờ lớn, tới dinh thự của công tước Michael. Thậm chí trong khi tôi uống nốt những giọt cuối
cùng trong tách cà phê của mình, những chiếc chuông trên khắp thành phố cùng lên tiếng trong một màn đồng ca hân hoan, và âm thanh của một đội quân nhạc cùng tiếng người reo hò vẫn không ngừng đập vào tai tôi.
Đức vua Rudolf Đệ Ngũ đang có mặt tại thành phố Strelsau trung thành của người! Và người ta hô to bên ngoài...
“Chúa ban phước cho bệ hạ!”
Khuôn miệng ông già Sapt chuyển dạng thành một nụ cười. “Mong Chúa ban phước cho cả hai người họ!” - ông lẩm bẩm. - “Can đảm lên, chàng trai!” và tôi cảm thấy bàn tay ông áp lên đầu gối mình.
CHƯƠNG 5
Cuộc phiêu lưu của người đóng thế
Với Fritz von Tarlenheim và đại tá Sapt theo sát sau lưng mình, tôi rời khỏi quán ăn ra ngoài ke. Điều cuối cùng tôi làm là kiểm tra xem khẩu súng ổ quay của mình liệu đã sẵn sàng trong tầm tay và thanh kiếm mình đeo có thể dễ dàng rời vỏ. Một nhóm sĩ quan và quan chức cao cấp vui vẻ đứng đợi tôi, dẫn đầu họ là một ông lão cao ráo, đeo đầy huân chương và có phong cách quân nhân. Ông ta đeo dải ruy băng chéo màu vàng và đỏ - Hoa Hồng Đỏ Ruritania - nhân tiện đây xin nói cũng dải ruy băng như thế đang trang hoàng cho lồng ngực không xứng đáng của tôi.
“Thống chế Strakencz,” - Sapt thì thầm, vậy là tôi biết mình đang đứng trước chiến binh kỳ cựu nổi tiếng nhất của quân đội Ruritania. Ngay sau lưng thống chế là một người đàn ông thấp nhỏ gầy gò, mặc áo thụng chùng màu đen và huyết dụ.
“Thủ tướng của Vương quốc,” - Sapt thì thầm.
Ngài thống chế chào mừng tôi bằng vài lời bày tỏ lòng trung thành, rồi chuyển lời cáo lỗi của công tước Strelsau. Có vẻ công tước đã bị mệt đột ngột nên không thể tới nhà ga, song công tước xin được cho phép túc trực bên bệ hạ tại nhà thờ lớn. Tôi bày tỏ sự quan tâm của mình, chấp nhận những lời cáo lỗi được thống chế khéo léo chuyển lại, và đón nhận những lời chúc mừng từ rất nhiều nhân vật tiếng tăm nữa. Không ai để lộ chút ngờ vực nào dù nhỏ nhất, tôi cảm thấy đầu óc bình tĩnh trở lại, còn nhịp tim đập quay cuồng cũng dịu xuống. Nhưng Fritz vẫn tái nhợt, bàn tay anh run rẩy như một tàu lá khi đưa ra để bắt tay thống chế.
Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã tạo thành một đoàn diễu hành đi dần ra cửa nhà ga. Tại đây, tôi trèo lên con ngựa của mình, ngài thống chế đích thân giữ bàn đạp cho tôi. Các quan chức dân sự tản ra đi về xe ngựa của họ,
và tôi bắt đầu cưỡi ngựa đi qua các con phố với ngài thống chế ở bên phải và Sapt (với tư cách sĩ quan phụ tá chính của tôi, ông được phép chiếm lĩnh vị trí này) ở bên trái. Thành phố Strelsau có một phần cũ và một phần mới. Những đại lộ hiện đại rộng rãi và những khu dân cư bao quanh ôm lấy những khu phố hẹp ngoằn ngoèo, đẹp như tranh của đô thị cổ. Những khu vực bao bọc bên ngoài là nơi các tầng lớp trên sống; còn khu trong là nơi các cửa hàng tọa lạc; và đằng sau mặt tiền giàu có của chúng ẩn kín những ngõ hẻm đông đúc nhưng khốn cùng, đầy ắp một giai tầng nghèo khó, hỗn loạn và (ở một mức độ lớn) tội phạm. Mối chia rẽ về xã hội và khu vực này, như tôi được biết từ Sapt, tương ứng với một mối chia rẽ khác quan trọng hơn với tôi. Khu thành phố mới ủng hộ nhà vua; nhưng với khu thành phố cũ: Michael, công tước Strelsau, là niềm hy vọng, người anh hùng, đứa con cưng.
Cảnh tượng quả là rực rỡ huy hoàng khi chúng tôi đi dọc theo Đại lộ chính và tiếp tục tại quảng trường lớn nơi Cung điện Hoàng gia tọa lạc. Ở đây, tôi đang đứng giữa những người trung thành ủng hộ mình. Mỗi ngôi nhà đều căng màu đỏ, được trang hoàng bằng cờ, biểu ngữ. Các đường phố đều có khán đài được dựng lên hai bên, và tôi đi qua, cúi đầu chào về phía này rồi phía kia, dưới những tiếng hoan hô, chúc phúc, những cái khăn tay được vẫy lên. Các ban công đông chật những quý bà quý cô chưng diện bắt mắt, họ vỗ tay, cúi chào rồi ném những cái liếc mắt long lanh nhất về phía tôi. Một cơn mưa những bông hồng đỏ rơi xuống tôi; một bông hoa mắc lại trên bờm con ngựa của tôi, và tôi cầm lấy bông hoa cài lên áo khoác. Ông thống chế mỉm cười nghiêm nghị. Tôi đã lén liếc mắt nhìn ông ta vài lần, song ông ta quá điềm tĩnh để có thể lộ cho tôi thấy liệu cảm tình của ông ta có dành cho tôi không.
“Bông hồng đỏ cho những người Elphberg, thống chế,” - Tôi vui vẻ nói, và ông ta gật đầu. Tôi đã viết là “vui vẻ”, hai từ hẳn có vẻ thật lạ lùng. Nhưng sự thật là lúc ấy tôi đã đắm chìm trong phấn khích. Vào khoảnh khắc đó tôi đã tin - gần như tin - mình thực sự chính là nhà vua; và với vẻ mặt hân hoan đắc thắng, tôi lại ngước mắt nhìn lên các ban công chen đầy người đẹp... rồi tôi giật mình. Vì quý bà từng là bạn đồng hành với tôi - Antoinette de Mauban - với khuôn mặt xinh đẹp và nụ cười kiêu hãnh, đang nhìn xuống tôi; tôi thấy cô ta cũng sững sờ, đôi môi mấp máy, rồi Antoinette cúi người ra trước nhìn chăm chăm vào tôi. Còn tôi, trấn tĩnh
ẳ
lại, đưa mắt lên nhìn thẳng đón nhận ánh mắt của cô, trong khi lại kiểm tra khẩu súng ổ quay của mình lần nữa. Thử nghĩ xem nếu thiếu phụ hét lên, “Đó không phải là nhà vua!”
Không có gì xảy ra, chúng tôi đi tiếp; rồi sau đó ông thống chế quay người lại trên yên và vẫy tay, đám lính thiết kỵ quây kín lấy chúng tôi, để đám đông không thể lại gần tôi. Chúng tôi đang rời khỏi khu vực ủng hộ tôi và tiến vào lãnh địa của công tước Michael, và hành động này của ông thống chế cho tôi thấy rõ ràng hơn mọi lời lẽ về trạng thái cảm xúc trong thành phố hẳn đang thế nào. Nhưng nếu Số Mệnh đã biến tôi thành một ông vua thì điều tối thiểu tôi có thể làm là vào vai cho đàng hoàng.
“Tại sao lại thay đổi đội hình của chúng ta vậy, thống chế?” - Tôi hỏi. Ông thống chế cắn bộ ria bạc trắng. “Như thế thận trọng hơn, tâu bệ hạ,” - Ông thì thầm.
Tôi giật cương.
“Hãy để những người phía trước thúc ngựa đi tiếp,” - tôi nói - “cho tới khi họ đã vượt lên trước năm mươi mét. Nhưng còn ông, thống chế, và đại tá Sapt cùng các bạn ta, hãy đợi ở đây cho tới khi ta đã cưỡi ngựa đi lên trước được năm mươi mét. Hãy đảm bảo là không ai khác ở gần ta hơn. Ta sẽ cho thần dân của mình thấy đức vua của họ tin tưởng họ.”
Sapt áp bàn tay lên cánh tay tôi. Tôi vùng ra. Ông thống chế do dự. “Vẫn chưa ai hiểu ý ta sao?” - tôi nói; và ông thống chế, cắn ria lần nữa, đành ra lệnh. Tôi thấy ông già Sapt kín đáo mỉm cười, nhưng lại lắc đầu với tôi. Nếu tôi bị giết giữa ban ngày trên đường phố Strelsau, Sapt hẳn đã rơi vào một tình thế rất khó khăn.
Có lẽ cần nói tôi mặc tuyền màu trắng, ngoại trừ đôi ủng. Tôi đội một chiếc mũ trụ bạc được mạ vàng trang trí, và dải ruy băng Hoa Hồng Đỏ trông thật nổi bật bắt chéo trước ngực. Tôi sẽ thật vô ơn với nhà vua nếu không gạt bỏ lòng khiêm tốn sang bên và thừa nhận rằng tôi quả có một thân hình đẹp đẽ. Dân chúng cũng nghĩ như thế; vì khi tôi một mình cưỡi ngựa tiến vào những con phố tối tăm xám xịt hầu như chẳng được trang hoàng gì của khu phố cũ, thoạt đầu vang lên một tràng rì rầm, sau đó là một tiếng hoan hô, đoạn một phụ nữ từ ô cửa sổ phía trên một nhà hàng hô lớn câu nói quen thuộc của người địa phương:
“Nếu tóc ông ấy đỏ, thì ông ấy đúng!” - nghe đoạn tôi bật cười và nhấc mũ trụ ra để người phụ nữ có thể thấy màu tóc tôi, vậy là họ lại hoan hô. Cưỡi ngựa một mình như vậy thú vị hơn nhiều, vì tôi nghe thấy những lời bình phẩm của đám đông.
“Trông bệ hạ xanh xao hơn bình thường” - Một người nói. “Ông cũng sẽ xanh xao thôi nếu sống như ngài ấy,” - Một câu vặc lại vô cùng bất kính vang lên.
“Trông nhà vua cao lớn hơn tôi nghĩ,” - Một người khác nói. “Vậy là rốt cuộc ngài ấy cũng có bộ nhai tốt trong cái miệng kia,” - Một người thứ ba bình phẩm.
“Những bức ảnh của nhà vua trông không đẹp trai bằng người thật,” - Một cô gái xinh xắn tuyên bố, cẩn thận lưu ý để tôi nghe thấy. Hiển nhiên đó chỉ là những lời tâng bốc.
Nhưng bất chấp những dấu hiệu tán thưởng và quan tâm này, đa số dân cư chào đón tôi trong im lặng với ánh mắt khó chịu, còn chân dung cậu em trai yêu quý của tôi trang hoàng cho phần lớn các ô cửa sổ - một cách chào đón nhà vua thật mỉa mai. Tôi lấy làm mừng là bệ hạ đã không phải chứng kiến cảnh tượng chẳng vui mắt chút nào này. Bệ hạ là người nóng tính, và có thể người sẽ không đón nhận chuyện này bình tĩnh như tôi.
Cuối cùng, chúng tôi tới nhà thờ lớn. Mặt tiền đồ sộ màu xám của nó, được trang hoàng bằng hàng trăm bức tượng và hãnh diện với một đôi cánh cửa làm từ thứ gỗ sồi quý nhất châu Âu, lần đầu tiên vươn lên sừng sững trước mắt tôi, và cảm nhận đột ngột về sự liều lĩnh của mình gần như làm tôi mất hết tự chủ. Mọi thứ chìm trong một làn sương mù khi tôi xuống ngựa. Tôi mơ hồ nhìn thấy ông thống chế và Sapt, mơ hồ nhìn thấy đám tu sĩ mặc áo lễ lộng lẫy đang chờ. Đôi mắt tôi vẫn còn đờ đẫn khi tôi bước vào gian chính điện của nhà thờ, với tiếng đàn ống ngân lên vang vang bên tai. Tôi không hề thấy đám đông lộng lẫy đang đứng đầy trong nhà thờ, cũng hầu như chẳng hề nhận ra thân hình đường bệ của ngài Hồng y giáo chủ khi ông này đứng lên khỏi chiếc ngai dành cho Tổng giám mục để chào đón tôi. Chỉ có hai khuôn mặt kề bên nhau hiện lên rõ nét trước mắt tôi - khuôn mặt của một quý cô, trắng trẻo đáng yêu, bao quanh là mái tóc màu đỏ Elphberg lộng lẫy như một chiếc mũ miện (vì màu tóc này quả là lộng lẫy với phụ nữ), và khuôn mặt của một người đàn ông, trên đó hai gò má đỏ
lựng, mái tóc đen và đôi mắt đen sâu cho tôi biết cuối cùng tôi đang hiện diện trước mặt em trai mình, Michael Đen. Và khi công tước nhìn thấy tôi, đôi má đỏ lựng của anh ta đột ngột tái nhợt đi chỉ trong khoảnh khắc, và chiếc mũ trụ Michael đội rơi cạch xuống sàn. Cho tới tận giây phút đó, tôi tin chắc công tước đã không nhận ra quả thực nhà vua đã tới Strelsau.
Tôi không còn nhớ gì về điều diễn ra tiếp theo. Tôi quỳ gối trước ban thờ và ngài Hồng y làm lễ xức dầu thánh cho tôi. Sau đó tôi đứng dậy, đưa tay ra, nhận từ tay ông ta vương miện của Ruritania và đội nó lên đầu mình, rồi tôi đọc lời thề truyền thống của nhà vua; và (nếu đó là một tội lỗi, mong rằng tôi được tha thứ) tôi nhận lời ban phước tại đó trước mặt tất cả bọn họ. Đoạn cây đàn ống đồ sộ lại lên tiếng, ông thống chế ra lệnh cho những người xướng danh công bố việc tôi được lên ngôi, và Rudolf Đệ Ngũ trở thành nhà vua; một bức ảnh tuyệt đẹp chụp buổi lễ hoành tráng này hiện đang treo trong phòng ăn của tôi. Bức hình chụp chân dung nhà vua rất ấn tượng.
Sau đó, vị công nương có khuôn mặt trắng muốt và mái tóc đỏ lộng lẫy, đuôi váy được hai người hầu nâng, bước tới nơi tôi đang đứng. Một người xướng danh hô lớn:
“Công nương Flavia!”
Nàng nhún người cúi chào thật thấp, đưa bàn tay ra nâng bàn tay tôi lên hôn. Và trong khoảnh khắc tôi thầm nghĩ tốt nhất mình nên làm gì. Sau đó, tôi kéo nàng lại bên mình và hôn lên má nàng, nàng đỏ bừng mặt, sau đó Hồng y Tổng giám mục bước tới chen trước mặt Michael Đen, hôn tay tôi rồi trình lên tôi một lá thư từ Giáo hoàng - lá thư đầu tiên và cuối cùng tôi nhận được từ Đức Thánh cha!
Kế tiếp đến lượt công tước Strelsau. Bước đi của Michael run rẩy, tôi dám thề là vậy, như một người đang nghĩ tới việc chạy trốn; và khuôn mặt công tước chỗ đỏ ửng chỗ trắng bệch, bàn tay công tước lẩy bẩy đến mức nó lập cập bên dưới bàn tay tôi, rồi tôi cảm thấy môi công tước khô ráp. Tôi liếc mắt nhìn Sapt, người đang kín đáo mỉm cười, và quyết tâm làm trọn vẹn bổn phận ở cương vị mình đã được đảm trách một cách thật lạ lùng, tôi liền ôm lấy Michael yêu quý bằng cả hai cánh tay và hôn lên má anh ta. Tôi tin chắc cả hai chúng tôi đều vui mừng khi việc đó kết thúc!
Nhưng cả trên khuôn mặt công nương Flavia lẫn trên các khuôn mặt khác tôi đều không thấy bất cứ chút hoài nghi nào. Ấy vậy nhưng nếu tôi ẳ
và nhà vua đứng cạnh nhau tại đó, hẳn nàng sẽ chỉ ra chúng tôi trong khoảnh khắc, hay cùng lắm chỉ sau một chút băn khoăn. Nhưng cả nàng lẫn những người khác không ai ngờ hoặc tưởng tượng nổi tôi lại có thể là ai khác ngoài nhà vua. Vậy là sự giống nhau hoàn hảo, và trong một giờ đồng hồ tôi đứng đó, cảm thấy mệt mỏi chán chường như thể đã làm vua suốt đời; tất cả mọi người lần lượt hôn tay tôi, các vị đại sứ đến chúc mừng, trong số họ có ông lão Lord Topham, tôi đã từng khiêu vũ có đến hai mươi lần tại nhà ông ở Quảng trường Grosvenor, ơn Chúa, ông lão cũng mù dở như một con dơi, và chẳng hề lên tiếng nhận quen tôi.
Kế tiếp, chúng tôi quay trở ra, diễu hành qua các đường phố tới Cung điện, tôi nghe thấy người ta reo hò chào đón Michael Đen; nhưng bản thân công tước, Fritz cho tôi hay, ngồi cắn móng tay tư lự, và thậm chí cả bạn bè của công tước cũng nói anh ta đáng ra nên có màn thể hiện oai vệ hơn. Lúc này tôi ngồi trên một chiếc xe ngựa, cạnh công nương Flavia, và một anh chàng thô kệch hét lên:
“Khi nào đến đám cưới đây?,” khi anh ta nói vậy, một người khác đấm vào mặt anh ta và hô to: “Công tước Michael muôn năm!” khiến công nương đỏ mặt - một sắc mặt thật duyên dáng - và nhìn thẳng về phía trước.
Đến lúc này tôi cảm thấy mình rơi vào tình thế khó khăn, vì tôi đã quên hỏi Sapt về tiến triển tình cảm của mình, hay tình trạng mối quan hệ giữa công nương và tôi. Thành thực mà nói, nếu tôi là nhà vua, mối quan hệ tiến triển càng xa theo hướng tích cực tôi sẽ càng thấy hài lòng hơn. Vì tôi không phải một người kiên nhẫn, tôi đã không hôn lên má công nương Flavia để rồi chẳng cảm thấy gì. Những ý nghĩ này trôi qua trong đầu tôi, nhưng vì không biết chắc tình thế của mình, tôi im lặng; và sau vài khoảnh khắc, khi đã bình tĩnh lại, công nương quay sang tôi.
“Rudolf,” - nàng nói - “bệ hạ có biết hôm nay trông người có vẻ hơi khác không?” Điều này chẳng có gì đáng ngạc nhiên, nhưng lời nhận xét quả đáng lo ngại.
“Trông bệ hạ,” - nàng nói tiếp - “điềm đạm hơn, bình tĩnh hơn, trông người gần như đang lo nghĩ, và thần thiếp dám chắc người gầy hơn. Chắc không phải bệ hạ đã bắt đầu nghiêm túc về điều gì đó đấy chứ?”
Có vẻ công nương dành cho nhà vua cùng cách nhìn nhận mà phu nhân Burlesdon dành cho tôi.
Tôi đón nhận cuộc trò chuyện.
“Điều đó liệu có làm công nương hài lòng không?” - Tôi dịu giọng hỏi. “Ồ, bệ hạ biết quan điểm của thần thiếp mà,” - Nàng nói, đưa mắt tránh đi.
“Bất cứ điều gì khiến công nương hài lòng ta sẽ cố làm,” - tôi nói; và khi nhìn thấy nụ cười cùng gương mặt ửng đỏ của nàng, tôi thầm nghĩ mình đã thế vai rất khá cho nhà vua. Vậy là tôi tiếp tục, và điều tôi nói hoàn toàn thành thật:
“Em họ thân mến của ta, ta cam đoan với công nương là chưa có gì trong cuộc đời ta từng tạo nên ấn tượng mạnh hơn cuộc chào đón ta nhận được hôm nay.”
Nàng mỉm cười rạng rỡ, nhưng chỉ sau giây lát lại trầm tư trở lại, thì thầm:
“Người có để ý Michael không?”
“Có,” - tôi đáp, rồi nói tiếp - “cậu ta không được vui lắm.” “Hãy cẩn thận!” - Flavia nói tiếp. “Người chưa - đúng thế - kiểm soát công tước đủ chặt chẽ đâu. Bệ hạ biết...”
“Ta biết,” - tôi nói - “cậu ta muốn cái mà ta có.”
“Phải. Người khẽ thôi!”
Thế rồi - tôi không thể biện minh cho chuyện này, vì tôi đã đẩy nhà vua đi quá xa so với những gì tôi có quyền làm - tôi đoán vì nàng đã làm tôi bất cẩn, tôi nói tiếp:
“Và có lẽ cả một thứ mà ta vẫn chưa có, nhưng hi vọng sẽ dành được một ngày nào đó.”
Dưới đây là câu trả lời tôi nhận được. Nếu là nhà vua, hẳn tôi đã thấy nó đầy hứa hẹn:
“Không phải người đã phải gánh lấy đủ trách nhiệm trên mình trong một ngày rồi sao, anh họ?”
Bùm, bùm! Pom, pom! Chúng tôi đã tới cung điện. Súng nổ rền, những cây kèn trumpet kêu vang. Từng hàng người hầu đứng đợi, và sau khi đỡ công nương Flavia xuống cầu thang cẩm thạch, tôi chính thức tiến vào tiếp quản, với tư cách nhà vua đã đăng quang, cung điện của các bậc tiền bối, và ngồi vào bàn ăn của tôi, với cô em họ tôi ngồi bên phải, phía bên kia
nàng là Michael Đen, còn bên trái tôi là ngài Hồng y. Sapt đứng phía sau ghế tôi; ở phía cuối bàn, tôi thấy Fritz von Tarlenheim vừa uống cạn tới đáy ly champagne của anh có phần sớm hơn nên làm theo phép lịch sự. Tôi tự hỏi đức vua Ruritania đang làm gì.
CHƯƠNG 6
Bí mật căn hầm
Chúng tôi đang ở trong phòng thay đồ của nhà vua - Fritz von Tarlenheim, Sapt và tôi. Tôi kiệt sức gieo mình xuống một chiếc ghế bành. Sapt châm tẩu thuốc. Ông không nói lời chúc mừng nào cho thành công ngoạn mục của màn mạo hiểm rồ dại chúng tôi đã thực hiện, nhưng toàn bộ con người ông toát lên vẻ hài lòng. Thành công, có lẽ được thêm cả rượu vang ngon trợ sức, đã biến Fritz thành một người mới.
“Quả là một ngày đáng nhớ với ngài!” - Anh ta reo lên. - “Có Chúa chứng giám, tôi cũng muốn tự mình làm vua trong mười hai giờ đồng hồ! Nhưng Rassendyll này, ngài nhất thiết không nên để tâm nhiều quá tới vai diễn này. Tôi không lấy làm lạ vì sao Michael Đen trông còn đen kịt hơn bao giờ hết, ngài và công nương đã có quá nhiều thứ để nói với nhau.”
“Công nương đẹp biết chừng nào!” - Tôi thốt lên.
“Đừng bận tâm tới công nương,” - Sapt hầm hừ. - “Cậu sẵn sàng lên đường chưa?”
“Rồi,” - Tôi nói, kèm theo một tiếng thở dài.
Lúc này đã năm giờ, và đến mười hai giờ tôi sẽ chỉ là Rudolf Rassendyll không hơn. Tôi bình phẩm về chuyện đó với giọng bông lơn. “Cậu sẽ rất may mắn,” - Sapt nhận xét đầy khắc nghiệt - “nếu không trở thành Rudolf Rassendyll đã quá cố. Có Chúa trên trời! Tôi cảm thấy cái đầu tôi luôn lung lay trên cổ mỗi phút cậu còn ở lại trong thành phố. Anh bạn, cậu có biết Michael đã nhận được tin báo từ Zenda không? Công tước đã một mình lánh vào phòng để đọc tin, và chui ra như một kẻ sững sờ.” “Tôi sẵn sàng rồi,” - Tôi nói, tin mới này càng làm tôi ít có hứng thú nấn ná hơn.
Sapt ngồi xuống.
“Ta cần viết cho chúng ta một mệnh lệnh rời thành phố. Michael là thống đốc, cậu biết đấy, và chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho các phiền toái. Cậu cần phải ký lệnh.”
“Ngài đại tá thân mến, tôi đâu được sinh ra để làm kẻ giả mạo chữ ký!” Sapt lấy từ trong túi áo ra một tờ giấy.
“Đây là chữ ký của nhà vua,” - ông nói - “còn đây,” ông nói tiếp, sau khi tìm kiếm lần nữa trong túi áo - “là giấy than. Nếu cậu không thể bắt chước nổi một từ “Rudolf” trong vòng mười phút nữa, sao chứ - tôi có thể.”
“Nền tảng giáo dục của ngài đã hoàn thiện hơn của tôi,” - tôi nói. - “Ngài viết đi.”
Và vị anh hùng đa năng này đã tạo ra một bản giả mạo vô cùng khả dĩ. “Bây giờ, Fritz,” - ông nói - “nhà vua đi ngủ. Người đã mệt. Không ai được phép gặp người cho tới chín giờ sáng mai. Cậu hiểu chứ, không ai cả.”
“Tôi hiểu,” - Fritz đáp.
“Michael có thể tới và xin diện kiến lập tức. Cậu sẽ trả lời là chỉ có các hoàng tử mang dòng máu hoàng tộc được hưởng quyền đó.” “Như thế sẽ làm Michael mếch lòng,” - Fritz bật cười.
“Cậu hiểu chưa đấy?” - Sapt hỏi lại. - “Nếu cánh cửa căn phòng này bị mở ra trong khi chúng tôi vắng mặt, cậu sẽ không còn sống để kể cho chúng tôi biết về điều đó đâu.”
“Tôi không cần ai lên lớp, đại tá,” - Fritz nói, có chút cao ngạo. “Nào, khoác kín chiếc áo choàng này,” - Sapt tiếp tục - “và đội cái mũ mềm lưỡi trai này lên đầu. Người cần vụ của tôi sẽ đi ngựa cùng tôi tới chỗ nhà đi săn tối nay.”
“Có một trở ngại,” - Tôi nhận xét. “Không con ngựa nào có thể chở tôi đi bốn mươi dặm được.”
“Ồ, được đấy, hai con: một ở đây, một ở chỗ căn nhà. Giờ cậu sẵn sàng rồi chứ?”
“Tôi sẵn sàng,” - Tôi nói.
Fritz chìa tay ra.
“Ngộ nhỡ,” - Anh ta nói; và chúng tôi chân thành bắt tay thật chặt. “Đồ ủy mị mắc dịch!” - Sapt gắt lên - “Đi thôi.”
Ông bước đi, nhưng không phải ra cửa, mà tới một tấm ván trên tường. “Vào thời tiên vương” - Ông nói - “ta biết quá rõ lối đi này.” Tôi đi theo ông, và chúng tôi bước đi, như tôi ước lượng, gần hai trăm
mét theo một lối đi hẹp. Sau đó, chúng tôi tới trước một cánh cửa gỗ sồi chắc chắn. Sapt mở khóa. Chúng tôi đi qua, thấy mình đang ở ngoài con phố vắng lặng chạy dọc đằng sau khu vườn cung điện. Một người đàn ông đang đợi chúng tôi cùng hai con ngựa. Trong đó có một con ngựa hồng tuyệt đẹp, có thể chịu được kỵ sĩ với bất cứ cân nặng nào; còn lại là một con ngựa nâu cứng cáp. Sapt ra hiệu bảo tôi leo lên con ngựa hồng. Không nói một lời với người đàn ông, chúng tôi lên ngựa lao đi. Thành phố tràn ngập tiếng hội hè ồn ã tưng bừng, nhưng chúng tôi lựa chọn những con phố vắng vẻ. Chiếc áo choàng quấn quanh người che kín nửa khuôn mặt tôi, chiếc mũ mềm lưỡi trai rộng che kín toàn bộ mái tóc trứ danh của tôi. Theo chỉ dẫn của Sapt, tôi cúi gục người trên yên, cưỡi ngựa với cái lưng còng mọp như thể hi vọng không bao giờ phải ngồi lên ngựa thêm lần nữa. Chúng tôi phi ngựa xuống một con hẻm chật hẹp, gặp vài người đi lang thang và dăm kẻ huyên náo om sòm; và trong lúc thúc ngựa đi, chúng tôi nghe thấy tiếng chuông nhà thờ lớn vẫn vang lên chào mừng nhà vua. Lúc ấy đã sáu giờ rưỡi, trời vẫn còn sáng. Cuối cùng, chúng tôi cũng tới bức tường thành của thành phố và tìm đến một cổng thành.
“Chuẩn bị vũ khí của cậu sẵn sàng,” - Sapt thì thầm. - “Chúng ta phải bịt miệng hắn lại nếu hắn chống cự.”
Tôi áp bàn tay lên khẩu súng ổ quay của mình. Sapt lớn tiếng dồn dập gọi người gác cổng. Các vì sao đã ủng hộ chúng tôi! Một cô bé mười bốn tuổi xuất hiện.
“Thưa ngài, bố cháu đã đi xem nhà vua rồi.”
“Đáng ra ông ta nên có mặt ở đây,” - Sapt cười hết cỡ, nói với tôi. “Nhưng bố cháu nói cháu không được mở cổng, thưa ngài.” “Ông ta nói vậy sao, cô bé?” - Sapt vừa nói vừa xuống ngựa. - “Vậy hãy đưa chìa khóa cho ta.”
Chìa khóa nằm trên bàn tay cô bé. Sapt cho cô bé một đồng crown. “Đây là lệnh nhà vua. Hãy đưa nó cho bố cháu. Cần vụ, mở cổng!”
Tôi xuống ngựa. Chúng tôi cùng nhau kéo cánh cổng lớn, dắt ngựa ra, rồi đóng cổng lại.
“Tôi sẽ lấy làm ái ngại cho anh chàng gác cổng nếu Michael phát giác ra anh ta không có mặt ở đó. Bây giờ, chàng trai, phi nước kiệu. Chúng ta không được phép đi quá nhanh trong khi còn ở gần thành phố.”
Tuy nhiên, một khi đã ra ngoài thành, chúng tôi không gặp phải nhiều nguy hiểm, vì tất cả những người khác đều đang ở trong thành hân hoan vui chơi; và khi màn đêm buông xuống, chúng tôi thúc ngựa phi nhanh hơn, con ngựa tuyệt vời của tôi lao đi như thể tôi chỉ là một cọng lông vũ. Tối hôm đó trời đẹp, mặt trăng nhanh chóng xuất hiện. Chúng tôi nói rất ít trên đường, và chủ yếu về việc chúng tôi đang thực hiện.
“Tôi không biết thư tín gửi tới công tước đã cho anh ta biết những gì,” - một lần tôi lên tiếng.
“Phải, tôi cũng tự hỏi thế!” - Sapt đáp.
Chúng tôi dừng lại nửa giờ uống ít rượu vang và cho ngựa nghỉ. Tôi không dám vào quán mà nán lại trong tàu ngựa cùng lũ ngựa. Rồi chúng tôi lại tiếp tục hành trình, và đã đi được chừng hai mươi lăm dặm thì Sapt đột ngột dừng lại.
“Nghe xem!” - Ông nói.
Tôi lắng nghe. Đằng xa, phía sau chúng tôi, trong màn đêm yên ắng - lúc đó vừa quá chín giờ rưỡi - chúng tôi nghe thấy tiếng vó ngựa. Gió thổi mạnh lại từ đằng sau mang theo âm thanh. Tôi đưa mắt nhìn Sapt.
“Đi nào!” - ông hét lên, và thúc con ngựa của mình phi nước đại. Lần tiếp theo dừng lại để lắng nghe, tiếng vó ngựa không còn vang lên nữa, và chúng tôi chậm lại. Rồi chúng tôi lại nghe thấy chúng. Sapt nhảy xuống áp tai xuống đất.
“Có hai người,” - ông nói. - “Chúng chỉ cách đằng sau một dặm. Ơn Chúa là con đường uốn lượn, và gió lại thổi về phía chúng ta.” Chúng tôi tiếp tục phi nước đại. Dường như chúng tôi đã bứt thoát được. Chúng tôi đã vào rìa khu rừng Zenda, và những thân cây khép lại sau lưng trong khi con đường uốn lượn hình chữ chi, khiến chúng tôi không thấy những kẻ truy đuổi và chúng cũng chẳng thể thấy chúng tôi. Nửa giờ nữa trôi qua, chúng tôi tới một ngã ba đường. Sapt ghì cương.
“Bên phải là con đường của chúng ta,” - ông nói. - “Bên trái là đường tới lâu đài. Mỗi con đường dài chừng tám dặm. Xuống ngựa đi.” “Nhưng chúng sẽ bắt kịp chúng ta!” - Tôi kêu lên.
“Xuống ngựa nào!” - Ông đại tá cục cằn nhắc lại; và tôi tuân theo. Khu rừng mọc dày tới tận mép đường. Chúng tôi dắt ngựa vào chỗ nấp, lấy khăn tay buộc che mắt chúng, rồi đứng cạnh chúng.
“Ông muốn xem chúng là ai?” - Tôi thì thầm.
“Phải, và chúng đi đâu,” - Ông đại tá trả lời.
Tôi thấy ông đã cầm sẵn khẩu súng ổ quay của mình.
Tiếng vó ngựa vọng lại mỗi lúc một gần. Mặt trăng tròn lúc này hiện lên thật rõ và sáng, làm cả con đường ngập trắng ánh trăng. Mặt đường cứng, và chúng tôi đã không để lại dấu vết nào.
“Chúng đây rồi!” - Sapt thì thào.
“Đó là công tước!”
“Tôi nghĩ vậy,” - Ông đáp.
Đó chính là công tước; cùng với anh ta là một anh chàng to vâm tôi biết rõ, và gã ấy sau này cũng có lý do để biết tôi - Max Holf, em trai viên quản lý Johann, cũng là vệ sĩ của Michael. Hai người họ đã tới ngang chỗ chúng tôi: công tước ghì cương. Tôi thấy ngón tay trỏ của Sapt cong lại thật dễ mến về phía cò súng. Tôi tin ông sẵn lòng đổi mười năm của đời mình lấy một phát súng; và ông đã có thể loại bỏ Michael Đen cũng dễ dàng như tôi có thể bắn một con gà đang đứng lù lù trong sân trang trại. Tôi đặt bàn tay lên cánh tay ông. Ông gật đầu trấn an; viên đại tá luôn sẵn sàng hy sinh ước muốn của mình cho bổn phận.
“Đường nào?” - Michael Đen hỏi.
“Tới lâu đài, thưa điện hạ,” - người đồng hành của công tước thúc giục. - “Tại đó chúng ta sẽ biết sự thật.”
Công tước do dự trong giây lát.
“Ta nghĩ ta đã nghe thấy tiếng vó ngựa,” - Anh ta nói.
“Tôi không nghĩ là vậy, thưa điện hạ.”
“Tại sao chúng ta không nên tới chỗ nhà đi săn?”
“Tôi sợ một cái bẫy. Nếu mọi sự ổn thỏa, tại sao phải tới đó làm gì? Nếu không đó là cạm bẫy chăng sẵn để bẫy chúng ta.”
Đột nhiên con ngựa của công tước hí lên. Trong giây lát, chúng tôi lấy áo choàng quấn trùm quanh đầu lũ ngựa của mình, giữ lấy chúng như thế, đồng thời chĩa súng ổ quay của chúng tôi vào công tước và tay tùy tùng. Nếu phát hiện ra chúng tôi lúc ấy, hẳn bọn họ đã chết hay trở thành tù binh của chúng tôi.
Michael nấn ná thêm giây lát. Rồi anh ta lớn tiếng:
“Vậy thì tới Zenda!” và thúc đinh thúc ngựa, phi nước đại lao đi. Sapt giơ súng của ông lên ngắm theo anh ta, và trên khuôn mặt viên đại tá hiện rõ vẻ tiếc rẻ đầy phiền muộn tới mức tôi phải cố hết sức để không phá lên cười.
Trong mười phút, chúng tôi đứng yên tại đó.
“Cậu thấy đấy,” - Sapt nói - “đám thuộc hạ đã báo tin với công tước là mọi việc ổn cả.”
“Thế nghĩa là sao?” - Tôi hỏi.
“Có Chúa mới biết được,” - Sapt nói, trán cau lại đăm chiêu. - “Nhưng nó đã lôi công tước từ Strelsau tới đây trong tâm trạng bối rối hiếm thấy.” Sau đó chúng tôi lên ngựa, đi nhanh hết mức mà những con ngựa đã mệt nhoài của chúng tôi còn có thể chạy. Trong tám dặm cuối cùng, chúng tôi chẳng nói thêm gì nữa. Trong đầu chúng tôi đầy ắp lo âu. “Mọi việc ổn cả.” Như thế có nghĩa là gì? Liệu mọi thứ có ổn cả với nhà vua? Cuối cùng, nhà đi săn xuất hiện trong tầm mắt. Thúc ngựa phi nước đại một cữ cuối cùng, chúng tôi lao tới trước cửa. Tất cả đều vắng lặng, im ắng. Không có ai ra gặp chúng tôi. Chúng tôi vội vã xuống ngựa. Đột nhiên Sapt giữ lấy cánh tay tôi.
“Nhìn kìa!” - Ông vừa nói vừa chỉ tay xuống đất.
Tôi nhìn xuống. Dưới chân tôi nằm rải rác năm hay sáu chiếc khăn tay lụa, bị cắt xé rách toang. Tôi quay sang ông dò hỏi.
“Đó là nhũng chiếc khăn tôi đã dùng để trói bà mẹ,” - ông nói. - “Buộc ngựa lại, và vào xem sao.”
Tay nắm cửa xoay đi dễ dàng. Chúng tôi bước vào căn phòng nơi đã diễn ra chầu rượu tối qua. Trong phòng vẫn vương vãi tàn tích còn lại từ bữa ăn của chúng tôi và những vỏ chai rỗng.
“Đi nào,” - Sapt gầm lên, thái độ bình tĩnh đáng kinh ngạc của ông cuối cùng cũng gần như tan biến. Chúng tôi hối hả lao xuống lối đi về phía các gian hầm. Cánh cửa căn hầm đựng than mở toang.
“Bọn chúng đã tìm ra bà ta,” - Tôi nói.
“Có thể biết điều đó từ mấy cái khăn tay rồi,” - Ông đáp. Sau đó, chúng tôi tới cửa hầm rượu. Cánh cửa đóng chặt. Về mọi khía cạnh, trông nó vẫn hệt như lúc chúng tôi rời đi hồi sáng.
“Bình tĩnh nào, vẫn ổn cả,” - Tôi nói.
Sapt bật ra một tiếng rủa thật lớn. Khuôn mặt ông tái mét, ông lại chỉ xuống sàn. Từ dưới cánh cửa, một vết đỏ loang rộng ra trên sàn lối đi và khô lại ở đó. Sapt khuỵu xuống tựa vào bức tường đối diện. Tôi thử mở cửa. Nó bị khóa.
“Josef đâu?” - Sapt lẩm bẩm.
“Nhà vua đâu?” - Tôi đáp lại.
Sapt lấy ra một cái chai và đưa lên miệng. Tôi chạy vội trở lại phòng ăn, vớ lấy một cây cời lò to từ chỗ lò sưởi. Trong cơn kinh hoàng và kích động tột độ, tôi nện như mưa vào ổ khóa, rồi bắn một phát vào nó. Ổ khóa bật tung, cánh cửa mở toang.
“Tìm cho tôi thứ gì chiếu sáng,” - Tôi nói; nhưng Sapt vẫn tựa lưng vào tường.
Tất nhiên, ông đang bị chấn động hơn tôi, vì viên đại tá yêu quý chủ nhân của mình. Ông không hề lo sợ cho bản thân - chưa từng có ai thấy ông như vậy; nhưng nghĩ tới điều có thể đang nằm trong căn hầm tối tăm kia là đủ để bất cứ ai cũng phải tái mặt. Tôi tự đi tìm nguồn sáng, lấy một giá nến bạc từ trên bàn ăn và đánh lửa, khi quay trở lại, tôi cảm thấy những giọt sáp nến nóng rỏ xuống bàn tay mình khi cây nến run rẩy lay qua lay lại; vì vậy tôi không thể cho phép mình coi thường đại tá Sapt vì cơn choáng váng của ông.
Tôi tới cửa căn hầm. Vết màu đỏ ngày càng chuyển sang một màu nâu xỉn, chạy dài vào trong. Tôi đi sâu hai mét vào trong hầm, cầm cây nến giơ lên cao quá đầu mình. Tôi thấy các thùng bông đựng rượu vang; tôi thấy những con nhện bò trên tường; tôi cũng thấy hai vỏ chai rỗng nằm trên sàn; rồi sau đó, ở góc đằng xa, tôi nhìn thấy thân hình một người đàn ông nằm ngửa, hai cánh tay giang rộng, và một vệt đỏ sậm chạy ngang qua cổ. Tôi
bước tới quỳ xuống bên cạnh người đó, cầu Chúa hãy đón nhận linh hồn của một con người trung thành. Đó là thi thể của Josef, người hầu nhỏ nhắn đã bị giết hại trong khi canh chừng nhà vua.
Tôi cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình, ngoái lại, và thấy Sapt, đôi mắt mở trừng trừng kinh hoàng, ở cạnh mình.
“Bệ hạ? Chúa ơi! Bệ hạ?” - Ông khàn khàn thì thào. Tôi đưa cây nến soi khắp từng ngóc ngách căn hầm. “Bệ hạ không có ở đây,” - Tôi đáp.
CHƯƠNG 7
Nhà vua ngủ tại Strelsau
Tôi đưa cánh tay quàng quanh hông Sapt đỡ ông ra khỏi căn hầm, khép cánh cửa méo mó lại sau lưng mình. Trong chừng mười phút hay hơn, chúng tôi ngồi im lặng trong phòng ăn. Sau đó, ông già Sapt đưa các khớp đốt ngón tay lên dụi mắt, thở hắt một cái thành tiếng thật lớn, và lại là mình. Khi chiếc đồng hồ trên mặt bệ lò sưởi điểm chuông một giờ, ông dậm chân xuống sàn và nói:
“Chúng đã bắt được nhà vua!”
“Phải,” - tôi nói - “mọi việc ổn cả!” đúng như tín sứ của Michael đã nói. Hắn ta hẳn đã có một khoảnh khắc đáng nhớ khi súng chào mừng nhà vua được bắn ở Strelsau sáng nay! Tôi tự hỏi hắn đã nhận được tin khi nào?”
“Chắc hẳn tin đã được gửi đi vào buổi sáng,” - Sapt nói. - “Hẳn chúng đã báo tin này từ trước khi tin cậu tới Strelsau đến được Zenda - ta đoán chúng gửi tin từ Zenda.”
“Và hắn đã sống cùng tin đó cả ngày!” - Tôi thốt lên. - “Danh dự của tôi chứng giám, tôi không phải là người duy nhất đã có một ngày căng thẳng! Hắn đã nghĩ sao nhỉ, Sapt?”
“Chuyện đó thì có nghĩa gì? Bây giờ hắn đang nghĩ gì hả chàng trai?” Tôi đứng dậy.
“Chúng ta cần quay về,” - tôi nói - “và huy động tất cả binh lính tại Strelsau. Cần phải truy nã Michael trước buổi trưa.”
Ông già Sapt lấy cái tẩu của mình ra, cẩn thận châm tẩu bằng cây nến đang cháy và chảy dần trên bàn.
“Nhà vua có thể bị sát hại trong khi chúng ta ngồi đây!” - Tôi hối thúc. Sapt tiếp tục im lặng hút thuốc một lát.
ẳ
“Mụ già đáng nguyền rủa đó!” - Ông bật ra. - “Hẳn mụ ta đã thu hút sự chú ý của chúng bằng cách nào đó. Ta hiểu trò chơi rồi. Chúng tới để bắt cóc nhà vua, và - như ta vừa nói - bằng cách nào đó đã tìm thấy ngài ấy. Nếu cậu không tới Strelsau, thì giờ này cậu, ta và Fritz đã ở trên thiên đường rồi!”
“Còn nhà vua?”
“Ai biết được bây giờ bệ hạ đang ở đâu?” - Ông hỏi.
“Nào, rời khỏi đây thôi!” - Tôi giục; nhưng ông ngồi im.
Và đột nhiên viên đại tá bật ra một trong những tràng cười khùng khục khiến người ta phát gai người:
“Thề có Chúa, chúng ta đã làm Michael Đen choáng váng!” “Thôi nào, đi thôi!” - Tôi sốt ruột nhắc lại.
“Và chúng ta sẽ làm hắn phải choáng váng thêm chút nữa,” - ông nói thêm, một nụ cười ranh mãnh nở rộng trên khuôn mặt dãi dầu đầy nếp nhăn của ông, và hàm răng của ông mải mê nhai nhai một đầu bộ ria ngả xám. - “Phải, chàng trai, chúng ta sẽ quay về Strelsau. Nhà vua sẽ lại có mặt tại thủ đô của người vào ngày mai.”
“Nhà vua nào?”
“Nhà vua đã đăng quang!”
“Ông điên rồi!” - Tôi kêu lên.
“Nếu chúng ta quay về và kể rõ trò bịp chúng ta đã diễn, cậu cược bao nhiêu cho mạng sống của chúng ta?”
“Vừa bằng mức chúng đáng giá,” - Tôi nói.
“Thế còn ngai vàng của bệ hạ? Cậu có nghĩ giới quý tộc và dân chúng sẽ thích thú với chuyện bị lỡm như cậu đã lỡm họ không? Cậu có nghĩ họ sẽ yêu quý một nhà vua uống quá chén, và cử một người hầu đi thay ông ta không?”
“Nhà vua bị đánh thuốc mê, còn tôi không phải người hầu.” “Những gì tôi vừa nói sẽ là phiên bản Michael Đen đưa ra.” Ông đứng dậy, tới bên tôi, đặt một bàn tay lên vai tôi. “Chàng trai,” -
ông nói - “nếu cậu đóng vai ngài, rất có thể cậu vẫn cứu được nhà vua. Hãy trở lại và giữ lấy ngai vàng cho bệ hạ.”
“Nhưng công tước biết, những tên khốn hắn sai khiến biết...”
“Phải, nhưng chúng đâu thể nói ra!” - Sapt gầm lên đắc thắng đầy nghiêm nghị.
“Chúng ta đã nắm thóp được chúng! Làm sao chúng có thể tố cáo chúng ta mà không tự tố cáo bản thân? Đây không phải là nhà vua, vì chúng tôi đã bắt cóc nhà vua và sát hại người hầu của ngài. Chúng có thể nói vậy không?”
Tình thế hiện tại chợt sáng tỏ với tôi. Dù Michael có biết thân phận tôi hay không, hắn cũng không thể nói ra. Trừ khi đưa nhà vua thật lộ diện, bằng không hắn còn có thể làm gì? Và nếu hắn đưa nhà vua lộ diện, thế thì người đã ở đâu? Trong khoảnh khắc tôi chợt bị cuốn theo cơn phấn khích; nhưng chỉ giây lát sau những khó khăn lại ập tới đè nặng lên tôi.
“Chắc chắn tôi đã bị phát giác,” - Tôi thúc giục.
“Có lẽ vậy; nhưng mỗi thời khắc đều có giá trị. Trên hết, chúng ta nhất thiết phải có một nhà vua tại Strelsau, nếu không thành phố sẽ lọt vào tay Michael trong vòng hai mươi tư giờ, và đến khi đó liệu tính mạng nhà vua, hay ngai vàng của người, còn giá trị gì nữa? Chàng trai, cậu cần đóng vai người!”
“Giả dụ chúng giết nhà vua thì sao?”
“Chúng sẽ giết nhà vua, nếu cậu không chịu làm như tôi bảo.” “Sapt, giả sử chúng đã giết nhà vua rồi thì sao?”
“Nếu thế, có Chúa chứng giám, cậu cũng đủ tư cách Elphberg chẳng kém gì Michael Đen, và cậu sẽ trị vì tại Ruritania! Nhưng tôi không tin chúng đã làm thế; và chúng cũng sẽ không giết bệ hạ nếu cậu còn ngồi trên ngai vàng. Liệu chúng có giết bệ hạ để cậu hưởng lợi không?”
Đó quả là một kế hoạch điên rồ, còn điên rồ và vô vọng hơn trò bịp chúng tôi đã thực hiện; nhưng trong khi lắng nghe Sapt, tôi dần nhìn thấy những thế mạnh trong kế hoạch. Và thêm nữa, tôi là một người trẻ tuổi, tôi thích hành động, và tôi đang được đề nghị vào một vai trong một trò chơi mà có lẽ chưa từng có ai thử qua.
“Tôi sẽ bị phát giác,” - Tôi nói.
“Có thể lắm,” - Sapt nói. - “Đi nào! Về Strelsau! Chúng ta sẽ bị tóm như chuột trong bẫy nếu nấn ná lại đây.”
“Sapt,” - tôi cao giọng - “tôi sẽ thử!”
“Hay lắm!” - Ông nói. - “Tôi hy vọng chúng vẫn để ngựa lại cho chúng ta. Tôi sẽ đi kiểm tra xem.”
“Chúng ta cần chôn cất anh chàng tội nghiệp đó,” - Tôi nói. “Không có thời gian,” - Sapt bảo.
“Tôi sẽ làm việc đó.”
“Quỷ bắt cậu đi!” - Ông nhăn mặt. - “Tôi biến cậu thành một ông vua, và... Thôi được rồi, làm đi. Đi mang cậu ta lên trong khi tôi xem xét lũ ngựa. Cậu ta sẽ không được nằm sâu lắm đâu, nhưng tôi lấy làm ngờ là cậu ta lại bận tâm tới chuyện đó. Cậu nhóc Josef tội nghiệp! Cậu ta quả là một người trung thực.”
Ông ra ngoài, còn tôi xuống hầm. Tôi bế anh chàng Josef khốn khổ trên tay và mang anh ta ra ngoài lối đi, rồi ra phía cửa. Tôi đặt anh ta xuống ngay bên trong cửa vì chợt nhớ mình cần tìm xẻng cho việc chúng tôi cần làm. Đúng lúc ấy Sapt xuất hiện.
“Lũ ngựa vẫn ổn cả; có cả người anh em của đúng con ngựa đã đưa cậu tới đây. Nhưng cậu có thể miễn cho mình việc chôn cất được rồi đấy.” “Tôi sẽ không đi trước khi cậu ấy được chôn cất.”
“Có, cậu sẽ đi.”
“Không phải tôi, đại tá Sapt; cho dù để đổi lấy cả Ruritania cũng không.”
“Đồ dở hơi!” - ông nói. - “Lại đây!”
Ông kéo tôi ra cửa. Mặt trăng đang lặn xuống, nhưng cách chỗ chúng tôi chừng ba trăm mét, dọc theo con đường từ Zenda tới, tôi nhìn thấy một toán người. Có khoảng bảy hay tám người; bốn cưỡi ngựa, số còn lại đi bộ, và tôi thấy chúng mang những món dụng cụ dài mà tôi đoán là xẻng hay cuốc chim trên vai.
“Chúng sẽ miễn cho cậu nỗi bận tâm,” - Sapt nói. - “Đi thôi!” Ông có lý. Không nghi ngờ gì nữa, toán người đang tới hẳn là thủ hạ của công tước Michael, tới để xóa dấu vết việc xấu xa chúng đã làm. Tôi không do dự nữa, nhưng một khao khát không thể cưỡng lại thôi thúc tôi. Chỉ vào thi thể của Josef bé nhỏ tội nghiệp, tôi nói vói Sapt: “Đại tá, chúng ta nhất định phải giáng trả một đòn vì cậu ấy!”
“À, cậu muốn kiếm cho cậu ta vài người đồng hành! Nhưng việc đó quá mạo hiểm, tâu bệ hạ.”
“Tôi cần phải nện chúng một trận,” - Tôi nói.
Sapt ngần ngừ.
“Được,” - ông nói - “đây không phải là công việc, cậu biết đấy; nhưng cậu đã cư xử như một chàng trai đàng hoàng, và nếu chúng ta không thành công, thì sao chứ, cứ việc treo cổ ta lên, làm thế sẽ bớt cho chúng ta được khối nghĩ ngợi! Tôi sẽ chỉ cho cậu thấy cần nện chúng thế nào.”
Ông thận trọng khép cánh cửa hé mở lại.
Sau đó, chúng tôi lui vào trong nhà, nấp ở cửa sau. Tại đây ngựa của chúng tôi đang đứng chờ. Một con đường dành cho xe ngựa chạy vòng quanh căn nhà.
“Súng sẵn sàng chưa?” - Sapt hỏi.
“Không, với tôi là kiếm,” - Tôi nói.
“Chúa ơi, tối nay có vẻ cậu đang khát,” - Sapt tặc lưỡi. - “Thế cũng được.”
Chúng tôi lên ngựa, tuốt kiếm, và im lặng đợi trong vài phút. Sau đó, chúng tôi nghe thấy tiếng di chuyển của toán người ở phía đối diện ngôi nhà. Bọn chúng dừng lại, rồi một gã lớn tiếng:
“Nào, lôi thằng đó ra!”
“Đi!” - Sapt thì thầm.
Thúc bàn đạp vào hông ngựa, chúng tôi phi nước đại vòng quanh căn nhà, chỉ trong giây lát đã ập vào giữa đám du đãng. Sau đó Sapt nói với tôi ông đã giết một tên, và tôi tin ông; nhưng tôi không thấy gì thêm về ông nữa. Bằng một nhát chém, tôi chẻ toác đầu một gã ngồi trên con ngựa nâu, hắn ngã lộn xuống đất. Sau đó, tôi thấy mình đối diện với một gã to con, và cảm thấy còn một gã nữa bên phải. Tôi lại thúc bàn đạp vào hông con ngựa của mình lần nữa, còn thanh kiếm của tôi đâm thẳng vào ngực gã to con. Viên đạn hắn bắn réo qua sát tai tôi, gần như có thể thề nó đã chạm tai tôi. Tôi rút thanh kiếm ra, nhưng không được, vậy là tôi bỏ mặc nó và phi nước đại theo sau Sapt, người lúc này tôi thấy ở phía trước chừng hai mươi mét. Tôi vẫy tay chào từ biệt, để rồi một giây sau phải hạ nó xuống và kêu thét lên, vì một viên đạn đã cày xước ngón tay tôi, tôi cảm thấy máu. Ông già Sapt quay người lại trên yên. Kẻ nào đó lại bắn, nhưng chúng
không có súng trường, còn chúng tôi đã ở ngoài tầm súng ngắn. Sapt phá lên cười. “Thế là một cho tôi và hai cho cậu, với một chút may mắn,” - ông nói. - “Cậu nhóc Josef sẽ có bạn đồng hành.”
“Phải, vừa đủ một bộ tứ,” - Tôi nói. Máu tôi đang sôi lên, và tôi rất phấn khởi vì đã giết chúng.
“À, một ca làm đêm vui vẻ cho những gã còn lại!” - Sapt nói. - “Tôi không biết liệu chúng có nhận ra cậu không?”
“Gã to con có nhận ra; khi tôi đâm hắn tôi nghe thấy hắn la lên, “Nhà vua!”
“Tốt! Tốt! À, ta sẽ cho Michael Đen vài việc để làm trước khi ta kết thúc!”
Chúng tôi dừng lại một lát để băng bó ngón tay bị thương của tôi, lúc đó đang chảy máu rất nhiều và đau ghê gớm, vì xương đã bị tổn thương nặng. Sau đó, chúng tôi cấp tập cưỡi ngựa đi tiếp. Cơn phấn khích sau cuộc giao tranh và quyết định lớn lao chúng tôi đã đưa ra nguội dần, chúng tôi im lặng thúc ngựa trong tâm trạng nặng nề. Ngày hửng, quang đãng và lạnh lẽo. Chúng tôi bắt gặp một nông dân vừa thức giấc, yêu cầu bác ta cung cấp đồ ăn cho chúng tôi và lũ ngựa. Vờ bị đau răng, tôi che kín khuôn mặt mình. Sau đó chúng tôi lại lên đường, cho tới khi Strelsau hiện ra trước mắt. Lúc ấy đã tám giờ, hoặc gần chín giờ, các cổng thành đều đã mở như vẫn luôn vậy trừ khi tính khí thất thường hoặc là mưu toan của công tước đóng chúng lại. Chúng tôi đi vào thành phố theo cùng lộ trình như đã đi ra tối hôm trước, cả bốn chúng tôi - người và ngựa - đều mệt lử, kiệt sức. Các con phố thậm chí còn vắng lặng hơn khi chúng tôi rời đi: mọi người còn đang ngủ sau cuộc vui tối qua, chúng tôi hầu như chẳng gặp ai cho tới khi đến cánh cổng nhỏ nơi cung điện. Tại đây, người giám mã già của Sapt đang đợi chúng tôi.
“Tất cả ổn chứ, thưa ngài?” - Ông ta hỏi.
“Tất cả đều ổn,” - Sapt nói, và người giám mã bước lại chỗ tôi, nâng bàn tay tôi lên hôn.
“Bệ hạ bị thương!” - Ông ta kêu lên.
“Không sao cả,” - tôi nói trong khi xuống ngựa - “ta bị kẹp ngón tay vào cánh cửa.”
“Nhớ lấy, im lặng!” - Sapt nói. - “À! Mà ta đâu cần phải bảo ông như thế, Freyler thân mến!”
Ông già nhún vai.
“Tất cả thanh niên thỉnh thoảng lại cưỡi ngựa ra ngoài đi dạo, vậy thì sao bệ hạ lại không?” - ông ta nói; và tiếng cười của Sapt không hề làm ảnh hưởng gì tới quan điểm của người giám mã về mục đích của tôi.
“Cậu nên luôn tin tưởng một người,” - Sapt nhận xét trong khi tra chìa vào ổ khóa, “xa đến mức cậu có thể.”
Chúng tôi bước tới phòng thay đồ. Mở toang cánh cửa, chúng tôi thấy Fritz von Tarlenheim nằm dài trên xô pha, mặc nguyên quần áo. Có vẻ như anh đã ngủ, nhưng sự xuất hiện của chúng tôi làm anh tỉnh dậy. Anh đứng dậy, liếc mắt nhìn tôi một cái, reo lên hân hoan rồi quỳ gối xuống trước mặt tôi.
“Tạ ơn Chúa, bệ hạ! Ơn Chúa, bệ hạ đã an toàn!” - Fritz reo lên, đưa bàn tay lên để cầm lấy bàn tay tôi.
Phải thú nhận tôi đã rất xúc động. Vị vua này, cho dù có khiếm khuyết gì, đã khiến người ta yêu quý mình. Trong khoảnh khắc, tôi không thể buộc mình lên tiếng hay phá vỡ ảo tưởng của nhà quý tộc tội nghiệp. Nhưng ông già Sapt kiên cường không hề có cảm xúc nào như vậy. Ông vỗ bàn tay lên đùi đầy vui vẻ.
“Hoan hô, chàng trai!” - Ông reo lên. - “Chúng ta sẽ làm được!” Fritz ngỡ ngàng ngước nhìn lên. Tôi chìa bàn tay ra.
“Bệ hạ, ngài bị thương!” - Anh kêu lên.
“Chỉ là xây xước thôi,” - tôi nói - “nhưng...” tôi ngừng lại. Fritz đứng bật dậy với vẻ bàng hoàng. Cầm lấy bàn tay tôi, anh nhìn tôi từ đầu đến chân rồi lại từ chân lên đầu. Thế rồi anh đột ngột buông bàn tay tôi ra và loạng choạng lùi lại.
“Bệ hạ đâu? Bệ hạ đâu?” - Fritz hét lên.
“Im nào, đồ ngu!” - Sapt rít lên. - “Đừng to mồm thế! Đây là bệ hạ!” Một tiếng gõ cửa vang lên. Sapt nắm lấy bàn tay tôi.
“Tới đây, nhanh lên, vào phòng ngủ! Bỏ mũ và ủng của cậu ra. Leo lên giường. Trùm chăn kín lại.”
Tôi làm đúng như được yêu cầu. Một khoảnh khắc sau Sapt ngó vào, cười nhăn nhở, dẫn vào một nhà quý tộc trẻ cực kỳ bảnh bao và cung kính, anh ta tới bên giường tôi, cúi chào hết lần này tới lần khác, cho tôi hay anh ta là người nhà của công nương Flavia, và công nương đặc biệt phái anh ta tới để hỏi thăm sức khỏe bệ hạ sau những vất vả phải chịu đựng ngày hôm qua.
“Hãy chuyển lại những lời cảm ơn chân thành nhất của ta tới em họ ta,” - tôi nói - “và báo để công nương biết ta chưa bao giờ khỏe hơn trong đời mình.”
“Bệ hạ,” - Ông già Sapt nói thêm (tôi bắt đầu nhận ra ông rất thích một lời nói dối hay ho vì chính bản thân nó) - “đã ngủ một mạch suốt đêm.” Nhà quý tộc trẻ (anh ta làm tôi nhớ tới Osric trong vở kịch Hamlet) lại cúi người chào và lui ra. Màn kịch kết thúc, khuôn mặt tái mét của Fritz von Tarlenheim nhắc nhở chúng tôi về thực tế, cho dù thành thực mà nói, với chúng tôi lúc này màn kịch cũng chính là thực tế.
“Bệ hạ chết rồi sao?” - Anh ta thì thầm.
“Ơn Chúa, không,” - tôi nói. - “Nhưng nhà vua đang ở trong tay Michael Đen!”
CHƯƠNG 8
Cô em họ tóc đỏ và cậu em trai tóc đen
Cuộc sống của một ông vua có lẽ rất khó khăn; nhưng tôi xin cam đoan là cuộc sống của một ông vua giả hiệu còn khó khăn hơn nhiều. Trong ngày hôm sau, Sapt huấn luyện tôi về các bổn phận - những gì tôi buộc phải làm và buộc phải biết - trong suốt ba giờ đồng hồ; sau đó tôi vội vã ăn sáng, với Sapt vẫn ngồi đối diện, cho tôi biết nhà vua luôn dùng vang trắng vào buổi sáng và có tiếng là rất ghét các món ăn quá đúng mùa. Sau đó ngài Thủ tướng đến diện kiến trong ba giờ nữa; với ông này tôi phải giải thích rằng ngón tay bị đau của tôi (chúng tôi đã biến viên đạn đó thành một điều may mắn) không cho phép tôi viết - từ biến cố này nảy ra những lời hỏi thăm sốt sắng, những nỗ lực tìm kiếm các tiền lệ, vv. kết thúc bằng việc tôi “đánh dấu thay ngự bút” và ngài thủ tướng sẽ chứng thực cho nó bằng thừa thãi những lời thề nghiêm trang. Sau đó, ông đại sứ Pháp được mời vào để trình quốc thư; trong việc này sự mù tịt của tôi chẳng có gì nghiêm trọng, vì có vẻ nhà vua vốn cũng lơ mơ chẳng kém (chúng tôi phải tiếp qua toàn bộ các phái đoàn ngoại giao trong vài ngày kế tiếp, một lễ đăng quang luôn cần đến tất cả những lệ bộ phiền phức này).
Thế rồi cuối cùng tôi cũng được để cho yên. Tôi gọi người hầu mới của mình (để thay thế Josef tội nghiệp, chúng tôi đã chọn một chàng trai trẻ chưa bao giờ biết qua nhà vua), mang xô đa pha brandy tới cho tôi, và bảo với Sapt rằng tôi tin bây giờ tôi có thể nghỉ ngơi một chút. Fritz von Tarlenheim đang đứng cạnh.
“Có Chúa chứng giám!” - anh ta kêu lên - “chúng ta lãng phí thời gian. Chẳng lẽ chúng ta không tóm cổ Michael Đen ngay sao?” “Bình tĩnh, con trai, bình tĩnh,” - Sapt nói, nhíu mày lại. - “Điều đó hẳn sẽ rất hay ho, nhưng nó có thể khiến chúng ta trả giá đắt. Liệu Michael khi
thất thế có để bệ hạ được sống không?”
“Và,” - tôi gợi ý - “trong khi nhà vua đang ở đây, tại Strelsau, trên ngai vàng của người, bệ hạ còn có gì không vừa lòng với em trai Michael yêu quý của người đây?”
“Vậy chúng ta không làm gì sao?”
“Chúng ta sẽ không làm gì ngu ngốc,” - Sapt gầm lên.
“Thực ra, Fritz,” - tôi nói - “tôi đang nhớ tới một tình huống trong một vở kịch của người Anh chúng tôi, Nhà Phê bình, anh đã bao giờ nghe nói tới nó chưa? Hay, như anh thích, tới hai người, mỗi người đều đang chĩa một khẩu súng ổ quay vào người kia. Vì tôi không thể làm tổn hại Michael mà không làm tổn hại chính mình...”
“Và bệ hạ,” - Sapt chen vào.
“Và cứ việc treo cổ tôi lên nếu Michael không gây hại cho chính hắn nếu hắn tìm cách vạch mặt tôi!”
“Đúng lắm,” - Ông già Sapt nói.
“Nếu tôi bị phát giác,” - tôi nói tiếp - “tôi sẽ đánh bài ngửa và giao tranh đến cùng với công tước; nhưng hiện tại tôi đang chờ một nước đi từ hắn.”
“Hắn sẽ giết bệ hạ,” - Fritz nói.
“Không phải hắn,” - Sapt nói.
“Một nửa Bộ Sáu đang ở Strelsau,” - Fritz nói.
“Chỉ nửa thôi sao? Cậu chắc chứ?” - Sapt vồn vã hỏi.
“Phải, chỉ có một nửa.”
“Vậy thì bệ hạ còn sống, vì ba gã kia đang canh gác người!” - Sapt reo lên.
“Phải, ngài nói đúng!” - Fritz thốt lên, mặt bừng sáng. - “Nếu bệ hạ đã chết và bị chôn giấu, hẳn tất cả chúng đã ở đây cùng Michael. Ngài biết là Michael đã quay về rồi chứ, đại tá?”
“Ta biết, quỷ bắt hắn đi!”
“Các ngài, các ngài,” - tôi nói - “Bộ Sáu là những ai vậy?” “Tôi nghĩ cậu sẽ sớm làm quen với bọn chúng thôi,” - Sapt nói. - “Chúng là sáu nhà quý tộc Michael dùng làm hầu cận: chúng thuộc về hắn
cả phần xác lẫn phần hồn. Có ba gã người Ruritania; còn lại là một tay người Pháp, một người Bỉ và một đồng hương của cậu.”
“Tất cả chúng đều sẵn sàng cắt cổ người khác nếu Michael ra lệnh cho chúng,” - Fritz bổ sung.
“Có thể chúng sẽ cắt cổ tôi,” - Tôi đề xuất.
“Không gì nhiều triển vọng hơn đâu,” - Sapt tán thành. - “Những gã nào ở đây, Fritz?”
“De Gautet, Bersonin và Detchard.”
“Mấy gã ngoại quốc! Rõ như ban ngày rồi. Hắn mang bọn này theo, và để mấy gã người Ruritania ở lại canh bệ hạ; đó là vì hắn muốn đám Ruritania phải nhúng chàm nhiều hết mức có thể.”
“Vậy là trong số những anh bạn chúng ta hạ tại căn nhà đi săn không có thành viên nào của nhóm này?”
“Tôi ước gì đó chính là chúng,” - Sapt buồn bã nói. - “Như thể lúc này chúng chỉ còn lại bốn chứ không phải sáu nữa.”
Tôi đã bắt đầu hình thành nên một nét tính cách hoàng gia, cảm giác rằng tôi không cần thiết phải hé lộ mọi suy nghĩ hay ý đồ bí mật của mình, thậm chí là với những bạn bè thân cận nhất. Tôi đã hoàn toàn quyết tâm về hướng hành động của mình. Tôi dự định sẽ làm cho mình được lòng dân hết mức có thể, và trong cùng thời gian đó không để lộ ra bất cứ dấu hiệu thù địch nào với Michael. Bằng những cách này, tôi hi vọng làm dịu bớt mối thù địch của những người ủng hộ hắn, và như thế nếu một cuộc xung đột công khai nổ ra, hắn sẽ có vẻ là một kẻ vô ơn chứ không phải bị chèn ép.
Dẫu vậy, một cuộc xung đột công khai không phải là thứ tôi mong đợi. Lợi ích của nhà vua đòi hỏi bí mật; và trong khi sự bí mật được duy trì, tôi có một màn trình diễn hay cần họ thể hiện tại Strelsau, Michael sẽ không mạnh lên được do sự trì hoãn!
Tôi ra lệnh mang ngựa tới, rồi với Fritz von Tarlenheim tháp tùng, tôi đi ngựa vào đại lộ mới trong Công viên Hoàng gia, đáp lại mọi chào mừng với thái độ lịch thiệp hoàn hảo. Sau đó, tôi cưỡi ngựa qua vài con phố, dừng lại mua hoa của một cô gái xinh đẹp, trả cô một đồng tiền vàng; rồi
sau khi đã thu hút được lượng chú ý mong muốn (vì tôi đã có một đoàn năm trăm người theo sau mình), tôi cưỡi ngựa tới dinh thự của công nương Flavia, hỏi thăm liệu công nương có vui lòng tiếp tôi hay không. Cử chỉ này kéo theo rất nhiều mối quan tâm, và được đón nhận bằng những tiếng reo hò tán thưởng. Công nương rất được yêu mến, bản thân ông thủ tướng cũng không ngần ngại bóng gió với tôi rằng tôi càng nhiệt tình thúc đẩy chuyện theo đuổi nàng và đưa nó tới kết cuộc bao nhiêu, tôi sẽ càng dành được thiện cảm lớn hơn từ thần dân của mình bấy nhiêu. Tất nhiên, ngài thủ tướng không hiểu được những khó khăn trên con đường làm theo lời khuyên trung thành và tuyệt hảo của ông. Tuy vậy, tôi nghĩ nếu mình ghé thăm nàng thì cũng chẳng hại gì; và Fritz ủng hộ quan điểm này nhiệt thành tới mức làm tôi ngạc nhiên, cho tới khi anh ta thú thực bản thân cũng có động cơ riêng khi tán thành một chuyến ghé thăm tư dinh công nương, không gì khác hơn là mong ước được gặp mặt người tùy nữ và bạn thân từ thời thơ ấu của công nương, nữ bá tước Helga von Strofzin.
Phép xã giao biến hi vọng của Fritz thành hiện thực. Trong khi tôi được dẫn vào phòng công nương, anh ta nán lại ngoài tiền phòng cùng nữ bá tước: bất chấp những người khác cũng như đám gia nhân quanh quẩn ngay đó, tôi tin chắc hai người vẫn tìm được cơ hội tâm sự riêng; nhưng tôi không nhàn nhã để nghĩ tới họ, vì tôi đang thực hiện nước đi tế nhị nhất trong toàn bộ trò chơi khó khăn của mình. Tôi buộc phải khiến công nương ủng hộ mình, phải bày tỏ tình cảm với nàng song không được cảm thấy nó. Tôi cần phải tỏ tình cho một người khác, và làm điều này với một cô gái đẹp nhất - dù nàng có là công nương hay không - tôi từng thấy. Vậy là tôi bắt tay vào việc, và thái độ bối rối đầy duyên dáng của Flavia chẳng hề làm cuộc viếng thăm dễ dàng hơn.
“Bệ hạ đang ngày càng uy nghi hơn,” - nàng nói. - “Bệ hạ giống như vị hoàng tử trong kịch Shakespeare đã chuyển mình khi trở thành vua. Nhưng tâu bệ hạ, em đang quên mất ngài là vua.”
“Ta yêu cầu công nương chỉ nói những gì trái tim của nàng mách bảo nàng, và chỉ gọi ta bằng tên thôi.”
Nàng nhìn tôi trong giây lát.
“Vậy thì em rất vui và tự hào, Rudolf,” nàng nói. “Sao chứ, như em đã nói với bệ hạ rồi đấy, ngay cả gương mặt người cũng thay đổi.” Tôi thừa nhận lời nhận xét, nhưng không hề thích chủ đề này; vậy nên tôi nói:
“Ta nghe nói em trai ta đã trở lại. Cậu ấy đã tới chơi phải không?” “Vâng, công tước đã ở đây,” - Flavia nói, hơi cau mày lại. “Có vẻ cậu ấy không thể ở xa Strelsau lâu được,” - tôi mỉm cười nhận
xét. - “Được thôi, tất cả chúng ta đều vui được thấy cậu ấy. Cậu em ta ở càng gần thì càng tốt.”
Công nương liếc nhìn tôi với một tia thú vị ánh lên trong đôi mắt. “Vì sao vậy, anh họ? Không lẽ vì bệ hạ có thể...?”
“Thấy rõ hơn những gì cậu ấy làm chăng? Có thể lắm,” - tôi nói. - “Và tại sao nàng lại vui mừng?”
“Em đâu có nói là em vui mừng,” - Nàng trả lời.
“Có người nói vậy hộ nàng.”
“Có rất nhiều người hỗn xược,” - Nàng nói, với vẻ kênh kiệu đầy thích thú.
“Chẳng lẽ ý công nương muốn nói ta là một kẻ như thế?” “Không thể là bệ hạ,” Flavia nói, nhún người xuống làm bộ cung kính, nhưng rồi tinh nghịch nói thêm sau một thoáng ngừng: “Trừ khi, nghĩa là...”
“Được rồi, trừ khi sao đây?”
“Trừ khi bệ hạ nói với em là em có ít nhiều để tâm tới công tước Strelsau.”
Tôi thực sự ước gì mình là nhà vua.
“Nàng không để tâm tới anh họ Michael...”
“À, anh họ Michael! Em gọi anh ấy là công tước Strelsau.” “Nàng gọi cậu ấy là Michael khi gặp cậu ấy?”
“Vâng, theo lệnh của phụ thân bệ hạ.”
“Ta thấy rồi. Và giờ thì theo lệnh của ta?”
“Nếu người có lệnh như vậy.”
“Ồ, đương nhiên rồi! Tất cả chúng ta cần thân mật với Michael yêu quý.”
“Vậy em đoán bệ hạ cũng ra lệnh cho em đón tiếp cả bạn bè của Michael nữa phải không?”
“Bộ Sáu à?”
“Bệ hạ cũng gọi họ vậy sao?”
“Ta có gọi thế thật, cho hợp thời. Nhưng ta lệnh cho nàng không tiếp ai cả trừ khi nàng thích.”
“Ngoại trừ bệ hạ?”
“Ta xin được tiếp đón. Ta không thể ra lệnh.”
Trong khi tôi nói, có một tràng hoan hô vọng lên từ dưới phố. Công nương chạy tới bên cửa sổ.
“Là anh ấy!” - Nàng thốt lên. - “Là... công tước Strelsau!” Tôi mỉm cười, song im lặng. Flavia quay về chỗ ngồi. Trong vài khoảnh khắc chúng tôi ngồi im lặng. Tiếng huyên náo bên ngoài lắng xuống, nhưng tôi nghe thấy tiếng bước chân vang lên nơi tiền phòng. Tôi bắt đầu nói chuyện về những chủ đề chung chung. Việc này diễn ra trong vài phút. Tôi tự hỏi Michael thế nào rồi. Thế rồi tôi kinh ngạc khi đột nhiên Flavia siết chặt hai bàn tay vào nhau và hỏi bằng giọng bồn chồn: “Bệ hạ, có sáng suốt không khi làm công tước tức giận?” “Cái gì? Ai cơ? Làm sao ta lại làm cậu ấy tức giận được?” “Sao nữa, bằng cách khiến công tước phải đợi.”
“Em họ thân mến, ta không hề muốn làm cậu ấy...”
“À, nếu vậy công tước có được vào không?”
“Tất nhiên, nếu nàng muốn thế.”
Công nương nhìn tôi đầy tò mò.
“Bệ hạ thật buồn cười,” - nàng nói. - “Tất nhiên không ai có thể được báo danh trong khi em đang ở cùng người.”
Đây quả là một đặc quyền hay ho của ngôi vua!
“Một phép tắc tuyệt hảo!” - tôi reo lên. - “Nhưng ta đã quên bẵng mất nó; và nếu ta đang ở một mình cùng ai khác, nàng cũng không được báo danh sao?”
“Bệ hạ cũng biết rõ như em mà. Em có thể được báo danh, vì em thuộc huyết thống hoàng gia;” và trông Flavia vẫn có vẻ lúng túng. “Ta chẳng bao giờ nhớ nổi tất cả những phép tắc ngớ ngẩn này,” - tôi nói, khá yếu ớt, trong khi trong thâm tâm thầm rủa Fritz vì đã không chỉ bảo tôi. - “Nhưng ta sẽ sửa lỗi của mình.”
Tôi đứng bật dậy, mở toang cửa và bước ra tiền phòng. Michael đang ngồi bên bàn, mặt cau lại nặng nề. Tất cả những người khác đều đứng, ngoại trừ chàng thanh niên láo xược Fritz đó, đang thoải mái ngồi trong một cái ghế bành và tán tỉnh nữ bá tước Helga. Anh đứng phắt dậy khi tôi xuất hiện, với thái độ sốt sắng cung kính trái ngược hẳn với vẻ hững hờ lúc trước. Tôi chẳng khó để hiểu công tước không ưa anh chàng Fritz trẻ tuổi.
Tôi chìa tay ra, Michael bắt tay tôi, và tôi ôm lấy hắn. Sau đó, tôi kéo hắn đi cùng tôi vào phòng trong.
“Em trai,” - tôi nói - “nếu ta biết cậu ở đây, cậu đã không phải đợi lấy một giây trước khi ta đề nghị công nương cho phép đưa cậu vào gặp nàng.” Hắn cảm ơn tôi, nhưng một cách lạnh lùng. Hắn có nhiều phẩm chất đáng nể, nhưng không thể che giấu cảm xúc của bản thân. Cả một người xa lạ cũng có thể thấy hắn căm ghét tôi, và còn căm ghét hơn khi thấy tôi đang ở bên công nương Flavia; thế nhưng tôi dám chắc hắn đã cố che giấu cả hai cảm xúc ấy, hơn nữa đang cố gắng thuyết phục tôi rằng hắn tin tôi chính là nhà vua. Tôi đã không biết, tất nhiên; nhưng trừ khi nhà vua là một kẻ mạo danh vừa thông minh vừa táo bạo hơn tôi (và tôi bắt đầu nghĩ ít nhiều về chính mình trong vai trò đó), Michael sẽ không thể nào tin vậy. Và nếu hắn không tin, chắc hẳn hắn đã căm ghét tột độ việc phải tỏ vẻ cung kính với tôi, phải lắng nghe những lời xưng hô “Michael!” và “Flavia!” của tôi.
“Bệ hạ, bàn tay của người bị thương,” - Hắn nhận xét với vẻ quan tâm. “Phải, ta đã chơi trò chơi cùng một con chó lai giống,” (tôi muốn chọc tức hắn), “và cậu biết đấy, em trai, một con chó như thế có tính khí rất bất trắc.”
Hắn mỉm cười quàu quạu, đôi mắt đen của hắn nán lại trên người tôi trong giây lát.
“Nhưng không có gì nguy hiểm từ vết cắn chứ?” - Flavia kêu lên lo lắng.
“Từ vết cắn này thì không,” - tôi nói. - “Nếu ta cho nó cơ hội để cắn sâu hơn thì hẳn sự thể đã khác, em họ thân mến.”
“Nhưng hẳn con chó đã bị giết rồi chứ?” - Nàng hỏi.
“Chưa đâu. Chúng ta đang đợi để xem vết cắn có hại hay không.” “Và nếu có thì sao?” - Michael hỏi, kèm theo nụ cười quàu quạu. “Nó sẽ bị đập vào đầu, em trai,” - Tôi nói.
“Bệ hạ sẽ không chơi với nó nữa chứ?” - Flavia khẩn cầu. “Có thể là có đấy.”
“Có thể nó sẽ cắn nữa.”
“Không nghi ngờ gì,” - Tôi mỉm cười đáp lại.
Sau đó, e rằng Michael sẽ nói gì đó chắc chắn làm tôi phải tỏ vẻ bực bội (vì dù tôi có thể cho hắn thấy nỗi căm ghét của mình, tôi vẫn phải tỏ vẻ đầy sủng ái), tôi liền khen ngợi cái dáng vẻ oai hùng mà trung đoàn của hắn thể hiện cũng như màn chào đón trung thành họ dành cho tôi vào ngày đăng quang. Tiếp theo, tôi chuyển qua một màn mô tả đầy say mê về căn nhà đi săn hắn đã cho tôi mượn dùng. Nhưng hắn đột ngột đứng phắt dậy. Hắn không còn giữ được bình tĩnh, lên tiếng cáo lỗi rồi chào tạm biệt. Tuy nhiên, khi ra tới cửa, cậu em tôi dừng lại và nói:
“Tâu bệ hạ, ba người bạn của thần đang rất nóng lòng được có hân hạnh diện kiến bệ hạ. Họ đang có mặt ở đây, ngoài tiền phòng.” Tôi lập tức tới bên cạnh hắn, khoác tay hắn. Bộ dạng khuôn mặt hắn quả là ngọt như mật ong. Chúng tôi bước ra tiền phòng như hai anh em trai vô cùng thân thiết. Michael ra lệnh, và ba người kia bước tới. “Các nhà quý tộc này,” - Michael nói, với thái độ lịch thiệp nghiêm trang, và công bằng mà nói, hắn đã thể hiện một cách hoàn hảo và tự nhiên, - “là những thần tử trung thành và tận tụy nhất của bệ hạ, đồng thời cũng là những người bạn rất trung thành và thân thiết của thần.”
“Vì lý do cuối cùng cũng như đầu tiên,” - tôi nói - “ta cũng rất vui được gặp họ.”
Họ bước tới lần lượt từng người một và hôn tay tôi - De Gautet, một gã cao gầy, với mái tóc dựng đứng và bộ ria chuốt sáp; Bersonin, anh chàng
người Bỉ phương phi có tầm vóc trung bình, đầu hói (cho dù anh ta còn chưa quá tam tuần); và cuối cùng, tay người Anh, Detchard, có khuôn mặt hẹp, mái tóc sáng cắt ngắn và nước da màu đồng hun. Một người có thân hình mạnh mẽ, vai rộng, hông thon gọn. Một chiến binh cừ, song cũng là một gã không mấy tử tế, tôi thầm đánh giá về y. Tôi nói với y bằng tiếng Anh, đá nhẹ chút khẩu âm nước ngoài, và tôi dám thề y đã mỉm cười, cho dù lập tức giấu ngay nụ cười này đi.
“Vậy là quý ông Detchard biết về bí mật,” - Tôi nghĩ.
Sau khi đã tống khứ được cậu em trai yêu quý của mình cùng đám bạn hắn, tôi quay vào nói lời tạm biệt với cô em họ. Nàng đang đứng trên ngưỡng cửa. Tôi nắm lấy bàn tay nàng và nói lời cáo từ.
“Rudolf,” - nàng nói rất khẽ - “bệ hạ hãy cẩn thận, được chứ?” “Cẩn thận với cái gì kia?”
“Bệ hạ biết mà, em không thể nói được. Nhưng hãy nghĩ tính mạng của bệ hạ có ý nghĩa thế nào với...”
“Với ai cơ?”
“Với Ruritania.”
Liệu tôi đã đúng hay sai khi diễn vai này? Tôi không biết: dù lựa chọn cách nào cũng có mặt nguy hiểm, và tôi không dám nói cho nàng hay sự thật.
“Chỉ với Ruritania thôi sao?” - Tôi dịu dàng hỏi.
Cả khuôn mặt không gì sánh nổi của nàng chợt đỏ bừng.
“Với cả các bạn của bệ hạ nữa.”
“Bạn thôi ư?”
“Và với cô em họ của bệ hạ, cũng là thần tử luôn yêu quý bệ hạ nữa,” - Nàng thì thầm.
Tôi không nói nên lời. Tôi hôn tay nàng, rồi vừa quay ra vừa thầm rủa chính mình.
Bên ngoài, tôi bắt gặp quý ngài Fritz, khá đãng trí với vai trò tùy tùng của mình, đang chơi móc dây trên các ngón tay với nữ bá tước Helga. “Quỷ thật!” - anh ta nói - “chúng ta không thể lúc nào cũng ấp ủ âm mưu được. Tình yêu còn phần của nó nữa chứ.”
“Tôi cũng cho là vậy,” - Tôi nói; và Fritz, lúc đó đang đứng cạnh tôi, liền kính cẩn tụt lại sau.
CHƯƠNG 9
Công dụng mới của một chiếc bàn trà
Nếu tôi tường thuật lại chi tiết những sự kiện thông thường trong cuộc sống hàng ngày của mình vào thời gian này, bản tường thuật ấy có thể sẽ rất hữu ích cho những người không quen thuộc với nội tình các cung điện; nếu tôi hé lộ vài bí mật đã biết, chúng có thể sẽ hữu ích cho giới chính khách châu Âu. Tôi không định sẽ làm bất cứ việc nào trong hai việc kể trên. Nếu làm thế tôi sẽ rơi vào giữa Scylla của nỗi buồn tẻ và Charybdis của sự thiếu tế nhị, tôi cảm thấy tốt hơn nhiều là nên giới hạn hoàn toàn vào câu chuyện đầy kịch tính ngấm ngầm diễn ra dưới bề mặt chính trường Ruritania. Chỉ cần nói rằng bí mật đóng giả nhà vua đã có nguy cơ bị phát giác. Tôi đã phạm những sai lầm. Đã có những phút giây kém cỏi: đã cần huy động tất cả sự khéo léo uyển chuyển để suôn sẻ vượt qua những khoảng trống trong ký ức cũng như việc lãng quên mất những người quen cũ. Nhưng tôi đã thoát, nguyên do giúp tôi thoát được có lẽ phần lớn là nhờ vào tính táo bạo của kế hoạch giả mạo. Tôi tin rằng với cùng sự giống nhau về dung mạo, sẽ dễ dàng giả bộ làm vua Ruritania hơn nhiều so với đóng giả ông hàng xóm của tôi. Một hôm, Sapt bước vào phòng tôi. Ông ném ra một lá thư và nói:
“Gửi cho cậu đấy, chữ viết của phụ nữ, tôi nghĩ vậy. Nhưng trước hết tôi có vài tin cho cậu.”
“Gì vậy?”
“Bệ hạ đang ở tại lâu đài Zenda,” - Ông nói.
“Làm thế nào ông biết được?”
“Bởi vì nửa kia của Bộ Sáu đang ở đó. Tôi đã cho điều tra, và tất cả chúng đều ở đó, Lauengram, Krafstein và gã Rupert Hentzau trẻ tuổi: thề
có danh dự của tôi, quả là ba gã khốn đáng gờm hiếm có từng sống tại Ruritania.”
“Thế thì sao?”
“À, Fritz muốn cậu hành quân tới lâu đài với kỵ binh, bộ binh và pháo binh.”
“Và vượt qua hào?”
“Chắc là thế,” - Sapt cười gằn - “và sau đó chúng ta sẽ chẳng tìm thấy xác bệ hạ.”
“Ông nghĩ chắc chắn nhà vua đang ở đó?”
“Rất nhiều khả năng. Ngoài việc ba gã nọ đang ở đó, cầu rút còn luôn được kéo lên, và không ai được phép vào lâu đài nếu không có lệnh từ gã Hentzau trẻ tuổi hay từ chính Michael Đen. Chúng ta cần ngăn Fritz lại.” “Tôi sẽ tới Zenda,” - Tôi nói.
“Cậu là kẻ điên.”
“Một ngày nào đó.”
“Ồ, có thể lắm. Tuy nhiên nếu làm thế rất có khả năng cậu sẽ ở lại đó luôn.”
“Có thể lắm, ông bạn của tôi,” - Tôi dửng dưng đáp.
“Bệ hạ có vẻ cau có nhỉ,” - Sapt nhận xét. - “Chuyện yêu đương thế nào rồi?”
“Giữ mồm giữ miệng của ông đấy!” - Tôi nói.
Ông đại tá nhìn tôi một lát, rồi châm tẩu thuốc. Quả thực lúc đó tôi đang bực, và ngang ngạnh tiếp tục:
“Dù đi đâu tôi cũng bị sáu gã bám theo nhằng nhẵng.”
“Tôi biết thế; chính tôi cử bọn họ,” - Sapt bình thản đáp.
“Để làm gì?”
“À,” - Sapt vừa nói vừa bập tẩu thuốc - “chính xác ra thì cũng không bất tiện cho Michael Đen lắm nếu cậu biến mất. Một khi cậu biến mất, sẽ phải viện đến trò chơi cũ chúng ta đã ngừng, hoặc hắn sẽ phải ăn đạn vì chuyện đó.”
“Tôi có thể tự lo được cho mình.”
“De Gautet, Bersonin và Detchard đang ở Strelsau; và bất cứ gã nào trong chúng, chàng trai, đều sẵn sàng cắt cổ cậu, cũng như tôi sẵn sàng cắt cổ Michael Đen, và chúng còn mưu mô thủ đoạn hơn nhiều. Lá thư là gì vậy?”
Tôi mở thư ra và đọc to thành tiếng:
“Nếu bệ hạ muốn biết điều có liên quan mật thiết đến bệ hạ, hãy làm như chỉ dẫn trong lá thư này. Ở cuối Đại lộ Mới có một ngôi nhà tọa lạc trên khoảng đất rộng. Ngôi nhà có một cổng vòm, trên đó có tượng một tiên nữ. Khu vườn có tường bao; nơi bức tường đằng sau có một cổng vào. Vào lúc mười hai giờ đêm nay, bệ hạ hãy đi một mình qua cổng đó, rẽ phải, đi thêm hai mươi mét, bệ hạ sẽ tìm thấy một ngôi lầu hóng mát mùa hè có bậc cấp gồm sáu bậc thang dẫn lên. Bệ hạ hãy lên bậc cấp vào trong căn lầu, sẽ tìm thấy một người nói cho ngài biết điều có quan hệ mật thiết nhất tới tính mạng và ngai vàng của ngài. Lá thư này do một người bạn trung thành viết. Bệ hạ cần tới một mình. Nếu bỏ qua lời mời, tính mạng của ngài sẽ gặp nguy hiểm. Bệ hạ không được đưa lá thư này cho bất cứ ai, nếu không ngài sẽ hủy hoại một phụ nữ yêu quý ngài: Michael Đen sẽ không tha thứ.”
“Không,” - Sapt bình luận khi tôi đọc xong - “nhưng hắn có thể đọc cho người ta viết một lá thư rất mùi mẫn.”
Tôi vốn đã đi tới cùng kết luận, và định vứt lá thư đi thì nhìn thấy còn thêm chữ viết ở mặt giấy bên kia.
“Ái chà! Vẫn còn nữa.”
“Nếu ngài do dự,” - người viết thư viết tiếp - “hãy hỏi ý đại tá Sapt...” “A,” - Ông đại tá thốt lên, thực sự ngạc nhiên. - “Chẳng nhẽ người này lại coi tôi là một gã còn ngốc hơn cả cậu nữa?”
Tôi ra dấu bảo ông im lặng.
“Hãy hỏi ông ấy người phụ nữ nào sẽ làm tất cả để ngăn cản công tước cưới em họ ông ấy, và do đó làm tất cả để ngăn cản ông ấy trở thành vua? Và hỏi xem có phải tên người phụ nữ ấy bắt đầu bằng - A?” Tôi đứng bật dậy. Sapt bỏ cái tẩu của ông xuống.
“Chúa ơi, Antoinette de Mauban!” - Tôi thốt lên.
“Làm sao cậu biết?” - Sapt hỏi.
Tôi kể cho ông nghe những gì mình biết về thiếu phụ này, và tôi biết được bằng cách nào. Ông gật đầu.
“Đến lúc này thì đúng là cô ta đã có một cuộc cãi vã dữ dội với Michael,” - Ông trầm ngâm nói.
“Nếu đúng thế, Antoinette có thể hữu dụng với chúng ta,” - Tôi nói. “Song tôi tin là Michael đã viết lá thư đó.”
“Cả tôi cũng vậy, nhưng tôi muốn biết chắc chắn. Tôi sẽ đi, Sapt.” “Không, tôi sẽ đi.”
“Ông có thể đi xa tới chỗ cái cổng.”
“Tôi sẽ tới chỗ ngôi lầu hóng mát.”
“Nếu ông làm thế thì quỷ cứ bắt tôi đi!”
Tôi đứng dậy tựa lưng vào bệ lò sưởi.
“Sapt, tôi tin người phụ nữ đó, và tôi sẽ đi.”
“Tôi chẳng tin vào người phụ nữ nào hết,” - Sapt nói - “và cậu sẽ không đi.”
“Hoặc tôi sẽ tới ngôi lầu hóng mát đó, hoặc sẽ về Anh.”
Sapt bắt đầu biết chính xác khi nào có thể chỉ huy và dẫn dắt, và khi nào ông phải tuân theo.
“Chúng ta đang phải tranh đấu với thời gian,” - Tôi nói thêm. - “Mỗi ngày chúng ta để nhà vua ở đó sẽ có thêm nguy cơ mới. Mỗi ngày tôi diễn kịch thế này sẽ có thêm nguy cơ mới. Sapt, chúng ta cần mạo hiểm; chúng ta cần thúc đẩy cuộc chơi.”
“Đành vậy,” - Ông nói, kèm theo tiếng thở dài.
Để khỏi dài dòng, tóm lại là vào lúc mười một giờ rưỡi tối hôm đó, Sapt và tôi lên ngựa. Fritz được để lại sau canh chừng, đích đến của hai chúng tôi không được tiết lộ với anh ta. Đó là một đêm rất tối. Tôi không đeo kiếm, nhưng mang theo một khẩu súng ổ quay, một con dao dài, và một cây đèn mắt trâu. Chúng tôi tới bên ngoài cổng. Tôi xuống ngựa. Sapt chìa bàn tay ra.
“Tôi sẽ đợi ở đây,” - Ông nói. - “Nếu nghe thấy một tiếng súng, tôi sẽ...”
“Ở yên chỗ của ông; đó là cơ hội duy nhất của nhà vua. Ông không được phép cũng gặp bất trắc.”
“Cậu nói đúng, chàng trai. Chúc may mắn!”
Tôi đẩy cánh cổng nhỏ. Nó mở ra, và tôi thấy mình đang ở giữa một lùm cây. Có một lối đi cỏ mọc đầy, tôi rẽ phải đúng như được chỉ dẫn, thận trọng lần theo nó. Cây đèn của tôi đóng kín, khẩu súng cầm sẵn trong tay. Tôi không nghe thấy âm thanh nào. Không lâu sau, một bóng đen lớn xuất hiện lờ mờ trong màn đêm phía trước tôi. Đó là ngôi lầu hóng mát. Tới bậc cấp, tôi leo lên và thấy mình đứng trước một cánh cửa gỗ mọt ruỗng ọp ẹp, có then cài. Tôi đẩy cửa bước vào. Một người phụ nữ lao vụt tới chỗ tôi và nắm lấy bàn tay tôi.
“Đóng cửa lại,” - Người phụ nữ thì thầm.
Tôi làm theo, chĩa ánh sáng cây đèn của mình về phía cô. Người thiếu phụ mặc váy dạ tiệc, phục sức lộng lẫy, và người đẹp tóc đen khiến người ta choáng ngợp hiện lên thật lộng lẫy dưới ánh đèn mắt trâu. Ngôi lầu hóng mát là một căn phòng nhỏ trống trơn, chỉ bày hai chiếc ghế tựa và một cái bàn sắt nhỏ, loại bàn ta vẫn hay thấy trong các quán trà vườn hay quán cà phê ngoài trời.
“Đừng nói,” - thiếu phụ lên tiếng. - “Chúng ta không có thời gian đâu. Nghe đây! Tôi biết ông, ông Rassendyll. Tôi đã viết lá thư đó theo lệnh công tước.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
“Trong vòng hai mươi phút nữa, ba người sẽ có mặt ở đây để giết ông.” “Ba người - là ba người đó?”
“Phải. Đến lúc đó ông cần rời đi. Nếu không, tối nay ông sẽ bị giết...” “Hoặc là chính chúng.”
“Nghe đây! Khi đã bị giết, xác ông sẽ bị mang tới một khu hạ lưu của thành phố. Nó sẽ được tìm thấy ở đó. Michael sẽ lập tức bắt các bạn ông, trước hết là đại tá Sapt và đại úy von Tarlenheim, ban bố tình trạng giới nghiêm tại Strelsau, và phái một tín sứ tới Zenda. Ba người kia sẽ sát hại bệ hạ tại lâu đài, và công tước sẽ hoặc tự lên ngôi hoặc đưa công nương Flavia lên ngôi, ông ấy sẽ tự đăng quang nếu đủ mạnh. Dù thế nào đi nữa, công tước sẽ cưới cô ta, và trở thành vua trên thực tế, chẳng bao lâu sau là cả trên danh nghĩa. Ông hiểu chứ?”
“Một kế hoạch rất hay. Nhưng thưa quý bà, tại sao bà lại...?”
“Cứ việc coi vì tôi là một người Ki tô giáo, hay vì tôi ghen tuông, Chúa ơi! Tôi sẽ phải nhìn công tước cưới cô ta sao? Giờ hãy đi đi; nhưng hãy nhớ - đây là điều tôi cần phải nói cho ông biết - không bao giờ ông được an toàn, dù ngày hay đêm. Ba thủ hạ của Michael chưa bao giờ cách xa ông quá hai trăm mét. Tính mạng ông sẽ không đáng thêm một giây nếu có lúc nào đó chúng bắt gặp ông một mình. Giờ hãy đi đi. Đợi đã, lúc này hẳn cổng đã bị canh gác. Hãy xuống thật nhẹ nhàng, đi quá ngôi lầu này, tiếp tục thêm một trăm mét nữa, và ông sẽ tìm thấy một chiếc thang tựa vào tường. Hãy chạy trốn vì tính mạng của ông.”
“Còn bà?” - Tôi hỏi.
“Tôi cũng phải diễn phần của mình. Nếu công tước phát hiện ra những gì tôi đã làm, chúng ta sẽ không gặp lại nhau nữa. Nếu không, tôi vẫn có thể... Nhưng đừng bận tâm. Đi ngay đi!”
“Nhưng bà sẽ nói sao với công tước?”
“Là ông không đến, ông đã đoán ra cái bẫy.”
Tôi hôn lên bàn tay người thiếu phụ.
“Thưa bà,” - tôi nói - “bà đã giúp đỡ nhà vua rất nhiều tối nay. Nhà vua ở đâu trong lâu đài?”
Người thiếu phụ hạ giọng xuống chỉ còn là tiếng thì thầm đầy sợ hãi. Tôi chăm chú lắng nghe.
“Đi qua cầu rút ông tới một cánh cửa nặng; đằng sau nó là... Nghe nào! Cái gì vậy?”
Có tiếng bước chân bên ngoài.
“Chúng đang tới! Chúng đến sớm quá! Chúa ơi! Chúng đến sớm quá!” và người thiếu phụ trở nên tái nhợt như chết.
“Với tôi,” - tôi nói - “có vẻ như bọn chúng đến đúng giờ.” “Đóng đèn của ông lại. Nhìn kia, có một khe nứt trên cửa. Ông có thấy chúng không?”
Tôi ghé mắt vào khe nứt. Trên bậc cấp thấp nhất, tôi nhìn thấy ba bóng người mờ mờ. Tôi lên đạn khẩu súng ổ quay của mình. Antoinette vội vàng áp bàn tay lên bàn tay tôi.
“Ông có thể giết được một người,” - thiếu phụ nói. - “Nhưng sau đó thì sao?”
Một giọng nói vọng tới từ bên ngoài, một giọng Anh hoàn hảo. “Ông Rassendyll,” - Nó gọi.
Tôi không đáp.
“Chúng tôi muốn nói chuyện với ông. Ông hứa sẽ không bắn khi ta đã nói xong chứ?”
“Có phải tôi đang hân hạnh được nói chuyện với ông Detchard không nhỉ?”
“Đừng bận tâm đến những cái tên.”
“Vậy hãy để tên tôi được yên.”
“Được thôi, thưa ông. Tôi có một đề nghị dành cho ông.” Tôi vẫn ghé mắt vào khe hở. Ba gã kia đã bước lên thêm hai bậc cấp nữa; ba khẩu súng ổ quay chĩa thẳng vào cánh cửa.
“Ông sẽ để chúng tôi vào chứ? Chúng tôi thề danh dự sẽ tôn trọng ngừng bắn.”
“Đừng tin chúng,” - Antoinette thì thầm.
“Chúng ta có thể trao đổi qua cánh cửa.”
“Nhưng ông có thể mở nó ra và bắn,” - Detchard bác bỏ - “và dù chúng tôi sẽ kết liễu ông, nhiều khả năng ông cũng sẽ kết liễu một trong số chúng tôi. Ông thề danh dự sẽ không bắn trong khi ta nói chuyện chứ hả?” “Đừng tin chúng,” - Antoinette lại thì thầm.
Một ý tưởng chợt nảy ra trong đầu tôi. Tôi ngẫm nghĩ một lát. Nó có vẻ khả thi.
“Tôi thề danh dự sẽ không bắn trước khi các ông nổ súng,” - tôi nói - “nhưng tôi sẽ không để các ông vào. Hãy đứng ở ngoài mà nói.” “Cẩn trọng đấy!”
Ba gã bước lên bậc cấp cuối cùng, và đứng ngay ngoài cửa. Tôi áp tai vào khe nứt. Tôi không thể nghe thấy lời nào, nhưng đầu Detchard kề sát vào gã cao hơn trong hai kẻ đồng hành của y (tôi đoán là De Gautet).
“Hừm! Trao đổi riêng tư,” - tôi thầm nghĩ. Rồi tôi nói thành tiếng: “Nào, các quý ông, lời đề nghị là gì?”
“Một giấy thông hành tới biên giới và năm mươi nghìn bảng Anh.”
“Không, không,” - Antoinette thì thầm khẽ hết cỡ. - “Chúng rất tráo trở.”
“Nghe có vẻ hấp dẫn nhỉ,” - tôi nói, thăm dò qua khe nứt. Giờ ba gã đều đứng sát vào nhau, ngay ngoài cánh cửa.
Tôi đã nắm thóp được ba gã đồ tể, và chẳng cần đến lời cảnh báo của Antoinette. Chúng định “ập” vào ngay khi tôi bắt đầu câu đàm phán. “Cho tôi một phút để cân nhắc,” - tôi nói; và tôi nghĩ vừa nghe thấy một tiếng cười bên ngoài.
Tôi quay sang Antoinette.
“Đứng áp sát vào tường, tránh khỏi đường đạn bắn vào qua cửa,” - Tôi thì thầm.
“Ông định làm gì?” - Người thiếu phụ hốt hoảng hỏi.
“Bà sẽ thấy.”
Tôi nhấc cái bàn sắt nhỏ lên. Nó không mấy nặng với một người sức vóc như tôi. Mặt bàn được chĩa ra trước, tạo thành một lá chắn cho toàn bộ đầu và thân mình tôi. Tôi buộc cây đèn đã đóng vào thắt lưng và nhét khẩu súng vào một túi áo dễ lấy ra. Đột nhiên tôi thấy cánh cửa nhúc nhích dù rất nhẹ - có thể là do gió, có thể do một bàn tay đẩy nó từ ngoài.
Tôi lùi xa khỏi cửa hết mức có thể, giơ cái bàn lên ở vị trí đã mô tả. Sau đó tôi gọi ra:
“Các quý ông, tôi chấp nhận đề nghị của các vị, trông cậy vào danh dự của các vị. Nếu các vị mở cửa...”
“Ông tự mở cửa đi,” - Detchard nói.
“Cánh cửa mở ra ngoài,” - tôi nói. - “Lùi lại một chút, các quý ông, nếu không tôi sẽ va vào các vị khi mở nó.”
Tôi bước tới, khẽ gạt then. Sau đó rón rén lùi trở lại chỗ của mình. “Tôi không mở được cửa!” - Tôi nói lớn tiếng. - “Then cửa bị kẹt rồi.” “Khỉ thật! Tôi sẽ mở nó!” - Detchard nói. - “Vớ vẩn thật, Bersonin, sao lại không? Anh sợ một người sao?”
Tôi thầm mỉm cười. Một khoảnh khắc sau cánh cửa mở bung. Ánh sáng của một cây đèn lồng cho tôi thấy cả ba gã đứng sát nhau bên ngoài, súng chĩa lên. Không lên tiếng, tôi lao nhanh nhất có thể qua căn phòng và lao qua ngưỡng cửa. Ba phát súng vang lên đập vào lá chắn của tôi. Thêm một
ẳ
khoảnh khắc nữa, và tôi ập tới, cái bàn đập thẳng vào chúng, chúng cùng tôi và cái bàn kiên cường kia lăn nhào xuống bậc cấp, xuống đất thành một đống hỗn độn quay cuồng, chửi rủa, vật lộn. Antoinette de Mauban kêu thét, nhưng tôi đã đứng lên, bật cười thành tiếng.
De Gautet và Bersonin nằm như những kẻ bị ngất vì choáng. Detchard bị đè dưới cái bàn, nhưng khi tôi đứng dậy, hắn hất nó ra và lại bắn. Tôi giơ súng lên bắn một phát; tôi nghe thấy hắn bật rủa, rồi sau đó tôi chạy vụt đi như một con thỏ rừng, vừa chạy vừa cười, lao quá ngôi lầu, dọc theo bức tường. Tôi nghe thấy tiếng bước chân sau lưng mình, và quay ngoắt lại bắn cầu may lần nữa. Tiếng bước chân ngừng bặt.
“Cầu Chúa là cô ta nói thật với mình về cái thang!” vì tường rất cao và đỉnh có cắm mũi sắt.
Phải, có thang thật. Tôi leo lên và vượt qua tường trong một phút. Chạy trở lại chỗ cũ, tôi nhìn thấy lũ ngựa; rồi tôi nghe thấy một phát súng. Đó là Sapt. Ông đã nghe thấy chúng tôi, và đang bực bội nện thình thình vào cánh cổng bị khóa, đập nó, rồi bắn vào ổ khóa như người bị quỷ ám. Ông đã quên bẵng việc không được phép tham dự vào cuộc ẩu đả. Chứng kiến việc này, tôi lại bật cười và nói trong khi vỗ lên vai ông:
“Về nhà lên giường thôi, ông bạn già. Tôi có câu chuyện bàn trà hay nhất ông từng được nghe đây!”
Ông đại tá sững người reo lên: “Cậu an toàn rồi!” và siết chặt bàn tay tôi. Nhưng chỉ giây lát sau ông nói thêm:
“Và cậu đang cười cái quỷ quái gì thế?”
“Bốn quý ông quanh một cái bàn trà,” - tôi nói, vẫn tiếp tục cười, vì quả là hài hước hiếm có khi được chứng kiến ba gã sát thủ đáng gờm kia cùng bị đánh bại tả tơi không phải bởi thứ vũ khí chết người nào khác hơn một cái bàn trà.
Thêm nữa, các vị có thể thấy tôi đã giữ lời hứa danh dự của mình, không nổ súng cho tới khi chúng bắn trước.
CHƯƠNG 10
Cơ hội lớn cho một tên khốn
Theo lệ thường, mỗi buổi chiều sở cảnh sát đều gửi một báo cáo cho tôi về tình hình thủ đô và tâm trạng dân chúng: bản báo cáo cũng kèm theo một tường thuật về động tĩnh của bất cứ ai cảnh sát đã nhận được lệnh phải theo dõi. Kể từ khi tôi tới Strelsau, Sapt đã hình thành thói quen đọc báo cáo và thuật lại cho tôi bất cứ thông tin nào đáng lưu tâm. Vào ngày hôm sau cuộc phiêu lưu tới ngôi lầu hóng mát của tôi, ông bước vào khi tôi đang chơi một ván ecarte với Fritz von Tarlenheim.
“Chiều nay báo cáo có vẻ rất đáng lưu tâm,” - Ông vừa ngồi xuống vừa bình luận.
“Ông có thấy gì nhắc tới một cuộc ẩu đả không?”
Ông đại tá mỉm cười lắc đầu.
“Tôi thấy cái này đầu tiên,” - ông nói - “Đức công tước Strelsau đã rời thành phố (và như cách thức việc này diễn ra, một cách đột ngột), được tháp tùng bởi một số thuộc hạ. Điểm đến của công tước được cho là lâu đài Zenda, nhưng đoàn người đi đường bộ chứ không đi đường sắt. Các ông De Gautet, Bersonin và Detchard đi sau muộn hơn một giờ, người cuối cùng có cánh tay băng bó. Nguyên nhân chấn thương của ông ta không được biết rõ, nhưng người ta ngờ rằng ông ta đã có một cuộc quyết đấu, nhiều khả năng xuất phát từ chuyện tình ái.”
“Cũng đúng một cách xa xôi,” - Tôi nhận xét, rất hài lòng được biết mình đã để lại dấu ấn lên gã.
“Rồi chúng ta biết chuyện này,” - Sapt đọc tiếp. - “Phu nhân de Mauban, người được theo dõi động tĩnh theo lệnh, đã rời đi bằng tàu hỏa lúc trưa nay. Phu nhân mua một vé đi Dresden...”
“Một thói quen cũ của cô ta,” - Tôi bình luận.
“Đoàn tàu đi Dresden dừng lại ở Zenda.” Tay cảnh sát này sắc sảo đây. Và cuối cùng hãy lắng nghe cái này: “Dư luận trong thành không mấy khả quan. Bệ hạ bị chỉ trích rất nhiều” (cậu biết đấy, anh ta được yêu cầu phải thẳng thắn) “vì không thực hiện bước tiến nào trong cuộc hôn nhân của người. Từ kết quả điều tra qua những người thân cận với công nương Flavia, có thể tin rằng công nương rất phật ý trước thái độ chểnh mảng của hoàng thượng. Dân thường đang gắn tên công nương với tên công tước Strelsau, và công tước đã được ưa thích hơn nhiều nhờ viễn cảnh sẽ kết duyên cùng công nương.” Ta đã thu xếp để thông báo bệ hạ tổ chức một vũ hội tối nay dành cho công nương, và hiệu quả rất tốt.”
“Tin này mới với tôi đây,” - Tôi nói.
“Ồ, mọi sự chuẩn bị đã hoàn tất!” - Fritz bật cười. - “Tôi đã thu xếp chuyện này.”
Sapt quay sang tôi nói với giọng nghiêm khắc, quyết đoán: “Cậu phải tỏ tình với công nương tối nay, cậu biết đấy.”
“Tôi nghĩ rất có khả năng tôi sẽ làm thế, nếu tôi gặp nàng một mình,” - tôi nói. - “Quỷ tha ma bắt, Sapt, ông không cho rằng tôi thấy việc đó khó khăn đấy chứ?”
Fritz huýt sáo một hai nhịp nhạc; rồi anh nói: “Ngài sẽ thấy điều đó quá dễ dàng. Tôi ghét phải nói với ngài chuyện này, nhưng buộc phải nói. Nữ bá tước Helga cho biết công nương đã trở nên rất có cảm tình với bệ hạ. Kể từ lễ đăng quang, cảm xúc của công nương chuyển biến đáng kể. Đúng là công nương bị tổn thương sâu sắc trước thái độ dửng dưng của bệ hạ.”
“Rắc rối rồi đây!” - Tôi rên lên.
“Khỉ thật, thôi đi!” - Sapt nói. - “Tôi đoán cậu đã từng tuôn ra những lời có cánh với một cô gái trước đây rồi chứ hả? Đó là tất cả những gì công nương muốn.”
Fritz, bản thân anh cũng đang yêu, hiểu rõ hơn nỗi khó xử của tôi. Anh đặt bàn tay lên vai tôi, nhưng im lặng.
“Tuy vậy,” - ông già máu lạnh Sapt nói tiếp - “tôi nghĩ tốt hơn cậu nên ngỏ lời cầu hôn tối nay.”
“Lạy Chúa trên thiên đường!”
“Hoặc ít nhiều đi gần tới chuyện đó; và tôi sẽ gửi một phiên bản bán chính-thức tới báo chí.”
“Tôi sẽ không làm gì theo hướng đó hết, và cả ông cũng không!” - tôi nói. - “Tôi nhất quyết từ chối nhúng tay vào việc lừa gạt công nương.” Sapt nhìn tôi với đôi mắt nhỏ sắc sảo của ông. Một nụ cười tinh quái từ tốn lướt qua trên khuôn mặt viên đại tá.
“Được rồi, chàng trai, được rồi,” - ông nói. - “Chúng ta không nên ép cậu quá. Hãy an ủi công nương một chút nếu cậu có thể, cậu biết đấy. Còn bây giờ đến Michael.”
“Ôi, quỷ bắt Michael đi!” - tôi thốt lên. - “Ngày mai sẽ đến lượt hắn. Nào, Fritz, đi dạo một vòng ngoài vườn thôi.”
Sapt lập tức nhường bước, vẻ thô lỗ của ông che giấu một sự khôn ngoan hiếm có - như tôi ngày càng nhận ra nhiều hơn - một vốn hiểu biết đáng chú ý về bản chất con người. Vì sao ông lại hối thúc tôi ít đến thế về công nương? Vì ông biết vẻ đẹp của nàng và cảm xúc của tôi sẽ đẩy tôi đi xa hơn mọi lý lẽ của ông, và càng ít nghĩ về chuyện tỏ tình, càng nhiều khả năng tôi sẽ thực hiện nó. Hẳn ông đã thấy nỗi bất hạnh ông có thể mang tới cho công nương; nhưng với đại tá, điều đó chẳng là gì hết. Liệu tôi có thể tự tin mà kết luận là ông đã sai không? Nếu nhà vua trở về, kiểu gì công nương cũng phải kết hôn với người, dù có biết sự thay đổi hay không. Còn nếu nhà vua không thể trở về với chúng tôi thì sao? Đó là một chủ đề chưa bao giờ chúng tôi từng bàn đến. Nhưng tôi có ý tưởng rằng trong trường hợp đó, Sapt định sẽ để tôi ngồi trên ngai vàng Ruritania suốt đời. Ông hẳn sẽ đặt chính Satan ngồi lên đó còn hơn học trò của y, Michael Đen.
Vũ hội là một sự kiện xa hoa. Tôi mở đầu vũ hội bằng một điệu vũ bốn cặp với Flavia; sau đó tôi đi điệu waltz với nàng. Những đôi mắt tò mò cùng những lời thì thầm háo hức dõi theo chúng tôi. Chúng tôi cùng vào phòng dạ tiệc; và khi bữa tiệc diễn ra nửa chừng, đến lúc đó tôi đã nửa phát điên vì ánh mắt nàng đã trả lời ánh mắt tôi, và nhịp thở gấp gáp của nàng đáp lại những lời lắp bắp của tôi - tôi liền đứng dậy, trước mặt tất cả đám đông khách mời lộng lẫy, và cởi tấm băng Hoa Hồng Đỏ tôi đang đeo rồi quàng giải ruy băng cùng tấm huy chương trang trí của nó qua cổ nàng. Tôi ngồi xuống trong tiếng hoan hô náo nhiệt: tôi thấy Sapt đang mỉm cười sau ly rượu vang, còn Fritz cau mày. Phần còn lại của bữa tiệc trôi qua trong yên lặng; cả Flavia và tôi đều không thể nói gì. Fritz chạm vào vai tôi, và
"""