" Truyện Ngắn Thế Giới Chọn Lọc - Nhiều Tác Giả & Trà Ly (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Truyện Ngắn Thế Giới Chọn Lọc - Nhiều Tác Giả & Trà Ly (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn] Ebooks Nhóm Zalo TRUYỆN NGẮN THẾ GIỚI CHỌN LỌC —★— Tác giả: Nhiều tác giả Người dịch: Trà Ly NXB Văn Hóa Văn Nghệ TP.HCM ebook©vctvegroup CHÂU Á NGƯỜI KABUL Rabindranath Tagore (Ấn Độ) Đ ứa con gái năm tuổi Sakula của tôi suốt ngày líu lo như khứu. Tôi tin là con bé sẽ chẳng khi nào trầm lặng, buồn bã được. Mẹ cháu thường cáu vì điều đó, nhưng tôi thì không. Tôi coi việc Sakula trầm lặng, suy tư là rất không bình thường và không sao chịu nổi khi nó im lặng, ỉu xìu chẳng nói năng gì. Vì vậy, hai cha con tôi thường trò chuyện với nhau rất rôm rả. Chẳng hạn như, sáng hôm đó, trong khi tôi đang viết chương 17 của một tiểu thuyết mới, Sakula chạy vào phòng, đặt bàn tay nhỏ xíu của cháu vào tay tôi, nói: - Ba ơi, Unôsahin bảo, trong đám mây có con voi, khi nó phun nước ra mũi thì trời mưa đấy, đúng không ba? Tôi còn đang nghĩ cách trả lời thì con bé lại liến thoắng chuyển sang chủ đề khác: - Ba ơi, ba với má quan hệ với nhau thế nào hả ba? Tôi bất giác lẩm bẩm: “Về mặt pháp lý, má con là người em gái thân yêu nhất của ba!”, nhưng không nói rõ ra mà ngẩng lên bảo “Con đi chơi với Unôsahin đi! Ba đang bận mà!”. Cửa sổ phòng tôi mở ra phố. Thằng bé Unôsahin đang chơi bên ngoài cửa sổ. Tôi bảo Sakula ra đó chơi. Đang suy nghĩ để viết tiếp, con bé bỗng chạy đến bên cửa sổ bảo: “Ba ơi, có một người Kabul! Có một người Kabul đấy!” Tôi nhìn ra cửa sổ, quả nhiên có một người Kabul đang đi tới. Anh ta mặc bộ trang phục đặc trưng của người Apganistan bẩn thỉu, rộng thùng thình, quấn chiếc khăn to sụ trên đầu, vai đeo túi xách, tay cầm mấy hộp nho khô. Tôi không biết con gái tôi có cảm tưởng gì khi nhìn thấy con người đó, nhưng con bé bắt đầu kêu lên “A a...”. “Ôi dào, tôi nghĩ, anh ta sắp đến kìa, chuyện viết lách, hãy dừng lại đã”. Ngay lúc đó, người Kabul ngước mắt nhìn bọn trẻ khiến con bé sợ hãi bỏ chạy vào nhà với mẹ cháu. Con bé lơ mơ nghĩ rằng, trong chiếc túi mang trên vai của người đàn ông kia thế nào cũng có vài ba đứa trẻ như nó. Lúc đó gã tiểu thương kia đã bước vào nhà, mỉm cười chào tôi. Dù đang nóng lòng hoàn thành chương 17, nhưng tôi nghĩ, anh ta đã tới, mình cũng phải dừng công việc lại, mua vài thứ đồ cho anh ta vậy. Tôi mua vài thứ và bắt đầu nói chuyện với anh ta. Khi sắp đi ra, người Kabul hỏi: - Thưa ngài, cô bé vừa rồi đâu ạ? Tôi nghĩ, con bé Sakula không nên sợ sệt một cách vô cớ như vậy, nên cho gọi cháu ra. Con bé đứng sát bên tôi nhìn người Kabul và chiếc túi của anh ta. Anh ta cho con bé mấy quả nho khô, nhưng cháu không nhận, chỉ càng nép sát vào người tôi, nỗi băn khoăn e ngại của nó càng tăng thêm. Đó là lần đầu tiên Sakula và người Kabul gặp nhau. Nhưng chỉ mấy ngày sau, vào một buổi sáng nọ, khi tôi sắp đi ra ngoài thì tình cờ phát hiện con bé Sakula đang ngồi trên chiếc ghế băng trước cửa, còn người đàn ông Kabul kia lại ngồi bên chân con bé nói cười rất vui vẻ. Con bé Sakula xưa nay ngoài tôi ra, chưa bao giờ cháu gặp một ai lại nhiệt tình, chăm chú nghe cháu nói chuyện như vậy. Trên vạt áo của cháu là những quả hạnh nhân và nho khô, quà tặng của người Kabul cho con bé. - Sao anh lại cho con bé những thứ ấy? - Tôi hỏi và đưa cho anh ta đồng bạc. Anh ta có vẻ không bằng lòng, cầm lấy đồng bạc bỏ vào túi. Một lát sau khi trở về, tôi nhận ra chính đồng bạc đó đã gây phiền hà cho con bé. Bởi vì, sau khi anh chàng tiểu thương người Kabul kia cho Sakula đồng bạc, mẹ cháu đã nhìn thấy, truy hỏi: - Con lấy đồng bạc đó ở đâu, Sakula? - Người Kabul cho con đấy mẹ ạ! - Sakula vui vẻ nói. - Người Kabul cho con ư? - Mẹ con bé sợ hãi kêu lên - Sakula! Sao con lại nhận tiền của ông ấy hả? Đúng lúc đó tôi bước vào cửa và cứu con bé một “bàn thua” trông thấy. Tôi phát hiện ra hai chú cháu không chỉ gặp nhau một hai lần. Người Kabul dùng trái cây và nho khô, những của “hối lộ” có sức hấp dẫn lớn đối với bọn trẻ, làm cho con bé từ chỗ sợ hãi lúc đầu, bây giờ lại trở thành bạn thân của nhau. Hai chú cháu thường trò chuyện với nhau rất vui. Con bé tỏ ra rất thích thú khi gặp người Kabul. Sakula thường tươi cười vui vẻ ngồi trước mặt người Kabul, nhìn thẳng vào anh ta hỏi: - Người Kabul! Trong túi của chú có những gì thế? Anh ta thường dùng giọng mũi của người miền núi, đáp: - Một con voi to tướng! Con bé cười tít mắt. Người Kabul cũng không muốn bỏ lỡ cơ hội chọc cười Sakula, bèn hỏi lại: - Sakula này, bao giờ thì cháu về “công công gia” đấy? Đối với các cô gái Bangladesh, chuyện về “công công gia” (nhà chồng) họ đã biết từ nhỏ, nhưng gia đình tôi chưa bao giờ cho cháu biết chuyện này nên cháu rất mù mờ, song nó không hề để lộ điều đó, lém lỉnh hỏi: “Thế chú đã đến đó chưa?”. Mọi người ai cũng biết mấy từ “công công gia” ấy còn có một nghĩa khác. Đó là cách nói khéo của từ “nhà tù”, một nơi không cần tiêu tốn tiền bạc vẫn được “chăm sóc” chu đáo. Gã tiểu thương thô lỗ này cho rằng con gái tôi ám chỉ nơi đó. Gã “hừm” một tiếng và tưởng tượng ra cảnh những viên cảnh sát thường vung nắm đấm với mọi người, nói to: “Chú sẽ đập nát cái “công công gia” nhếch nhác ấy!” Nghe gã tiểu thương nói thế, Sakula cười lên đắc chí. Con bé không hiểu là người bạn lớn của nó cũng muốn chọc cười nó cho vui. Những ngày đầu mùa thu là những ngày mà các bậc đế vương thời cổ đại thường chinh đông phạt bắc; sống ở một góc nhỏ Calcutta này, chẳng hề đi đâu nhưng đầu óc tôi cũng phiêu diêu khắp thế giới. Chỉ cần nghe tên một đất nước nào đó là tôi muốn bay tới đó ngay để ngắm cảnh, xem người. Khi nhìn thấy người Kabul kia tôi như lạc vào cõi thần tiên với những đỉnh núi trọc, vách núi dựng đứng cao chót vót, những con đường nhỏ hẹp người chỉ có thể bò qua. Dường như tôi cũng nhìn thấy từng đoàn lạc đà chở hàng, từng toán thương nhân quấn khăn trên đầu, có người còn mang theo bên mình những thứ vũ khí cổ quái từ trên núi đi xuống đồng bằng. Tôi hầu như nhìn thấy... nhưng ngay lúc đó mẹ Sukala bước đến bảo tôi “Hãy lưu tâm tới con người đó”. Mẹ Sakula là một người đàn bà cực kỳ nhát gan. Chỉ cần nghe thấy một âm thanh nào đó trên phố hoặc nhìn thấy có người đi về phía mình là cô ấy lập tức đoán định rằng họ không thể là ai khác ngoài bọn ăn cướp, bọn say rượu, rắn độc, hổ báo, sâu bọ hoặc giả là bọn thủy thủ người Anh. Qua nhiều năm kinh nghiệm cô ấy vẫn không sao xóa được nỗi sợ hãi cố hữu của mình. Vì vậy, đối với người Kabul này cô rất nghi ngờ, thường nhắc tôi phải chú ý tới hành động của anh ta. Tôi chỉ cười nhưng cô ấy thì rất nghiêm túc nêu lên những rủi ro rất có thể xảy ra với con bé khi để nó tiếp xúc với người Kabul! Trung tuần tháng giêng hàng năm, Ôsaman, người Kabul đó thường về nước một lần. Khi sắp lên đường anh ta thường rất bận vì phải đến từng nhà thu nợ. Nhưng năm nay anh ta vẫn cố dành thời gian đến thăm Sakula mấy lần trước khi về quê. Hình như hai chú cháu có hẹn với nhau, anh ta chỉ đến thăm con bé vào buổi tối. Lúc đầu tôi cũng thấy ngài ngại nhưng về sau cảm giác ấy không còn nữa khi mà bao giờ con gái tôi cũng rất vui khi gặp người tiểu thương đó. Một buổi sáng nọ khí trời rất lạnh, tôi đang ngồi trong phòng xem sách, những tia nắng nhẹ buổi sớm chiếu vào bàn viết lan tỏa lên người tôi khiến tôi cảm thấy thư thái dễ chịu. Lúc đó khoảng 8 giờ. Đột nhiên tôi nghe có tiếng cãi vã trên phố, nhìn ra thì thấy Ôsaman bị hai viên cảnh sát áp giải, đằng sau cả một đám trẻ con bám theo. Trên áo của Ôsaman có mấy vết máu. Trong tay viên cảnh sát có một con dao nhọn. Tôi chạy ra cửa ngăn họ lại hỏi xem có chuyện gì xảy ra. Qua sự bàn tán của mọi người tôi biết Ôsaman cãi nhau với một khách hàng của mình và làm ông ta bị thương. Lúc này người Kabul đó đang rất bực tức chửi mắng kẻ thù của anh ta. Bất ngờ, từ ban công nhà tôi Sakula xuất hiện, gọi to “Người Kabul! Người Kabul!” Khi quay lại nhìn con gái tôi, trên mặt Ôsaman chợt nở một nụ cười. Hôm nay anh ta không mang theo chiếc túi xách nên hai chú cháu không nói với nhau về đề tài “con voi” nữa, Sakula hỏi ngay đến chuyện thứ hai: “Chú đến công công gia chứ?” Ôsaman cười bảo: “Chú đang đến đó đây, cô bạn nhỏ ạ!”. Vì bị kết tội mưu sát, Ôsaman bị tuyên án 8 năm tù giam. Thời gian trôi đi, Ôsaman bị mọi người quên lãng. Chúng tôi vẫn sống ở đó và làm công việc cũ, rất ít, thậm chí chẳng khi nào nhắc đến người Kabul đó nữa. Ngay như Sakula cũng dần quên người bạn vong niên của nó. Năm tháng qua đi, vào một ngày thu rực rỡ, chúng tôi chuẩn bị đám cưới cho Sakula. Sáng tinh mơ hôm đó, mọi người đang tíu tít chuẩn bị cho lễ cưới thì có một người tiến đến đứng trước mặt tôi, cung kính thi lễ. Thì ra đó là Ôsaman, người Kabul dạo nào. Lúc đầu tôi không nhận ra anh ta. Anh ta không mang túi cũng không quấn khăn cao trên đầu và chẳng còn gì là chút thần khí như trước nữa, nhưng khi anh ta cười thì tôi nhận ra ngay. - Anh về lúc nào thế Ôsaman? - Tôi hỏi. - Tối hôm qua - Anh ta đáp - Tôi từ nhà tù đến đây. Những lời này nghe rất chối tai. Tôi dự cảm đây chẳng phải là điềm lành, tìm cách từ chối... - Ở đây đang có chuyện vui. Tôi rất bận. Mấy hôm nữa anh hãy đến được không? Ôsaman lập tức quay người bước đi, nhưng anh ta chợt dừng lại trước cửa, chần chừ một lúc rồi nói: - Tôi có thể gặp người bạn nhỏ của tôi một lát, được không thưa ngài? Chỉ một lát thôi mà! Ôsaman cứ nghĩ Sakula vẫn như xưa nên đã chuẩn bị sẵn một ít nho khô, đó là những thứ mà một người đồng hương của anh cho anh chứ bản thân anh thì chẳng còn đồng xu nào để mua sắm nó! Tôi nói: - Gia đình chúng tôi đang có chuyện vui. Hôm nay anh không thể gặp ai ở đây được đâu! Trên mặt Ôsaman lộ rõ vẻ thất vọng. Anh ta bất mãn nhìn tôi và nói “Tạm biệt” rồi quay gót. Tôi cảm thấy mình hơi bất nhẫn, định gọi anh ta lại, không ngờ tự anh đã quay lại. Anh đến trước mặt tôi, đưa túm nho khô ra, nói: “Thưa ngài! Tôi mang thứ này đến cho cô bạn bé bỏng của tôi. Ngài có thể thay tôi trao món quà này cho cháu được không, thưa ngài?” Tôi nhận lấy túm nho khô, đang định trả tiền thì anh ta nắm lấy tay tôi, nói: - Ngài thật nhân từ, thưa ngài! Tôi sẽ nhớ ngài mãi mãi. Ngài không cần trả tiền cho tôi đâu. Ngài có cô con gái thật đáng yêu, ở quê tôi cũng có một đứa con gái như vậy. Tôi nhớ cháu quá nên tặng con gái ngài chút quà này chứ đâu phải cần tiền ạ. Nói tới đây anh ta thò tay vào túi áo lấy ra một tờ giấy nhỏ, nhàu nhò, bẩn thỉu, trải ra trên bàn. Trên tờ giấy là một dấu lăn tay nhỏ xíu. Không phải là ảnh cũng không phải là bức họa, nó chỉ là một dấu lăn tay bằng mực đen đã phai màu. Anh ta giữ mãi cái dấu lăn tay bé nhỏ của con gái trong 8 năm dằng dặc ngồi tù! Nước mắt tôi lặng lẽ trào ra. Tôi quên hẳn anh ta chỉ là một tiểu thương nhập cư nghèo khổ, còn tôi là... mà không, không phải... Liệu tôi có gì đáng tự hào hơn anh ta? Anh ta cũng là một người cha. Chính dấu lăn tay của con gái người Kabul đó đã khiến tôi nghĩ tới Sakula. Tôi liền gọi cháu ra. Mọi người cố ngăn lại nhưng tôi không nghe. Sakula bước ra phòng khách. Cháu mặc bộ váy áo cưới màu hồng, giữa trán điểm một nốt son nhựa đàn hương, trang điểm thành cô dâu, e lệ đứng trước mặt người khách mới tới. Nhìn cảnh tượng ấy người Kabul lộ rõ vẻ kinh ngạc. Anh ta cảm thấy không còn tự nhiên như ngày nào với cô bé Sakula bé bỏng nữa. Nhìn Sakula một hồi lâu, Ôsaman mỉm cười hỏi: “Cô bé ơi, cháu sắp đến công công gia của cháu phải không nào?” Hiện tại Sakula đã biết công công gia là thế nào rồi, con bé đỏ mặt, e thẹn cúi đầu. Tôi nhớ lại lần gặp nhau đầu tiên giữa con gái tôi và người tiểu thương Kabul này, cảm thấy buồn buồn. Sau khi Sakula vào nhà trong, Ôsaman thở dài khe khẽ và ngồi bệt xuống đất. Anh ta chợt nghĩ, suốt 8 năm đằng đẵng ở trong tù, con gái anh nhất định đã lớn lên, khác trước nhiều lắm, mà trong ngần ấy thời gian lẽ nào bản thân nó không phát sinh ra biến cố gì? Tiếng nhạc của buổi hôn lễ vang lên, những tia nắng vàng ấm áp lan tỏa khắp nơi, Ôsaman ngồi đây miên man nhớ tới những dãy núi điệp trùng ở quê nhà... Tôi đưa cho Ôsaman một tờ ngân phiếu, nói: - Hãy về quê đi Ôsaman, về với đứa con gái yêu quý của anh đi! Chúc cho cuộc gặp gỡ giữa hai cha con vui vẻ! Đó chính là hạnh vận mà anh đã mang lại cho con gái tôi đấy Ôsaman ạ! Do trích bớt một phần kinh phí cho Ôsaman, hình thức buổi hôn lễ của Sakula có giảm đi đôi chút. Không còn nhiều đèn điện trang trí nữa, tôi cũng không thuê đội quân nhạc giúp vui. Cánh phụ nữ trong nhà thất vọng lắm nhưng tôi lại cảm thấy rất hài lòng: Buổi tiệc thật tuyệt vời, và vinh hạnh nữa, bởi lẽ, tôi đang nghĩ tới, ở nơi xa xôi kia sẽ có cuộc trùng phùng cảm động giữa một người cha hết mực yêu thương con với đứa con gái độc nhất của mình sau tám năm trời xa cách... CÔ GÁI TRÊN TÀU HỎA Bangde (Ấn Độ) Đ oàn tàu hỏa bắt đầu chuyển bánh, trong toa chỉ có mỗi một mình tôi. Cho đến lúc tàu dừng ở ga đầu tiên, mới có thêm một cô gái lên tàu. Hai ông bà già tiễn cô gái có lẽ là cha mẹ cô thì phải, dường như họ rất không yên tâm về chuyến đi này của cô. Bà mẹ cứ căn dặn con phải để hành lý chỗ nào, bất kể trường hợp nào cũng không được thò đầu qua cửa sổ khi tàu đang chạy, không được bắt chuyện với người lạ, vân vân... Bởi tôi là người mù nên không sao hình dung được diện mạo của cô gái, nhưng từ tiếng “lẹt xẹt” phát ra sau mỗi bước chân của cô, tôi nhận ra cô ấy đi dép lê. Tự nhiên tôi lại thích nghe tiếng cô ấy nói. Tàu tiếp tục chuyển bánh, tôi hỏi cô gái: - Cô có đi Dexiladun không? Có lẽ do tôi ngồi trong một góc tối nên tiếng nói của tôi khiến cô gái giật mình. Cô bất giác thốt lên khe khẽ: “Tôi không biết là ở đây có người”. Đúng vậy. Đôi mắt của những người bình thường đôi khi nhìn sự vật trước mặt mà không hề thấy gì, chắc hẳn là có lý do, bởi những gì họ cần nhìn là quá nhiều. Ngược lại, người mù cả hai mắt lại có thể dựa vào cảm quan để nhận biết sự vật xung quanh. - Thoạt đầu tôi cũng không trông thấy cô - Tôi nói - Nhưng tôi nghe thấy cô lên tàu. Tôi nghĩ, chỉ cần ngồi im chỗ cũ, cô ấy nhất định không phát hiện ra được tôi là một người mù. - Em đến Salalanpo thì xuống tàu, - Cô gái nói - Cô em sẽ ra ga đón em. Thế còn chị, chị đi đàu vậy? - Tôi đi Dexiladun, sau đó đi tiếp đến Musuli - Tôi đáp. - Hay quá! Em cũng muốn đi Musuli. Em thích những dãy núi điệp trùng ở đó, nhất là vào tháng mười. - Đúng thế. Tháng mười được coi là mùa vàng ở Musuli mà! Nói ra điều này, trong óc tôi liền hiện ra cảnh sắc tuyệt vời mà tôi từng nhìn thấy trước khi bị hỏng mắt. Và, tôi thốt lên thành lời, chia sẻ niềm vui với cô gái mới gặp: “Những thảm hoa hướng dương vàng rực ngập tràn các triền núi. Không khí se se lạnh. Đêm đến, ngồi bên đống lửa uống một chút rượu brandy, bao nhiêu du khách dù đã đi xa vẫn không sao quên được chuyến du lịch đầy quyến rũ đến nơi này!” Cô gái im lặng không nói gì, phải chăng cô cũng cảm động bởi những gì tôi nói, hay là cô chỉ coi tôi là một người quảng giao có nhiều thiện cảm? Đoạn, tôi buột miệng hỏi một câu thật khờ khạo: - Bên ngoài trời thế nào hả cô? Hình như cô gái không chú ý lắm tới câu hỏi của tôi. Lẽ nào cô đã phát hiện ra tôi là một kẻ mù lòa? Tuy nhiên, một câu nói của cô đã giúp tôi lập tức xóa đi sự nghi ngờ của mình, cảm thấy yên tâm hơn: - Chị nhìn qua cửa sổ, chẳng phải là biết ngay sao? - Giọng nói của cô thật tự nhiên, dễ chịu! Tôi men theo băng ghế ngồi đến cạnh cửa sổ toa tàu, ngồi xuống, làm như là đang thưởng thức phong cảnh bên ngoài. Trong trí tưởng tượng của tôi, những dãy cột điện hai bên đường lùi nhanh về phía sau. - Chị nhìn thấy chưa? - Cô gái hỏi. Tôi chầm chậm đáp: - Cây cối chuyển động còn chúng ta thì lại đứng yên. - Đúng như vậy đấy - Cô gái phụ họa. Rồi cả hai lại im lặng một hồi lâu. Tôi lên tiếng trước: - Chị thấy em có một khuôn mặt rất ưa nhìn, em gái ạ - Tôi thân mật nói. Tôi không sợ cô gái giận, bởi tôi biết con gái rất ít người không thích được khen! Cô gái bật cười, tiếng cười trong veo như tiếng chuông ngân. - Chị nói thế làm em buồn đấy. Ai cũng bảo em đẹp, nghe mãi đâm chán! Nói vậy, chắc cô ta đẹp lắm! Tôi thầm nghĩ và nói luôn: - Thì đúng thế còn gì? Khuôn mặt ưa nhìn thì đương nhiên là đẹp rồi! - Chị thật biết cách làm cho người khác vui đấy nhỉ! Cô gái nói - Nhưng làm sao chị biết được điều đó? - Tàu sắp đến ga rồi. Cho tôi xin lỗi vì đã đường đột làm cho cô mất vui! - Cám ơn trời đất! May mà đường không đến nỗi xa lắm! Nếu phải ngồi tàu thêm vài ba tiếng nữa, chắc chín nhừ người ra mất! Lạ thế! Chỉ cần nghe giọng nói của cô ấy, tôi ngồi tàu mấy tiếng cũng chẳng sao! Giọng nói của cô gái vừa réo rắt, vừa dịu dàng êm ái, có sức lôi cuốn lạ lùng. Tôi nghĩ, chỉ cần xuống tàu là cô ấy có thể quên cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này, nhưng tôi thì không. Tiếng còi tàu vang lên một hồi dài. Đoàn tàu từ từ chạy chậm lại. Cô gái đứng lên thu dọn hành lý. Tôi không biết là cô ấy vấn tóc, hay để tóc xõa ngang vai? Có lẽ là cắt tóc ngắn. Đoàn tàu từ từ vào ga. Mùi nước hoa thoang thoảng từ mái tóc cô gái. Tôi muốn đưa tay vuốt tóc cô nhưng cô đã bước đi, chỉ vương lại một chút hương thơm dịu nhẹ. Sân ga ồn ào hẳn lên. Một chàng trai hấp tấp bước lên tàu rồi đóng sầm cửa khoang tàu lại. Tôi trở về chỗ ngồi. Còi tàu vang lên, đoàn tàu tiếp tục chuyển bánh. Tàu chạy mỗi lúc một nhanh, bánh xe rít trên đường sắt dập dình tạo nên một tiết tấu vui tai. Tôi dò dẫm đến bên cửa sổ, ngồi xuống nhìn ra ngoài. Chắc trời đã sáng, nhưng với tôi thì vẫn chỉ là đêm đen. Lúc này tôi lại có một bạn đồng hành mới, có thể sẽ có tiết mục mới đây. - Xin lỗi! Cô gái vừa xuống tàu là gì với chị? Thực tình mà nói, tôi không tưởng tượng nổi vì sao cô ấy lại hấp dẫn đến thế? - Chàng trai có vẻ ngượng ngùng nói. - Cô gái ấy rất có ý tứ, lại rất dễ thương! - Tôi nói - Anh có thể nói cho tôi biết tóc cô ấy dài hay ngắn không? - Tôi không chú ý lắm - Anh chàng dường như có vẻ khó hiểu trước câu hỏi của tôi - Nhưng tôi lại rất chú ý tới đôi mắt của cô ấy, đôi mắt thật dài, thật đẹp... tiếc là... nó chẳng có tác dụng gì đối với cô ấy cả. Cô ấy bị mù, chị không nhận ra sao? TRĂNG KHUYẾT Yuanni (Indonesia) S áng sớm, ra đi từ thị trấn, ngồi ô tô suốt tám tiếng đồng hồ, cô mới đến nơi, bấy giờ trời đã về chiều. Ráng chiều đỏ sẫm bao phủ cả bầu trời như một tấm võng cực lớn vây hãm cô. Toàn thân cô rã rời, mệt mỏi, lòng đầy thấp thỏm lo âu, lủi thủi bước đi trong ánh chiều tà. Cô mong cho con đường cứ dài ra mãi để cô không bao giờ tỉnh mộng! Cô vừa đi vừa tự hỏi: Đi? Không đi? Trong sự dằn vặt vật vã ấy, ngôi nhà đầy ám khí như bị bóng đè kia đột nhiên hiện ra trước mặt. Cô chần chừ dừng lại trước cửa. Cánh cửa bỗng lặng lẽ mở ra không có lấy một tiếng động. Một người đàn ông còn khá trẻ và rất đẹp trai đứng đó, đôi mắt đen nhánh, sâu thăm thẳm. Đôi mắt ấy, trong phút chốc dậy lên những đợt sóng lừng ào ạt úp chụp xuống người cô! Nhìn vào đôi mắt ấy, trước mắt cô bỗng tối sầm lại, cô lảo đảo như sắp ngã. Người đàn ông đưa tay đỡ cô lại, nhưng cô giãy nảy lên như chạm phải bỏng, đẩy vội anh ta ra. Người anh ta cứng đờ như bị giội chậu nước lạnh. Khi trấn tĩnh lại, những đợt sóng lừng trong mắt anh ta trở nên yên tĩnh và bình thản. “Từ xa anh đã nhìn thấy em tới nên ra mở cửa cho em - Người đàn ông bình tĩnh nói - Em vào nhà đi!”. Cô lặng lẽ bước theo anh ta vào nhà, đứng lại sau khuôn cửa. Một thứ mùi quen thuộc xộc vào mũi khiến cô bất giác hít một hơi dài, đưa mắt nhìn bộ bàn ghế quen thuộc. Con búp bê bằng sứ và chiếc hộp nhạc hình đàn dương cầm trong tủ đựng đồ trang sức vẫn nguyên chỗ cũ, tự nhiên hai dòng nước mắt cô ứa ra lăn dài trên má. Đây đã từng là nhà của cô! Lúc này cô trở thành một người khách đang ngồi nghiêm trang trên bộ sofa, nhìn lướt khắp gian phòng. Trong phòng chỗ nào cũng có ảnh của mẹ, người trong ảnh được tạo dáng theo nhiều kiểu khác nhau như một minh tinh màn bạc, trông thật chối mắt! “Ngày trước mình có cảm giác đó không?” - Cô tự hỏi. Người mẹ xinh đẹp của cô sinh cô vào năm mới hơn mười sáu tuổi, sau đó ly dị chồng. Cô sống với mẹ. Dạo đó bạn trai của mẹ ẳ cô nhiều như cá ấn trên sông, cô chẳng quan tâm, chỉ chuyên chú vào việc học hành. Người đàn ông đem cốc nước trà đặt trước mặt cô, do dự một chút rồi ngồi xuống phía đối diện, nhìn cô chăm chăm với thần thái của một người có bao điều muốn nói mà chưa nói được! Cô cũng nhìn anh ta, sóng lòng từng đợt từng đợt cuộn trào mãnh liệt, dội mãi vào thân đê đã có chỗ rạn vỡ của cô. Hai người đắm đuối nhìn nhau trong khoảnh khắc, chợt bàng hoàng nhận ra giữa họ lúc này cách nhau thăm thẳm như trong buổi hồng hoang mờ mịt của đất trời! Cô im lặng hồi lâu, cảm thấy như có vô số những ánh mắt nhìn xoáy vào hai người. Cô ngẩng lên tìm kiếm nơi phát ra những ánh nhìn ấy - đó chính là những bức ảnh của mẹ cô trên tường! Cô hận nụ cười và ánh mắt ấy biết bao! Người đàn ông cũng nhìn những bức ảnh trên tường, và, không hẹn mà gặp, cả hai cùng thốt lên “Sao lại như thế được?”. Nói xong, họ lại trầm ngâm như trước. Rất lâu sau cô hỏi: - Mẹ đâu? Mẹ thế nào rồi? Người đàn ông im lặng một lát mới lên tiếng: - Biết em thế nào cũng về, bà ấy đi chợ rồi. Cô nhìn người đàn ông tỏ vẻ nghi ngờ, đoạn lẩm bẩm: - Bà ấy lại lừa em rồi, lừa em nữa rồi! Chắc chắn bà ấy không hề bị xe tông! Cô vụt đứng dậy, mặt đỏ bừng, gằn giọng: “Em về đây!” Nói xong cô hấp tấp bước ra cửa, bị vấp vào ngạch cửa, suýt ngã. Cô đứng thẳng lại, ngẩng đầu nhìn lên bức ảnh cưới được phóng to treo bên phải cửa chính, trong đó cô dâu có nụ cười tươi rói. Nhìn cô dâu trong ảnh, nước mắt cô ngầng ngậng lưng tròng rồi ràn rụa trào ra lăn dài trên má. Đó phải là mình chứ? Sao lại là bà ấy - là mẹ mình? Trái tim cô như gào lên, khổ đau cùng cực! Hồi ấy mẹ rất quan tâm tới cô. Thư từ qua lại giữa cô và bạn trai, cô đều đưa cho mẹ xem. Mẹ cô yêu mến và khen ngợi bạn trai cô hết lời, giục hai người nhanh chóng kết hôn. Bà còn hứa sẽ lo tiệc cưới cho hai người thật chu đáo!... Trước hôn lễ một tuần, mẹ nói với cô, theo phong tục, trong thời gian này hai người không được phép gặp nhau, cô phải về quê nghỉ ngơi, bồi bổ sức khỏe, đợi đến hôm đó bà sẽ cho người về đón. Cô tin theo lời mẹ. Chồng chưa cưới của cô là một chàng trai mồ côi cả cha lẫn mẹ, lúc đó lại đang làm việc ở xa, hôn sự hoàn toàn trông cậy vào gia đình vợ. Đến ngày cử hành hôn lễ, khi mở tấm khăn che mặt của cô dâu anh mới nhận ra rằng cô dâu đã bị đánh tráo! Bà bảo với anh rằng, con gái bà đang ốm, bà phải tạm thời thay thế. Anh ta tin ngay. Nhưng rồi trong đêm đó bà đã dụ dỗ được anh ta! Mãi cho đến lúc cô dâu thật biết được chân tướng, tất cả đều đã muộn! Nghẹn ngào, rơm rớm nước mắt, đôi bàn tay của người đàn ông đặt nhẹ lên vai cô. Qua làn nước mắt, cô nhìn vào mặt anh ta, nức nở: - Em về đây làm gì chứ? Chẳng lẽ chỉ để gọi anh một tiếng “cha”? Người đàn ông giật nẩy mình, đau khổ quay mặt đi, nước mắt rơi lã chã, đôi tay đặt trên vai cô bất chợt rung lên dữ dội! Cô gỡ đôi tay ấy khỏi vai mình. Ngoài cửa, ráng chiều đã tắt, bầu trời tối sẫm lại. Đêm không sao, không trăng. Đèn đường bắt đầu bật sáng. Cô chầm chậm bước đi, rồi bước đi nhanh hơn, và chạy. Người đàn ông gọi theo, càng gọi cô càng chạy nhanh hơn. Âm vang của tiếng gọi cứ nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt hẳn. Vừa hay bóng đêm đen thẫm đã cùng lúc chôn vùi cả nỗi khổ đau và dĩ vãng của hai người! LA SINH MÔN Akutagawa Ryunosuke (Nhật Bản) C hạng vạng tối, có một gã nô bộc trú mưa tại La Sinh Môn. Bên dưới cổng thành rộng lớn, ngoài hắn ra chẳng còn ai khác, chỉ thấy một chú dế đang ngồi chồm chỗm trên đầu một cây trụ tròn to sơn son thếp vàng đã tróc lở loang lổ. La Sinh Môn tọa lạc trên đại lộ Chu Tước vốn không thiếu khách bộ hành nam thanh nữ tú diện nón lá, mũ mềm trú mưa ở đó, nhưng hiện tại chỉ có mỗi một mình gã nô bộc hết thời ở đấy mà thôi. Vì sao lại như vậy? Vì rằng mấy năm trở lại đây liên tiếp gặp phải những trận động đất, gió bão, hỏa hoạn nặng nề, mất mùa đói kém liên miên, kinh thành vô cùng thê lương hoang vắng. Theo những gì còn ghi chép lại từ thời ấy, hồi đó có những tượng phật bằng gỗ, những hoành phi câu đối sơn son thếp vàng bị đập vỡ mang ra bỏ bên đường để bán làm củi. Tình cảnh ở kinh thành như thế nên việc tu sửa La Sinh Môn đương nhiên là chẳng ai quản nữa. Trong khung cảnh thê lương hoang phế đó, lũ chồn cáo và bọn gian manh cướp bóc thừa cơ tìm đến nơi này trú ngụ. Về sau, thậm chí đã thành thói quen, những xác chết vô chủ cũng bị đem vứt ở đó. Vì vậy, khi mặt trời vừa lặn, không khí nơi đây vô cùng ảm đạm, chẳng ai dám đến đây nữa. Vậy mà, chẳng biết từ đâu, hàng đàn quạ đen lũ lượt kéo đến. Ban ngày chúng lượn lờ trên không om sòm táo tác. Ban đêm chúng đậu la liệt trên đỉnh lầu cổng thành. Đương nhiên là lũ quạ tụ tập tới đây để ăn xác người chết, chúng thải ra những bãi phân lốm đốm trắng khắp nơi. Gã nô bộc mặc chiếc áo khoác quý đã lâu không giặt, đặt đít ngồi lên bậc thềm cao nhất trên chiếc cầu thang bảy bậc, tay mân mê vết loét trên má phải, mù mờ vô thức chờ mưa tạnh. Gã nô bộc trú mưa? Đúng vậy. Nhưng cơn mưa tạnh đã lâu mà gã vẫn ngồi im tại chỗ. Đúng ra là gã phải về nhà người chủ cũ, tuy nhiên, cách đây bốn năm hôm, ông chủ cũ đã cho gã thôi việc. Như trên đã nói, lúc bấy giờ kinh thành rất tiêu điều, cho nên việc gã nô bộc bị lão chủ nhiều năm nay cho thôi việc cũng là điều dễ hiểu, nó chẳng khác nào dư ba của một cơn sóng lớn mới tràn qua! Chuyện trú mưa của gã nô bộc thực ra chỉ là một cái cớ. Gã chẳng biết phải đi đâu. Mà thời tiết hôm nay càng làm cho gã u sầu, buồn thảm. Cơn mưa từ đầu giờ thân tới giờ dậu vẫn chưa dứt hẳn. Gã nô bộc vẫn không thôi suy nghĩ xem ngày mai sẽ sống thế nào? Tiếng mưa rơi trên đại lộ Chu Tước vẫn đều đều vọng đến tai gã. Mưa vẫn rơi rào rào trên La Sinh Môn. Từng đám mây đen nặng trĩu bay xiên trên đỉnh lầu cổng thành. “Phải tìm cách gì để sống chứ, nếu không thì chết đói mất?”; “Bới đống rác rưởi có lẫn xác chết tìm cái ăn ư?, ghê rợn quá!”; “Hay là... đi ăn cướp? Nhưng liệu mình có dám làm?”. Gã hắt xì hơi một tràng dài rồi đờ đẫn bước đi. Màn đêm đã kịp phủ xuống nơi cổng thành, từng luồng gió lạnh buốt thổi thốc tới không chút nể nang khách khí khiến cho gã nô bộc run lên. Con dế trên cây trụ cổng đã biến mất tự bao giờ. Gã nô bộc rụt cổ lại, kéo vạt áo khoác phủ qua vai, nhìn ngó mông lung dường như muốn tìm lấy một nơi kín đáo vừa để tránh gió vừa không bị ai nhòm ngó, có thể yên tĩnh ngủ qua đêm. Gã chợt phát hiện ra thang gác dẫn lên lầu cũng sơn son thếp vàng và khá rộng rãi. Nhìn lên lầu thấy có mấy người nhưng họ đều đã chết. Gã đưa tay sờ vào thanh gươm giắt bên lưng, nhấc chân với chiếc giày cỏ đặt lên bậc cuối của cầu thang. Một lát sau, gã nô bộc nhìn thấy ở khoảng giữa cầu thang có một người co rúm tựa một con mèo đang lấm lét nhìn quanh. Dưới ánh lửa lúc mờ lúc tỏ gã nhìn thấy một người đàn ông với chòm râu ngắn ngủn và một vết loét to bên má phải, đương nhiên đó cũng là một xác chết. Lên thêm mấy bậc nữa gã nô bộc nhìn thấy một người đang đốt lửa, ánh lửa chập chờn lay động làm ánh lên mơ hồ mấy tấm mạng nhện giăng trên trần lầu. Gã hiểu rất rõ, kẻ đốt lên ngọn lửa kia dứt khoát không thể là một người tầm thường. Gã nô bộc như một con thạch sùng chợt đứng khựng lại, hiểu ra rằng chẳng hề dễ dàng chút nào để bước tới bậc cao nhất của cầu thang, liền áp sát người xuống thấp, vươn cổ ra thận trọng nhìn lên lầu. Ở đó đang có mấy thi thể bỏ ngổn ngang, bừa bãi. Ánh lửa yếu ớt, bập bùng đủ để nhìn thấy những xác người cả nam lẫn nữ trần truồng, còm nhom, rách rưới. Những thi thể này chẳng có vẻ gì là những người đã từng sống, nó giống những con tò he hơn, há hốc mồm, thè lưỡi, tay dang ra nằm sõng soài trên đất. Mùi hôi thối xộc lên nồng nặc từ đám xác chết khiến gã nô bộc phải bịt mũi lại. Nhưng ngay lúc đó gã đột nhiên giật nẩy mình không còn cảm thấy hôi thối nữa: ngồi xổm trong đống xác chết là một người đàn bà già nua vừa lùn vừa ốm trông như một con khỉ mặc chiếc áo màu cọ xám. Tay phải mụ ta cầm cây đuốc bằng cành tùng đang cháy, mắt chăm chăm nhìn vào mặt người chết bên cạnh, một người có mái tóc đẹp, hình như là một cô gái. Gã nô bộc vừa hoảng sợ vừa hiếu kỳ, bị kích động quá mạnh khiến cho tim gã như ngừng đập. Quả như người xưa nói, gã sợ đến sởn tóc gáy! Mụ già bỏ cây đuốc xuống nền nhà, hai tay nâng đầu người đàn bà đã chết, và... giống như khỉ mẹ bắt chấy cho khỉ con, mụ nhổ từng sợi từng sợi tóc người chết. Nhìn thấy cảnh tượng đó, nỗi sợ hãi trong lòng gã nô bộc từ từ biến mất, đồng thời lòng căm giận đối với mụ già mỗi lúc một dâng lên. Chỉ trước đây ít phút gã nô bộc không hề do dự khi phải chọn việc có thể chết đói thay vì đi làm kẻ cướp thì bây giờ ý nghĩ của gã đã hoàn toàn thay đổi. Bó đuốc cành tùng bốc cháy phần phật trên sàn gác. Gã nô bộc không hiểu vì sao mụ già lại nhổ tóc người chết và cũng chưa thể phán đoán rõ ràng việc đó là đúng hay sai, chỉ biết rằng, trong một đêm mưa gió như thế này việc lần mò nhổ tóc người chết là một tội ác không thể tha thứ được! Đương nhiên gã nô bộc quên khuấy rằng chính gã cũng vừa quyết định sẽ trở thành kẻ cướp. Gã nô bộc sờ tay vào chuôi gươm, lao thẳng tới trước mặt mụ già. Mụ già kinh hoàng bỏ chạy. “Đứng lại!” - Gã nô bộc bước tránh những xác chết dưới chân, đuổi theo mụ già, quát lớn. Mụ già cố đẩy gã ra để chạy thoát nhưng gã đã kịp kéo tay mụ lại, hai người xoắn lấy nhau trong đống xác chết. Chẳng lâu la gì, gã nô bộc đã quật ngã mụ đàn bà xuống sàn gác, giữ chặt hai cánh tay gầy guộc của mụ như đang nắm cặp chân gà. “Mụ đang làm gì, nói mau! Nếu không ta giết!” Gã nô bộc kéo mụ già đứng dậy, rút gươm ra khỏi vỏ, huơ huơ trước mặt. Mụ già nín lặng, người run bắn lên như cầy sấy, mắt mở to kinh hãi. Gã nô bộc ý thức được rằng, mạng sống của mụ ta hoàn toàn nằm trong tay mình, nên hả dần cơn giận và muốn biết chuyện gì đã xảy ra, liền cúi xuống nhìn mụ già chậm rãi nói: “Ta không phải là quan tuần tra mà chỉ là khách qua đường, không thể bắt trói mụ được. Hãy nói cho ta biết vì sao mụ lại ở đây vào lúc này? Cuối cùng thì mụ đã làm gì?” Với hai hốc mắt đỏ bầm của loài chim ăn thịt, mụ già ngước nhìn gã nô bộc, thở hổn hển và phát ra một giọng khàn khàn như loài quạ: “Nhổ tóc... Nhổ tóc... để làm tóc giả mà...” Nghe mụ già trả lời, gã nô bộc cảm thấy rất thất vọng, gã thấy khinh miệt hơn là căm giận. Thấy thái độ của gã nô bộc có dịu đi đôi chút, mụ già vừa nắm chặt lọn tóc của người chết vừa phát ra cái giọng oàm oạp như cóc nhái, phân trần: “Nhổ tóc người chết là không đúng rồi, có điều, những người này, lúc sống họ cũng đã từng làm những nghề thất nhân tâm như vậy. Người đàn bà mà lão nhổ tóc đây lúc trước đã bắt rắn lấy thịt phơi khô làm cá khô bán cho lính. Nếu không chết vì bệnh dịch, lúc này mụ ta sẽ cũng làm như thế. Cá khô của mụ ngon lắm, lính mua tới tấp có lúc không có mà bán. Mụ ta làm thế cũng đâu có xấu, bởi nếu không mụ sẽ chết đói! Ông bảo lão làm việc xấu, nhưng không làm lão chết đói mất, có cách nào khác nữa đâu, chắc là bà ta sẽ tha tội cho lão thôi”. - Đại thể là mụ già đã nói những lời như thế. Gã nô bộc tra gươm vào vỏ, tay trái nắm chuôi gươm, tay phải sờ lên chỗ loét trên má phải, lạnh lùng nghe mụ già nói. Lúc này sự tức giận lại bùng lên trong lòng gã. Không còn sự chọn lựa nào nữa, gã đã quyết định. “Sự thực là như thế sao?” “Đúng là như vậy, thưa ông!” Câu trả lời của mụ già vừa dứt, gã nô bộc cười gằn một tiếng, bước lên trước một bước, tay phải kéo mạnh vạt áo khoác của mụ già, hung hãn nói: “Vậy thì ta sẽ lột chiếc áo này của mụ! Chớ oán hận ta làm gì! Nếu không làm thế ta cũng sẽ chết đói!” Gã nô bộc lột sạch quần áo của mụ già, đạp mụ ngã sấp vào đống xác chết, sải bước tới cửa thang gác, dưới nách là bộ áo quần màu cọ xám vừa cướp được, lao thẳng xuống thang gác, mất hút giữa đêm mưa mù mịt. ẳ Chẳng bao lâu sau, mụ già tưởng như đã chết, thân thể lõa lồ, lồm cồm bò dậy từ đống tử thi, mồm lẩm nhẩm những gì không rõ, nhờ ánh sáng chập chờn của ngọn đuốc cành tùng, bò đến cửa thang gác, vuốt vuốt mớ tóc bạc trắng, ngắn cũn, rối bù trên đầu, nhìn vọng ra xa. Bên ngoài là một màn đêm đen kịt. Không ai biết gã nô bộc đi đâu về đâu! CÁI GIÁ PHẢI TRẢ Youjin (Singapore) A nh ta thọc tay vào túi quần, trong túi có một con dao dài 6 tấc Anh, nhọn và sắc lẻm. Bàn tay nắm con dao, chẳng những lạnh mà còn run nữa! “Lạy Trời! Xin Người hãy giúp con một lần này thôi! - Anh ta thành tâm cầu khấn - Chỉ cần vượt qua được cơn nguy cấp này, con xin đền đáp cho Người bằng bất cứ giá nào!” Đêm có trăng, trăng tròn và rất sáng. Tuy nhiên, khi anh ta ngửa mặt nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm, anh ta không còn thấy trăng nữa mà chỉ thấy khuôn mặt bầu bĩnh đáng yêu của Xiaokang, chỉ mới bốn tuổi mà đã thông minh, hiểu biết nhiều thứ. Trước đây hai tháng, sau khi mẹ nó bỏ nhà ra đi, chẳng rõ đi đâu, thằng bé cứ thế mà lớn lên từng ngày chẳng cần ai quan tâm chăm sóc. Nó lớn lên, khôn ngoan đến nỗi anh ta là bố nó mà vẫn cảm thấy lạ. Anh ta là thủ kho của một công ty, thu nhập không được bao nhiêu, nhưng nhờ biết chi tiêu tằn tiện nên cũng đủ sống qua ngày. Nửa năm trước, công ty phá sản, anh ta mất việc, lại chả có nghề ngỗng gì, trong lúc nền kinh tế suy thoái, đâu đâu cũng sa thải nhân viên, tìm được việc làm đâu phải dễ. Mẹ thằng bé không hề biết cảm thông chia sẻ, tính khí lại nóng nảy, thô bạo, khi nhà túng bấn thường cãi vã, chì chiết chồng con, cuối cùng ôm hết quần áo, bỏ đi. Sau khi vợ bỏ đi, anh ta cũng tự mình đánh mất nhân cách của mình! Vay mượn, xin xỏ, thậm chí đi ăn mày anh ta đều làm tất. Những người cho anh ta mượn tiền phần nhiều đều trông chờ vào cậu con trai của anh ta, nhưng chính vì thế càng khiến cho anh ta rất khó tìm được việc làm. Khi anh ta cảm thấy mọi cơ hội sắp vuột - khỏi tầm tay mình, thằng bé lại bị viêm phổi cấp, phải đưa đến bệnh viện cấp cứu ngay trong đêm. Thằng bé nằm viện đã bốn ngày mà anh ta không dám đến thăm bởi không có tiền thuốc và tiền viện phí. Nhưng... thằng bé là tài sản duy nhất còn lại của anh ta, lẽ nào anh ta có thể bỏ mặc? Bàn tay nắm chặt chuôi dao đã ướt đẫm mồ hôi lạnh. “Con chỉ làm một lần duy nhất này thôi! Trời ơi! Xin Người hãy giúp con! Con nguyện sẽ đền đáp cho Người bằng bất cứ giá nào!” - Anh ta lại khẩn cầu lần nữa. Đây là một con phố yên tĩnh. Anh ta đã quan sát kỹ rồi, ban đêm vẫn có người qua lại. Cướp ở đây, cần chạy thoát cũng dễ bởi từ con phố chính có nhiều đường rẽ, chỉ cần linh hoạt lánh vào một ngả rẽ nào đó là có thể chạy thoát. Anh ta thậm chí còn vạch sẵn con đường tẩu thoát, khi cần. Đêm. Quá 11 giờ, anh ta đếm có cả thảy 5 người qua đây. Đáng tiếc là chẳng có ai có vẻ giàu có cả. Đàn ông, anh ta không dám cướp; người già, không cần cướp; trẻ nhỏ, không muốn cướp; số còn lại là phụ nữ. Tối nay, có vẻ như vận khí không được tốt lắm! Anh ta cầm tờ báo đứng dưới ngọn đèn đường giả vờ đọc, mắt vẫn không rời những người đi qua phố. Một người, hai người, ba người, đều là đàn ông. 11 giờ 45. Đây rồi. Một phụ nữ khoảng trên bốn mươi, bước xuống taxi, tay xách túi, kẹp nách một ví da màu vàng cũ kỹ. Anh ta chợt nghe thấy tiếng tim mình đập thình thình. Dường như lồng ngực anh ta sắp vỡ tung! Chờ cho người phụ nữ đi vào phố, anh ta bỏ tờ báo xuống, lẹ làng lẻn theo sau như một con mèo. Cơ may không thể bỏ lỡ! Anh ta lao thẳng tới trước như một mũi tên, một tay thộp vai người phụ nữ, tay kia choàng qua người chị, dí mũi dao vào cổ nạn nhân, hạ giọng: - Đừng động đậy! Không được kêu! Tôi chỉ cần tiền thôi! Người phụ nữ bỗng dưng bị tấn công, kinh hãi đến đờ cả người, chiếc túi da và cái ví xách tay rơi đánh “soạt” xuống đất. Anh ta giật mình nói: - Cô đừng chống cự. Tôi nhất định không hại cô đâu! Người phụ nữ vội gật đầu. Anh ta thả tay ra, không ngờ người phụ nữ quỳ sụp xuống đất, nức nở, nghẹn ngào nói: - Chú ơi! Chú hãy thương con! Tiền trong túi của con đây là con đi mượn về để trả viện phí cho con trai con đang đau nặng chú ơi! Con trai? Viện phí? Anh ta như bị sét đánh, đầu óc cứ ong ong nhức buốt, nhưng cũng ngay lúc đó, khuôn mặt bầu bĩnh đáng yêu của Xiaokang lại hiện lên. Anh ta chẳng còn nghĩ ngợi gì hết, nhặt chiếc ví da, chạy thẳng vào ngả rẽ đã định trước, mặc cho sau lưng vẳng lại tiếng kêu khóc não nề của người phụ nữ. Tiếng khóc nhỏ dần, tắt lịm giữa đêm sâu... Về đến nhà, đắp chăn trùm kín đầu, anh ta vẫn run bần bật, cố nén tiếng, khóc sắp bật ra khỏi lồng ngực. Tiếng chuông điện thoại reo mấy lần, anh ta đều không bắt máy. Hai giờ sáng. Tiếng chuông cửa đột ngột vang lên như xé toạc cả màng nhĩ. Anh ta vội chạy ra cửa. Nhìn qua khe cửa, anh ta há hốc mồm kinh ngạc, mồ hôi lạnh toát ra như tắm. Đứng chờ ngoài cửa là một viên cảnh sát. “Sao lại đến nhanh thế nhỉ!” Đầu óc anh ta hoàn toàn mê muội, không còn nghĩ được điều gì. Lúc đó, tiếng chuông cửa lại vang lên lần nữa. Anh ta lập cập mở cửa. Trong tay viên cảnh sát không có còng số 8. Viên cảnh sát nhìn anh ta bằng ánh mắt cảm thông, chia sẻ, nhẹ nhàng hỏi: - Anh Zhangpin có ở nhà chứ ạ? - Là tôi đây - Anh ta đờ đẫn đáp. - Xin anh hãy bình tĩnh. Tôi đến đây để báo cho anh một tin buồn, con trai anh đã chết lúc 11 giờ 45 phút đêm qua. Con trai, chết? 11 giờ 45? Đôi chân anh ta nhũn ra, ngã quỵ xuống đất, hôn mê. Lúc đó dường như vang lên tiếng nói từ phía trời xa đưa lại, “Con nguyện sẽ đền đáp cho Người bằng bất cứ giá nào!” NHỮNG CHIẾC BÌNH CỔ Simagong (Thái Lan) C ổ ngữ có câu “Ngoạn vật táng chí”, có nghĩa là, say mê vật chất sẽ chôn mất ý chí, nhưng với tôi thì không phải như vậy. Tôi chơi đồ cổ đã hơn ba năm, càng chơi càng hứng thú, càng chơi càng quyết chí theo đuổi chuyện này, nhất là từ khi nghỉ hưu hồi năm ngoái, việc sưu tầm đồ cổ trở thành niềm đam mê lớn nhất của tôi, đặc biệt là những chiếc ấm trà cổ loại nhỏ. Một hôm, tôi đến chùa Yueshapan lễ Phật. Tại phòng ở của sư trụ trì, trong chiếc tủ gỗ cổ có năm chiếc bình trà nhỏ quý hiếm được chế tạo theo phong cách thuần phác cổ xưa, khiến tôi vô cùng thích thú. Tôi liền tìm cách nói chuyện với đại sư Ba Khuông, vị Thượng tọa trụ trì ngôi chùa này. Cuộc chuyện trò diễn ra rất vui vẻ và hai bên khá ăn ý nhau. Từ hôm đó tôi thường đến tìm Thượng tọa Ba Khuông. Thực ra, việc thường xuyên lui tới chùa Yueshapan cũng chỉ là “mượn hơi men để nói chuyện khác” như cổ nhân vẫn nói mà thôi. Tôi hay đến chùa thăm Đại sư chủ yếu là để xem kỹ năm chiếc bình trà cổ quý hiếm mà ngay từ lần đầu trông thấy tôi đã vô cùng thích thú. Mấy tháng sau tôi bỏ ra hai trăm thù (1 thù = 1/24 lạng bạc) mua 1 cân trà Ô Long ở quán trà “Diệu Hoa Lực”, lại chi thêm 80 thù mua một chiếc bình trà nhỏ loại mới, sản phẩm nổi tiếng của xưởng gốm Nghi Hưng, hí hửng mang đến chùa gặp Đại sư Ba Khuông. “Mô Phật! Con mang tới cho thầy chiếc bình trà kiểu mới, muốn đổi lấy chiếc bình cũ trong tủ gỗ kia. Có thêm cân trà Ô Long biếu thầy uống nước!” Tôi vừa nói vừa mở tủ, đặt chiếc bình mới vào đó, tiện tay lấy luôn chiếc bình cũ ra. Thượng tọa Ba Khuông trố mắt nhìn tôi kinh ngạc. Tôi vội vàng rút trong túi ra một chiếc phong bì đựng 1.000 thù đã chuẩn bị sẵn để lên bàn, nói: “Thưa Đại sư, con có 1.000 thù thiện kim phụng hiến nhà chùa đây ạ!”. Thượng tọa Ba Khuông nhắm mắt lại, lặng thinh. Tôi nói thêm vài câu rồi mang chiếc bình cổ về nhà. Tôi mua tiếp ba chiếc bình mới, ba cân trà Ô Long và chuẩn bị 3.000 thù hiện kim, trong vòng ba tháng trời lần lữa đổi lấy ba chiếc bình quý hiếm. Chiếc bình quý thứ năm đương nhiên là tôi không thể bỏ qua được. Một hôm, tôi lại làm theo cách cũ, đến chùa gặp vị lão Thượng tọa đáng kính. Nhìn vào chiếc tủ gỗ tôi giật nẩy mình: chiếc bình trà thứ năm không thấy nữa, thay vào đó là một chiếc bình mới giống hệt bốn chiếc bình tôi đã đem đến đây trong vòng ba tháng qua. Nhất định có kẻ nào đó đã đổi lấy chiếc bình cổ theo cách của tôi từng làm. Tôi ân hận vì mình đã quá muộn! “Thưa thầy, ai đã đổi chiếc bình trà còn lại thế ạ?”. Tôi hỏi. Vị đại sư nhìn tôi, nói: “Chúc mừng thí chủ! Chiếc hộp giấy này dành cho con đấy! Con mang nó về đi!” Thượng tọa Ba Khuông đưa tay chỉ chiếc hộp giấy bên cạnh bàn, nhắm mắt lại, nhập định! Về tới nhà, tôi mở chiếc hộp giấy ra xem. Tim tôi dường như sắp vọt ra khỏi lồng ngực. Trong chiếc hộp giấy có tất cả bốn chiếc bình trà mới của xưởng gốm Nghi Hưng, bốn cân trà Ô Long, bốn chiếc phong bì, mỗi chiếc đựng 1.000 thù tiền mặt và... có cả chiếc bình cổ thứ 5 mà tôi đang mong chiếm giữ. Suốt đêm hôm đó tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được. Tôi không mất gì cả mà lại được những năm chiếc bình cổ! Hình ảnh năm chiếc bình quý hiếm ấy suốt đêm chờn vờn trong giấc ngủ khiến tôi cảm thấy rất bất an! Sáng hôm sau tôi mang năm chiếc bình cổ đến chùa Yueshapan. Đại sư Ba Khuông lại đang ngồi thiền, nhập định. Tôi nhẹ nhàng đặt năm chiếc bình vào tủ gỗ. “Chúc mừng thí chủ. Trong tủ có hay không những chiếc bình trà, bình trà mới hay cũ, đối với ta đều như nhau cả! Nhưng, với thí chủ, có thể nó rất quan trọng! Tuy nhiên, có nó như thế nào mới là điều quan trọng nhất!” - Tiếng nói của vị Thượng tọa đáng kính vọng lại từ sau lưng tôi. Tôi xoay người lại phía Đại sư, chắp tay thi lễ, cúi đầu bước tới quỳ xuống cạnh ông: “Thưa thầy! Đúng là rất quan trọng đối với con! Năm chiếc bình cổ đó, từ ngày con nhìn thấy, đã trở thành niềm ước ao cháy bỏng trong con. Con hiểu, con chỉ có thể có nó một cách chính trực, thưa thầy!” Tôi rời khỏi chùa Yueshapan, trong lòng ngẫm nghĩ: “Được hay mất thực ra chỉ khác nhau ở khái niệm mà thôi! Mất cũng có thể là được lắm chứ! Dù không hiện diện trong bộ sưu tập đồ cổ không quá ít của tôi, nhưng từ nay năm chiếc bình cổ đó sẽ tồn tại trong lòng tôi mãi mãi!... NGƯỜI ĐÁNG THƯƠNG Hefeng (Mianma) Y ehong là một ký giả giàu tư chất rất có ảnh hưởng trong giới báo chí, đồng thời lại là một nữ tác giả trẻ có chút tiếng tăm. Cô luôn kiên trì thâm nhập vào các tầng lớp xã hội; điều tra, phản ánh các khía cạnh của cuộc sống các tầng lớp dân cư nghèo khổ; quan tâm đến những hoàn cảnh khó khăn của những người yếu thế, những người đáng thương trong cuộc sống; kêu gọi mọi người yêu thương nhau, làm trong sạch tâm hồn, làm yên ổn cuộc sống. Những vấn đề được phản ánh trong tác phẩm của Yehong đều khiến xã hội quan tâm. Cô là một nhà văn được mọi người yêu mến. Có lần Yehong đến một vùng quê ở miền núi lâu đời cơ hồ bị chìm ngập trong những cánh rừng hoang vu, vắng vẻ. Người dân nơi đây vô cùng cực khổ. Những nếp nhà tranh nhỏ bé, cũ kỹ, hư dột; những bức tường được ghép bằng tre pheo trống trải không ngăn nổi gió lùa; những đứa trẻ trần trùng trục, gầy còm ốm yếu, ngơ ngác, lạ lẫm nhìn những người từ nơi khác đến khiến Yehong hoảng sợ, một cảm giác cô chưa từng có bao giờ đối với những người cùng khổ. Đêm đó Yehong ngủ lại trong túp nhà tranh của hộ khá nhất vùng. Phòng ngủ giống một chiếc lồng chim lớn dù không ngăn được sự tò mò nhòm ngó của dân làng nhưng có thể ngăn được lũ chó mèo và những con vật nhỏ vào ra. Đêm đó ông chủ không ở nhà. Bà chủ nhiệt tình, hiếu khách là một phụ nữ trung niên, không gầy không béo. Chị rất thích nói chuyện và có biết Yehong là nhà báo. Yehong đang ghi chép vào cuốn sổ tay dưới ánh đèn dầu vàng vọt. Ngủ được một lúc, chị chủ nhà thức dậy, nói là không ngủ được, muốn nói chuyện với Yehong. Chị mặc thêm áo ấm rồi đến trước mặt Yehong bắt chuyện. Đương nhiên là Yehong hưởng ứng rất nhiệt tình. Đêm ở xóm núi, trong chiếc lồng chim ấy, với một ngọn đèn dầu và hai người phụ nữ, câu chuyện tâm tình của họ râm ran... Hai người phụ nữ gặp nhau hôm nay không chỉ là cơ duyên mà còn là phúc phận từ kiếp trước! Hai trái tim lạnh lẽo vừa gặp nhau đã nảy sinh tình cảm ấm nồng. Thì ra, sự gặp gỡ giữa họ không tình cờ chút nào: hai người phụ nữ đều cùng họ với nhau, 500 năm trước là người một nhà! Hai người phụ nữ sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cho dù hiện tại trông họ như mẹ con. Khi chị chủ nhà ra đời, trời còn chưa sáng. Lúc nhà văn nữ sinh, mặt trời đã lên cao. Chị chủ nhà xưng chị. Nữ văn sĩ nhận là em. Đã là chị em thì nói gì cũng được, nói sao cũng xong. Chị kể những điều kỳ lạ ở xóm núi. Em chăm chú nghe, càng nghe càng thấy hứng thú. Em kể những cuộc phiêu lưu đây đó, những danh lam thắng cảnh, những điều tai nghe mắt thấy ở thế giới bên ngoài. Chị càng nghe càng lờ mờ chẳng hiểu gì cả! Dù đã rất khuya nhưng vẫn là đêm, hai người phụ nữ tiếp tục tán chuyện dài dài... Chị nói, đêm không có đàn ông, có cô em gái bên cạnh cũng không tồi. Người đàn ông của chị đêm đó vốn thuộc về chị, nhưng em đến, em là khách nữ, có đàn ông không tiện, vậy là anh ta đến với người vợ thứ hai vừa cưới cách đây hai tháng. Chị nói, chị không hận chồng mình mà chỉ hận người đàn bà đã cướp người đàn ông của chị. Đêm nay để chồng qua đêm với thị, chị sẽ bắt thị phải bồi hoàn... Chị kể hết chuyện người đàn ông của mình, liền muốn nghe chuyện người đàn ông của em. Em ậm à từ chối. Chị bảo, “Chị đã kể hết chuyện của chị, em nhất định phải kể chuyện của em chứ!” Em cười rất tươi và... chị đòi em cho xem... Chị cười lớn: “Ha ha... đã qua đàn ông rồi, còn xấu hổ nỗi gì? Đều là đàn bà, sao còn mắc cỡ? Có ai bảo em kể chuyện đó với gã đàn ông của em đâu mà em xấu hổ?” Em nói: “Em vẫn chưa có chồng mà chị!” Chị ngạc nhiên lắm, áy náy nói: - Ôi em gái thật đáng thương! - Chị xót xa nhìn Yehong, nói tiếp - Chúng ta đều ba mươi mấy cả rồi... Chị đâu có biết... Mà thôi em à. Em cũng đừng buồn làm gì. Ngay ở đây cũng có hai cô giống em đấy, bỏ xứ đi hai năm, lại về hai năm nay mà chẳng ai chịu lấy. Em nghe chị, lần này về hãy tìm một người đàn ông cho mình! Phụ nữ lớn tuổi như chị em mình mà không có đàn ông thì coi như không có nhà, đáng thương lắm! Chị bây giờ chỉ có một nửa người đàn ông, cũng thật đáng thương, nhưng còn em thì... Trong đêm vắng, nhà văn nghe tới đây chợt giật mình, đột nhiên cảm thấy mơ hồ rối rắm như thể đang trôi trong đám sương mù dày đặc. Đêm hôm đó nhà văn nữ của chúng ta thức cho tới sáng. Cô không nghĩ ra được điều gì mới mẻ. Sáng hôm sau hai chị em bịn rịn chia tay. Cả hai đều nước mắt lưng tròng! Người xóm núi lặng lẽ nhìn hai người đàn bà bằng ánh mắt nghi ngờ dò xét. Một bà lão còng lưng và bé gái cỡ mười tuổi ngồi trên chiếc băng gỗ nhìn nữ nhà văn ràn rụa nước mắt một mình đi về phía cánh rừng. Bé gái nói: - Bà ơi, sao chị kia lại khóc? Bà lão nuốt nước bọt, chậm rãi nói: - Con gái lớn thế kia mà một mình lưu lạc tứ phương, không nhà cửa để về, không khóc mới là lạ! - Thật đáng thương! - Bé gái thốt lên. Yehong đi theo con đường nhỏ xuyên qua khu rừng chợt nhận ra mình đáng thương thật, lòng trống trải tựa một cánh rừng hoang vắng, âm u. Yehong nhìn lại những túp lều tranh lưng chừng núi trông như những thân cây vừng trôi nổi bập bềnh trên đại dương xanh biếc. Lúc này cô chợt nhận ra rằng: trên thế giới này thực ra không có ai là người đáng thương cả, chẳng qua vì họ không cùng quan điểm về cuộc sống nên mới ngộ nhận thế thôi! CÂY ĐÈN ĐƯỜNG VÀ CON PHỐ CỦA CHÚNG TÔI Azit Nexin (Thổ Nhĩ Kỳ) C ư dân ở con phố của chúng tôi luôn ca thán rằng họ không sao hiểu nổi việc cứ bốn năm một lần lại phải đi bầu các tham nghị viên. Xin mọi người chớ nghĩ rằng chúng tôi đã có tham nghị viên để đại diện cho mình làm chủ mọi thứ ở đây. Làm gì có chuyện hay ho ấy... Cũng đừng cho rằng tham nghị viên chính là người của con phố chúng tôi cử ra. Đó là chuyện mơ giữa ban ngày! Tham nghị viên căn bản không xuất thân từ con phố của chúng tôi, còn nếu có một người từ nơi khác lỡ bước đi vào đây thì ông ta sẽ không bao giờ trở ra được. Từ trước tới giờ xe ô tô chưa khi nào vào đây, tàu điện không có, xe lớn cũng không, ngay cả xe do lừa kéo cũng không vào được. Anh đừng có mà cao hứng đi qua con phố của chúng tôi, bảo đảm với anh, ngay cả chiếc đồng hồ quả quít của anh cũng sẽ ngừng chạy. Một người văn minh sống tại một thành phố lớn chỉ cần nhìn thấy con phố của chúng tôi cũng khiến cho đầu óc ông ta trở nên trục trặc! Nhưng chúng tôi thì hàng ngày vẫn phải đi lại trên con phố ngay cả xe lừa kéo cũng không vào được đó. Cánh đàn bà con gái kéo lê những đôi guốc gỗ lộc cộc; những đứa bé chân đất chạy nhảy lung tung. Có cách nào khác đâu, chúng tôi sinh sống ở ngay con phố này sao có thể không qua lại trên con đường ấy? Có điều, dù cư dân trên con phố của chúng tôi chẳng hiểu trời cao đất dày là gì song lại phải lo những chuyện thuộc về quốc gia đại sự! Rõ ràng là mọi người rất bất mãn về việc cứ bốn năm lại phải bầu tham nghị viên một lần. - Các vị làm sao thế hả? Các vị có hiểu tuyển cử là thế nào không? Tôi đã cố giải thích cho dân ở đây hiểu, nhưng xem ra chỉ vô ích mà thôi. Họ chẳng hiểu gì cả. Họ vẫn cho là mình thông minh nhưng thực ra là ẳ chẳng hiểu một chút đạo lý nào cả. Kể cũng lạ: hàng ngày họ vẫn thản nhiên qua lại trên con phố ngay cả xe lừa kéo cũng không qua được đó mà chẳng hề kêu ca phàn nàn gì. - Thôi được! Nếu mọi người không tán thành bốn năm bầu tham nghị viên một lần thì tám năm bầu một lần vậy, được không? - Tôi hỏi. - Không! Phải tuyển cử nhiều lần hơn mới phải chứ! - Mọi người nhao nhao trả lời. - Thế thì hai năm một lần vậy nhé? - Không đâu người anh em! Mỗi đêm ta nên bầu cử một lần! - Ôi! Các vị điên hết rồi sao? - Tôi thở hắt ra, hỏi. Con phố mà chúng tôi đang nói đây thật là quái lạ: ai ai cũng đều mắc nợ! Chỗ này, chủ nhà đuổi khách trọ vì đến hạn mà không chịu trả tiền; chỗ kia, chủ nợ đập cửa những người thuê trọ đòi tiền. Trên các cánh cửa đầy những chỗ khắc bậy vẽ bậy, cho nên chẳng còn chỗ đâu để các ông bà chủ cửa hàng bán sữa bò, bán nước giải khát, bán bánh mì khắc các ký hiệu về những khoản nợ chưa đòi được. Dân ở đây phải thức dậy từ lúc trời chưa kịp sáng và làm việc quần quật để kiếm sống; mệt mỏi phát khiếp lên được. Từ trưa cho tới lúc đọc lời sám hối lần thứ ba trong ngày, đó là lúc mẹ đánh mắng con; khi màn đêm buông xuống, đó là thời gian cho những cuộc cãi vã, thậm chí đánh nhau giữa cánh đàn ông, kể cả đám đàn bà con gái. Từ khuya cho tới sáng là lúc các mụ vợ cãi nhau với người đàn ông của mình! Nghe nói trên trái đất của chúng ta chiến tranh đã kết thúc, nhưng chuyện đó có can hệ gì đến chúng tôi? Chiến tranh ở con phố của chúng tôi vẫn đang tiếp diễn. Có thể khái quát một câu là: Cư dân trên con phố của chúng tôi có không biết bao nhiêu là chuyện để u sầu, bi thương, chán nản... khiến cho ai ai cũng như phát điên lên! Tôi cố thuyết phục cư dân ở đây lần nữa: - Hỡi các công dân khả kính. Chuyện bầu cử tham nghị viên là chuyện quốc gia đại sự, đâu phải chuyện đùa, làm sao có thể mỗi đêm bầu một lần được? Không ngờ, vấn đề căn bản không phải là ở chỗ đó! Nó ở chỗ khác cơ! Trên con phố của chúng tôi có một cây đèn đường. Không giấu gì các bạn, cây đèn ấy là hữu danh vô thực: nó không còn bóng, không có chao đèn, không có cả cổ đèn nữa! Tóm lại, ở đây chỉ còn độc một cây trụ sắt, nhưng chúng tôi vẫn quen gọi nó là cây đèn đường. Dân ở phố tôi từ lâu đã quên mất một chân lý giản đơn rằng, đèn đường là phải chiếu sáng con đường! Dù sao, cái trụ sắt trơ trọi kia cũng là thứ tô điểm phần nào cho con phố nghèo nàn của chúng tôi! Chính cái trụ sắt ấy lại là nơi lý tưởng cho tụi trẻ con thích thú đuổi nhau chạy vòng quanh. Lúc khác, khi thấy chim bay tới đậu trên đầu trụ sắt thì chúng lại thi nhau giương ná lên mà bắn. Vậy, trụ đèn đường này ai đã dựng nên? Một nhà từ thiện? Một tổ chức từ thiện hay là Nhà nước? Hoặc giả là chính quyền địa phương? Chúng tôi không ai biết cả. Thế nó có từ lúc nào? Tại sao lại có? Thực ra, biết những thứ này để làm gì chứ? Chúng tôi chỉ nghe các cụ già “cổ lai hy” kể lại, ngọn đèn này khi Leisadest đăng quang có sáng một lần. Về sau, khi công bố Hiến pháp, đèn sáng được một hai đêm. Thế nhưng, ngay cả khi thành lập nước cộng hòa, đèn có sáng không, đến nay vẫn còn là một câu đố. Có người nói có, có người lại nói không, chẳng biết ai đúng ai sai. Một vấn đề đặt ra là, chuyện cây đèn đường và việc bầu cử tham nghị viên có liên quan gì với nhau? Một ông già bộc trực và mau miệng giải thích: - Mọi người có nhớ lần tuyển cử gần đây nhất không? Trong ngày bầu cử đó, cây đèn đường của chúng ta được lắp bóng, chao, cổ đèn mới và đêm đó nó được thắp sáng bằng khí than. Con phố của chúng ta tức thời náo nhiệt hẳn lên! Thế nhưng, qua đêm hôm sau và cho mãi đến bây giờ đèn vẫn không sáng thêm lần nào nữa! Cám ơn Thượng đế, đến lúc này thì tôi đã rõ. Tôi hiểu vì sao dân phố này hy vọng đêm nào cũng có bầu cử! Thật lòng mà nói, tôi cũng rất đồng tình với ý nguyện của cư dân nơi đây! TÔI TỰ SÁT NHƯ THẾ NÀO Azit Nexin (Thổ Nhĩ Kỳ) T ôi đang phải sống những ngày thật tồi tệ nên đã quyết định tự sát! Và đây là lần tự sát đầu tiên của tôi. “Ôi bạn ơi! Tôi tự nói với mình - Làm sao để chết một cách tốt nhất? Dùng súng lục hay dao găm?” Chết cách nào cũng vậy thôi, có điều, tôi phải chết sao cho cao thượng một chút! Tôi quyết định uống thuốc độc. Tôi mua thuốc độc ở cửa hàng dược, đóng chặt cửa phòng ngủ, viết một bức thư tuyệt mệnh thật dài với lời lẽ vô cùng thống thiết, cuối thư là câu “Vĩnh biệt kiếp người hư không trống rỗng! Vĩnh biệt số phận biến ảo khôn lường! Vĩnh biệt tất cả!”, đoạn, tôi uống ly thuốc độc rồi nằm xuống giường. Chắc chắn là huyết quản tôi sẽ vặn thắt như một đoạn thừng bị xoắn, tay chân co rúm, dòng máu sẽ đông cứng lại ngay thôi. Tôi chờ đợi mọi chuyện sẽ xảy ra... nhưng tuyệt nhiên không hề có gì xảy ra cả. Thế là tôi uống tiếp ly thuốc độc thứ hai, rồi ly thứ ba... nhưng vẫn chẳng có phản ứng gì. Về sau, tôi ngộ ra rằng, ở cái đất nước này, không chỉ có sữa bò giả, dầu ăn giả, sữa bột giả... mà ngay cả thuốc độc cũng giả nốt! Hóa ra muốn tự sát cũng không phải dễ! Nhưng tôi thì quyết tâm lắm! Phải chết cho bằng được! Tôi nghĩ, bắn một phát súng vào đầu là xong chứ gì. Tôi dí súng vào huyệt thái dương, bóp cò “tạch” một phát, lại bóp cò lần nữa “tạch”, bóp cò lần thứ ba đạn vẫn không nổ. Thì ra, đây là loại súng viện trợ của Mỹ, bị thiếu linh kiện. Cách này lại bị vô hiệu hóa. Thôi được, tôi nghĩ tới cách khác chắc chắn hơn, là dùng khí gas. Cách này vừa nhẹ nhàng vừa nên thơ! Tôi mở bình khí gas, đóng kín tất cả các cửa lại, lựa chọn tư thế thoải mái nhất ngồi lên ghế, chờ thần chết đến đón! Quá trưa. Rồi màn đêm buông xuống, tôi vẫn thở bình thường. Tối đến, một người bạn tới tìm tôi. - Không được vào! - Tôi gào lên. - Sao thế? - Tôi đang chết đây! - Cậu không chết, cậu điên rồi thì có! Anh bạn tôi xem qua bình gas rồi cười lớn, nói; - Cậu mua phải gas dỏm thế này thì chết thế quái nào được? - Đoạn, anh ta nghiêm giọng hỏi: - Thế cậu muốn chết thật à? - Đương nhiên là thật! - Được! Tớ sẽ giúp cậu! Anh bảo tôi tới hiệu bán dao mua lấy một con dao chọc tiết lợn, sau đó hãy làm như các võ sĩ đạo người Nhật, dũng cảm tự mổ bụng, lôi cả bộ lòng ra ngoài. Tôi cám ơn lời khuyên của bạn và lập tức đi mua ngay một con dao sắc lẻm. Thực lòng mà nói tự tử kiểu này kinh quá, khó chịu đựng nổi! Vả lại, nếu làm như vậy, khi kiểm tra thi thể ở nhà xác các bác sĩ sẽ không tìm thấy loại thực phẩm nào trong bụng tôi, làm sao họ xác nhận là tôi tự sát được? Mặc kệ! Tôi cứ việc ôm con dao vui vẻ về nhà. Đúng vào lúc đó, có hai người giống nhân viên thuế vụ đi về phía tôi. Tôi giải thích với họ: “Các ngài, xin chờ cho một lát. Hãy nghe tôi nói đã. Tôi nghiêm chỉnh nộp thuế đầy đủ cho Chính phủ, không hề phàn nàn kêu ca bao giờ. Người thật thà như tôi..- Một người trong bọn họ ngắt lời tôi, gằn giọng: - Vậy đây là cái gì? Định giết người phải không? Thì ra đó là hai viên cảnh sát hình sự chuyên theo dõi, trấn áp bọn tội phạm. - Con dao này là của tôi. Tôi thấy mình không thể tiếp tục sống được nữa nên quyết định tự sát, thế thôi! Tôi cho rằng đó là cách thích hợp nhất! Nhưng các ông xem, tôi thực sự không có cách gì để vĩnh biệt thế giới này được cả! - Sau khi nghe tôi nói một hồi, hai viên cảnh sát đồng ý để tôi đi với điều kiện phải để con dao lại. Tôi buồn bã ra về. Lẽ nào tôi phải chịu đựng sự giày vò khốn khổ này mãi? Tôi là người có ý chí, có quyết tâm, đã nói chết là phải chết cho bằng được! Tôi đã đến hiệu tạp hóa mua một sợi dây thừng làm phương tiện tự sát. Tôi thắt một đầu dây thành chiếc thòng lọng, đầu kia treo trên xà nhà, bắc ghế đứng lên, thò đầu vào thòng lọng rồi đạp đổ chiếc ghế. Nhưng, tôi không hề bị treo cổ mà chỉ nghe “phựt” một tiếng và tôi rơi bịch xuống đất! Hóa ra, sợi dây thừng đã mục. Tôi cáu tiết chạy đi tìm lão chủ hiệu tạp hóa, lão ấy bảo: “Nếu là hàng tốt, tôi lại chịu bán cho anh sao?” Vậy là quá rõ. Tự sát là điều hoàn toàn vô vọng! “Thôi được! Vậy thì phải sống tiếp thôi!” Tôi tự nhủ. Mọi người đều biết ai cũng phải ăn để sống. Tôi rất thích món thịt ướp sấy khô và trứng rán. Thoạt tiên tôi ăn hai món này ở một quán ăn, sau đó ăn đồ hộp và mì ống; cuối cùng tráng miệng vài tảng bơ ngọt. Lúc này, một người bán báo đi qua, nói: “Có cả thảy 16 tờ. Nếu ông không muốn xem thì dùng để gói đồ cũng được”. Tôi không có thói quen xem báo, nhưng lần này tôi mua một tờ. Cũng giống như mọi người thôi, khi xem đến bài xã luận thì tôi ngủ thiếp đi. Đột nhiên, bụng tôi quặn đau dữ dội, tựa như có ai đâm mũi dao vào đó. Tôi gào lên đau đớn. Người ta gọi xe cấp cứu đưa tôi đi bệnh viện. Khi mở mắt ra, một bác sĩ đứng cạnh tôi, hỏi: - Chắc là ông bị ngộ độc. Ông không thể giấu chúng tôi được đâu. Ông tự sát phải không? - Ông nói gì lạ vậy ông bác sĩ? Tôi đang sống những ngày hạnh phúc mà! - Ông ngộ độc thực phẩm rồi. Hôm qua ông đã ăn những gì? - Thịt sấy khô. - Cái gì? Thịt sấy khô à? - Ông bác sĩ la to - Ông điên rồi. Báo chí đưa tin hàng loạt người ngộ độc thịt sấy khô, ông không biết sao? Nhưng, với ông, có vẻ không giống người ngộ độc thịt sấy. Ông còn ăn thứ gì khác không? - Tôi ăn đồ hộp ở quán cơm. - Thảo nào. Còn ăn gì nữa? - Mì ống và bơ ngọt. - Rõ rồi. Ông bị ngộ độc mấy món đó. - Tay bác sĩ khẳng định. Và rồi gã lại hỏi: - Ngoài ra ông còn xơi thứ gì nữa không? - Xin thề là tôi không ăn thứ gì khác, chỉ là khi đọc báo thì tôi ngủ thiếp đi. - Lạy Chúa! May cho ông đấy. Ông giữ được mạng sống rồi! Hôm ra viện, tôi nghĩ, mình chẳng làm gì được nữa. Muốn sống cho tươm tất không được; muốn chết cũng không xong... Thôi đành... sống dở chết dở vậy! LƯƠNG Y Mạc Ngôn (Trung Quốc) H ồi đó, vùng đông bắc huyện Cao Mật tổng cộng chỉ độ mười mấy hộ gia đình sống dọc triền dốc bên bờ sông. Mười mấy ngôi nhà đòn dông ấy lập thành làng Tam Phận. Ở cái làng Tam Phận này đương nhiên cũng có nhiều chuyện để nói, nhưng trong truyện kể này chỉ kể về một người thầy thuốc trị bệnh cứu người, không có ý giải thích tên làng. Làng Tam Phận có một nông dân hiền lành, phúc hậu tên là Vương Đại Thành. Vợ Vương Đại Thành không sinh đẻ được, chỉ có hai vợ chồng sống thui thủi với nhau. Mùa thu năm nay mưa rất to, nước sông tràn bờ. Ruộng vườn chìm trong nước, các loại lúa má, đậu đỗ đều chết ngập, chỉ có cao lương là còn cố vươn lên khỏi mặt nước những bông vàng thưa thớt. Qua Tết Trung thu nước rút dần, mặt đất lộ ra một lớp phù sa mầu mỡ. Dù rằng vụ thu coi như mất trắng nhưng dân chúng cũng không lấy gì làm lo lắng cho lắm, bởi, mùa xuân sang năm, nếu mưa thuận gió hòa, chắc chắn mùa màng sẽ bội thu. Hồi ấy, đất rộng người thưa, việc gieo cấy đơn giản hơn ngày nay nhiều, gieo cấy lúa mạch càng đơn giản hơn: một người bê thúng giống bước lùi trên ruộng, bỏ giống vào lỗ dấu chân mình vừa để lại, một người khác dùng cào hai răng cào đất lấp xuống là xong. Vợ chồng Vương Đại Thành gieo lúa mạch trên chân ruộng trũng. Vợ bước lùi bỏ thóc, chồng cào đất lấp lại. Chân vợ Đại Thành tất nhiên là nhỏ rồi, dấu chân để lại trên ruộng tròn tròn nhỏ xíu giống như dấu chân lừa. Đại Thành trêu vợ bảo bà là con lừa cái nhỏ, còn mình là con lừa đực to. Hai người cười ha hả, trong lòng rất vui. Nhưng mà, chuyện đời thì, họa phúc tương liên, buồn vui xen kẽ, vậy mới gọi là “vui quá hóa buồn!” Hai vợ chồng đang nói cười vui vẻ chợt Đại Thành cảm thấy chân mình đau nhói như có một vật nhọn đâm phải. Người nhà quê một năm đi chân trần tám tháng, bị đâm vào chân là chuyện vẫn xảy ra luôn nên ông cũng không để ý, cứ tiếp tục công việc. Đến tối rửa chân lên giường, thấy lòng bàn chân ngưa ngứa, nhấc lên xem thì thấy ngay giữa lòng bàn chân có một lỗ nhỏ bằng lỗ trôn kim đang rịn nước vàng. Đại Thành bảo vợ lấy chút rượu trắng chấm vào đấy rồi đi ngủ. Do cả ngày làm lụng vất vả nên ông ngủ rất say. Trước khi trời sáng Đại Thành nằm mơ thấy chân mình bị hầm trong nồi như người ta hầm xương vậy. Tỉnh dậy thấy chân bỏng rát quá thể liền gọi vợ đốt đèn lên xem. Bàn chân sưng vù, bóng loáng tựa như bên trong chứa đầy hơi và nước. Sáng ra không thể đi làm được, vợ Đại Thành định đến thôn Hắc Thiên Sầu mời thầy thuốc thì ông bảo: - Tôi tự đi chầm chậm cũng được mà. Hắc Thiên Sầu cách Tam Phận chừng ba dặm, hai bên đường có nhiều hố nước sâu. Chân Đại Thành sưng tấy lên như thế nên đi lại rất khó khăn. Tuy nhiên cuối cùng ông cũng đến được Hắc Thiên Sầu gặp thầy thuốc. Thầy thuốc tên là Trần Bảo Khuyết chuyên xoa bóp và dùng các loại dược thảo giã đắp lên vết thương nên mọi người gọi ông là thầy lang vườn. Khi Đại Thành đến, thầy còn chưa dậy. Đại Thành ngồi ngoài cửa lấy thuốc lá ra hút, chờ mãi đến khi mặt trời lên những ba con sào, thầy lang mới dậy. Đại Thành vào nhà nhờ thầy xem hộ chân mình. Ông thầy lang nhíu mày, đặt ba ngón tay bắt mạch rồi bảo: - Về đi. Bảo vợ kiếm thứ gì ngon ngon mà ăn rồi lo mọi thứ cho ông là vừa! Đại Thành điếng người, hỏi: - Ý tiên sinh là tôi sắp chết sao? - Sống không quá ba ngày! - Thầy lang thản nhiên đáp. Nghe vậy, Vương Đại Thành rất buồn, nhưng thầy thuốc đã nói thế, cũng đành về nhà chờ chết. Ông chào thầy lang Trần Bảo Khuyết, thở dài não nuột, ra về. Trên đường về, nhìn những hố nước sâu xanh ngắt, những cánh bèo màu vàng nhạt, những dề rau hạnh đỏ tươi nổi trên mặt nước, lòng Đại Thành buồn rười rượi, nước mắt rơi lã chã. Ông nghĩ, hay là mình nhảy xuống hố nước chết quách cho xong! Vừa nghĩ ông vừa lê chân ra sát mép hố nước. Ven hồ, những bụi cỏ hoang cao quá đầu gối, Đại Thành vừa đạp chân lên cỏ, chợt có tiếng kêu chói gắt ré lên, cái chân đau nhức buốt dữ dội. Ông cúi xuống nhìn, thì ra ông vừa giẫm phải đôi nhím đang giao phối. Chỗ vết thương bị lông nhím đâm vào, một thứ nước vàng rỉ ra. Trong chốc lát Vương Đại Thành chợt nhận ra chân mình không còn nhức buốt nữa. Và, ông lại không muốn chết. Ông thả chân xuống nước khỏa qua khỏa lại cho sạch hết thứ nước vàng vừa rỉ ra lúc nãy, rồi đi tiếp. Về nhà, ngủ một đêm, hôm sau chỗ sưng tấy trên chân biến mất! Sau ba ngày Đại Thành cảm thấy sức khỏe bình thường, liền đi gặp thầy lang vườn định bụng làm cho lão bẽ mặt một trận. Vừa vào đến cửa, ông lang vườn hỏi ngay: - Sao ông còn chưa chết? Đại Thành chìa chân mình ra, nói: - Tôi về nhà chờ chết, nhưng chờ ba ngày mà không chết nên đến hỏi tiên sinh xem sao. - Trong thiên hạ còn có chuyện kỳ diệu thế đấy! - Chuyện gì ạ? - Vết thương trên chân ông là do một con rắn đực đã từng bị đôi nhím đang giao phối cắn phải; ban đêm ông lại gần đàn bà, tất cả nọc độc chạy vào tim, vào thận... muốn sống chỉ có một cách duy nhất là tìm đôi nhím đang giao phối, dùng lông của con nhím đực chích vào vết thương, nặn hết nước vàng ra, sau đó rửa chân trong nước bèo tây và rau hạnh độ nửa giờ. Vương Đại Thành ngớ người ra hồi lâu, đoạn nói: - Tiên sinh quả là thần y! Và, ông kể hết mọi chuyện. Nghe xong, ông thầy lang nói: - Vậy là mệnh của ông còn lớn lắm! Bởi vì loài nhím chỉ giao phối vào mùa xuân mà thôi. Cha tôi kể, loại thầy lang như Trần Bảo Khuyết có vốn tri thức cỡ tể tướng, chỉ vì nhiều nguyên nhân khác nhau, không thành tể tướng được, nên chuyển sang nghề y. Loại người này đều là thánh nhân, thông hiểu mọi lẽ biến hóa của trời đất, đọc nhiều sách kim cổ của thánh hiền, hàng trăm năm chỉ có mấy người. Loại người này đều giống những vị đại hòa thượng, công đức viên mãn, không bệnh tật gì, cuối cùng viên tịch, thực ra là hóa thành tiên! Cha tôi kể, Trần Bảo Khuyết suốt đời không lấy vợ, cuối đời râu tóc bạc phơ, sắc diện hồng hào, đôi mắt rực sáng long lanh, rất có thần! Mỗi sáng Trần Bảo Khuyết đều tự tới giếng gánh nước. Thời đó những người trẻ tuổi vẫn còn coi trọng trung hiếu nhân nghĩa, biết tôn kính người già, thấy ông xách nước vất vả liền đến giúp. Ông không ngăn cản ẳ cũng chẳng cám ơn, chờ cho người ấy đi khỏi, ông lại đổ nước xuống giếng, rồi tự mình múc lên đổ vào thùng gánh về nhà. Cha tôi bảo, càng về sau những vị thầy thuốc lương thiện càng ít dần, nhất là mấy năm gần đây, lại càng ít hơn. Trước khi bọn Nhật xâm chiếm còn có được mấy vị, dù không giỏi bằng Trần Bảo Khuyết nhưng so với ngày nay vẫn khá hơn nhiều, chưa được là thần y nhưng đã là lương y vậy! Cha tôi kể, năm hơn ba mươi tuổi, ông nội tôi bị bệnh hiểm nghèo. Bệnh ấy, theo như bây giờ phải mất cỡ 5.000 tệ mà có khi còn chịu tàn tật suốt đời. Một hôm ông tôi đang bào gỗ, chú Ba và chú Hai tôi chạy nghịch bên cạnh, lấy các mẩu gỗ ném nhau, bất đồ trúng ngay vào xương cùng của ông tôi khiến ông tôi đau tức đến mức ngã ngay xuống đất, mồ hôi túa ra như tắm. Đêm đó ông đau quá không tự lên giường ngủ được. Hôm sau, cả cái chân phải cũng đau luôn, dù không đỏ, không sưng nhưng đau kinh khủng suốt đêm ông tôi rên la không dứt. Anh ruột của ông tôi là thầy thuốc cố sức chữa chạy mà không khỏi. Ông bèn nhờ một thầy tướng số am hiểu về ngoại khoa đến chữa trị. Ông thầy số xem mạch rồi nói ông tôi bị “tẩu mã hoàng”, bảo người nhà bắt một con gà vàng đặt lên chỗ chân đau của ông tôi. Ông thầy số nói, nếu đúng là tẩu mã hoàng thì con gà sẽ nằm im tại chỗ; nếu không phải thế, con gà sẽ chạy đi. Làm theo lời thầy số, quả nhiên con gà kêu cục cục rồi nằm im bất động. Ông thầy số phán rằng, con gà sẽ hút hết chất độc trong người ra. Sau đó ông ta lại dùng các con vật có độc tố cao như bò cạp, rết, ong... chế ra một thứ thuốc viên màu đen gọi là “toản dược” (thuốc dùng để nắm), cho người bệnh nắm chặt trong tay. Ông ta bảo, công hiệu của loại thuốc này là đẩy hết các loại chất độc đã ngấm vào tim người bệnh. Chân ông tôi đã có con gà vàng áp vào, tay ông đã nắm chặt “toản dược” nhưng bệnh tình ngày càng trầm trọng, xem ra không cứu được nữa! Ông bác tôi ứa nước mắt dặn bà nội tôi lo hậu sự cho ông tôi. Lúc đó, một tên thổ phỉ được mệnh danh là Ngũ Loạn Tử xuất hiện. Ngũ Loạn Tử hoành hành khắp cả vùng đông bắc Cao Mật, không ai là không sợ hắn. Hắn đã từng nhận được ân huệ gì đó từ ông tôi, nghe ông tôi bị trọng bệnh, liền đến thăm. Cha tôi bảo, Ngũ Loạn Tử là một kẻ quyết đoán, thấy bệnh của ông tôi liền bảo “Sao không đi mời Đại Giảo Nhân?” (Kẻ cắn càn). Ông bác tôi bảo: - Đại Giảo Nhân khó mời lắm. Ông ta không bao giờ chữa cho người bệnh đã qua những thầy thuốc khác chữa trị. Ngũ Loạn Tử nói: - Để tôi mời cho. Nói xong hắn đi ngay. Hôm sau Ngũ Loạn Tử cho dùng kiệu bốn người khiêng, khiêng Đại Giảo Nhân tới. Đại Giảo Nhân đi khám bệnh bao giờ cũng đi loại kiệu này. Cha tôi bảo, đó là một ông già cao to béo tốt, thường mặc bộ áo quần lụa tơ tằm màu đen, đầu đội chiếc mũ nhỏ bằng nhung đỏ. Xuống khỏi kiệu, việc đầu tiên là Đại Giảo Nhân hút thuốc. Ngũ Loạn Tử bảo người nhà mang cần thuốc phiện, đèn dầu tới. Đại Giảo Nhân phải hút vài liều mới qua cơn nghiện. Hút xong, mặt mày Đại Giảo Nhân đỏ lưỡng. Ngũ Loạn Tử vén vạt áo rút ra khẩu súng - trong lưng còn khẩu nữa - vung tay lia một phát, con nhện chăng tơ dưới mái hiên bay mất. Ngũ Loạn Tử gí nòng súng còn bốc khói vào huyệt thái dương Đại Giảo Nhân, nói: - Đại Giảo Nhân, ông muốn ngồi kiệu, có kiệu; muốn hút thuốc, có thuốc; nếu muốn tiền, sẽ có tiền cho ông. Vị này là ân nhân cứu mạng của tôi, ông chữa trị cẩn thận vào. Ông cắn người thì được, lẽ nào có thể cắn được khẩu súng này hả? Cha tôi bảo, lúc đó mặt Đại Giảo Nhân tái mét, lão luôn mồm nói: “Không ạ không ạ”. Đại Giảo Nhân cúi người xem bệnh cho ông tôi một lát, rồi nói: - Bệnh này là “Thiếp cốt ác thư” (mụn độc mọc trong xương), để chậm mấy ngày nữa sẽ không có cách gì chữa khỏi. Ngũ Loạn Tử hỏi: - Ông có chắc không? - Chắc - Đại Giảo Nhân đáp. Nói rồi lão dùng ngón tay chọc chọc vào chân ông tôi, bảo, trong này toàn là máu mủ, phải chích nó ra. Ngũ Loạn Tử nói: - Được! Ông làm đi. Đại Giảo Nhân tìm một que sắt mài nhọn rồi bảo cắt cho vài đoạn thân lúa mạch rỗng. Sau đó ông ta xắn tay áo, dùng que sắt chọc mấy lỗ vào chân ông tôi, thọc đoạn ống rỗng vào đó làm ống dẫn lưu, máu mủ xanh lè chảy ra bốc mùi khăm khẳm, đầy cả một chậu thau. Chích hết máu mủ, chân ông tôi xẹp đi trông thật đáng sợ, chỉ còn da bọc xương, dường như thịt chỗ ấy rữa ra thành máu mủ hết cả. Xong đâu đấy Đại Giảo Nhân kê một đơn thuốc toàn là các loại cành lá khô rất thông thường. Đại Giảo Nhân nói: - Uống hết ba thang là khỏi. Ngũ Loạn Tử hỏi: - Ông lấy bao nhiêu tiền? - Trị bệnh cho ân nhân của bạn, một xu tôi cũng không lấy. - Được! Thế mới đúng là lương y chứ! Ông không lấy tiền công, ta biếu ông một ít hàng “độc” vậy. Cha tôi kể, Ngũ Loạn Tử rút trong lưng quần ra một gói thuốc phiện khá to, nâng ngang tầm mắt. Gói thuốc phiện ấy, thực giá cũng phải 50 tệ. Đại Giảo Nhân đón lấy gói thuốc phiện, nói: - Ai cũng bảo tôi cắn, nhưng tôi đã cắn ai chưa? Tiểu danh của tôi là “Cẩu Tử” (con chó) nên người ta bảo tôi là kẻ cắn càn vậy thôi. Ngũ Loạn Tử cười cười bảo: - Ông là con chó tốt! Cha tôi bảo, ông tôi uống hết ba thang thuốc thì khỏi bệnh. Vài tháng sau đã đi làm được; nửa năm sau, sức khỏe hồi phục hoàn toàn, gánh hàng tạ chạy băng băng. Cha tôi bảo, cách chữa trị ngoại khoa của Đại Giảo Nhân thực ra còn thua xa Trần Bảo Khuyết. Trần Bảo Khuyết tài đến mức có thể chuyển bệnh từ chỗ này sang chỗ khác trên cơ thể, chẳng hạn như, ghẻ lở nhằm vào chỗ quan trọng, uống thuốc của ông, ghẻ có thể chuyển sang chỗ không quan trọng trên cơ thể bệnh nhân rồi từ từ khỏi hẳn! Thường những người có thực tài, giàu bản lĩnh đều là những người trung thực, có lúc họ rất tận tình, cũng có lúc thấy bệnh nhân mà không cứu vì biết chắc không thể cứu được. Càng là người có y thuật cao, họ càng tin vào số mệnh, càng thoát khỏi trần tục. Do đó, loại thầy thuốc như Trần Bảo Khuyết là khách tiên trong núi chứ không như lão thầy tướng số kia. Hoặc giống như lão Đại Giảo Nhân nọ, muốn thành công phải kinh qua bao nhiêu khổ luyện mới nên, mà một người thầy thuốc chẳng qua, lúc bắt mạch chỉ biết được mạch nổi mạch chìm, mạch nhanh mạch chậm; còn dùng thuốc cũng chỉ nhằm trị chứng hàn nhiệt ôn lãnh mà thôi; chứ đạo lý về kinh lạc, huyệt đạo, âm dương ngũ hành, doanh vệ khí huyết... thì hầu như họ chẳng thấu hiểu bao nhiêu. LỜI NGUYỀN MA THUẬT CỦA CHIẾC BÌNH CỔ Hoàng Hán Minh (Trung Quốc) N hân dịp nghỉ lễ 1/5, Mục Du đến đảo Bana tham quan du lịch. Tại một sạp hàng bán đồ lưu niệm trên đảo, anh nhìn thấy một chiếc bình sứ cổ bảy màu nhỏ xíu với những hoa văn tinh tế trông rất đẹp. Chủ sạp hàng là một người đàn bà Di Gan đứng tuổi. Điều đáng ngạc nhiên khá thú vị là bà biết nói tiếng Trung Quốc. Thấy Mục Du săm soi ngắm nghía chiếc bình sứ cổ, tỏ ra rất thích nó, bà chủ sạp hàng cười, nói với anh rằng, đây là chiếc bình ma quỷ, đang giam giữ một con ma trong đó! Ai mua được chiếc bình, sức mạnh ma quái của nó sẽ giúp người đó thực hiện được ước mơ của mình! Tuy nhiên, người đó phải bán ngay chiếc bình cho người khác trong vòng nửa năm sau khi thực hiện được ước mơ, nếu không, người đó và chiếc bình sẽ hóa thành cát bụi! Mục Du không tin những gì bà chủ sạp hàng nói. Anh cho rằng đó chỉ là cách để tăng thêm tính tò mò của mọi người và giá trị của chiếc bình cổ mà thôi. Có điều, Mục Du quả thật đang rất thích chiếc bình sứ cổ, nên anh hỏi luôn: “Chiếc bình này bà bán bao nhiêu?”. Người đàn bà Di Gan kể, thoạt đầu, khi chiếc bình sứ cổ này xuất hiện trên trần thế, nó có giá cao ngất ngưởng, một triệu đô la Mỹ. Tuy nhiên, người đầu tiên mua nó không thể trả đúng giá đó được, nó đã bị hạ thấp xuống rất nhiều. Cứ như thế, chiếc bình sứ cổ được chuyển quyền sở hữu từ người này sang người khác, mỗi lần như vậy, giá của nó chỉ còn một nửa. Hiện giờ giá của nó là 50 đô la. Nếu Mục Du thực sự muốn mua, chỉ cần trả thấp hơn chút ít cũng được. Mục Du cười, lấy ra tờ 100 nhân dân tệ, nói: - Tôi chỉ có thể trả chừng này thôi, được không? Bà chủ sạp hàng nhận tiền, vui vẻ nói: - Cũng được. Tôi bán cho cậu. Việc mua bán chóng vánh này khiến Mục Du cảm thấy rất bất ngờ. Dù anh chưa biết rõ niên đại của chiếc bình sứ cổ nhưng đinh ninh là nó không thể quá mới được, những vết rạn chân chim một cách ngẫu nhiên trên thân bình cùng với nước men lạ nói lên điều đó. Bản thân chiếc bình, dù là cổ hay chỉ là giả cổ cũng có thể có giá cao hơn 100 tệ. Vậy tại sao bà ta lại vui mừng bán ngay cho mình? Tối hôm đó, nghỉ đêm ở khách sạn, Mục Du lấy chiếc bình ra ngắm nghía, chợt anh nhớ tới lời người đàn bà Di Gan nói, liền mỉm cười, nâng chiếc bình lên, nói với nó: “Bình cổ ơi, bình cổ! Ta muốn có một công ty riêng, ngươi có thể thực hiện được ước mơ đó của ta không?”. Nói xong, anh bật cười ha hả, đoạn lên giường đi ngủ, trong lòng hoàn toàn chẳng mảy may vướng bận gì về chuyện vừa rồi. Kết thúc chuyến du lịch, Mục Du trở về nhà thì thấy có nhiều người đang chờ đợi anh, tất cả bọn họ đều cung kính gọi anh là Giám đốc Mục, khiến anh vô cùng kinh ngạc. Bố Mục Du nói cho anh biết, cổ phiếu của ông không ngờ lại tăng vọt, ông đã dùng số tiền đó đăng ký thành lập cho anh một Công ty Quảng cáo, đúng như mơ ước của anh từ lâu. Mục Du vô cùng kinh hãi. Anh không thể ngờ được câu chuyện về chiếc bình ma quái kia lại là sự thật! Vui mừng khôn xiết, nhưng Mục Du cũng cảm thấy vô cùng bối rối, bởi lẽ, như bà chủ sạp hàng đã nói, nếu trong vòng nửa năm sau khi thực hiện được ước mơ, chiếc bình cổ không bán được cho người khác thì cả anh và nó sẽ hóa thành cát bụi (!) Mục Du lo lắng đi tìm người mua lại chiếc bình cổ. Cuối cùng, một người bạn vừa bị thất tình của anh, được anh nói mãi, động lòng bỏ ra 50 tệ mua lại nó. Gánh nặng tâm lý được dỡ bỏ, Mục Du yên tâm phát triển sự nghiệp của mình. Sau khi công ty làm ăn phát đạt, Mục Du cảm thấy một mình mình thì quá mệt nên muốn tìm trợ lý giám đốc, một người đáng tin cậy giúp việc cho anh. Sau vòng sơ tuyển, cô gái có tên là Tiêu Hiểu Địch đã lọt vào vòng ngắm của Mục Du. Đó là một cô gái trẻ đẹp, lại là sinh viên ưu tú vừa tốt nghiệp một trường đại học danh tiếng. Ngay lần đầu gặp mặt, Mục Du đã bị cô gái hớp hồn, mà bản thân Tiêu Hiểu Địch cũng rất thích anh chàng giám đốc trẻ tuổi, điển trai Mục Du. Có Tiêu Hiểu Địch giúp sức, công ty của Mục Du ngày càng phát đạt, chẳng mấy chốc tài sản đã lên đến hàng triệu tệ. Cùng với sự thành công trong kinh doanh, tình yêu của hai người cũng chín dần, nồng nàn say đắm. Mục Du và Tiêu Hiểu Địch chuẩn bị cử hành hôn lễ, đúng vào thời điểm đó, một sự cố bất ngờ xảy ra. Trong dịp kiểm tra sức khỏe trước khi cưới, các bác sĩ phát hiện Tiêu Hiểu Địch bị bệnh nhiễm độc nước tiểu giai đoạn cuối. Mục Du không sao chịu nổi thực trạng tàn khốc này! Hiểu Địch là một cô gái giỏi giang, xinh đẹp, đáng yêu biết bao! Anh có thể từ bỏ tất cả chứ không thể để mất cô ấy được! Anh thề, dù có khuynh gia bại sản cũng nhất định phải chữa khỏi bệnh cho Tiêu Hiểu Địch. Bác sĩ đã ghép thận cho Tiêu Hiểu Địch nhưng sau phẫu thuật lại xảy ra hiện tượng thải loại. Vị bác sĩ điều trị cho cô thở dài nói thật với Mục Du là họ đã cố gắng hết sức nhưng cũng đành bất lực, không thể nào giữ được mạng sống cho Tiêu Hiểu Địch. Biết tin này Mục Du choáng váng như sét đánh ngang tai. Anh yêu Hiểu Địch như thế, không thể dễ dàng để mất cô được! Trong lúc tuyệt vọng Mục Du chợt nhớ tới chiếc bình ma quái mà anh đã bán cho bạn. Anh liền nhờ cha mẹ mình trông nom chăm sóc Hiểu Địch, còn anh, anh lên đường quyết đi tìm lại cho bằng được chiếc bình sứ cổ. Thoạt tiên anh tìm đến người bạn đã mua nó, từ đó lần theo manh mối tiếp tục đi tìm. Có lẽ anh đã phải lang thang khắp một nửa đất nước Trung Hoa rộng lớn này, cuối cùng mới tìm được chiếc bình cổ từ tay một anh chàng thua bạc. Anh chàng thua bạc nói, anh ta cám ơn chiếc bình ma quái này đã cứu gia đình anh. Bởi vì, khi thua bạc anh đã phải bán tất tần tật ruộng vườn nhà cửa nên vợ anh đã mang con bỏ đi. Giữa lúc đắng cay cùng cực đó, có người bán cho anh chiếc bình ma quái ấy và nó đã thực hiện được ước mơ của anh! - Vậy thì tốt quá rồi! Anh hãy bán nó cho tôi, tôi đang cần nó biết chừng nào! Xin hỏi, anh mua nó bao nhiêu tiền vậy? - Mục Du nóng ruột hỏi luôn. Anh chàng thua bạc thở dài, nói: - Hồi đó tôi làm gì có tiền. Tôi mua nó chỉ tốn có hai xu, đó là đồng xu tôi nhặt được trên đường. Mục Du kinh hoàng, chết điếng người. Trời ơi! Vậy ra lúc này anh chỉ cần bỏ ra một xu để mua lại chiếc bình ma quỷ đó, điều ấy có nghĩa là, anh không thể bán lại nó được! Và, chỉ nửa năm sau, anh và nó sẽ vĩnh viễn thành cát bụi! - Tôi nhất định phải mua chiếc bình này, dù có chết cũng không hối tiếc! - Mục Du không chút do dự nói. Mục Du bỏ ra một xu để mua lại chiếc bình sứ cổ, đoạn trịnh trọng nói với nó: “Hỡi chiếc bình cổ đầy ma thuật! Ta cầu xin ngươi hãy cứu sống Tiêu Hiểu Địch của ta!”. Cầu nguyện xong Mục Du lập tức trở về Bệnh viện. Lời nguyện cầu của anh đã nhanh chóng trở thành hiện thực. Các bác sĩ vui mừng thông báo với Mục Du, bệnh tình của Tiêu Hiểu Địch đã thuyên giảm rất nhiều, đây quả là một kỳ tích chưa từng thấy xưa nay! - Anh Mục Du ơi, tốt quá rồi. Cuối cùng chúng ta đã có thể kết hôn với nhau! Chúng ta sẽ sống trọn đời trọn kiếp cùng nhau anh nhé! - Tiêu Hiểu Địch nước mắt ràn rụa nói. Mục Du buồn rầu, ngơ ngác. Làm sao anh có thể sống trọn đời với Tiêu Hiểu Địch được đây? Tuy nhiên anh không thể để cho cô biết rõ sự thật phũ phàng này! Tiêu Hiểu Địch rất nhanh chóng hồi phục sức khỏe và xuất viện. Trên gương mặt xinh đẹp của cô ánh lên sắc hồng tươi nhuận, cô đang nóng lòng chờ đợi ngày chính thức trở thành vợ Mục Du! Trong khi đó tinh thần của Mục Du ngày càng sa sút, khi chỉ có một mình, anh thường thở dài não nuột. Tiêu Hiểu Địch nhận ra vẻ khác lạ của Mục Du, mấy lần gạn hỏi vì sao nhưng anh đều không nói. Anh chỉ an ủi Hiểu Địch và nói thác ra rằng, công việc của công ty quá bận rộn khiến anh mệt mỏi. Tuy nhiên, bằng trực giác của người con gái đang yêu, Tiêu Hiểu Địch cảm thấy Mục Du chắc chắn có điều gì đó giấu mình, cô quyết định tự mình phải tìm ra sự thật. Cô yêu Mục Du như thế, dứt khoát không thể để cho anh đau khổ một mình! Tiêu Hiểu Địch tìm đến bạn bè của Mục Du, cuối cùng, qua một người bạn cô biết Mục Du đã từng mua một chiếc bình cổ ma quái, thần kỳ có khả năng thực hiện ước mơ của chủ. Công ty của Mục Du cũng nhờ chiếc bình cổ ấy mà có. Tiêu Hiểu Địch chợt nhận ra, thảo nào trong khi mình bị bệnh, Mục Du lại không ở cạnh cô, nhất định là anh đi tìm chiếc bình cổ đó. Cô khỏi bệnh cũng chính là nhờ nó. Nhưng, tìm được chiếc bình cổ rồi, tại sao anh lại không vui, buồn phiền sa sút vậy? - Đừng giấu em nữa Mục Du, em biết cả rồi. Anh đã cầu xin chiếc bình cổ cứu sống em phải không? Mục Du nói: - Em đã biết thì anh cũng không giấu em nữa. Đúng là anh đã cầu xin nó cứu em. Nhưng em biết không, anh chỉ mua nó có một xu, điều đó có nghĩa là, anh là người chủ cuối cùng của nó. Trước 12 giờ hôm nay, anh có thể sẽ cùng chiếc bình quái quỷ đó hóa thành cát bụi! - Không! Không thể như thế được! Nhất định chúng ta sẽ có cách! - Tiêu Hiểu Địch an ủi Mục Du nhưng lòng cô thì đau đớn trăm chiều như bị dao cứa từng khúc ruột! Đêm hôm đó, Tiêu Hiểu Địch nấu mấy món ăn ngon, rót ly rượu hồng đào cho Mục Du, nói: - Anh thân yêu, đừng nghĩ linh tinh nữa, chắc chẳng có chuyện gì tồi tệ lắm đâu, chúng ta hãy cùng nhau uống rượu đi anh, anh cũng thích thế mà, phải không anh? Mục Du nể lời Hiểu Địch, nâng ly rượu lên, uống cạn. Chẳng mấy lúc người anh lả dần rồi gục xuống bàn, ngủ thiếp đi. Thì ra Tiêu Hiểu Địch đã bỏ thuốc ngủ vào ly rượu của anh. Tiêu Hiểu Địch đưa Mục Du vào phòng rồi lục tìm chiếc bình cổ. Cô cố mở nắp chiếc bình nhưng không sao mở được, dùng dao cạy cũng không xong. Tức quá Tiêu Hiểu Địch ném chiếc bình xuống đất mấy lần liền, chiếc bình vẫn không vỡ. Tiêu Hiểu Địch bất lực, quỳ xuống van xin chiếc bình cổ: “Bình cổ! Bình cổ! Ta xin lấy mạng sống của ta thay cho mạng sống của người ta yêu. Xin người hãy cứu sống Mục Du của ta!...”. Hốt nhiên, từ trong bình, một vật tựa đầu con rắn mối thò ra. Con vật quái dị đó cất tiếng cười man dại, nhìn thẳng vào mặt Tiêu Hiểu Địch hỏi: - Ngươi thực lòng muốn chết thay cho anh ta? - Vâng! Ta thực lòng! - Tiêu Hiểu Địch quả quyết nói. - Vậy thì tốt! Lời nói của con “rắn mối” vừa dứt, Tiêu Hiểu Địch bỗng cảm thấy mình bị cuốn vào một dòng xoáy cực lớn, xung quanh tối sầm lại, cô ngợp thở và rồi không còn nhận biết gì nữa. Thời gian trôi đi dài như hàng thế kỷ, Tiêu Hiểu Địch chợt mơ màng nghe có người gọi tên mình. Cô cố mở mắt hỏi: - Em đang ở địa ngục phải không anh? - Không, không đâu Hiểu Địch! Em không chết mà anh cũng không chết đây này! - Mục Du lau dòng nước mắt nóng hổi, nói. Ngay tức khắc, một giọng nói lạ lẫm cất lên: “Cô gái đáng yêu kia, cám ơn cô đã dùng tình yêu của mình hóa giải lời nguyền ma thuật của ta! Hiện thời trong chúng ta không có ai bị hóa thành cát bụi cả! Ta sẽ đến nơi ta phải đến! Tạm biệt nhé! Chúc các bạn hạnh phúc mãi mãi!” - Một làn khói đục mờ vút ra từ miệng chiếc bình cổ, thoáng chốc đã tan dần và mất hút trong không trung yên tĩnh. ĐỨA EM TRAI HẾT CHỖ NÓI! Trần Trung Thực (Trung Quốc) N hà văn thường làm việc vào ban đêm, sáng ra mới ngủ, đến trưa thì dậy. Hôm đó anh ta vừa thức dậy thì chú em trai đến. Chú em từ quê ở vùng núi đến, vai đeo chiếc túi xách quân dụng bằng vải bạt màu vàng. Nhà văn vừa nhìn thấy chú em liền nghĩ ngay trong túi mình còn có bao nhiêu tiền. Đám anh chị em của anh ta đều sống ở vùng núi thuộc diện nghèo, đã đến nhà anh, cầm chắc là để xin tiền. Người em ngồi xuống ghế, thản nhiên nói: - Anh, anh đừng lo. Lần này em không xin tiền anh đâu. Em biết, anh có tiếng nhưng không có tiền mà! Nghe vậy, nhà văn ngớ ra chẳng hiểu chú em sắp diễn trò gì. Thấy anh làm thinh, người em thẳng thắn tiếp: - Em muốn thành lập công ty vận tải. Trước mắt em mua một chiếc ô tô chở khách đường dài... Anh nghĩ xem liệu có đủ tiền cho em mượn không? Anh có bán cả chị dâu cũng không mua nổi ô tô đâu... Nhà văn hít một hơi thuốc lá, nói: - Cái ngữ chú mà đòi lập công ty vận tải hành khách à? Chắc đêm qua chú nằm mơ giờ vẫn chưa tỉnh mộng chứ gì? Người em không hề giận, xởi lởi: - Em biết anh coi em chẳng ra gì, không bao giờ tin em. Trước khi chuyện thành hiện thực, ai mà tin chứ, nhưng khi thành công rồi thì ai cũng trầm trồ ngợi khen rối rít. Mấy năm trước, khi anh chưa thành danh, có ai nhắc gì tới anh đâu. Dạo đó em thấy anh viết lách cả ngày mà chẳng nơi nào đăng cho, em thấy anh chẳng ra dáng nhà văn một chút nào! Vậy mà bây giờ, trông anh đã ra dáng nhà văn rồi đấy... Nhà văn bị chẹn họng không nói được gì, chỉ cười cười: - Được rồi! Chú muốn mua cả một đoàn tàu hỏa để chở khách, anh cũng không có ý kiến. Chú cứ làm đi! Người em cười: - Nhưng anh vẫn phải giúp em đấy! Em không cần tiền của anh, chỉ cần anh viết cho Huyện trưởng Lưu mấy chữ, để ông ấy bảo Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp huyện cho em vay ít tiền. Huyện trưởng Lưu là bạn thân của anh mà!... Nhà văn không nhịn được cười, cười chảy cả nước mắt: - Chú thích đùa nhỉ? Đúng là nằm mơ thật rồi, giấc mơ đẹp đây! Chú cũng biết động não đấy chứ, dám lợi dụng quan hệ bạn bè của anh... Người em tiếp lời: - Chẳng qua là anh viết mấy chữ thôi mà! Nhà văn cười rồi lấy giấy bút ra viết thư cho Huyện trưởng Lưu. Hai hôm sau nhà văn cảm thấy những điều bức bối trong lòng chưa giải tỏa được bèn gọi điện cho Huyện trưởng Lưu bày tỏ nỗi niềm tâm sự của mình, cuối cùng nói thẳng: “Anh Lưu này! Anh biết thằng em chẳng ra gì của tôi rồi đấy. Tôi giảng giải đạo lý cho nó không xong nên muốn nhờ tay anh, anh hiểu tôi chứ? Anh hãy tìm lấy lý do nào đó đuổi cổ nó về cho tôi!”. Huyện trưởng Lưu cười ha ha: “Chậm rồi anh bạn ơi! Chiều hôm qua cậu ấy đã đến chỗ tôi. Tôi giới thiệu cậu ấy với Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp huyện rồi”. Vừa cúp máy lại có điện thoại gọi đến, là của chú em ruột: “Anh ơi! Em đang ở Ngân hàng Nông nghiệp đây. Chuyện vay tiền không có vấn đề gì. Huyện trưởng Lưu chỉ nói một câu, Giám đốc Ngân hàng cứ y như thế mà làm. Em muốn vay 5 vạn tệ, ông ấy đồng ý cái rụp, một đồng cũng không dám bớt!” Nhà văn trầm ngâm một lát. Nếu hắn vay 5 vạn tệ rồi tiêu sạch thì ai sẽ phải trả nợ đây? Anh không yên tâm chút nào đối với đứa em bất trị này. Nghe giọng điệu “cáo mượn oai hùm” của người em, nhà văn không khỏi hoài nghi, lo lắng: “Chú đã nghĩ đến khả năng trả nợ chưa? Sao liều thế?”. Người em đáp tỉnh rụi: “Chuyện này anh đừng lo. Người ta cho vay nhưng với điều kiện là phải có tài sản thế chấp hoặc có người bảo lãnh anh à. Em nghĩ kỹ rồi, trong mấy anh chị em ta, chỉ có anh là người khá giả hơn cả. Anh đứng ra bảo lãnh cho em là được mà!”. Nhà văn cáu tiết: “Chú định đem cái thân tôi ra thế chấp đấy hả?”. Người em cười hí hí: “Ai dám thế chấp một tác giả lớn như anh chứ! Giám đốc Ngân hàng gợi ý cho em rồi, cứ thế chấp tác phẩm của anh là được!”. Nhà văn thở ra nhẹ nhõm. Giám đốc Ngân hàng nêu ra ý này với hắn rõ ràng là đùa thôi, vậy mà cái thằng tự cho mình là thông minh kia cũng mắc lừa mới lạ chứ! Nhà văn nói: “Tác phẩm của anh đã bán cho Nhà xuất bản cả rồi, bản quyền thuộc về Nhà xuất bản, không còn thuộc về anh nữa, thế chấp sao được?”. Người em hiển nhiên là chẳng hiểu tí gì về luật xuất bản cả: “Sách của anh viết sao lại không thuộc về anh? Vậy thì anh nghĩ cách khác giúp em đi, mình nói dối cũng được, miễn là em vay được tiền...”. Nhà văn nói luôn: “Tôi chỉ có cây bút máy Vĩnh Sinh, chú mang nó đi mà thế chấp!”. Nói xong, cúp máy đánh “cạch”... Một tháng sau, nhà văn và bạn anh ta, Huyện trưởng Lưu gặp nhau, hàn huyên chuyện trên trời dưới biển, chợt nhà văn hỏi Huyện trưởng Lưu: - Anh Lưu này, sau dạo đó thằng em tôi có quấy rầy gì anh nữa không? Huyện trưởng Lưu đã uống mấy ly, nghe hỏi, bật cười ha hả. Cười xong liền kể cho bạn nghe câu chuyện rất có thể viết thành phần “vĩ thanh” của một tiểu thuyết mới: - Khi chú em của anh ra về, cậu ấy mượn tôi chiếc xe đạp Phượng hoàng kiểu mới do cơ quan cấp. Huyện chúng tôi nhỏ lại nghèo, dùng ô tô đi làm vừa tốn kém vừa khó coi nên tôi cấp cho các vị đầu ngành mỗi anh một chiếc xe đạp. Cậu ta lấy chiếc xe của tôi cưỡi đi, ba hôm sau đem trả lại cho phòng thường trực. Khi ông già thường trực giao lại cho tôi, tôi không nhận ra được nữa: chuông bị gỡ mất, ghi đông bị thay bằng cái cũ mèm, rỉ sét tùm lum, xích, líp, đùi, đĩa đều bị thay bằng những thứ người ta đã vứt đi... chỉ duy nhất mỗi cái đèo hàng... là không bị thay. Đúng là phượng hoàng gãy cánh, không bằng con gà què!... Nhà văn “ứ” lên một tiếng, muốn chửi mà không chửi được! Huyện trưởng Lưu nói tiếp: - Tôi nhìn chiếc xe đạp, chợt nghĩ đến cái từ mà anh vẫn nói “cái đồ!”. Tôi không nhịn được cười thốt lên một tiếng như anh “cái đồ!”, tôi nghĩ, nói thế là đúng nhất đấy! Ngày hôm sau nhà văn về quê thăm bố mẹ, tiện thể ghé qua nhà người em. Anh ta đang ngồi xổm trước cửa nhà hầm hút thuốc. Hiển nhiên là, chuyện lập công ty vận chuyển hành khách đường dài không thành. Nhà chẳng có gì đáng giá ngoại trừ chiếc xe đạp Phượng Hoàng mới cứng dựng ở góc sân, ngoài cái đèo hàng vẫn cũ kỹ như ngày nào, mọi thứ còn lại đều đã được thay mới sáng choang. Nói chuyện một lúc nhà văn chỉ vào chiếc xe đạp, trách: - Chú thật chẳng biết điều tí nào! Chú làm mất mặt tôi quá! Người em cười hi hi: - Có đáng gì đâu anh! Xe này ông Lưu không bỏ tiền ra mua, nó do nhà nước cấp. Cấp chiếc khác cũng được chứ sao! Em chỉ hưởng xái một chút thôi chứ có gì ghê gớm lắm đâu... Em chỉ muốn “giảm nghèo” như huyện vẫn khuyến khích đó thôi! Nhà văn nhìn bộ mặt hí hửng của người em, muốn nói gì nhưng không nói được, bước ra khỏi sân nhà hầm trong làn khói thuốc mù mịt, ca cẩm: “Ôi, những người thân của tôi...”. CHÂU ÂU TƯỞNG TƯỢNG Kai. Jie luomu (Anh) C òn nhớ ngày hôm đó, tôi đến Thư viện quốc gia để tìm đọc và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến chứng viêm mũi dị ứng, tôi đoán là mình đã mắc phải chứng bệnh này. Tìm được quyển sách y học tôi đọc liền một mạch những nội dung liên quan. Sau đó tôi uể oải lật nhanh từng trang sách, xem lướt qua những biểu hiện cụ thể của căn bệnh này. Không đợi đến lúc xem hết các dấu hiệu của bệnh, tôi đã ý thức được rằng, chắc chắn là mình mắc bệnh ấy rồi. Tôi đờ đẫn ngồi đó trong sự tuyệt vọng tột cùng. Một lúc lâu sau, tôi lại cầm quyển sách lên, lật tiếp mấy trang. Đến đoạn nói về bệnh Thương hàn, xem qua những biểu hiện của nó, tôi phát hiện ra mình đã mắc bệnh này những mấy tháng rồi mà vẫn không hề hay biết! Chẳng rõ tôi còn mắc phải những chứng bệnh gì nữa đây? Lật tới đoạn nói về bệnh “Giật cục”, một loại bệnh thần kinh khiến cho chân tay co giật như múa (nên còn gọi là bệnh Vũ đạo), tôi bắt đầu thấy hứng thú với công việc “tìm hiểu bệnh tình” như thế này, bèn quyết định đọc hết quyển sách xem sao. Dò theo thứ tự chữ cái, tôi bắt đầu xem hết các bệnh nêu trong sách. Với bệnh ung thư, tôi biết mình đã có một số triệu chứng, sau vài tuần nữa có thể sẽ chuyển sang giai đoạn cuối. Hóa ra, tôi còn có khả năng mắc bệnh dịch tả nữa cơ đấy. Tuy nhiên, khi xem tới bệnh viêm cầu thận, trong lòng tôi cảm thấy yên tâm đôi chút, bởi lẽ bệnh của tôi không nặng lắm, và, căn cứ theo thực trạng hiện nay, tôi còn có khả năng sống thêm được mấy năm nữa. Khi gấp sách lại, tôi nhận ra rằng, căn bệnh duy nhất mà tôi không mắc phải là bệnh viêm xương bánh chè. Thoạt đầu tôi cảm thấy không vui vì chuyện này. Sao tôi lại không bị bệnh viêm xương bánh chè chứ? Có điều, một lát sau tôi dần dần cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm hơn đôi chút. Tôi nghĩ, xét dưới góc độ dược lý học, chẳng phải là tôi đã mắc hầu hết các loại bệnh thông thường đó ư? Không mắc chứng viêm xương bánh chè thì có sao đâu. Dù gì thì bệnh ung thư của tôi cũng sắp bước vào giai đoạn cuối rồi! Tôi chìm vào những suy tư nặng trĩu trong lòng. Từ góc độ y học mà nói, tôi nghĩ mình là một ca đặc biệt lý thú! Còn đối với sinh viên Y khoa thì tôi lại là một ca cực kỳ khó giải quyết! Nếu như đám sinh viên gặp được tôi, họ sẽ không phải đến bệnh viện thực tập nữa - Tôi chính là “bệnh viện thực tập” của họ rồi còn gì! Việc họ phải làm bây giờ là nghiên cứu ngay bản thân tôi đây rồi sau đó viết luận văn tốt nghiệp, thế thôi. Tôi không biết mình còn sống bao lâu nữa, tôi phải tự kiểm tra kỹ xem sao. Tôi tự bắt mạch. Thoạt đầu tôi không dò được mạch, nhưng rồi tự nhiên mạch lại đập loạn xạ. Tôi đặt chiếc đồng hồ quả quít trước mặt xem xem một phút tim đập bao nhiêu lần. Đại khái, mỗi phút cỡ 140 lần. Tôi lại sờ lên ngực và nhận ra tim đã ngừng đập. Tôi chợt nghĩ, làm gì có chuyện quái quỷ như thế được, chẳng qua là do tôi quá hồi hộp đó thôi! Tôi chuyển sang kiểm tra chót lưỡi bằng cách cố hết sức thè lưỡi ra thật dài. Tôi nhắm hẳn một mắt, dùng mắt còn lại để kiểm tra. Tôi nhận ra đầu lưỡi mình đỏ hẳn lên, rõ ràng là tôi bị bệnh tinh hồng nhiệt rồi. Vậy là, khi bước vào thư viện, tôi là một chàng trai vui vẻ, khỏe mạnh; khi đi ra, tôi bỗng trở thành một bệnh nhân với vô số những căn bệnh trầm kha, một kẻ ốm yếu gầy mòn! Và thế là tôi lập tức đi khám bác sĩ. Anh ấy vốn là bạn thân của tôi. Anh bắt mạch, xem lưỡi, sau đó chẳng biết nghĩ sao anh ta lại nói với tôi về khí hậu, thời tiết. Sau cùng anh ấy hỏi: - Anh không thoải mái chỗ nào? - Người anh em à - Tôi nói - Tôi không khai bệnh với anh, khiến anh mất nhiều thời gian quá, cho tôi xin lỗi! Thực ra tôi chẳng có bệnh gì cả, kể cả bệnh viêm xương bánh chè. Nhưng... nghiên cứu về bệnh tật thì... bệnh gì tôi cũng có! Tôi mỉm cười thú vị bởi cách trả lời vừa rồi và kể lại cho anh ấy nghe toàn bộ quá trình tự nghiên cứu tìm hiểu bệnh tật của tôi. Anh bạn tôi cởi áo sơ mi tôi ra, một tay nắm chặt cổ tay tôi, tay kia vỗ loạn xị lên ngực tôi một chặp rồi dí trán anh vào người tôi. Đoạn anh bác sĩ ngồi xuống ghế, kê đơn đưa cho tôi. Tôi nhận đơn cho luôn vào túi, chào tạm biệt, đi ra. ẳ Tôi đi thẳng tới hiệu thuốc gần nhất. Người bán thuốc xem qua đơn rồi trả lại cho tôi, nói: - Hiệu thuốc tôi không chuyên pha chế loại này! - Anh không phải là dược tá sao? - Tôi hỏi. - Tôi là dược tá - Anh ta khẳng định và tiếp - Giá như tôi là người kinh doanh tổng hợp vừa bán thuốc vừa bán thức ăn thì tôi đã giúp được anh rồi. Đằng này, tôi chỉ là một dược tá, không hiểu gì về bếp núc đâu anh bạn ạ! Tôi trố mắt nhìn người bán thuốc, cầm toa thuốc lên xem. “Toa thuốc” viết: “Nửa kg thịt bò loại I, hai lon bia Heiniken, 6 tiếng đồng hồ dùng một lần. Sáng sớm mỗi ngày đi bộ 10 dặm Anh. 11 giờ đêm đi ngủ. Ngoài ra, không cần phải nặng đầu suy nghĩ về những gì mình không am tường”. TÔI LÀ KẺ CẮP A.Kangpanier (Pháp) - Đúng vậy, lão là một kẻ ăn cắp - Lão già đau khổ nói - Nhưng cả đời lão chỉ ăn cắp duy nhất một lần ấy, một lần đặc biệt... Lão ăn cắp một cái ví đựng đầy tiền... - Chuyện đó thì có gì là lạ. - Tôi cắt ngang lời lão. - Cứ để lão nói hết đã. Khi cho cái ví vừa lấy được vào túi lão, trong người lão không hề có thêm một đồng nào. - Cái ví đó không có tiền à? - Có chứ! Một cái ví đầy tiền. Lão làm cho tôi hết sức tò mò, và tôi rót cho lão một ly rượu. Lão bắt đầu kể những gì lão đã trải qua: “Lúc đó lão đang đi tàu hỏa đến một vùng đất mà bọn trộm cướp thường xuất hiện rồi lại biến mất rất khó lường. Lão đi toa hạng ba. Trong toa, ngoài lão ra chỉ có một cậu thanh niên ăn mặc rách rưới đang ngủ say, trên trán có một vết sẹo to tướng. Từ diện mạo cũng như cách ăn mặc trông gã rất giống một tên tội phạm. Lão định đổi toa, nhưng giữa các toa không có cửa thông, vì vậy lão đành ngồi chung với cái gã nguy hiểm ấy trong suốt ba tiếng đồng hồ. Tàu chạy đến giữa cánh đồng hoang vắng, xung quanh không có làng xóm, quán sá gì, hành khách trên tàu chỉ lơ thơ mấy mống. Trong hoàn cảnh đó, giết một người rồi ném xác qua cửa sổ, quả thật chỉ là chuyện nhỏ!” Lão hớp một ngụm rượu, đoạn kể tiếp: “Bên ngoài trời đêm dần sẫm lại. Lão trân trân nhìn vào cái còi báo động gắn trong toa tàu. Nhưng chẳng mấy lúc lão đã ngủ thiếp đi. Khi tỉnh giấc lão bất giác kêu lên kinh hãi. Kẻ đồng hành lạ mặt với lão đang khom lưng đứng trước mặt nhìn lão bằng ánh mắt sắc sảo thật đáng sợ, bộ râu bù xù của gã chạm hẳn vào má lão. Lão nhảy lùi một bước định lao đến kéo còi báo động, nhưng gã đã nắm lấy cánh tay lão, nhìn lão van vỉ: - Xin bác đừng sợ. Cháu muốn được bác cho phép ngồi cạnh, dùng chung chiếc chăn chiên với bác. Cháu đang rất lạnh bác à! Nghe gã van xin có vẻ rất chân thành, lão thở phào nhẹ nhõm, dịch người đi một chút, cho gã ngồi cạnh. - Bác à - Gã nói - Cháu thực sự rất muốn làm một tên ăn cắp! Tính cách cũng như hoàn cảnh sống của cháu, kể cả việc tiếp thu giáo dục đều như được định sẵn là cháu đặc biệt thích hợp với công việc ấy. Nhưng... cháu không thể ăn cắp được bác ạ! - Điều gì ngăn cản cậu ăn cắp? - Lão tò mò hỏi. - Với bộ mặt dị hợm thế này cháu làm sao có thể ăn cắp được ạ? Bất kể đi đến đâu, mọi người đều đề phòng cháu. Nếu ngồi cạnh người bị mất cắp, kẻ bị nghi ngờ trước nhất là cháu. Lão nhìn khuôn mặt giống kẻ cướp của gã, trong đầu nảy ra một ý nghĩ quái quỷ: mình thử lấy cắp ví tiền của gã xem sao. Đấy sẽ là một trò đùa đặc sắc biết mấy! Thế là lão khẽ khàng đưa tay ra... Thượng đế phù hộ cho lão! Chỉ trong nháy mắt, chiếc ví căng phồng của tên kẻ cắp kia đã nằm gọn trong túi áo của lão. Vừa lúc đó, đoàn tàu dừng bánh, gã bạn đường của lão đứng dậy, nói: - Cháu đến nhà rồi. Cám ơn bác, chúc bác vui vẻ! Lão chờ cho gã xuống tàu xong, vội lôi chiếc ví vừa lấy được ra xem. Trời đất ơi! Mắt lão trợn ngược lên, đờ đẫn: Chiếc ví lão đang cầm trên tay chính là ví tiền của lão! Hóa ra tên kẻ cắp đã lân la hỏi chuyện lão rồi nẫng ví tiền của lão lúc nào không hay. Thật may là gã chẳng chút mảy may đề phòng nên lão mới lấy lại được! Đấy là lần lấy cắp duy nhất trong đời lão! Lão nói thật đấy. Lấy được ví tiền nhưng bản thân lão chẳng có thêm một đồng xu nhỏ nào, chán thế chứ! Vậy đấy, lão đã kể hết cho anh nghe đấy, lão chẳng lừa dối gì anh đâu!”. Lão già kể xong câu chuyện, tôi nói mấy lời khách sáo cám ơn lão đã tâm sự cùng tôi rồi đứng lên đi trả tiền rượu, đoạn quay người bước nhanh ra khỏi quán. Tôi làm như vậy là có lý do của nó: khi lão kể chuyện ăn cắp, tôi đã dùng hai ngón tay cực kỳ linh diệu của mình kẹp lấy ví tiền của lão, nhẹ nhàng chuyển nó vào túi tôi. Tôi nóng lòng muốn biết trong chiếc ví ấy có bao nhiêu tiền. ẳ Tôi tin rằng lão già đó sẽ chẳng bao giờ muốn gặp lại tôi lần nữa! Tôi xin khẳng định, chiếc ví đó không phải là ví tiền của tôi, bởi một lẽ rất đơn giản, chưa bao giờ tôi mang ví đựng tiền theo người! Rẽ vào một con phố nhỏ, tôi cho tay vào túi quần lấy chiếc ví vừa thó được ra xem. Trời đất! Trong túi tôi không có ví tiền nào cả! Lão già quỷ quái thật! Lão đã lấy lại ví tiền của lão từ trong túi quần của tôi! Vậy là... chính lão đã lấy cắp ví tiền của mình lần thứ hai! Đúng thế, lần thứ hai! Ai biết lão đã tự lấy cắp của mình lần thứ mấy? KẾT CỤC NGOÀI Ý MUỐN Akewang (Pháp) A nh và chị kết hôn đã hơn 20 năm, sống với nhau rất hạnh phúc. Họ luôn nhường nhịn nhau trong cuộc sống, hơn nữa, cả hai đều có tính cả nể, e thẹn. Anh là nhà tiểu thuyết bậc trung xứ Lyon, Ladmiral. Nếu muốn nổi tiếng để trở thành tiểu thuyết gia có tác phẩm bán chạy, chắc hẳn anh đã xông xáo, xuất đầu lộ diện ở nhiều diễn đàn khác nhau. Nhưng với Ladmiral, chuyện này hoàn toàn không xảy ra. Bạn bè yêu quý anh bảo là anh quá khiêm tốn, thực ra anh là một người không có dũng khí. Với Ladmiral, việc đầu tiên khi về nhà là ôm vợ, hôn lên trán chị và hỏi một câu chưa bao giờ thay đổi: - Em thân yêu, anh hy vọng là trong lúc em ở nhà một mình, em không hề buồn chứ em yêu? Để đáp lại, lần nào chị cũng nói: - Không đâu anh yêu. Ở nhà em có bao nhiêu là việc phải làm, kể cả việc đón anh về. Em vui lắm anh à... Vợ Ladmiral chuyên lo việc đánh máy bản thảo những truyện ngắn đăng định kỳ trên báo “Lyon buổi chiều” của chồng, gói ghém và gửi cho tòa soạn. Công việc ấy khiến chị có cảm giác mình là cộng sự đắc lực của Ladmiral! Vậy mà, chị đâu có ngờ, một bi kịch uy hiếp hạnh phúc gia đình của họ đang xảy ra! Thế đấy, anh nhà văn 50 tuổi Ladmiral bất ngờ bị một người phụ nữ vừa ly hôn làm cho điên đảo! Đó là một phụ nữ xinh đẹp, lẳng lơ và vô cùng quyến rũ. Một ngày nọ, như để có một món trang sức mới, cô nàng õng ẹo yêu cầu Ladmiral làm đám cưới với mình! Muốn vậy, đương nhiên Ladmiral trước tiên phải ly dị vợ. Anh nghĩ, chuyện này không khó. Lý do đưa ra là, kết hôn đã 23 năm, vợ chồng không còn yêu nhau nữa, sống với nhau không hạnh phúc, cần phải giải phóng cho nhau! Cách lý giải nghe chừng hợp lý. Tuy nhiên, với một người chồng luôn cả nể, ngại ngùng như Ladmiral thì làm sao có thể nói cho vợ hiểu được? Nhà tiểu thuyết bèn nghĩ ra một cách. Anh ta sáng tác một truyện ngắn, đưa những cảnh ngộ thực tế của hai người vào hai nhân vật hư cấu. Để cho vợ dễ nhận ra ý đồ của câu chuyện, Ladmiral dẫn ra hàng loạt những tình tiết riêng có trong cuộc sống thường ngày giữa hai vợ chồng. Phần kết của thiên truyện, anh ta để cho người vợ ly hôn và đặc biệt nói rõ, người vợ đã không còn tình yêu, một giọt nước mắt cũng không hề rơi khi nàng bỏ đi, về sau sống ẩn cư tại một ngôi nhà nhỏ trong rừng... Khi Ladmiral giao bản thảo thiên truyện cho vợ, trong lòng anh ta không khỏi có chút áy náy, bất an. Buổi tối, khi trở về nhà, anh ta cố ý thăm dò thái độ của vợ. - Em thân yêu, anh hy vọng, lúc ở nhà một mình, em không buồn phiền chứ em yêu? - Anh chàng do dự hỏi. Người vợ đáp lại một cách bình thường như bao năm tháng đã qua: - Không đâu anh yêu. Ở nhà em có bao nhiêu là việc phải làm, kể cả việc đón anh về! Em vui lắm anh à... “Lẽ nào cô ấy chưa đọc? Chắc là ngày mai cô ấy mới đánh máy bản thảo?”, anh thầm dự đoán. Thế nhưng, khi Ladmiral hỏi tới, bản thảo chẳng những đã đánh máy xong mà còn được gửi đến tòa soạn báo từ trước. Tại sao nàng không lên tiếng. Không thể có chuyện không hiểu ở đây được! Sự im lặng của nàng là không sao giải thích nổi! Mãi cho đến khi thiên truyện xuất hiện trên báo, Lamiral mới vỡ lẽ. Thì ra, kết cục của truyện đã được vợ anh sửa lại: Sau khi người chồng đề xuất việc ly hôn, mặc dù rất đau khổ, nhưng người vợ vẫn ngậm ngùi chấp nhận! Tuy nhiên, nàng vẫn luôn giữ mãi trong ký ức mối tình thuần khiết, thủy chung với chồng suốt 23 năm qua! Trên con đường hun hút để đến nơi ở mới sau khi ly hôn, vì quá buồn phiền đau khổ, nàng đã chết. Sau cái chết tức tưởi của người vợ vừa bị mình phụ bạc, người chồng trở thành một kẻ tâm thần, lang thang, cô độc... Đó là một kết cục ngoài ý muốn với Ladmiral. Tâm hồn của Ladmiral bị chấn động mạnh trước cái kết bi thảm của câu chuyện do vợ nghĩ ra. Điều đó khiến cho anh vô cùng ân hận và hổ thẹn với lương tâm! Ngay hôm đó Ladmiral nhận ra bộ mặt trơ tráo của mụ đàn bà vừa bỏ chồng muốn chiếm hữu anh. Và, anh muốn thổ lộ niềm ân hận của mình với vợ. Tuy nhiên, nghĩ đi nghĩ lại, Ladmiral quyết định sẽ vĩnh viễn không bao giờ thừa nhận với vợ rằng mình đã xem cái kết mới của thiên truyện do vợ nghĩ ra! - Em thân yêu! Anh hy vọng là những khi em ở nhà một mình em không buồn chứ em yêu? - Lúc về tới nhà Ladmiral lại hỏi vợ, có điều âm thanh phát ra dịu dàng, thân thiết hơn trước đây. - Không đâu anh yêu. Ở nhà em có bao nhiêu là việc phải làm, nhất là việc đón anh về. Em vui lắm anh ạ! - Người vợ vừa trả lời vừa dang rộng đôi tay ôm Ladmiral vào lòng. CHỦ NHÂN TÒA BIỆT THỰ Sheluntimide (Đức) 1 0 giờ sáng ngày thứ hai, tại một tòa biệt thự ở ngoại ô. Một người đàn ông mặc quần áo tắm ngồi trước lò sưởi trong tường, tỏ ra rất thích thú nhấm nháp một thứ gì đó, thỉnh thoảng lại tợp một ngụm rượu. Đúng vào lúc ông ta lấy đĩa nhạc định cho vào máy thì cửa mở, một người đàn ông bước vào. - Xin lỗi, tại vì cửa mở mà - Người đàn ông mới đến nói - Tôi là người của công ty Anh em Kiefer, rất vui được làm quen với ông. Ông là Giám đốc Francis phải không ạ? Người đàn ông ngồi trước lò sưởi xoay người lại, tỏ vẻ không vui vì có người quấy rầy. - Đúng vậy. Tôi là Francis đây. Anh gặp tôi có việc gì? - Ở đây có tờ hóa đơn báo nợ năm ngoái của ông, thưa Giám đốc. Tất cả là 200 Mỹ kim... - Vậy hả? Ngày mai đến văn phòng công ty, tôi sẽ chuyển khoản cho anh. - Ông đã hứa kiểu này bao nhiêu lần rồi - Tay nhân viên nói - Vì vậy tôi mới phải trực tiếp đến tìm ông. - Anh đi ra ngay! Tôi không tiếp khách ở nhà! Hãy gửi hóa đơn đến văn phòng công ty. Ở đây tôi không có tiền. - Được thôi! - Tay nhân viên nói - Tôi cũng đã lường trước chuyện này, dù rằng tôi nghĩ, chúng ta có thể tự giải quyết vấn đề mà không cần có sự trợ giúp của cơ quan hành pháp. Viên cảnh sát quen biết ông đang chờ ngoài cửa đấy, thưa ông Giám đốc! Người đàn ông ngồi trước lò sưởi bỗng đứng phắt dậy, cuống cuồng làm đổ cả bình rượu xuống tấm thảm trải sàn nhà. - Mẹ kiếp! - Ông ta nổi cáu - Đây, tiền của anh đây! Cầm lấy! Tôi không muốn gặp lại anh nữa! ẳ Thì ra, người đến tòa biệt thự vùng ngoại ô này không hẳn đã vì nhàn rỗi, muốn hưởng thụ ánh sáng mặt trời và sự yên tĩnh. Mick là một gã như thế. Hắn ta rất thích tìm đến những ngôi biệt thự đã lâu không có người ở, nhân cơ hội đó mà vơ vét một chuyến. Lần này trong túi Mick có 400 Mỹ kim. Hắn biết rõ, nếu bị bắt, người có nhiều tiền sẽ rất dễ biện bạch: vào nhầm nhà hoặc giả chỉ muốn đùa cho vui, vân vân và vân vân... Bản thân Mick đã từng nghiệm ra rằng, đối với những người giàu có, thái độ của cảnh sát bao giờ cũng nể trọng. Đối với Mick mà nói, việc vào tòa biệt thự của giám đốc Francis đơn giản như diễn một vở kịch trẻ con. Nếu biệt thự không có người, hành động của hắn sẽ chẳng ai biết. Trước tiên hắn đi tắm cái đã, mặc áo quần của chủ nhân rồi ung dung quan sát khắp tòa biệt thự. Buổi sớm mát mẻ, lò sưởi lại đang có lửa, hắn cảm thấy khoan khoái ngồi vào sofa. Và tự nhiên hắn thích nghe nhạc. - Đúng vào lúc tôi định cho đĩa nhạc vào máy - Sau này Mick kể lại với bạn bè hắn - Một gã ngốc đi vào đòi tôi trả cho hắn một món nợ nào đó. Trước đây một tuần tôi đã phát hiện ra ngôi biệt thự hoang vắng này. Tôi thám thính suốt cả tuần lễ và biết chắc nó không có người ở. Thật may, thằng cha nọ coi tôi là chủ tòa biệt thự, là Giám đốc Francis, lại còn bảo viên cảnh sát từng biết tôi đang chờ ngoài cửa. Cũng may là lúc đó tôi đang có tiền... Ối dà, lần này mình tổn thất kha khá, nhưng cũng không sao. Lúc đó mà viên cảnh sát xông vô thì thật là rách việc! Nói xong, Mick hít một hơi thật sâu. Điều bất ngờ thú vị là, kẻ xông vào ngôi biệt thự đòi tiền Mick không phải là nhân viên của công ty “Anh em Kiefer”. Người nhận mình là “đại diện” của công ty lại chính là chủ nhân đích thực của tòa biệt thự! - Ông đã thực thi một sách lược thật tài tình, thưa giám đốc! - Sáng hôm sau nhân viên của công ty tán dương Giám đốc Francis - Ông đã tự biến mình thành kẻ tống tiền thật ngoạn mục! - Nhưng ta có cách nào khác đâu - Francis nói - Ta vừa sờ tay vào nắm đấm cửa, cửa liền mở ra. Tên cướp mặc bộ đồ tắm của ta, ngồi trước lò sưởi. Hắn rất cao lớn... Vả lại, có thể hắn có súng. Ta định bỏ chạy nhưng đã quá muộn. Trong lúc nguy cấp ta chợt nảy ra sáng kiến biến kẻ xâm nhập trái phép tòa biệt thự của ta thành chủ nhân tòa biệt thự và đòi tiền hắn. Còn nữa, chuyện này mới thực lý thú: ta đã bịa ra rằng có cảnh sát đang chờ ngoài cửa. Nghe nói thế hắn tái cả mặt, sợ chết khiếp đi được, bởi biết đâu viên cảnh sát kia chẳng nhận ra hắn là kẻ mạo danh... Tóm lại, trong vụ này ta đã thắng lớn, đúng không? CHAI SÂM BANH ĐẦU ĐỜI Kelide (Đức) K hi tôi yêu em, Verena mới 16 tuổi, còn tôi 17 tuổi tròn. Chúng tôi quen nhau từ những lần đi bơi ở hồ bơi, về sau hai đứa thường đưa nhau đến các quán giải khát uống nước. Khi tôi nghĩ đến Verena (mỗi ngày tôi nghĩ đến em hàng trăm lần cơ đấy), tôi luôn hào hứng chờ đợi cho tới lúc hai đứa gặp nhau lần nữa. Tuy nhiên, mỗi lần em đến, bao nhiêu câu chữ đẹp đẽ tôi chuẩn bị sẵn trong đầu đều không cánh mà bay! Mỗi lần tôi nhút nhát, e dè ngồi cạnh em, Verena đều nói rằng, tôi là người bảo hộ cho em. Tình cảm giữa chúng tôi tiến triển thuận lợi, cho tới một hôm Verena nói với tôi rằng, em chán các quán giải khát lắm rồi! Đấy là nơi của bọn trẻ con! Em muốn mình phải đàng hoàng bước vào quán người lớn, uống sâm banh như chị gái của em vậy! Lúc đầu tôi giả vờ như không nghe thấy gì, nhưng khổ nỗi, ý nghĩ do Verena nói ra cứ lởn vởn trong đầu tôi mãi. Tôi không có nhiều tiền, tuy nhiên cũng không thể để cho em biết sự lúng túng khó xử của mình! Dù sao tôi cũng là một thằng con trai đang yêu, lẽ nào cứ làm ngơ mãi trước yêu cầu rất chính đáng của em? Vì vậy tôi bèn tỏ ra thờ ơ, bảo: “Sâm banh hả? Ý kiến hay đấy, sao mình không đi làm vài ly nhỉ?” Cách nói của tôi tỏ ra như tôi là một người sành điệu, coi chuyện uống sâm banh là rất bình thường. Trong lúc đang yêu chuyện gì mà không thể xảy ra! Sau khi nhẩm tính thấy còn đủ tiền, tôi liền đưa em đến một quán rượu lớn trong thành phố. Tại đây không khí rất gợi cảm, âm nhạc vang lên dìu dặt, những người phục vụ đi lại nhẹ nhàng và luôn mỉm cười thân thiện với khách. Chúng tôi ngồi vào một chiếc bàn nhỏ. Tôi không thể không tập trung toàn bộ tinh lực để trấn áp vẻ ngượng ngùng, xấu hổ trước những thực khách sành điệu ở đây. Tôi gọi người phục vụ bàn đến, dù rất run vẫn làm ra vẻ bình thản gọi một chai sâm banh. Tiếp viên là một bác lớn tuổi, mái tóc lốm đốm bạc với ánh nhìn rất hiền từ thân thiết. Bác cúi người, trang trọng nhắc lại lời tôi: “Một chai sâm banh? Có ngay đấy ạ!”. Rõ ràng là bác ấy rất tôn trọng chúng tôi. Trên nét mặt tươi cười của bác không hề có vẻ gì là châm biếm cả. Xem ra, việc tôi diện bộ vét của bác tôi cho, thắt chiếc cà vạt đỏ mới tinh là quá đúng rồi. Tôi đã 17 tuổi cơ mà! Verena mặc bộ váy áo rất đẹp, mượn của chị gái cô ấy. Bác phục vụ trở lại. Bằng những động tác điêu luyện, bác dùng một chiếc khăn bông trắng muốt lót tay, nhẹ nhàng rót thứ nước sâm banh quý phái ấy vào ly cho chúng tôi. Chúng tôi dường như lạc vào một thế giới khác! “Vì tình yêu của chúng ta, cạn chén!” - Tôi nói khẽ và cụng ly cùng Verena. Chúng tôi uống cạn ly rượu. Rồi tiếp đến ly thứ hai. Lúc này, tôi rụt rè nắm lấy bàn tay thon mịn của Verena, em để yên không rút lại như mọi lần. Khi uống đến ly thứ ba, Verena bất ngờ hôn tôi một cái, tôi sướng đến run người! Men rượu nồng nàn thấm đẫm trong huyết quản chúng tôi. Cả hai như mơ, như say. Tiếc là rượu đã hết mà tôi thì... không đủ tiền mua tiếp chai thứ hai. Tôi nhìn trộm Verena. Thôi, phải về ngay, không thì... “Thanh toán tiền, ông chủ!” - tôi gọi lớn. Vẫn bác phục vụ lúc nãy tới. Bác đặt tờ hóa đơn thanh toán vào một cái khay nhỏ, nhẹ nhàng để xuống bàn. Tờ hóa đơn ghi: “1 chai nước khoáng có gas và phí phục vụ, 1,10 mark”, bên dưới có thêm dòng chữ “Xin lỗi cậu, cậu bé! Các cậu là vị thành niên, không được uống rượu. Tôi mạn phép đổi nước khoáng cho cậu đấy! Người phục vụ cậu”. Cho đến tận bây giờ Verena của tôi cũng không biết rằng chai sâm banh đầu tiên trong đời em chỉ là một chai nước khoáng! VÉ XỔ SỐ Jiasijier (Tây Ban Nha) Ở Tây Ban Nha, ngoài đấu bò tót, bóng đá ra, xổ số là thứ hấp dẫn nhất. Hầu như tuần nào cũng có quay số mở thưởng, nhưng theo truyền thống lâu đời trong lịch sử đất nước, kỳ xổ số được mở thưởng đúng vào ngày lễ Giáng sinh là kỳ xổ số đặc biệt nhất. Giải độc đắc lần này là 500 triệu pêsô, tương đương 12,5 triệu đô la Mỹ. Thu nhập này không phải đóng thuế cho Nhà nước. Loại vé số này được bán quanh năm trên khắp cả nước, mỗi xêri có 100 tờ, hầu như người nào cũng chỉ mua một tờ, giá 1 đô la. Khi quay số mở thưởng, mọi người dân Tây Ban Nha đều nghỉ việc, quên ăn quên ngủ, chẳng còn tâm trí đâu mà nghĩ đến chuyện khác (!) Một ngày nọ, vào những năm 50, tôi dạo phố, khi đi qua một hiệu cà phê, thấy mọi người chen nhau xem kết quả xổ số. Cũng như tuyệt đại đa số dân Tây Ban Nha, tôi cũng mua một vé cho đợt xổ số đặc biệt trong năm này. Khi tôi rút ví ra để xem vé số của mình, tay tôi bỗng run lên bần bật. Số của tôi là 141415, mà số trúng giải độc đắc là 141414. Tôi chưa hề trúng số bao giờ, lần này lại quá gần với giải độc đắc, trúng giải khuyến khích, được lĩnh 12.500 Mỹ kim, sao tôi không run chứ?... Mân mê tấm vé trên tay một lúc, tôi bắt đầu nhớ lại nơi mình mua và đã mua tấm vé đó như thế nào. Tôi mừng cứ như mình trúng số độc đắc không bằng. Đó là chuyện xảy ra vào một ngày mùa hè, khi tôi đến quần đảo Baliyali nghỉ mát. Tối hôm đó, tình cờ tôi đến quán “Đôi sư tử” uống rượu. Cũng như nhiều cư dân ở đây, tôi rất thích nơi này. Quán nhỏ nhưng thoáng mát sạch sẽ, rượu ngon mà giá cả cũng phải chăng. Đặc biệt là, ai đã từng đến đây đều rất thích người chủ quán trẻ Henanduo. Henanduo tuy là chủ quán đấy, nhưng... thực quyền lại nằm trong tay vợ anh ta. Ngay cả bản thân Henanduo cũng bị cô nàng quản rất chặt. Tôi không rõ Malia có gì vượt trội so với Henanduo, nhưng cô nàng luôn tạo cho mọi người ấn tượng đó. Bằng giọng nói đanh đá và ánh nhìn sắc lạnh, đừng hòng có ai thoát khỏi vòng cương tỏa của thị! Chỉ cần Henanduo mỉm cười với một cô gái Thụy Điển tóc vàng đến lần thứ hai; dám bán rượu chịu cho một ông bạn già túng bấn, thế nào cũng bị Malia chua ngoa chì chiết, chí ít cũng trừng mắt cảnh cáo. Henanduo lúc đó chỉ còn biết khuất phục: “Vâng, em yêu!” Vào một buổi tối, hôm ấy Malia về quê thăm mẹ. Vợ vừa rời khỏi quán anh chàng Henanduo liền biến thành một người khác. Mắt sáng hẳn lên, vui vẻ quảng giao với mọi người. Tiếng hát với cây đàn ghita của anh cũng hồn hậu, trong trẻo hơn. Lúc đó, một cậu bé bán vé số dạo bước vào quán. Henanduo nói, để xem vé mở thưởng vào lễ Giáng sinh năm nay còn những số nào. Anh ta lật lật các xấp vé số, chợt reo lên: “Tốt quá! Tốt quá! Trời ban điềm lành cho ta đây rồi!”. Anh nắm lấy vai tôi vui vẻ nói: - Anh bạn tốt của tôi, anh xem đây. Tôi sinh ngày 14 tháng này, mà vé số đây lại có tới ba lần ngày sinh của tôi 141414! Cậu bé bán vé số cười rất tươi, nói “Chú hên quá rồi còn gì”, toan rút cho Henanduo một vé, nhưng anh ngăn lại: - Không cần đâu! - Anh ta kêu lên - Ông trời có mắt mà! Người thông minh không nên bỏ lỡ cơ hội. Tôi mua hết 100 vé. Không khí trong quán như chùng hẳn xuống. Im lặng. Cả xấp vé những 100 đô la, với cái quán rượu nhỏ bé này, đó là một con số không nhỏ. Có người lo lắng hỏi: “Malia sẽ nói gì nhỉ?” Henanduo nghe thế, ngớ ra một lát, đoạn đùng đùng nổi giận, hét to: - Tôi đã muốn là cứ làm! Và, anh ta làm thật. Anh vơ hết tiền trong ngăn kéo nhưng không đủ, bèn chạy về nhà lấy thêm. Trong tâm trạng hào hứng đó, hầu như những người có mặt tại đây ai cũng mua một vé. Tôi cũng vậy. Tôi mua một vé có số lớn hơn Henanduo 1 đơn vị: 141415. ...Lúc này tôi đang dạo bộ trên đường phố. Chợt nghĩ, không biết anh chàng Henanduo dùng số tiền trúng thưởng khổng lồ đó làm gì nhỉ? Anh ta có thể đã ly dị cô vợ chua ngoa đanh đá? Đã bán cái quán rượu nhỏ bé kia không cần buôn bán gì nữa, tận hưởng một cuộc sống an nhàn vương giả chăng? Mãi đến mấy tháng sau tôi mới có thời gian rỗi, đi thăm Henanduo. Máy bay hạ cánh lúc ba giờ chiều, ra khỏi phi trường tôi đến ngay quán “Đôi sư tử”. Khi tới gần quán tôi dừng lại nhìn, chẳng thấy có sự khác biệt nào so với trước đây. Tôi bước hẳn vào quán, thấy Henanduo ngồi cạnh bàn đọc báo. Nhìn thấy tôi anh vui mừng ra mặt, đứng bật dậy: - Hoan nghênh khách quý! Lâu quá rồi anh mới đến quán, ngồi đi ngồi đi! Chẳng hỏi han gì nhiều, Henanduo đi lấy bình rượu nho trắng, thứ rượu mà tôi rất thích. - Chúc mừng anh! - Tôi nâng ly nhìn Henanduo, nói - Chúc mừng nhà tỉ phú gặp vận may! Khi tôi bày tỏ sự ngạc nhiên của mình bởi quán sá không có gì thay đổi lớn, Henanduo cười cười có vẻ không được tự nhiên lắm, nói: - Không phải vậy đâu anh bạn thân mến ạ! Thay đổi không nhiều nhưng rất lớn đấy! Anh còn nhớ, lúc đó có người hỏi tôi, nếu Malia biết tôi đã tiêu ngần ấy tiền vào việc mua vé số thì sẽ như thế nào chứ? Tôi gật đầu tỏ ra có nhớ. Henanduo lắc lắc đầu, thở dài xót xa: - Người đó nói đúng! Thì ra, khi biết chuyện, Malia lồng lên như một con sói cái, la lối om sòm, bắt chồng phải bán bằng hết số vé đã mua, thu tiền lại. - Cuối cùng tôi đành phải nhượng bộ để được yên thân, anh bạn thân mến ạ! Anh ta nhún vai - Con người ta không thể sống thanh thản giữa phong ba bão táp được. Có điều, bán cho hết 100 tờ vé số đó đâu phải chuyện dễ. May mà tôi có đông bạn bè, một số khách quen của tôi cũng có bạn của họ nữa, anh em đều giúp đỡ mua cho, cuối cùng tôi chỉ còn lại một vé. Cô ấy cho phép tôi giữ lại một tờ duy nhất. - Nếu tôi gặp phải chuyện này - Tôi nói - Sau khi có kết quả mở thưởng, nghĩ tới những tấm vé số đã bán lại, có lẽ tôi phát điên lên mất! - Lúc đó tâm trạng của tôi giống hệt như vậy đấy anh bạn ạ! Nhưng mà nghĩ kỹ lại, tôi cũng thấy nguôi ngoai. Thử hỏi, ai là người sở hữu 99 tấm vé may mắn kia chứ? Họ đều là bạn của tôi mà! Họ sẽ cám ơn ai? Chẳng phải là cám ơn Henanduo tôi sao? Họ đã nhờ tôi mà giàu có, coi như là một sự chia sẻ của tôi chứ sao. Việc buôn bán của cái quán rượu nhỏ bé này ẳ cũng nhờ đó mà khấm khá hẳn lên. Vả lại, dù chỉ còn một vé, tôi cũng đã nhận được 12,5 triệu đô la Mỹ còn gì. Tôi mua một chiếc ô tô, sắm sửa đồ gia dụng mới, còn lại chút ít tiết kiệm. - Tốt quá rồi! - Tôi nói - Nhưng sao anh không nghĩ số tiền kia nếu có sẽ đem lại cho anh những gì? Henanduo mỉm cười: - Đúng vậy, anh bạn. Có nhiều tiền như thế chắc chắn sẽ làm được nhiều chuyện hơn, nhưng cũng có thể sẽ có những chuyện ngốc nghếch! Cứ như tình hình hiện nay, dù có được hàng tỉ đô la chưa chắc tôi đã mua được những thứ mà tôi đã có! Tôi cảm thấy rất khó hiểu khi nghe Henanduo nói. Cảm giác ấy lộ rõ trên gương mặt ngỡ ngàng, kinh ngạc của tôi. Thấy thế, Henanduo nói ngay: - Anh hỏi tôi khi mất số tiền cực lớn như vậy, cảm giác của tôi như thế nào ư? Sao anh không nghĩ xem cảm giác của vợ tôi lúc đó thế nào? Chính vì cô ấy mà tôi phải bán hết những tấm vé may mắn đó, cảm giác của cô ấy thế nào, anh nghĩ tới sẽ biết ngay thôi! - Tựa lưng vào trường kỷ, Henanduo nói tiếp - Tình hình bây giờ khác trước nhiều rồi. Mỗi khi Malia sắp cãi vã với tôi, tôi liền nói 141414, cô ấy biết lỗi, im re ngay lập tức! Uống đi! Anh ta dốc hết phần rượu trong bình vào ly tôi. - Vậy đó anh bạn ạ, có thể nói, tôi đã có tất cả những gì mà hầu hết cánh đàn ông dù có bỏ tiền ra cũng không mua nổi! Anh ta tỏ ra rất thỏa mãn, ung dung xoay người trên trường kỷ, gọi “Malia”, giọng điệu nhẹ nhàng thôi nhưng lại có sức mạnh của nó. Vén tấm màn cửa phòng trong, Malia bước ra, hoàn toàn khác trước, dường như đã có một sự thay đổi kỳ diệu xảy ra đối với cô. Thân hình mảnh mai, nhỏ nhắn hơn, dịu dàng, đằm thắm hơn. - Malia, em lấy thêm cho anh ít rượu! Malia đi vào chỗ đặt thùng rượu, cười nói: - Em mang ra ngay đây, anh yêu! CHIẾN TÍCH CỦA NGƯỜI MẸ Huolinda (Tây Ban Nha) M ặt trời gay gắt như đổ lửa vô tình thiêu đốt mọi thứ trên vùng đất này. Trên những con đường đầy bụi, người đi đường muốn tìm bóng mát của một cái cây nhỏ hay một con suối cạn để giải khát là điều không tưởng. Những cánh đồng cằn cỗi bị ánh nắng thiêu cháy, những dãy đồi núi nhấp nhô, trên trời nắng nhiều, dưới đất khô khát là cảnh tượng tự nhiên khắc nghiệt ở xứ này. Thỉnh thoảng một bầy chim cút non vụt bay lên từ những cánh đồng vừa gặt, kéo theo một đám bụi mờ. Tiếng chim cút kêu vang, khuất dần trong không trung bởi làn bụi đất bốc lên dưới nắng rồi đáp xuống mặt đường như một cơn mưa bụi. Tháng tám, những buổi hoàng hôn oi bức, con đường vắng bóng người, cánh đồng mịt mờ trơ trụi trông thật thê lương hiu quạnh. Một tốp người lôi thôi lếch thếch chậm chạp bước đi. Họ bị cái nắng làm cho kiệt sức, bị bụi đường làm cho ngạt thở, che chắn tầm nhìn, khiến cho họ dường như lạc mất phương hướng giữa một cánh đồng hoang vu vắng lặng. Nhìn họ ai cũng thương cảm và đau lòng, nhưng ở đây, những cảnh tượng như thế này mọi người đã quá quen rồi, nên chẳng mấy ai lưu tâm đến nữa! Ai ai cũng cầu mong Thượng Đế rủ lòng thương, nhưng Thượng Đế chỉ nhìn họ bằng ánh mắt lạnh lùng, vô cảm! Tốp người này gồm có một phụ nữ, ba đứa trẻ và một con lừa già. Người phụ nữ há hốc mồm thở dốc, cắm cúi và chậm chạp tiến về phía trước. Áo quần chị rách rưới, bụi đất đầy người, chân trần, bồng một đứa bé còn bú mẹ. Đứa bé được bọc trong một tấm vải vá chằng vá đụp, đôi tay nhỏ xíu yếu ớt sờ vú mẹ, rồi tợp lấy mút chùn chụt nhưng chẳng được giọt sữa nào. Người phụ nữ này còn rất trẻ, đôi mắt đen long lanh, đôi môi tươi hồng và hàm răng trắng bóng đều tăm tắp, vóc người cân đối, thanh tú. Điều này chứng tỏ trước đây chị rất đẹp, nhưng cuộc sống cùng khổ đã làm cho chị thay đổi hình hài, chưa già đã ốm nhom tiều tụy. Da mặt chị thô ráp, nhăn nheo; tóc tai bù xù, bẩn thỉu, bết dính mồ hôi. Người đàn bà đáng thương này chỉ còn mỗi đôi mắt là linh hoạt, bộc lộ phong độ ngày xưa, đôi mắt ấy lúc này đầy ắp tình yêu thương, chăm chắm nhìn vào khuôn mặt nhỏ xíu của đứa con bé bỏng, đen đúa của mình. Theo sau người đàn bà sức tàn lực kiệt đó là con lừa già chỉ còn da bọc xương, hai tai dựng ngược, cái đuôi thõng thượt bất động, toàn thân đầy bùn và cỏ dại. Trên lưng lừa là hai chiếc giỏ lót vải rách, hai đứa trẻ nằm trên mớ vải đó. Hai đứa bé lúc này rất khác nhau, một đứa sắc mặt hồng hào, đầu ngửa ra sau, ngủ rất ngon lành, không biết mơ gì mà nhoẻn miệng cười tươi. Còn đứa bé năm tuổi thì đang lên cơn sốt, lăn lộn, quằn quại, đôi mắt sưng tấy mở to nhìn mẹ... Họ là ai? Từ đâu đến? Họ là những người Di Gan không nơi nương tựa, lưu lạc khắp châu Âu kiếm sống. Họ đến từ một ngôi làng gần đây, người đàn bà bất hạnh này không dám nghỉ chân ở ngôi làng đó nữa, thậm chí còn không dám múc một bình nước mang theo, bởi những người nông dân ở đấy dọa rằng, nếu mấy mẹ con họ không lập tức rời khỏi làng, họ sẽ đánh cho. Vì thế tốp người Di Gan khổ sở này không có lấy một miếng bánh, một giọt nước... vẫn phải lầm lũi ra đi! Đứa trẻ phát bệnh oằn người, lăn trở trong cái giỏ lót vải rách, huơ huơ tay cầu cứu mẹ, kêu lên yếu ớt “Mẹ ơi!” Người đàn tội nghiệp giật mình, cúi sát con, hỏi “Sao, con yêu?”. Chị đặt đứa bé đang bế trên người xuống cạnh anh nó, hai tay ôm vào cổ đứa con đang ốm. - Nước! Cho con uống nước! Con khát quá mẹ ơi! - Đứa bé chỉ vào ngực mình, thều thào - chỗ này nóng quá mẹ ơi! Cho con nước đi mẹ! - Nước ư? - Người mẹ kinh hoàng nhắc lại - Mẹ lấy đâu ra nước cho con bây giờ? Con ơi! - Nước, con muốn uống nước! - Đứa bé hé đôi môi khô héo, run rẩy chờ đợi. Nhưng rồi nó nhìn mẹ bằng ánh mắt thất thần vô vọng, khóc không ra tiếng. Trời ơi! Con của tôi, máu thịt của tôi! Vậy mà tôi đành bất lực trước cái điều quá nhỏ bé nhưng lại liên quan đến sự sống chết của nó là sao hả trời? Người đàn bà nhìn vô hồn vào chiếc vò sành đựng nước: nước không còn một giọt. Chị nhìn lên trời, trời không một gợn mây, và nhìn khắp nơi, ruộng vườn, đồng cỏ, đâu đâu cũng chỉ là hoang mạc đìu hiu. Xa tít cuối tầm nhìn cũng không hề có bóng dáng một con suối nhỏ, một vũng nước nào. Đất đai trong thời nắng hạn cũng biến dạng, nứt nẻ dường như muốn nói với người đàn bà Di Gan rằng: “Nước cho con bà uống ư? Ở đây không có nước cho một ai uống cả! Rồi sẽ chết khát cả thôi!” Người mẹ ôm chặt con vào lòng, như phát điên phát dại, rên rỉ, nghẹn ngào: “Nước ư con? Một giọt cũng không còn! Mẹ biết tìm đâu ra nước cho con đây, hả con?”. Ôi người mẹ đáng thương! Giữa nơi hoang dã này chỉ duy nhất một nguồn nước, đó là nước mắt mà thôi! Nhưng kìa, người đàn bà Di Gan bỗng mỉm cười tươi tỉnh khi chợt nhìn thấy túp lều của những người sửa đường. Cửa đóng, chủ nhân không có ở nhà. Nhưng có lẽ trong nhà sẽ có ai đó có thể giúp mẹ con chị. Chị tràn trề hy vọng vội chạy tới trước cửa, dùng nắm tay gõ nhiều lần vào cánh cửa nhưng không ai lên tiếng. Đến lúc này người đàn bà Di Gan không còn đủ sức để gõ cửa, để kêu gào lên nữa. Chị men theo bức tường rẽ qua một góc khác, chợt nhìn thấy một cái bát đựng nước. Chị kinh ngạc và mừng rỡ lao tới. Niềm vui chợt đến quá bất ngờ khiến chị không kịp thấy một con chó rất to cũng đang đến gần bát nước. Con chó lông dựng lên, nhe nanh trợn mắt trông rất dữ tợn. Nó nhìn thấy người đàn bà liền sủa váng lên. Chị ngẩng nhìn con chó, phán đoán ý đồ của nó, chợt bổ nhào về phía trước, giữa lúc con chó cũng lao đến chỗ bát nước. Trong tích tắc, người và chó trừng trừng nhìn nhau. Người đàn bà đưa tay ra với lấy bát nước nhưng con chó đã kịp chồm tới, chặn lại, nhe hàm răng sắc nhọn đến rợn người. Người đàn bà quyết không thoái lui: chị chuẩn bị cướp lấy bát nước. “Hừ! Mày cũng cần nước sao? Quên chuyện đó đi! - Chị quát lên giận dữ - Mày không thể cướp được nó đâu!” Người đàn bà Di Gan đấm thẳng vào mặt con chó. Con chó đứng thẳng lên, ngoạm vào vai chị, kéo chị ngã xuống đất. Chị đau đớn và tức giận cùng cực, chộp ngay lấy cổ con vật. Sức mạnh tiềm ẩn của tình mẫu tử trong phút chốc đã cho chị một nguồn lực dồi dào giúp chị đủ sức đương đầu với con chó dữ. Chị nghiến răng siết chặt cổ con vật. Hai hàm răng chó ngập sâu vào bả vai khiến chị vô cùng đau đớn, nhưng chị vẫn không buông tay, quyết giành bằng được nguồn sống cho con mình! Trận chiến dù ngắn ngủi nhưng thật đáng sợ: người và vật quần nhau quyết liệt, cố sức giành phần thắng về mình. Và rồi, cũng đến lúc cuộc chiến kết thúc. Con chó kêu lên ăng ẳng, từ từ há mồm lè cái lưỡi đỏ lòm ra ngoài, nằm vật ra bên chân người đàn bà Di Gan. Chị cũng buông tay ra. Gương mặt tái nhợt, chị thở hổn hển, bò dậy. Quần áo rách tơi tả để lộ trên tấm thân tàn tạ những vết răng rớm máu của con chó dữ. Chị không hề cảm thấy đau đớn, điềm tĩnh hất xác con chó ra, bê bát nước chạy về phía con. Chị cũng không để ý đến dòng máu tươi vẫn đang trào ra trên vai mình, run run đưa bát nước vào sát miệng con, thân thiết và dịu dàng nói: “Uống đi con! Uống đi con yêu!” TIẾNG HÁT ĐÊM NÔ-EN Yuekayi.Moer (Hunggari) T rong thành phố có một ông thợ giày nghèo khổ tên là Yaruo. Hàng ngày Yaruo làm việc cật lực nhưng vẫn phải sống rất chật vật, bởi lẽ, trong ngôi nhà nhỏ này mỗi năm đều có thêm một đứa trẻ ra đời! Sau khi sinh đứa con thứ chín, vợ ông thợ giày ra đi vĩnh viễn, trao lại trọng trách nuôi dưỡng đàn con nhỏ cho người chồng cô độc này. Trong số con của ông bà, có ba đứa đã đi học, một đứa mới tập đi, các đứa khác thì còn rất nhỏ, cần có người cho ăn, tắm giặt cho chúng. Để chu cấp cho từng ấy miệng ăn, ông thợ giày phải làm việc không kể ngày đêm vô cùng vất vả cực nhọc. Khi cần khâu giày cho con, ông phải làm một lúc những chín đôi! Còn lúc chia bánh mì cho lũ trẻ, ông phải chia thành chín phần! “Ôi Thượng đế nhân từ! Xin Người hãy ban phước lành cho con!” Ông Yaruo đáng thương không ngớt ta thán, khẩn cầu. May mà chín đứa trẻ, cả chín đứa, cám ơn trời đất, chúng nó đều khỏe mạnh, xinh xắn, ngoan ngoãn, khéo léo và biết điều! Chỉ cần chúng không đau ốm gì, ông thợ giày sẵn sàng chịu khó chịu khổ để kiếm đủ miếng ăn cho chúng. Đêm Nô-en ông thợ giày mải làm việc, tới khuya mới về đến nhà. Ông phải đi giao những đôi giày đã khâu xong cho khách hàng để kiếm ít tiền lo cho con. Trên đường về nhà, ông Yaruo đi qua các cửa hàng bày bán các loại búp bê, bánh kẹo với những hình dáng ngộ nghĩnh dành cho trẻ em. Ở mỗi cửa hàng ông Yaruo đều dừng lại, tần ngần: phải chăng nên mua cho bọn trẻ vài thứ gì đó? Nhưng mua những chín phần đương nhiên là không đủ tiền rồi. Hay chỉ mua một phần thôi? Không được! bọn trẻ sẽ tị nạnh với nhau mất! Cuối cùng ông quyết định dành cho bọn trẻ món quà Giáng sinh đặc biệt, món quà mà ai cũng vui, bọn trẻ chẳng phải tranh giành nhau! “Các con, 1, 2, 3... Tất cả các con tập họp!” Sau khi về đến nhà Yaruo gọi bọn trẻ lại, “Các con biết không, Hôm nay là lễ Nô-en đấy! Đây là một ngày lễ lớn. Tối nay tất cả chúng ta không phải làm việc nữa! Chúng ta được nghỉ ngơi, vui chơi thoải mái!” Bọn trẻ nhao lên, reo hò ầm ĩ. “Này các con, đừng ồn ào nữa. Hôm nay cha sẽ dạy cho các con một bài hát cực hay. Đó là quà Giáng sinh mà cha dành tặng cho các con đấy!” Bọn trẻ hò reo thích thú, chen nhau đến trước mặt cha, có đứa ngồi vào lòng, có đứa bá cổ cha. Yaruo xếp bảy đứa trẻ thành hàng từ thấp đến cao như một dãy nốt nhạc. Với hai đứa nhỏ nhất, ông ôm một đứa vào lòng, một đứa ông cho ngồi lên gối. “Các con im lặng nào. Bây giờ các con cùng hát với cha nhé!” Yaruo nói xong, với vẻ thành kính trang nghiêm, ông cất lên tiếng hát, bài hát cổ xưa và đẹp đẽ: “Chúc mừng ngày sinh Chúa Cứu thế!” Tất cả bọn trẻ, bất kể là trai hay gái đều nhanh chóng nắm vững giai điệu bài hát. Đương nhiên lúc đầu chúng hát còn chệch choạc, sai lạc về giai điệu nhịp phách, nhưng cuối cùng bọn trẻ cũng thuộc được bài hát. Trong cái đêm khó quên ấy, chín tiểu thiên sứ đáng yêu đó đã hợp thành một dàn đồng ca tuyệt vời, vui vẻ và đầy xúc động! Nghe tiếng hát hồn nhiên của bọn trẻ, ai mà không vui? Với ông chủ của dãy phòng trên lầu nơi Yaruo ở, tình hình hoàn toàn khác. Đây là một người giàu có, một mình ở cả chín gian phòng! Ông ta ngồi chơi thư giãn ở phòng số 1, phòng số 2 là phòng ngủ, nơi hút thuốc là phòng số 3, phòng số 4 là phòng ăn... Có là quỷ sứ mới biết các phòng còn lại lão dùng làm gì! Lúc này lão nhà giàu đang ngồi chơi tại phòng số 1. Lão nghĩ, cớ sao ta ăn uống chẳng thấy ngon? Báo chí dạo này sao chẳng có tin tức gì thú vị cả? Còn nhà cửa? Ngay như ngôi nhà đầy đủ tiện nghi và rộng rãi như thế này, sao ta cứ thấy tù túng, ngột ngạt? Trong khi đó, ngay phía dưới, từ căn phòng của ông thợ giày Yaruo vang lên tiếng hát, lúc đầu còn nhỏ và không đều, về sau lớn dần, lớn dần, rập ràng và sôi động đập vào tai lão nhà giàu. Lúc đầu lão nhà giàu mặc kệ, nghĩ là sẽ nhanh chóng kết thúc. Khi tiếng hát cất lên đến lần thứ mười, lão không sao chịu nổi bèn xuống lầu tìm đến nhà ông thợ giày. Khi lão nhà giàu bước vào cửa, tiếng hát trong phòng cũng vừa dừng lại. Yaruo cung kính đứng lên từ chiếc ghế đẩu ba chân, đi tới trước mặt lão nhà giàu. - Ngươi là Yaruo, thợ đóng giày phải không? - Dạ vâng, thưa quý ông. Tôi xin nghe quý ông đây. Quý ông muốn đóng một đôi giày đẹp phải không ạ? - Ta không đến đây vì chuyện đó. Ôi, ngươi có đông con nhỉ? - Vâng ạ, thưa quý ông tôn kính. Lít nhít thế này. Lúc ăn cũng lắm miệng ăn đấy ạ. - Lúc ca hát, lắm miệng hát cũng to! Nghe này Yaruo, ta đem vận may đến cho ngươi đây. Ngươi hãy cho ta một đứa trẻ, nó sẽ là con ta, ta nuôi dạy nó, sau này trở thành một người giàu có, nó sẽ giúp đỡ cho các anh chị em nó. Yaruo vừa vui mừng vừa kinh ngạc trố mắt nhìn lão nhà giàu. Một đứa con của ông sẽ là người giàu có? Thật là vận may hiếm có! Ai mà không vui mừng chứ? Sao lại từ chối? Cho, đương nhiên là cho rồi! - Thế thì tốt. Hãy giúp ta chọn lấy một đứa - Lão nhà giàu nói - Rồi ta sẽ đưa nó đi khỏi đây. Yaruo bắt đầu chọn. Ông lẩm nhẩm: “Đây là Xiaoshan. Không, Ta không muốn cho nó cho người khác! Nó học tốt lắm, lớn lên sẽ thành mục sư. Đứa thứ hai, là nữ. Lão nhà giàu không cần con gái. Fleilun đã có thể giúp cha làm việc được rồi, thiếu nó là không xong! Còn Yaruoshanka đã được làm lễ rửa tội, đương nhiên là không thể giao nó cho ai được. Xiaolongsha rất giống mẹ, nhìn thấy nó chẳng khác nào nhìn thấy vợ mình, Yaruo sao có thể để nó từ nay mất dạng tại căn nhà này được? Đứa tiếp theo lại là con gái, khỏi cần phải nghĩ ngợi gì. Bây giờ đến lượt Bolika. Nó là đứa bé mà mẹ nó lúc sinh thời yêu quý nhất, nếu giao nó cho người khác, người đàn bà đáng thương kia ở nơi chín suối sao có thể yên lòng? Hai đứa còn lại thì nhỏ quá, liệu lão nhà giàu có chịu nuôi nó?” Yaruo điểm hết mấy đứa con từ lớn đến nhỏ, không chọn được đứa nào. Ông lại bắt đầu điểm ngược từ nhỏ tới lớn, kết quả vẫn như cũ! Ông bất lực trong việc này! Cả chín đứa đều là những báu vật rất đáng yêu của ông! """