"
Tổng Kết Lịch Sử Đấu Tranh Chống Gián Điệp 1945-2005 - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tổng Kết Lịch Sử Đấu Tranh Chống Gián Điệp 1945-2005 - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
- Tên sách: Tổng kết Lịch sử đấu tranh chống gián điệp 1945- 2005
- Tác giả:
- Nhà xuất bản: Công an nhân dân
- Số hóa: macbupda, quansuvn
Chỉ đạo
Thượng tướng NGUYỄN VĂN HƯỞNG
Thứ trưởng Bộ Công an.
Thượng tướng THI VĂN TÁM
Thứ trưởng Bộ Công an.
Trung tướng TRẦN ĐẠI QUANG
Thứ trưởng Bộ Công an.
Thiếu tướng PHẠM DŨNG
Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Thiếu tướng TRẦN TÔN THẤT
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Thiếu tướng NGUYỄN VĂN KIỂM
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Đại tá PHAN THỊ MINH CHƯƠNG
nguyên Cục trưởng A28, Tổng cục An ninh
Đại tá BÙI THỂ DY
Cục trưởng A28, Tổng cục An ninh.
Đại tá ĐINH NGỌC MIÊNG
Phó cục trưởng A28, Tổng cục An ninh.
Đại tá TRẦN KIM DŨNG
Phó cục trưởng A28, Tổng cục An ninh.
Chủ nhiệm
Thiếu tướng, Tiến sỹ PHẠM DŨNG
Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh
Thư ký khoa học
LÊ NGỌC BỐN
Trưởng phòng - Cục Chính trị an ninh
Công tác tư liệu
Thượng tá NGUYỄN THANH HẢI
Thượng tá TRẦN VĂN HƯỞNG
Thượng tá NGUYỄN VĂN NGHĨA
Thượng tá VŨ VĂN PHƯƠNG
Thượng úy TRẦN MẠNH HƯNG
Trung úy NGUYỄN HỮU DIỆU
Với sư hướng dẫn của
Trung tướng PHẠM TÂM LONG
nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.
Đại tá, Phó Giáo sư VŨ VĂN BÂN
nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Công an. Đại tá, Tiến sĩ ĐỖ VĂN THUYẾT
Viện trưởng Viện Lịch sử Công an.
Đại tá, Tiến sỹ Đỗ BÁ CỞ
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Công an.
Thượng tá ĐÀO VĂN LẬP.
Phó trưởng Ban 3, Viện Lịch sử Công an.
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trải qua hàng ngàn năm đấu tranh, bằng truyền thống đoàn kết và ý chí quật cường mà một nước nhỏ như Việt Nam ta đã lần lượt đánh bại những thế lực ngoại xâm sừng sỏ nhất đương thời, cắm những mốc son trong phong trào đấu tranh giành độc lập trên thế giới. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, mở ra bước ngoặt lịch sử vĩ đại cho cách mạng nước ta, đánh dấu một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của thời đại Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của mình, dẫn dắt cả dân tộc tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng, đánh thắng hai đế quốc là Pháp và Mỹ, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, đưa nước Việt Nam thống nhất tiến lên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đấu tranh chống gián điệp là một bộ phận không tách rời của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt những chặng đường lãnh đạo của mình, Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm chỉ đạo hệ thống chính trị của Đảng cùng toàn thể nhân dân, xây dựng nền an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng thế trận “phòng và chống" phản cách mạng hoàn chỉnh, đánh bại âm mưu, hoạt động của các cơ quan gián điệp, phục vụ đắc lực cho cuộc chiến tranh giải phóng và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lực lượng chống gián điệp thuộc Công an nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên ngành, giữ vai trò nòng cốt, ra đời, trưởng thành mọi mặt từ cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và lâu dài đó.
Trải qua 60 năm đấu tranh cách mạng, khi đất nước có chiến tranh hay khi đất nước đã hoà bình thì trận tuyến đấu tranh chống gián điệp vẫn không ngơi nghỉ, vẫn vô cùng gay go, quyết liệt. Đối
tượng đấu tranh của ta là cơ quan tình báo gián điệp của các thế lực ngoại xâm, bọn phản động quốc tế, các thế lực thù địch hòng thực hiện âm mưu thôn tính và xâm lược. Điệp viên của địch không chỉ có vỏ bọc chắc chắn, trà trộn trong xã hội, lẩn khuất quanh ta mà chúng còn được các lực lượng vũ trang xâm lược và bọn phản động hỗ trợ, được trang bị các loại phương tiện hoạt động hiện đại và tinh vi. Nhưng cuối cùng, chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc. Nguồn gốc để giành thắng lợi trên mặt trận đấu tranh bí mật này được khởi nguồn từ tư tưởng chỉ đạo, quá trình hoàn thiện đường lối, phương châm, nguyên tắc đấu tranh chống phản cách mạng của Đảng; là chủ trương xây dựng thế trận “phòng và chống” gián điệp, phát triển thành nền an ninh nhân dân vững mạnh; là quyết sách trong tổ chức lực lượng đấu tranh, phát huy cao độ tinh thần yêu nước và ý thức cảnh giác cách mạng của nhân dân, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan đơn vị với nghiệp vụ phản gián sắc bén của cơ quan chuyên môn thành sức mạnh tổng hợp; là tinh thần chiến đấu mưu trí, sáng tạo, quyết đoán và quyết thắng của các thế hệ An ninh nhân dân trước mọi kẻ thù.
Tổng kết lịch sử đấu tranh chống gián điệp là thông qua hệ thống các sự kiện lịch sử để làm rõ quá trình hình thành, phát triển về đường lối, sự lãnh đạo của Đảng, của Nhà nước và của Bộ Công an; làm rõ quá trình tổ chức lực lượng tham gia đấu tranh và xây dựng thế trận “phòng chống" gián điệp; làm rõ cách thức triển khai các biện pháp đấu tranh của lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh này. Qua đó rút ra những bài học lịch sử có giá trị áp dụng vào thực tiễn sinh động đang diễn ra, góp phần hoàn chỉnh hệ thống lý luận chuyên ngành để các thế hệ mai sau chiêm nghiệm và kế thừa.
Tác phẩm “Tổng kết lịch sử đấu tranh chống gián điệp (1945- 2005)", được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình về phương pháp luận Tổng kết của Viện lịch sử Công an và các nhà sử học uy tín; kiến thức thực tiễn phong phú và vô cùng quý báu của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt trên lĩnh vực đấu tranh chống gián điệp của lực lượng An ninh qua các giai đoạn lịch sử. Đội ngũ nghiên cứu đã cố gắng khai thác các nguồn tư liệu để nhận thức lịch sử một cách
trung thực, khách quan với mong muốn sẽ là tác phẩm hữu ích cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như vận dụng vào thực tiễn của mặt trận đấu tranh bí mật vô cùng khó khăn, gian khổ, nhiều yếu tố nhạy cảm và khó lường.
Xin được trân trọng cảm ơn Viện Lịch sử Công an, các đồng chí nhân chứng lịch sử, các nhà nghiên cứu trong và ngoài ngành đã hướng dẫn, cung cấp tư liệu và đóng góp ý kiến quý báu cho tác phẩm.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
TỔNG CỤC AN NINH
PHẦN THỨ NHẤT:
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẤU TRANH CHỐNG GIÁN ĐIỆP
(1945-2005)
CHƯƠNG I
ĐẤU TRANH CHỐNG GIÁN ĐIỆP GÓP PHẦN BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ ĐÁNH THẮNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)
Lịch sử đấu tranh chống gián điệp thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954 là bộ phận của lịch sử đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ và chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Là giai đoạn hình thành đường lối, phương châm, nguyên tắc, đối sách, sách lược và tổ chức lực lượng cũng như biện pháp nghiệp vụ đấu tranh chống gián điệp. Tương ứng với những bước phát triển của lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp, lịch sử đấu tranh chống gián điệp cũng có ba bước phát triển rõ ràng. Mỗi bước là một dấu mốc phát triển về đường lối chỉ đạo, tổ chức lực lượng đấu tranh, xây dựng thế trận phòng ngừa và đánh địch.
1. Giai đoạn từ năm 1945 đến giữa năm 1947
Giai đoạn này, Trung ương Đảng lãnh đạo cả dân tộc tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; đề ra chủ trương “hoà để tiến" nhằm loại dần kẻ thù và lãnh đạo tiến hành thắng lợi giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến tranh nhân dân chống thực dân Pháp xâm lược.
Thời kỳ tiến hành tổng khởi nghĩa tháng 8 nám 1945, trên đất nước ta đồng thời tồn tại hai thế lực ngoại xâm là Pháp và Nhật. Mặc dù Pháp phải dâng ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia cho Nhật nhưng vẫn nuôi tham vọng thiết lập lại quyền thống trị ở Đông Dương. Pháp giữ nguyên mạng lưới gián điệp, chỉ điểm đã có, tiếp tục thu thập tin tức của Việt Minh cũng như các đảng phái phản động nhằm chuẩn bị sẵn điều kiện thực hiện âm mưu đó: đám tàn
quân do A-lếch-xăng-đờ-ri cầm đầu chạy sang Trung Quốc tìm cách liên lạc với cơ quan tình báo chiến lược OSS của Mỹ để nương náu và tung tay chân về Việt Nam hoạt động. Văn phòng cơ quan đại diện của Pháp tại 53 Trần Hưng Đạo (Gabetta) và nhà riêng của Sanh-tơ-ni tại 18 Nguyễn Chế Nghĩa biến thành trụ sở điều hành hoạt động bí mật của Pháp kiều cùng bọn Việt gian, chỉ điểm. Tuy Nhật nắm quyền thống trị ở Đông Dương nhưng vì phải tập trung lực lượng cho cuộc chiến tranh nên Nhật vẫn phải dựa vào Pháp, đặc biệt là đối với các cơ quan tình báo gián điệp của Pháp. Do đó, khi Nhật đầu hàng đồng minh, Pháp sử dụng ngay mạng lưới tay sai sẵn có từ trước, ráo riết triển khai các hoạt động nhằm thiết lập lại quyền thống trị.
Để tổ chức quần chúng đấu tranh đập tan bộ máy thống trị của kẻ thù, ngay từ tháng 5-1945, trong Chỉ thị “Sửa soạn tổng khởi nghĩa", Tổng bộ Việt Minh chỉ đạo các lực lượng cách mạng thành lập “Đội tự vệ", “Đội ám sát” (AS) làm nhiệm vụ trừng trị bọn mật thám, tay sai của Pháp, Nhật. Thực hiện chỉ đạo của Tổng bộ Việt Minh, các địa phương trong cả nước đều lập những tổ chức vừa mang tính chất vũ trang, vừa mang tính chất chính trị nhằm trừng trị bọn Việt gian và dẫn dắt quần chúng đấu tranh. Nhờ đó, trong tháng 8-1945, Pháp tung nhiều toán tình báo, hoạt động ở khắp ba kỳ nhưng đều bị lực lượng cách mạng phát hiện và bắt gọn: Toán biệt kích thủy quân do Bơ-lang-sa cầm đầu xâm nhập vào Hải Phòng; Mét-me nhảy dù xuống Bắc Ninh; Ca-tê-na cùng năm sĩ quan tình báo nhảy dù xuống Thừa Thiên... Khai thác bọn này ta nắm được chúng thực hiện lệnh của Chính phủ Đờ-gôn liên lạc với các đảng phái phản động cũ và bọn tay sai, quan lại như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng,... để: "khi có thời cơ sẽ lập lại nền cai trị của Pháp ở Dông Dương”.
Đồng thời bắt các toán tình báo hoặc vô hiệu hoá hoạt động của chúng, Đảng chỉ đạo các Uỷ ban khởi nghĩa trong toàn quốc trấn áp mạnh bọn mật thám, gián điệp, các phần tử Việt gian phản quốc, đập tan mọi hoạt động chống đối của chúng. Trước, trong tổng khởi nghĩa, lực lượng cách mạng trên toàn quốc đã bắt và diệt 535 tên gian ác, trong đó có 126 tên mật thám, gián điệp của Pháp, Nhật:
Nguyễn Văn Chung, Ngô Xuân Điền, Đỗ Đức Phin, Hoàng Sĩ Nhu, Trương Anh Tự, Nga Thiên Hương, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn... Riêng tỉnh Nam Định bắt và diệt 20 tên mật thám Pháp. Những toán gián điệp bị bắt, những cuộc trấn áp bọn mật thám, tay sai của Pháp và Nhật vào thời điểm lịch sử này có tác dụng quan trọng vì nó vừa phá tan âm mưu của Pháp, vừa làm mất chỗ dựa của bọn Việt gian phản quốc, đẩy chúng vào tình thế tê liệt và mau chóng tan rã trước làn sóng cách mạng của quần chúng.
Thời điểm lịch sử này, lực lượng Công an chưa được thành lập, vì vậy công tác trấn áp phản cách mạng, bọn gián điệp và mật thám được thực hiện bởi các lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, do các tổ chức nòng cốt dẫn dắt như “Tự vệ Việt Minh", “Tự vệ thành”, “Hộ lương gian ác”, “Trinh sát Việt Minh". Do trấn áp mạnh, đúng và trúng nên đã góp phần làm tê liệt hoạt động chống đối của kẻ thù, tạo điều kiện cho quần chúng đứng lên đánh đổ chế độ thống trị cũ, trừng trị và đập tan các thế lực phản cách mạng, thiết lập thành công hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến cấp cơ sở.
Tại mỗi địa phương, ngay sau khi giành chính quyền, thiết lập chính quyền cách mạng, Đảng đều chỉ đạo thành lập ngay cơ quan Công an (thực chất là lực lượng An ninh) - công cụ nòng cốt trấn áp phản cách mạng. Do diễn biến mau lẹ của tình hình nên Đảng cho phép tạm sử dụng mô hình tổ chức của các cơ quan Liêm phóng địch làm mô hình cơ quan Công an (Quốc gia tự vệ cuộc, Trinh sát, Liêm phóng); lưu dụng số nhân viên cũ ở những bộ phận không quan trọng để triển khai ngay công tác bảo vệ an ninh trật tự. Nhằm đảm bảo cho cơ quan chuyên chính phục vụ cách mạng tốt nhất, Đảng điều động các đồng chí là đảng viên trung kiên lãnh đạo những bộ phận quan trọng và tuyển chọn những thanh niên ưu tú, bổ sung cho các bộ phận làm nhiệm vụ trấn áp phản cách mạng. Như vậy, tuy ta kế thừa mô hình tổ chức và công sở, lưu dụng một số nhân viên của chính quyền cũ nhưng bản chất cơ quan Công an từ đây là cơ quan chuyên chính của cách mạng, do Đảng và Chính phủ lâm thời trực tiếp chỉ đạo với nhiệm vụ: bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ nhân dân.
Từ sau cách mạng tháng 8-1945, cuộc đấu tranh chống phản cách mạng chuyển sang bước ngoặt lịch sử mới: Cuộc đấu tranh được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, trong điều kiện ta nắm chính quyền; được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân, sự phối hợp của các lực lượng cách mạng khác. Trong khi đó, bọn mật thám gián điệp, bọn Việt gian phản quốc bị tan rã, bị đẩy vào tình thế cô lập và không còn điều kiện để dựa dẫm. Tuy nhiên, do tình hình diễn biến mau lẹ, khí thế cách mạng lên cao, lực lượng cách mạng còn nhiều ấu trĩ nên có lúc, có nơi ta trừng trị tràn lan hoặc để sót lọt những đối tượng nguy hiểm như: thả Giăng-xê-di, Phan Văn Giáo, Ngô Đình Diệm, Phạm Quỳnh, Trương Tử Anh... Sau này chúng gây hại cho cách mạng không nhỏ. Trong quá trình trấn áp, cũng chưa nhận thức được đối tượng là gián điệp hay phản động, mà chỉ nhận thức chúng là bọn phản cách mạng. Song dù công tác đấu tranh trấn áp phản cách mạng trong thời kỳ này hoàn toàn mới mẻ, lực lượng nòng cốt từ phong trào cách mạng mà thành nhưng đây là thời kỳ trấn áp mạnh, làm tan rã một bộ phận không nhỏ lực lượng phản cách mạng nguy hiểm nhất lúc dó. Vì vậy, cuộc đấu tranh chống gián điệp đã góp phần to lớn vào nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là: "Đập tan chính quyền địch, tiễu trừ Việt gian, thiết lập chính quyền nhân dân"1 (Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, H. Chính trị quốc gia, 1996).
Thời gian hoà bình để củng cố hệ thống chính quyền cách mạng chưa đầy một tháng, đất nước lại phải đương đầu với những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Với danh nghĩa đồng minh, quân Tưởng kéo vào nước ta, chiếm đóng từ vĩ tuyến 16 trở ra. Tưởng câu kết với Mỹ, âm mưu độc chiếm miền Bắc Đông Dương. Quân Anh đổ bộ lên Sài Gòn, chiếm đóng từ vĩ tuyến 16 trở vào, âm mưu tranh giành ảnh hưởng với Mỹ và Tưởng bằng việc câu kết với Pháp tiến hành các hoạt động quân sự hòng độc chiếm miền Nam Đông Dương. Vì vậy, khi Anh đổ bộ lên Sài Gòn - Gia Định đã mang theo những trung đoàn lính Pháp, trong đó có hai tiểu đoàn biệt kích thuộc trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5e-RIC). Vừa đặt chân lên Sài Gòn, Anh và Pháp xúc tiến ngay âm mưu xâm lược; Anh tạo điều kiện cho Pháp vũ trang đánh chiếm Nam Bộ. Ngày 23-9-1945, quân và
dân Nam Bộ mở đầu cuộc kháng chiến cục bộ chống thực dân Pháp xâm lược. Pháp huy động hơn 4.000 lính cùng Pháp kiều có vũ trang với sự tiếp sức của lữ đoàn Anh - Ấn và chừng 5.000 lính Nhật, mở cuộc tấn công bất ngờ, âm mưu thiết lập lại quyền thống trị ở Sài Gòn trong vòng 18 ngày. Trước sức tấn công của liên minh các thế lực ngoại xâm, quân và dân Sài Gòn - Gia Định đã anh dũng chiến đấu bằng mọi loại vũ khí có trong tay, cầm chân quân giặc, quyết đánh bại kế hoạch thôn tính Sài Gòn trong vòng 18 ngày của Lơ-cléc.
Cuộc kháng chiến cục bộ của quân và dân Nam Bộ mở rộng, lực lượng vũ trang chủ yếu lúc này là các trung đoàn Cộng hoà vệ binh và Quốc gia tự vệ cuộc. Nhưng vào thời điểm này Đảng chưa nắm được lực lượng Cộng hoà vệ binh, hơn nữa kỷ luật của lực lượng vũ trang Cộng hoà vệ binh rất yếu kém. Trước đó, cơ quan gián điệp Pháp cài được nhiều điệp viên vào hoạt động trong các trung đoàn, đã tác động làm cho nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng, vì thế lực lượng vũ trang này nhanh chóng tan rã. Một bộ phận đầu hàng Pháp, quay trở lại tấn công ta. Trước tình hình đó, Quốc gia tự vệ cuộc Nam Bộ trở thành lực lượng vũ trang nòng cốt trong những ngày đầu kháng chiến. Để đảm bảo vũ trang đánh địch, chặn bước tiến của chúng và trấn áp phản cách mạng, Quốc gia tự vệ cuộc chia làm hai bộ phận: Một bộ phận phát triển thành Bộ đội Hiệp Hoà, tiến hành vũ trang đánh địch; một bộ phận tiếp tục trấn áp phản cách mạng và bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến. Như vậy, ngay từ những ngày đầu kháng chiến, cuộc đấu tranh chống phản cách mạng đã có bước chuyển kịp thời, đáp ứng nhiệm vụ quan trọng bậc nhất lúc này là vừa vũ trang đánh địch vừa lùng bắt bọn Việt gian, bọn tay sai thân Pháp, vừa bảo vệ cơ quan đầu não của cách mạng rút ra căn cứ an toàn.
Cùng với việc sử dụng binh lực đánh chiếm, thực dân Pháp ráo riết triển khai hệ thống mật thám, gián điệp để chuẩn bị mở rộng chiến tranh. Chúng khôi phục Sở Mật thám Nam Kỳ, tăng cường nhân viên; thiết lập các quận cảnh sát, đồn cảnh sát, tổ chức mạng lưới Recherche (truy tìm) và Indicateur (chỉ điểm), trà trộn trong nhân dân, theo dõi, bắt cán bộ và cơ sở cách mạng. Pháp củng cố
Phòng Nhì (2e Bureau), tuyển mộ thêm nhân viên để đảm nhiêm vai trò thu thập tin tình báo phục vụ cho yêu cầu quân sự. Vì vậy, lực lượng quân sự của Pháp chiếm đóng đến đâu thì mạng lưới Phòng Nhì phát triển đến đó. Nhân viên Phòng Nhì rải dọc theo hệ thống ba cấp của quân chiếm đóng: Tiểu khu (Secteus), chi khu (Sous Secteus) và cấp xã (Quariter). Mặc dù danh nghĩa là cơ quan tình báo quân sự nhưng chức năng của Phòng Nhì rất rộng. Nhiệm vụ chính của chúng là tổ chức cài điệp viên vào cơ quan kháng chiến, lực lượng vũ trang của ta; tung do thám, gián điệp, xây dựng mạng lưới chỉ điểm để thu tin và phá hoại. Cùng với cơ quan tình báo quân sự, Pháp tăng cường củng cố chi nhánh tình báo chiến lược SEH (cơ quan Nghiên cứu lịch sử) thực hiện các kế hoạch tình báo chiến lược ở Nam Bộ phục vụ Cao uỷ Pháp trong các kế hoạch mang tầm chiến lược.
Việc tăng cường các cơ quan mật thám, gián điệp và thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố dã man của thực dân Pháp đã gây rất nhiều khó khăn vào những tháng cuối năm 1945 đến nửa đầu năm 1946 (trước khi Hiệp ước Hoa - Pháp ký kết). Trong thành phố, một bộ phận cán bộ ta trực tiếp chiến đấu kìm chân giặc bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến rút ra vùng căn cứ; một bộ phận hoá trang, hoạt động bí mật trong lòng địch làm nhiệm vụ thu thập tin tức phục vụ cho kháng chiến và tiến hành một số vụ diệt trừ bọn mật thám, ác ôn. Ở vùng căn cứ kháng chiến và vùng tự do, Quốc gia tự vệ cuộc tập trung vào nhiệm vụ tổ chức bố phòng, giáo dục nhân dân cảnh giác phòng gian bảo mật, chống do thám chỉ điểm và bảo vệ các cơ quan đầu não của kháng chiến. Trong bối cảnh vừa phục vụ các yêu cầu của cuộc đấu tranh vũ trang, vừa đáp ứng yêu cầu bảo vệ vùng còn tự do và căn cứ kháng chiến, Quốc gia tự vệ cuộc Nam Bộ đã có bước chuyển kịp thời về tổ chức lực lượng, không chỉ góp phần kìm chân địch, bảo vệ an toàn các cơ quan kháng chiến mà còn tiến hành tốt công tác diệt trừ bọn do thám chỉ điểm, bước đầu hạn chế hoạt động triển khai mạng lưới gián điệp của Pháp trên chiến trường Nam Bộ.
Ngay sau khi chính quyền cách mạng được thành lập, tình hình trên toàn quốc diễn biến mau lẹ, phức tạp, nhưng lực lượng An ninh
từ Bắc đến Nam, ở trung ương và địa phương đều đã được thiết lập với mô hình tổ chức ba cấp rõ ràng, có sự chỉ huy chỉ đạo thống nhất; trong đó, lực lượng trinh sát tại chỗ được chú trọng phát triển mạnh. Cùng với lực lượng trinh sát của An ninh một số địa phương vẫn duy trì “Ban trinh sát của Đảng" và một bộ phận trinh sát hoá trang hoạt động trong “Ban liên lạc Việt Hoa”. Do có hình thức tổ chức lực lượng thích hợp, biết dựa hẳn vào luật pháp và vận động được quần chúng ủng hộ nên lực lượng An ninh non trẻ không chỉ đáp ứng yêu cầu kháng chiến ở Nam Bộ, yêu cầu "Hoà để tiến" ở Bắc Bộ mà còn khám phá nhiều vụ án gián điệp lớn: Khám phá ổ gián điệp biệt kích số 5 tại đường Lý Thành Nguyên, Chợ Lớn, bắt 8 tên thu nhiều tài liệu và vũ khí; khám phá mạng lưới gián điệp Pháp đánh vào Bộ đội Bình Xuyên;... Tại Bắc Bộ và Trung Bộ, đã khám phá tổ chức gián điệp Pacefic, thu được bản mật lệnh của Bộ chỉ huy quân đội Pháp về kế hoạch tấn công ta và một số tài liệu liên quan đến nhiều đầu mối gián điệp; bắt một nữ gián điệp Pháp từ Sài Gòn ra Hà Nội móc nối với đồng bọn ở Bắc Bộ; bắt tên Đức là Nhật kiều làm việc cho gián điệp Pháp; trừng trị tên Thám Hoan và Phạm Giao, làm việc cho gián điệp Nhật...
Nhằm tố cáo sự tráo trở của kẻ thù, ta đã đưa một số vụ điển hình ra Toà án Quân sự truy tố như các vụ: Vũ Mạnh Khoa, Phạm Huy Chương, Phạm Quang Lương, Nguyễn Vân Giậu, Đặng Văn Như. Đặc biệt là sự kiện trấn áp Quốc dân đảng trên toàn quốc vào tháng 7-1946, lực lượng An ninh không chỉ đập tan một đảng phản động có thực lực nhất lúc bấy giờ, mà còn phá vỡ thế liên kết giữa gián điệp Pháp với thế lực nội phản, tạo điều kiện để Đảng ta có thểm thời gian củng cố lực lượng đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến.
Đạt được một số kết quả trong giai đoạn đầu tiên vô cùng khó khăn này vì lực lượng An ninh đã quán triệt nghiêm túc sách lược của Đảng, chỉ đạo của Đảng, biết dựa vào luật pháp, vận động quần chúng ủng hộ, tạo ra áp lực chính trị mạnh mẽ. Lực lượng trinh sát tuy còn non trẻ, nghiệp vụ còn đơn giản nhưng đã chiến đấu bằng tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm tiêu diệt địch để bảo vệ tổ chức Đảng, bảo vệ chính quyền trong bối cảnh lịch sử ngặt
nghèo. Đặc biệt là lực lượng trinh sát ở cấp cơ sở phát triển nhanh chóng, biết kết hợp giữa chiến đấu vũ trang với hoạt động bí mật, biết phối hợp với các lực lượng vũ trang khác của cách mạng để thu tin và đấu tranh chuyên án.
Sau khi “Hiệp ước Hoa - Pháp" ký kết, quân Tưởng rút về nước, thực dân Pháp càng ráo riết triển khai âm mưu phát động cuộc chiến tranh vũ trang xâm lược hoàn toàn đất nước ta. Đảng và Chính phủ đã tranh thủ mọi điều kiện để đàm phán, chấp nhận một số điều kiện nhượng bộ để kéo dài thời gian củng cố lực lượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới, quyết cướp nước ta một lần nữa. Pháp gây hấn ở Hải Phòng, sau đó gây hấn ở Hà Nội cùng nhiều địa phương khác. Thời kỳ hoà hoãn không thể kéo dài hơn, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến; cuộc chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trên phạm vi toàn quốc bắt đầu.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, quân và dân ta dũng cảm, kiên cường tiến hành cuộc chiến đấu không cân sức, vừa chặn bước tiến của thực dân Pháp xâm lược, vừa bảo vệ an toàn Trung ương Đảng, Bộ chỉ huy kháng chiến rút dần về Chiến khu để lãnh đạo cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ. Năm 1947, năm đầu tiên của cuộc kháng chiến diễn ra quyết liệt trên mọi bình diện nhưng chúng ta đã làm thất bại kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp.
Trong bối cảnh đó, yêu cầu bảo vệ Đảng, bảo vệ các cơ quan kháng chiến lúc này là nhiệm vụ cấp bách, có vai trò cực kỳ quan trọng. Trung ương Đảng và Ủy ban Hành chính kháng chiến chủ trương củng cố căn bản lực lượng An ninh với yêu cầu tập trung chỉ huy chỉ đạo, tập trung tối đa cho mặt trận. Quán triệt chủ trương của Đảng, ngày 24-1-1947, Nha Công an ra Quyết nghị A00092 về “Chương trình hoạt động của bộ máy Công an”. Quyết nghị nêu rõ: “Nha Công an có nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo các khu vực thuộc Bắc Bộ; Chánh, Phó Giám đốc và nhân viên Sở Công an Bắc Bộ được điều động đến các tỉnh, các đơn vị trực tiếp chiến đấu. Cơ quan hành chính của Nha tăng cường cán bộ chỉ huy cho cơ sở và chuyển lên chiến khu”. Theo đó, Nha Công an bố trí lại còn bốn bộ
phận, trong đó có bộ phận Chính trị do Giám đốc Nha Công an Trung ương phụ trách. Tháng 4-1947, Trung ương Đảng họp Hội nghị cán bộ Trung ương. Hội nghị xác định: Củng cố và mở rộng mặt trận thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược, thành lập các “Đội danh dự trừ gian”, các “Tiểu tổ bí mật”, các “Ban công tác đội” để đánh địch trong lòng địch”. Quyết định của Hội nghị Trung ương không chỉ là định hướng về tư duy đánh địch mà còn hình thành hai lĩnh vực căn bản đối với công tác đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng là: Sử dụng lực lượng quần chúng rộng rãi chống do thám, gián điệp, chỉ điểm ở vùng ta kiểm soát và sử dụng các đơn vị chuyên môn hoạt động bí mật trên đất địch. Một tháng sau, Nha Công an triệu tập Hội nghị Công an toàn quốc; Hội nghị cụ thể hoá chủ trương của Đảng thành nhiệm vụ trọng tâm của Công an: “Tiễu phí, trừ gian, tổ chức mạng lưới giao thông”1 (Hội ngị Công an toàn quốc lần thứ I, tháng 5-1947). Đối với công tác chống gián điệp, Hội nghị chỉ rõ: “Thẳng tay quét sạch bọn mật thám chỉ điểm, chống địch gây cơ sở vào nội bộ của tổ chức kháng chiến và cơ quan của Đảng, kiểm soát các khu căn cứ địa”. Tháng 9-1947, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Ta phải làm gì”. Chỉ thị nêu: “Phải sáng suốt nhận rõ kẻ gian, người ngay, kịp thời đối phó và đủ sức đánh quỵ bọn phản động chực đâm vào sau lưng ta, làm nội ứng cho địch trong lúc ta phải xông ra giết giặc”2 (Chỉ thị "Ta phải làm gì" - Văn kiện Đảng tập V, trường Nguyễn Ái Quốc, tr.76).
Sự chỉ đạo của Đảng và việc tổ chức lực lượng đấu tranh cho thấy: Ngay sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng và Chính phủ đã đặc biệt chú trọng chỉ đạo công tác đấu tranh chống gián điệp; lực lượng Công an kịp thời chuyển hướng hoạt động theo yêu cầu của thời chiến. Trận tuyến đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng đã được phân làm hai lĩnh vực rõ ràng là vùng ta kiểm soát và vùng địch tạm chiếm, ở mỗi lĩnh vực đã có biện pháp, cách thức tổ chức đấu tranh riêng: Vùng ta kiểm soát, tập trung vận động quần chúng phòng ngừa và trấn áp phản cách mạng để bảo vệ hậu phương kháng chiến, bảo vệ các cơ quan đầu não của cách mạng, đồng thời đáp ứng chủ trương “vừa kháng
chiến vừa kiến quốc". Vùng địch kiểm soát, thành lập các đơn vị trinh sát mang tính vũ trang, vừa thu thập tin tức vừa tổ chức diệt bọn ác ôn, bọn tay sai chỉ điểm, phá âm mưu địch. Vấn đề mang tính chủ đạo cho cả hai lĩnh vực được triển khai có hiệu quả là lực lượng An ninh đã dựa hẳn vào nhân dân, tranh thủ sự cộng tác của các cơ quan đơn vị để tổ chức triển khai nhiệm vụ.
Quán triệt chỉ đạo của Đảng, lực lượng Công an ở vùng tự do cũng như vùng địch kiểm soát triển khai các mặt công tác tương đối đều, riêng ở Bắc Bộ và Nam Bộ diễn ra khá sôi động. Sở Công an Nam Bộ cài người vào Sở Mật thám, Sở cảnh sát Nam Kỳ, tổ chức nắm âm mưu từ trung tâm đầu não của chúng, tập trung làm rõ những đầu mối gián điệp Pháp cài vào Bộ đội Bình Xuyên, khu căn cứ rừng Sác, bắt hàng chục điệp viên và bọn đã nhận làm tay sai cho chúng. Tại Quận VI Hà Nội, Đội Quân báo thiếu niên Bát sắt luồn sâu vào nội thành Hà Nội mở tuyến đường giao thông bí mật, vừa thu thập tin tức vừa móc nối cơ sở cách mạng và liên hệ với các thân sĩ trí thức còn kẹt lại để đóng góp cho kháng chiến. Trong thời điểm Hà Nội bị quân Pháp phong toả, hoạt động của Đội Quân báo thiếu niên Bát sắt có ý nghĩa rất quan trọng, đã góp phần giúp Uỷ ban kháng chiến tháo gỡ nhiều khó khăn trong chỉ huy chỉ đạo, tạo điều kiện cho chiến sĩ ta thâm nhập vào nội thành hoạt động. Công an Trung Bộ mở các quán hàng trong nội thành Huế để móc nối cơ sở và thu tin từ các nhân viên của Pháp. Đặc biệt là công tác đấu tranh chống gián điệp, bảo vệ vùng tự do và căn cứ địa được tiến hành ráo riết và đạt kết quả cao. Tại chiến khu Việt Bắc, ta đã bắt các điệp viên Pháp, đặc vụ Tưởng: Vương An Bách, Trần An Dương, Dương Mãn Thanh, Vinh Phát, ngăn chặn âm mưu thâm nhập vào các cơ quan quân sự của chúng. Bắt Trương Đình Long, Nguyễn Văn Chính là tay sai của Phòng Nhì thâm nhập vào vùng tự do thu tin tức về bộ đội chủ lực và hướng di chuyển của lực lượng vũ trang ta.
Ngay từ giữa năm 1947, quán triệt chủ trương của Đảng, Nha Công an chỉ đạo Công an các khu, tỉnh phát động phong trào quần chúng tham gia phòng chống phản cách mạng kết hợp với bảo vệ xóm làng, ở Bắc Bộ, phong trào có tên gọi là “Phòng gian bảo mật”.
Phong trào được cụ thể hoá bằng các khẩu hiệu “Ba không” (không nghe, không biết, không thấy), sở Công an Nam Bộ ra chỉ thị số 55/QĐ5 “Xây dựng khối đoàn kết nhân dân, nâng cao cảnh giác để phòng gian, trừ gian”, vận động thành lập các “Ngũ gia liên bảo”, “Thập gia liên bảo”. Những phong trào quần chúng vừa ra đời đã nhanh chóng phát triển rộng khắp, hình thức hoạt động khá phong phú và có nội dung đa dạng vì phong trào đáp ứng được nguyện vọng cũng như yêu cầu của quảng đại quần chúng nhân dân. Nhờ đó, tinh thần cảnh giác, ý thức tố cáo tội phạm, ý thức giữ gìn bí mật được nâng lên đáng kể.
2. Giai đoạn từ giữa năm 1947 đến thu đông năm 1950
Về cục diện chiến tranh, Pháp bị thất bại trong kế hoạch tấn công vào Thủ đô kháng chiến của ta, buộc chúng phải chuyển hướng chiến lược từ “Đánh nhanh thắng nhanh" sang “Đánh kéo dài'' với chính sách căn bản là “Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh". Chúng thay đổi hướng tấn công quân sự, từ sử dụng lực lượng lớn, ồ ạt tấn công vào căn cứ, hậu phương để tiêu diệt các cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực sang bình định, củng cố vùng tạm chiếm, thực hiện kiểu “Chiến tranh tổng lực", đánh phá cơ sở kinh tế, lực lượng hậu bị của ta.
Phục vụ cho chiến lược “Đánh kéo dài”, Pháp triệt để sử dụng các cơ quan gián điệp, mật thám; xúc tiến lập ngụy quyền, Công an ngụy quyền làm công cụ đàn áp và là cầu nối triển khai các hoạt động gián điệp. Mục tiêu trọng tâm là điều tra toàn diện về quân sự, kinh tế, chính trị... phục vụ cho chiến tranh phá hoại, chiến tranh tâm lý. Sở Mật thám Liên bang Đông Dương (S.D.E.C.E) nằm trong Phủ Cao uỷ Pháp trực tiếp chỉ đạo và tổ chức điều tra tình báo chiến lược về chính trị; truy tìm các hoạt động bí mật, phá phong trào cách mạng, sở Mật thám có hệ thống ở ba miền (Sở Mật thám Kỳ). Riêng ở Tây Nguyên, chúng thiết lập sở Mật thám miền sơn cước Nam Đông Dương. Phòng Nhì (2B) là cơ quan phản gián và tình báo của Bộ Tổng tham mưu quân đội Pháp, có tổ chức chân rết sâu rộng
trong khu tác chiến ở ba miền và thiết lập các cấp cơ sở đến phân khu quân sự, có thời kỳ đến từng đồn bốt. Chúng đặc trách tổ chức các hoạt động tình báo, chỉ điểm phục vụ âm mưu chiến lược quân sự cũng như cho từng trận càn quét. Ngoài ra 2B còn trực tiếp nắm bọn phản động, điều khiển bọn buôn lậu và những người có điều kiện thường ra vào giữa vùng ta và vùng địch, phục vụ cho việc thu lượm tin, chỉ điểm. Trong hệ thống quân sự còn có SEH (cơ quan Nghiên cứu lịch sử), SR, (quân báo), Bảo an quân đội, An ninh quân đội... Từ năm 1948, cơ quan gián điệp Pháp triển khai cấp tập các hoạt động gián điệp vừa phục vụ cho các mục tiêu chiến lược, vừa phục vụ cho các cuộc càn quét nhằm mở rộng vùng chiếm đóng, về căn bản hoạt động tình báo và phản gián ở giai đoạn này nặng về chính trị, có tính chiến lược.
Ở vùng địch kiểm soát, chúng tăng cường củng cố hệ thống ngụy quyền; lập ra các hội tề, biến bọn này thành mạng lưới chỉ điểm (gián điệp hoá), đồng thời là công cụ đàn áp cách mạng từ cơ sở. Dựa vào ngụy quyền, các cơ quan một thám, gián điệp tung tay chân nắm số cầm đầu phản động trong thiên Chúa giáo, trong các dân tộc ít người để thực hiện chính sách "Công giáo tự trị”, “Dân tộc tự trị” của âm mưu tổng quát “Dùng người Việt trị người Việt". Chúng sử dụng bọn này vừa làm công cụ đàn áp cách mạng, vừa làm chức năng “do thám hoá". Bằng thủ đoạn đó, cơ quan gián điệp Pháp đã biến những thế lực chống đối của cách mạng thành lực lượng phản động manh động và cực đoan ngay tại cấp cơ sở, làm hậu thuẫn cho chính quyền chiếm đóng, làm chân rết cho các cơ quan gián điệp.
Đối với vùng tự do và căn cứ địa cách mạng, cơ quan gián điệp Pháp tập trung phương tiện, tiền của, triển khai mọi hoạt động để thu tin, phục vụ cho giới quân sự tiến hành các cuộc càn quét, bình định, mở rộng vùng chiếm đóng. Ngoài việc huy động các tổ chức với số nhân viên sẵn có, chúng ráo riết tuyển mộ, mua chuộc, khống chế các hạng người có điều kiện thu thập tin tức để lập ra các ổ, dây do thám rải khắp các khu vực. Từ năm 1949, cơ quan gián điệp triển khai phương thức hoạt động mới: “Gián điệp đôi", “Gián điệp trá hàng”, “Gián điệp là con buôn lậu", “Gián điệp là trẻ em” tung vào
hậu phương ta, dọc tuyến đường cửa ngõ lên chiến khu Việt Bắc và thâm nhập vào các cơ quan kháng chiến. Đặc biệt, chúng tập trung đánh nội gián vào các cơ quan, đơn vị Quân đội, các đoàn thể kháng chiến, phá ta từ bên trong. Có thể nói, giai đoạn này gián điệp Pháp hoạt động đa dạng, chồng chéo và vô cùng nguy hiểm. Trên thực tế, chúng đã gây cho kháng chiến những tổn thất đáng kể; có nơi, có lúc cơ sở cách mạng bị phá rã; có đơn vị bị địch khống chế, gây mâu thuẫn nghiêm trọng hoặc nội gián của địch lấy cắp được những tài liệu mật của kháng chiến.
Song song với hoạt động của gián điệp Pháp, từ năm 1948, gián điệp Nhật do tên Saito cầm đầu cũng ráo riết hoạt động. Chúng núp dưới danh nghĩa “Tìm hàng binh Nhật", hoạt động mạnh ở khu vực Hải Phòng và Sài Gòn - Gia Định. Bọn Công an ngụy quyền, Công an công giáo, An ninh quân đội của ngụy quyền cùng ra sức tổ chức hoạt động do thám nhằm phục vụ cho yêu cầu bảo vệ vùng chiếm đóng của chúng hoặc phục vụ cho các cuộc càn quét, cướp phá. Có thể nói, giai đoạn này các cơ quan mật thám, gián điệp đã có những thay đổi căn bản về quy mô, tổ chức hoạt động theo xu hướng mở rộng và đa dạng. Trên thực tế Pháp đã tập trung phát triển hoạt động gián điệp thành cuộc chiến tranh gián điệp nhằm hỗ trợ và cứu nguy cho lực lượng quân sự đang lâm vào tình thế bị động.
Để đánh bại âm mưu phát triển chiến tranh của địch, ngày 15-1- 1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng, đề ra chủ trương mới về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá... tiếp tục đẩy cuộc chiến tranh nhân dân lên bước cao hơn. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Tháng 1-1948, Trung ương Đảng mở Hội nghị Trung ương lần thứ V và chủ trương: “Công tác ở vùng sau địch phải nhằm mục đích giữ vững và nâng cao trình độ, tinh thần quyết chiến của nhân dân, lập lại và kiên cố các tổ chức quần chúng của Đảng, làm rối ren và tan rã hàng ngũ địch, lập lại chính quyền ta"1 (Văn kiện Đảng tập VI, trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tr.54, 55). Tiếp theo, Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phá hội tề” nhằm phá chính quyền cơ sở của địch, biến chính quyền của địch thành chính quyền của ta
hoặc "đêm ta ngày địch". Chủ trương của Đảng là giải pháp thích hợp nhằm củng cố, xây dựng hậu phương, phát triển tiềm lực và nhân lực cho kháng chiến, tạo đà phá âm mưu “Dùng người Việt trị người Việt'' của Pháp ngay từ cấp cơ sở.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng, năm 1948, Nha Công an triệu tập hai Hội nghị Công an toàn quốc (Hội nghị lần II và làn III) đề ra nhiệm vụ công tác và đổi mới tổ chức Công an để đáp ứng yêu cầu đánh địch trước bước chuyển mới của cách mạng. Nghị quyết Hội nghị lần II nêu: “Nhiệm vụ của Công an là triệt phá chính quyền bù nhìn, gây uy tín cho chính quyền Việt Nam; trừ diệt do thám địch; phong toả tiếp tế địch; làm nhẹ nhàng bộ máy của ta và giữ bí mật cho nó"1 (Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ II, ngày 29-2-1948). Hội nghị quyết định tăng cường lãnh đạo cho cấp huyện, mở lớp đào tạo Quận trưởng Công an và Đội trưởng điều tra đề phòng khi cuộc chiến khốc liệt, mất liên lạc có thể độc lập ứng phó với những hoàn cảnh khó khăn nhất: "... đặt một hệ thống tổ chức thích hợp và thống nhất, đơn giản nhưng đủ người làm việc; đào tạo Quận trưởng giỏi, cảnh giới hoạt động giỏi”2 (Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ II, ngày 29-2-1948). Như vậy, ngay khi cuộc kháng chiến chuyển sang giai đoạn “giằng co”, khi cơ quan gián điệp Pháp tăng cường hoạt động thì lực lượng Công an trên toàn quốc đã kịp thời điều chỉnh về tổ chức theo hướng tăng cường lực lượng về cơ sở, nâng cao năng lực lãnh đạo cho cấp Quận; đào tạo nghiệp vụ điều tra cho số cán bộ nhân viên trực tiếp làm công tác điều tra, công tác đấu tranh chống gián điệp.
Về triển khai công tác nghiệp vụ, tháng 9-1948, Ty Chính trị đề xuất lên Trung ương các biện pháp phòng, chống gián điệp chui vào nội bộ cơ quan Đảng, chính quyền và tổ chức kháng chiến. Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 25/CT-TW “Về việc đề phòng gián điệp chui vào hàng ngũ Đảng và các cơ quan chính quyền". Chỉ thị quy định về chế độ tuyển dụng, quan hệ công tác, kiểm soát nội bộ... giao cho các tổ chức Đảng chịu trách nhiệm thực hiện với sự hướng dẫn của Công an. Ty Chính trị tiếp tục tham mưu cho Đảng về công tác phòng gian và trừ gian, tháng 1-1949, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ trung ương lần thứ VI, một trong những
Nghị quyết quan trọng được thông qua là Nghị quyết về “Công tác phòng gian và trừ gian". Nghị quyết xác định đây là công tác cấp thiết, các bộ phận Đảng, chính quyền, Quân đội, các đoàn thể đều phải chú ý làm. Ngoài việc tổ chức chặt chẽ trong cơ quan đơn vị cần phải giáo dục cho quần chúng hiểu nhiệm vụ, cách thức phòng gian và trừ gian. Nghị quyết chỉ rỏ những vấn đề cơ bản trong công tác điều tra để các cấp Công an quán triệt: Đào tạo nhân viên hỏi cung can phạm, lập danh sách Việt gian trong toàn quốc; phân chia tội nặng, nhẹ để theo dõi; sưu tầm kinh nghiệm về chống gián điệp của ta và các nước để nghiên cứu và phổ biến trong Công an và Tình báo; huấn luyện trong Công an và trật tự biết cách hỏi giấy"1 (Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần VI, tháng 1-1949). Chỉ trong thời gian ngắn lực lượng An ninh đã tham mưu giúp Đảng định hướng và cụ thể hoá những vấn đề cơ bản về đấu tranh chống phản cách mạng, trọng tâm là chống gián điệp và bọn tay chân của chúng. Định hướng của Đảng xác định có tính nguyên tắc về: Tổ chức lực lượng đấu tranh và phạm vi tiến hành đấu tranh, về tổ chức lực lượng đấu tranh, Nghị quyết chỉ rõ: Các cấp bộ Đảng lãnh đạo và tổ chức lực lượng, Công an là nòng cốt, các tổ chức kháng chiến và nhân dân tham gia theo chức năng của mình, về phạm vi tiến hành đấu tranh: Công tác bảo vệ tập trung vào nội bộ các cơ quan, các mục tiêu quan trọng và địa bàn trọng điểm. Lấy cơ sở làm lực lượng cơ bản. Vừa đánh địch vừa đúc rút kinh nghiệm, kết hợp với kinh nghiệm của các nước để xây dựng hệ thống lý luận của Việt Nam. Cho đến nay, những định hướng của Đảng trong giai đoạn này vẫn nguyên giá trị và là căn cứ để phát triển thành đường lối đấu tranh chống phản cách mạng được ban hành tại Nghị quyết số 39 năm 1962.
Căn cứ Chỉ thị của Trung ương Đảng, Nha Công an xác định phương hướng công tác và những vấn đề trọng tâm của năm 1949 tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ IV: "Xây dựng bộ máy giản đơn, khoa học, đúc rút kinh nghiệm công tác điều tra, chuẩn bị tổ chức Hội nghị điều tra toàn quốc, in thành sách để phổ biến cho nhân viên điều tra". Hội nghị xác định công tác trọng tâm trong năm 1949: “Phải giữ cho hậu phương được bí mật và diệt trừ do thám
địch, chấn chỉnh và tăng cường phong trào “Bảo mật phòng gian", “Ngũ gia liên bảo"".
Do chủ động xây dựng phương hướng công tác có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng kết hợp giữa lực lượng chuyên môn với phát huy vai trò của quần chúng nên công tác phòng chống gián điệp ở giai đoạn này có bước chuyển rõ rệt. Tại các địa bàn dân cư, phong trào quần chúng phát triển khá đồng đều, có sự kết hợp chặt chẽ giữa tổ chức sản xuất với bảo vệ xóm làng, phát hiện do thám, chỉ điểm. Nhiều thôn, xã ở vùng tự do đã thành lập các trạm gác cố định để kiểm soát giấy tờ đối với người lạ mặt. Một số xã còn thành lập đội tuần tra, kiểm soát tình hình suốt ngày đêm. Hình thức kiểm soát công khai như vậy không chỉ nâng cao tinh thần trách nhiệm của cộng đồng mà còn ngăn chặn đáng kể hoạt động của bọn gián điệp, chỉ điểm. Công an khu XII là địa bàn của các cơ quan đầu não kháng chiến, đã làm giấy ra vào phát cho cán bộ kháng chiến và nhân dân để quản lý việc đi lại trên địa bàn. Nhờ có biện pháp kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ nên bọn do thám, chỉ điểm không có cơ hội thâm nhập, tiếp cận vào chiến khu.
Tại vùng địch kiểm soát, vùng tranh chấp, đồng bào tổ chức rào làng, xây dựng làng chiến đấu; lấy nội dung phong trào “Phòng gian bảo mật", "Ngủ gia liên bảo" làm nội dung hoạt động của làng chiến đấu. Từ khẩu hiệu “Ba không" (không nghe, không thấy, không biết) được phát triển thành “không bán lương thực cho giặc, không cộng tác với giặc, không đi lính cho giặc", đã trở thành thói quen trong cuộc sống của người dân vùng địch. Đây là mặt công tác căn bản, được triển khai đồng bộ và được các cơ quan kháng chiến cùng các tầng lớp nhân dân ủng hộ tích cực.
Để tổ chức phong trào, hướng dẫn cho quần chúng, Nha Công an chủ trương tăng cường lực lượng cốt cán cho Công an cấp tỉnh, huyện, đồng thời củng cố Công an xã, củng cố lực lượng bảo vệ cơ quan. Hệ thống Công an làng, xã; bộ phận bảo vệ cơ quan, đơn vị là lực lượng tại chỗ vừa giữ vai trò hướng dẫn quần chúng vừa giữ vai trò trực tiếp thực hiện nhiệm vụ ở cấp cơ sở. Hình thái hoạt động và biện pháp tổ chức hoạt động của phong trào quần chúng lúc này tuy còn đơn giản nhưng đã bước đầu hình thành trận tuyến đấu tranh
chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng mang tính toàn dân. Đây là cơ sở căn bản và bền vững hỗ trợ cho lực lượng An ninh trong công tác phòng và chống gián điệp.
Nhờ có quần chúng giúp đỡ nên lực lượng Trinh sát chính trị triển khai có hiệu quả công tác điều tra, khám phá các đường dây do thám cũng như tổ chức thành công một số kế hoạch đưa cơ sở vào hoạt động trong hàng ngũ địch: Bắt Vương An Bách, Trần An Dương, Dương Mãn Thành, Vĩnh Phát là gián điệp Pháp, Tưởng hoạt động ở địa bàn Tuyên Quang. Truy bắt bọn gián điệp do Trương Đình Long, Nguyễn Văn Chính chỉ huy, hoạt động trong khu vực đóng quân của bộ đội chủ lực. Lực lượng Bảo vệ chính trị phối hợp với Bảo vệ quân đội bắt quả tang điệp viên Hoàng Xuân Bích đang trao tài liệu cho nhân viên Phòng Nhì; bắt Đoàn Văn Nghiệp, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 889 và Nguyễn Đình Điền là đặc phái viên của Trung tướng Nguyễn Bình lấy cắp tài liệu chuyển cho Phòng Nhì; Triển khai thắng lợi kế hoạch ngăn chặn nhân viên Phòng Nhì lôi kéo Trung đoàn phó Trung đoàn 42 vào mạng lưới gián điệp. Công an Ninh Thuận khám phá mạng lưới nội gián trong Ban quản trị Tiểu đoàn 89 thuộc Liện trung đoàn 81-82 do Nguyễn Cao Phan cầm đầu. Bắt Nguyễn Cao Phan cùng các tên Trần Nghiễm, Ngọc, Mạn và Long, đều đã tạo được vỏ bọc an toàn trong các cơ quan quân sự của tỉnh. Công an Mỹ Tho khám phá tổ chức gián điệp "Khu quốc gia" do Phòng Nhì điều khiển, bắt và truy tố 6 tên, trong đó có 4 tên là nhân viên Phòng Nhì...
Song song với công tác điều tra khám phá án, lực lượng Bảo vệ chính trị đã triển khai thành công một số kế hoạch đưa cơ sở vào hoạt động trong nội bộ địch nhằm nắm âm mưu địch ngay từ Trung tâm chỉ huy của chúng. Ban phản gián Thừa Thiên xây dựng nhiều cơ sở hoạt động trong bộ máy chính quyền ngụy, trong đó có anh Tráng Thông, là Trưởng Ty Công an ngụy. Với cương vị này, anh Tráng Thông thu được nhiều tin quan trọng về âm mưu, mạng lưới gián điệp của ngụy trên địa bàn Thừa Thiên. Tháng 6-1949, Ban phản gián Thừa Thiên phát hiện Đào Thị Bái là con buôn lậu, hoạt động gián điệp do viên sĩ quan mật thám Serra điều khiển. Ban phản gián mạnh dạn giáo dục chồng thị Bái là đồng chí Nguyễn Văn Lợi,
cán bộ của Ban, thực hiện kế hoạch trá hàng, thâm nhập vào hàng ngũ địch. Từ đồng chí Lợi, Ban phản gián điều tiếp đồng chí Nguyễn Đình Hoà vào mạng lưới. Thông qua đầu mối thị Bái, hai cán bộ của Ban đã thâm nhập vào hàng ngũ địch, móc nối được với một số nhân viên mật thám Liên bang và thu được nhiều tin quan trọng.
Ở vùng địch kiểm soát, Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ phá chính quyền cơ sở của địch, lập chính quyền của ta là nhiệm vụ chính yếu, giữ vị trí cực kỳ quan trọng nhằm phá chính sách “chia để trị'', “dùng người Việt trị người Việt" của kẻ thù. Trung ương Đảng chỉ đạo các cấp bộ Đảng, các cơ quan kháng chiến phải vận động quần chúng, mở chiến dịch phá tề, trừ gian với chủ trương: “Phải rất khôn khéo và mềm mỏng, phải tùy theo hoàn cảnh, tùy theo tình thế mà định cách đối phó với hội tề cho đúng"1 (Chỉ thị "Phá hội tề" của Thường vụ Trung ương Đảng, ngày 19-1-1948). Với vai trò là lực lượng nòng cốt, cơ quan Công an tham mưu cho Đảng xét, phân số tề, ngụy thành hai loại A và B để hướng dẫn lực lượng cách mạng có đối sách đúng với từng loại khi tổ chức phá tề. Loại A là bọn tay sai gian ác, phải diệt; loại B là loại ít nguy hiểm, có thể sử dụng, phải thực hiện chính sách giáo dục cải tạo để sử dụng lâu dài. Cùng với việc tham mưu cho Đảng, lực lượng Bảo vệ chính trị xác định rõ: Phá tề là phá cơ sở xã hội của địch, là đánh thẳng vào bọn mật thám chỉ điểm trà trộn ở cấp cơ sở nên tập trung lực lượng trinh sát để tổ chức và hướng dẫn quần chúng. Cuối năm 1948, phong trào tổng phá tề phát triển rầm rộ, đặc biệt là ở Bắc Bộ. Các tỉnh Hải Kiến, Bắc Ninh và xung quanh Hà Nội, 90% hội tề bị giải tán ngay trong tuần lễ đầu tiên của chiến dịch tổng phá tề. Hàng ngàn tên tay sai gian ác, bọn mật thám chỉ điểm nhiều tội ác đã bị trừng trị. Chính quyền cơ sở của địch bị phá rã từng mảng, hình thái chính quyền “đêm ta ngày địch” khá phổ biến. Thực chất đây là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân vùng địch kiểm soát, chống lại chính sách “dùng người Việt trị người Việt” của Pháp. Kết quả của chiến dịch phá tề còn góp phần quan trọng phá tan âm mưu “do thám hóa" của các cơ quan gián điệp Pháp.
Từ tháng 5-1949, tướng Rơ-ve triển khai kế hoạch quân sự mới, xác định Bắc Bộ là chiến trường chính, tập trung lực lượng cho
chiến trường Bắc Bộ hòng thực hiện kế hoạch mở rộng vùng chiếm đóng, phát triển ngụy quyền và tăng cường bình định. Theo đó, tháng 10-1949, tướng Sác-sông, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở miền Nam triển khai kế hoạch rút quân để tăng cường cho Bắc Bộ, chỉ để lại chiến trường miền Nam 28 tiểu đoàn chính quy. Rút lực lượng quân sự nhưng chúng lại tăng cường lực lượng công an, an ninh, mật thám, để phát triển bình định và giữ đất. Sở Mật thám Liên bang (Sở An ninh Cao uỷ Đông Dương) tăng quân số lên gấp đôi. Cơ quan “Tình báo cục” do Trần Văn Hữu cầm đầu được bổ sung quân số, mở rộng quyền hạn và thiết lập hệ thống chân rết đến tận đồn bốt. Các tổ chức “Mật thám không quân", “Commanđo", Phòng Nhì được tăng cường lực lượng và trang thiết bị để đủ sức mở rộng hoạt động khắp chiến trường miền Nam. Chúng xúc tiến mạnh kế hoạch mua chuộc lực lượng Bình Xuyên của Lê Văn Viễn, bọn phản động trong đạo Cao Đài, Hòa Hảo... coi những lực lượng này là cơ sở xã hội làm hậu thuẫn cho chính sách bình định. Diễn biến tình hình trên cho thấy: Từ cuối năm 1949, tại chiến trường Nam Bộ, tuy hoạt động quân sự của Pháp giảm nhưng chúng lại tăng cường hoạt động gián điệp, thông qua hoạt động gián điệp để nắm ngụy quyền và các lực lượng nội phản khác.
Ở Trung Bộ, đặc biệt là các tỉnh Bắc Trung Bộ như Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, là hậu phương của ta, nguồn cung cấp nhân tài vật lực cho kháng chiến; Bộ chỉ huy chiếm đóng sử dụng lực lượng Commanđo, CI (Biệt kích liên quân khu), tiến hành các cuộc càn quét chớp nhoáng có máy bay và cơ giới yểm trợ. Phòng Nhì sử dụng đảo Hòn Mê làm căn cứ huấn luyện gián điệp, tung vào đất liền, hoạt động dọc theo đường số I để thu tin tình báo và móc nối với bọn phản động lợi dụng tôn giáo âm mưu thành lập mặt trận chống Cộng sản. Chúng còn sử dụng bọn gián điệp từ Lào, vượt biên thâm nhập vào các vùng núi, nắm các thổ ty, lang đạo nhằm xây dựng những khu tự trị, gây chia rẽ dân tộc, phá kinh tế, làm suy yếu hậu phương của ta.
Ở miền Bắc - chiến trường chính, ngoài việc tăng cường binh lực, phương tiện chiến tranh, Pháp tập trung mọi nỗ lực, triển khai ồ ạt các phương thức hoạt động gián điệp. Các cơ quan tình báo quân
sự, mật thám liên bang, công an ngụy được tăng cường đáng kể cùng với mạng lưới mật vụ và bọn Việt gian chỉ điểm, bám theo các đơn vị vũ trang hoặc cắm chổi theo khu vực ở vùng tạm chiếm. Chúng lập ra các “Tiên y", hoá trang và trang bị gọn nhẹ theo dõi các đơn vị chủ lực của ta, dọc tuyến hành quân của các sư đoàn hoặc đột nhập vào các cơ quan kháng chiến, bắt cóc cán bộ khai thác hoặc phá hoại. SEH đặt thêm các trụ sở ở Đáp Cầu, Thái Bình, Hưng Yên, Hà Nam... Phòng Nhì thành lập thêm hệ thống đầu mối tại các miền, các khu vực trọng điểm ở hầu khắp các tỉnh Bắc Bộ (2B ZOT). Đặc biệt, cơ quan gián điệp Pháp chú trọng phát triển lực lượng, trang bị phương tiện cho mạng lưới điệp viên rải trên địa bàn 4 cửa ngõ lên chiến khu Việt Bác và dọc theo tuyến sông Đà để điều tra tin tức về ý đồ mở chiến dịch, hướng chuyển dịch các đơn vị chủ lực của ta. Chúng tăng cường đánh người vào nội bộ cơ quan kháng chiến, âm mưu móc nối với số cán bộ thoái hoá để đánh trở lại; hoặc dùng vật chất, quan hệ thân tộc dụ dỗ, cưỡng ép; hoặc sử dụng hàng hóa, biến bọn buôn lậu thành “gián điệp con buôn lậu".
Đối với Mỹ, từ cuối năm 1949, cơ quan tình báo Mỹ tăng cường viện trợ, can thiệp sâu vào lĩnh vực tình báo của Pháp và cùng phối hợp hoạt động. Dưới danh nghĩa “Phái đoàn viện trợ", CIA phái Conein cùng nhiều sĩ quan tình báo chuyên trách về tình hình Đông Dương đến Việt Nam, mở rộng bộ máy “tác động tinh thần" với mục đích vừa giúp Pháp, vừa thâu tóm địa bàn, chuẩn bị đến một lúc nào đó sẽ thế chân Pháp.
Như vậy, từ nửa cuối giai đoạn thứ hai của cuộc kháng chiến, Pháp đã nâng tầm hoạt động gián điệp thành cuộc chiến tranh gián điệp với quy mô mới: tăng cường lực lượng trên toàn chiến trường; phát triển thêm nhiều phương thức hoạt động với hướng thâm nhập chủ yếu là hướng vào nội bộ kháng chiến và nắm cho được kế hoạch tác chiến, tiềm lực quân sự của ta. Cùng với Pháp và bọn tay sai của chúng, cơ quan tình báo Mỹ, gián điệp Nhật cũng ráo riết hoạt động. Song đối tượng đấu tranh chính của ta vẫn là gián điệp Pháp. Âm mưu của chúng căn bản không thay đổi, nhưng về phương thức hoạt động, quy mô cuộc chiến tranh, mức độ huy động lực lượng tham gia đã phát triển ở trình độ cao. Việc bố trí lực
lượng, đã chuyển từ bố trí theo bề mặt (en surface) sang bố trí theo kiểu dây chuyền (en chaine) và kiểu mạng nhện (en toile d’ araignée). Với kiểu bố trí lực lượng mới, gián điệp không chỉ phát triển mạng lưới điệp viên rộng rãi ở cả ba vùng chiến lược mà còn có chiều sâu, nhằm vào các mục tiêu quan trọng là các cơ quan Đảng, chính quyền, đơn vị vũ trang của ta.
Đối phó với âm mưu địch, Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, hướng dẫn các cơ quan kháng chiến và lực lượng vũ trang tiến hành công tác phòng ngừa, đối phó với hoạt động của do thám, gián điệp để bảo vệ nội bộ, bảo vệ hậu phương trong bối cảnh cuộc kháng chiến đang có bước chuyển mới. Trung ương Đảng xác định: "Pháp đã nâng hoạt động gián điệp thành chính sách gián điệp"1 (Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương mở rộng lần thứ III, tháng 1-1950) và xác định chủ trương đấu tranh tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương toàn quốc lần thứ III: “Tích cực phòng gian, trừ gian, chống chính sách gián điệp của địch, xây dựng đội quân ngầm, xây dựng căn cứ địa kháng chiến". Nhằm tăng cường sức chiến đấu đối với lực lượng nòng cốt trên mặt trận chống phản cách mạng, chống gián điệp, Trung ương Đảng chỉ rõ: “Công an là công cụ đấu tranh chống các lực lượng phản cách mạng trong nước và nước ngoài, bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Các cấp ủy Đảng từ Trung ương đến địa phương phải chuyển biến về nhận thức, quan tâm đến công tác Công an, tăng cường cán bộ trong ngành Công an"2 (Chỉ thị số 10/CT-TW ngày 5-5-1950).
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ IV đã tập trung phân tích tình hình địch, ta và xác định những nội dung công tác chủ yếu. Hội nghị ra Nghị quyết, nêu rõ: “Địch càng yếu thì chúng càng tăng cường chiến tranh gián điệp, tập trung chính là chiến trường Bắc Bộ; công tác lớn lúc này là phản gián và điệp báo... Phải giữ cho hậu phương được bí mật và diệt trừ do thám... Phải phát triển công tác phản gián và điệp báo trên các đường tiến công hoặc rút lui của địch”1 (Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ IV, tháng 2-1949). Sau Hội nghị Công an toàn quốc, Nha Công an mở Hội nghị điều tra lần thứ nhất. Hội nghị tập trung thảo luận hai vấn đề then chốt là: Tổ chức bộ máy làm việc và
kinh nghiệm điều tra, nghiên cứu tình hình. Lần đầu tiên, những kinh nghiệm chống gián điệp được các địa phương đúc rút và báo cáo tại hội nghị để làm tài liệu cho các địa phương khác áp dụng. Tài liệu tổng kết Hội nghị điều tra, trong đó có những bài học kinh nghiệm quý được in thành hai cuốn sách để các địa phương nghiên cứu. Nha còn cử cán bộ về Liên khu III và Liên khu IV mở Hội nghị điều tra, phổ biến kinh nghiệm cho đội ngũ trinh sát bảo vệ tại hai địa phương này. Tháng 11-1949, Tổng Giám đốc Nha Công an Trung ương ra Chỉ thị số 1605/CT-P6 về việc “Sưu lầm và khai thác các tài liệu của cơ quan do thám địch". Đây là văn bản có tính lý luận, đúc kết từ thực tiễn đấu tranh, trong đó xác định đầy đủ mối liên quan mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau giữa công tác điệp báo và công tác phản gián: “Việc lấy tài liệu địch với việc nghiên cứu các tài liệu đó một cách cẩn thận, sát thực làm cho ta hiểu rõ địch và giúp ta thực hiện cả hai công việc điệp báo và phản gián có hiệu quả”2 (Chỉ thị số 25/CT-P6, ngay 9-11-1949). Hơn một tháng sau, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ V được triệu tập; các đại biểu đi sâu thảo luận “Đề án công tác phản gián”. Hội nghị thống nhất một số vấn đề cốt yếu về nhận thức: “Vì đang đi tới thế bị động về quân sự, Pháp sợ bị đánh bất ngờ nên phải tìm cách tăng cường gián điệp... Pháp đã đặt gián điệp thành chính sách rõ rệt, vì thế công tác phản gián là công tác quan trọng bậc nhất của ngành Công an hiện nay... Phải tiêu diệt bọn gián điệp Pháp, Mỹ, Tàu trắng ngay trong lòng địch và ở nơi mà sau này chúng sẽ hoạt động nhiều... Pháp sẽ dùng bọn Công giáo, Cao Đài, Thố Ty phản động làm cơ sở gián điệp. Ta phải hướng vào đó, phối hợp với các đoàn thể giác ngộ họ sao cho địch không còn chỗ dự trữ mà tuyển dụng gián điệp...1 (Nghị quyết Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ IV tháng 2-1949). Có thể nói đây là bước phát triển về lý luận nhận thức và nghiệp vụ có ý nghĩa quan trọng đối với Công an nói chung, lực lượng chống gián điệp nói riêng. Từ thực tiễn đấu tranh, giai đoạn này đã xác định một số nội dung có tính quy luật như sau: Khi thế và lực của địch bị suy giảm thì chúng càng tăng cường hoạt động gián điệp; lấy hoạt động gián điệp để hỗ trợ cho hoạt động vũ trang, giành lại thế đã mất. Đã xác định bọn gián điệp phải dựa vào bọn phản động mới phát triển được mạng lưới và triển khai các điệp vụ. Muốn đấu tranh chống gián điệp thắng lợi
phải điều tra, khám phá âm mưu, dự báo hướng hoạt động của đối phương và chủ động đánh địch ngay từ nơi xuất phát cũng như chặn đường rút lui của chúng. Đặc biệt là đã xác định rõ: Muốn chủ động chống gián điệp phải tiến hành chống phản động, phải xoá bỏ cơ sở xã hội chúng có thể lợi dụng. Muốn xoá bỏ cơ sở xã hội kẻ địch có thể lợi dụng phải lấy giáo dục, thuyết phục làm chính với sự giúp đỡ của các cơ quan đoàn thể. Đây là những vấn đề then chốt, đánh dấu sự phát triển về đường lối, tổ chức lực lượng, phương pháp đấu tranh, mối quan hệ phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong đấu tranh chống phản cách mạng.
Do có bước chuyển đổi căn bản về nhận thức nên thời kỳ này Nha Công an tập trung chỉ đạo các địa phương khẩn trương tăng cường chất lượng đội ngũ chuyên môn, củng cố mối quan hệ đối với các cơ quan đơn vị, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng ở cả 3 vùng chiến lược. Những mặt công tác được triển khai có hiệu quả trong giai đoạn này là: Mở các lớp đào tạo cán bộ điều tra, cán bộ hỏi cung từ Trung ương đến các khu, tỉnh; mở rộng diện cử cán bộ nhân viên học nghiệp vụ và mở thêm các lớp Công an trung cấp; bố trí cán bộ theo hướng chuyên môn hoá, giám bớt bộ máy hành chính để tăng cường cho khu vực vành đai, địa bàn trọng điểm; thành lập "Đội trinh sát vũ trang"; củng cố các Ban phản gián ở địa phương; phổ biến kinh nghiệm của Hội nghị điều tra để nâng cao kỹ thuật nắm, đánh địch và vận động quần chúng.
Nhờ có bước chuyển biến căn bản về nhận thức cũng như tổ chức lực lượng đấu tranh nên hiệu quả chiến đấu của lực lượng Bảo vệ chính trị trên Toàn quốc khá đồng đều và đạt kết quả cao: tại Hà Nội, Ban phản gián xây dựng được nhiều cơ sở thâm nhập vào tổ chức Phòng Nhì và sở Mật thám Liên bang thuộc các tiểu khu Liễu Giai, Bạch Mai, Gia Lâm, trường cảnh binh Sinh Từ; xây dựng cơ sở là ngoại kiều tiếp cận bọn đặc vụ và gián điệp Anh. Cơ sở hoạt động tích cực và thu được nhiều tài liệu quan trọng về âm mưu, kế hoạch càn quét, bình định của Pháp; nắm được âm mưu của gián điệp Mỹ đang ráo riết tạo địa bàn thế chân Pháp. Các tỉnh Nam Định, Ninh Bình, Lạng Sơn, Hải Phòng đều xây dựng được cơ sở tin cậy trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền; một số cơ sở là nhân
viên trong cơ quan thiết yếu của địch: Cơ sở Năng Quang Phú làm việc trong phòng hồ sơ của công an ngụy tại Nam Định, từ đó phát hiện tên Bắc là điệp viên của Phòng Nhì đã chui vào cơ quan kháng chiến và một số phần tử Đại Việt cộng tác với mật thám. Công an Hà Nội xây dựng cơ sở, tiếp cận Sác-lơ, thu được kế hoạch bọn Pháp đánh chiếm Việt Bắc và sử dụng bọn phản động người Hoa phá hậu phương ta. Tại Trung Bộ, Công an Thừa Thiên Huế xây dựng được nhiều cơ sở trong nội thành Huế, từ đó bắt 40 tên gián điệp, chỉ điểm thâm nhập ra vùng ta kiểm soát. Tại Nam Bộ ta đưa anh Nguyễn Văn Đáng vào làm việc tại Cao uỷ Pháp, đưa anh Nguyễn Văn Các vào làm tại Bộ tham mưu quân đội Cao Đài, anh Nguyễn Văn Nhung làm thư ký cho Nguyễn Tôn Hoàn cầm đầu bọn Đại Việt... Qua đó biết được nhiều tin tức về hoạt động của địch và phát hiện một số đầu mối gián điệp đánh ra vùng tự do. Cơ sở còn thu được tài liệu của Phòng Nhì và PES chỉ đạo các đảng phái phản động và bọn lợi dụng đạo Cao Đài, đạo Hoà Hảo chống phá cách mạng.
Song song với việc đưa cơ sở vào hàng ngũ địch để thu tin, lực lượng Bảo vệ chính trị đã khám phá hàng loạt vụ án quan trọng: Tại Ninh Thuận, khám phá vụ án gián điệp do Nguyễn Cao Phan cầm đầu hoạt động trong Ban quản trị tiểu đoàn 89. Công an Mỹ Tho phá tan âm mưu thành lập “Khu quốc gia'' ở huyện Châu Thành, bắt 7 nhân viên Phòng Nhì hoạt động tại địa bàn này. Công an Thừa Thiên Huê khám phá vụ án gián điệp do Lê Mậu Thành là giáo viên trường Khải Định cầm đầu, kịp thời phá tan kế hoạch thành lập “Lực lượng kháng chiến quốc gia" do Phòng Nhì chỉ đạo. Tại Hà Nội, Ban phản gián bắt hàng chục tên gián điệp, chỉ điểm thâm nhập vào khu căn cứ ở vùng Canh, Diễn; phá một ổ do thám bám theo sự di chuyển của cơ quan kháng chiến; bóc gỡ đầu mối nội gián đánh vào Ban phản gián của Công an Hà Nội. Công an Nghệ An bắt hàng chục tên chỉ điểm xâm nhập vào khu vực xưởng quân khí. Công an Thái Bình phá hai nhóm gián điệp hoạt động ở Quỳnh Côi và Kiến Xương...
Kết quả đấu tranh chuyên án giai đoạn này cùng với việc xây dựng cơ sở thâm nhập vào hàng ngũ địch thu tin tình báo không chỉ
giúp cho Bộ chỉ huy kháng chiến mà còn khẳng định bước đầu ta đã đánh bại âm mưu và hoạt động của gián điệp Pháp để đi đến đập tan “Chính sách gián điệp” của chúng. Qua đó, góp phần đẩy giới quân sự lâm vào tình trạng thiếu tin tức tình báo để tiến hành các cuộc càn quét và bình định. Chúng cũng không nắm được ý đồ mở các chiến dịch của ta, không nắm được sự di chuyển của các đơn vị chủ lực, đẩy Pháp càng lâm vào tình thế bị động, ứng phó và càng nhanh đến bờ vực phá sản chiến lược “chiến tranh tổng lực”.
Từ năm 1950, nhất là sau thất bại trong chiến dịch Biên giới, Quân đội Pháp bị đẩy vào tình thế lúng túng và bị động cao độ. Giới quân sự đổ lỗi cho các cơ quan tình báo, gián điệp hoạt động không có kết quả, cơ quan tình báo chiến lược và Phòng Nhì hoàn toàn mất lòng tin đối với Bộ chỉ huy chiếm đóng. Tình hình đó làm cho bọn phản động mất chỗ dựa về tinh thần, thiếu tài trợ dẫn đến suy giảm khả năng khống chế địa bàn và đàn áp cơ sở cách mạng. Các hội tề, bọn đầu sở trong các tổ chức phản động giảm hẳn sự hung hăng, nhiều địa phương, hội tề tan rã từng mảng hoặc trở thành những hội tề hai mang. Hậu phương địch từng bước lâm vào tình trạng mất an toàn.
3. Giai đoạn từ cuối năm 1950 đến cuối năm 1954
Chiến thắng Biên giới năm 1950 mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Một vùng đất đai rộng lớn được giải phóng, hành lang từ Móng Cái đến Cao Bằng được mở cửa, tạo điều kiện để cách mạng Việt Nam trực tiếp nhận chi viện về người và của từ Liên Xô, Trung Quốc... Đây là điều kiện quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình phát triển toàn diện của lực lượng kháng chiến, tạo ra bước nhảy vọt về tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Thất bại trong chiến dịch Biên giới, Pháp lâm vào tình thế bị động, lúng túng, tinh thần đội quân viễn chinh sa sút, chính quyền tay sai và bọn phản động hoang mang, dao động. Để kéo dài chiến tranh, Pháp tăng cường xin viện trợ của Mỹ và cử Đại tướng Đờ Lát đờ
Tát xi nhi (De Lattre de Tassigni) làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương. Sang Việt Nam, y triển khai kế hoạch “Đờ-lát”: Gấp rút xây dựng lực lượng cơ động mạnh, phát triển ngụy quân, lập tuyến phòng thủ bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ, tiến hành chiến tranh tổng lực hòng bình định cho được vùng tạm chiếm để giành lại thế chủ động đã mất. Với kế hoạch đó, quân Pháp xúc tiến xây dựng ở chiến trường Bắc Bộ phòng tuyến boongke gồm 113 vị trí; dồn dân, lập vành đai trắng; tăng số quân ở Đông Dương lên gần 100.000 tên so với năm 1950. Trên khắp chiến trường từ miền Nam đến miền Bắc, Pháp ráo riết mở các cuộc càn quét lớn và vừa, ngắn ngày và dài ngày nhằm tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta, phá hậu phương, cướp phá kinh tế, dồn dân đẩy mạnh bình định.
Để hỗ trợ cho lực lượng quân sự, Pháp đầu tư tối đa về người và tiền của cho chính sách gián điệp. Kinh phí chi cho hoạt động gián điệp tăng gấp 3 lần trước đó; riêng ở Nam Bộ, chiếm 1/3 kinh phí chiến tranh trong năm 1951. Về nhân viên gián điệp, Pháp huy động mọi nguồn để bổ sung cho lực lượng trực tiếp chiến đấu như giảm biên chế hành chính, điều nhân viên ra chiến trường; rải điệp viên trên các đường tiến quân hoặc rút lui; cắm điệp viên vào từng đại đội, từng cứ điểm chiếm đóng. Nhân viên hoạt động tại các cơ quan gián điệp năm 1951 do đó tăng vọt: Sài Gòn - Chợ Lớn gồm 8.000 tên, Thừa Thiên gồm 1.200 tên; Hà Nội gồm 1.600 tên... Ngoài số nhân viên hiện có, chúng ra lệnh gọi bọn mật thám cũ thông thạo địa bàn trở lại làm việc như Georgin, Lannèque, Boubal... Huy động lực lượng Commanđo, biệt kích thuộc địa nhảy dù (DBCCP), biệt kích liên quân khu (CI) mở các cuộc càn quét chớp nhoáng thọc sâu vào hậu phương ta, kể cả vùng Thanh - Nghệ Tĩnh, đốt phá, cướp bóc, phá huỷ tiềm lực dự trữ, bắt cóc cán bộ, khai thác tin tức, cài cắm gián điệp ở lại hoạt động lâu dài. Để tăng cường hiệu quả cho chính sách gián điệp, tháng 5 - 1951, Pháp thành lập lực lượng “Biệt kích hỗn hợp nhảy dù" (GCMA) hoạt động trên địa bàn cả nước, nhưng tập trung chính ở chiến trường Bắc Bộ. GCMA kỳ Bắc Bộ có hệ thống GCMA miền tại 12 địa bàn trọng điểm như Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hòn Mê... với nhiệm vụ thâm nhập sâu vào hậu
phương của ta theo hai phương thức: Từng tiểu đội, trang bị gọn nhẹ, đi bộ, có xích hầu dẫn đường, hoạt động từ 1 tuần đến 10 ngày để thu thập tin tức, chỉ điểm cho máy bay bắn phá; thả dù từng đại đội xuống vùng rừng núi thành lập những ổ nhóm do thám và móc nối với bọn phỉ làm rối loạn hậu phương ta.
Song song với phát triển các hệ loại, số lượng gián điệp, Pháp tổ chức thêm các cơ quan do thám của ngụy quyền, sử dụng các tổ chức ngụy quyền, ngụy đảng, hội đoàn làm tai mắt cho chúng. Cơ quan gián điệp lùng bắt, mua chuộc thân nhân, vợ con binh lính, kể cả cán bộ của ta để đánh ra vùng tự do dò xét và tung tin tâm lý. Thời kỳ này cơ quan 2B, SF chú trọng sử dụng phương thức "trá hàng", “nội gián”, “buôn lậu", "gián điệp đôi"... hoặc thành lập những “mặt trận ma" để chui vào hàng ngũ Đảng, các cơ quan kháng chiến cũng như thâm nhập sâu vào vùng tự do. Tình hình trên cho thấy quân đội chiếm đóng của Pháp đặc biệt khao khát tin tức về quân sự, nghiêng hẳn về do thám phục vụ ý đồ quân sự, giảm các hoạt động do thám về chính trị có tính chiến lược.
Do điều chỉnh về âm mưu, tăng cường kinh phí, tăng cường các lực lượng nên hoạt động của gián điệp Pháp ở giai đoạn này gây cho ta nhiều khó khăn. Các cơ quan 2B (Phòng Nhì), SF (Sở An ninh), SR (Quân báo) thống nhất với nhau về lề lối làm việc và phối hợp chặt chẽ trong hành động. Vì vậy chúng đạt được một số kết quả trong việc sử dụng “gián điệp đôi", "gián điệp trá hàng" "nội gián". Chúng dựng lên một số đảng phái chính trị ma biến bọn phản động vùng hậu phương ta thành những ổ do thám chỉ điểm theo chủ trương “do thám hoá”. Trong những tổ chức đó phải kể đến “Mặt trận dân chúng liên hiệp" của bọn phản động trong đạo Thiên Chúa hoạt động khắp ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Đông, Thanh Hoá, Nghệ An... Chúng cài được nhiều tay chân vào các đoàn, hội kháng chiến của ta để hoạt động.
Sau kế hoạch “Đờ-lát", tháng 5-1953, Pháp thực hiện kế hoạch “Nava". Với kế hoạch “Nava”, Pháp tăng kinh phí cho cuộc chiến tranh gián điệp lên 11.239 triệu Frăng, tập trung những nỗ lực cuối cùng vào mặt trận này hòng cứu nguy cho giới quân sự đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết tiếp tục đánh ta khi Pháp buộc
phải rút khỏi Việt Nam. Pháp mở thêm các lớp đào tạo sĩ quan gián điệp; tuyển chọn binh lính Commanđo, CI, GCMA, một số đảng viên Đại Việt đưa ra nước ngoài đào tạo để cài cắm ở lại miền Bắc hoặc đưa về Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây huấn luyện cấp tốc rồi tung xuống các tỉnh rừng núi làm nòng cốt cho các hang ổ phỉ. Pháp dự kiến cuối năm 1954 sẽ tăng số GCMA là người bản xứ lên 50.000 tên.
Khi thấy Pháp bị sa lầy và sẽ thất bại ở chiến trường Đông Dương, Mỹ đẩy mạnh hoạt động gián điệp, sẵn sàng thế chân Pháp. Từ năm 1951, Mỹ tăng viện trợ lên gấp ba lần cho Pháp, giúp Pháp đủ tiềm lực kéo dài chiến tranh để Mỹ có thời gian chuẩn bị điều kiện triển khai hoạt động gián điệp. Tướng Ôđanien cầm đầu phái đoàn viện trợ quân sự (MAAG) sang Đông Dương nắm tình hình và chỉ đạo mọi hoạt động của Pháp. Trùm tình báo Donall Heath sang Việt Nam nắm các điệp viên của Mỹ đồng thời tiến hành mua chuộc điệp viên của Pháp, Nhật. Doolley khoác áo linh mục, nắm chức Khâm mạng Đông Dương, ra sức nuôi dưỡng bọn cầm đầu phản động trong Thiên Chúa giáo, mua chuộc bọn cầm đầu các đảng phái phản động, trí thức bất mãn. Thông qua hệ thống những hoạt động liên tục, từ năm 1951, Mỹ can thiệp càng sâu vào chiến trường Việt Nam, trong đó trọng tâm là hoạt động gián điệp. Càng ngày vai trò của cơ quan tình báo Mỹ càng chi phối hoạt động của Pháp và đến năm 1954, dường như Mỹ đã biến Pháp thành công cụ để thực hiện những bước chuẩn bị cuối cùng trong âm mưu thay chân Pháp xâm lược Đông Dương.
Dự kiến xu hướng phát triển của cục diện chiến tranh, tháng 2- 1951, Trung ương Đảng tiến hành Đại hội đại biếu Đảng toàn quốc lần thứ II và quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai để tập trung mọi mặt, lãnh đạo kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Đại hội xác định nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng Việt Nam lúc này là: “Tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn”1 (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, thảng 2-1951). Thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Đảng, đầu năm 1951, Bộ đội chủ lực liên tiếp mở 3 chiến dịch vận động chiến, đồng thời chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương và
nhân dân vùng hậu địch phá bình định, nhổ đồn bốt. Tuy các kế hoạch của ta chưa đạt được mục tiêu chiến lược, nhưng đã gây cho quân đội Pháp những khó khăn nhất định trong quá trình triển khai chiến lược “chiến tranh tổng lực".
Để tập trung lực lượng, củng cố trận địa chống phản cách mạng, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị về “Nhiệm vụ và tổ chức của Công an”. Chỉ thị nêu “Nhiệm vụ cơ bản của Công an là bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ nền kinh tế quốc dân, bảo vệ Quân đội, bảo vệ nhân dân2 (Chỉ thị số 05/CT-TW, ngày 12- 5-1951). Chỉ thị nhấn mạnh công tác điều tra khám phá tổ chức và hoạt động gián điệp; chống gián điệp kinh tế, đặc vụ. Chỉ thị nhấn mạnh: “Các Cấp uỷ cơ sở phải cử cán bộ tin cậy, có trình độ sang làm công tác công an; không được điều động cán bộ Công an làm việc khác". Quán triệt chỉ đạo của Đảng, tháng 12 năm 1951, Nha Công an mở Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ VI, xác định một số vấn đề chính yếu có chiều sâu trong phòng ngừa và tổ chức đấu tranh: “Bảo vệ nội bộ là bảo vệ bí mật, bảo vệ nội bộ được thuần khiết, dựa vào lực lượng của chi bộ, của công đoàn. Phương châm của công tác chính trị bảo vệ là: Đi sâu vào cơ quan đầu não của địch; phối hợp với các địa phương làm công tác phản gián; phát triển Công an xã để chỉ đạo công tác phòng gian trừ gian; đề cao kỹ thuật đánh địch".
Đáp ứng yêu cầu của Hội nghị Công an toàn quốc, lực lượng Bảo vệ chính trị tập trung triển khai một số công tác lớn: Hướng dẫn các cơ quan đơn vị ở vùng tự do, củng cố và thành lập các "Ban bảo vệ cơ quan"', xây dựng nội quy, quy chế bảo vệ nội bộ, giúp các "Ban bảo vệ cơ quan" cách thức triển khai công tác bảo vệ nội bộ. Thành lập "Đội điều tra chủ lực”, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ty Bảo vệ chính trị, làm nhiệm vụ tổ chức điều tra những chuyên án lớn và hướng dẫn các khu, tỉnh về nghiệp vụ điều tra án. Việc thành lập “Đội điều tra chủ lực" đánh dấu bước phát triển đầu tiên về bố trí lực lượng chuyên ngành, theo hệ loại đối tượng sau này. Thời gian này, công tác điều tra đã hình thành hai lực lượng là trinh sát nội tuyến và trinh sát ngoại tuyến. Trinh sát nội tuyến có trách nhiệm tổ chức đánh địch bằng hai cách thức: “Kéo ra”, “Đánh vào". Trinh sát ngoại
tuyến có trách nhiệm theo dõi đối tượng cả “bề trong và bề ngoài". Đội ngũ điều tra viên nội tuyến và ngoại tuyến đều phải hoàn toàn bí mật để tiến tới “chức nghiệp hóa" và “xã hội hóa".
Tháng 8-1952, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ủy viên Trung ương Đảng được điều về phụ trách Nha Công an, chủ trì Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ VII. Hội nghị thông qua 7 kết luận. Những vấn đề nêu trong 7 kết luận được đúc kết từ thực tiễn thành lý luận đấu tranh chống phản cách mạng tương đối hoàn chỉnh trên tất cả các mặt công tác, vừa cụ thể hoá quan điểm của Đảng, vừa xác định nội dung, quy trình, biện pháp đấu tranh ở từng lĩnh vực. Những nội dung trong 7 kết luận không chỉ có giá trị chống gián điệp lúc đó mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Về vai trò tham mưu, trong giai đoạn này, lực lượng An ninh phát hiện các cơ quan và đoàn thể kháng chiến thường tự động xây dựng cơ sở, ra vào vùng địch để nắm tình hình. Do cơ quan, đoàn thể kháng chiến không có nghiệp vụ hướng dẫn điều tra nên hầu như cơ sở của ta bị địch lợi dụng, cung cấp cho tin giả và khai thác được bí mật của ta. Lực lượng An ninh đã kịp thời tham mưu cho Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành các chỉ thị để định hướng đấu tranh: Chỉ thị số 18-CT/TW “Về việc dùng gián điệp đôi"; Chỉ thị “Về gián điệp trá hàng"- Chỉ thị “Về gián điệp là con buôn lậu”, “gián điệp là trẻ em". Bốn chỉ thị trên ra đời khá kịp thời nên giúp cho các cơ quan, đơn vị hiểu rõ vấn đề sử dụng cơ sở để thu tin tình báo cũng như quy định cấp nào được phép sử dụng cơ sở.
Để củng cố một bước công tác giữ gìn bí mật và bảo vệ nội bộ, lực lượng An ninh phối hợp với các cơ quan đơn vị củng cố nội quy bảo vệ cơ quan, quy định chặt chẽ việc ra vào vùng địch kiểm soát, đặc biệt là đối với lực lượng giao bưu, chiến sĩ làm công tác cung cấp nhu yếu phẩm thường xuyên phải ra vào vùng địch. Phong trào “Phòng gian bảo mật” và “Ngũ gia liên bảo" ở giai đoạn này được củng cố cơ bản, có nội quy, quy định sát hợp với từng vùng dân cư. Dưới sự hướng dẫn của các Ban Công an xã, Công an làng, tinh thần cảnh giác của nhân dân được nâng lên rõ rệt. Hệ thống trạm kiểm tra xét giấy, tuần tra canh gác được thiết lập trên mọi ngả đường, trong từng thôn xóm có tác dụng kiểm soát, ngăn chặn hoạt
động và giao thông của bọn gián điệp, chỉ điểm. Công an còn phối hợp với các đoàn hội kháng chiến giáo dục nhân dân, tẩy chay và cô lập các ‘‘Mặt trận ma", góp phần hạn chế cơ sở xã hội chủ yếu của bọn gián điệp, làm cho chúng chỉ thu được những tin tức bề mặt và bên ngoài.
Nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các chiến dịch quân sự, trinh sát Bảo vệ chính trị được điều đến các đơn vị Quân đội, đoàn dân công, kho trung chuyển và tham gia phụ trách công tác bảo vệ nội bộ hoặc bảo vệ cơ quan để phối hợp quản lý địa bàn phòng ngừa bọn do thám, chỉ điểm hoạt động. Đối với các địa phương có tuyến đường phục vụ chiến dịch, trinh sát Bảo vệ chính trị phối hợp với các cơ quan và chính quyền địa phương “xây dựng hành lang an toàn” từ hậu phương ra tiền tuyến, đảm bảo tuyến đường cung cấp nhân tài, vật lực cho chiến trường tuyệt đối an toàn. Tuyến “hành lang an toàn" lớn nhất được xây dựng từ Thanh - Nghệ vượt qua nhiều tỉnh đến Điện Biên Phủ là đóng góp đáng kể của Công an trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Trên lĩnh vực đấu tranh chuyên án, lực lượng chống gián điệp đi sâu điều tra cơ bản, nắm vững diễn biến hoạt động của địch, đồng thời xây dựng mạng lưới cơ sở rộng khắp để nắm âm mưu, kế hoạch hoạt động ngay từ trung tâm đầu não của chúng. Trong năm 1951, Công an Hà Nội đặt tại mỗi khu phố 3 điều tra viên, xây dựng 259 cơ sở bí mật trong nội thành và thiết lập tuyến giao thông để chuyển tin được nhanh chóng, bí mật. Công an Hải Phòng xây dựng 15 cơ sở nằm trong cơ quan ngụy quân, ngụy quyền và Bảo chính đoàn. Công an Phú Yên điều 4 cơ sở cấp cao vào làm việc trong dinh Tỉnh trưởng, Ty Công an, Ty cảnh sát của ngụy quyền. Hầu hết cơ sở đều hoạt động tốt, thu được nhiều tin tức quan trọng liên quan đên âm mưu, hoạt động của địch, giúp cho cơ quan chỉ đạo kháng chiến chủ động tổ chức phòng ngừa.
Từ năm 1951 đến năm 1954, lực lượng Bảo vệ Chính trị đã bóc gỡ hàng trăm đầu mối, ổ, dây do thám, đẩy lùi địch ra khỏi những địa bàn, mục tiêu cần bảo vệ ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Trong đó có một số vụ điển hình như: Toán gián điệp do Đỗ Kỳ Nhân cầm đầu (Hà Nội); Nguyễn Thượng Dụ (Ninh Bình); Mã Dùng Sáu (Cao
Bằng); Mai Tùng Canh (Hải Phòng); ổ gián điệp “Lam lam hồng chi” (Nghệ An), ở Lạng Sòn, chỉ trong một tháng mở chiến dịch trừ gian, ta đã bắt 32 tên gián điệp, chỉ điểm. Tháng 11 năm 1952, Công an Liên khu IV khám phá ổ nhóm gián điệp ở Hòn Mê - Thanh Hoá, bắt 55 tên hoạt động từ Ba Làng - Thanh Hoá đến miền Tây Nghệ An. Tháng 8 năm 1952, Công an Liên khu III phá mạng lưới gián điệp hoạt động ở Ninh Bình do 2B ZOT chỉ huy, bắt 21 tên; Công an Lạng Sơn khám phá đường dây do thám hoạt động ở ba huyện: Bắc Sơn, Bình Giã, Bằng Nhạc, bắt 15 tên. Năm 1952, Công an Liên khu III tiếp tục bóc gỡ đường dây do thám hoạt động trên tuyến đường giao thông từ Thanh Hoá - Ninh Bình - Nam Định - Hoà Bình lên Điện Biên Phủ do 2B điểu khiến, bắt 16 tên. Để đảm bảo an toàn cho Bộ chỉ huy kháng chiến và các lực lượng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, Vụ Bảo vệ chính trị phối hợp với Công an Liên khu III mở chiến dịch điều tra trên địa bàn cửa ngõ ra vào chiến khu Việt Bắc: Vĩnh Phúc, Sơn Tây, Phú Thọ, Nam Thái Nguyên, vành đai chân núi Tam Đảo, dọc sông Đà... bắt 48 tên gián điệp, phá 5 ổ do thám đóng giả con buôn hoặc mở quán bán nước trên các tuyến đường giao thông. Đã khám phá hàng chục đầu mối nội gián nằm trong các đơn vị quân đội hoặc cơ quan kháng chiến; có đầu mối ta sử dụng đánh trở lại nhưng địch vẫn không hay biết. Công an Thủ Biên khám phá vụ nội gián “Đỗ Thái”; Công an Hà Nội khám phá vụ nội gián “Hoàng Ngọc Tuyến”; khám phá đầu mối “Nguyễn Thị Toàn” chui vào Trung đoàn 802; bóc gỡ mạng lưới nội gián do Hoàng Minh Vượng chỉ huy hoạt động trong tỉnh đội Hải Ninh... Điểm đáng chú ý là chúng ta khám phá kịp thời khi chúng chưa chui sâu, leo cao và gây hậu quả nghiêm trọng.
Từ năm 1951, Pháp tập trung thực hiện phương thức mới là gián điệp biệt kích hỗn hợp nhảy dù (GCMA) với tham vọng sử dụng lực lượng biệt kích vũ trang phá rối hậu phương của ta để làm giảm áp lực quân sự trên chiến trường. Lực lượng Bảo vệ chính trị đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị Quân đội và nhân dân, nhất là đối với vùng núi, các tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh tổ chức truy bắt gián điệp biệt kích. Vì vậy, hầu hết các toán GCMA vừa thâm nhập đã bị truy bắt ngay: Truy bắt và diệt gọn 52 tên GCMA nhảy dù xuống Lũng Pù,
Hà Giang, đập tan âm mưu liên kết với bọn phản động đánh chiếm vùng Tây Bắc lập “Liên bang xứ Nùng, Thái, Mèo tự trị”; bắt tiểu đội GCMA do Tạ Minh Phượng chỉ huy nhảy dù xuống Chi Lăng; bắt một toán gồm 7 tên nhảy dù xuống vùng núi Cẩm Thủy. Công an Thanh Hoá bắt toán biệt kích gồm 34 tên do Châu Thông Chân chỉ huy, từ Lào xâm nhập vào vùng Tây Thanh Hoá âm mưu liên kết với bọn phản động thành lập xứ “Liên Châu Thái tư trị”; bắt và diệt 54 tên nhảy dù xuống huyện Hồi Xuân - Thanh Hoá. Công an Bắc Giang vây bắt một tiểu đội GCMA nhảy dù xuống Đồi Ngô... GCMA là phương thức hoạt động mới và thường ở địa bàn hiểm trở nhưng ta biết vận động nhân dân, phối hợp chặt chẽ với Quân đội chủ động truy bắt ngay khi chúng xâm nhập nên về căn bản đã đẩy lùi hoạt động của GCMA, phá tan tham vọng sử dụng GCMA để giành lại thế đã mất trên chiến trường của Bộ chỉ huy chiếm đóng.
Từ năm 1953, ta chủ động tiến hành các kế hoạch đánh lại địch bằng thông tin liên lạc hiện đại. Một trong những chuyên án đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng đấu tranh chống gián điệp là chuyên án TN25: Tháng 5-1953, GCMA tung ra vùng Đại Từ, Thái Nguyên một toán gián điệp gồm 3 tên với nhiệm vụ thâm nhập vào Thủ đô kháng chiến thu tin tình báo chiến lược để phục vụ cho kế hoạch đánh chiếm Nà Sản và xây dựng cứ điểm Điện Biên Phủ. Vụ Bảo vệ chính trị bắt bí mật và sử dụng toán gián điệp đề đánh lại trung tâm địch theo kiểu “Trò chơi nghiệp vụ”. Trong quá trình đấu tranh, Ban chuyên án đã áp dụng đồng bộ các biện pháp trinh sát nội tuyến, ngoại tuyến, trinh sát kỹ thuật, cung cấp cho địch nhiều tin tức giả, dụ địch tăng cường nhân viên, tiếp tế phương tiện và bộc lộ những đầu mối đã cài cắm từ trước để bắt. Khi cuộc kháng chiến chống pháp thắng lợi, ta vẫn tiếp tục sử dụng ba điệp viên, bóc gỡ mạng lưới gián điệp cài lại trong kế hoạch hậu chiến của chúng. Từ năm 1953 cho đến năm 1958, GCMA không hề biết toán gián điệp này đã nằm trong sự điều khiển của cơ quan An ninh Việt Nam nên chúng cung cấp cho ta nhiều tin quan trọng, khen ngợi toán điệp viên, thậm chí còn tặng “Huân chương Thập tự sắt” cho Trần Thị Hán và đồng bọn. Đấu tranh chuyên án TN25 thắng lợi khắng định lực lượng An ninh có bước trưởng thành vượt bậc về nghiệp vụ, về
khả năng tổ chức đấu tranh chuyên án, mở ra hướng đấu tranh mới cho những giai đoạn sau.
Tóm lại: Cuộc đấu tranh chống gián điệp trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến năm 1954 là bộ phận không tách rời của trận tuyến đấu tranh chống phản cách mạng; là cuộc đấu tranh gay go, phức tạp và vô cùng quyết liệt nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh giành chính quyền, giữ chính quýền và chống thực dân Pháp xâm lược. Đấu tranh chống gián điệp ở giai đoạn này đan xen với vũ trang đánh địch, về căn bản được phân thành ba vùng chiến lược rõ ràng. Quá trình phát triển về đường lối, tổ chức lực lượng và biện pháp tiến hành trong đấu tranh chống gián điệp ở giai đoạn lịch sử này có thể rút ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo, phát triển qua từng giai đoạn để giành thắng lợi hoàn toàn. Đấu tranh chống gián điệp là một bộ phận của quá trình đấu tranh cách mạng, cũng có những bước phát triển gắn liền với các bước phát triển của cuộc kháng chiến và mang tính nhân dân sâu sắc. Sự phát triến về đường lối lãnh đạo cuộc kháng chiến của Đảng cũng đồng thời là lãnh đạo đấu tranh chống gián điệp, hoặc trực tiếp chi phối và định hướng đối với trận tuyến đấu tranh này.
Từ thực tiễn đấu tranh, lực lượng An ninh đã dựa hẳn vào quần chúng, từng bước hướng dẫn quần chúng và các cơ quan đơn vị tham gia vào trận tuyến phòng chống phản cách mạng; bước đầu hình thành mối quan hệ khăng khít giữa “phòng” và “chống", đặt nền móng cho những bước phát triển ở giai đoạn sau. Đóng góp của quần chúng, của các cơ quan đơn vị trong giai đoạn này đã hỗ trợ đắc lực cho lực lượng An ninh khi lực lượng còn mỏng, nghiệp vụ còn hạn chế.
Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đến hết năm 1947, nhận thức để phân biệt giữa gián điệp và phản động chưa rõ ràng; nghiệp vụ đánh địch còn đơn giản; còn nặng về đối phó và mang tính chất khu vực. Từ năm 1948 đã có bước chuyển biến cơ bản, phân biệt rõ hệ loại gián điệp, xác định cách thức đấu tranh; song phải đến năm 1950 mới xây dựng được thế trận vững chắc giữa phòng và chống,
phát triển lực lượng nòng cốt đủ sức đánh bại âm mưu của địch. Từ năm 1952, lực lượng chống gián điệp có sự phát triển về tổ chức và mang tính chuyên ngành; bước đầu xây dựng được hệ thống lý luận; đã áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp nghiệp vụ, đấu tranh thắng lợi một số chuyên án đối với hai cơ quan tình báo sừng sỏ lúc này là Pháp và Mỹ.
Thứ hai: Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống gián điệp trong giai đoạn lịch sử này là thắng lợi của việc đánh bại âm mưu của địch; góp phần đẩy thực dân Pháp lâm vào tình thế bị động và lần lượt phá sản các chiến lược chiến tranh. Là thắng lợi của tư tưởng “phòng ngừa và đánh địch” mang tính nhất quán từ chỉ đạo, tổ chức lực lượng đến hoạt động thực tiễn. Lực lượng nòng cốt chống gián điệp đã quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc: “Nghiệp vụ phục vụ chính trị"; xác định đấu tranh chống gián điệp phải gắn liền với đấu tranh chống phản động; dựa vào pháp luật để đưa bọn gián điệp, chỉ điểm ra đấu tranh công khai, tạo ra áp lực chính trị mạnh mẽ, răn đe những phần tử cộng tác hoặc có ý định cộng tác với cơ quan gián điệp.
Thứ ba: Cuộc đấu tranh gián điệp ở giai đoạn này còn biểu hiện sự non yếu, hạn chế: Năm đầu tiên, từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, ta chưa phân định rõ bọn gián điệp và bọn phản động; trong vùng địch kiểm soát có giai đoạn còn nặng về trừ gian, diệt ác, chưa đi sâu điều tra âm mưu và tổ chức của địch. Đặc biệt là công tác bảo vệ nội bộ có thời gian chưa được chú trọng đúng mức để địch lợi dụng cài cắm nội gián. Trong sử dụng “gián điệp đôi", có biểu hiện sử dụng tràn lan, không coi trọng nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn nên bộc lộ non kém và ấu trĩ, tạo cơ hội cho địch lợi dụng, gây khó khăn đối với các cơ quan kháng chiến. Thực tiễn cho thấy: Chống gián điệp là một trận tuyến đặc biệt, cần có nghiệp vụ chuyên môn, có lực lượng nòng cốt và được chuyên môn hoá để làm chức năng hướng dẫn phòng ngừa cũng như tổ chức đấu tranh.
CHƯƠNG II
ĐẤU TRANH CHỐNG GIÁN ĐIỆP PHỤC VỤ NHIỆM VỤ CHIẾN LƯỢC XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG MIỀN NAM,
HOÀN THÀNH SỰ NGHIỆP THỐNG NHẤT TỔ QUỐC (1954-1975)
Sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: Tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính, trực tiếp, trước mắt và lâu dài của dân tộc ta. Mỹ sử dụng bọn ngụy quyền tay sai; sử dụng các nước chư hầu, thành liên minh phản cách mạng điên cuồng tiến hành chiến tranh bằng mọi thủ đoạn xảo quyệt với bốn chiến lược: Chiến tranh đơn phương, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, Việt Nam hoá chiến tranh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam chấp nhận cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ thù có tiềm lực mạnh nhất, âm mưu thâm độc nhất của thế kỷ thứ XX. Trước thử thách ngặt nghèo của lịch sử, cả dân tộc kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, được cộng đồng quốc tế và nhân dân tiến bộ toàn thế giới ủng hộ; lần lượt đánh bại từng bước leo thang, từng chiến lược chiến tranh, đi đến đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước vào mùa xuân năm 1975; hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dán tộc, cả nước cùng bước sang thời kỳ cách mạng mới: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quá trình triển khai các bước leo thang chiến tranh, đế quốc Mỹ đã tập trung tối đa cho cuộc chiến tranh gián điệp đối với miền Bắc và miền Nam, hòng qua đó mở đường cho kế hoạch xâm lược hoàn toàn đất nước ta. Chúng đã huy động bộ máy tình báo, phản gián khổng lồ, dày dạn kinh nghiệm, được trang bị phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại nhất, với sự hợp lực của lực lượng quân sự Mỹ, bọn tay sai ngụy quyền và các nước chư hầu, tạo thành “Liên minh cộng đồng gián điệp Các cơ quan gián điệp của đối phương sử dụng mọi phương thức, tận dụng mọi điều kiện để tiến hành hoạt động gián điệp trên lãnh thổ nước ta. Chúng coi hoạt động gián điệp là cuộc chiến tranh bí mật mở đường cho vũ trang xâm lược cũng như duy trì ách thống trị.
Đối phó với âm mưu của kẻ thù, Đảng ta kiên định lập trường, tiếp tục xác định trận tuyến đấu tranh chống gián điệp là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam.
1. Giai đoạn từ cuối năm 1954 đến cuối năm 1960
Ở miền Bắc: Theo Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ phục hồi và cải tạo xã hội; nhưng trận tuyến đấu tranh chống gián điệp lúc này vẫn diễn ra hết sức gay go phức tạp. Ngoài đối tượng cũ là cơ quan gián điệp Pháp, đặc vụ Tưởng, gián điệp Anh vẫn ráo riết hoạt động thì cơ quan gián điệp Mỹ dã chính thức thiết lập hệ thống hoạt động của mình ở hầu khắp các vùng trọng điểm, chiến lược và trở thành đối tượng chính.
Tháng 6-1954, CIA cử Edward Lansdale, trưởng Phái đoàn quân sự Mỹ (SMM) sang Sài Gòn làm cố vấn cho Ngô Đình Diệm; tháng 8-1954, trùm tình báo Lucien Conein ra Hà Nội, lập trụ sở cơ quan Phái đoàn quân sự Mỹ (SMM) tại Hà Nội và Hải Phòng. Tiếp theo, Speiman, trùm tình báo, chuyên gia dày dạn kinh nghiệm về di cư ở Triều Tiên được cử đến Hà Nội phối hợp với Doolley chỉ đạo chiến dịch dụ dỗ cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam và xây dựng những
đội quân ngầm vừa phá ta trước mắt vừa phá ta lâu dài. Chúng móc nối với những phần tử cầm đầu trong Đại Việt như Đặng Văn Sung, Cao Xuân Tuyên, Cao Xuân Trung; với bọn trùm phản động trong Thiên Chúa giáo như Phạm Ngọc Chi, Lê Hữu Từ, Võ Viết Hiền... tuyển bọn tay chân đưa ra nước ngoài huấn luyện để tung trở lại miền Bắc trong thời kỳ 300 ngày. Cùng với đưa tay chân ra nước ngoài huấn luyện gián điệp, chúng bí mật chôn giấu hàng chục kho vũ khí, súng đạn, máy vô tuyến điện ở các tỉnh Hồng Quảng, Hà Nội, Sơn Tây, Hải Phòng làm phương tiện hoạt động cho các đội quân ngầm sau này.
Ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, từ năm 1953, cơ quan GCMA đã tuyển chọn hàng ngàn lính Commando, địa phương quân là người dân tộc đưa về trung tâm tại Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây huấn luyện phương thức hoạt động gián điệp biệt kích rồi tung về các tỉnh vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nghệ An, Thanh Hoá nhằm móc nối với các ổ nhóm phỉ, làm lực lượng nòng cốt để nổi phỉ chống lại cách mạng. Trước và trong thời kỳ chuyển quân tập kết, Pháp phối hợp với Mỹ tung vào vùng núi phía Bắc nước ta hơn 4.000 tên biệt kích GCMA, cài vào hàng chục hang ổ phỉ với tổng số khoảng 10.000 tên có đầy đủ vũ khí, lương thực, căn cứ hoạt động. Cũng trong thời gian này, Mỹ và Pháp phối hợp củng cố các tổ chức gián điệp trá hình đã có từ trước như “Đại chúng học vụ”, "Y tế lao động’’, “Bảo hiểm nhân thọ”, “Viễn đông Bác Cổ"; đặt dưới quyền điều hành của đại sứ Mỹ Donnall Heath. Tổ chức tình báo hỗn hợp Mỹ - Anh - Pháp mang tên Intelligen (CA DACIFIC) cũng được chuyển giao cho viên đại tá tình báo Mỹ Berlin phụ trách. Diễn biến hoạt động trên cho thấy Mỹ đã nắm hầu hết các tổ chức gián điệp của Pháp, Anh, thâu tóm để chỉ đạo; đồng thời Mỹ cũng đã thiết lập bộ máy chỉ huy, điều khiển mạng lưới gián điệp trên hầu khắp địa bàn trọng điểm ở miền Bắc và ráo riết xúc tiến kế hoạch nắm địa bàn Đông Dương.
Tuy phải nhượng bộ Mỹ nhưng Pháp vẫn tiến hành nhiều hoạt động riêng rẽ bằng cách tiếp tục củng cố mạng lưới gián điệp sẵn có như toán TN25, H07. Các đầu mối gián điệp của Pháp thời kỳ này trực tiếp chịu sự chỉ huy của 15 cơ quan đại diện Pháp còn được tồn tại ở miền Bắc, trong đó quan trọng nhất là Tổng lãnh sự Pháp ở
phố Nguyễn Chế Nghĩa do Doolley chỉ huy. Mạng lưới gián điệp thông qua số cha cố, giáo sĩ vẫn hoạt động ráo riết như Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Văn Thông, Lương Huy Hân, Heđê, Jacques, Denis... Số này được giao nhiệm vụ nắm các xứ, các địa phận trong Thiên Chúa giáo, vừa thực hiện âm mưu cưỡng ép đồng bào ta di cư, vừa cài cắm hoặc tạo vỏ bọc cho bọn gián điệp cài lại.
Thời kỳ 300 ngày là thời kỳ các cơ quan gián điệp Pháp, Anh, Mỹ hoạt động rất ráo riết. Thực tế chúng đã cài cắm khá nhiều điệp viên, chôn giấu được nhiều kho vũ khí và phương tiện để hoạt động lâu dài ở miền Bắc nước ta, trong đó tập trung chủ yếu ở các vùng được quy định chuyển quân tập kết thời hạn 100 ngày, 300 ngày như Hồng Quảng, Sơn Tây, Hà Nội, Hải Phòng.
Ở miền Nam: Mỹ công khai thế chân Pháp, dựng lên tập đoàn gia đình trị Ngô Đình Diệm, thẳng tay đàn áp các phe phái, tôn giáo thân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ. Diệm sử dụng những phần tử phản động di cư vào Nam làm nòng cốt, lần lượt thôn tính các thế lực cạnh tranh, thiết lập “chính quyền công giáo'’, thực hiện chính sách “Tô Cộng, diệt Công'’ rộng khắp và tàn bạo, đánh phá vào hạ tầng cơ sở cách mạng đồng thời với truy bức về tinh thần trong mọi tầng lớp nhân dân toàn miền Nam.
Từ năm 1956, Mỹ chỉ đạo và hỗ trợ chính quyền Diệm thiết lập các cơ quan tình báo, an ninh khắp miền Nam: Mỹ điều hơn hai trăm nhân viên tình báo sang miền Nam, tăng số quân của phái bộ quân sự (MAAG) lên 3.500 tên; lập chi nhánh CIA ở miền Nam do Edward Lansdale chỉ huy. Ngô Đình Diệm thành lập cơ quan tình báo chiến lược với tên gọi "Sở Nghiên cứu chính trị xã hội" do Trần Kim Tuyến chỉ huy; lập "Ban công tác đặc biệt ở miền Trung" do Ngô Đình Cẩn trực tiếp chỉ đạo; lập "Ban công tác tinh thần" (sau đổi thành Ban phản gián - B42) trực thuộc Phủ Tổng thổng; lập Nha An ninh quân đội; Sở Tình báo quân đội; Bộ Công dân vụ. Sự ra đời của hệ thống các cơ quan tình báo, phản gián quân sự và dân sự càng làm cho đời sống chính trị, xã hội ở miền Nam ngột ngạt. Các cơ sở cách mạng của ta bị tổn thất nghiêm trọng, cách mạng miền Nam ở vào thời kỳ đen tối nhất bởi các cuộc tàn sát đẫm máu với chủ trương “Giết nhầm còn hơn bỏ sót” của Mỹ, Diệm.
Đảng ta sớm dự đoán được tình hình và dã tâm của Mỹ nên ngay từ năm 1950 đã xác định nhiệm vụ của cách mạng là “Đánh Pháp và can thiệp Mỹ". Tháng 7-1954, Đảng khẳng định rõ hơn tại Hội nghị Trung ương 6 khoá II: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân thế giới và hiện nay đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Dông Dương". Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tháng 9-1954 tiếp tục chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách của Công an: “Nhiệm vụ của Công an là phải nhanh chóng chuyến hướng về tổ chức đấu tranh chống phản cách mạng". Trước diễn biến hoạt động của địch, lãnh đạo Bộ Công an quán triệt chỉ đạo của Đảng, nhanh chóng chuyền hướng công tác đấu tranh chống gián điệp ở miền Bắc, đồng thời cử đồng chí Viễn Chi làm đặc phái viên của Bộ trưởng lên đường vào Nam trực tiếp truyền đạt chỉ đạo của lãnh đạo Bộ. Đồng chí Viễn Chi vào tới Nam Bộ, làm việc với đồng chí Cao Đăng Chiếm, Mai Chí Thọ và đồng chí Phạm Hùng, thống nhất tư tưởng chỉ đạo đấu tranh chống phản cách mạng, nhằm bảo toàn lực lượng của Đảng, bảo vệ các cơ sở cách mạng trước sức tấn công tàn khốc của kẻ thù.
Ở miền Bắc, trước khi vào tiếp quản các thành phố, thị xã, Bộ Công an chỉ rõ: “Phải thiết lập trật tự cách mạng, đả kích bọn gián điệp, phản động...”, “Ra sức xây dựng cơ sở điều tra tìm hiểu những bọn tay sai địch cài lại và những âm mưu hoạt động của chúng... Nắm tình hình bọn gián điệp, đặc vụ, bọn tàn binh. Đặc biệt là danh sách, địa chỉ, lai lịch của chúng... chuẩn bị đặc tình có khả năng, có điều kiện theo địch". Thực hiện chỉ đạo của Bộ, một trong những công tác quan trọng được triển khai thời gian này là toàn miền Bắc đồng loạt tiến hành công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu. Ngày 8-2- 1956, Bộ ra Chỉ thị số 120/BVCT/P2 về “Công tác bảo vệ chính trị kết hợp với công tác đăng ký hộ khẩu”. Qua công tác quản lý công khai, lực lượng An ninh nắm được 12.000 đối tượng các loại trong đó có 230 sĩ quan, 2.480 hạ sĩ quan, 7.800 ngụy quyền; phát hiện 452 tên đã từng làm trong các cơ quan gián điệp, đặc vụ, 416 tên là chỉ điểm. Công tác quản lý hộ tịch, hộ khẩu đã hỗ trợ rất lốn cho lực lượng chống gián điệp tiến hành điều tra cơ bản, phát hiện đầu mối cài lại. Cùng với quản lý xã hội, Bộ chỉ đạo xây dựng quy chế, điều
lệ quản lý người nước ngoài và công tác xuất nhập cảnh, qua đó nắm quan hệ của số gián điệp khoác áo ngoại giao, tu sĩ đang ở lại miền Bắc hoạt động.
Trong đấu tranh chống địch cưỡng ép di cư, Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 91-CT/TW ngày 8-9-1954 và quyết định thành lập đoàn chống cưỡng ép di cư từ Trung ương đến địa phương. Hơn bốn trăm cán bộ Công an được cử tham gia các đoàn vừa làm công tác tuyên truyền, vừa nắm hoạt động của địch. Do vậy, phát hiện kịp thời nhiều tên gián điệp trà trộn vào các vùng công giáo, các khu tập trung, lừa phỉnh, cưỡng ép, buộc đồng bào ta phải ra đi. Đã phát hiện và trừng trị 23 tên ở xứ Thanh Hoá, Nghệ An; phá vụ án ở Ba Làng, Thanh Hoá, vạch mặt linh mục Nguyễn Duy Hiển, Võ Viết Hiền là tay sai của gián điệp Pháp. Do phối hợp chặt chẽ giữa chống cưỡng ép di cư với trừng trị bọn gián điệp nên không những hạn chế số đồng bào bị Mỹ ngụy dụ dỗ, cưỡng ép vào Nam, mà còn ngăn chặn Mỹ, Diệm cài cắm tay chân gây tình hình rối loạn ở miền Bắc và phá hoại nội bộ ta.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm và giành thắng lợi to lớn ở giai đoạn này là lực lượng An ninh đã khám phá hầu hết các ổ nhóm gián điệp do Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Tàu Tưởng cài lại. Do làm tốt công tác điều tra cơ bản, tập trung nắm tình hình ở các vùng mới tiếp quản và tổ chức trinh sát bí mật các khu vực theo quy định của Hiệp định do quân đội Pháp quản lý nên ta nắm được nhiều đầu mối gián điệp cài lại. Mạng lưới cơ sở ở các vùng địch kiểm soát như Hòn Gai, Hà Nội, Hải Phòng phát hiện hàng chục đối tượng nghi vấn gián điệp cài lại. Vụ Bảo vệ chính trị mạnh dạn điều toán gián điệp trong chuyên án TN25 từ Thái Nguyên về Hà Nội, Hải Phòng làm nhiệm vụ liên lạc với những đối tượng cài lại ở hai địa bàn trọng điểm này. Từ việc nắm tình hình các đối tượng, tháng 4-1955, Bộ Công an mở Hội nghị Bảo vệ Chính trị lần thứ II, xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác trinh sát “Đánh mạnh vào những hoạt động của đế quốc Mỹ, Anh, Pháp do Mỹ cầm đầu và bọn chó săn của chúng là đặc vụ Tưởng... Tích cực phát hiện và thanh trừ những phần tử gián điệp, phản động ẩn nấp trong nội bộ cơ quan, trường học, công xưởng của ta”. Nghị quyết xác định 10 loại đối tượng phải điều tra
nghiên cứu để tính toán từng biện pháp đấu tranh thích hợp. Năm 1957 Bộ mở Hội nghị Bảo vệ Chính trị lần thứ III, cuối năm tiếp tục mở Hội nghị Sưu tra và ra Nghị quyết sưu tra I, hướng dẫn về nghiệp vụ điều tra nghiên cứu, biện pháp đấu tranh và đối sách với từng loại đối tượng. Căn cứ Nghị quyết sưu tra, lực lượng chống gián điệp phối hợp chặt chẽ với các lực lượng liên quan và hệ thống chính quyền cấp cơ sở triển khai mạnh công tác “khoanh vùng đánh địch”, bóc gỡ cơ sở xã hội của gián điệp; truy bắt bọn gián điệp chui vào các tổ chức phản động. Trên cơ sở danh mục Sưu tra, lập danh mục đối tượng hiềm nghi, chuyên án, đã bố trí lực lượng trinh sát nội, ngoại tuyến, xây dựng cơ sở đi sâu điều tra từng đối tượng, vừa quản lý hoạt động của chúng, vừa phục vụ đánh địch lâu dài. Bộ xác định đối tượng chính tập trung điều tra là bọn 2B, SEH, SDECE, GCMA; bọn cầm đầu Đại Việt, số có chức sắc, lợi dụng tôn giáo; bọn ngụy quân, ngụy quyền có nhiều tội ác và bọn đặc vụ. Trọng tâm công tác điều tra nhằm vào các địa bàn địch tập kết rút quân, vùng chúng còn chiếm đóng; khu vực có nhiều tàn dư của ngụy quân ngụy quyền, vùng xung yếu. Do xác định đối tượng và địa bàn có trọng tâm, trọng điểm nên trong thời gian ngắn lực lượng An ninh đã căn bản làm rõ được hệ thống gián điệp cài lại cũng như một số đối tượng đang cộng tác với địch. Tại Hải Phòng đã phát hiện 18 đối tượng được cơ quan tình báo Mỹ đưa ra nước ngoài huấn luyện và đánh trở lại. Tại Hà Nội, phát hiện hàng chục đầu mối của bọn đặc vụ trong tổ chức “Quân thống", “Trung thống”, “Tổ hai quân uỷ hội'’; phát hiện bọn cầm đầu Đại Việt xây dựng mạng lưới tay sai chuẩn bị đón bọn gián điệp do Mỹ huấn luyện đánh trở lại. Qua giám sát tên Duyrăng, trinh sát Bảo vệ chính trị phát hiện Thụy An móc nối với nhóm “Nhân văn giai phẩm", kích động văn nghệ sĩ, sinh viên chống chính quyền. Công an Quảng Ninh đấu tranh thắng lợi chuyên án gián điệp cài lại AF110, bắt 5 đối tượng. Vụ Bảo vệ chính trị phát hiện nhân viên Ủy ban quốc tế là người Canada, Nam Dương; phát hiện cơ quan lãnh sự Pháp và tổng đại diện Pháp chỉ đạo bọn gián điệp cài lại; phát hiện một số đối tượng hiềm nghi chính trị có liên hệ với bọn gián điệp. Trong 3 năm, từ năm 1958 đến năm 1960, lực lượng An ninh tổ chức trinh sát 726 nhân viên trong các đoàn lâm thời, phát hiện một số đầu mối gián điệp cài lại; xác định rõ những
mục tiêu chúng tìm cách xâm nhập để lấy cắp tin tức. Từ năm 1955 đến năm 1960, lực lượng An ninh tiến hành đấu tranh thắng lợi hàng chục chuyên án gián điệp, trong đó có các chuyên án điển hình như: M11, C30, H07, L550, KV58, TK90, TK04, KD27, VK21, GK16, DT11... Bắt tại Hải Phòng 32 vụ với gần 100 tên, Hà Nội 57 tên, Hải Dương 18 tên, Hồng Quảng 12 tên, Nam Định 14 tên, Thái Bình 10 tên... Đến năm 1960, về căn bản lực lượng chống gián điệp đã khám phá hoàn toàn các vụ gián điệp do Pháp, Mỹ, Anh, Tàu Tưởng cài lại; khai quật hàng chục kho vũ khí chôn giấu tại Hải Phòng, Hà Nội, Sơn Tây, Hồng Quảng, có kho gồm hàng trăm khẩu súng, hàng chục ngàn viên đạn cùng máy thông tin VTĐ. Phối hợp với các đoàn thể và chính quyền địa phương đẩy đuổi 26 tên gián điệp là người nước ngoài khoác áo tu sĩ, đập tan âm mưu kích động giáo dân chống chính quyền.
Trong các vụ ta đã khám phá, có hai vụ là TN25 và C30 là hai vụ điển hình, khẳng định bước phát triển vượt bậc về trình độ tổ chức, chiến thuật đánh địch cũng như công tác phối hợp và hiệp đồng tác chiến đạt đến trình độ cao. Ban chuyên án chủ động xâv dựng thế trận, chủ động triển khai các biện pháp nghiệp vụ, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chống phản động với đấu tranh chống gián điệp, đưa cơ sở thâm nhập vào Trung tâm chỉ huy của địch; điều khiển chúng phải hoạt động theo sự sắp đặt của ta. Chuyên án C30 là trận đọ sức đầu tiên của cơ quan An ninh Việt Nam với cơ quan gián điệp Mỹ, đã phát triển thành chiến dịch phản gián hoàn hảo và giành thắng lợi to lớn.
Đối với GCMA tung vào sâu vùng núi cài cắm trong cộng đồng các dân tộc, lực lượng An ninh đã phối hợp với Công an vũ trang, Quân đội và nhân dân đồng loạt mở các chiến dịch tiễu phỉ, truy bắt gián điệp biệt kích. Vừa sử dụng lực lượng vũ trang truy quét, vừa lập án bắt bọn cầm đầu vừa gọi hàng nên từ năm 1955 đến năm 1959 đã giải quyết căn bản các vụ nổi phỉ, ổn định đời sống của cộng đồng các dân tộc anh em. Chỉ tính riêng vùng núi phía Đông sông Thao, đã diệt 1.983 tên, bắt 300 tên, gọi hàng 4.336 tên, thu 3.796 khẩu súng, trong đó có gần hai trăm tên GCMA, gần một trăm tên đặc vụ, là lực lượng nòng cốt của tổ chức phỉ. Hang ổ phỉ cuối
cùng ở Đồng Văn được giải quyết cuối năm 1959, ta đã bắt và diệt hơn một trăm tên GCMA cùng với đặc vụ Tưởng. Trong đó một tổ trinh sát lấy danh nghĩa là người của Diệm từ Sài Gòn ra đã thâm nhập vào trung tâm chỉ huy của Vương Chí Thành, mưu trí điều ra ngoài để bắt 16 tướng phỉ cùng 12 tên GCMA và 7 tên đặc vụ Tưởng.
Lực lượng Bảo vệ chính trị phối hợp chặt chẽ với các tỉnh thuộc Khu IV cũ, đặc biệt là khu vực Vĩnh Linh, phát động phong trào “Bảo vệ trị an”, phát hiện điệp viên và tay sai của địch vượt tuyến ra Rắc. Từ năm 1956 đến năm 1960 ta đã bắt 216 gián điệp Mỹ, Diệm vượt tuyến, vượt biên, đấu tranh với 8 linh mục có liên quan hoặc che giấu bọn gián điệp, phản động.
Song song với đấu tranh truy bắt bọn gián điệp cài lại, bọn vượt biên, vượt tuyến, lực lượng An ninh chủ động tăng cường công tác bảo vệ nội bộ. Tháng 10-1958, lực lượng Bảo vệ nội bộ được hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ. Ngoài lực lượng nòng cốt là Trinh sát bảo vệ nội bộ, các Ban bảo vệ chuyên trách ở cơ quan xí nghiệp, ban ngành cũng được củng cố và trở thành mạng lưới phòng chống gián điệp có bề rộng, có chiều sâu. Từ năm 1956 đến năm 1958, ta mở ba Hội nghị chuyên đề về bảo vệ kinh tế, vừa nhằm chống tham ô lãng phí vừa nhằm ngăn chặn mọi ngả đường xâm nhập vào mục tiêu của bọn gián điệp. Các lực lượng trinh sát chuyên ngành từ Trung ương đến địa phương được củng cố và thành lập mới như: Trinh sát ngoại tuyến, Trinh sát bảo vệ chính trị, Trinh sát kỹ thuật, Điều tra xét hỏi;... đều được củng cố về tổ chức mang tính chất, chuyên sâu, chuyên ngành rành mạch; công tác chỉ đạo thống nhất và tập trung; có quy định rõ cơ chế phối hợp tác chiến từ Trung ương đến địa phương.
Sáu năm sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, cuộc đấu tranh chống gián điệp ở miền Bắc diễn ra vô cùng quyết liệt. Lực lượng An ninh đã phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống gián điệp với đấu tranh chống phản động; phối hợp giữa công tác quản lý hành chính, công tác quản lý đối tượng nguy hại cho an ninh xã hội ở cơ sở nên đã góp phần đảm bảo an ninh chính trị được ổn định nhanh chóng khi miền Bắc vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh. Bước đầu công tác
phòng và chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng loại trừ căn bản cơ sở xã hội bọn gián điệp có thể lợi dụng; bẻ gãy nó lúc gây cơ sở ngầm của chúng trong âm mưu quay trở lại. Nhờ đó, khi mở rộng chiến tranh gián điệp ra miền Bắc, các điệp viên của Mỹ đã bị lâm vào tình thế thiếu cơ sở móc nối hoặc rơi vào chiến trường ta đã chuẩn bị sẵn.
Đối với miền Nam, sau khi thiết lập chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, cùng với tăng cường cố vấn và nhân viên tình báo cho chính quyền Diệm, Mỹ đầu tư tối đa cho Diệm xây dựng hệ thống Cảnh sát, mật vụ dày đặc khắp miền Nam. Cac cơ quan “Sở Nghiên cứu xã hội", “Đoàn công tác đặc biệt miền Trung" kết hợp với cơ quan Cảnh sát do Lê Quang Tung chỉ huy, tạo thành hệ thống đàn áp đẫm máu cũng như truy bức về tinh thần đến từng thôn, ấp, từng gia đình. Diệm áp dụng chính sách “Tố Cộng", “Diệt Cộng" theo luật 10/59 đồng thời thực hiện kiểu chiến tranh một phía với dã tâm lấp sông Bến Hải tiến ra Bắc.
Chủ động đối phó với âm mưu của địch, tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về “Tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng" nhằm chuyển hướng lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phù hợp với bối cảnh lịch sử mới. Đối với công tác công an, lãnh đạo Bộ cử đồng chí Viễn Chi làm đặc phái viên của Bộ trưởng vào Nam truyền đạt chủ trương, sách lược đấu tranh chống phản cách mạng theo Nghị quyết của Trung ương: “Trong tình hình mới, Công an phải làm công tác tình báo, phản gián. Phải, hiểu địch từ nơi chúng xuất phát... chủ động đánh người vào cơ quan tình báo của địch, vào các tổ chức hoặc sử dụng người của địch đánh lại địch...". Tháng 10-1954, Xứ uỷ triệu tập Hội nghị Xứ uỷ và quyết định các tổ chức Đảng rút vào bí mật, lực lượng Công an chuyển hướng tổ chức và trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Xứ uỷ. Cuối năm 1954, các “Ban bảo vệ cấp ủy" được thành lập, đến đầu năm 1955, phát triển thành các “Ban địch tình” của Xứ uỷ, có hệ thống đến các khu, tỉnh vừa làm nhiệm vụ chỉ đạo các cơ sở điệp báo vừa làm nhiệm vụ bảo vệ tổ chức cơ sở Đảng, bảo vệ phong trào đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ. Với mô hình tổ chức mới, những đồng chí lãnh đạo ngành Công an chưa bị lộ và hầu hết lực lượng trinh
sát được lệnh ở lại miền Nam tiếp tục hoạt động trong các “Ban địch tình của Đảng”.
Thời kỳ này, nhiệm vụ chủ yếu của “Ban địch tình” là nắm âm mưu, hoạt động khủng bố của địch để bảo vệ an toàn tổ chức cơ sở Đảng, bảo vệ phong trào cách mạng và chắp nối liên lạc. Bên cạnh đó, Ban địch tình cũng tổ chức đưa trinh sát và cơ sở thâm nhập vào lực lượng vũ trang Bình Xuyên, Hoà Hảo, trong hàng ngũ ngụy quyền, vừa nắm tình hình, vừa tác động tinh thần, thúc đẩy binh lính trở về với cách mạng. Một số vụ tập kích nhỏ vào trụ sở của địch, hoặc trừng trị những tên tay sai gian ác cũng đã được thực hiện. Song các hoạt động của “Ban địch tình” chưa đều và chưa đúng với đòi hỏi của cách mạng. Một số địa phương phát triển cơ sở không chọn lọc dẫn đến bị địch lợi dụng cài cắm tay chân, bóc gỡ cơ sở, đàn áp, gây tổn thất đáng kể.
Việc ra đời các “Ban địch tình", đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng là quyết định đúng và sáng tạo, đã đáp ứng kịp thời yêu cầu bảo vệ trong lúc phong trào cách mạng đang gặp rất nhiều khó khăn. Tuy hoạt động còn hạn chế, song các Ban địch tình là lực lượng nòng cốt phòng ngừa gián điệp, đặc biệt là nội gián để bảo vệ tổ chức cơ sở Đảng. Sau này, các “Ban địch tình” là lực lượng chủ yếu để thành lập lực lượng An ninh miền Nam.
Tóm lại: Giai đoạn 1954 đến 1960 là giai đoạn có tính chất bước ngoặt trong chỉ đạo và tổ chức đấu tranh chống gián điệp. Có thể rút ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Đảng dự đoán đúng xu hướng phát triển của tình hình; xác định đối tượng chủ yếu cần tập trung đấu tranh là cơ quan gián điệp Mỹ cùng đồng minh của chúng. Từ dự đoán tình hình và xác định đối tượng đấu tranh đúng, Đảng chủ động tổ chức lực lượng, chủ động chuẩn bị chiến trường; đồng thời củng cố một bước lực lượng nòng cốt trên trận tuyến đấu tranh chống gián điệp; huy động lực lượng vũ trang và bán vũ trang với sự ủng hộ của quần chúng nhân dân triển khai có hiệu quả công tác "phòng'’ và “chống".
Vấn đề quan trọng có tính chất quyết định về sự sáng suốt và chủ động của Đảng ta là: Ngay khi vừa kết thúc cuộc kháng chiến chống pháp, Đảng đã xác định đúng đối tượng trước mắt và lâu dài của
cách mạng Việt Nam; từng bước xác định đường lối đấu tranh; xác định những mặt công tác quan trọng nhất, chỉ đạo sâu sát, tổ chức lực lượng phòng, chống có bề rộng và có chiều sâu nhằm đánh bại âm mưu địch.
Thứ hai: Đây là giai đoạn lực lượng nòng cốt chống gián điệp phải đương đầu với các cơ quan tình báo, phản gián của Mỹ và tay sai. Chúng có lợi thế hơn ta về khoa học kỹ thuật, tài chính cũng như kinh nghiệm hoạt động; có lực lượng quân sự hùng hậu làm hậu thuẫn. Song do ta biết phát huy tinh thần cảnh giác của mọi tầng lớp nhân dân, hướng dẫn công tác phòng chống nên hạn chế được những ưu thế của địch. Trong đấu tranh ta đã chủ động chuẩn bị chiến trường đón đợi kẻ địch xâm nhập; chủ động cách đánh, không những chỉ làm chủ tình hình mà còn điều khiển Trung tâm địch phải hoạt động theo sự sắp đặt của ta. Chính vì thế, mặc dù kẻ địch dày công chuẩn bị và tập trung đầu tư cho chiến tranh gián điệp nhưng mạng lưới chúng cài cắm không chỉ bị vô hiệu hoá mà ta còn "tương kẽ tựu kế" và giành thắng lợi.
Thứ ba: Đây là giai đoạn điển hình về sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chống phản động với đấu tranh chống gián điệp; phá vỡ quy luật "câu móc" của hai loại đối tượng này. Ở nước ta, gián điệp và phản động câu móc với nhau không những chỉ là quy luật mà còn mang đặc thù riêng. Chống phản động là chống lực lượng hậu thuẫn của gián điệp; chống gián điệp là chặt đứt sự chỉ đạo và tài trợ của nước ngoài đối với bọn phản động. Ta triển khai đồng bộ công tác trấn áp phản động ngay sau hoà bình có ý nghĩa quan trọng, đã tạo ra địa bàn thuận lợi nhất để đối phó với gián điệp. Do đó, khi Mỹ, ngụy tung điệp viên ra miền Bắc hoạt động, chúng không còn chỗ dựa hoặc rơi vào chiến trường ta đã chuẩn bị và những bẫy nghiệp vụ ta giăng sẵn.
2. Giai đoạn từ năm 1961 đến nửa cuối năm 1965
Cuối năm 1960, nhân dân miền Nam đồng loạt “đồng khởi”, võ trang chiến đấu và giành thắng lợi; Mặt trận dân tộc giải phóng miền
Nam ra đời, cách mạng miền Nam chuyển sang bước ngoặt mới. Cùng với miền Nam anh hùng, nhân dân miền Bắc lần lượt vượt qua mọi thử thách, từng bước ổn định an ninh chính trị, hoàn thành kế hoạch phục hồi và cải tạo xã hội. Tháng 9-1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội, Nghị quyết Đại hội xác định nhiệm vụ chiến lược chung của cả nước là: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Thất bại trong chiến lược “chiến tranh đơn phương", cuối năm 1960, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (NSC) buộc phải quyết định leo nấc thang chiến tranh mới: Thông qua kế hoạch tình báo nhằm tăng cường tiềm lực, tăng cường sức mạnh hòng đè bẹp dân tộc Việt Nam. Cơ quan MAAG (Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ) và USOM (Cơ quan viện trợ Mỹ), ở Sài Gòn soạn thảo “Kế hoạch chống nổi dậy" với tham vọng phá chiến tranh du kích, nắm lại các đảng phái chính trị, trí thức, tôn giáo để cô lập các tổ chức Đảng và phong trào cách mạng. Kế hoạch được Tổng thống Ken-nơ-đi thông qua tháng 1-1961. Tháng 4-1961, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ xây dựng kế hoạch mang tên NSAN 52 với nội dung tăng cường quyền lực của phái đoàn cố vấn quân sự, triển khai lực lượng yểm trợ, đưa quân và thiết bị vào miền Nam. Theo đó, hơn bốn trăm lính “mủ nồi xanh" thuộc lực lượng đặc biệt được điều sang Việt Nam đóng tại Nha Trang. Lực lượng Bảo an từ 3 vạn tăng thành 6,3 vạn và đổi mới căn bản trang thiết bị. Mỹ thành lập đơn vị đặc biệt mang tên “Liên doàn 77", tiến hành huấn luyện phương thức gián điệp biệt kích cho dân vệ, địa phương quân hoạt động trên chiến trường miền Nam cũng như tung ra miền Bắc. Lực lượng đặc biệt Mỹ vừa độc lập tác chiến, vừa phối hợp với biệt kích ngụy, thành từng toán nhỏ cơ động, thọc sâu vào vùng đất nhân dân ta vừa làm chủ tiến hành tàn sát và bắt bớ.
Mỹ tài trợ và chỉ đạo cho ngụy thành lập “Phủ Đặc uỷ trung ương tình báo” hoạt động song song với “Sở Nghiên cứu chính trị xã hội”, “Nha Cảnh sát đặc biệt”, “Liên đoàn quan sát", Lực lượng đặc nhiệm” và hệ thống tình báo trá hình ở khắp các tỉnh. Năm 1960, chi nhánh CIA ở miền Nam có 200 nhân viên nhưng sang năm 1961
tăng lên 800 nhân viên; Mỹ lập thêm chi nhánh FBI; cố vấn và tài trở cho ngụy thành lập “Nha Cảnh sát quốc gia" vào năm 1962. Như vậy, để tiến hành “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ, ngụy tập trung mọi cố gắng thiết lập hệ thống dày đặc các cơ quan gián điệp, phản gián; đầu tư tối đa và trang bị những loại phương tiện hoạt động hiện đại nhất cho lực lượng này. Đặc biệt, chúng tiến hành âm mưu vô cùng thâm độc là triển khai chiến lược "Tình báo đại chúng nhằm tình báo hoá các tầng lớp nhân dân ở miền Nam. Chúng sử dụng mọi loại người, mọi tầng lớp để thu thập tin tức đồng thời gây chiến tranh tâm lý, gây ra không khí thù địch, hoang mang, nghi kỵ trong mọi tầng lớp xã hội.
Vừa nỗ lực triển khai hoạt động ở miền Nam, Mỹ, ngụy vừa tập trung đào tạo và tung gián điệp ra miền Bắc, tiến hành phá hoại, tâm lý chiến và thu thập tin tức hòng làm cho miền Bắc suy yếu, không đủ sức chi viện cho miền Nam cũng như chuẩn bị điều kiện mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Các toán gián điệp con thoi được tung ra miền Bắc qua các ngả đường: Vượt giới tuyến, vượt biên giới Việt - Lào, trà trộn trong số con em cán bộ miền Nam ra Bắc, trong số người hồi hương về xây dựng Tổ quốc. Chúng còn sử dụng bọn đặc vụ Tưởng, Hoa Kiều, Đài Loan, nhân viên thường trú và lâm thời các nước tư bản, kể cả một số đối tượng thuộc các nước xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của chúng là móc nối cơ sở, thu thập tin tức về quân sự, kinh tế, chính trị; gây tâm lý chiến, kích động bạo loạn ở các vùng dân tộc và vùng đồng bào theo đạo Thiên Chúa.
Một trong những hướng tấn công của CIA, DIA và Tình báo Trung ương ngụy là từ năm 1957, chúng đã phát động cuộc chiến tranh gián điệp biệt kích đối với miền Bắc. Theo những nấc thang chiến tranh, chúng dần dần thiết lập ba trung tâm chỉ huy gồm: Sơ kỹ thuật, Sở liên lạc và Trung tâm Khăm Khao (Lào) với hàng chục khu huấn luyện để tung biệt kích ra miền Bắc, vùng giải phóng Lào cũng như chiến trường miền Nam. Từ năm 1961, Mỹ, ngụy ồ ạt tung biệt kích ra miền Bắc bằng ba phương thức xâm nhập: Đường không, đường biển và đường bộ (thậm thụt qua biên giới); nhằm vào các tỉnh vùng núi phía Bắc, dọc duyên hải (chủ yếu là khu IV cũ). Ngoài nhiệm vụ thu thập tin tức, phá hoại, biệt kích còn có nhiệm vụ móc
nối với các tổ chức phản động xây dựng “khu an toàn", thực hiện phương châm “đánh Cộng sản trong lòng Cộng sản". Năm 1964, Mỹ thông qua kế hoạch 34A, xác định 72 loại hình hoạt động phá hoại miền Bắc, trong đó thành lập đơn vị SOG trực thuộc Bộ chỉ huy quân sự Thái Bình Dương, trực tiếp điều hành cuộc chiến tranh gián điệp biệt kích đối với miền Bắc.
Nhìn lại âm mưu và tổ chức triển khai hoạt động gián điệp, phản gián của Mỹ, ngụy giai đoạn này thấy rõ: Mỹ chủ động tăng cường hoạt động trên mọi lĩnh vực, tập trung đầu tư phương tiện và lực lượng nhằm giành thế chủ động về quân sự cũng như chuẩn bị điều kiện mở rộng chiến tranh. Chiến tranh gián điệp đã thực sự trở thành mũi nhọn, mở đường cho các bước leo thang quân sự của Mỹ. Được Mỹ tài trợ và chỉ đạo, ngụy quyền đã thiết lập và hiện đại hoá các cơ quan gián điệp cũng như phản gián trên khắp lãnh thổ, hoạt động ráo riết trên mọi lĩnh vực, biến nước ta thành chiến trường nóng bỏng nhất thế giới vào nửa cuối của thế kỷ XX cả về quân sự và gián điệp.
Trước âm mưu, thủ đoạn hoạt động mới của địch, Đảng và Nhà nước ta kịp thời củng cố bộ máy tổ chức của các lực lượng tham gia đấu tranh chống gián điệp. Tháng 9-1961, Chính phủ ban hành Nghị định 132/CP, tổ chức lại ngành Công an. Theo Nghị định, các lực lượng nòng cốt làm công tác bảo vệ nội bộ, bảo vệ kinh tế, bảo vệ chính trị, trinh sát kỹ thuật được hoàn thiện một bước căn bản. Riêng lực lượng Bảo vệ chính trị được tăng cường, phát triển theo ngành dọc, đơn vị chỉ đạo cao nhất là Cục Bảo vệ chính trị (C61). Ngày 20-1-1962, Bộ Chính trị ra hai Nghị quyết 39/NQ-TW và 40/NQ-TW chỉ đạo về hai lĩnh vực quan trọng và cấp bách. Nghị quyết 39 về “Tăng cường công tác đấu tranh chống phản cách mạng để phục vụ tốt công cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà". Nghị quyết xác định đường lối đấu tranh chống phản cách mạng: “Đảng lãnh đạo, phát huy tinh thần yêu nước và ý thức cảnh giác cách mạng của nhân dân với sự hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn”; xác định phương châm, nguyên tắc, chính sách trong đấu tranh chống phản cách mạng và nêu bốn nhiệm vụ cần kíp:
1- Đảm bảo thuần khiết nội bộ, bảo vệ nghiêm mật các cơ quan đầu não, xí nghiệp quan trọng, các đơn vị vũ trang thường trực. 2- Căn bản quét được các đối tượng phản cách mạng đã bộc lộ và tương đối bộc lộ ở miền Bắc.
3- Loại trừ khả năng bạo loạn của kẻ địch.
4- Căn bản nắm được tình hình gián điệp ẩn nấp trong nội bộ và ngoài xã hội.
Nghị quyết số 40 về “củng cố, tăng cường lực lượng Công an”. Nghị quyết xác định: “...Cuộc đấu tranh chống gián điệp và bọn phản cách mạng ngày càng gay go, quyết liệt, lâu dài. Cho nên, việc củng cố lực lượng Công an là một việc hết sức quan trọng và phải tiến hành một cách tích cực...”. Hai nghị quyết được ban hành cùng một ngày thể hiện Đảng ta chủ động hoạch định những vấn đề căn bản đối với nhiệm vụ đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng; chú trọng củng cố, xây dựng lực lượng nòng cốt của cuộc đấu tranh, đảm bảo cho lực lượng nòng cốt vừa đáp ứng yêu cầu tham mưu, hướng dẫn vừa chiến đấu có hiệu quả trước quy mô, phương thức, thủ đoạn mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Để chủ động xây dựng thế trận an ninh đổi phó với âm mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, tháng 2-1960, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 186/CT-TW về quản lý, cải tạo những phần tử nguy hiểm cho an ninh xã hội. Tháng 12-1960, Bộ Công an ra Chỉ thị số 69/CT-P4 (kế hoạch 69), cụ thể hoá cách thức tổ chức thực hiện, xác định đối tượng cần tập trung cải tạo và cải tạo tại chỗ, quy chế phối hợp giữa cơ quan chuyên môn với chính quyền cơ sở. Hai Chỉ thị ra đời trong giai đoạn này có ý nghĩa to lớn, cho thấy công tác đấu tranh chống phản cách mạng được huy động cao nhất và triệt để nhất sức mạnh của chính quyền cơ sở và của cộng đồng. Kết quả của công tác cải tạo không chỉ giữ vai trò xoá bỏ cơ sở xã hội bọn gián điệp có thể lợi dụng mà còn nâng cao đáng kể tinh thần cảnh giác, nhận thức về địch, ta đối với các tầng lớp nhân dân. Do đó khi Mỹ, ngụy ồ ạt tung gián điệp, gián điệp biệt kích ra miền Bắc, chúng hầu như không còn chỗ dựa để ẩn náu và tổ chức hoạt động.
Đối với công tác tổ chức quần chúng tham gia phòng chống gián điệp, Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chỉ thị, xác định cấp xã là
địa bàn chiến lược và giao cho các Cấp uỷ Đảng cơ sở chịu trách nhiệm tổ chức lực lượng tham gia. Công an nhân dân chịu trách nhiệm vận động, hướng dẫn nghiệp vụ, xây dựng nội dung hoạt động cho phong trào “Bảo mật phòng gian", “Bảo vệ trị an". Nhờ đó, đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng của cán bộ và nhân dân; nâng cao một bước kỹ năng phòng gian và trừ gian của các tầng lớp nhân dân ở mọi vùng miền. Sự đóng góp của quần chúng vì thế đã trở thành thế trận “thiên la địa võng", hỗ trợ đắc lực cho Công an phát hiện và đấu tranh với bọn phản cách mạng nói chung, bọn gián điệp nói riêng.
Đối với lực lượng nòng cốt đấu tranh chống gián điệp, căn cứ Chỉ thị số 20/CT/TW, ngày 22-6-1961, của Bộ Chính trị “về công tác phòng chống gián điệp biệt kích", lãnh đạo Bộ liên tiếp ra ba Chỉ thị (754, 755, 756) chỉ rõ cách thức tổ chức các lực lượng phối hợp, xác định chức trách, chế độ thông tin báo cáo, địa bàn trọng điểm trong phòng chống gián điệp biệt kích. Bộ quyết định thành lập “Đội chống gián điệp biệt kích", đặt tại Cục 61, đồng thời chỉ đạo Ty Công an trọng điểm thành lập tại Ty Công an “Tổ chống gián điệp biệt kích” để chỉ đạo và hướng dẫn phòng chống gián điệp biệt kích trên địa bàn từng tỉnh. Bộ liên tiếp mở Hội nghị về phản gián, Hội nghị bảo vệ nội bộ, Hội nghị ba chuyên đề nhằm nâng cao năng lực chỉ huy chỉ đạo, kỹ năng tác chiến cho lực lượng nòng cốt chống gián điệp, bảo vệ nội bộ, bảo vệ kinh tế.
Như vậy, ngay khi Mỹ, ngụy phát động “Chiến tranh đặc biệt", xúc tiến kế hoạch mở rộng hoạt động gián điệp ra miền Bắc thì Trung ương Đảng, Bộ Công an đã chủ động chuẩn bị chiến trường, tổ chức lực lượng và hoạch định biện pháp đấu tranh, sẵn sàng đón đợi kẻ thù.
Triển khai công tác cải tạo những phần tử nguy hại cho an ninh xã hội, Đáng chỉ rõ phương châm "kiên quyết và thận trọng"; Công an là nòng cốt, chính quyền các cấp, các cơ quan đoàn thể và quần chúng nhân dân từng xóm, từng bản phối hợp chặt chẽ; rà soát, lập danh sách đối tượng theo quy định của "kế hoạch 69". Trên cơ sở đó, cấp uỷ, chính quyền cùng với lực lượng Công an soát xét lần cuối mới ra quyết định đưa đi tập trung cải tạo hoặc cải tạo tại chỗ.
Từ năm 1961 đến năm 1964 đã tập trung cải tạo 11.365 đối tượng là ngụy quân, ngụy quyền, gián điệp, chỉ điểm, đảng phái chính trị phản động. Qua công tác cải tạo, lực lượng An ninh phát hiện thêm nhiều nhen nhóm phản động và đầu mối gián điệp. Trong hai năm (1961, 1962) khám phá 32 tổ chức phản động, bắt 468 tên, trong đó có 11 tổ chức phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa, gồm 90 tên. Thông qua công tác tập trung cải tạo và trấn áp các tổ chức phản động, lực lượng An ninh đã khám phá 50 vụ án gián điệp, bắt 277 tên gián điệp cài lại sau Hiệp định Giơnevơ. Trong đó có một số vụ điển hình được phát hiện thông qua kết quả trấn áp các tổ chức phản động và kết quả của công tác cải tạo như: Vụ Châu Thanh - gián điệp Mỹ câu kết với bọn phản động trong Thiên Chúa ở Nghệ An (1962); vụ linh mục Nguyễn Văn Thông (10-1964); vụ Nguyễn Phú Thọ; vụ GM65 ở Hải Phòng... Kết quả đấu tranh trong giai đoạn này đã được đồng chí Bộ trưởng khẳng định tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 20, năm 1965: "Đã căn bản hoàn thành công tác tập trung cải tạo, đã truy quét một số khá lớn những phần tử nguy hiểm cho an ninh xã hội, trừng trị mạnh mẽ những phần tử phản cách mạng hiện hành"1 (Báo cáo tổng kết tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 20, tháng 1-1964 - Trần Quốc Hoàn).
Từ năm 1960, Đảng và Nhà nước kêu gọi kiều bào ở nước ngoài trở về xây dựng quê hương, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ ngoại giao trên trường quốc tế. Lợi dụng tình hình này, cơ quan gián điệp Mỹ xúc tiến mạnh phương thức gián điệp lâm thời, thường trú và trà trộn trong cộng đồng người Việt về xây dựng Tổ quốc. Lực lượng An ninh đã chủ động triển khai công tác nắm tình hình, phát hiện 8 điệp viên trà trộn trong số 20 ngàn Việt kiều trở về, đã lập án đấu tranh làm rõ đường dây hoạt động, mục tiêu xâm nhập của từng điệp viên. Trong đó chuyên án LH17 kéo dài 10 năm, ta khai thác được nhiều tin tức có giá trị từ Trung tâm chỉ huy của địch. Trên lĩnh vực đấu tranh chống gián điệp hoạt động theo phương thức lâm thời và thường trú, ta đã triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, làm tốt công tác vận động quần chúng, tiến hành giám sát, bao vây không để cho các đối tượng xâm nhập mục tiêu, móc nối cơ sở, đặc biệt là các đối tượng quốc tịch Canađa, Ấn Độ, Pháp. Qua công tác
trinh sát đã tham mưu cho Chính phủ, buộc Pháp phải rút 18 điểm là trụ sở đại diện đóng trên các địa bàn chiến lược về tập trung tại một địa điểm ở Hà Nội. Năm 1961, lực lượng An ninh thành lập đơn vị trinh sát 19-5 triển khai kế hoạch M1, M2, từ khống chế đường giao thông đến thực hiện hàng ngàn lượt trinh sát thâm nhập vào cơ quan thường trú của nước A2, thu được nhiều tài liệu có giá trị, giúp Đảng và Nhà nước nắm chắc âm mưu của kẻ thù. Tin tức thu từ hai kế hoạch M1, M2, còn giúp Đảng nắm được thực chất thái độ của một số nước xã hội chủ nghĩa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Đặc biệt, lực lượng An ninh đã dự đoán được âm mưu và hoạt động của đối tượng X70, X77; tổ chức điều tra củng cố chứng cứ và tham mưu cho Đảng đề ra đối sách thích hợp với hai quốc gia có quan hệ chiến lược này.
Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1965 vừa là giai đoạn mở đầu, vừa là giai đoạn cao trào của cuộc đấu tranh chống gián điệp biệt kích do Mỹ, ngụy tung ra miền Bắc. Lực lượng An ninh quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, thực hiện "phòng" và “chống” với phương châm “giữ bên trong là chính, giữ bên dưới là chính”, “quét sạch nhà để đón khách không mời mà đến". Từ hai toán gián điệp biệt kích đầu tiên xâm nhập vào Sơn La và Hồng Quảng giữa năm 1961, Vụ Bảo vệ chính trị lập chuyên án PY27 và BK63 đấu tranh với chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” - “Trò chơi nghiệp vụ" và đã nâng tầm chiến thuật đánh địch thành nghệ thuật. Quá trình đấu tranh, các Ban chuyên án khai thác được âm mưu tổng quát của Mỹ, ngụy, nắm được số biệt kích đang huấn luyện ở miền Nam, biết trước được những toán chúng sẽ tung ra miền Bắc để chủ động bố trí trận địa vây bắt các toán xâm nhập hoặc lập chuyên án dụ địch hoạt động theo kế hoạch của ta. Để chủ động truy bắt gián điệp biệt kích, không những ta thành lập những đơn vị trinh sát gồm nhiều binh chủng tham gia, phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân vũ trang mà còn chú trọng công tác hướng dẫn, tập dượt cho quần chúng tiến hành “'phòng” và “chống” biệt kích ngay tại địa bàn thôn, xã. Vì vậy đã xây dựng được thế trận phòng ngừa và đánh địch hoàn chỉnh, như thiên la địa võng đối với kẻ thù. Từ năm 1961 đến năm 1965, đã bắt 56 toán xâm nhập bằng
đường không gồm 353 tên, thu hàng chục tấn vũ khí tối tân, phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm. Suốt 5 năm đấu tranh, lực lượng An ninh không để địch gây ra một vụ phá hoại nào, không để một điệp viên nào móc nối thành công với cơ sở của chúng ở trong nội địa. Ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, cơ quan CIA chỉ thị cho điệp viên “Hạ Long" - Phạm Chuyên, xác định tọa độ, mục tiêu, chỉ điểm cho máy bay đánh phá vùng Đông Bắc và Hải Phòng. Song qua đầu mối Chuyên, lực lượng An ninh cung cấp cho địch những tin giả làm cho máy bay và tàu chiến không đánh phá trúng mục tiêu như chúng mong muốn. Giai đoạn đầu tiên của cuộc đấu mưu, đấu trí, lực lượng An ninh đã giành thế chủ động, điều khiển trung tâm địch hoạt động theo thế trận ta đã chuẩn bị sẵn. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của các giai đoạn tiếp theo.
Ở miền Nam, để tăng cường công tác đấu tranh chống phản cách mạng, Trung ương Cục quyết định thành lập "Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam”, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung Ương Cục. Sang năm 1962, hệ thống Ban An ninh các tỉnh, huyện đã hoàn chỉnh và phát triển đến xã, ấp trong vùng ta kiểm soát. Cũng năm 1962, An ninh miền Bắc chi viện 260 cán bộ dày dạn kinh nghiệm cùng phương tiện thông tin liên lạc, giúp An ninh miền Nam thiết lập 5 cụm liên lạc bằng VTĐ trên toàn chiến trường, đảm bảo thông tin thông suốt giữa các khu với Trung ương Cục và với Bộ. Các lực lượng trinh sát Bảo vệ chính trị, Điệp báo, An ninh đô thị, Trinh sát vũ trang,... nhanh chóng được thành lập, được tăng cường quân số cũng như nghiệp vụ đáng kể do có sự chi viện tích cực của An ninh miền Bắc. Để đáp ứng yêu cầu bảo vệ Đảng, cơ sở cách mạng, Trung ương Cục ra Chỉ thị số 11/CTR giao cho lực lượng An ninh: “Xây dựng cơ sở phản gián trong nội bộ địch, chỉ đạo theo nguyên tắc: đơn tuyến, bí mật". Chỉ thị xác định: “Công tác phản gián là một công tác đặc biệt quan trọng... phải điều tra về tổ chức và hoạt động của gián điệp, chú trọng gián điệp Mỹ...”. Đối phó với hoạt động ráo riết, chồng chéo của hệ thống gián điệp Mỹ, ngụy, Trung ương Cục tiếp tục ra Chỉ thị số 69/CT, nhấn mạnh công tác chống gián điệp: “Hoạt động do thám gián điệp của địch là hoạt
động chiến lược nhằm phục vụ âm mưu quân sự, chính trị của địch hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng. Vì vậy, đánh bại hoại động gián điệp là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa lớn làm thất bại chiến tranh đặc biệt của Mỹ". Đối với công tác điệp báo và an ninh đô thị, Trung ương Cục tập trung chỉ đạo và xác định rõ yêu cầu: phải nắm cho được âm mưu địch từ trung tâm xuất phát; giao cho lực lượng Trinh sát vũ trang, An ninh vũ trang, vừa nắm hoạt động của địch vừa tổ chức tập kích vào sào huyệt, các cơ quan chỉ huy đầu não của chúng. Lực lượng trinh sát nội tuyến chịu trách nhiệm bảo vệ nội bộ các cơ quan kháng chiến, ngăn chặn hoạt động gián điệp ở vùng ta kiểm soát. Qua thực tiễn đấu tranh, tháng 1-1963, Ban An ninh Trung ương Cục quyết định mở Hội nghị lần thứ nhất nhằm tập huấn nghiệp vụ, định hướng nhận thức cho lực lượng An ninh toàn miền. Hội nghị xác định: “Công tác chống gián điệp ở miền Nam hiện nay không phải là lấy nghiệp vụ kỹ thuật để đối phó với nghiệp vụ kỹ thuật của địch... điều mấu chốt là dùng lực lượng chính trị, dùng sức mạnh của quần chúng để đối phó. Có như vậy mới đảm bảo được thắng lợi".
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Ban An ninh Trung ương Cục, An ninh các khu, tỉnh củng cố một bước lực lượng Trinh sát chính trị và An ninh đô thị, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn phong trào quần chúng ở vùng ta kiểm soát cũng như vùng còn đang bị địch khống chế. Ngày 28-8-1964, Trung ương Cục ban hành Chỉ thị số 03/CT: “Quy định nhiệm vụ an ninh là giáo dục và động viên sâu rộng tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân... Phát động và củng cố phong trào quần chúng bảo mật phòng gian đều khắp trong nội bộ và ngoài xã hội, liên tục đi vào chiều sâu trên cả ba vùng". Tháng 1-1965, Trung ương Cục ra Chỉ thị 3/6/CT, cụ thể hoá một số mặt công tác trọng tâm: “Tăng cường bảo mật phòng gian, tích cực và chủ động trừ gian, trấn áp do thám, gián điệp và phản động, đảm bảo trong sạch vùng giải phóng, vùng căn cứ...”. Năm 1964, miền Bắc tiếp tục chi viện cho An ninh miền Nam 500 cán bộ, số cán bộ chi viện được phân về các chiến trường trọng điểm, bố trí vào các vị trí chủ chốt ở các cấp từ khu đến huyện. Sự chi viện cán bộ cốt cán của An ninh miền Bắc đã góp phần thúc đẩy
một bước về nghiệp vụ đánh địch, nâng cao hiệu quả chiến đấu của lực lượng nòng cốt chống gián điệp cũng như chỉ đạo phong trào “Bảo mật phòng gian”.
Để bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ địa, bảo vệ tổ chức Đảng và phong trào cách mạng, lực lượng An ninh chú trọng công tác bóc gỡ mạng lưới gián điệp hoạt động ở khu vực “vành đai và vùng giải phóng. Trong đó tập trung phát hiện, bóc gỡ đầu mối nội gián. Kết quả tổng hợp từ 1961 đến 1965, đã khám phá 220 vụ nội gián, điển hình là bóc gỡ mạng lưới gồm 18 tên do tên Căn và Quýnh cầm đầu, chui vào tổ chức Đoàn thanh niên giải phóng ở Thủ Dầu Một. Năm 1962, An ninh Khánh Hoà phá hai tổ chức gián điệp hoạt động trong vùng căn cứ kháng chiến, bắt 131 tên. Lực lượng An ninh các tỉnh phối hợp với bộ đội địa phương bắt hàng trăm tên gián điệp do cơ quan tình báo Mỹ, ngụy tung ra hoạt động ở các khu hành lang, các tuyến đường giao thông liên lạc; vô hiệu hoá hàng ngàn cơ sở tai mắt của điệp viên trong các cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, hàng ngũ phật tử.
Lực lượng Trinh sát chính trị, An ninh đô thị, An ninh vũ trang tích cực xây dựng mạng lưới cơ sở trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền và các đảng phái chính trị, thu được những tin tình báo giá trị giúp cho công tác phản gián có điều kiện phát triển. Hàng trăm đầu mối gián điệp, chỉ điểm đã được phát hiện trong giai đoạn này là nhờ các cơ sở trong nội thành, nội thị phát hiện. Đặc biệt là lực lượng Trinh sát vũ trang từ nông thôn đến thành thị đều ra sức trừ diệt bọn gián điệp chỉ điểm. Ở địa bàn thành phố, thị xã, ta có điều kiện và tập trung diệt trừ một số tên cầm đầu gian ác, sĩ quan tình báo, răn đe bọn tay sai chỉ điểm. Vùng nông thôn, lực lượng An ninh vũ trang tập trung diệt trừ bọn chỉ điểm ở xã, ấp, góp phần tạo đà cho quần chúng đứng lên diệt ác phá kềm. Phong trào diệt ác phá kềm vì vậy phát triển rộng khắp, hệ thống chính quyền cơ sở được mở rộng; hình thái chính quyền “đêm ta ngày địch” có bước phát triển. Đây là điều kiện quan trọng giúp lực lượng An ninh thâm nhập vào địa bàn, bám dân bám đất để hoạt động. Công tác đấu tranh chống gián điệp ở vùng ta kiểm soát kết hợp với công tác diệt ác phá kềm ở vùng địch kiểm soát, đã dần dần hình thành vùng đệm,
tạo điều kiện để ta xây dựng được vành đai an toàn bảo vệ vùng giải phóng và căn cứ địa cách mạng.
Diễn biến tình hình trên có thể thấy, mặt trận đấu tranh chống gián điệp ở miền Nam giai đoạn này diễn ra trong bối cảnh lịch sử ngặt nghèo và vô cùng khó khăn. Đế quốc Mỹ là kẻ cầm đầu, thâu tóm toàn bộ các cơ quan tình báo gián điệp, cơ quan phản gián và đàn áp với sự hợp lực của lực lượng quân sự hùng hậu. Ngoài tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm hoạt động, chúng còn có thuận lợi cơ bản là chúng đang nắm chính quyền, có đủ điều kiện để chủ động hoạch định các âm mưu cũng như tổ chức hoạt động phục vụ yêu cầu chiến tranh. Trong khi đó, lực lượng cách mạng của ta vừa được phục hồi, đang bước đầu xây dựng; vừa phải bảo vệ mình trước sức tấn công tàn khốc của kẻ thù, vừa phải tổ chức đánh lại chúng trong điều kiện vật chất kỹ thuật, kinh nghiệm hoạt động còn rất hạn chế. Song chúng ta có thuận lợi căn bản là cuộc đấu tranh chống gián điệp được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng tổ chức lực lượng, huy động được tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Trong đấu tranh đã kết hợp giữa “phòng" và “chống”, kết hợp giữa sức mạnh của quần chúng với công tác nghiệp vụ của lực lượng nòng cốt để triển khai các hình thức đánh địch. Do có chủ trương đúng, tổ chức lực lượng đấu tranh thích hợp nên dù thua kém địch về nhiều mặt song thế của ta không ngừng lớn mạnh; cuộc đấu tranh diễn ra rộng khắp, ngay từ cấp cơ sở. Trong đó chủ trương đấu tranh chống gián điệp, chỉ điểm kết hợp chặt chẽ với phá kềm, phá chính quyền cơ sở của địch là chỉ đạo mang tính chiến lược, ngày càng phát huy thế mạnh của ta, khoét sâu yếu điểm của địch. Đây là mặt công tác được quán triệt, được chỉ đạo chặt chẽ và thực hiện thành công nhất ở giai đoạn này. Bọn gián điệp, chỉ điểm ở cấp cơ sở bị trừng trị hoặc lo sợ mà không dám hoạt động trước áp lực chính trị của quần chúng. Hệ thống chính quyền cơ sở của địch bị phá, đồng thời ta cũng xây dựng ngay hệ thống an ninh ấp, xã. Nơi nào chưa đủ điều kiện phá kềm, ta chủ trương biến chính quyền của địch thành chính quyền của ta hoặc “đêm ta ngày địch". Hình thức đấu tranh này không mới so với thời kỳ chống Pháp nhưng đã phát triển ở trình độ cao hơn,
linh hoạt hơn và thích ứng với cuộc chiến tranh nhân dân của thời kỳ chống Mỹ.
Tóm lại: Từ năm 1961 đến năm 1965, cả nước bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với đế quốc Mỹ, đánh bại bước leo thang chiến tranh mới. Trên trận tuyến chống gián điệp, cuộc đấu tranh càng quyết liệt hơn bởi đế quốc Mỹ và tay sai triển khai đầy đủ các hệ loại gián điệp với quy mô lớn và ngày càng ráo riết trên khắp các vùng ở chiến trường miền Nam cũng như miền Bắc. Song Đảng đã chủ động đề ra những chủ trương đúng trên cơ sở dự đoán, dự báo đúng âm mưu và hoạt động của đối phương. Vì thế tổ chức lực lượng đấu tranh ở cả hai miền phù hợp với thực tế, phát huy được thế mạnh của ta, khai thác được điểm yếu của địch. Lực lượng Công an khẳng định được vai trò nòng cốt trên mặt trận đấu tranh; quần chúng nhân dân được tổ chức chặt chẽ trên cơ sở phát huy tinh thần yêu nước ý thức cảnh giác cách mạng, góp phần quan trọng xây dựng thế trận thiên la địa võng “bịt tai, che mắt" kẻ thù. Trong giai đoạn này có thể rút ra một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Công tác đấu tranh chống gián điệp ở miền Nam gắn liền với phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quân và dân ta ở nông thôn cũng như thành thị. Đấu tranh chống gián điệp để bảo vệ tổ chức, bảo vệ cơ sở của Đảng hỗ trợ phong trào quần chúng, phá chính quyền cơ sở của địch. Đây là thắng lợi có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm phá sản ở khâu quan trọng nhất của chiến lược “chiến tranh đặc biệt".
Giai đoạn này, công tác đấu tranh chống gián điệp đã thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ đường lối của Đảng, bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ cách mạng; hỗ trợ quần chúng ở vùng địch kiểm soát đứng lên phá kềm, xây dựng hệ thống chính quyền cấp cơ sở, hệ thống an ninh ấp, xã. Chống gián điệp đã kết hợp với hoạt động tình báo, nắm âm mưu và kế hoạch hoạt động của địch, tạo điều kiện để diệt trừ bọn tay sai ở cấp cơ sở, một số tên ác ôn khét tiếng.
Thứ hai: Quán triệt chủ trương của Đảng, lực lượng An ninh đã tiến hành đồng thời các biện pháp nghiệp vụ, kết hợp với tổ chức quần chúng; huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân vào
nhiệm vụ phòng và chống gián điệp ngay khi kẻ địch bắt đầu triển khai các kế hoạch tung gián điệp ra miền Bắc. Đã chủ động chuẩn bị trận địa đón đợi và đánh thắng các phương thức hoạt động gián điệp của đối phương, làm thất bại hoàn toàn âm mưu và hoạt động của chúng. Trong đấu tranh chuyên án, lực lượng An ninh tiếp tục áp dụng chiến thuật “dùnq người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch” thắng lợi và từng bước được nâng tầm thành nghệ thuật.
Đấu tranh chống gián điệp gắn liền với đấu tranh chống phản động, kết hợp chặt chẽ, đồng bộ và hỗ trợ đắc lực cho nhau. Đấu tranh chống phản động dẫn đến làm mất chỗ dựa, xoá bỏ cơ sở xã hội của bọn gián điệp. Trong giai đoạn này chúng ta đã tiến hành đồng thời hai mặt công tác với tinh thần kiên quyết và thận trọng nên không những giữ vững được bên trong, bên dưới mà còn tích cực tấn công kẻ địch, kể cả đưa người vào Trung tâm chỉ huy của địch tại Sài Gòn nắm âm mưu từ Trung tâm chỉ huy của chúng.
Thứ ba: Tiếp tục duy trì và phát triển ở trình độ cao hơn phong trào quần chúng tham gia phòng chống phản cách mạng. Vai trò của quần chúng biểu hiện rõ nét trong công tác cải tạo các phần tử nguy hại cho an ninh xã hội; công tác phòng gian và trừ gian, góp phần củng cố an ninh ở những địa bàn xung yếu quan trọng, làm mất những điều kiện gián điệp có thể lợi dụng để ẩn nấp và hoạt động. Phong trào quần chúng vừa có bề rộng, vừa có chiều sâu đã hình thành thế trận tương đối hoàn chỉnh phòng và chống phản cách mạng nói chung, gián điệp nói riêng. Phong trào ngày càng xuất hiện nhiều hình thức phong phú, nội dung thích hợp với từng vùng dân cư, địa bàn cụ thể nên tác dụng thực tiễn cao. Phong trào “Bảo vệ trị an", “Bảo mật phòng gian" không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với chống gián điệp mà còn là mặt hoạt động quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng miền Bắc vững mạnh, làm hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.
3. Giai đoạn từ cuối năm 1965 đến cuối năm 1972
Từ năm 1965 đến năm 1972, Mỹ lần lượt thực hiện hai chiến lược chiến tranh là Chiến tranh cục bộ và Việt Nam hoá chiến tranh. Mục đích của hai chiến lược về căn bản không đổi, nhưng triển khai chiến lược sau trong thế yếu, thế thất bại so với chiến lược trước. Bình định vẫn là xương sống của hai chiến lược, nhưng thời kỳ Chiến tranh cục bộ là “tìm - diệt”, thời kỳ Việt Nam hoá chuyển sang “quét - giữ". Khi chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh thất bại cũng là khi đế quốc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Pari.
Đặc điểm cơ bản của chiến lược “Chiến tranh cục bộ” là: Mỹ ồ ạt đưa lực lượng lớn các binh chủng và khí tài vào miền Nam cùng với ngụy quân tham chiến. Lợi dụng thế mạnh về quân sự, từ tháng 8- 1965, Mỹ - ngụy liên tục mở các chiến dịch càn quét lớn, dài ngày vào vùng hành lang và căn cứ của ta với ý đồ “đánh gẫy xương sống Cộng sản", “quét sạch du kích", mở rộng vùng kiểm soát ra nông thôn, mua chuộc các tầng lớp tay sai, tổ chức bộ máy tề điệp rộng khắp trong các tầng lớp nhân dân. Cùng với tăng cường hoạt động quân sự ở miền Nam, đế quốc Mỹ mở rộng quy mô, cường độ đánh phá ra miền Bắc bằng không quân và hải quân với dã tâm “đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá”.
Để mở đường cho bước leo thang quân sự, Mỹ, ngụy tập trung củng cố, tăng cường lực lượng tình báo chiến lược và chiến thuật, quân sự và dân sự. Tổ chức tình báo quân sự CSC được thành lập, đặt Trung tâm chỉ huy tại Vũng Tàu, phát triển hệ thống theo chiều dọc tới cấp Trung đoàn của quân Mỹ. Ngụy quân thành lập “Biệt đội sưu tầm” trực thuộc F2 Bộ tổng tham mưu, Biệt đội sưu tầm có nhiệm vụ thọc sâu vào vùng giải phóng, căn cứ cách mạng như: chiến khu Đ, chiến khu Dương Minh Châu, khu vực căn cứ Tây Ninh, K5, K6, K9. Mỹ tăng viện trợ, bổ sung trang thiết bị, tăng cường sức chiến đấu cho cảnh sát dã chiến; đưa lực lượng cảnh sát từ 26.000 tên lên 72.800 tên.
Cơ quan CIA triển khai đầu mối xuống đến xã, ấp dưới danh nghĩa trá hình “Cơ quan phối trí an ninh bình định”, “Dân ý vụ"... phân loại dân chúng (phân chia tầng lớp nhân dân thành 17 loại), vừa thu tin tình báo vừa tiến hành tâm lý chiến, chiêu hồi, chiêu hàng và cài cắm nội gián. CIA củng cố thêm một bước các tổ chức
an ninh, tình báo ngụy, tăng biên chế lên gần 15 vạn tình báo viên chuyên nghiệp, đưa những tên cốt cán ra nước ngoài tu nghiệp hoặc huấn luyện cấp tốc dưới danh nghĩa tham quan, nghỉ mát, chữa bệnh. Các tổ chức tình báo ngụy phát triển dày đặc, chúng cài nhân viên vào các cơ quan của ngụy quyền, ngụy đảng, các lực lượng chính trị, tôn giáo để quét vét cơ sở của ta. Tổ chức các ổ, dây do thám chốt giữ tuyến giao thông, xây dựng các kế hoạch nội gián đánh vào hàng ngũ cách mạng, hòng thực hiện chủ trương: “Muốn thắng Cộng sản không những phải đánh tan chủ lực mà còn phải tiêu diệt cho được hạ tầng cơ sở cách mạng".
Khi chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, Mỹ - ngụy chuyển hướng hoạt động tình báo vừa để giành dân, chiếm đất, vừa chuẩn bị cho kế hoạch hậu chiến. Chúng không chỉ giữ nguyên quy mô, mức độ như thời kỳ "Chiến tranh cục bộ" mà còn triển khai hàng loạt kế hoạch mới. Trong đó, các cơ quan tình báo Mỹ ngụy đặc biệt chú trọng phương thức nội gián với hàng loạt kế hoạch lớn như: “Kế hoạch Bảo quốc”, “Kế hoạch Hải Yến”, “Kế hoạch P86"..:, thành lập “Biệt đội Thiên Nga” do CIA trực tiếp chỉ đạo, phát triển cơ sở trong lực lượng cảnh sát các cấp, chuyên trách thu thập tin tức và chui vào nội bộ ta. Mỹ, ngụy áp dụng chủ trương “Bốn mạnh dạn": Mạnh dạn khai thác hết số người bị bắt, đầu hàng, đầu thú; mạnh dạn khống chế; mạnh dạn giao việc; mạnh dạn tung trở lại hàng ngũ cách mạng. Cuối năm 1968, Tổng thống Thiệu ban bố sắc lệnh 280A/TT/SL, thành lập “Uỷ ban Phượng Hoàng”, là chương trình tình báo quốc gia lớn nhất miền Nam với mục đích tình báo hoá toàn bộ hệ thống chính quyền ngụy ở tất cả các cơ quan từ Trung ương đến cơ sở. Cấp trưởng của hệ thống chính quyền là Chủ tịch Uỷ ban Phượng Hoàng; CIA trực tiếp chỉ đạo và làm cố vấn cho từng cấp. Đây là kế hoạch tình báo tổng hợp giữa quân sự và dân sự, tồn tại từ tháng 7-1968 cho đến khi ngụy quyền Sài Sòn sụp đổ hoàn toàn.
Đối với miền Bắc, Mỹ - ngụy dùng mọi thủ đoạn, sử dụng mọi loại phương tiện để triển khai hoạt động gián điệp: Sử dụng hệ thống vệ tinh, máy bay trinh sát, cây nhiệt đới, nghe trộm điện thoại... Sử dụng các nhân viên lâm thời, thường trú là đồng minh của Mỹ và các
nước phụ thuộc vào Mỹ để móc nối cơ sở, thu thập tin tức về chính trị, quân sự, kinh tế xã hội; về viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc đối với nước ta. Cài gián điệp vào hàng ngũ lưu học sinh, cán bộ miền Nam ra Bắc học tập, công tác; đánh nội gián vào hàng ngũ cán bộ quân sự, dân sự dưới dạng lạc ngũ, mất tích, trao trả. Ngoài tung gián điệp biệt kích vào sâu trong đất liền, Mỹ - ngụy còn sử dụng tàu cao tốc bắt cóc ngư dân khai thác, giao nhiệm vụ rồi đánh trở lại; sử dụng “Người nhái” thuộc lực lượng Biệt Hải, thâm nhập vùng duyên hải phá hoại cầu cống, cơ sở vật chất.
Thời kỳ này không chỉ Mỹ và tay sai tổ chức hoạt động gián điệp ở miền Bắc, mà điệp viên của một số nước, kể cả các nước xã hội chủ nghĩa cũng ráo riết hoạt động nhằm điều chỉnh quan điểm, đường lối của Đảng ta theo định hướng của họ. Trong đó chủ yếu là điệp viên của X77 và X70, họ đã xây dựng cơ sở, móc nối với nhiều đối tượng trong cơ quan lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang. Như vậy, ở giai đoạn này, hoạt động gián điệp đối với nước ta vô cùng quyết liệt về mức độ và quy mô với nhiều đối tượng khác nhau. Trong đó, đối tượng X70, X77 phát triển mạnh theo chiều hướng chủ yếu là nhằm vào nội bộ ta và hoạt động nội gián. Song đối tượng chính, nguy hiểm nhất vẫn là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng.
Đối phó với âm mưu và hoạt động của địch, tháng 3-1965, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 145/CT-TW về “Giữ gìn an ninh miền Bắc, đối phó bước leo thang mới của đế quốc Mỹ”. Tiếp theo, Trung ương Đảng ra Chỉ thị 125/CT-TW vê “Tăng cường giữ gìn an ninh ở miền Bắc, kiên quyết đánh bại âm mưu hoạt động gián điệp và phản cách mạng khác trong tình hỉnh chiến tranh phá hoại”. Hai chỉ thị đều xác định những công tác cấp bách về tổ chức lực lượng phòng chống, đối sách với các đối tượng phản cách mạng và cơ quan tình báo nước ngoài. Trung ương Đảng giao cho Bộ Công an củng cố hồ sơ, đưa một số vụ gián điệp ẩn nấp, gián điệp biệt kích ra xử công khai để phục vụ công tác ngoại giao và nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng cho nhân dân. Đối với cuộc đấu tranh chống gián điệp biệt kích, Trung ương Đảng nhấn mạnh vai trò của quần chúng, xác định cấp xã là địa bàn chiến lược, lực lượng tại chỗ là cơ
bản và chỉ rõ tại Chỉ thị số 145/CT: “Muốn giành chủ động trong cuộc đấu tranh trước hết phải nắm được tình hình và chuẩn bị chiến trường. Muốn làm được như vậy, từng địa phương phải nghiên cứu tình hình chính trị và địa lý từng vùng, phát hiện những địa bàn nào biệt kích có thể xâm nhập, kiểm tra kỹ đối tượng ở địa bàn đó để nhận định khả năng biệt kích có thể xâm nhập ở đâu, bọn này sẽ về, khi về liên lạc với bọn nào"; Chỉ thị 125CT- TW xác định: “Trong cuộc đấu tranh chống gián điệp biệt kích nói riêng, chống phản cách mạng nói chung, vai trò của cấp xã là hết sức quan trọng, có một ý nghĩa chiến lược, vì vậy cần chú trọng củng cố tổ chức Đảng, chính, quyền xã, Công an, xã đội, dân quân... để cho các tổ chức ấy có thể lãnh đạo nhân dân đánh địch”. Quán triệt các chỉ thị của Đảng, Bộ Công an xây dựng nhiều kế hoạch phòng ngừa, truy lùng gián điệp biệt kích cho từng địa bàn: rừng núi, vùng biển, vùng Thiên Chúa giáo, vùng tề ngụy; truy lùng ban ngày, ban đêm; truy lùng khi có trăng, khi không có trăng... phổ biến đến từng người dân, xây dựng phương án và tổ chức tập dượt thuần phục. Để đối phó với gián điệp hoạt động theo phương thức P86, lãnh đạo Bộ Công an đã tham mưu cho Đảng và ban hành chỉ thị hướng dẫn đấu tranh: “Công tác đấu tranh chống phương thức này hết sức phức tạp... phải kiên trì giáo dục thuyết phục, phân hoá để họ tự khai báo, chỉ trinh sát với những phần tử ngoan cố, làm tay sai cho địch. Trong từng trường hợp có thể lập kế hoạch phái khiển đánh trở lại".
Đến năm 1965, Trung ương Đảng và Bộ Công an đã hoạch định tương đối hoàn chỉnh và sát hợp về phương hướng, giải pháp, quy mô đấu tranh cũng như đối sách với từng phương thức gián điệp. Sự chỉ đạo của Đảng, của Bộ cho thấy chúng ta đã chủ động chuẩn bị chiến trường, chủ động bố trí lực lượng, sẵn sàng đánh bại cuộc chiến tranh gián điệp. Công tác chuẩn bị chiến trường được tập trung vào những vấn đề mấu chốt quyết định đến thắng lợi là: Tiếp tục cải tạo những phần tử nguy hiểm cho an ninh xã hội, làm mất chỗ dựa của gián điệp; xác định phòng và chống phải kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ cho nhau; xác định địa bàn cấp thôn, xã là địa bàn chiến lược, lực lượng tại chỗ là lực lượng cơ bản.
Để chủ động chuẩn bị thế trận, lực lượng An ninh tập trung tham mưu cho Đảng bố trí lực lượng triển khai đồng bộ công tác phòng ngừa, đồng thời tập trung giải quyết những công tác cấp bách và chiến lược. Từ năm 1965 đến năm 1972, toàn miền Bắc tập trung hoàn thành công tác cải tạo những phần tử nguy hại cho an ninh xã hội, xoá bỏ cơ sở quan trọng nhất bọn gián điệp có thể móc nối. Lực lượng An ninh triển khai công tác sưu tra chính trị, phân loại đối tượng, xây dựng cơ sở tiếp cận, theo dõi chặt di biến động của số đối tượng hiềm nghi; tiếp tục đấu tranh với các tổ chức phản động hiện hành, ngăn chặn âm mưu bạo loạn của các tổ chức manh động chống chính quyền. Thông qua kết quả công tác sưu tra, công tác đấu tranh chống phản động, ta phát hiện và truy quét hầu hết số đầu mối gián điệp đã móc nối với bọn phản động. Đã tổ chức đấu tranh thắng lợi 10 chuyên án gián điệp cài lại, bắt 38 đối tượng. Đây là một thắng lợi lớn, là kết quả của công tác điều tra nghiên cứu; kết quả của quá trình phối hợp chặt chẽ giữa chống phản động với chống gián điệp.
Đối với số gián điệp xâm nhập qua giới tuyến và biên giới, xâm nhập bằng đường biển hoặc từ miền Nam qua nước khác để vào miền Bắc, ta phối hợp đồng bộ giữa biện pháp trinh sát với quản lý công khai, nắm chắc di biến động của đối tượng, đồng thời bảo vệ mục tiêu chặt chẽ, không cho chúng tiếp cận. Qua đó đã phát hiện 295 đối tượng gồm 263 tên vượt tuyến 20 tên vượt biên, 8 tên xâm nhập bằng đường biển, 4 tên nhập cánh công khai. Qua khai thác, xác định 125 tên thuộc quân báo, 170 tên thuộc tình báo. Lực lượng An ninh đã tổ chức đấu tranh 32 chuyên án, bắt nhiều đối tượng, trong đó có điệp viên tạo vỏ bọc là con một cán bộ cao cấp từ miền Nam ra Bắc học tập, đã lọt vào gia đình đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng. Do quần chúng nhân dân cảnh giác cao độ nên nhiều tên vừa xâm nhập đã bị phát hiện thông qua nhận xét về ngôn ngữ thái độ ứng xử. Từ năm 1965, đông đảo bà con Việt kiều ở nước ngoài về Tổ quốc tham gia xây dựng đất nước, cơ quan tình báo Mỹ, ngụy lợi dụng cài điệp viên trong số các đoàn người trở về. Lực lượng An ninh thực hiện phương châm: Trường kỳ trinh sát và sử dụng đồng bộ các biện pháp nội tuyến, ngoại tuyến, kỹ thuật với từng đối
tượng, đã xác định 111 đối tượng hiềm nghi và tổ chức đấu tranh 8 chuyên án. Tin tức thu được trong quá trình đấu tranh giúp lực lượng An ninh nắm được âm mưu, thủ đoạn của cơ quan tình báo địch; có chuyên án ta sử dụng điệp viên của địch để đánh trở lại thành công. Phối hợp chặt chẽ với Quân đội, tổ chức Đảng các cấp, chính quyền địa phương, lực lượng An ninh bóc gỡ toàn bộ số đối tượng hoạt động theo phương thức P86. Do làm tốt công tác giáo dục, đa số đối tượng khi trở về miền Bắc đã tự nguyện khai báo và tự nguyện đình chỉ hoạt động. Lực lượng An ninh lập án đấu tranh với 71 tên cố tình che giấu, tiếp tục làm tay sai cho địch, làm rõ tội trạng và xử lý với các hình thức: truy tố trước pháp luật hoặc giao cho cơ quan, đơn vị, chính quyền địa phương quản lý giáo dục.
Đấu tranh với đối tượng hoạt động theo phương thức lâm thời và thường trú giai đoạn này diễn ra hết sức quyết liệt và có độ nhạy cảm cao. Ngoài gián điệp Mỹ và đồng minh của chúng, đối tượng thuộc một số nước khác, đặc biệt là X70, X77 cũng hoạt động ráo riết và vô cùng nguy hiểm; tập trung ở địa bàn Hà Nội. Vụ Bảo vệ Chính trị phối hợp chặt chẽ với Công an Hà Nội, xây dựng thế trận an ninh nhân dân, bao vây, phong toả các cơ quan cố định và lâm thời; quản lý di biến động của nhân viên các cơ quan này. Trinh sát Bảo vệ Chính trị phối hợp với các lực lượng trinh sát chuyên ngành, triển khai các biện pháp trinh sát tổng hợp, điều tra 321 đối tượng là tay sai của cơ quan tình báo Mỹ. Quá trình điều tra đã xác định được 48 đối tượng hiềm nghi và đưa 261 đối tượng vào diện đấu tranh chuyên án. Qua đó làm rõ một số cơ quan cố định là trụ sở liên lạc và hang ổ hoạt động gián điệp của cơ quan tình báo Mỹ. Tiếp tục triển khai thành công kế hoạch trinh sát bí mật M1, M2 thu được nhiều tài liệu về âm mưu, chủ trương của một số nước về cuộc kháng chiến chống Mỹ của ta; nắm được ý đồ của họ đối với cuộc hội đàm bốn bên tại Pari. Cũng trong thời kỳ này, lực lượng An ninh thành lập đơn vị chuyên trách đấu tranh với đối tượng X70 và X77. Quá trình đấu tranh ta khám phá âm mưu của hai cơ quan đặc biệt X70, X77; phát hiện chúng móc nối nhiều cơ sở là cán bộ cao cấp trong nội bộ Đảng, Quân đội, cơ quan thiết yếu quan trọng nhằm điều chỉnh quan điểm của Đảng ta chịu sự ảnh hưởng của họ
và tổ chức lật đổ. Lực lượng An ninh kịp thời phá án, xử lý các đối tượng, vừa đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, vừa đáp ứng chính sách ngoại giao phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Từ năm 1965 đến khi Hiệp định Pari được ký kết, Mỹ, ngụy vẫn duy trì cuộc chiến tranh bí mật, tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc, tuy mức độ có giảm. Lực lượng An ninh tiếp tục đấu mưu đọ trí với trung tâm địch qua vô tuyến điện theo kiểu "Trò chơi nghiệp vụ”, điều khiển Trung tâm địch hoạt động theo sự sắp đặt của mình. Ngoài các toán do ta chủ động điều ra Bắc trong các chuyên án để bắt, lực lượng An ninh còn nắm được thời gian, địa điểm các toán và số biệt kích sẽ xâm nhập. Do vậy hầu hết các toán gián điệp biệt kích tung ra miền Bắc bằng đường không đều bị bắt gọn cùng toàn bộ phương tiện và hàng hoá. Cơ quan SOG, CIA, DIA và tình báo ngụy hoàn toàn thất bại trong trong quá trình thực hiện phương thức này hơn 10 năm. Từ năm 1961 đến năm 1973, lực lượng An ninh tổ chức đấu tranh 21 chuyên án, câu nhử để bắt 28 toán gồm 127 tên. Tổng kết thắng lợi trong đấu tranh chống gián điệp biệt kích, toàn miền Bắc đã bắt và diệt 103 toán; gồm 856 tên; đánh đuổi 75 toán Biệt Hải và 175 toán xâm nhập qua biên giới Việt Lào, thu hơn 100 tấn lương thực thực phẩm, quân trang, quân dụng, hàng chục tấn vũ khí hiện đại nhất lúc bấy giờ, 6 tấn thuốc nổ C4, 3 tấn máy thông tin. Lực lượng Bảo vệ Chính trị ở các tỉnh duyên hải đã tiến hành thẩm tra, xác minh 1.430 ngư dân đi đánh cá ngoài biển bị địch dùng tàu cao tốc, bắt khai thác, giao nhiệm vụ và đánh trở lại. Qua đó làm rõ (593 người nhận nhiệm vụ của địch trở về miền Bắc hoạt động.
Để góp phần vạch trần âm mưu của địch cũng như giáo dục ý thức cảnh giác cho mọi tầng lớp nhân dân, ta đưa 30 vụ ra xử công khai (3 vụ tuyên truyền rộng rãi ở trong nước và nươc ngoài); đưa các tang vật thu được của cuộc chiến tranh gián điệp biệt kích triển lãm tại 661 điểm trên miền Bắc, thu hút hơn 4 triệu lượt người đến xem.
Kết quả đấu tranh chống gián điệp giai đoạn 1965-1972 ở miền Bắc là kết quả của quá trình tích luỹ kinh nghiệm, trường kỳ trinh sát, mưu trí sáng tạo của lực lượng nòng cốt; là tinh thần cảnh giác cao độ của nhân dân và cán bộ nhân viên các cơ quan đơn vị trong
phong trào “bảo mật phòng gian", "bảo vệ trị an". Với những chiến công đạt được trong giai đoạn này, lực lượng An ninh xứng đáng là lực lượng nòng cốt quan trọng của Đảng, góp phần vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ miền Bắc - hậu phương lớn của miền Nam.
Tại chiến trường miền Nam, đối phó với âm mưu của địch, Trung ương Cục đã để ra chủ trương tổng quát về công tác an ninh: “Triển khai sâu rộng công tác an ninh ở cả ba vùng chiến lược; phục vụ phá bình định, bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh vùng giải phóng; chuẩn bị điều kiện và lực lượng phục vụ các cuộc tống tiến công lớn". Để đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh mới, Trung ương Cục chủ trương kiện toàn một bước lực lượng An ninh. Trong hai năm, vừa chiến đấu, vừa kiện toàn tổ chức, tăng cường cán bộ; đến năm 1967, tổ chức An ninh từ Trung ương Cục đến các khu, các tỉnh và cấp cơ sở đã được hoàn thiện về căn bản. Lực lượng An ninh miền Bắc tiếp tục chi viện đợt III gồm hơn 1.000 cán bộ chiến sĩ cùng các loại tài liệu nghiệp vụ về chống phản cách mạng, hướng dẫn xây dựng đặc tình cơ sở, sổ tay công tác an ninh; góp phần thúc đẩy đáng kể sự phát triển về lực lượng cũng như chuyên môn của An ninh toàn miền. Bộ máy tổ chức làm công tác đào tạo được hình thành tới cấp tỉnh, tổ chức đào tạo nghiệp vụ dài hạn, ngắn hạn và huấn luyện cấp tốc cho lực lượng An ninh các cấp từ Trung ương Cục, đến cấp khu, tỉnh, góp phần nâng cao kiến thức địch tình, nâng cao hiệu quả chiến đấu trong toàn lực lượng.
Nhằm tổ chức các lực lượng đấu tranh và định hướng công tác đấu tranh trong bối cảnh mới, Trung ương Cục đã ban hành nhiều chỉ thị vừa mang tầm chiến lược vừa có giá trị trong đối sách như Chỉ thị về “Phá âm mưu dùng người của ta đánh người của ta”; Chỉ thị về “Phá kế hoạch Phượng Hoàng"; Chỉ thị về “Hướng vào các đô thị, thị xã, thị trấn đẩy mạnh trừ gian diệt ác”, Chỉ thị về “Phát động phong trào phòng gian bảo mật, bảo vệ cơ quan và Quân đội"; "chống địch cài cắm nội gián trong hàng ngũ tù, hàng binh";... Quán triệt chỉ thị của Đảng, An ninh Trung ương Cục đã soạn thảo hai bộ tài liệu về “Chống bình định" và “Đối phó với kế hoạch Phượng Hoàng" là hai vấn đề trọng tâm của giai đoạn này, tập huấn cho lực lượng An ninh. Trung ương Cục quyết định điều chuyển nhiều đồng
chí lãnh đạo có kinh nghiệm và cán bộ cốt cán tăng cường cho những địa bàn trọng điểm để trực tiếp chỉ đạo và tổ chức đấu tranh. Căn cứ chỉ đạo của Trung ương Cục và Ban An ninh Trung ương Cục, lực lượng An ninh toàn miền đã triển khai có hiệu quả hai mặt công tác chính yếu là đấu tranh đánh địch bảo vệ tổ chức Đảng, căn cứ cách mạng, vùng giải phóng và vận động quần chúng diệt ác phá kềm, phá chính quyền cơ sở của địch. Lực lượng Trinh sát võ trang, An ninh đô thị phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương tiến hành hàng trăm trận tấn công vào hang ổ của bọn tình báo, cảnh sát, mật vụ, diệt bọn cầm đầu, bọn gian ác. Trong đó có những trận tập kích táo bạo, gây tiếng vang lớn: An ninh T4 đánh vào nhà hàng Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn diệt 51 tên, làm bị thương 128 tên, có 1 Phó Giám đốc mật vụ; An ninh Trảng Bàng diệt và bắt 5 toán thám báo xâm nhập vào căn cứ; An ninh Cần Thơ đón đánh 4 toán gián điệp biệt kích gồm 52 tên trên đường chúng xâm nhập vào căn cứ; An ninh Kiến Tường tập kích hang ổ tình báo diệt 1 lưới trưởng và 15 mật báo viên; An ninh nội đô Sài Sòn - Gia Định nổ mìn tại trung tâm Tổng nha cảnh sát quốc gia diệt 17 tên; An ninh huyện Dương Minh Châu diệt một toán gián điệp biệt kích gồm 6 tên do Hà Văn Long cầm đầu...
Đối với lĩnh vực bảo vệ nội bộ, tuy đạt được những kết quả nhất định, bảo vệ an toàn căn cứ Trung ương Cục, bảo vệ bí mật về đường lối chỉ đạo của Đảng, các đồng chí lãnh đạo cao cấp, song còn nhiều sơ hở, nhất là ở các cấp cơ sở. Cơ quan gián điệp của địch cài cắm được nhiều đầu mối nội gián trong các đoàn thể kháng chiến ở các cấp xã, huyện, các đoàn dân công và các đơn vị hậu cần phục vụ. Nguyên nhân chính là công tác thu nạp nhân viên chưa được chặt chẽ, việc quản lý cán bộ chưa được chú trọng. Một số đoàn thể kháng chiến cấp huyện, xã bị địch cài nội gián, làm rối ren một thời gian dài hoặc bị địch bao vây lùng sục, đánh phá liên tục. Tuy ta đã tiến hành làm rõ một số đầu mối nhưng do hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nên còn nhiều đầu mối nghi nội gián không được làm rõ.
Phục vụ cho tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968, lực lượng An ninh triển khai toàn bộ lực lượng nắm địa bàn, nắm địch, bảo vệ
cơ quan lãnh đạo mặt trận và tổ chức cho cơ sở quần chúng nhân dân truy tìm, tiêu diệt bọn ác ôn, gián điệp, chỉ điểm. Trong tổng tiến công, ta đã bắt và diệt 15.135 tên gián điệp các loại, trong đó có 135 nhân viên CIA, 269 nhân viên DIA; thu được nhiều tài liệu tình báo có giá trị, kể cả hồ sơ nội gián, mật báo viên của địch cài vào nội bộ ta. Tuy vậy ta để bộc lộ lực lượng, đưa cơ sở bí mật ra hoạt động công khai nên khi địch phản kích đã gây thiệt hại hết sức nặng nề. Nhiều xã, huyện mất hết cơ sở, cán bộ cách mạng không thâm nhập được địa bàn. Đây là một trong những bài học lớn trong chỉ đạo hoạt động bí mật.
Sau Mậu Thân 1968, An ninh Trung ương Cục ra chỉ thị 06 chấn chỉnh lại công tác nắm tình hình: "Phải chủ động nắm cụ thể, toàn diện, chính xác về tổ chức, âm mưu, thủ đoạn hoạt động của gián điệp Mỹ - ngụy, các tổ chức trá hình, các cơ quan đàn áp, bình định, chiêu hàng...", "... Phải tập trung khai thác, thẩm tra chính xác nguồn tin của các tổ chức quần chúng, các ngành, các giới, cơ sở tai mắt, số bị địch bắt thả về...” và ra chỉ thị giao cho lực lượng An ninh tổ chức, hướng dẫn quần chúng đấu tranh: “An ninh các cấp phải tham mưu cho cấp uỷ phát động phong trào quần chúng phá kế hoạch Phượng Hoàng; tích cực xây dựng cơ sở trong các cơ quan đầu não của địch, trong các tầng lớp nhân dân ở các vùng chiến lược... thực hiện khẩu hiệu: Một tấc không đi, một ly không rời, đánh địch phải đánh hiểm, đánh trúng đối tượng...”. Ngày 20-6-1969, An ninh Trung ương Cục mở Hội nghị bảo vệ cơ quan và xác định: “Chỉnh đốn tổ chức, đấy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao cảnh giác cách mạng, chống chiến tranh tâm lý và gây nội gián của địch, tích cực phòng gian bảo mật, quản lý chặt chẽ cán bộ, bảo vệ bí mật chủ trương của Đảng". Được củng cố về mọi mặt, lực lượng An ninh toàn miền Nam dần dần phục hồi và chắp nối lại cơ sở, nắm lại địa bàn, triển khai các mặt công tác nghiệp vụ. Phong trào quần chúng chống bình định, chống gián điệp chỉ điểm có bước phát triển mới, tạo đà cho lực lượng vũ trang có điều kiện mở những chiến dịch vừa và nhỏ, từng bước giành lại thế chủ động trên chiến trường. Từ năm 1970, thế và lực của cách mạng có bước phát triển nhảy vọt; lực lượng An ninh tập trung vào nhiệm vụ truy bắt, trừng trị những đầu
mối gián điệp địch cài vào nội bộ ta sau Mậu Thân; thẩm tra, bóc gỡ các đầu mối nội gián ở vùng giải phóng; triển khai mạnh công tác đấu tranh với phương thức cài gián điệp bằng con đường tù, hàng binh, lạc ngũ, mất liên lạc. Đồng thời phát động nhân dân diệt ác phá kềm, đứng lên làm chủ xóm, ấp, giữ vững an ninh. Các lực lượng bảo vệ cơ quan, trinh sát vũ trang phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương và nhân dân truy quét hàng trăm toán gián điệp biệt kích xâm nhập sâu vào vùng giải phóng, vùng giáp ranh, dọc tuyến đường từ Trung Bộ trở vào đến cực Nam Nam Bộ, tuyến đường 1C, các tỉnh miền Nam Trung Bộ và Trung Bộ, vùng biên giới Việt Nam - Campuchia. Đến hết, năm 1970, lực lượng An ninh toàn miền Nam đã khám phá 496 vụ nội gián; trong có 376 vụ ở cấp ấp, xã. Kết quả đấu tranh chống gián điệp ở giai đoạn này có ý nghĩa khích lệ tinh thần cảnh giác cách mạng của quần chúng, phục hồi phong trào cách mạng sau tổn thất năm 1968.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về chuẩn bị mọi mặt phục vụ cho những chiến dịch lớn, phối hợp với đấu tranh tại Hội nghị Pari, Trung ương Cục miền Nam ra Chỉ thị 165/TVKBN ngày 15-3- 1972: “Những vấn đề cơ bản về công tác an ninh miền Nam”. Chỉ thị xác định nguyên tắc đấu tranh chống phản cách mạng nói chung, chống gián điệp nói riêng trong giai đoạn này là: “Chủ động tiến công địch, tích cực bảo vệ ta". Chỉ thị còn chỉ rõ những tồn tại, vướng mắc về tổ chức lực lượng đấu tranh và định hướng phải nhanh chóng chấn chỉnh, củng cố lực lượng đủ mạnh, hợp đồng chặt chẽ các lực lượng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Triển khai chỉ thị của Đảng, lực lượng An ninh chú trọng công tác hướng dẫn quần chúng phá chính sách bình định, phá kế hoạch Phượng Hoàng, đảm bảo an ninh vùng giải phóng. Đồng thời tập trung đánh mạnh vào bọn đầu sỏ ở đô thị, truy bắt, đẩy đuổi bọn tay sai ở vùng nông thôn và các vùng giáp ranh, hạn chế tối đa hoạt động của bọn gián điệp trên địa bàn hành lang. Những kết quả chống gián điệp trong thời kỳ này đã góp phần hỗ trợ cho lực lượng vũ trang mở những chiến dịch lớn, giành đất, giành dân, đẩy địch vào thế bị động, làm thay đổi hẳn cục diện chiến trường, tạo thế để ta tổng công kích vào mùa khô năm 1972.
Tóm lại: Đảng ta đã kế thừa kinh nghiệm của các giai đoạn trước đó, vận dụng kinh nghiệm của các nước; nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo trong chỉ đạo đấu tranh với từng loại đối tượng, vừa giải quyết yêu cầu bảo vệ mình, đánh thắng địch, vừa đáp ứng yêu cầu đối ngoại. Dựa vào nhân dân, phát huy tinh thần cảnh giác cách mạng của quần chúng, xác định địa bàn cấp xã có vị trí chiến lược quan trọng trong tổ chức đấu tranh; phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành; kiện toàn tổ chức, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng nòng cốt; đặt nhiệm vụ chống gián điệp dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng. Đây là hệ thống những quan điểm, quyết sách đúng và sáng tạo trong tổ chức lực lượng đấu tranh nên đã khai thác triệt để được thế mạnh của ta, tận dụng điểm yếu của địch.
Lực lượng nòng cốt đấu tranh chống gián điệp có bản lĩnh chính trị vững vàng, mưu trí, sáng tạo và quyết thắng; biết tích luỹ kinh nghiệm, dũng cảm đương đầu với cơ quan tình báo đối phương có tiềm lực hơn ta nhiều lần và dày dạn kinh nghiệm. Trong đấu tranh biết dựa hẳn vào nhân dân, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, áp dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, góp phần làm cho chiến thuật đánh địch càng sắc sảo. Cuộc đấu mưu, đấu trí, đấu pháp, đấu lực bằng chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch" - “Trò chơi nghiệp vụ" trong giai đoạn này không chỉ là kế thừa tinh hoa của các giai đoạn trước mà còn tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện để nâng tầm thành nghệ thuật.
4. Giai đoạn từ năm 1973 đến tháng 4 năm 1975
Năm 1972, bộ đội chủ lực của ta thực hiện nhiều trận phản công lớn trên toàn chiến trường, tạo ra những chuyển biến mới về cục diện chiến tranh. Nửa cuối năm 1972, ta tiến hành thắng lợi cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam đồng thời đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ra miền Bắc, đập tan nỗ lực cuối cùng của Mỹ thông qua cuộc tập kích chiến lược B52, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, rút hết quân Mỹ, quân chư hầu ra khỏi Việt Nam, làm tình hình thay đổi hẳn, có lợi cho ta.
Sau hiệp định Pari, Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện "Việt Nam hoá chiến tranh", chỉ huy ngụy quyền tiến hành "cuộc chiến tranh lấn chiếm và bình định". Nhân dân cả nước bước vào thời kỳ đấu tranh mới: Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Phải rút khỏi miền Nam nhưng Mỹ vẫn dùng ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, biến miền Nam thành một chế độ “Quốc gia" thân Mỹ. Mục tiêu trước mắt của Mỹ là lấn chiếm vùng giải phóng và bình định vùng chiếm đóng, đẩy lực lượng của ta ra xa. Để thực hiện mục tiêu đó, Mỹ tăng cường tiền của, vũ khí, phương tiện; tăng lực lượng vũ trang cơ sở, phát triển 1,5 triệu phòng vệ dân sự, điều hơn 20% sĩ quan chỉ huy xuống ấp, xã phục vụ cho lấn đất giành dân với khẩu hiệu: “Tràn ngập lãnh thổ’. Mỹ, ngụy xác định kế hoạch lấn chiếm giành dân lần này là nỗ lực cuối cùng; coi địa bàn chủ yếu của cuộc chiến tranh là ấp, xã với mục đích “giải quyết ấp, xã là giải quyết căn bản được cuộc chiến tranh". Vì vậy, chúng huy động khoảng 70 tiểu đoàn chủ lực cùng toàn bộ lực lượng phòng vệ dân sự và các lực lượng khác thực hiện lấn chiếm và bình định.
Song song với tăng cường quân sự, chuyển hướng tấn công, chúng xác định gián điệp và cảnh sát là lực lượng chủ yếu đảm bảo an ninh lãnh thổ, đảm bảo thắng lợi cho lấn chiếm. Do đó, Mỹ thay đổi phương thức hoạt động, chỉ huy ngụy quyền điều chỉnh lực lượng gián điệp và cảnh sát nhằm nhiệm vụ giữ an ninh vùng chiếm đóng và mở đường cho hoạt động lấn chiếm.
Cơ quan CIA đổi tên gọi thành cơ quan “Phụ tá đặc biệt” - OSA nhân viên được ngụy danh núp dưới các vỏ bọc xã hội hoá như: Cố vấn, nhân viên dân sự, nhân viên phát triển nông thôn... Nhưng thực chất, chúng không giảm lực lượng mà còn tăng thêm 3.000 chuyên viên mã thám, thiết lập hệ thống chí huy, chỉ đạo tới cấp xã và huyện. CIA tập trung mũi nhọn năm lực lượng thứ ba, giới trí thức, sinh viên, tôn giáo... chuẩn bị sẵn cơ sở cài vào nội bộ ta khi lực lượng này tham gia chính phủ liên hiệp. Chúng tạo dựng những con bài chính trị dạng như Trương Đình Du, chuẩn bị điều kiện cần thiết để đưa vào những vị trí cao cấp trong chính phủ liên hiệp.
"""