"
Tiếng Gọi Vĩnh Cửu - Anatoli Ivanov full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tiếng Gọi Vĩnh Cửu - Anatoli Ivanov full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
A-na-tô-li I-va-nốp
TIẾNG GỌI VĨNH CỬU
Tiểu thuyết hai tập
Nhà xuất bản Cầu vồng
Mát-xcơ-va 1986
In theo bản dịch của Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội
Người dịch: Đoàn Tử Huyến
Người biên tập: Cao Giang
А. Иванов
ВЕЧНЫЙ 3OB
Роман в двух томах
©Bản dịch tiếng Việt, Nhà xuất bản Cầu vồng, 1986
In tại Liên Xô
Nguồn sách: tudonald78
Scan, tạo pdf và OCR: 4DHN
Soát lỗi chính tả: 4DHN, tudonald78, chumeo_di_hia
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1
2
PHẦN THỨ NHẤT
PHẦN THỨ HAI
PHẦN THỨ BA
GIỚI THIỆU
A-na-tô-li I-va-nốp (sinh năm 1928) - nhà văn Nga nổi tiếng, người được giải thưởng Quốc gia Liên Xô, đã hoạt động trong nền văn học Xô-viết hơn 30 năm. Tên tuổi ông gắn liền với việc khai thác dưới góc độ văn học vùng Xi-bi-ri cùng với lịch sử và hiện tại của nó. I-va-nốp sinh ra và lớn lên tại làng Sê-mô-na-i-kha thuộc miền đông Ca-dắc-xtan. «Ở đó đời sống Xi-bi-ri và con người Xi-bi-ri vẫn đi theo nề nếp của mình», - sau này ông đã viết về làng quê của mình như vậy. Năm 1950, sau khi tốt nghiệp khoa báo chí trường đại học tổng hợp, ông đã làm việc một số năm tại các tòa soạn các báo huyện ở vùng Xi-bi-ri, Viễn Đông và đã từng đi nhiều nơi.
Tập truyện ngắn đầu tiên của ông xuất bản năm 1956. Tiếp đó là các tiểu thuyết lớn: «Bóng đen biến mất giữa ban ngày», «Tiếng gọi vĩnh cửu» (1970) rất nổi tiếng ở Liên Xô và ở nước ngoài. Hầu hết các tác phẩm của ông đều được đưa lên màn ảnh, các bộ phim vô tuyến truyền hình nhiều tập dựa theo cốt truyện các tiểu thuyết của ông đã đạt được thành công lớn.
Sự việc diễn ra trong cuốn sách này bao gồm gần nửa thế kỷ cuộc sống của một làng quê Xi-bi-ri-từ đầu thế kỷ đến năm 1942, năm thứ hai trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống bọn phát-xít Hít-le.
A-lếch-xan-đrơ Ốp-tsa-ren-cô, một nhà ngữ văn học lớn của Liên Xô đã viết về cuốn tiểu thuyết «Tiếng gọi vĩnh cửu»:
«...chúng ta ngập vào trong thế giới của những xung đột cực kỳ gay gắt, những tình huống vô cùng căng thẳng, những đụng độ về trí tuệ, tinh thần và thể lực ác liệt nhất. Ở đây những khát vọng sôi lên sùng sục, những con người của những niềm tin khác nhau mâu thuẫn với nhau phải dùng đến cả đại bác, tiểu liên, súng máy, súng ngắn, súng lục, nắm đấm và cả hàm răng nữa. Ở đây người ta cũng cảm thấy hơi thở của sự diệt vong gần ngang như hơi thở của sự sống... bởi vì có một thế giới đang sụp đổ và một thế giới khác đang ra đời...»
Tặng con gái I-ri-na
và con trai Xéc-gây của tôi
Phần mở đầu
1
Vào một ngày tháng Sáu năm 1908, trong phòng hỏi cung của sở hiến binh thành phố Tôm-xcơ có hai người: dự thẩm La-khơ-nốp-xki, chừng ba mươi lăm tuổi, chiếc mũi tẹt lúc nào cũng như láng mỡ, và cai ngục Cô-xô rô-tốp, một gã đàn ông vẻ ngoài khó coi với chiếc quai hàm bạnh ra bè bè.
La-khơ-nốp-xki ngồi sau bàn làm việc uống nước chè, mình chỉ mặc một chiếc sơ-mi lót trong. Trời nóng nực, áo khoác ngoài nhà binh treo trên lưng ghế tựa. Cô-xô-rô-tốp đứng phục dịch, khăn vắt ngang tay, trông hắn chẳng khác gì một tên hầu bàn ở các quán ăn.
La-khơ-nốp-xki đặt chiếc cốc không xuống khay, lên tiếng: - Ta có xem bản báo cáo của anh gửi cấp trên. Anh muốn xin về nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki phải không?
- Thưa ngài, đó là điều con vẫn mơ ước từ thời trẻ đấy ạ.
- Mơ ước - đó là điều rất tốt. Mơ ước của con người cần phải được thực hiện.
- Dạ, ngài có lần đã hứa, nếu con lập được công, ngài sẽ giúp. - Được, được, ta sẽ nói hộ. Cho anh đi thì hơi tiếc, nhưng cũng phải khen thưởng anh vì sự phục vụ tận tụy và trung thành. - La-khơ-nốp-xki đẩy chiếc khay với bộ ấm chén sang một bên. - Thôi, bây giờ ta lại bắt đầu với mấy người đồng hương từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ của anh... Làm thế nào mà anh chộp được chúng thế?
- Dạ, thưa ngài Ác-nôn-đơ Mi-khai-lô-vích, hôm đó con đang đi đến rạp xem xi-nê. Khi đi ngoài phố, bao giờ con cũng chú ý quan sát xung quanh, xem có gì đáng khả nghi không? Con đang nhìn thì bỗng thấy từ một ngõ hẹp ngay trước mặt có hai người bước ra, rồi vội vã đi thẳng. Con nghĩ: có cái gì đáng nghi lắm... Vừa lúc đó, một đứa ngoái nhìn lại. Con ngạc nhiên
nhận ra đó là Pi-ốt Pô-li-pốp. Đồng hương! Thế còn người đi với hắn là ai? Thôi đúng là An-tôn Xa-vê-li-ép rồi! Hai đứa hồi năm chín trăm linh năm, linh sáu đã bị giam ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Lúc đó con làm cai ngục ở đấy. Con nghĩ, không biết chúng đến Tôm-xcơ để làm gì? Và thế là con thổi còi...
- Thôi, được rồi, khá lắm. Dẫn từng đứa một vào đây.
La-khơ-nốp-xki khoác chiếc áo nhà binh lên vai, châm lửa hút. Khói thuốc bay ra ngoài phòng theo lỗ thông hơi của chiếc cửa sổ bịt bằng lưới thép.
Chưa đầy hai phút sau, Cô-xô-rô-tốp đã đẩy An-tôn Xa-vê-li-ép vào phòng. An-tôn mặc chiếc áo vét-tông nhàu nát, mấy túm tóc màu bạch kim rủ lòa xòa trước trán dưới vành mũ lưỡi trai. Đôi mắt trong và rất sáng nhìn La-khơ-nốp-xki đầy vẻ hằn học, cau có.
Tên dự thẩm rít một hơi thuốc, bước đến bên cạnh An-tôn, hất đầu chỉ hai cặp giấy dày cộp nằm trên bàn, cười gằn:
- Tôi vừa mới hỏi xin hồ sơ cá nhân của anh và Pô-li-pốp ở sở hiến binh Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về đấy. Thế nào, bây giờ thì còn khăng khăng ngoan cố nữa không?
* * *
Gần một tháng trước đây, An-tôn Xa-vê-li-ép vừa tròn 18 tuổi. Và cũng đúng vào ngày sinh, anh tổ chức lễ cưới. Vợ anh là Li-da Da-kha-rô-va, con gái ông Nhi-can-đrơ Da-kha-rốp, một đảng viên Đảng xã hội, quê ở Nô-vô nhi-cô-lai-ép-xcơ. Ông đã hy sinh hồi tháng Ba năm 1905 trong một chuyến vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki.
An-tôn, sinh ra và lớn lên ở làng Mi-khai-lốp-ca nhỏ bé thuộc xã San-ta ra, cách Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chừng trăm rưởi véc-xta1. Cha của cậu, Xi-lan-chi Xa-vê-li-ép, rất nghèo, như ở Mi-khai-lốp-ca người ta thường nói, «nghèo hơn cả con chó của cố đạo». Câu đó có nghĩa gì, không bao giờ An- tôn có thể hiểu được, vì ở Mi-khai-lốp-ca vốn không có nhà thờ, không có cố đạo, và lẽ dĩ nhiên, không có cả chó của cố đạo.
An-tôn lớn lên như một đứa trẻ lêu lổng, thường hay đánh đập hai em trai là Phê-đô và I-van. Tất cả trẻ con làng Mi-khai-lốp-ca đều sợ cậu chết khiếp. Chưa ai biết An-tôn rồi sẽ lớn lên thành người như thế nào, thì mùa
xuân năm 1904, Mi-tơ-rô-phan, em ruột của Xi-lan-chi, làm nghề thợ mộc, từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về thăm làng Mi-khai- lốp-ca. - Này chú Mi-tơ-rô-phan, chú đưa thằng An-tôn ra thành phố một thời gian nhé? - người anh hỏi. - Có thể chú dạy nghề cho nó. Ở nhà tôi và mẹ nó chịu không làm sao bảo được nó. Thằng bé sẽ hỏng mất thôi. Nghe nói hình như còn kết bạn với bọn chuyên ăn trộm ngựa, được chúng dạy cho cờ bạc.
Ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ An-tôn rất thích, nhưng không chịu học nghề thợ mộc. Suốt ngày cậu lang thang khắp các phố, làm quen với bọn du côn, đánh bạc với chúng, tìm cách móc túi những người say rượu nằm lăn lóc các quán, và nhiều lần bị đánh nhừ tử. Rồi bỗng nhiên cậu bỏ tất cả những trò đó và trở nên say mê bẫy chim ở các cánh rừng xung quanh thành phố, đưa ra chợ bán hoặc đổi lấy bánh quế cho Pi-ốt Pô-li-pốp, con trai một chủ hiệu buôn ở gần đấy. Bản thân An-tôn không ưa của ngọt, bao nhiêu bánh cậu đều cho Li-da có đôi chân thon thả, «con lão khổ sai» - như người ta thường gọi cô.
Cô bé Li-da này, người gầy đét như một bộ xương, đầu gối nhọn hoắt và cặp lông mày đen rất dài, lúc đó chừng mười bốn tuổi, nhà ở cùng phố với chú Mi-tơ-rô-phan. Bà mẹ cô hình như bị bệnh lao, ho quanh năm suốt tháng, làm việc ở nhà máy xà-phòng. An-tôn quan tâm đến Li-da chỉ vì cô là con gái của một người tù khổ sai. «Cũng hay, không biết vì sao mà người ta bắt ông ta đi đày, - cậu nghĩ, - chắc có lẽ vì đâm chết ai đó».
Một lần, An-tôn đem điều này ra hỏi Gri-gô-ri, con trai cả của chú Mi-tơ rô-phan làm nghề đốt lò ở đề-pô xe lửa. Anh cao lớn, xương xẩu, đôi mắt to, người bao giờ cũng sặc mùi khói và bồ hóng. Gri-gô-ri là một thanh niên rất vui nhộn, thường hay cho An-tôn đi theo câu cá, và nói chung, đối xử với cậu thân mật, bình đẳng như với một người bạn cùng lứa tuổi.
- Con người muốn tìm sự thật nên bị tống đi đày khổ sai, - Gri-gô-ri nói. Anh chăm chú nhìn An-tôn rồi tiếp thêm: - Ông ấy, cha của Li-da, là đảng viên Đảng Xã hội.
- Đảng Xã hội là cái gì?
- Là cách mạng.
- Thế cách mạng là cái gì?
Gri-gô-ri phá ra cười, và không hiểu sao, anh lại nháy mắt nhìn An-tôn: - Thế nào, lạ lắm phải không? Rồi anh cũng sẽ biết được thôi. Mọi cái đều có lúc của nó.
Ít lâu sau, An-tôn biết được rằng cả Gri-gô-ri, cả chú Mi-tơ-rơ-phan, thậm chí cả bà thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na cũng là những người cách mạng, mặc dù họ tìm mọi cách để giấu kín, không cho An-tôn biết điều này. Và khi thấy An-tôn đã biết hết mọi chuyện, suýt nữa họ bắt cậu phải trở về với bố mẹ ở làng Mi-khai-lốp-ca. Găng nhất là thím U-li-a-na Phê-đô-rốp na. Nếu không có Gri-gô-ri, chắc chắn An-tôn đã phải về rồi.
- Cha ạ, con thật không hiểu cha muốn gì?! - một lần, Gri-gô-ri đã to tiếng với cha. Anh túm lấy bộ quân bài của An-tôn vừa bị thím U-li-a-na tước được vứt trên bàn, lắc lắc trong không khí. - Cha muốn để cho An-tôn cứ đi theo con đường này à? Càng để lâu thì càng khó chữa đấy. Cha phải hiểu rằng, vào cái tuổi này, ma quỷ nào biết nó muốn gì. Toàn những chuyện khác thường! Cho nên, cần phải tìm cách giúp đỡ An-tôn!
Và ngay trong ngày hôm đó, chỉ nửa giờ sau, trong lúc nhận tài liệu bí mật từ tay liên lạc viên tại một ga xép ở ngoại ô thành phố, Gri-gô-ri - anh thanh niên Gri-gô-ri bao giờ cũng sôi nổi, không biết chán nản là gì, người đã phản đối việc gửi trả An-tôn về làng Mi-khai-lốp-ca, - đã bị cảnh sát bắn trọng thương. Chiều hôm đó anh tắt thở trên tay An-tôn, chỉ kịp nói mấy lời:
- An-tôn, nếu anh đi tìm sự thật, thì nhà tù, khổ sai và, có thể, cả cái kết cục như thế này... sẽ đợi anh... Anh có dám đi không?
- Đi!
- Không sợ à?
- Không!
- Tốt lắm...
- Tôi cũng sẽ trở thành người như chú!
- Tôi tin...
Chẳng bao lâu sau, An-tôn đã được nếm mùi tù ngục lần đầu tiên. Cả anh, cả Li-da, cả Pi-ốt Pô-li-pốp, - mặc dù Pi-ốt là con trai của một chủ hiệu khá giàu có.
Dần dần, An-tôn và Pi-ốt trở nên thân nhau. Tình bạn của họ chỉ bị có một điều duy nhất làm cho vẩn đục: từ bao giờ không biết, cả hai người đều đã thầm yêu Li-da. Không hiểu cô gái có cái gì làm cho anh chàng Pi-ốt phải say mê? Li-da không xinh, chỉ có đôi mắt của cô là đẹp, đôi mắt hơi xanh như làn nước suối, bao giờ cũng lấp lánh một thứ ánh sáng vừa sống động, vừa bồn chồn. An-tôn yêu cô vì sự táo bạo đến liều lĩnh của cô, mặc dù nhìn bề ngoài thì không thể kết luận như vậy được. Mới 14-15 tuổi, cô
đã nhiều lần đến Tôm-xcơ và chuyển tài liệu mật, thậm chí cả vũ khí nữa, từ đấy về.
Về phía Li-đa, cô đối xử với An-tôn và Pi-ốt bao giờ cũng như nhau; và mãi cho tới tận thời gian gần đây cũng không biết được là cô thích ai hơn. Trong thâm tâm, An-tôn cho Pi-ốt có nhiều lợi thế và triển vọng hơn, đặc biệt là từ sau ngày ở tù ra. Họ bị bắt vào cuối tháng Mười năm 1905, tất cả gồm bốn người: An-tôn, Li-da, Pi-ốt và I-van Mi-khai-lô-vích Xu-bô-tin - người lãnh đạo tổ chức Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga ở thành phố Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, một nhà hoạt động cách mạng có nhiều kinh nghiệm. Cùng với cha của Li-da, ông vừa mới vượt ngục từ nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki về mấy tháng trước đây. Các đồng chí kiếm cho ông được giấy tờ hợp pháp mang tên Cu-dơ-ma Tsúc-kin, và bố trí cho làm chân rửa bát ở bếp nhà lao Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Làm việc ở đây, ông tích cực chuẩn bị cho những người tù chính trị vượt ngục. Vào một ngày tháng Mười, trong thời gian bãi công, những người công nhân đường sắt, - sau cái chết của Gri-gô-ri, tổ chức ở đây do cha anh, Mi-tơ-rô-phan, lãnh đạo, - đã tổ chức một cuộc biểu tình chính trị lớn chưa từng thấy và phá được nhà tù. Những đại đội Cô-dắc và quân đội chính quy chỉ mấy phút sau được điều đến để giải tán đám biểu tình, và toàn bộ những người tổ chức cuộc phá ngục đã bị bắt.
Ngày hôm đó, Tsúc-kin - Xu-bô-tin trao cho An-tôn và Pi-ốt Pô-li-pốp một nhiệm vụ chiến đấu thật sự. Từ sáng, An-tôn cần phải đến một ga xép vắng vẻ để nhận từ tay ông già công nhân đường sắt một túi đạn và trước mười giờ phải mang đến chỗ hẹn trong rừng ở ngoại ô thành phố. Đây là số đạn dự trữ. Trong trường hợp cần thiết, Pi-ốt Pô-li-pốp sẽ chuyển số đạn đó vào thành phố cho tổ xung kích. Pô-li-pốp là học sinh trung học. Mặc bộ đồng phục học sinh, anh dễ dàng mang đạn đi trong thành phố mà không gây sự nghi ngờ. Nhưng An-tôn lại tự ái vì anh không những không được chọn vào tổ xung kích đi phá nhà tù, người ta cũng không tin tưởng giao cho anh mang đạn vào thành phố. Vì vậy, từ ga xép, anh đến thẳng địa điểm tập trung của tổ xung kích.
Ôi, cơn giận của Xu-bô-tin khi thấy sự vi phạm kỷ luật như vậy mới thật là dữ dội! Mà đạn thì vẫn cần, ông đã phái Pi-ốt Pô-li-pốp vào rừng để lấy. Việc điều tra vụ án những người tổ chức biểu tình và phá ngục kéo dài hơn một năm. Những người bị bắt khi thì bị giam riêng mỗi người một nơi trong những xà-lim khác nhau, khi thì bị nhốt chung một chỗ và gài chỉ
điểm lẫn vào. Trong thời gian đó, riêng Pi-ốt Pô-li-pốp bị hành hạ nhiều hơn cả. Anh bị gọi lên hỏi cung luôn, thường bị đánh đập, mặc dù việc tra tấn tù chính trị bị cấm. Có lẽ đối với bọn cai ngục, Pi-ốt là một ngoại lệ: chúng hy vọng người con trai của một chủ hiệu giàu có quen sống sung sướng sẽ không chịu nổi. Nhưng anh đã chịu được, không khai báo ra ai cả. Chính Xu-bô-tin có lần nói về anh:
- Pi-ốt của chúng ta là một chàng trai chân chính. Chúng ta cần nhiều những người như thế.
Mặc dù tang chứng ít ỏi, ba người - An-tôn, Li-da và Pi-ốt Pô-li-pốp, bị xử mỗi người hai năm tù, Mi-tơ-rô-phan I-va-nô-vích - hai năm rưỡi, còn Tsúc-kin - Xu-bô-tin, tù chính trị vượt ngục, - tám năm tù khổ sai. Nhưng trên đường đến chỗ đày, ông trốn thoát và lại trở về Nô-vô-nhi-cô-lai-ép xcơ, bắt đầu xây dựng lại tổ chức Đảng của thành phố bị phá vỡ năm 1905.
Sau khi ra tù, An-tôn xin làm công nhân bốc vác ở một nhà máy gỗ. Li da, vẫn như xưa, đối xử với An-tôn và Pô-li-pốp như nhau. Mẹ của Li-da đã qua đời khi họ còn ở trong tù. Phải khó khăn lắm, Li-da mới xin được vào làm ở nhà máy xà-phòng, chỗ của mẹ cô trước đây. Thường thường, khi thì An-tôn, khi thì Pi-ốt đến đón Li-da ở cổng nhà máy và đưa cô về nhà. Và một lần, để chấm dứt cái tình trạng mập mờ, không dứt khoát này, An-tôn quyết định sẽ nói thẳng. Khi gặp nhau, anh cảm thấy rất khó nói, nhưng Li da cũng không để cho anh nói.
- Đừng anh! Không cần đâu anh! - Cô kêu lên và lấy bàn tay chai nhám bịt miệng anh lại, rồi cô gục mái đầu nóng hổi vào vai anh. - Thế... thế còn Pi-ốt? - anh hỏi một câu ngớ ngẩn.
- Pi-ốt sao?! Có lẽ anh ấy cũng là người tốt. Nhưng… em không biết nữa. Em không yêu anh ấy, và trước đây cũng không bao giờ thích. Anh ấy là người có học, còn em... Anh nói với anh ấy nhé. Để anh ấy đừng đưa đón em nữa...
Và An-tôn nói. Pi-ốt nghe, im lặng từ đầu đến cuối, khuôn mặt tròn trịa, đỏ gay, rồi tái xanh, một cục u ở má phải nặng nề trồi lên, góc miệng bên đó méo mó, co giật.
...Có thể nói, An-tôn và Li-da không có được đám cưới thực sự như của mọi người khác. Một buổi chiều tháng Năm ấm áp, anh dẫn Li-da vào khu rừng ở ngoại ô thành phố. Ở đó, họ dựng một ngôi lều nhỏ và sống với nhau đêm trăng mật đầu tiên. An-tôn say ngây ngất bởi hạnh phúc mới mẻ, bởi mùi hương dã anh đang mùa hoa nở rộ. Mùi hương ấy anh đã cảm thấy
ngay từ chiều, khi vừa ra khỏi thành phố. Những con chim én lặng lẽ bay lượn trên bầu trời xanh ấm dịu, khi lao vút lên cao, khi sà xuống tưởng như chạm ngay mặt đất. Và trong đầu anh, không hiểu từ đâu, bốn câu thơ kéo đến, ngân nga:
Hương dã anh từng đợt sóng thơm lừng,
Đã qua rồi mùa đông lạnh, se hanh
Và chim én, đua vẫy vùng đôi cánh,
Đang tưng bừng bay lượn giữa trời xanh...
An-tôn giật mình sợ hãi. Anh chưa bao giờ nghĩ mình có thể làm được thơ và biết rằng mình không có thứ tài năng đó. Thế mà, bỗng nhiên lại sáng tác được cả một đoạn! Mấy câu thơ suốt đêm cứ ngân lên trong đầu, và đến gần sáng bất ngờ lại hiện ra thêm một khổ nữa:
Nếu tim em nỗi u buồn nặng trĩu,
Hãy ngẩng đầu nhìn trời rộng cùng anh
Em sẽ thấy: kìa đàn chim phóng khoáng
Đang tưng bừng bay lượn giữa trời xanh…
An-tôn bàng hoàng cả người.
Khi những tia nắng mặt trời rọi qua các lỗ thủng chiếu vào trong lều, Li da nhận thấy sự khác thường của An-tôn. Trong ánh mắt cô hiện lên vẻ lo lắng:
- Anh sao thế?
- Không sao, - An-tôn bối rối trả lời và đứng dậy đi ra ngoài trời. Li-da cũng bước ra khỏi lều. Khoảng rừng trống tràn trề ánh nắng mặt trời buổi sớm và tiếng chim ca đủ giọng. Li-da, tắm mình trong ánh nắng và tiếng chim ca, đi dọc theo bìa rừng tìm hái những bông cúc dại, mái tóc dài để xõa, người khoác một chiếc áo len trắng. Trông thấy An-tôn, cô chạy đến, nhảy tròn quanh anh, miệng kêu không ngớt:
- Em đây là vợ của anh! Em đây là vợ của anh!
Họ ngả xuống đám cỏ mềm mại và say sưa hôn nhau, dường như cả đêm qua việc đó đối với họ vẫn còn chưa thỏa.
Rồi họ nhóm một đống lửa và bắt đầu đun nước uống.
Mắt nhìn vào ngọn lửa, An-tôn nói:
- Li-da, em biết không, anh làm... thơ cho em đấy.
- Thôi đi... - cô không tin. - Anh làm như thế nào?
- Anh cũng chẳng biết nữa. Anh đọc em nghe nhé.
Anh đọc tám dòng thơ một cách hấp tấp, mặt đỏ gay.
Li-da ngồi nghe, mắt mỗi lúc một mở to thêm:
- Anh… tự làm đấy à?
- Anh.
- Cho em à?
- Ừ, cho em.
Li-da im lặng, và hai người bỗng cảm thấy như ngượng nghịu. Bỗng nhiên, cô khe khẽ lẩm nhẩm, ghép những chữ những câu vừa nghe được theo một giai điệu đơn giản, cất tiếng hát, không bỏ sót một từ nào.
- An-tôn! Anh An-tôn! - hát xong, cô kêu to, rồi nép sát vào anh, òa lên khóc, sung sướng.
Lát sau, thím U-li-a-na đến, mang theo một làn thức ăn và mấy chai rượu vang. Họ trải chăn lên cỏ, bày bữa tiệc giản dị ra. Khách từng người, từng hai người một lần lượt đến đủ: đầu tiên là Pi-ốt lầm lì ít nói, sau đến mấy nhóm công nhân từ nhà máy cưa, nhà máy xà-phòng và xưởng in - tất cả đều là đảng viên đảng bộ bí mật thuộc Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga của thành phố. Chú Mi-tơ-rô-phan và Xu-bô-tin đến sau cùng. Như thường lệ ở các đám cưới, mọi người kêu: «Đắng lắm!»2Pi-ốt Pô-li-pốp ngồi hơi tách ra một bên, hai tay bóp chặt chiếc cốc thủy tinh nhiều cạnh. An-tôn và Li-da ngượng nghịu hôn nhau. Tất cả mọi người đều cạn chén, chỉ có Pô-li-pốp không uống, vẫn ngồi yên, tay bóp chặt chiếc cốc. Bỗng nhiên, anh giật mạnh cánh tay, đổ hắt cốc rượu vào miệng. Nhưng mọi người không ai chú ý đến cử chỉ đó của anh cả, vì Xu-bô-tin đã ngồi ưỡn thẳng người lên và nói:
- Các đồng chí, chúng ta phải tranh thủ thời gian. Tôi tuyên bố khai mạc cuộc họp của đảng bộ bí mật Đảng Công nhân Xã hội dân chủ Nga thành phố. Ta chỉ bàn một vấn đề: tổ chức tờ báo công nhân bí mật...
* * *
- Thế nào, anh có định nói không đấy? - dự thẩm La-khơ-nốp-xki nhắc lại câu hỏi.
Sau lưng An-tôn, phía ngoài cánh cửa đóng chặt, tiếng bước chân đang xa dần. Hồi còn ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, An-tôn đã học được cách
phân biệt tiếng bước chân của Cô-xô-rô-tốp với tiếng bước chân của những tên cai ngục khác. Mới ba chục tuổi mà hắn bước đi ì ạch, nặng nề như một ông già, bàn chân kéo lê trên mặt sàn.
- Đầu tiên ông cũng nên chào hỏi một câu đã chứ? - An-tôn nói. - Các anh đến Tôm-xcơ có việc gì?
- Tôi đã nói rồi mà. Tôi vừa cưới vợ, đến đây tìm thuê nhà để hưởng tuần trăng mật ở Tôm-xcơ. Pô-li-pốp là bạn tôi. Anh ta đi giúp tôi tìm thuê nhà. - Các anh đến đây là để nối lại những liên hệ tội lỗi với bọn đảng viên xã hội ở Tôm-xcơ.
An-tôn chỉ nhún vai.
La-khơ-nốp-xki châm một điếu thuốc mới:
- Tôi khuyên anh nên nói thật. Cái gọi là anh bạn Pô-li-pốp của anh đã thú nhận hết cả rồi.
- Xin các ông cho đối chứng, sẽ rõ ngay. Anh ấy chẳng có gì để thú nhận cả. Các ông sẽ phải chịu trách nhiệm vì bắt người vô cớ. Tôi sẽ kiện. - Kiện à? - Viên dự thẩm bước đến sát bên anh. Bỗng nhiên hắn ôm chặt lấy cổ An-tôn, giơ điếu thuốc đang cháy lên ngang mặt, định chọc vào mắt anh. - Đến Tôm-xcơ để làm gì? Đến Tôm-xcơ để làm gì?! An-tôn nghiêng đầu tránh sang một bên, đồng thời cố giằng ra. Nhưng viên dự thẩm rất khỏe. An-tôn liền túm lấy cánh tay của La-khơ-nốp-xki, vặn tréo ra sau. Viên dự thẩm buông cổ An-tôn ra kêu lên một tiếng vì đau, ngã ngồi xuống ghế. Tiếng kêu của hắn càng làm cho An-tôn thêm hăng máu, anh không còn nhớ mình đang ở đâu, làm gì, vung tay nện một quả đấm thật mạnh vào cái cằm núng nính những thịt. La-khơ-nốp-xki bắn ra đến tận bàn, chiếc áo quân phục tuột ra khỏi vai, rơi xuống sàn nhà. - Cô-xô-rô-tốp! Lính đâu! Vứt thằng này vào xà-lim cá nhân! Bọn hiến binh lôi An-tôn đi. Cô-xô-rô-tốp nhảy xun xoe quanh La-khơ nốp-xki.
- Thưa ngài, làm sao bây giờ ạ? Ngài cần thuốc đắp không ạ?.. Tôi cho lấy phèn chua ạ...
- Phèn, phèn cái gì, thằng ngu! Dẫn thằng kia đến đây, thằng Pô-li-pốp ấy…
Khác với An-tôn Xa-vê-li-ép, Pô-li-pốp có vẻ cau có, ủ rũ. Anh mệt mỏi đứng tựa vào tường, và nhìn trân trân lên cửa sổ chăng lưới thép. Đôi má đầy đặn của anh tọp xuống, nhão ra, mí mắt sưng mọng, rõ ràng suốt đêm qua anh không ngủ được, mà cũng có thể, anh mất ngủ đã nhiều đêm rồi.
- Nào, chào anh. - La-khơ-nốp-xki cài chặt tất cả các cúc áo quân phục, ngồi xuống sau bàn. -Thế nào, anh có định chối nữa không? Mời anh ngồi. Các anh đến Tôm-xcơ có mục đích gì?
- Tôi đã nói rồi... - Pô-li-pốp ngồi xuống ghế, uể oải trả lời. - Bạn tôi định sống tuần trăng mật ở Tôm-xcơ. Tôi đi cùng, giúp anh ta thuê nhà. - Các anh có bịa thì cũng nên nghĩ ra một cái gì thông minh hơn chứ! - Viên dự thẩm nhăn mặt nói. - Thử hỏi đã ai thấy ở đâu một công nhân bình thường biết đến tuần trăng mật là gì chưa? Lại còn du lịch sau ngày cưới nữa chứ.
Quả là họ nói dối không có căn cứ lắm. Sau khi An-tôn cưới vợ, Pô-li pốp hầu như không nói chuyện với anh. Trên đường đi đến Tôm-xcơ, họ cảm thấy như người này có lỗi gì đó với người kia và chưa bàn được với nhau xem sẽ xử sự ra sao nếu như không may bị bắt. Mãi cho đến phút cuối cùng, khi nghe thấy tiếng còi của Cô-xô-rô-tốp, Pô-li-pốp chỉ kịp dặn An tôn về tuần trăng mật và về việc tìm thuê nhà - đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu anh. Và bây giờ anh và An-tôn buộc phải dùng lý do đó giải thích sự có mặt của mình ở Tôm-xcơ để khỏi gây rắc rối thêm.
La-khơ-nốp-xki chăm chú nhìn người bị bắt một lúc, cười gằn thành tiếng:
- Này, Pô-li-pốp, anh nghe tôi. Chúng ta nói chuyện thẳng thắn với nhau nhé. Không hiểu thứ ma quỷ nào lôi anh, con trai một người đáng kính trong xã hội chúng ta, đến với bọn nổi loạn, bọn đảng viên Đảng Xã hội? Bọn khố rách áo ôm ấy có gì quyến rũ anh đến thế?
Pô-li-pốp vẫn ngồi cúi đầu im lặng. La-khơ-nốp-xki đứng dậy. - Thôi được, tôi hiểu. Sự bồng bột của tuổi trẻ, cái lãng mạn của cuộc đấu tranh cho cái gọi là công lý. Chắc đã đọc ngốn hết Tséc-nư-sép-xki, Ghéc xen, Plê-kha-nốp… chứ gì? Nhưng bây giờ anh đã là người lớn rồi, anh có thể tự suy nghĩ lấy được. Anh cần cái công lý ấy để làm gì, nếu như người ta sẽ tước mất của cha anh, và như vậy tất nhiên là cả của chính anh, nhà cửa, hàng hóa, tiền bạc?
Hai bàn tay của Pô-li-pốp đặt trên đầu gối, những ngón tay ngắn hơi run lên. La-khơ-nốp-xki nhận thấy ngay điều đó.
- Anh cũng đã rơi vào tay chúng tôi một lần rồi, nhưng may mắn mới chỉ nếm mùi tí xíu thôi. Do nể ông cụ thân sinh ra anh... và cũng còn hy vọng rồi anh sẽ hiểu được, là người ta đối với anh, theo như tôi biết được qua hồ sơ và qua những lời của Cô-xô-rô-tốp, người coi ngục cũ ở nhà tù Nô-vô-
nhi-cô-lai-ép-xcơ, không nghiêm khắc lắm. Bây giờ anh lại muốn vào tù để chịu nhục nhã, để bỏ lại trong xà-lim những năm tháng đẹp nhất của đời mình, mà cũng có thể, cả sức khỏe, cả cuộc đời? Anh sẽ bị thối rữa, tàn tạ ở trong ngục, còn ngoài kia, ngoài bốn bức tường, là ánh nắng mặt trời, là rượu và đàn bà. Đúng, cả đàn bà nữa, thật là tuyệt diệu! Còn cách mạng thì đã bị bóp nghẹt, bị đè bẹp từ lâu rồi. Bị đè bẹp vĩnh viễn - đã đến lúc anh phải hiểu được điều đó!
La-khơ-nốp-xki dừng lại bên cạnh Pô-li-pốp, châm lửa hút. - Anh có vợ chưa?
- Chưa, - Pô-li-pốp trả lời cụt lủn.
- Thế có người yêu chưa?
- Chưa. Trước đây, theo tôi nghĩ, đã có, nhưng bây giờ thì không. - Nó bỏ à?
- Nó đi lấy người khác rồi! Nếu như ông tò mò muốn biết! - Lấy ai?
- Lấy quỷ! Lấy ma! -Pô-li-pốp nổi cáu. -Việc gì đến ông?
Không thể không công nhận tài quan sát và khả năng hiểu tâm trạng những người bị hỏi cung một cách rất chính xác của La-khơ-nốp-xki. - Hượm, hượm nào, - La-khơ-nốp-xki nói, dáng suy nghĩ. - Có phải nó lấy cái ông bạn của anh...
Khóe miệng của Pô-li-pốp giật giật liền mấy cái, y quay mặt đi. - Thế-ế đấy!.. Nghĩa là, người ta đã tước đi cả người đàn bà yêu quý của anh? Hay lă-ắm! Thế anh cũng để cho chúng cướp đi à? Để cho chúng cướp đi, mà như một tên hèn hạ, không dám chống lại? Thế anh không thử tìm cách để chiếm lại sao?
- Thôi đi! - Pô-li-pốp thét lên.
Chẳng phải vô cớ mà La-khơ-nốp-xki được cấp trên chú ý tới. Không để cho Pô-li-pốp kịp trấn tĩnh, hắn ôm lấy ngang cổ y, như ôm An-tôn lúc nãy, và đưa điếu thuốc lên ngang mặt, chực đâm vào mắt, miệng gầm gừ: - Đến Tôm-xcơ để làm gì? Đến Tôm-xcơ để làm gì?
Pô-li-pốp thét lên, người co gập lại. Tên dự thẩm buông y ra. - Thế anh không muốn thử tìm cách đoạt lại... người đàn bà anh yêu à? - La-khơ-nốp-xki hỏi, mắt chăm chú nhìn đốm lửa đầu điếu thuốc lá cầm trong tay. - Nếu như chúng tôi sẽ giúp anh? Hay là anh không yêu cô ta nữa?
Đứng cạnh tường, mà Pô-li-pốp không thể làm thế nào nén được cơn run.
- Thế... tôi... cần phải... làm gì? -Giọng y đứt quãng.
- Anh hãy nói, các anh đến Tôm-xcơ để làm gì?
Pô-li-pốp đút tay vào túi quần, rút ra, rồi lại đút vào.
- Các ông... các ông sẽ xử hắn... Xa-vê-li-ép... bao nhiêu... bao nhiêu năm?
Y nói thều thào, mặt ngoảnh đi nơi khác. Pô-li-pốp cảm thấy xấu hổ cả khi nhìn thẳng vào viên dự thẩm.
- Còn tùy theo hắn đến Tôm-xcơ với mục đích gì. Nhưng ít ra, chúng tôi cũng sẽ giấu hắn một cách chắc chắn chừng dăm bảy năm. Bỗng nhiên, Pô-li-pốp vội vã nhìn quanh căn phòng hỏi cung trống rỗng, và rên rỉ kêu lên:
- Không! Không! Tôi nói dối đấy! Tôi bịa ra cả đấy!
La-khơ-nốp-xki mỉm cười một cách rộng lượng, gần như là thân mật: - Anh có thấy là cử chỉ của anh hơi buồn cười không đấy? Pô-li-pốp xẹp xuống, người co rúm lại.
- Thế chứ, - La-khơ-nốp-xki nói. -Tôi luôn luôn kính trọng những kẻ nào biết bình tĩnh, làm chủ được mình. Thế nào?
- Với một điều kiện - tôi sẽ không bị nghi ngờ gì cả. - Pô-li-pốp không nhìn viên dự thẩm. -Nếu không, chẳng bõ công.
- Mà... Chúng tôi cũng có một điều kiện. Chúng tôi cũng sẽ giữ anh ở trong tù một vài tháng. Để làm gì, chắc anh cũng hiểu. Chúng tôi sẽ để anh ở với tù chính trị. Anh cần phải thông báo thường xuyên cho chúng tôi về những câu chuyện, những kế hoạch và những mối liên lạc của chúng với bên ngoài. Ra khỏi tù, anh sẽ lại tiếp tục hoạt động trong tổ chức Đảng của các anh, thông báo một cách đầy đủ về những hoạt động của tổ chức Đảng đó cho cơ quan mật thám địa phương...
- Thôi! Đủ rồi! - Pô-li-pốp kêu lên, người như bị ai đánh nhừ. - Mời anh ngồi xuống đây, - La-khơ-nốp-xki kéo ghế mời, rồi tự mình cũng ngồi xuống, đặt trước mặt một tờ giấy trắng. - Đầu tiên có mấy câu hỏi. Bọn cầm đầu tổ chức bí mật Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga của thành phố các anh gồm những ai? Tên? Biệt hiệu? Địa chỉ liên lạc? Ở Nô vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ có một thằng tù khổ sai tên là Tsúc-kin, chính tên thật là Xu-bô-tin, đang lẩn trốn. Chỗ ở của hắn ở đâu? Và tất nhiên, các anh đến Tôm-xcơ để làm gì?
- Chúng tôi đến để kiếm thiết bị cho xưởng in báo bí mật, - Pô-li-pốp bắt đầu nói, giọng khản đặc. - Xưởng in đặt ở dưới hầm nhà số...
Khi Pô-li-pốp đã nói hết, dừng lại im lặng, La-khơ-nốp-xki vẫn tiếp tục viết thêm một lúc. Viết xong, hắn ngẩng đầu lên nhìn Pô-li-pốp đang ủ rũ ngồi trước mặt. Trong ánh mắt viên dự thẩm thoáng vụt qua một tia khinh bỉ, rồi tắt ngay.
- Này, anh biết tôi nghĩ gì không? - hắn hỏi. - Thôi, vứt mẹ cái cơ quan mật thám sang một bên. Nếu anh dây dưa với nó, sớm muộn gì rồi cũng sẽ bị lộ. Chúng ta thống nhất như thế này: tôi sẽ đưa cho anh địa chỉ và mật mã. Theo địa chỉ này, anh sẽ gửi từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ về cho tôi những bản báo cáo của anh, ký bằng một tên giả. Như vậy, ngoài tôi ra, không có một ma nào có thể biết được về hành động... ái quốc, vì lợi ích nước Nga của anh. Hãy gắng lên, Pô-li-pốp, anh sẽ còn đi xa nữa...
* * *
Vào tháng Chạp năm 1912, dọc theo hành lang phía bắc, cái hành lang tối tăm nhất của nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki, Cô-xô-rô-tốp đi giữa hai tên gác ngục dưới quyền, chùm chìa khóa nặng trĩu treo trên chiếc thắt lưng rộng bản. Hắn đi thong thả, mắt nhìn vào từng lỗ dòm ở cửa xà-lim, kiểm tra lại từng ổ khóa. Bỗng hắn nhận thấy chiếc áo sơ-mi quân phục của một tên dưới quyền hắn giắt không kỹ trong thắt lưng.
- Mày, đồ giẻ rách! - Cô-xô-rô-tốp cau mặt. - Đồ trâu bò quê mùa! Gì mà phô ễnh bụng ra thế, hả?
- Dạ, thưa ngài, con có lỗi! -tên lính canh ngục, một thanh niên chừng hai mươi tuổi, vội đứng thẳng người lên.
- Hừ, dù tao chưa lên đến chức ngài... - Cô-xô-rô-tốp hơi dịu đi, - nhưng trong phiên trực của tao, tất cả phải nghiêm chỉnh, phải tròn trĩnh như quả dưa hấu! -Và hắn lại nổi cáu, hét vang cả hành lang. - Mày đang phục vụ ở đâu đấy hử? Mày đang phục vụ ở nhà tù trung ương A-lếch-xan-đrốp-xki đấy! Mày đang canh giữ ai? Mày đang canh giữ những tên tội phạm chính trị quan trọng nhất của nước Nga đấy! Bọn chúng đứa nào cũng đã có đến mấy lần vượt ngục, hiểu chưa?
- Nó mới được chuyển đến, thưa ngài, - tên cai ngục thứ hai, vẻ ngoài giống như một kẻ nhà quê, bộ ria đã bắt đầu bạc trắng, nói đỡ cho bạn. - Nó sẽ sửa dần.
- Người ta đưa đến đây đủ các loại người... - Hắn lại dịu đi, lẩm bẩm. - Hết giờ, đến gặp tao tại phòng trực. Tên gì?
Tên cai ngục trẻ còn chưa kịp nói tên, thì từ cuối hành lang vang lên tiếng cửa sắt mở loảng xoảng, tiếng xích khua leng keng và tiếng giày đinh nện xuống sàn.
- Trực nhật đâu! - Một giọng nói oang oang vang lên. - Ra mà nhận tù! Cô-xô-rô-tốp chạy vội về cuối hành lang.
Mấy phút sau, hắn quay trở lại, mừng rỡ nhảy lăng xăng quanh một người râu ria mọc rậm rạp, tay chân bị xiềng:
- Chào người anh em thân yêu của tôi! ơn Chúa lại cho chúng ta gặp nhau lần nữa!
- Xin chào, xin chào đồng hương, - người tù nói, miệng mỉm cười đáp lại. Anh thong thả, mệt mỏi đi dọc hành lang, kéo lê những mắt xiềng nặng trịch, khoan khoái tận hưởng cái hơi ấm ẩm ướt và ngột ngạt của nhà tù.
- Sẽ có ngay buồng cho anh! Càng chật, càng ngột càng tốt, - Cô-xô-rô tốp vẫn lăng xăng hớn hở. - Cuộc sống ra sao, anh bạn đồng hương vàng ngọc của tôi?
- Cuộc sống ấy à? Thường thôi, không có gì phải phàn nàn cả. Người ta cho tôi đi đày ở Ki-ren-xcơ - chạy trốn. Lại cho đi A-ca-tui - lại trốn. Mới đây có làm quen với nhà tù ở Dê-ren-tui. Cảm thấy không thích nên lại phải trốn lần nữa.
- Chắc mệt lắm rồi phải không, anh bạn?
- Còn ông, đạt được mơ ước rồi à?
- Cũng đã cố hết sức.
- Ông gặp nhiều may mắn lắm. Đấy, bây giờ lại làm quan trong một tòa lâu đài như thế này. Cái khu nhà giam đổ nát ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chúng ta làm sao mà sánh được với đây.
Người tù chính là An-tôn Xa-vê-li-ép. Qua mấy năm, người anh cứng cáp lên, đôi vai nở rộng. Mái tóc cắt ngắn dường như trắng thêm ra và trên vầng trán rộng đã hằn hai vết nhăn chưa sâu lắm.
Cô-xô-rô-tốp vẫn đứng nhìn An-tôn, miệng mỉm cười mừng rỡ. - Ấy chết, sao tôi vẫn đứng như thằng ngốc thế này nhỉ! Anh đi đường chắc phải mệt lắm. Lại đây, mời anh vào đây. - Cô-xô-rô-tốp mở khóa cửa một xà-lim.
- Đây, phòng này, phòng tối nhất, ẩm nhất đấy.
- Cảm ơn, cảm ơn lắm.
- Có gì đâu, đồng hương mà.
- Xin lỗi vì làm phiền ông nhé. Tôi ở cũng không lâu đâu.
- Bao nhiêu tùy thịnh tình của anh. Tôi không đuổi đâu.
- Thế, hai lần hai là mấy nhỉ?
- Hình như bốn thì phải.
- Đấy, đấy, bốn tháng nữa, đến mùa xuân tôi lại đi. Còn bây giờ trời lạnh quá, phải nghỉ ngơi một ít đã.
- Anh vẫn là người vui vẻ như xưa, hà-hà! - Cô-xô-rô- tốp ngoác miệng ra cười. Nhưng rồi hắn bắt đầu trở nên cáu kỉnh. -Nào, mau lên, mau lên! Đẩy An-tôn vào xà-lim, Cô-xô-rô-tốp khóa trái cửa lại, giơ tay làm dấu thánh giá mấy lần liên tiếp, và trên khuôn mặt của hắn lại hiện ra một cái gì giống như nụ cười.
- Lạy Chúa, quả người cũng không lấy bớt mất của bọn coi tù chúng con những niềm vui...
Phía trong xà-lim, An-tôn bỗng đấm ầm ầm vào cửa. Cô-xô-rô-tốp vội mở cửa sổ con nhìn vào.
- Gì thế? Phòng không vừa ý à?
- Đâu dám! Phòng rất tuyệt là đằng khác. Tôi quên khuấy mất không báo cho ông một tin vui. Tôi vừa mới sinh thằng con trai. Con trai nhé!
2
Cuộc nổi loạn của bọn tù binh bạch vệ Tiệp Khắc ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép xcơ bắt đầu vào đêm 26 tháng Năm năm 1918.
Ngày hôm đó, ủy viên Ban chấp hành Xô-viết đại biểu tỉnh Tôm-xcơ An tôn Xa-vê-li-ép đi dự Đại hội các ủy viên lao động đáp tàu hỏa từ Mát-xcơ va về nhà.
An-tôn được bầu làm ủy viên chấp hành Xô-viết tỉnh Tôm-xcơ mấy tháng trước đây. Tạm thời để Li-da và con trai là I-u-ri ở lại Nô-vô-nhi-cô lai-ép-xcơ, anh đến Tôm-xcơ một mình. Trên đường đi tới Mát-xcơ-va họp, anh viết thư về cho Li-da báo rằng cuối cùng anh cũng đã tìm được một căn nhà ở Tôm-xcơ và khi về tiện đường sẽ ghé qua đón vợ và con trai theo. Họp xong rời Mát-xcơ-va, anh lại đánh điện về bảo Li-da phải sẵn sàng hành lý, chiều ngày 26 tháng Năm đợi anh ở nhà ga.
Nhận được điện, Li-da, - lúc đó đang làm văn thư ở Xô-viết huyện, - liền xin nghỉ việc và suốt ngày 26 tháng Năm, từ sáng sớm, lo thu xếp đồ đạc. Nhà ga Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ chật ních những đoàn tàu chở quân tù binh Tiệp Khắc. Họ được Chính phủ Xô-viết cho phép trở về tổ quốc theo đường qua cảng Vla-đi-vô-xtốc. Thỉnh thoảng từ trong nhà ga lại có một vài sĩ quan chạy ra, cánh cửa đập sầm sầm. Trên nóc ga, lá cờ đỏ sũng nước, sau cơn mưa vừa qua chưa kịp khô, bay yếu ớt như cánh chim bị thương. Lúc trời vừa chập choạng tối, một người đàn ông gầy gò khoác chiếc áo da, khuôn mặt cau có với chiếc mũi mỏng dính như mẩu phoi bào, xuất hiện trên quảng trường mờ mờ ánh điện cạnh sân ga cùng với chừng một tiểu đội chiến sĩ Hồng quân có vũ trang.
Một toán tuần tra đi tới. Viên sĩ quan chỉ huy người Tiệp Khắc to béo chạy lại hét:
- Đi đâu? Không được! Quay lại!
- Có nhiệm vụ đặc biệt, - người mặc áo da uể oải nói và chìa cho viên sĩ quan người Tiệp Khắc tờ giấy.
Viên sĩ quan soi đèn pin, đọc rất lâu, rồi kéo dài giọng, thốt lên ngạc nhiên:
- Ô-ô! Chữ ký của ngài Gri-sin-An-ma-dốp! Nhưng vào nhà ga thì không được, ở đó đang họp. Mời ngài xơi thuốc, ngài Xvi-ri-đốp.
Xvi-ri-đốp từ chối không hút.
Ba phút sau, Pô-li-pốp xuất hiện trên quảng trường, hắn cũng mặc áo da, cũng mệt mỏi, cau có.
- Thế nào? - Hắn bước đến bên Xvi-ri-đốp, hỏi.
- Mệnh lệnh đã được truyền xuống cho toàn bộ quân đội Tiệp Khắc dọc theo suốt tuyến đường, - Xvi-ri-đốp nói, giọng khàn khàn. - Nửa giờ nữa sẽ chiếm bưu điện thành phố, bến tàu, trụ sở Xô-viết, ủy ban đặc biệt, huyện ủy... Nhưng anh đến đây để làm gì? Anh đi đi!
Pô-li-pốp gặp Xvi-ri-đốp lần đầu tiên vào năm 1906, ở nhà tù Nô-vô-nhi cô-lai-ép-xcơ. Hồi đó Xvi-ri-đốp là ủy viên chấp hành đảng bộ Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga thành phố Tôm-xcơ. Đảng bộ này gồm toàn bọn men-sê-vích, và trong nhà tù, Xvi-ri-đốp thường tranh cãi kịch liệt với Xu bô-tin về những vấn đề chính trị. Nghe họ cãi nhau, một lần Mi-tơ-rô-phan I-va-nô-vích Xa-vê-li-ép nói: «Này, Xvi-ri-đốp, anh biết không, sau năm năm nữa, hoặc thậm chí có thể sớm hơn... anh sẽ trở thành chỉ điểm viên ăn lương của mật thám Nga hoàng».
Từ đó Pô-li-pốp không gặp lại Xvi-ri-đốp, nhưng biết rằng sau khi ra tù, Xvi-ri-đốp liền đoạn tuyệt với bọn men-sê-vích và nhập vào phái bôn-sê vích trong Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga. Sau Cách mạng tháng Mười, hắn xuất hiện ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ với tư cách là chính trị viên một đơn vị nhỏ của Hồng quân.
- Này, Xvi-ri-đốp, sao anh lại tụt xuống thấp thế? - hồi đó có lần Pô-li pốp đã hỏi đùa hắn.
- Còn anh, tôi thấy anh leo lên cao quá đấy, - Xvi-ri-đốp khó chịu trả lời, người hắn bốc lên mùi rượu vốt-ca nồng nặc.
Sau khi chính quyền Xô-viết được thành lập ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, Pô-li-pốp trở thành ủy viên của Tòa án quân sự cách mạng. Còn La-khơ nốp-xki thì từ sau cách mạng tháng Hai không thấy tin tức gì, và tất nhiên, Pô-li-pốp cũng không đi tìm hắn. Đôi lúc, Pô-li-pốp nghĩ với một hy vọng thầm kín: biết đâu ông ta đã chết trong cái lò nghiền thịt này? Thế có khi lại hay... Nhưng vừa cách đây ít lâu, Xvi-ri-đốp tình cờ gặp y ngoài phố, bèn mời y đến nhà. Sau khi bảo vợ và đứa con gái chừng 13 tuổi xuống bếp, Xvi-ri-đốp nói độp luôn, không mào đầu gì cả, mặt nhăn lại méo mó, một bàn tay xoa xoa trước bụng:
- Chính quyền Xô-viết chẳng còn tồn tại được bao nhiêu nữa đâu, lâu lắm là một tuần lễ nữa. Ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép- xcơ từ lâu đã thành lập chính
phủ lâm thời bí mật Xi-bi-ri, nó đang chuẩn bị lực lượng để đánh một đòn quyết định. Quân đội Tiệp Khắc sẽ giúp đỡ chúng ta. Tôi nói thẳng hết với anh như vậy, vì... Nói chung, tôi liên lạc với anh theo ủy nhiệm của La-khơ nốp-xki là người tôi rất quen biết... đáng tiếc.
- Nhưng anh là ai? - Pô-li-pốp sửng sốt.
- Chúng tôi, tất nhiên, sẽ cố gắng tóm cổ bọn chúng một cách bất ngờ, - không trả lời vào câu hỏi, Xvi-ri-đốp nói tiếp. - Nhưng khó mà tóm hết được ngay một lần. Vì vậy... Nói chung, anh nên trốn đi, và đặc biệt chú ý theo dõi những đứa khác trốn ở đâu. Những tin tức này, dù chỉ là phỏng đoán đi chăng nữa, như anh hiểu đấy, đối với chúng tôi rất quan trọng. Anh chỉ được liên lạc với tôi, như trước đây đã liên lạc với La-khơ-nốp-xki.
- Thế nhưng... La-khơ-nốp-xki hiện ở đâu?
- Giờ đang ngồi ở nhà tù Tôm-xcơ.
Và như thế là người ta chưa quên y, người ta lại giao cho y đóng cái vai trò cũ của mình...
...Những toán lính Tiệp Khắc cuối cùng đã đi khỏi quảng trường cạnh nhà ga. Những chiếc cửa sổ của nhà ga tỏa sáng một cách bình yên, ấm cúng. Không có dấu hiệu gì báo trước rằng chỉ còn mấy phút nữa, trong thành phố sẽ xảy ra một cuộc tàn sát đẫm máu.
- Tôi hỏi anh, anh lang thang ở đây để làm gì? - Xvi-ri- đốp giận dữ hỏi Pô-li-pốp.
- Li-da... Cái gì sẽ xảy ra với Li-da?.. Tôi biết anh đang đợi chuyến tàu từ Mát-xcơ-va tới, anh sẽ bắt An-tôn, người mà tôi đã báo cho các anh... Nhưng còn Li-da... Tôi xin các anh đừng động đến Li-da...
- Thần kinh, đồng chí Pô-li-pốp ạ, - Xvi-ri-đốp cười gằn. -Anh vẫn chưa từ bỏ được hy vọng kia à? Đã đến lúc rồi đấy.
Ừ, quả là đã đến lúc rồi. Mười năm trôi qua từ ngày Li-da đi lấy chồng, con trai cô đã lớn. Từ ngày cưới đến nay, tổng cộng cô chỉ được sống bên chồng chừng một năm, năm rưỡi; thời gian còn lại anh ngồi tù, vượt ngục, rồi lại ngồi tù. Cách mạng tháng Hai giải phóng anh khỏi nhà tù khổ sai ở mỏ sắt thuộc vùng phía tây hồ Bai-can; sau cách mạng tháng Mười, anh về ở Tôm-xcơ. Và đôi lúc Pô-li-pốp cảm thấy vừa buồn cười, vừa cay đắng: mười năm trước đây không hiểu y hy vọng cái gì khi quyết định trở thành tên phản bội? Và cho đến tận bây giờ y vẫn chưa từ bỏ được hy vọng của mình. Y đã hiểu từ lâu, rằng điều y mong đợi sẽ không bao giờ xảy ra, nhưng y vẫn không thể nào từ bỏ được. Cho đến bây giờ y vẫn sống độc
thân, một cuộc sống không ổn định, bừa bộn và cô đơn trong ngôi nhà trống trải và rộng thênh thang của bố y để lại. Bố mẹ y giờ ở đâu, còn sống hay đã chết - Pô-li-pốp không biết. Sau khi chính quyền mới quốc hữu hóa Ngân hàng thành phố, nơi bố y có một tài khoản khá lớn, ông ta trở nên buồn phiền, người hốc hác, lưng còng xuống. Và tháng Giêng năm 1918, bỏ lại nhà cửa và những cửa hiệu trống rỗng, ông ta biến mất khỏi thành phố cùng với bà mẹ, sau khi gửi qua bưu điện cho con trai một mẩu thư ngắn ngủi: «Tất cả lũ các người đều đáng nguyền rủa... Mà này, đứa con hiếu nghĩa ạ, mày là kẻ đầu tiên…»
Pô-li-pốp thậm chí còn lấy làm mừng về việc bố y đã xử sự như vậy, y thở dài khoan khoái. Sớm hay muộn thì y cũng buộc phải có cách xử sự nào đó đối với bố mẹ y. Còn giờ đây, nếu cuộc đảo chính thành công, bố mẹ y quay trở về, biết rõ toàn bộ sự thật về y, chắc ông bố sẽ gạt bỏ lời nguyền rủa của mình trước đó.
Xvi-ri-đốp sốt ruột nhìn đồng hồ. Còi tàu đã rúc lên rất gần, tiếng bánh sắt của đoàn tàu đang vào ga đã sình sịch ngay chỗ bẻ ghi. Từ một ngõ hẻm gần đó, trong màn tối, chợt vang lên một giọng hát trẻ con:
Chúng ta giành lấy tự do
Không phải bằng cầu xin, mà bằng lưỡi lê...
Pô-li-pốp nhận ngay ra đó là I-u-ri, con trai của Li-da. Và chỉ một lát sau đã thấy I-u-ri đi tới - áo sơ-mi sạch bong, là cẩn thận, mái tóc bờm xờm cũng được chải gọn gàng, đi sau bé là Li-da và thím U-li-a-na Phê-đô-rốp na tay xách lỉnh kỉnh những va-li và túi đầy.
- Pi-ốt! - Li-da gọi to. Đôi mắt cô ánh lên lo lắng. - Cám ơn anh đã ra đón An-tôn.
- Tôi đến để đưa tiễn Li-da...
- Trong thành phố có chuyện gì vậy? Khắp đường phố chỗ nào cũng thấy quân Tiệp đi lại.
- Chẳng có gì đặc biệt đâu, - Xvi-ri-đốp lên tiếng. - Họ đi tắm ở nhà tắm công cộng đấy.
Thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na đặt chiếc túi nặng xuống đất. - Lạy chúa, sao mãi vẫn chưa thấy ông Mi-tơ-rô-phan I-va-nô-vích nhỉ?... Đã hứa đến rồi kia mà. Suốt ngày cứ mất tăm mất dạng với cái ủy ban đặc
biệt này, quỷ tha ma bắt nó đi!
Mi-tơ-rô-phan I-va-nô-vích Xa-vê-li-ép, người thợ mộc trước đây, từ sau Cách mạng tháng Mười làm việc ở Ủy ban đặc biệt và hầu như chẳng đêm nào ngủ ở nhà. Mấy ngày gần đây, ông không về nhà, và hôm nay sau bữa ăn trưa cho người về bảo rằng tối sẽ ra ga để đón cháu.
- Li-da, ta đứng ở đây làm gì nhỉ? -Thím U-li-a-na Phê-đô-rốp-na lại túm lấy túi. - Hình như tàu đến kia rồi.
- Không được vào nhà ga đâu, - Xvi-ri-đốp nói, - An-tôn sẽ tự đến đây. - Tại sao lại không được? - Thím U-li-a-na Phê-đô- rốp-na quay lại nhìn Xvi-ri-đốp. -Anh là ai?
Xvi-ri-đốp ngoảnh mặt đi. Pô-li-pốp hấp tấp cầm lấy tay Li-da. - Thôi... Tạm biệt. Chúc em hạnh phúc.
Hai bàn tay của Pô-li-pốp nóng hổi, đẫm mồ hôi, khẽ run lên. Y giật giật một bên khóe miệng, rồi vội vã đi thẳng, không ngoái lại, mất hút trong bóng tối.
Sự việc tiếp theo chỉ diễn ra trong vòng mấy phút. Đầu tiên, trên sân ga nghe có tiếng huyên náo, tiếng người kêu hét, tiếng hô khẩu lệnh bằng tiếng nước ngoài, rồi một đám đông hành khách ùa ra cửa ga.
Và bỗng nhiên ở một nơi nào đó trong thành phố, ngay sát nhà ga, rộ lên một loạt súng, rồi im ngay.
- Cái gì thế? Cái gì thế? -Li-da kêu lên, mặt tái mét.
- Chẳng có gì đặc biệt cả đâu, - Xvi-ri-đốp cười nhạt.- Người của chúng tôi bắn kẻ thù đấy.
- Kẻ thù nào? Người nào của các ông? Và ông là ai? Hình như tôi đã gặp ông ở đâu rồi...
Xvi-ri-đốp không trả lời.
An-tôn tách ra khỏi đám đông, xuất hiện một cách bất ngờ. - Li-da! Con! -Anh túm lấy I-u-ri, nhấc bổng lên, ghì sát vào người. Rồi anh ôm vợ. - Li-da! Li-da! Có chuyện gì xảy ra ở đây thế? Tại sao lại có tiếng súng? Có chuyện gì xảy ra?
- Chẳng có gì đặc biệt cả, - Xvi-ri-đốp trả lời, đi đến bên cạnh An-tôn. - Họ tiêu diệt chính quyền Xô-viết.
- Xvi-ri-đốp đấy à?! -An-tôn lùi lại một bước. -Anh nói sao? Xvi-ri-đốp ngập ngừng mấy giây, rồi nói uể oải, dường như miễn cưỡng. - Bắt lấy nó. Cả hai con mụ này nữa. Và cả thằng chó con này, biết đâu có lúc cần đến.
* * *
Bọn hiến binh Tiệp Khắc thả sức hoành hành trong thành phố. Ngày đêm chúng đưa người ra xử bắn ở khu rừng cạnh bờ con sông nhỏ Ca-men-ca. Đã quá ba tuần kể từ sau cuộc nổi loạn, Pô-li-pốp sống trong tầng hầm một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố của người làm nghề đánh xe ngựa, một đảng viên già Đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga tên là Va-xi-li Xtê-pa nô-vích Da-xu-khin. Pô-li-pốp hầu như không ló mặt vào thành phố. - Hỏng hết rồi! Hỏng hết cả chính quyền Xô-viết rồi, - mỗi buổi chiều, khi mang thức ăn cho Pô-li-pốp, Da-xu-khin lại nói. - Coi như toàn bộ tổ chức Đảng của thành phố đã bị triệt hết.
- Chưa hết đâu. Tôi cùng với đồng chí còn sống đây kia mà, Xu-bô-tin, như đồng chí nói, cũng còn chưa bị bắt, - Pô-li-pốp nói. - Đồng chí cho tôi liên lạc với Xu-bô-tin đi. Cần phải làm một cái gì chứ?
Da-xu-khin ngồi trên chiếc ghế đẩu, đầu gục xuống và im lặng rít thuốc. Căn hầm đã ngột ngạt lại càng thêm khó thở.
Một lần, Xu-bô-tin, râu ria sau ba tuần lễ không cạo mọc xồm xoàm, chân đi đôi bốt lấm lê bụi đất, đầu đội chiếc mũ của những người đánh xe ngựa trong thành phố, tự tìm đến căn hầm.
- Còn sống à? -ông bắt tay chào hỏi. -Tốt lắm. Người của ta còn quá ít. Chúng tôi đã quyết định đưa anh vào thành ủy bí mật.
- Có thế chứ! -Pô-li-pốp thở phào. -Thế mà tôi nghĩ mình đến mốc meo lên ở đây mất.
- Bây giờ thì chẳng còn thời giờ đâu mà mốc nữa. Cần phải tập hợp lực lượng còn lại, thực tế là phải xây dựng tất cả lại từ đầu. Và chúng ta sẽ bắt đầu. Chúng ta sẽ bắt đầu mọi chuyện gấp nghìn lần!.. Còn thằng Xvi-ri đốp... Tôi chưa bao giờ tin là hắn đã đoạn tuyệt thực sự với bọn men-sê vích. Hồi hắn ở Tôm-xcơ, bao nhiêu tổ chức ở đó đã lần lượt bị phá vỡ, bao nhiêu đồng chí ưu tú đã hy sinh! Bây giờ thì đã rõ do bàn tay ai. Và đấy, một kết cục rất lô-gích: hắn trở thành dự thẩm viên của hiến binh bạch vệ Tiệp Khắc. Đang ra sức cúc cung tận tụy. Có tin hắn đặc biệt hành hạ An tôn Xa-vê-li-ép. Cả vợ của anh ấy nữa.
- Li-da ấy à? Họ còn sống không? -Pô-li-pốp tái mặt, cổ họng se lại. - Hiện nay hình như còn sống. Còn Mi-tơ-rô-phan I-va-nô-vích đã hy sinh, - Xu-bô-tin đứng dậy. - Mấy ngày nữa ta phải họp nhau để bàn một số
việc.
- Bao giờ và ở đâu?
- Gì mà anh nôn nóng thế?
- Ngồi mãi trong hố này đã chán ngấy lên rồi.
- Va-xi-li Xtê-pa-nô-vích sẽ nói cho anh biết bao giờ và ở đâu. Thôi nhé. Tôi rất mừng lại gặp được anh, Pi-ốt ạ.
...Mấy ngày sau, giữa đêm khuya, Pô-li-pốp lần mò theo những đường phố vắng vẻ nhất, đi vội về phía nhà ga, nơi Xvi-ri-đốp sống trong một ngôi biệt thự được xây dựng rất chắc chắn, sau những cánh cửa bằng gỗ sồi dày.
Vợ của Xvi-ri-đốp, một người đàn bà to béo, mắt như vừa mới khóc xong, ra mở cửa. Khi đi đến đây, Pô-li-pốp nghĩ rằng sẽ gặp bọn lính canh quanh nhà, nhưng lính canh không có, và khi y vừa mở miệng nói cần gặp ai là cửa đã mở ngay, dường như không có sự đề phòng gì cả. Pô-li-pốp rất lấy làm lạ.
Xvi-ri-đốp, mặc quần dài và chiếc sơ-mi lót trong đang say rượu nằm trên giường, hai cái chai và một đĩa dưa chuột để trên bàn. - A, ngài chỉ điểm! - Xvi-ri-đốp chào y. - Tôi đợi ngài đã lâu. Có tin gì mới?
Cả giọng lẫn lời nói của Xvi-ri-đốp đều làm cho Pô-li-pốp khó hiểu, lo lắng.
- Thành ủy bí mật sẽ họp vào ngày mai... Tại nhà của Coóc-nây Ba-u-lin, thợ sắp chữ ở xưởng in thành phố. Địa chỉ...
- Được rồi, được rồi. Tôi biết nhà của thằng này. Anh muốn uống rượu không?
- Này, anh Xvi-ri-đốp... Thế này nghĩa là thế nào?
- Mà sao? - Xvi-ri-đốp bỏ chân xuống giường, nhưng vẫn không ngồi dậy.
- Anh uống như... một thằng nghiện ngập đốn mạt nhất! Chỗ ở không có bảo vệ canh gác gì cả, cứ như là thời bình không bằng. Và nói chung... - Nói chung là không nên uống. Tôi bị viêm dạ dày. Ruột cứ như bị dao cứa... -Hắn lấy tay xoa bụng. - Còn bảo vệ thì có đấy...
- Này, - Pô-li-pốp nói tiếp. -Tôi đến để bàn việc với anh, còn anh lại say rượu, mất hết tỉnh táo! Xin lỗi, trong trường hợp như vậy, tôi đi... Tôi chẳng còn hiểu ra sao nữa.
- Cu-lê-pa-nốp!
Cánh cửa dẫn sang phòng bên cạnh bật mở, một tên bạch vệ hiện ra trên bực cửa, sau hắn còn một tên nữa.
- Bắt... bắt lấy hắn! Đưa về sở! Cho nó biết tay và tống vào xà-lim cá nhân, - Xvi-ri-đốp nói, mắt không nhìn Pô-li-pốp. Rồi hắn bước đến cạnh bàn, dốc rượu từ chai vào cốc.
* * *
Quả là Pô-li-pốp không hiểu ra sao cả. Y bị dẫn về sở mật thám, bị một trận đòn nhừ tử, rồi bị vứt vào một xà-lim chật chội.
Còn sau đó thì hình như người ta quên hắn đi. Mỗi ngày một lần, Cô-xô rô-tốp, người quen cũ, giờ làm ở đây, mang đến cho y thứ xúp khoai loãng thum thủm và mang bô vệ sinh đi đổ. Y câm lặng như đá, suốt thời gian đó không nói lấy nửa lời.
Một lần, Cô-xô-rô-tốp dẫn y đi dọc theo hành lang dài và đẩy vào phòng làm việc của Xvi-ri-đốp.
Những vết tím bầm trên mặt Pô-li-pốp còn chưa tan máu, mí trên mắt phải rách nát, sưng phồng che cả mắt. Đứng ở bậc cửa, Pô-li-pốp đưa mắt trái nhìn khắp gian phòng khá rộng rãi. Một chiếc bàn, bên tường kê một chiếc tủ. Cạnh tủ lại còn một cánh cửa nữa, được phủ bằng lớp phớt dày màu xám.
Xvi-ri-đốp mặc bộ áo sĩ quan cổ đứng, nhưng không có quân hàm, đứng cạnh cửa sổ chán chường nhìn ra sân qua hàng song sắt dày. Khuôn mặt hốc hác của hắn có màu đất xám xịt, má tóp lại, đôi môi bỏng rộp run run.
- Có thể, anh hãy giải thích cho tôi nghe, tất cả những chuyện này có nghĩa gì? - Pô-li-pốp nặng nhọc hỏi.
- Dẫn An-tôn Xa-vê-li-ép vào đây! - không trả lời, Xvi-ri-đốp nói. - Chuẩn bị cả vợ hắn nữa. Sau đến cả con hắn.
- Tuân lệnh! - Cô-xô-rô-tốp bước ra, nhưng đến cửa, hắn dừng lại. - Có điều tôi muốn báo cho ngài biết trước, con mẹ ấy, Li-da Xa-vê-li-ê-va, đã ba ngày nay không ăn uống gì cả. Và hình như đã bắt đầu nói lảm nhảm. - Dẫn chúng đến đây, đồ quỷ! - Xvi-ri-đốp gào lên.
Khi Cô-xô-rô-tốp ra khỏi, Pô-li-pốp cũng bước đến bên cửa. - Không, hãy để cho tôi ra... Tôi xin anh.
- Ngồi xuống! - Xvi-ri-đốp chỉ chiếc ghế ở góc tường, quát lớn.
Rồi hắn đến bên tủ, lấy ra một chai rượu và một chiếc cốc. Khi rót rượu, tay hắn run lẩy bẩy. Tiếng thủy tinh chạm vào nhau kêu lách cách. Uống xong, hắn thở hổn hển.
- Pô-li-pốp, theo anh, con người sống để làm gì? - Xvi- ri-đốp bất ngờ hỏi. -Ý nghĩa của cuộc sống và cái chết của con người là ở đâu? Hả? Và nói chung, ở đâu là chân lý, sự thật, ở đâu là dối trá, lừa đảo?
- Khen anh khéo chọn nơi chọn lúc để bàn luận về những chuyện đó! - Tại sao? Nếu như có nhu cầu thì ở đâu và lúc nào cũng được. - Tôi không ngờ anh là một nhà triết lý như vậy. Còn tôi, tôi không có những đức tính ấy.
- Đúng, đúng thế... Anh chỉ là một thằng chỉ điểm!
- Tôi đang ở đâu thế này?! - Pô-li-pốp đứng bật dậy. - Tốt hơn hết là anh hãy nói: các anh đã tìm được thành ủy bí mật của Đảng chưa? - Để làm gì? - Xvi-ri-đốp nhún vai. - Bắt một thằng lại xuất hiện thằng khác. Việc làm vô ích và... vô tận...
- Tôi không hiểu nổi, - Pô-li-pốp lại ngồi xuống, người run bắn. - Hoặc là tôi hóa điên, hoặc là...
Hắn ngừng lại, vì Cô-xô-rô-tốp đã dẫn An-tôn vào.
Xa-vê-li-ép gầy tọp đi, đôi mắt trũng sâu, da ở gò má, thái dương và trên trán vàng xạm lại. Nhưng trên người anh không thấy dấu vết của sự tra tấn, chỉ có cảm tưởng rằng anh đã quá sức mệt mỏi.
Bước qua ngưỡng cửa, An-tôn lo lắng đưa mắt nhìn quanh phòng. - Chào cậu, Pi-ốt, - anh nói khẽ. - Cả cậu cũng bị lũ chó đánh hơi được à? Pô-li-pốp nghe lồng ngực lạnh toát. Nếu như Xvi-ri-đốp nói ra rằng y bị
«đánh hơi» bằng cách nào thì sao? Nhưng Xvi-ri-đốp chỉ nhếch mép cười khẩy.
An-tôn nặng nề, như ông già, bước đến bên bàn và ngồi xuống ghế, căng ngực lên hít không khí.
- Cậu lại uống đấy à, Xvi-ri-đốp?
Trong mắt của Xvi-ri-đốp, một chấm lửa như người đang trong cơn sốt bừng lên, cháy loang ra.
- Tớ không hiểu được cậu đấy, - An-tôn tiếp tục nói. - Hay đúng hơn, đôi lúc tớ cảm thấy có ngọn lửa nào đó đang nung đốt cậu từ bên trong. Phải chăng những mẩu lương tri con người còn sót trong cậu lại trỗi dậy, và cậu toan dùng rượu vốt-ca để dập tắt chúng đi?
- Đúng đấy, cậu đoán đúng lắm, hê-hê... -Tiếng cười của Xvi-ri-đốp khô khốc, cụt lủn.
- Nhưng rồi sau đó tớ lại nghĩ: làm gì còn có tí lương tri nào ở tên đao phủ đã hóa dại, đã trở thành thú vật này!
- Và ở đây cậu cũng đoán đúng, hê-hê... - Bỗng nhiên người hắn tái nhợt ra, miệng gào lên. - Mày đoán đúng! Đúng, mày đoán đúng! - Hai tay hắn ôm lấy đầu, ngón tay luồn xoắn vào tóc như muốn bứt hết chúng ra. - Chỉ có điều chẳng vì thế mà mày đỡ hơn đâu! Không đỡ hơn đâu!
- Tớ biết, cậu sẽ bắn hết tất cả bọn tớ - tớ, Li-da, tất cả gia đình tớ, - An tôn lại nói tiếp - cả I-u-ri nữa... Trẻ con cậu cũng không thương đâu. Nhưng còn nhân dân, làm sao cậu có thể treo cổ, bắn chết hết được?
- Thế sao? - Xvi-ri-đốp cười gằn. - Mày không điếc, không mù đấy chứ? Mày không biết, không hiểu cái gì đang xảy ra ở nước Nga à? Chúng mày đã mất Nô-vô-nhi-cô-lai-ép- xcơ, mất Tsê-li-a-bin-xcơ, Ê-ca-tê-rin-bua, Bác-na-un, Ôm-xcơ, Tôm-xcơ, Cra-xnôi-ác-xcơ. Quân Nhật đã chiếm Viễn Đông, a-ta-man Xê-mê-nốp đang kiểm soát vùng phía tây hồ Bai-can, a-ta man Đu-tốp ở miền Nam U-ran. Ở Pô-vôn-gie, người ta đang diệt nốt những tàn quân cuối cùng của bọn đỏ. Thế đấy, chính quyền Xô-viết chỉ được nửa năm. Hết thời rồi. Và sẽ không bao giờ trở lại nữa.
- Ê, không đâu, người anh em! Chính quyền Xô-viết đã có và sẽ còn vĩnh viễn. Ngay trong những thành phố mà cậu vừa kể ra đấy, những tổ chức bí mật của Đảng đã được thành lập và đang hoạt động. Họ sẽ phát động nhân dân đứng lên, và chẳng còn bao lâu nữa, nhân dân sẽ đè bẹp chúng mày xuống dưới móng tay như lũ rệp.
- Nhưng hiện nay chúng tao đang đè!
- Chẳng còn lâu nữa đâu. Chúng mày điên cuồng vì chúng mày bất lực. Một ngày gần đây, rất gần, nhân dân sẽ hỏi tội chúng mày về hàng nghìn con người đã bị bắn giết, tra khảo! Chúng mày sẽ phải đền hết tội!
- Thôi, nói thế đủ rồi, - Xvi-ri-đốp ngắt lời anh. - Vẫn một câu hỏi cũ: ai có thể vào thành ủy bí mật Tôm-xcơ?
- Tớ không biết, Xvi-ri-đốp ạ. Tớ bị cậu bắt từ mấy ngày trước khi quân bạch vệ Tiệp Khắc chiếm Tôm-xcơ kia mà. Hơn nữa, tớ đang trên đường từ Mát-xcơ-va trở về.
- Tao biết rằng mày không biết chính xác, nhưng đoán chừng những ai? Pô-li-pốp ngồi ở góc tường như một kẻ thừa, bị lãng quên, ngơ ngác theo dõi cuộc hỏi cung. Xvi-ri-đốp cần biết tên họ những người hoạt động bí mật
ở Tôm-xcơ để làm gì, trong lúc tổ chức ở đây, ở thành phố Nô-vô-nhi-cô lai-ép-xcơ này, hắn lại không đả động đến? Hay là Xvi-ri-đốp lừa y, Xu-bô tin và những người khác đều đã bị bắt từ lâu? Và bây giờ, sau An-tôn, Xvi ri-đốp sẽ lần lượt gọi họ lên từng người một để đối chứng với y, với Pô-li pốp? Thôi, có lẽ là đúng thế rồi! Hóa ra y bị bắt đưa đến đây, đến sở mật thám này là vì vậy! Chỉ có một điều khó hiểu là tại sao lại phải bắt y như vậy và lại đánh đập y?
Trong một thoáng, Pô-li-pốp tưởng tượng ra cảnh vài phút nữa sẽ phải nhìn vào mắt Xu-bô-tin, y toát mồ hôi hột.
Nhưng sự việc lại xảy ra hoàn toàn theo một hướng khác. - Nghĩa là mày không chịu nói chứ gì? - Xvi-ri-đốp lại hỏi An-tôn. - Tao đâu phải là thằng phản bội!
- Mày thì trước sau gì rồi chúng tao cũng bắn. Ít ra mày cũng nên thương lấy vợ. Nó sắp hóa điên rồi đấy. Mày cũng nên thương lấy con. Cả thím của mày nữa... Bà ta bị những cơn đau tim hành hạ. Thực tế là mày đã giết chết bà ta rồi đấy. Nhưng vợ và con thì còn có thể cứu được. Thế nào? Chỉ cần đoán chừng thôi. Những ai?
Pô-li-pốp thấy những giọt mồ hôi lớn chảy ra trên trán, trên má An-tôn. - Dù đoán chừng, tao cũng không nói gì cho chúng mày nghe cả. - Giọng của An-tôn khản đặc, anh nuốt nước miếng đánh ực. - Đã đến lúc mày phải hiểu được điều đó chứ!
- Nói láo! Mày sẽ phải khai... Cô-xô-rô-tốp!
Cô-xô-rô-tốp liền đẩy Li-da vào trong phòng. An-tôn và Pô-li-pốp cùng đứng dậy. Một lát sau, Pô-li-pốp ngồi xuống, còn An-tôn vẫn tiếp tục đứng, hai tay bám chặt mép bàn.
Trông Li-da thật đáng sợ. Đầu tóc tả tơi, áo quần rách nát, chị đưa đôi mắt đã hóa dại nhìn quanh phòng.
- Con trai... Con trai của tôi đâu? Các ông làm gì con tôi rồi! - Li-da kêu khóc, ngã khuỵu xuống đất, bò đến bên bàn.
- Li-da! Li-da! - An-tôn chạy đến bên vợ, đỡ chị dậy, nhưng Xvi-ri-đốp vội rời khỏi bàn, đẩy chị ra xa An-tôn.
- Hiện giờ thì I-u-ri còn sống và khỏe mạnh, - rồi hắn quay sang An-tôn: - Mày có nói không?
An-tôn lấy ống tay áo lau mồ hôi trên trán.
- Tao chẳng có gì để nói cả... Chẳng có gì hết!
- Mày sẽ no-ói! - Và Xvi-ri-đốp giật cánh cửa bọc phớt, hét vọng vào trong đó. - Bắt đầu đi!
Sự việc tiếp theo Pô-li-pốp dường như thấy qua một màn sương xám, sóng sánh, lúc dày lúc mỏng. Từ trong căn phòng có cánh cửa bọc phớt hai bóng đen chạy vụt ra, chúng túm lấy Li-da lôi đi. An-tôn nhảy chồm theo, nhưng rồi anh lùi lại, suýt nữa giẫm phải Pô-li-pốp, và đứng tựa lưng vào tường. Và anh cứ đứng như thế, đôi mắt nhắm nghiền, những ngón tay co quắp cấu chặt vào tường đến bật cả móng, nghe những tiếng kêu của vợ từ phòng bên vọng sang... Pô-li-pốp nhìn lén bức tường nơi những ngón tay của An-tôn đang bấu chặt, y thấy một mảng vữa đã bị bong ra để lộ lớp đá gồ ghề xấu xí. Và Pô-li-pốp hiểu rằng An-tôn đã đứng và cào cấu bức tường như thể không phải chỉ mới một lần. Đầu óc y trở nên choáng váng, người như trôi bập bềnh trong sương đục.
Pô-li-pốp không còn nhớ bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Tiếng kêu như xé ruột của Li-da làm hắn tỉnh lại:
- Con trai tao đâu? Chúng mày làm gì với con tao rồi? Chúng mày giết chết con tao rồi ư?!
Li-da, chắc vừa mới bị vứt từ trong phòng có cánh cửa bọc phớt ra, đang bò trên sàn, cố hết sức đứng dậy. Hai bàn tay và đôi vai trần đẫm máu. - Bây giờ thì chưa. Nhưng nó sẽ bị hành hạ đau đớn, nếu như mày vẫn im lặng!
Đó là lời của Xvi-ri-đốp nói với An-tôn. Anh vẫn đứng bên tường, mắt nhắm chặt.
- Trả con trai tao đây! Chúng mày giết nó rồi... Trả con trai tao đây! - Li da vẫn không ngừng la thét. Cuối cùng chị cũng đã đứng lên được, nhưng không còn nhận ra ai, cứ quay tròn một chỗ.
- Được rồi. Tao sẽ cho mày thấy con. Cô-xô-rô-tốp!
Cô-xô-rô-tốp vẫn im lặng, đẩy I-u-ri từ hành lang vào phòng. - Mẹ ơi! Mẹ!
Li-da nhận ra con ngay lập tức, chị giơ hai cánh tay run lẩy bẩy ôm choàng lấy đứa trẻ, làm vấy cả máu mình sang chiếc áo sơ-mi cáu bẩn của I-u-ri. Đôi chân của Li-da khuỵu xuống và cả hai mẹ con ngồi bệt xuống sàn nhà.
- Con ơi! Con trai nhỏ bé của mẹ ơi! Con còn sống ư? Con còn sống! - Con còn sống, mẹ ạ... - I-u-ri giơ hai tay nâng lấy mặt mẹ. - Sao mẹ lại thế này, mẹ?
- Người ta có đánh con không? Con có bị đánh không, con? - Không, người ta không đánh con. Con chỉ đói thôi. Ở đây người ta cho ăn ít quá... - I-u-ri chợt trông thấy bố và Pô-li-pốp. - Bố! Chú Pi-ốt! Cậu muốn chạy lại với bố, nhưng bị hai cánh tay của mẹ giữ chặt không giằng ra được.
- Bố nào? Bố con còn ở Tôm-xcơ chưa về, bố con không có ở đây đâu, - Li-da vội vã nói. - Mẹ vừa nhận được điện của bố mà. Bây giờ mẹ con ta sẽ đi đến với bố ở Mát-xcơ-va. Nào, con của mẹ ngủ đi, ngủ một tý trước khi lên tàu. Con ngủ đi và con sẽ không thấy đói nữa. Mẹ sẽ hát ru con, bài hát của bố con...
Và Li-da ôm con ghì vào mình, cất tiếng hát rầu rĩ, não nuột, vất vả lắm mới nhớ được lời:
Hương dã anh từng đợt sóng… thơm lừng,
Đã qua rồi... mùa đông lạnh, se hanh...
- Thế nào, có nói không? - Xvi-ri-đốp đến gần An-tôn xẵng giọng hỏi. - Hoặc là... từ biệt con trai đi.
Hắn đứng đợi một lúc. Nhưng thấy An-tôn vẫn im lặng, hắn méo xệch đôi môi trắng nhợt khô héo, lặp lại lần thứ ba:
- Nói láo! Mày sẽ phải khai! - Hắn giật đứa trẻ ra khỏi tay mẹ, đẩy qua căn phòng có cánh cửa bọc phớt. - Chần cả thằng chó con này nữa! - Mẹ ơi! Mẹ-ẹ-ẹ! - tiếng I-u-ri kêu thất thanh sau cánh cửa vọng ra. Tiếng kêu của đứa trẻ như xoáy vào đầu Pô-li-pốp, làm y choáng váng, cảm thấy từng dòng mồ hôi lạnh chảy trên ngực, dọc theo sống lưng giữa hai xương bả vai, y đứng dậy, định đi ra một nơi nào đó.
- Ngồi yên! - Xvi-ri-đốp sủa lên.
Pô-li-pốp ngồi xuống, và không còn cảm thấy, nghe thấy gì nữa, y nhìn trân trân vào Li-da, Còn chị, giống như một con chim xù lông lên, dữ tợn, bò bốn tay chân một cách kỳ cục, lấy tay sờ từng thanh gỗ lát sàn. Rồi chị ngồi im lặng mấy giây như nghĩ ngợi điều gì. Và bắt đầu giơ hai bàn tay ra bắt không khí, đôi môi rách toác mấp máy. Pô-li-pốp nghe như từ xa vẳng lại:
- I-u-ri... con tôi... Chúng mày đưa con tao đi đâu rồi?!
Chị lảo đảo đứng đậy, va người vào bàn, vào tường. Rồi như đang nghe ngóng một điều gì đó, chị mỉm cười. Một ánh lửa yếu ớt, ốm yếu, nhưng rất
đẹp cháy lấp lánh trong đôi mắt của chị, đôi mắt hơi xanh và sâu vô đáy đã từng làm cho Pô-li-pốp phải say mê...
Pô-li-pốp biết rất rõ ràng, bên kia, sau cánh cửa bọc phớt, đang xảy ra một việc làm khủng khiếp. Chúng tra tấn đứa trẻ gần như ngay trước mắt người cha bất lực và bà mẹ đã hóa điên. Nhưng, hoặc là y đã quen cam chịu tất cả, hoặc là trong người y mọi thứ đều đã hóa gỗ, y không còn cảm thấy cơn choáng váng mà mấy phút trước đây đã làm cho y gần như bất tỉnh, y chỉ cảm thấy buồn nôn và sợ mình không kìm được.
Bây giờ An-tôn không còn cào vào bức tường nữa, đôi mắt anh mở to, hai hàm răng nghiến chặt, chặt đến nỗi xương quai hàm bạnh ra làm cho mặt anh trở nên méo mó khó coi. Và Pô-li-pốp như đang nghe thấy cả tiếng răng của An-tôn rít lên ken két.
Còn Li-da vẫn lảo đảo lần theo bức tường đến bên chiếc cửa bọc phớt. Bỗng nhiên từ phía sau cửa vang lên tiếng thét:
- Mẹ ơi! Mẹ-ẹ-ẹ!
- Thôi! Đủ rô-ồi! -Xvi-ri-đốp giật tung cổ áo. Rồi hắn tự bóp tay lên cổ mình, hét lên trong cơn thở dốc. - Đưa đi hết! Đưa hết bọn Xa-vê-li-ép này đi!
Xvi-ri-đốp chạy đến mở tung cửa tủ, túm lấy chai rượu.
Tiếng thủy tinh lại chạm nhau lách cách.
* * *
Uống cạn cốc rượu, Xvi-ri-đốp dường như bình tĩnh lại, hắn ngồi xuống cạnh bàn và cáu kỉnh lục lọi trong đống hồ sơ ra một tờ giấy, ngồi viết chừng mươi phút, ngòi bút mấy lần chọc thủng tờ giấy mỏng.
- Khủng khiếp quá! Khủng khiếp quá! - Pô-li-pốp lẩm bẩm, người đẫm mổ hôi. Y ngồi, lưng còng gập lại, mắt nhìn dán xuống sàn. - Dù sao thì cũng xin anh giải thích cho tôi biết - tại sao tôi lại ở đây? Tại sao lại tra tấn tôi? Tại sao...
- Đấy không phải là tra tấn anh, mà là tra tấn tôi. Tôi tự tra tấn tôi! - Anh... Hình như không phải Li-da, mà chính anh đã hóa điên. - Đúng thế đấy, - Xvi-ri-đốp đồng ý.- Gần như vậy. Tại sao lại thế, Pô-li
pốp? Anh đã thấy đấy... Trước mắt anh là một người đàn bà đã hóa điên, người mà, như anh nói, anh yêu... Bây giờ, sau việc vừa rồi, chắc anh đã hiểu, hoặc ít ra anh cũng bắt đầu suy nghĩ - con người sinh ra để làm gì?
Sống để làm gì? Đâu là ý nghĩa cuộc đời? Đâu là sự thật, chân lý, còn đâu là giả dối?
Vừa nói, Xvi-ri-đốp vừa đứng dậy, hai cánh tay gầy guộc, chằng chịt gân xanh đặt chéo trước ngực. Đôi mắt hắn lạnh lùng và trống rỗng. - Tôi chỉ còn việc ngồi nghĩ về điều này nữa mà thôi!.. - Trong đầu, Pô-li pốp nghĩ thầm: «Hắn quả là thằng điên».
- Thật đáng tiếc! Nhưng sẽ có lúc anh phải nghĩ đến. Sớm muộn gì rồi ai cũng phải suy nghĩ về điều này... Cô-xô-rô-tốp!
Pô-li-pốp rúm người lại. Cái thằng điên Xvi-ri-đốp này còn định bày trò gì nữa đây? À, đúng rồi, hắn gọi Xu-bô-tin lên hỏi cung... Nhưng khi Cô-xô-rô-tốp bước vào, Xvi-ri-đốp hỏi, mắt nhìn vào một góc phòng.
- Con mẹ ấy, Li-da Xa-vê-li-ê-va, thế nào?
- Có lẽ hóa điên hoàn toàn rồi, thưa ngài. Nó gói mấy mảnh giẻ rách vào với nhau, đi lại trong phòng, gặp ai cũng hỏi có phải tàu bị chậm không? Bảo chuẩn bị đi Mát-xcơ- va, thăm chồng.
- Thế... Còn bà già Xa-vê-li-ê-va?
- Nằm rên, ôm lấy ngực.
- Thế-ế..., - Xvi-ri-đốp kéo dài giọng, - Tống cả hết chúng đi, lũ quỷ cái. Bắn bọn điên làm gì cho tốn đạn. Thằng bé cũng tống đi. Còn... -Xvi-đi-rốp chìa ra mấy tờ giấy. - Đây là giấy tờ của ông này, hắn gật đầu chỉ về phía Pô-li- pốp. - Cứ để cho đi. Thả ra.
Cô-xô-rô-tốp ngạc nhiên liếc nhìn Pô-li-pốp: nhưng vốn đã quen không hỏi lại mệnh lệnh của cấp trên, hắn chỉ nói:
- Xin tuân lệnh, thưa ngài.
Cô-xô-rô tốp đi ra, còn Xvi-ri-đốp buông phịch người xuống chiếc ghế An-tôn vừa mới ngồi lúc nãy, hai tay ôm lấy mặt.
- Tôi cũng... có thể đi được rồi chứ? - Pô-li-pốp khẽ hỏi.
- Đi đi!
- Thế tôi sẽ giải thích như thế nào cho... bọn họ... bằng cách nào tôi ra khỏi đây được.
- Cái đấy có quan hệ gì đến tôi? Anh cứ liệu cách... tuy quả thật cũng khó đấy. Đây, lời khuyên của tôi: ngay đêm nay cuốn xéo khỏi thành phố này, càng xa càng tốt, rồi tìm bắt liên lạc đi theo một đơn vị Hồng quân nào đó. Như vậy, anh có thể tự cứu được mình, và cái chủ yếu là cứu được những người đang hoạt động bí mật ở Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Quả thật, tôi chưa
động đến lời tố giác của anh. Nhưng người khác thì chẳng để yên đâu... Hay là, anh cũng có thể công khai xung vào một đơn vị bạch vệ ngay ở đây, trong thành phố. Đó là việc của anh. Hoặc đến Tôm-xcơ, tìm La-khơ-nốp xki, ông ta đã ra khỏi tù từ lâu...
- Thế... kết cục lại... anh là ai?! -Pô-li-pốp kinh ngạc lặp lại câu hỏi mà có lần trước đây hắn đã hỏi tại nhà của Xvi-ri-đốp.
- Tôi ấy à? - Xvi-ri-đốp bỏ bàn tay ôm mặt ra. Đôi má hốc hác của hắn co giật. - Bây giờ thì có lẽ không còn là ai cả. Còn quá khứ... còn trước đây cũng là một thằng đểu như anh...
- Dù sao, tôi vẫn yêu cầu anh...
- Thôi, xin anh dẹp cái tính đa cảm lại, - Xvi-ri-đốp uể oải nói. -Tôi trước đây cũng đã có lần hành động đớn hèn như anh. Ở ngay đây, trong thành phố này, trong nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ. Hồi đó, chúng ta cùng bị giam với nhau. Chắc anh còn nhớ, hình như bố hoặc chú của chính An-tôn Xa-vê-li-ép này có nói với tôi: chỉ sau năm năm nữa là anh sẽ trở thành chỉ điểm ăn lương của mật thám Nga hoàng. Nhưng thực tế lại còn sớm hơn. Trước đây tôi vốn là men-sê-vích, nhưng theo lời khuyên của chính La-khơ nốp-xki, tôi đã công khai đi với bọn bôn-sê-vích. Và tôi đã tố giác chúng! Cuối cùng người ta bắt đầu nghi ngờ tôi, không còn tin tưởng tôi nữa. Có lẽ có lúc nào đó, nơi nào đó tôi không được khôn ngoan, thận trọng như anh... Chắc là họ đã vạch mặt chỉ trán tôi, nếu như không xảy ra cách mạng. Trong cái mớ hỗn độn đó không còn ai còn nhớ đến tôi, và tôi chuyển từ Tôm-xcơ đến Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, và ở đây...
- Và ở đây anh biến thành thằng nghiện rượu?
- Không, ở đây tôi còn gặp phải một bất hạnh lớn hơn nhiều. Những câu hỏi bỗng nhiên từ đâu kéo đến và hành hạ tôi, không để tôi yên. Những câu hỏi hết sức đơn giản, những câu hỏi mà hôm qua đối với tôi còn hết sức rõ ràng: cái gì đang diễn ra trên trái đất này? Cuộc đời này đang đi về đâu? Cái gì đã xảy ra với nó? Tôi - một con người có học thức, có văn hóa, một trí thức - trước đây tôi đã từng là giáo viên trung học, đã từng dạy cho trẻ cái thiện, cái công lý, cái nhân nghĩa, -còn bây giờ, tôi là ai, tôi là cái gì, tôi sống để làm gì trên mặt đất này?
- Quả đúng vậy, - Pô-li-pốp nói.
- Thôi đủ rồi! -Xvi-ri-đốp đột ngột đứng dậy. -Tôi không thể nào nói với anh hết được, mà anh, như tôi thấy, cũng chẳng hiểu nổi đâu.
Hắn đến bên cửa sổ, hai tay lại bắt chéo chữ thập trước ngực, bàn tay ôm chặt lấy vai như thể người bị lạnh, và đứng nhìn rất lâu lên bầu trời chiếu qua hàng song sắt. Bỗng nhiên, hắn lại lên tiếng hỏi:
- Còn An-tôn Xa-vê-li-ép, hắn có biết hắn là ai, là cái gì, sống để làm gì trên mặt đất này không? Vợ hắn hóa điên ngay trước mắt hắn - hắn im lặng. Con hắn bị tra tấn ngay trước mặt hắn - hắn im lặng. Anh đã thấy đấy, hắn không khai báo ra ai cả, dù chỉ là phỏng đoán. Anh hãy trả lời tôi nghe, làm sao hắn ta lại như thế được? Hắn lấy từ đâu ra những sức mạnh như thế? Hắn chịu đựng vì cái gì?
Pô-li-pốp không biết có nên trả lời hay không, và trả lời ra sao. - Hay là... hay là hắn biết, ngay từ đầu hắn đã biết rất rõ cái điều mà tôi bỗng nhiên không hiểu nổi? - Xvi-ri-đốp lấy những ngón tay dài lau hai thái dương. - Hắn sẽ bị xử bắn. Hắn sẽ bị bắn sớm hơn, còn tôi với anh sẽ bị bắn muộn hơn một tí. Anh còn nhớ nó nói gì không? «nhân dân sẽ đè bẹp chúng mày dưới móng tay». -Xvi-ri-đốp mệt mỏi cười nhạt. - Nghĩa là như chấy rận ấy, phải không? Thế nào? Họ sẽ đè bẹp chứ?
- Anh còn hỏi cái gì nữa?! Chẳng phải chính anh vừa mới chứng minh cho An-tôn thấy điều ngược lại là gì?
- Anh là thằng ngu, Pô-li-pốp ạ. Sao mà ngu đến thế! - Xvi-ri-đốp thốt lên, trong giọng nói dường như pha lẫn chút thương hại.
- Thì ra anh... ném tôi vào cái nhà tù này, bắt tôi phải nhìn... là để nói với tôi... và nói chung, để... giãi bày những... tôi không biết gọi là gì bây giờ... những nghi ngờ của mình à? Để cho tôi cũng bắt đầu có những nghi ngờ, những câu hỏi như của anh à?
- Để làm gì, chính tôi cũng không biết nữa, - Xvi-ri-đốp thò tay qua hàng song sắt, giật then đẩy cánh cửa sổ mở ra. - Tôi muốn - và tôi bắt anh, thế thôi. Hoặc tôi cũng có thể bắn chết anh ngay trong gian phòng này, bằng khẩu súng này. - Hắn bước đến bên bàn và lôi từ trong ngăn kéo ra một khẩu súng ngắn.
Pô-li-pốp đang ngồi trên ghế liền bật chồm dậy. Nhưng y không kịp ưỡn thẳng người lên, mà đứng chết lặng vì kinh hoàng, sợ hãi trong tư thễ cúi lom khom - trên khuôn mặt của Xvi-ri-đốp không còn lấy một giọt máu, đôi mắt giờ lại trở nên trống rỗng, lạnh lẽo, đôi mắt của một kẻ mất trí, nhìn như cắm xuyên qua người Pô-li-pốp.
- Đúng, tôi có thể bắn chết anh. Nhưng tôi không biết là như vậy có công bằng hay không? -Xvi-ri-đốp nói tiếp, khẽ hơn. - Tôi cũng có thể thả An-
tôn Xa-vê-li-ép ra, nhưng lại cũng không biết như vậy có công bằng hay không? Vì vậy, cái công bằng nhất, tôi nghĩ, là tự cho một viên đạn vào thái dương mình.
Pô-li-pốp kinh hoàng đứng nhìn Xvi-ri-đốp, nhìn đôi mắt trống rỗng, khuôn mặt trắng bệch ra như tờ giấy và những ngón tay khô héo, co quắp đang bóp chặt khẩu súng ngắn. Và Pô-li-pốp thấy rất rõ rằng nhất định Xvi ri-đốp sẽ tự sát, ngay bây giờ.
- Tôi còn một đứa con gái. Hình như anh đã gặp nó rồi thì phải. Tên nó là Pô-li-na. Anh có biết nó không? - không hiểu sao Xvi-ri-đốp lại hỏi. - Có, đã có lần gặp qua.
- Nếu như anh còn sống, nếu như khi nào có dịp... anh nói hộ với nó, rằng cha của nó đã lầm lạc, không tìm ra đường đi. lối thoát. Và nói chung, nếu... nếu sau này cuộc đời sẽ chứng minh rằng tôi đã đi ngược dòng, trời sáng rồi mà tôi vẫn toan đem đêm đã qua trở lại, thì... không sao cả, nghĩa là tất cả đều đúng. Còn nếu như... nếu như quả thật tôi đã chiến đấu cho lẽ phải, thì các anh cũng hiểu và tha lỗi cho tôi vì tôi đã không... đứng vững. Tôi đã cố gắng, nhưng tôi kiệt sức rồi. Các anh hãy hiểu cho rằng tôi rất chân thực với chính mình. Với chính bản thân mình, mỗi con người đều phải chân thực. Nhưng... tôi nói với anh tất cả những điều này để làm gì nhỉ?
«Mà quả thật, để làm gì nhỉ?» - Pô-li-pốp nghĩ thầm.
- Còn bây giờ anh đi đi! Cô-xô-rô-tốp sẽ thả anh.
...Tim đập mạnh, bụng vẫn chưa dám tin là mình được thả thật, Pô-li-pốp đi ra khỏi những cánh cửa bọc sắt của tòa nhà sở mật thám. Y nhìn quanh, ngay ngáy lo có người quen nào nhìn thấy y ở đây. Khi đã đi khỏi hàng rào cao chăng đầy dây thép gai, hắn nghe một tiếng súng, theo như y đoán, từ cánh cửa sổ mở toang của phòng Xvi-ri-đốp. Tiếng nổ nghe rất nhỏ, hiền lành, giống như có một người nào đó bẻ một cành cây khô ngay sát bên tai...
Ngay đêm hôm đó, theo lời khuyên của Xvi-ri-đốp, Pô-li-pốp không ghé vào đâu, và cũng chẳng gặp chào ai, biến khỏi thành phố.
* * *
An-tôn Xa-vê-li-ép bị đưa đi xử bắn vào đêm đầu tiên của tháng Bảy ẩm ướt và tối như bưng. Có lẽ chưa tới ba giờ sáng, nhưng đêm mùa hè ngắn ngủi, đằng đông, hướng mà người ta dẫn anh đi, những đám mây dày trải
khắp bầu trời đã bắt đầu chuyển sang màu xanh hồng. Từ một nơi nào đó vọng lại những tiếng sấm xa.
Đi bên phải An-tôn là một người lính áp giải đã đứng tuổi có hàng ria thưa vểnh ngược. Thỉnh thoảng, người lính lại dữ tợn quát giục An tôn: - Nhanh, nhanh... bước nhanh lên! Đã muộn lắm rồi, trời sắp sáng. Nào, đồ chết tiệt! - Và thúc cho anh một báng súng.
Trước đó mười lăm phút, trong sân nhà tù, khi khóa còng tay An-tôn, cũng người lính áp giải này đã nói khẽ vào tai anh:
- Còng bị cưa đôi rồi đấy. Chúng tôi sẽ dẫn anh qua một cái khe ngoằn ngoèo. Nghe tôi ho, anh hãy nhảy xuống. Dưới đấy có người đợi sẵn... Trống ngực An-tôn đập rộn lên. Chẳng lẽ cả lần này anh cũng lại thoát khỏi tay thần chết?
Ra khỏi thành phố, con đường chạy qua một cánh rừng bạch dương thưa. An-tôn biết rằng qua hết cánh rừng bạch dương này, họ sẽ đến một khu rừng tạp rậm rạp, nơi bắt đầu của cái khe núi ngoằn ngoèo. Khe không sâu lắm, đáy khe mọc đầy các bụi cây nhỏ. «Có thoát được không? Ai đợi ở dưới đó? Chắc là Xu-bô-tin, còn ai nữa».
An-tôn cảm thấy rất hồi hộp. Chưa bao giờ anh lại hồi hộp như lần này, kể cả trong những tình huống căng thẳng, nguy hiểm nhất của vô số những lẩn vượt ngục mà anh đã trải qua.
Họ đi dọc theo bờ khe đã khá lâu. An-tôn căng tai chờ tiếng ho của người lính áp giải có bộ ria vểnh ngược, nhưng anh chỉ nghe cách đâu đây không xa một con chim đầu tiên của bình minh cất tiếng hót.
Mặc dù đã hết sức tập trung chờ đợi, anh vẫn bị bất ngờ khi nghe tín hiệu. Người lính có bộ ria vểnh ngược vẫn bước đi bên cạnh anh, hơi quay mặt sang bên và khẽ ho lên một tiếng. An-tôn vụt lấy vai hích mạnh, gạt ông sang một bên, và chỉ hai bước đã ở trên bờ khe, anh nhảy bổ xuống phía dưới, lăn theo bờ dốc thoai thoải. Anh cảm thấy đôi tay anh được tự do, hai mẩu sắt đã bị cưa đôi vẫn còn đeo ở cổ tay, nhưng bây giờ chúng không có gì là đáng sợ nữa. Phía trên bờ khe vang lên tiếng la ó của bọn lính áp giải và tiếng súng nổ loạn xạ. Mặc dù bọn lính chỉ bắn hú họa - dưới đáy khe rất tối, không thể nhìn thấy gì, - An tôn vẫn nghe xung quanh mình tiếng đạn rít và cắm phầm phập vào đất.
- Nhanh lên! Lại đây! -một người nào đó khẽ gọi. Nghe giọng, An-tôn nhận ra bác Coóc-nây Ba-u-lin, thợ sắp chữ ở xưởng in thành phố. Bác kéo anh quặt sang bên, chui vào một khe đất nhỏ, rồi tự mình nằm xuống bên
cạnh, thở gấp. Tiếng chân người đã đuổi đến rất gần, và An-tôn nghe tiếng người lính có bộ ria vểnh ngược kêu to:
- Nó chạy đường này, thằng chết dấp! Đường này này, xuống phía dưới khe. Đấy, nó đấy! Đứng lại! Đồ...
Tiếng súng lại nổ loạn xạ, và tiếng chân người, tiếng cành cây gãy xa dần, xa dần.
- Chạy mau! - Ba-u-lin nhổm dậy, chạy ngược lên phía trên khe. Trong lúc nhảy xuống khe, An-tôn bị trẹo chân, nhưng rất may là không đau lắm. Anh khập khiễng chạy theo Ba-u-lin.
Được khoảng năm chục xa-gien3, họ bèn leo từ dưới khe lên bờ. Trên bờ khe, chiếc xe ngựa cho thuê của Da-xu-khin đã đứng chờ trong một bụi cây rậm.
- Ngồi lên, - chủ chiếc xe ngựa kéo căng dây cương, nói. - Anh thay áo quần và cưa bỏ còng ở tay đi. - Da-xu-khin ném cho An-tôn chiếc giũa ba cạnh và gói quần áo, rồi quất ngựa chạy theo con đường rừng mọc đầy cỏ. Còn Ba-u-lin thoáng một cái đã biến mất vào rừng, dường như mấy phút trước đấy không hề có bác ở đây vậy.
Bầu trời dần dần hửng sáng, tiếng chim đua nhau hót. Bánh xe lăn trên cỏ mềm không một tiếng động.
Khi trời đã sáng rõ, họ đến bờ sông I-nhi, một con sông nhỏ, chảy ngang gần thành phố. Chiếc xe dừng lại trong đám rừng liễu mọc sát mép nước. Một thanh niên chừng hai mươi lăm tuổi, người cao ngồng, chạy đến cất tiếng chào.
- Đây là Đa-nhi-lô Cô-skin, con của người lính áp giải I-van, cái ông có bộ ria vểnh ấy, - Da-xu-khin nói với An- tôn. - Cậu ta sẽ chở anh sang bờ bên kia, còn sang bên đó... Cậu ta cũng đã biết là đi đâu rồi... Tốt nhất là hiện nay anh nên tránh xa thành phố đã. Xu-bô-tin có dặn như vậy. Đồng chí ấy gửi lời chào anh. Thôi, đi đi thôi, sáng bạch ra rồi.
- Cho tôi hỏi một câu, Va-xi-li Xtê-pa-nô-vích. Người nhà tôi - Li-da, I-u ri, bà thím ở ngoài đó ra sao? Thằng dự thẩm chó chết đã tự tử, nhưng trước đó hắn cũng đã thả ba người ra.
- Bà thím, An-tôn ạ, đã mất liền sau đó. - Da-xu-khin nói, giọng trầm xuống. -Tim không chịu nổi. Còn vợ anh, Li-da, nhờ trời, cũng không sao cả, đang khỏi dần. Con trai khỏe. Anh không phải lo, đã có người của ta lui tới chăm sóc. Về thằng Xvi-ri-đốp, tôi cũng có nghe, cả chuyện ông chú của
anh, ông Mi-tơ-rô-phan nữa. Còn Pô-li-pốp không biết ở đâu? Nghe nói hình như cũng sơ suất thế nào rơi vào tay Xvi-ri-đốp thì phải. - Có lần tôi trông thấy trong phòng hỏi cung... Chỉ một lần. Chắc lại bị bắn rồi.
- Cũng có thể là như vậy, - Da-xu-khin sa sẩm mặt lại. - Có những đêm chúng đem bắn hàng trăm người.
Ngồi trên thuyền, An-tôn thở căng lồng ngực, đưa mắt nhìn suốt dòng sông vắng vẻ. Đa-nhi-lô Cô-skin im lặng đập mái chèo xuống nước. - Khi nào gặp bố, cho tôi có lời cám ơn nhé, - khi thuyền cập bờ, An-tôn nói.
Đa-nhi-lô lầu bầu trong miệng:
- Cho ông ta viên đạn thì có. Thế mới công bằng.
- Tại sao lại thế? -An-tôn ngạc nhiên hỏi.
- Tại vì... Anh cho rằng ông ta đồng ý giúp đỡ chúng ta đấy à? Còn lâu! Phải trả cho ông ấy một món tiền lớn đấy. Tham tiền lắm. Tôi cứ lo, biết đâu mình bị lừa. Nhưng không, ông làm đúng như đã thỏa thuận. - À, ra thế đây!
- Thế theo anh thì sao? Em với ông ta đã đoạn tuyệt với nhau từ lâu rồi. - Nghĩ một lúc, Đa-nhi-lô tiếp: - Về mặt ý thức tư tưởng.
3
Đại tá Du-bốp ra lệnh treo cổ Xi-lan-chi I-va-nô-vích Xa vê-li-ép và vợ ông là U-xchi-nhi-a trên con đường chính của Mi-khai-lốp-ca trước mặt toàn thể dân làng.
Ngày chủ nhật, 13 tháng Bảy năm 1919, sau bữa trưa, tất cả ông già, bà lão, trẻ em làng Mi-khai-lốp-ca bị lùa đến chỗ tập trung ở bãi trống cạnh cây dương cổ thụ giữa làng. Hai chiếc thòng lọng bằng dây thừng thấm nước treo lủng lẳng trên một cành lớn mọc ngang, chiếc ghế dài bằng gỗ mộc đặt tựa vào gốc cây. Khắp thôn tiếng la thét ồn ào, tiếng trẻ con kêu khóc om sòm. Những tên cướp của toán phỉ Cáp-ta-nốp - trước đây hắn là chủ cửa hiệu ở làng Mi-khai-lốp-ca, một người giàu có nhất vùng - thẳng tay lùa tất cả ra khỏi nhà, dồn đến chỗ hành hình. Cáp-ta-nốp và toán phỉ của hắn xuất hiện trong làng cùng một lúc với trung đoàn bạch vệ của đại tá Du-bốp.
Cách làng Mi-khai-lốp-ca chừng năm véc-xta, trên nền trời màu xanh nhạt rộng mênh mông, những mỏm đá hoa cương hùng vĩ của dãy núi Dve nhi-gô-ra cháy rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời. Mấy đám mây nhỏ, trắng muốt, vướng vào một mỏm đá và đậu ở đó rất lâu; chúng bồng bềnh, dường như đang quan sát những gì xảy ra trong làng. Rồi, sau khi để lại vài mẩu nhỏ trên mỏm đá nhọn, mây tiếp tục trôi về hướng thị trấn San-ta-ra - một làng lớn nằm trên bờ sông Grô-mô-tu-kha khá rộng, cách Dve-nhi-gô-ra không xa lắm.
Ông già Xi-lan-chi bị xử treo cổ vì tội đã chỉ đường giúp cho một đội du kích trốn vào những hang đá hẹp rất hiểm trở trong dãy núi Dve-nhi-gô-ra. Đội du kích này khá lớn, được thành lập cách đây một năm, do Pô-li-các-pơ Cru-gi-lin, cựu chủ tịch Ban chấp hành Xô-viết xã San-ta-ra chỉ huy. Đuổi riết theo toán phỉ cu-lắc do tên Mi-khai-in Lu-kích Cáp-ta-nốp cầm đầu vừa mới xuất hiện sau cuộc nổi loạn của bọn bạch vệ Tiệp Khắc, trên thực tế đội du kích đã kiểm soát được cả vùng tai-ga rộng lớn ở thượng lưu sông Grô mô-tu-kha, ngăn cản không cho bọn địa chủ trở lại đòi ruộng đất và thu những thứ tô thuế mà mấy năm qua chúng bị mất, cản trở việc bắt lính vào quân đội của tên tướng Côn-tsắc. Và mùa xuân năm nay, ẩn mình trong các khu rừng Grô-mô-tu-kha, các đội viên du kích chia thành từng nhóm nhỏ bắt đầu xuất hiện trên các quãng đường sắt vắng vẻ ở phía nam San-ta-ra, phá đường, tháo dỡ ray và mang đi, dùng mìn tự tạo làm nổ tung những chiếc cầu nhỏ. Trong các tháng Ba, Tư, Năm, việc liên lạc bằng đường sắt giữa Nô-vô nhi-cô-lai-ép-xcơ và Bác-na-un hầu như bị cắt đứt. Chính lúc đó, từ Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ, một trung đoàn lính kỵ-bộ binh chính quy do tên đại tá Du-bốp chỉ huy được phái đến với nhiệm vụ đặc biệt: bằng mọi cách phải tiêu diệt cho kỳ được đội du kích của Cru-gi-lin.
Đầu tháng Sáu, trung đoàn xuống tàu ở ga San-ta-ra và tiến qua làng Mi khai-lốp-ca vào rừng tai-ga. Cáp-ta-nốp và toán phỉ của hắn, gồm chừng trăm tên cướp, liền tìm đến nhập bọn. Đến cuối tháng, Du-bốp và Cáp-ta nốp đã đuổi được đội du kích bị đánh tả tơi ra khỏi rừng tai-ga, dồn họ đến
một cánh đồng cỏ trống trải ở gần làng Mi-khai-lốp-ca. Trong đội vẫn còn chừng ba trăm người, nhưng đạn dược hầu như đã hết sạch. Tìm cách bỏ rơi bọn bạch vệ đang đuổi theo được vài tiếng đồng hồ, Cru-gi-lin dẫn toàn đội du kích vượt con sông Grô-mô-tu-kha ở quãng cạn cách làng Mi-khai-lốp ca chừng ba véc-xta, dự định sẽ đi xuyên qua làng để sang hướng đông, đến vùng có mạch nước ngầm Ô-gơ-nhép-xki. Từ phía nam và phía bắc, Du-bốp
và Cáp-ta-nốp theo sát gót. Phía tây là dãy Dve-nhi-gô-ra dựng đứng như một bức thành. Phía bên kia đèo Dve-nhi-gô-ra, theo báo cáo của đội trưởng trinh sát I-a-cốp A-lây-nhi-cốp, một con người cái gì cũng biết, có một đơn vị bạch vệ đang trú phòng. Bọn chúng tuy không đông lắm, nhưng được vũ trang rất tốt. Chỉ còn lại con đường dẫn đến mạch nước ngầm Ô-gơ-nhép xki ở hướng đông, nhưng Cru-gi-lin không tin chắc rằng Du-bốp lại chưa cho lính đến mai phục trước ở đó để lấp nốt lỗ hổng cuối cùng này.
- Đồng chí I-a-cốp, cần phải điều tra con đường đi Ô-gơ-nhép-xki, - Cru gi-lin nói và nhảy xuống ngựa cạnh một cái giếng giữa làng, múc một gầu nước đầy uống ừng ực.
- Tôi sẽ cho điều tra ngay, - A-lây-nhi-cốp, một thanh niên người không cao lắm, hơi gầy, đôi môi mỏng, trả lời. Anh ra lệnh cho một người du kích đã đứng tuổi có bộ râu hung hung đỏ: - Này, anh đi báo cho Phê-đô Xa-vê li-ép dẫn toàn đội kỵ-binh đến gặp tôi ngay. Nhanh lên! - Nói xong, anh cũng vồ lấy gầu nước.
Những người dân làng tò mò và sợ sệt vây quanh Cru-gi-lin và A-lây nhi-cốp.
Chừng hai chục du kích cưỡi ngựa phi nhanh đến bên giếng, vó ngựa tung bụi mù mịt. Từ trong đám đông vang lên những tiếng kêu ngạc nhiên: - Trông kìa, Phê-đô! Con ông già Xi-lan-chi!
- Cha mẹ ơi, ai đứng bên cạnh Phê-đô ấy nhỉ? Đấy, người cưỡi con ngựa tía, mặc áo da ấy? Đàn bà mặc quần! Có phải An-na Cáp-ta-nô-va không? - Chỉ nói liều! Con gái Cáp-ta-nốp vào du kích để làm gì? - Đúng là An-na rồi! Xem kìa! Xem kìa!
- Ki-ri-an?! I-nhi-u-chin? -một bà già kêu lên. -Mày cũng đi du kích à? - Ki-ri-an nào? Con trai lão hương trưởng ấy à?
- Đúng, hắn đấy!
- Lạy Chúa tôi! Sao mà loạn cả thế này! Lão hương trưởng một chân thì làm quản lý cho Cáp-ta-nốp. A-kim-máy xay nói rằng...
- Đây là cánh du kích nào thế này?
- Nghe A-kim nói, thằng con út của lão Xi-lan-chi, I-van Xa-vê-li-ép, cũng theo Cáp-ta-nốp.
- Thế đấy, thế đấy... Đúng là loạn!..
Trong lúc mọi người đang bàn tán, A-lây-nhi-cốp đã nhảy lên mình ngựa, vẫy tay, và cả đội kỵ binh tung bụi mù mịt, phi như bay ra khỏi làng. Chừng một giờ sau họ trở về, mất hai người bị bắn chết.
- Rơi vào ổ phục kích súng máy. Ở đầm Hạc. - I-a-cốp báo cáo vắn tắt. - Chúng không đuổi theo. Lũ khốn nạn, chúng biết bây giờ ta không còn lối thoát nào nữa.
Chính điều này đang làm cho Cru-gi-lin lo sợ. Đầm Hạc rộng hàng mấy ki-lô-mét. Con đường duy nhất thoát ra qua đầm lầy giờ đã bị cắt đứt. Đội du kích như rơi vào một cái túi.
Cru-gi-lin ngồi trên một chiếc ghế dài trong căn lều chật chội của Xi-lan chi Xa-vê-li-ép, nghe A-lây-nhi-cốp báo cáo, đầu cúi thấp, im lặng rít thuốc.
Phê-đô, một thanh niên hai mươi bốn tuổi, ngực rộng, khỏe mạnh, đôi má đen, hơi cau có, lấp lánh dưới cặp lông mày mọc khít liền vào nhau, nhảy từ lưng con ngựa đẫm mướt mồ hôi xuống sân. Theo thói quen, anh ném dây cương cho An-na, lau bộ ria mép ngắn đầy bụi, rồi bước vào nhà, kiếm khua loảng xoảng. Sau chiếc bàn gỗ, mấy người du kích đang ngồi húp một thứ gì đó trong những chiếc bát chiết yêu lớn. Bà mẹ U-xchi-nhi-a, già nua, khô đen như một chiếc lá còn sót lại từ năm ngoái, bước lảo đảo đến bên con:
- Phê-đô! Con... - Bà òa lên khóc. - Còn I-van thì sao? Nó ở đâu? Con có biết nó còn sống không?
- Nào... May chưa gặp con, nên nó còn sống đấy! - Phê-đô nói, giọng khô khốc. -Còn nếu gặp thì hết sống.
Và anh khẽ gỡ mẹ ra. Ông già Xi-lan-chi đầu tóc bạc phơ, ngồi trên chiếc ghế dài cạnh cửa ra vào, chỉ im lặng nhìn con, không nói.
Pan-crát Na-da-rốp - trước đây là chủ tịch Xô-viết làng Mi-khai-lốp-ca, còn bây giờ là chỉ huy phó của Cru-gi-lin - bước vào nhà. Ông đã ngoài bốn chục tuổi, đầu bạc quá nửa, dáng dấp của một nông dân, hơi vụng về, chậm chạp. Nửa năm trước ông bị thương nặng, viên đạn vẫn còn nằm ở trong ngực. Hai tuần lễ liền, máu từ miệng ông cứ ứa ra, không ai nghĩ rằng ông sẽ qua khỏi. Nhưng Na-da-rốp là người có một sức khỏe kỳ lạ. Máu ngừng chảy, và ông bắt đầu bình phục.
- Chắc anh đã nhổ cả viên đạn ra với máu chứ gì? - các đội viên du kích hỏi.
- Đâu, tôi nghe nó còn nằm trong ấy, - ông nói. - Nó nằm đâu trong phổi ấy, đồ dịch hạch! Cứ mỗi lần thở mạnh là lại nghe thấy nó... Nhưng không sao, có nó, người tôi càng nặng thêm một ít.
Ông là một người điềm đạm, chín chắn và công bằng, vì vậy dân làng Mi-khai-lốp-ca đã mấy lần bầu ông làm hương trưởng; và trong đội du kích, ông có một uy tín lớn, được mọi người kính trọng. Chiếc bao da với khẩu mô-de đeo trĩu thắt lưng hoàn toàn không hợp với ông, có vẻ như thừa. Nhìn Na-da-rốp, không ai có thể nghĩ là ông biết sử dụng vũ khí.
- Mọi người đã được ăn rồi, ông báo cáo. - Tôi vừa tính qua số đạn còn lại chẳng được bao nhiêu. Thế nào, đành chịu chết sao?
Cru-gi-lin ngẩng mái đầu có vầng trán rất rộng lên, ánh mắt sắc như dao cứa của anh lướt qua Na-da-rốp, Phê-đô, rồi dừng lại ở Xi-lan-chi. - Có chết thì cũng không phải với giá rẻ như vậy. Trên địa hình trống trải này, chúng ta không thể cầm cự được nửa giờ... Anh hãy dẫn mọi người vào dãy Dve-nhi-gô-ra, chúng ta sẽ ẩn vào trong các khe núi. Anh đi đi. Na-da-rốp bước ra ngoài. Mấy người du kích ăn xong cũng vội vã ra theo. Qua những bức tường đã mục nát của căn nhà gỗ nghe vang lên tiếng ngựa hý khắp nơi trong làng, tiếng bánh xe chở thương binh gõ lộc cộc, tiếng người kêu và tiếng hô khẩu lệnh.
- Thế nào, ông Xi-lan-chi I-va-nô-vích? - Cru-gi-lin thở dài, hỏi, có lẽ không phải là lần đầu. - Có thể, ông chỉ giùm cho chúng tôi con đường vào thung lũng Xanh chứ? Ngoài ông ra chẳng còn ai nữa cả. Tôi đã hỏi vài ba người già rồi, nhưng họ đều từ chối. Họ sợ.
Ông già vuốt vuốt mấy sợi tóc lưa thưa trên đỉnh đầu và vẫn im lặng. Bà U-xchi-nhi-a lau đôi má đen đúa, đẫm nước mắt, rồi lại nấc lên: - Nhưng bọn bạch vệ đến... chúng giết mất... Chúng đến... là giết liền... - Nhưng nếu không thì chúng giết sạch cả đội... Mà trước hết là Phê-đô, con trai của bà, - Cru-gi-lin nói, giọng gay gắt.
- Thôi, bà im đi! -Cuối cùng ông Xi-lan-chi lên tiếng. - Không phải là tôi sợ chúng giết chết - nhờ trời, tôi cũng đã sống gần hết đời rồi. Chỉ có điều, liệu tôi có còn tìm ra được đường không? Đã gần năm chục năm nay tôi không đến thung lũng này. Nhưng, biết đâu Chúa sẽ phù hộ chúng ta. Nào đi, - và ông đứng dậy. - Các anh kiếm lấy dăm khúc gỗ dài, mươi tấm ván và đinh mang theo...
Thung lũng Xanh mà họ vừa nói đến nằm đâu đó giữa những khe đá của dãy Dve-nhi-gô-ra. Đây là một cánh đồng bằng phẳng nằm trên núi cao, mọc đầy một loại cỏ xanh tốt, không bao giờ bị nhàu nát, bốn phía bao bọc bởi những vách đá đứng dựng phẳng lỳ, nhiều nơi phun ra những mạch
nước ngầm lạnh buốt. Chỉ có một con đường núi hẹp độc nhất chạy theo vách đá dựng đứng bên những bờ vực sâu không đáy dẫn vào thung lũng. Con đường chỉ vừa một người đi giỏi lắm mới dắt thêm được một con ngựa.
Những người già sợ bọn trẻ ưa mạo hiểm đi vào thung lũng Xanh rồi mất tích ở đó, nên giữ rất kín bí mật của con đường này. Cru-gi-lin lớn lên ở làng Mi-khai-lốp-ca, từ nhỏ đã mấy lần cố đi tìm nơi bắt đầu của con đường núi bí mật đó, nhưng không có kết quả.
Dự định của Cru-gi-lin rất đơn giản. Trong những thung lũng đá trống trải, đội du kích thế nào cũng sẽ bị bọn bạch vệ nhanh chóng tiêu diệt. Nhưng nếu như tìm vào được thung lũng Xanh hiểm trở, với số đạn còn lại, họ có thể giữ vững con đường hẹp dẫn vào đó rất lâu; còn sau đó...
Nhưng «sau đó» sẽ ra sao thì Cru-gi-lin không thể biết trước được, và anh cũng cố không nghĩ về điều này.
Khi Cru-gi-lin, A-lây-nhi-cốp, Phê-đô và Xi-lan-chi xuống xe ở chân dãy Dve-nhi-gô-ra, mặt trời hãy còn khá cao. Ông già đứng nhìn quanh một lát, rồi chống nạng nặng nhọc leo lên dốc núi, miệng thở hổn hển. Được chừng dăm chục bước, ông dừng lại và nhìn quanh một lần nữa.
- Hình như ở đây thì phải. Các anh đi theo vệt đá lở này, nhớ mang theo ván, gỗ. Cách chừng bốn chục xa-gien vệt đá lở sẽ hết, ngay trên bờ vực. Vực này sâu kinh khủng, nhưng không rộng lắm, chỉ độ hai xa-gien. Phía bên kia vực là bắt đầu con đường. Các anh ném mấy cây gỗ sang, đem ván lót làm cầu, sẽ đi qua dễ dàng, cả ngựa nữa. Con đường sẽ dẫn các anh đến nơi, nếu như nó chưa bị lở trong mấy chục năm qua. Còn tôi trở lại đây, mệt lắm rồi... - Ông dừng lại và như chợt trông thấy con lần đầu tiên, ông ôm lấy Phê-đô. - Có lẽ vĩnh biệt con nhé, Chúa phù hộ cho con.
- Hay là đi với chúng tôi, ông Xi-lan-chi I-va-nô-vích? - Cru-gi-lin nói. - Thôi, tôi thì còn đi đâu. Các anh nên nhanh nhanh lên.
Ông đi xuống núi, leo lên xe ngựa và trở về làng, đi ngược chiều với những người du kích đang kéo vào dãy Dve-nhi- gô-ra.
Đến chiều tối, sau khi bỏ lại những cỗ xe ngựa bây giờ trở nên vô dụng, những người còn lại của đội du kích Cru-gi-lin dắt ngựa, cõng thương binh đi hút vào trong núi.
Đại tá Du-bốp, một người cao gầy, đôi má căng tròn bao giờ cũng cạo nhẵn thín, đã nổi cơn điên khùng đến sùi bọt mép khi biết Cru-gi-lin thoát khỏi tay hắn. Có một kẻ nào đó trong làng đến báo với hắn về ông già Xi lan-chi. Tức giận điên người, chiều hôm đó hắn phóng ngựa vào làng, nhảy
xuống sân, ném dây cương cho Pi-ốt, con trai của hắn, một đứa bé chừng mươi- mười hai tuổi, hồng hộc chạy vào nhà Xa-vê-li-ép.
- Đồ súc sinh! - Hắn lấy roi ngựa quất ông già hai lần. Đôi má rắn căng của hắn rung lên như tảng thịt đông. - Bắt lấy nó! Nện đến chết cho tao, trước mặt tất cả dân làng!
- Xin ngài rủ lòng thương, - bà U-xchi-nhi-a sụp xuống dưới chân tên đại tá. -Họ bắt chồng con phải đưa đi, ai dám chối! Xin ngài rủ lòng thương! Con trai của chúng con, thằng I-van, đang theo hầu ngài mà. Thằng con I van... Con lạy ngài.
- Câm! -Đỏ mặt tía tai, Du-bốp gầm lên. - Còn con trai nào nữa? Mày là đứa nào? Bắt lấy cả con mụ này!
Nhưng rồi cả Xi-lan-chi lẫn U-xchi-nhi-a đều không bị chúng đưa ra đánh. Hai người bị nhốt hơn một tuần lễ trong ngôi nhà kho được xây rất chắc chắn của Cáp-ta-nốp. Sau đó, Du-bốp ra lệnh đem họ đi treo cổ.
* * *
I-van Xa-vê-li-ép, một thanh niên người hơi gầy, nhưng khỏe mạnh, gân guốc như một con chó săn, là con trai út của ông già Xi-lan-chi. Vì sự phục vụ trung thành, I-van được Cáp-ta-nốp chọn làm người giám mã, đánh xe kiêm vệ sĩ cho hắn. Tất cả những nhiệm vụ của mình, I-van làm một cách nhẫn nhục và cố gắng, vì đã từ lâu, ngay từ trước năm mười tám, Cáp-ta nốp đã hứa gả An-na, con gái duy nhất của mình, cho gã.
Mùa xuân năm 1918, khi cuộc chém giết hỗn độn, đẫm máu này mới bắt đầu, An na bỏ trốn khỏi làng và cùng với Phê-đô đi theo đội du kích của Cru-gi-lin.
- Đồ chó cái! - khi nghe tin này, Di-nô-vi, thằng con cả của Cáp-ta-nốp, mắt bị nhài quạt, chửi, con mắt lành của hắn long lên. - Và làm tình nó cũng như chó cái. Nó chạy theo thằng Phê-đô anh mày, như chạy theo chó đực. Và bây giờ...
Việc An-na theo Phê-đô thì I-van vẫn biết. Đã nhiều lần Cáp-ta-nốp tự tay đánh con gái mình, túm tóc lôi sềnh sệch, định làm cho cô không dám tìm gặp Phê-đô nữa. Nhưng vô hiệu. Và mặc dù Cáp-ta-nốp đã hứa gả con gái cho I-van, người làm công của mình, I-van vẫn nhận thấy và hiểu rằng hắn hãy còn đang chần chừ, do dự. Khi được tin An-na đi theo du kích, râu
cằm của Cáp-ta-nốp dựng ngược lên, những tia máu đỏ đọc trong mắt hắn nổi phồng to thêm. Và hắn nói, giọng lạnh lùng đến ghê rợn: - Cứ phục vụ cho tao đi, I-van ạ. Còn An-na, tao sẽ bắt được nó. Tao sẽ quẳng nó xuống dưới chân mày... Lúc đó mày muốn giày nó cho đến chết hay muốn tha nó, tùy mày. Tao hứa với mày đấy.
Nhưng đã một năm qua, Cáp-ta-nốp vẫn không thể nào bắt được An-na, con gái của mình. Nhưng, nếu như Cáp-ta-nốp bắt được An-na và quẳng xuống chân I-van thật, thì lúc đó mọi việc sẽ ra sao? - I-van càng ngày càng hay nghĩ về điều này một cách chẳng lấy gì làm vui lắm. Một người du kích của Cru-gi-lin bị bắt và bị I-van đem đi bắn theo lệnh của Cáp-ta-nốp, đã kể lại với gã rằng, trong đội kỵ binh của Phê-đô, An-na cũng tham gia trận mạc, đánh nhau như đàn ông; trong các trận đánh, ngay cả những trận ác liệt nhất, bao giờ cô cũng ở bên cạnh Phê-đô, giữ cho Phê-đô thoát khỏi những mũi gươm, hòn đạn.
- Còn ăn ở với nhau như đàn ông với đàn bà, như vợ chồng, thì không thấy. Không, không có như vậy. Điều này làm mọi người đều ngạc nhiên, - người du kích nói. - Nhưng tôi thì không, tôi biết. An-na là một người đàn bà hiếm có bây giờ. Trước khi cưới nhau thì dù có giết, cô ta cũng không cho phép làm điều gì như vậy...
I-van thả người du kích. Gã làm một việc hết sức liều lĩnh và sau đó cứ nơm nớp lo sợ - nếu như Cáp-ta-nốp biết được, tự tay hắn sẽ bắn chết I-van ngay lập tức. Còn người du kích được tha, một nông dân có đôi chân vòng kiềng ở làng Ca-da-nhi-khi, mừng quá, bảo I-van:
- Hay là, anh đến với chúng tôi đi? Đến với Cru-gi-lin?
- Đi đâu, anh bạn... Tôi đã lầm lạc, rối tung lên như gà rừng mắc bẫy. Anh tôi, Phê-đô, tự tay sẽ chém chết tôi ngay.
- Phê-đô thì sao? Ở trong đội chúng tôi, Cru-gi-lin là chỉ huy tất cả. Anh ấy là một người rất hiểu biết, sống có tình...
- Anh đi đi, không tôi cho một phát đạn bây giờ! - bỗng nhiên I-van giận dữ quát.
Sau ngày đó, I-van càng trở nên buồn bã, người phờ phạc, mặt đen sạm lại. Đêm gã không ngủ, cứ trăn trở, suy nghĩ: tại sao mình lại lầm lạc như thế này, ai là người có lỗi? Tại mình với cả mối tình đối với An-na? Hay là tại An-na, người đã chối từ tình cảm của mình? Hay là tại Cáp-ta-nốp, người đã hứa gả An-na cho mình? Hay là tại cái thời đại hỗn loạn, đẫm máu, rối tung lên này? Hay là tại tất cả, tất cả gộp lại?
I-van không thể trả lời được cho mình câu hỏi đó.
* * *
Nghe tin Du-bốp ra lệnh treo cổ cha và mẹ mình, I-van mặt tái xanh, người lảo đảo.
- Ôi, ông Mi-khai-in Lu-kích!
- Sao?! - Cáp-ta-nốp quát lên. - Bây giờ thì tao làm sao được? Ai bảo thằng quỷ già ấy chỉ đường vào cái thung lũng ấy làm gì? Bây giờ thì làm cách nào mà bắt được bọn du kích?
Du kích bây giờ thì quả là không làm cách nào mà bắt được. Con đường đá hẹp dẫn vào thung lũng bị một nhóm nhỏ du kích ngày đêm canh giữ. Theo lời kể lại, mấy người du kích nằm trên bãi đất hẹp sau một ụ đá, hễ thấy bóng tên lính bạch vệ nào xuất hiện, một người nào đó liền chậm rãi, cẩn thận lấy đích và bóp cò. Tên bạch vệ chới với chân tay, bị hất ra khỏi bờ tường đá, rồi lao xuống vực thẳm. Và thế là hết.
- Nếu vậy... nếu vậy, tự tôi sẽ đến gặp đại tá, xin ông ta...
- Cứ đi đi, - Cáp-ta-nốp cười nhạt. - Biết tiếng Mi-khai-in Cô-xô-rô-tốp chứ? Ông ta sẽ vứt mày cho hắn ngay.
Trong đám phỉ Cáp-ta-nốp có những tin đồn đại ghê rợn về một tên Cô xô-rô-tốp nào đó. Thấy thì chưa ai thấy, nhưng nghe nói ở trong đại đội trinh sát có một tay mặc thường phục, một chuyên viên tra tấn, có thể bắt bất cứ tù binh nào cũng phải khai. Người ta kể tỉ mỉ nhiều chuyện - không biết có thật hay là bịa, - nhưng nghe sởn cả gai ốc.
Sau khi đuổi đội du kích vào thung lũng Xanh và thấy rằng không thể nào bắt được họ, Du-bốp quyết định vây hãm cho họ chết đói. Hắn bố trí ở chân dãy Dve-nhi-gô-ra một tiểu đoàn lính, số còn lại cho đi nghỉ ngơi ở làng Mi-khai-lốp-ca. Còn hắn, để đề phòng bất trắc, mang theo một đại đội bộ binh và một đại đội ky binh, về nghỉ trong trại của Cáp-ta-nốp ở mạch nước ngầm Ô-gơ-nhép-xki.
Trại này nằm bên bờ một cái hồ sâu, nước trong suốt ở trong rừng tai-ga, cách làng Mi-khai-lốp-ca chừng hai chục véc-xta. Trong trại có một ngôi nhà lớn chia ra làm nhiều phòng, bên cạnh là nhà tắm, ba bốn nhà kho, nhà chứa củi, chuồng ngựa. Chính ở đây, nơi rừng sâu hoang vu, vắng vẻ này, trước đây Cáp-ta-nốp thường tổ chức những cuộc chè rượu truy hoan với bọn đàn bà. Còn bây giờ khắp trại im ắng, chỉ có tiếng hàm thiếc ngựa va
leng keng trong các chuồng ngựa, và mấy tên lính cần vụ của tên đại tá lặng lẽ đi lại trong sân trại mọc đầy cỏ. Còn chính đại tá, vẻ mặt lầm lì, cau có, đã mấy ngày nay bơi thuyền đi câu cá với đứa con trai bé tí ở trên hồ.
Cáp-ta-nốp sợ đám quân của hắn say sưa la hét làm kinh động đến sự nghỉ ngơi yên tĩnh của tên đại tá, nên bắt tất cả bọn chúng phải ở lại làng Mi-khai-lốp-ca, chỉ mang theo I-van và Di-nô-vi vào trại.
Mặc dù đã bị Cáp-ta-nốp hăm dọa những điều khủng khiếp, sáng ngày 13 tháng Bảy, I-van vẫn tìm đến cửa phòng tên đại tá. Nghe trong ngực và sống lưng lạnh toát, gã lấy hết can đảm gõ hai lần vào cánh cửa, và đợi được trả lời, gã lảo đảo bước qua bực cửa của căn phòng lớn nhất ngôi nhà.
Du-bốp đang ngồi ăn sáng cùng đứa con trai. Tên đại tá, trước đây cũng đã mấy lân trông thấy I-van, ngạc nhiên nhìn gã, mãi vẫn không hiểu được gã đến có việc gì. Và khi đã hiểu ra, mặt hắn bắt đầu đỏ rựng lên: - À ra thế! Hắn, lão ấy... là cha mày hả?
- Dạ, thưa ngài! - I-van khẩn khoản. - Ông già... đã lẩm cẩm rồi ạ. - Cu-út! - tên đại tá quát lớn, giật tung chiếc khăn ăn quàng trước cổ, vò nát trong tay.
I-van không nhớ gã làm thế nào để ra khỏi nhà và đến ngồi trên chiếc ghế dài đặt cạnh tường, hai tay ôm chặt lấy mái đầu như đang bốc lửa. Một giờ sau, gã vẫn ngồi nguyên như thế. Du-bốp vác cần câu bước ra sân, gọi:
- Xa-vê-li-ép!
I-van bật đứng dậy.
- Anh đã phục vụ một cách trung thành - ta khen cho anh. Cha của anh sẽ... sẽ bị treo cổ. Còn mẹ không có lỗi thì ta tha cho... Ta đã cho người đi báo rồi đấy.
Rồi hắn vác cần câu đi ra hồ. Còn I-van cứ đứng như một khúc gỗ bị chôn xuống đất, và tưởng như sẽ cứ đứng mãi như thế suốt đời.
* * *
Đám người bị lùa đến chỗ cây dương giữa làng xôn xao, lo lắng, đây đó tiếng đàn bà khóc, tiếng thì thầm trao đổi cố nén lại. Rồi tất cả bỗng lặng ngắt, đám đông đứng im bất động: bọn lính đang dẫn Xi-lan-chi và U-xchi nhi-a đến.
Ông già bước đi rắn rỏi, đôi môi mím chặt cau có, mắt nhìn thẳng phía trước. U-xchi-nhi-a kéo lê bước chân đi tụt sau chồng một tí, mắt ngơ ngác nhìn quanh, dường như không hiểu đám đông kia tụ tập lại để làm gì. Khi chợt trông thấy đôi thòng lọng treo lủng lẳng trên cành cây, bà thét lên và ngồi bệt xuống con đường đất đầy bụi. Hai tên lính bạch vệ túm lấy tay bà kéo lê đến bên gốc cây.
Giữa đám người, cách gốc cây dương một quãng, I-a-cốp A-lây-nhi-cốp mặc bộ quần áo nông dân rách nát đứng cau có nhìn bọn lính đang loay hoay đặt chiếc ghế dài dưới gốc cây; bàn tay anh run run xoa bộ râu giả. Ba ngày đêm liền anh đã bò theo các bức tường đá bao quanh thung lũng Xanh, chân tay rách toác, tóe máu, để tìm một chỗ nào có thể leo xuống núi được. Cuối cùng, anh đã tìm được một chỗ tương đối thuận tiện. Đêm qua, lợi dụng sự che chở của bóng tối, anh nối những dây cương bằng da lại với nhau, rồi leo từ vách đá cao chừng năm chục xa-gien xuống. Sáng sớm, anh đã đến nhà của Pê-tơ-rô-van Gô-lốp-lép, một nông dân làng Mi-khai-lốp-ca trước đây đã nhiều lần giúp đỡ các trinh sát viên du kích.
Khi bọn lính bắt đầu xua dân làng ra chỗ hành hình, Gô-lốp-lép định giấu A-lây-nhi-cốp xuống hầm nhà; nhưng I-a-cốp, một con người vốn rất táo gan, liều lĩnh, nói:
- Để tôi đi xem một tý, cho thêm dữ tợn.
- Chúng nhận ra anh thì sao?
- Tôi không khai anh đâu, đừng lo.
Đám người bỗng nhiên giạt ra cho một người cưỡi ngựa phi vào. Tên cần vụ của Du-bốp vội vã nói một câu gì đó với một tên lính bạch vệ. Tên này liền đến cạnh U-xchi-nhi-a đang ngồi bệt dưới gốc cây, lấy chân đá thúc bà dậy và lặng lẽ đẩy vào đám đông.
- Được tha hay sao? - một người đàn bà bé con đứng bên cạnh A-lây-nhi cốp hỏi.
- Chắc thế, - một người khác nói. - Có khi cả Xi-lan-chi... Nhưng cũng tên lính bạch vệ đó đã lôi ông già Xi-lan-chi bắt đứng lên chiếc ghế dài. Rồi hắn nhảy lên ghế, đem thòng lọng tròng vào chiếc cổ gầy guộc, đầy những nếp nhăn của ông và nhảy xuống đất.
- Nào, lão già, vĩnh biệt mọi người đi chứ! - tên lính bạch vệ nói khẽ. - Sao? - ông già hỏi lại, - A, ngay bây giờ...- Và ông cúi đầu xuống, ngẫm nghĩ. Rồi ông ngẩng lên nói: - Tôi... nhờ các người nói lại với thằng I-van, cha của nó đã chết như thế nào...
Đám người im lặng nghe như nuốt lấy từng lời. Đột nhiên tiếng ồn ào lại nổi lên.
Tên lính bạch vệ bỗng giật mình sợ hãi, vội đạp đổ chiếc ghế dưới chân ông già.
- Xi-lan-chi! - U-xchi-nhi-a thều thào tuyệt vọng kêu lên. - Ông ơi! Tiếng kêu chìm trong tiếng rú khủng khiếp của đám người.
* * *
Mấy ngày sau, I-a-cốp A-lây-nhi-cốp trở về thung lũng Xanh lúc trời tờ mờ sáng. Phê-đô và Đa-nhi-lô Cô-skin - chính là anh con trai người lính áp giải ở nhà tù Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ đã có lần tuyên bố đoạn tuyệt với bố «về mặt ý thức tư tưởng» - trực ở trên vách đá kéo anh lên.
- Trên đời có đủ loại I-a-cốp, nhưng người như tớ thì thế giới chỉ có một, - I-a-cốp nói một cách đắc ý. Nhưng anh bỗng sa sầm mặt lại, tiếp: - Cha cậu bị chúng treo cổ rồi, Phê-đô ạ.
- Cha tôi?! - Phê-đô kêu lên, và như người bị giội nước sôi, anh ngồi gục xuống tảng đá đẫm sương đêm.
Sáng ra, I-a-cốp A-lây-nhi-cốp đề nghị một kế hoạch táo bạo và liều lĩnh: - Lối ra vào thung lũng, chỉ có chừng một trung đội kỵ binh canh giữ. Trước đây ở dưới núi còn một tiểu đoàn lính nữa, nhưng sau chúng cho rằng chúng không làm gì được ta, nhưng ta cũng không thể thoát được ra khỏi đây, nên chúng phá chiếc cầu của ta bắc qua khe vực và rút gần hết về làng Mi-khai-lốp-ca. Hiện nay dưới chân núi chỉ còn lại đúng mười hai thằng, tôi đã đếm từng đứa. Chúng thay nhau hai thằng một gác, bọn còn lại ngủ lu bù. Ngựa chúng thả chăn ở bãi cỏ ngay bên cạnh. Cả trung đoàn và đám phỉ của Cáp-ta-nốp đóng ở làng Mi-khai-lốp-ca, còn thằng Du-bốp và Cáp-ta-nốp thì ở trại Ô-gơ-nhép-xki. Suốt ngày chỉ tắm hơi và câu cá. Tuy nhiên, ở đó còn có một đội kỵ binh và một đại đội lính bộ. Trên con đường qua đầm Hạc còn có một đội súng máy đóng đồn ngày đêm canh giữ. Nhưng đồn này thì có nghĩa lý gì?! Tôi và đội trinh sát đảm bảo sẽ diệt gọn chúng không một tiếng động. Tóm lại, tôi đề nghị thế này: chọn chừng hai chục du kích, ban đêm dùng dây thừng leo theo vách đá xuống núi. Dùng gươm chém chết mười hai tên lính gác ngái ngủ, việc dễ như bỡn. Sau đó, đưa toàn đội xuống núi và tiến thẳng đến mạch nước ngầm Ô-gơ-nhép-xki. Chúng ta sẽ đến trại kịp trước lúc trời sáng. Mà cần phải kịp! Đội súng máy
canh phòng của Du-bốp ta cũng lại chém gọn như trở bàn tay - và biến vào rừng tai-ga. Lúc đó thì tha hồ cho chúng tìm!
Bên cạnh túp lều của Cru-gi-lin, trên một bãi cỏ nhàu nát, năm người ngồi cạnh nhau: A-lây-nhi-cốp, Cru-gi-lin, chỉ huy phó Pan-crát Na-da-rốp, Coóc-nây Ba-u-lin, trước đây là thợ sắp chữ nhà in Nô-vô-nhi-cô-lai-ép-xcơ và Va-xi-li Da-xu-khin, người đánh xe ngựa của thành phố. Sau lần tổ chức cuộc vượt ngục cho An-tôn Xa-vê-li-ép, để tránh bàn tay trả thù của bọn hiến binh bạch vệ, - Ba-u-lin, Da-xu-khin và anh chàng cao kều Đa-nhi-lô Cô-skin, theo lời khuyên của Xu-bô-tin, đã trốn khỏi thành phố. Lang thang chán trong những khu rừng Grô-mô-tu-kha, một năm trước đây họ gia nhập đội du kích của Cru-gi-lin. Hiện nay Ba-u-lin, một người rất ít nói, hai bàn tay bị chì ăn mòn, giữ một chức vụ tương tự như tham mưu trưởng. Da-xu khin lo việc hậu cần cho đội, còn Cô-skin thì ở trong đội kỵ binh của Phê đô.
Mặt trời đã mọc, ánh nắng sớm nhuộm vàng các đỉnh núi đá. Trong lòng thung lũng ngổn ngang lều trại, không khí rất lạnh, như dưới đáy một cái giếng sâu; mỗi khi thở, từng đám hơi nước bốc ra từ miệng dày đặc. Sương móc không có, nhưng từ lòng thung lũng, một lớp sương mù bốc lên, liếm ướt các vách núi đá dựng đứng. Ngựa được thả chăn giữa những túp lều bạt. Một vài nơi, những người du kích vừa ngủ dậy đang nhóm lửa bằng các cành cây ẩm ướt.
I-a-cốp A-lây-nhi-cốp trình bày kế hoạch của mình một cách hào hứng và tự tin, dường như việc thực hiện nó dễ như bỡn. Nhưng mọi người đều hiểu rằng: nói thì dễ như vậy, nhưng thực hiện thì có thể khác hoàn toàn. Và giờ đây mọi người đều trầm ngâm, im lặng.
- Thế-ế đấy, - cuối cùng Coóc-nây Ba-u-lin, một con người bao giờ cũng thận trọng, lên tiếng, giọng kéo dài. - Kế hoạch của cậu rất khéo, I-a-cốp ạ. Giá như trong tay chúng ta còn có cái gì để đánh nhau, thì kể cũng được đấy. Còn nếu một thằng lính nào đó trong trung đội canh dưới chân núi thoát được và tẩu ngựa chạy về Mi-khai-lốp-ca thì sao? Chúng báo động cả trung đoàn, còn ta thì vừa mới chui ra khỏi cái lỗ đá này, cả đội sẽ bị chém nát như bún!
- Tất nhiên là mạo hiểm, - I-a-cốp đồng ý và nhún vai, dường như ngạc nhiên tại sao Ba-u-lin lại không hiểu điều này.
- Hoặc lỡ không diệt gọn được bọn lính trên đồn canh đường vào Ô-gơ nhép-xki, - Na-da-rốp chêm vào. - Chúng sẽ báo hiệu về trại, đội kỵ binh sẽ
kéo đến, và theo sau là đại đội bộ binh, chẹn ngang con đường qua đầm lầy. Phía sau cả trung đoàn ập đến. Lúc đó chẳng những thành bún, mà ta sẽ bị nghiền ra như cháo. Hoặc là cả đội sẽ chết chìm trong đầm lầy.
- Tôi đã nói rồi, trong chiến tranh thì bao giờ cũng phải mạo hiểm, - A lây-nhi-cốp cau có trả lời. - Nào, cứ giả sử hai đại đội kỵ binh và bộ binh đóng ở trại ra kịp. Ta sẽ đánh tan bọn này, nhất định sẽ đánh tan! Bởi vì, trên quãng đường hẹp này chúng không thể nào triển khai đội hình được. Chúng ta còn chừng hai chục lựu đạn. Sau khi ném phủ đầu một loạt lựu đạn, ta sẽ chọc thủng tuyến, xông ra, mặc dù có thể phải mất khá nhiều người trong lúc phá vây. Cái chính là phải tóm gọn bọn dưới núi, không cho thằng nào thoát về báo động trung đoàn. Còn trong trường hợp xấu nhất, nếu để thoát mất dù một đứa, thì ta lại quay trở về thung lũng, chẳng sao cả. Nhưng cần phải thử một keo. Rất cần!
Cần phải thử một chuyến, điều này thì ai cũng hiểu là như vậy. Thương binh chết vì không có thuốc, đã phải chôn đến người thứ chín. Số lương khô ít ỏi mang theo từ Mi-khai-lốp-ca cũng đã gần hết. Hôm qua Cru-gi-lin đã ra lệnh giết hai con ngựa để lấy thịt. Với số bột mì ít ỏi còn lại, với số thịt đó, đội còn có thể trụ lại được hai tuần, hoặc cứ cho nhiều nhất là một tháng đi nữa, nhưng sau đó thì sao? Chết đói...
Mọi người bàn đi bàn lại suốt một giờ. Da-xu-khin đưa ra một phương án: trong vòng vài đêm, các toán sẽ leo xuống núi theo vách đá như A-lây nhi-cốp đã làm, rồi từng người, từng hai người một tản ra theo các ngả rừng và sau đó tập hợp lại ở một chỗ quy định. Mọi người sau khi thảo luận đã bác bỏ phương án này, vì chỉ cần một đội viên du kích nào đó rơi vào nanh vuốt của Du-bốp và không chịu nổi tra tấn (mà trong đội thì đủ các loại người) - và thế là hết, con đường thoát duy nhất sẽ bị cắt đứt, chỗ tập trung sẽ bị khám phá ra... Hơn nữa, trong đội thương binh rất nhiều, đưa họ đi bằng cách nào được?
Lại thêm một giờ nữa, phương án của A-lây-nhi-cốp được đưa ra thảo luận tại cuộc họp toàn đội và được thông qua.
* * *
Chiều đến, bầu trời trên thung lũng bị mây phủ kín như một chiếc vung úp. Thời tiết rất thuận lợi cho đội du kích. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của A lây-nhi-cốp, ngay từ chập tối, đúng hai mươi người đã dùng dây thừng và
dây cương nối lại leo xuống các vách đá. A-lây-nhi-cốp xuống sau cùng. Gần một tiếng đồng hồ, anh dẫn mọi người đi theo một hẻm núi hoang vu, sau đó qua mấy cánh rừng cây mọc rậm rạp, và cuối cùng, họ đến ngay dưới chân núi Dve-nhi-gô-ra.
Trung đội bạch vệ canh giữ con đường xuống núi bị tiêu diệt gọn. Bọn lính đang ngủ bị chém chết hết, chỉ có hai tên trực canh kịp bắn hai phát súng trường, nhưng chúng liền bị A-lây-nhi-cốp giết chết: một tên bị anh dùng gươm chém đứt đôi người, một tên bỏ chạy, anh cho ăn một viên đạn súng ngắn. Ba tiếng nổ vang lên đanh gọn, tiếng vang dội vào vách đá.
Còn Pô-li-các-pơ Cru-gi-lin đã dẫn toàn đội theo con đường đá hẹp ra khỏi thung lũng.
Trong ánh sáng của đống lửa do hai tên bạch vệ trực canh đốt lên, các đội viên du kích vội vã bắc lại chiếc cầu qua vực, bốn người chạy đi bắt những con ngựa bị buộc chân đang thả chăn gần đấy.
- Gọn không, hả? Đấy, cả mười hai đứa, - I-a-cốp, vẫn còn bị kích động bởi trận đánh vừa rồi, nói với Cru-gi-lin khi anh nhảy qua vực theo thanh gỗ đầu tiên vừa bắc xong. - Anh tập hợp đội mau mau lên, còn tôi đi diệt nốt ổ súng máy trên đường đây. Chúng chỉ có năm đứa thôi.
- Cẩn thận đấy, I-a-cốp! - Cru-gi-lin lo lắng dặn.
- Được rồi. Tôi đã biết cách đến gần chộp bọn chúng. Anh cứ yên tâm dẫn đội đi.
Cùng với mười du kích, A-lây-nhi-cốp biến vào đêm tối.
Cho đến bây giờ, mọi việc đều yên ổn. Tiếng ngựa thở phì phì, tiếng vó nện lộp cộp trên mặt ván cầu vừa bắc qua vực, bóng người đi tới đi lui vội vã. Một phần số các xe ngựa của đội du kích bỏ lại dưới núi đã bị bọn bạch vệ mang đi, một phần bị chúng phá làm củi. Bây giờ các đội viên du kích phải tìm nhặt những chiếc còn nguyên, thắng ngựa vào, đặt thương binh lên, rồi dàn đội hình kéo dài đến nửa cây số, tiến vào đêm tối như bưng.
Trong lòng Cru-gi-lin lo lắng không yên. Cả cái kế hoạch liều lĩnh này sẽ kết thúc ra sao? Họ đã quá mệt mỏi, thiếu vũ khí. Chỉ cần một tên bạch vệ ốm yếu nào đó đi lang thang trên đồng cỏ, trông thấy đội, và chạy về Mi khai-lốp-ca báo động... Điều này trong kế hoạch của A-lây-nhi-cốp không được tính đến, nhưng rất có thể sẽ xảy ra. Và lúc đó... Cru-gi-lin rùng mình, toàn thân ớn lạnh.
Đội du kích đã đi được hơn một giờ trong đêm tối giữa đồng cỏ trống trải, hoang vắng, sau đó bắt đầu những bãi rừng con. Cru-gi-lin hơi yên tâm
được một chút, vì dù sao đây cũng là rừng, sắp tới sẽ đến đầm Hạc, mà vẫn không thấy một tin tức gì của I-a-cốp cả. Tình hình ở đấy ra sao? A-lây-nhi cốp có diệt được ổ súng máy không?
Từ trong bóng đêm, A-lây-nhi-cốp hiện ra đột ngột và không một tiếng động, dường như ngựa của anh không phải chạy trên mặt đất mà bay trong không khí.
- Ổn cả rồi! - anh kêu khẽ, và Cru-gi-lin thở ra nhẹ người. - Dễ như bắt gà đêm. Chỉ có điều là chúng tôi ướt hết cả. Phải bò trong lầy đi đến gần chúng. Anh có gì cho tôi thay cái không?
- Thế còn súng máy của chúng đâu?
- Tôi bảo là ổn rồi mà, cả một hòm đạn đến mười lăm băng! Như vậy có thể coi là đã thoát! Bây giờ nếu như cả trung đoàn bạch vệ có đuổi theo đội, thì họ cũng đã đủ sức để giữ chân chúng rất lâu trên con đường hẹp qua đầm lầy, đủ thời gian để đội có thể đánh tan hai đại đội kỵ binh và bộ binh của tên Du-bốp ở trong trại và biến vào những khu rừng tai ga rậm rạp ở ngay sau đầm Hạc.
* * *
«Cha bị chúng treo cổ rồi... Cha ơi!» - suốt cả ngày qua trong đầu Phê-đô cứ như có búa gõ không ngớt. Anh chui vào lều nằm cho đến tận chiều tối không hề nhúc nhích. Đã ba lần, sáng, trưa và chiều, An-na mang vào cho anh một thứ canh bột mì loãng, nhưng anh đều đẩy bát ra, rít qua kẽ răng:
- Đi đi!
Trong lúc lần theo bờ thành đá từ thung lũng Xanh ra, Phê-đô bước hụt chân, suýt nữa cả người lẫn ngựa lăn xuống vực. An-na đi sau thấy vậy thét lên kinh hoảng, nhưng Phê-đô lạnh lùng nói:
- Im! Tôi chết giờ còn quá sớm.
Và anh nghĩ thầm: «Đúng là còn quá sớm. Chỉ cần đến được trại Ô-gơ nhép-xki! Thằng I-van có lẽ ở đó. Nếu thằng Cáp-ta-nốp ở đây thì ắt hẳn thằng I-van cũng theo thằng kia... Tao sẽ hỏi chuyện mày, đồ súc sinh!»
Rồi từ đó cái ý nghĩ về thằng em trai I-van không chịu rời anh ra nữa. Khi họ đến trại, trời đã gần sáng. Giá gặp hôm thời tiết sáng sủa, bầu trời đằng đông chắc đã ửng hồng lên; nhưng hôm nay nó bị phủ một lớp mây đen kịt, nặng nề. Nhưng ngày hay đêm, đối với Phê-đô giờ đều không quan trọng. Trại đây rồi. Thấp thoáng sau hàng cây một ngọn đèn chong đêm tù
mù hắt ánh sáng ra ngoài cửa sổ. Những người du kích đã tuốt gươm ra, và Phê-đô cũng rút thanh gươm của mình ra khỏi vỏ, mở bao súng ngắn. Còn I-a-cốp A-lây-nhi-cốp vẫn cứ nói mãi về những nhà kho nào đó, nơi bọn lính đang ngủ, về tên đại tá Du-bốp mà mọi người không được để sống. An na, vẫn như thường lệ, cưỡi con ngựa hồng thấp nhỏ, đi kèm bên cạnh anh, và vẫn như thường lệ, thì thầm dặn: «Hãy giữ gìn nhé, anh Phê-đô, anh nhớ cẩn thận đấy...» Nhưng anh cẩn thận, giữ gìn để làm gì? Anh thiết gì tên đại tá Du-bốp? Anh chỉ cần gặp I-van, chỉ cần gặp thằng em ruột I-van! Cru-gi lin và Na-da-rốp đâu? Sao mãi vẫn chưa phát lệnh?
Nhưng anh không trông thấy Cru-gi-lin hoặc Na-da-rốp, cũng không nghe được một hiệu lệnh nào cả. Phía bên sườn bỗng vang lên một tràng súng máy và tiếng lựu đạn nổ xé không khí. Ngọn đèn chong đêm trong ngôi nhà của Cáp-ta-nốp nhấp nháy rồi cháy sáng hơn. «Xung phong!» - tiếng I-a-cốp rít lên the thé, và Phê-đô cũng thét bằng một giọng như vậy, thúc ngựa lao vào trại.
- Theo tô-ô-ôi!
Rồi tất cả hòa thành một tiếng gào rú hỗn tạp kéo dài, một cơn bão lửa gầm thét. Một ngôi nhà nào đó cháy bùng lên như kho thuốc súng. Phê-đô thúc ngựa chạy như điên khắp sân trại sáng rực ánh lửa, vung tay chém xuống đầu những tên lính bạch vệ ngái ngủ, chưa kịp mặc quần áo, dường như cố ý chạy ra đón lưỡi gươm của anh. Trước mặt anh thấp thoáng những khuôn mặt quen thuộc bị méo mó đi vì căng thẳng của Đa-nhi-lô Cô-skin, Ki-ri-an I-nhi-u-chin và các chiến sĩ khác trong đội. An-na trong chiếc áo khoác bằng da vẫn bám sát bên cạnh anh, tay lăm lăm khẩu súng ngắn. Trong bất kỳ trận đánh nào An-na cũng luôn luôn đi bên anh như vậy với khẩu súng ngắn trong tay và đã hai lần cứu anh thoát khỏi cái chết tưởng như không sao tránh khỏi.
Bỗng nhiên Phê-đô cảm thấy không còn có An-na bên cạnh. Anh cố ghìm con ngựa đang hăng máu, ngoảnh lại nhìn: cách anh chừng năm chục thước, con ngựa của An-na bị trúng đạn nằm giãy giụa trên mặt đất, còn An-na đang cố sức rút chân ra khỏi bàn đạp. Đa-nhi-lô Cô-skin vội đến giúp cô, nhưng từ trong góc trại sau chuồng ngựa đang bốc cháy ngùn ngụt như đống nhựa thông, một tên bạch vệ đang vội vã quỳ xuống giương súng trường ngắm bắn hai người. «Nó bắn chết mất, nó bắn chết mất!» Phê-đô vội rút súng ngắn ra khỏi bao. Nhưng anh chưa kịp bóp cò, thì từ phía sau chuồng ngựa, từ trong những cột khói và lửa, A-lây-nhi-cốp bay vụt ra, lưỡi
gươm của anh vung lên trong ánh lửa loáng như một tia chớp, tên lính bạch vệ buông khẩu súng, gục đầu xuống đất và từ từ duỗi người ra như đặt mình nằm xuống ngủ. I-a-cốp quát to, giọng dữ tợn:
- Phê-đô, chú ý các cửa sổ. Du-bốp và Cáp-ta nốp ở trong nhà, không được để thoát!
A-lây-nhi-cốp nói xong, nhảy xuống ngựa, lao lên thềm, lấy vai thúc vào cánh cửa khóa kín. Phê-đô quất ngựa nhảy lồng lên và một loáng sau anh đã ở phía bên kia của ngôi nhà. Các cửa sổ đều tối đen, chỉ một cửa có chiếc ghế dài chôn xuống đất ở phía dưới là có ánh đèn, trên tấm màn trắng che cửa thấp thoáng những bóng người. Bỗng nhiên Phê-đô cảm thấy như một trong những bóng người đó giống I-van. Tuy chỉ là «cảm thấy» thôi, nhưng chừng ấy cũng đã đủ. Không nghĩ gì đến nguy hiểm, anh nhảy từ mình ngựa xuống chiếc ghế dài, dùng vai hẩy tung cánh cửa sổ, giật tấm màn che xuống.
Và khi đã đứng trên bệ cửa sổ, nghe tiếng kính rơi loảng xoảng xung quanh, anh gầm lên đắc thắng: trước mặt anh, Cáp-ta-nốp đứng dựa lưng vào sát tường, trong tay cầm khẩu mao-de, trong góc là một người cao gầy, gươm tuốt trần, chiếc áo quân phục đại tá khoác vội lên vai, một thằng bé độ mươi -mười hai tuổi mặc quân phục sĩ quan may theo cỡ người, nhưng không có cầu vai, khiếp đảm nép bên cạnh. Và bên cánh cửa ra vào - I-van, thằng em ruột I-van! I-van cũng có vũ khí, bàn tay cẩm khẩu súng ngắn buông thõng xuống, ngạc nhiên, luống cuống nhìn anh, đôi mắt to tròn chớp chớp...
* * *
Gần như suốt cả tháng Chín năm 1919, vùng thượng lưu sông Grô-mô-tu kha bị mưa bão liên tục, những cây rừng vàng sớm bị gió vặt trụi lá. Nhưng rồi thời tiết trở nên ổn định, mặt trời tỏa ánh nắng lạnh lẽo xuyên qua lớp lá thưa thớt còn lại, cố hết sức hun khô mặt đất ẩm ướt.
Chim bắt đầu bay đi tìm chỗ trú đông. Từ sáng sớm cho đến tận chiều tối, vịt trời giăng hàng kêu ầm ĩ, từng bầy ngỗng trời qua mùa hè béo đẫy ra lười biếng lặng lẽ vẫy cánh, những đàn sếu nặng nề bay qua gửi những tiếng kêu não nuột xuống khắp các xó xỉnh của rừng tai-ga.
I-van ngồi trên chiếc thùng gỗ trong một căn phòng chật chội, ngột ngạt, nghe tiếng kêu rầu rĩ của đàn sếu lọt vào đây qua hai lần cửa, đầu gục
xuống, im lặng. Và An-na, ngồi nép mình trong góc, như một con thú nhỏ, chân co lại trên giường, cũng im lặng. Ngoài cửa sổ căn phòng, thấp thoáng bóng tên lính canh. Khi thì hắn đi đi lại lại, khi thì ngồi lên một gốc cây để hút thuốc, luôn miệng nhổ nước bọt xuống đất.
Trên khuôn mặt xanh xao, ốm yếu của An-na không còn một tí biểu hiện nào của sức sống. Thay vào đôi mắt xám là hai hố tro cháy tàn, lạnh lẽo. Chỉ có hai đồng tử đen là chưa cháy lụi, vẫn còn bốc lửa và thiêu đốt I-van một cách đau đớn.
- Đừng nhìn anh như thế, An-na! - I-van năn nỉ, đầu càng cúi xuống thấp thêm.
- Thế tôi phải nhìn anh như thế nào? - An-na mấp máy đôi môi khô, vẻ kinh tởm.
I-van lắc đầu, rên rỉ:
- Em đã làm tan nát cả cuộc đời anh! Em đã giẫm bẹp nó như miếng cà chua dưới gót giày!
- Này, khéo ngất xỉu rồi không chữa được đâu đấy!
- An-na, chúng ta tổ chức cưới đi! - I-van kêu lên, giọng khẩn khoản van xin. Anh đứng dậy. - Chúng ta sẽ sống cùng nhau. Anh sẽ giữ gìn em, đến gió anh cũng không để cho động đến người em.
- Không đâu... Tốt hơn là anh cho tôi vào dây thòng lọng, như cha anh... - An-na!
- Thì anh thử cố hết sức cầu xin tình yêu của tôi đi xem. - An-na nói, giọng giễu cợt. - Ai biết đâu đấy, lại xin được!
Những cuộc nói chuyện như vậy không phải chỉ mới có một lần. I-van bước ra khỏi phòng, đến ngồi bên bức tường trong ánh nắng vàng nhạt. Những tiếng kêu của đàn sếu bay qua ở ngoài sân nghe rõ hơn, to hơn, và dường như vì vậy càng não nuột buồn bã hơn.
Xóm nhỏ Dát-cô-va Ban-ca, nơi toán phỉ của Cáp-ta-nốp đã hai tuần nay ẩn náu trốn đội du kích, nằm trên một triền núi, những ngôi nhà xiêu vẹo chen nhau lộn xộn, không theo một trật tự nào hết; và không hiểu sao chúng vẫn còn đứng vững được trên sườn đốc. Có cảm tưởng như chỉ cần gió thổi hơi mạnh một tý là tất cả những ngôi nhà đó như những vỏ hộp rỗng sẽ lăn xuống khe núi Dát-cô-va Ban-ca cắt đôi rừng tai-ga ở phía dưới.
Phía đầu dốc, ngay trên đỉnh đèo, bốn người cưỡi ngựa xuất hiện. Đó là Cáp-ta-nốp, gã con trai mắt bị nhài quạt của hắn, Di-nô-vi, cựu hương
trưởng làng Mi-khai-lốp-ca Đê-mi-an I-nhi-u-chin và chính tên Cô-xô-rô tốp bí ẩn mà về hắn người ta đã đồn đại bao nhiêu là chuyện kinh khủng. Chiều tối hôm qua, có một gã nông dân từ làng Pác-phê-nô-vô-phi ngựa tới báo tin đội du kích đã kéo đến bên đó.
- Chúng lại đánh hơi thấy rồi, lũ chó đẻ! - Cáp-ta-nốp chửi đổng, và không giao cho ai cả, tự mình mang theo những tên tin cẩn nhất đêm hôm đó đi điều tra xem có bao nhiêu du kích ở làng Pác-phê-nô-vô.
I-van cũng là một trong những người tin cẩn nhất của Cáp-ta-nốp, nhưng hắn để anh ở lại với An-na. Mười ngày trước đây, An-na bị tên cai ngục cũ Cô-xô-rô-tốp bắt về.
- Cho mày ở lại vừa làm người gác vừa làm chú rể, - Cáp-ta-nốp cười nhạt. - Đến sáng mai mày phải thành chồng của nó.
Cáp-ta-nốp phi ngựa đến ngôi nhà I-van đang ngồi, nhìn anh bằng đôi mắt đỏ ngầu qua một đêm không ngủ, cất tiếng hỏi:
- Thế nào? Có thể gọi mày là con rể được chưa?
- An-na không đồng ý.
- Tao đã cho phép mày rồi kia mà? Phải dùng sức mà chiếm lấy nó, cái đồ chó cái đồ ấy...
- Tôi không thể làm như thế được. Không thể... - I-van lắc đầu. - Đồ nhãi ranh! - Những sợi râu hung hung đỏ của Cáp-ta-nốp bết lại thành từng túm rung rung. - Mặc xác mày, nhưng đừng có kêu nữa đấy. Tao đã làm đúng lời hứa với mày.
Cáp-ta-nốp, Di-nô-vi và Cô-xô-rô-tốp bỏ vào nhà. Đê-mi-an I-nhi-u-chin khéo léo hất chiếc chân giả bằng gỗ đính vào đầu gối bên trái qua lưng ngựa, tụt xuống đất, khập khiễng, lạch bạch như vịt què, dắt mấy con ngựa vào mái che. Khi trở ra, hắn lên tiếng:
- Tao thấy mày từ lâu có vẻ đáng nghi lắm. Trong đầu mày đang có một xoáy nước ngầm. Nó sẽ cuốn mày đi đến đâu, hả? Giá như ông Mi-khai-in Lu-kích nghĩ đến điều này!
Hắn ngừng lại một lúc như chờ đợi cái gì, rồi nói tiếp:
- Nhưng mày phải biết, đừng có hòng mà thoát khỏi tay tao và Mi-khai-in Cô-xô-rô-tốp!
- Ma-a-ày! - I-van gầm lên, nhảy chồm dậy, giật nửa thanh gươm ra khỏi vỏ...
...Trong đầu anh xoáy nước đã bắt đầu. Cái điều đã xảy ra với anh có thể gọi bằng một từ khác, nhưng nó đã xảy ra. I-van Xa-vê-li-ép cảm thấy điều
đó từ lâu...
Lần đầu tiên, anh nói lên điều này với người du kích của Cru-gi-lin bị bắt làm tù binh mà anh đưa đi bắn, nhưng lại thả ra. Người du kích chạy biến vào rừng, còn I-van bắn chỉ thiên chiếu lệ để Cáp-ta-nốp nghe thấy tiếng súng. Rồi anh ngồi trên một gốc cây, suy nghĩ rất lâu: tại sao lại như vậy, tại sao đến người nông dân gầy gò kia cũng đi du kích, anh ruột Phê-đô cũng ở trong đội của Cru-gi-lin, và cả An-na, thậm chí cả Ki-ri-an, thằng con trai của gã hương trưởng cụt chân Đê-mi-an I-nhi-u-chin, cũng vậy? Đáng lẽ ra hai người, An-na và Ki-ri-an, phải đi theo Cáp-ta-nốp, còn anh, I-van, ở trong đội của Cru-gi-lin mới phải. Đằng này tất cả đều rối tung, tất cả đều đảo ngược... «Và mình đánh nhau vì cái gì ở đây? Mình giúp thằng Cáp-ta nốp giữ của cải của nó. Nhưng cứ cho rằng giữ được đi nữa thì mình được cái gì cơ chứ? Lại đi chăn ngựa cho nó à? An-na thì trước sau gì rồi cũng đi với Phê-đô. Và hơn nữa, bây giờ đã rõ rành rành là Cáp-ta-nốp, cũng như bất kỳ một thằng nào khác, không còn có thể làm thế nào để giữ được của cải của mình nữa. Chẳng còn bao lâu hắn sẽ bị đánh tan, tất cả sẽ bị bắn sạch. Và mình cũng chịu chung cái chết. Nhưng chết vì cái gì mới được chứ?»
Liền ngay đó trung đoàn của Du-bốp được điều động đến để tiêu diệt Cru-gi-lin. Bắt đầu những trận đánh ác liệt, những cuộc vây đuổi liên miên kéo dài theo những người du kích cứ tuột đi như chạch. I-van không còn thời gian để suy nghĩ nữa. Rồi sau đó... sau đó xảy ra những việc mà cho đến bây giờ I-van vẫn chưa hết choáng váng - cha anh bị treo cổ và cuộc tập kích bất ngờ và khủng khiếp vào trại Ô-gơ-nhép-xki của những người du kích - không biết bằng cách nào mà họ ra được khỏi thung lũng Xanh, chẳng lẽ lại bay trong không khí?..
...Khi tiếng súng máy bắt đầu nổ ở ngoài trại, I-van đang nằm ngủ trên sàn nhà cạnh Cáp-ta-nốp, liền bật dậy và vặn to ngọn đèn chong đêm tù mù, mặc dù đáng ra là phải tắt hẳn đi.
- Cái gì? Ai?! - Cáp-ta-nốp quát hỏi.
Từ phòng bên cạnh, Du-bốp mặc độc một chiếc quần ngủ, cũng chạy ra, thét:
- Cái gì? Cái gì thế?
Còn ngoài sân, phía ngoài cửa sổ, tiếng súng trường đã nổ loạn xạ, tiếng la hét, tiếng vó ngựa rầm rập.
Không nói thêm lời nào nữa, cả ba đã hiểu cái gì đang xảy ra, cuống cuồng chộp lấy áo quần khoác vội lên người. Du-bốp biến vào phòng của mình, một phút sau đẩy thằng con đang ngái ngủ ra trước, rồi cũng chạy ra, chiếc áo sĩ quan còn chưa kịp cài cúc.
- Tại sao lại như thế này? - Du-bốp thét hỏi, dường như có một người nào đó có thể nhưng lại không muốn giải thích cho hắn về sự việc đang xảy ra. Bỗng cánh cửa sổ bật tung, tiếng kính vỡ loảng xoảng; trên khung cửa đen ngòm Phê-đô hiện ra, đôi mắt long lên, sáng quắc.
I-van đã rút súng ra từ lâu, nhưng trông thấy Phê-đô, đôi tay anh tự nhiên buông thõng xuống. Ngược lại, Cáp-ta-nốp đứng ở góc tường vụt đưa súng lên, nhưng Du-bốp đột ngột túm chặt lấy tay hắn, thét:
- Điên à?! Không được bắn! Không được bắn! - Và quay lại Phê-đô lúc đó đã nhảy xuống sàn: - Tôi xin đầu hàng. Đây là Pi-ốt, đứa con trai duy nhất của tôi, - hắn khẽ đẩy đứa bé đến trước mặt Phê-đô: - Tôi hy vọng rằng anh sẽ tha cho thằng bé.
Ngay trong tích tắc đó, trên khung cửa sổ đen ngòm lại hiện ra một bóng người mới. - «An-na!» - I-van choáng váng như phải bỏng. Nhưng An-na không kịp nhảy xuống sàn. Ở bên cạnh, Cáp-ta-nốp thét lên một tiếng khàn khàn, và, không ngắm đích, bắn một phát vào con gái. An-na lặng lẽ ngồi gục xuống, rồi lăn nghiêng ra sàn.
- An-na!
Không, đấy không phải là I-van kêu, mà nói chung, cũng không có ai kêu lên cả. Đó chỉ là một thứ tiếng gì âm âm ở trong đầu I-van, mỗi lúc một lớn thêm, và như cánh cửa kính vừa rơi xuống, nó cũng nổ tung, mảnh văng đi kêu loảng xoảng.
Rồi I-van không còn nghe thấy gì nữa, đầu óc trở nên rối loạn. Như trong một giấc mơ, không còn hiểu được việc gì đang xảy ra, anh thấy cánh cửa ở bên cạnh mình bật mở, và một thanh niên người không cao lắm, chiếc mũ da lật ngược ra sau gáy, chạy xộc vào. I-a-cốp A-lây-nhi-cốp!
- A-a, đại tá Du-bốp! - Chắc hẳn anh phải thét to lắm, nhưng I-van chỉ nghe vọng đến rất khẽ. I-a-cốp vung gươm.
Nhưng Du-bốp đã nhảy lùi lại, đồng thời gạt đỡ cú đánh. Thanh gươm của A-lây-nhi-cốp bật ra khỏi tay, vẽ thành một vòng cung trong không khí. A-lây-nhi-cốp nhảy lùi lại cuối bàn, tay rút súng ngắn từ trong bao ra. Nhưng anh không kịp. Du-bốp đã cúi gập người trên bàn chém với mũi gươm tới anh. A-lây-nhi-cốp ôm mặt ngã sấp xuống sàn.
Trong lúc sự việc đang diễn ra, I-van nghe có người nào đó kéo tay và một giọng nói khàn khàn vang bên tai: «Theo tao, mau!». Anh thấy Cáp-ta nốp luồn qua cửa ra ngoài, nhưng anh không chạy theo hắn. Tại sao không chạy - anh cũng không biết nữa, mặc dù hình như Phê-đô đang bắn vào anh. Ừ, đúng rồi, Phê-đô đang bắn, một phát vào anh và một phát vào tên đại tá Du-bốp đang chạy quanh trong phòng. Tiếng đạn cắm vào tường sát ngay bên cạnh, nhưng I-van vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng, Phê-đô đã bắn trúng Du-bốp, tên này gập cong người, sững lại. Nhưng hắn không ngã xuống, mà từ từ đứng thẳng lên. Phê-đô định bắn thêm phát nữa, nhưng đầu kim hỏa chỉ gõ một tiếng khô khốc - băng hết đạn. Phê-đô liền nhảy đến bên tên đại tá như một con thú dữ, vung gươm chém. Hắn đổ nhào xuống bên cạnh A-lây-nhi-cốp. Đứa con trai của Du-bốp rúm người trong góc tối thét lên một tiếng chói tai rồi im bặt.
- Sao mày không bắn đi, đồ phản đạo! Bắn đi...
Phê-đô thở hổn hển nói, và I-van ngạc nhiên nhận thấy nòng súng của mình chĩa thẳng vào trán ướt đẫm mồ hôi của Phê-đô.
- Anh vẫn là anh của tôi, tôi không bắn, - I-van nói.
I-van nói thật lòng. Dù cho Phê-đô có vung gươm nhảy bổ vào anh, có lẽ anh cũng sẽ không nổ súng. Anh chỉ nghe trong đầu như búa gõ: «An-na, An-na, An-na». Và giữa những tiếng vang nhức nhối đó, một ý nghĩ chợt hiện ra, rõ mồn một: nếu như An-na không còn nữa, thì mình sống để làm gì? Cứ để cho anh ấy chém chết đi. Thế có khi lại tốt hơn, rằng không phải ai khác, mà chính là anh Phê-đô... Anh ấy sẽ vung gươm lên - và tất cả sẽ kết thúc. Tất cả, tất cả... Thế cũng tốt... Nhưng mình lại chĩa súng vào anh để làm gì? Để làm gì?
Trong lúc đó Phê-đô, lưng vẫn tựa vào tường, nhích lần lại góc phòng, nơi đứa con của Du-bốp đứng, người co rúm lại... À, ra anh ấy, - I-van chợt tỉnh lại «Anh ấy định chém chết thằng bé!» I-van thét to:
- Không được động đến thằng bé! Nó không có tội gì cả!
- À-à, đồ rắn độc! - Phê-đô rít lên. - Mày là đồ rắn độc và đi lo cho lũ rắn con à? Giá mày đi thương lấy cha ruột của mày có phải tốt hơn không! Mày nên nhớ chúng đã treo cổ...
Và Phê-đô xông đến bên đứa bé. I-van cũng nhảy băng tới, và khi Phê-đô vung gươm bổ vút xuống, anh theo đà xô mạnh vào vai Phê-đô. Bị đẩy mạnh, Phê-đô không đứng vững, ngã xuống sàn nhà, lăn đi mấy vòng. Thằng bé thét lên một tiếng chói tai, hai tay ôm lấy mặt, máu chảy túa ra,
lăn lộn bên cạnh xác cha nằm bất động. Và lúc đó I-van mới nổ súng, nhưng không phải vào Phê-đô, mà vào chiếc đèn treo trên tường. Nhưng trong phòng vẫn không tối lại, vì ngay trên mái nhà sát cửa sổ, lửa bốc sáng rực. Chân giẫm phải A-lây-nhi-cốp nằm trên sàn nhà (A-lây-nhi-cốp bỗng cất tiếng rên, và I-van nghĩ thầm: «Còn sống!»), I-van bế xốc lấy thằng bé và chạy vụt ra khỏi nhà.
Sân trại không một bóng người và sáng rực trong ánh lửa của chuồng ngựa đang bốc cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa nhảy múa điên cuồng trên nền trời đen kịt, những dải lửa vút lên cao rồi tan ra như bay hút vào khoảng không tối mịt mùng. Bên ngoài trại, ở một nơi nào đó trong rừng sâu, vang lên mấy tiếng súng đì đùng.
Chạy qua sân, I-van vẫn đợi viên đạn của Phê-đô bắn đuổi vào lưng. Nhưng không có ai đuổi theo anh cả. Bên bờ hồ có mấy chiếc thuyền với mái chèo. I-van ném Pi-ốt Du-bốp vào một thuyền và đẩy ra khỏi bờ. Đút khẩu súng ngắn vào bao, vung mái chèo khuấy động những vệt sáng phản chiếu đám cháy trên mặt nước hồ đen thẫm, anh vội vã bơi thuyền sang bờ bên kia, lẫn vào bóng tối...
... - Ma-a-ày! - I-van gầm lên, nhảy chồm dậy, giật nửa thanh gươm ra khỏi vỏ.
- Thằng ngu, - I-nhi-u-chin thản nhiên nói và bỏ đi, chiếc chân gỗ chọc những lỗ sâu lên mặt đất.
I-van lại ngồi xuống. Đúng, mình là thằng ngu. Tại sao đêm hôm nọ mình không để cho Phê-đô chém chết, hoặc ít ra cũng đầu hàng làm tù binh? Tại sao lại bỏ chạy mà không phải một mình, còn kèm thêm cả thằng bé ấy nữa, thằng con trai của kẻ đã ra lệnh treo cổ cha mình? Phía bên kia hồ cũng có một chiếc thuyền, và I-van hiểu ngay: Cáp-ta-nốp đã chạy trốn bằng chiếc thuyền đó. Quả vậy, Cáp-ta-nốp từ trong bụi cây đi ra, mừng rỡ gọi:
- I-van đấy à? Khá lắm! Chúng ta bị một cú đau quá! Không hiểu làm sao mà lũ chó chết ấy lại chui được ra khỏi hang đá kia chứ?!
Một bên má của Pi-ốt Du-bốp bị chém toác, thằng bé rên rỉ như chó con. Cáp-ta-nốp xé áo trong của mình băng mặt cho thằng bé rồi nói, giọng trầm xuống:
- Tội nghiệp, con chim nhỏ giờ trở nên hoàn toàn côi cút. Đại tá kể rằng mới lên ba, nó đã không còn mẹ. Đưa nó đi đâu bây giờ? Hay gửi nó đến
cho Lu-kê-ri-a? Cho nó sống với thằng Ma-ca nhà ta, có thể, chúng sẽ trở thành bạn thân cũng nên.
Cáp-ta-nốp đem giấu Ma-ca, đứa con trai út lên sáu của mình ở một trại nào đó tận trong rừng tai-ga hẻo lánh, giao cho Lu-kê-ri-a Ca-sca-rô-va, một người đàn bà tháo vát và dâm đãng ở làng Mi-khai-lốp-ca, nuôi nấng, chăm sóc.
- Đúng rồi, ta sẽ gửi nó cho Lu-kê-ri-a nuôi, - Cáp-ta-nốp nhắc lại. - Còn bây giờ, I-van ạ, ta phải tẩu sâu vào rừng để tránh xa tai họa cái đã. Không trời cũng sắp sáng rồi. Chẳng lẽ bọn du kích thịt hết cả trung đoàn và cả người của ta ở Mi-khai-lốp-ca à? Bằng cách nào và bằng gì? Không thể thế được! Tuy vậy, ta cũng phải dò xem. Cẩn tắc vô ưu.
- Còn An-na, sao ông lại bắn An-na? - Bất giác I-van buột miệng thốt lên. - Thôi! - Cáp-ta-nốp lạnh nhạt quát lên. - Không có nó mày cũng chẳng chết đâu. Đồ chó cái ấy một viên đạn chưa đủ, nó thì phải băm xác ra từng mảnh. - Nói xong, Cáp-ta-nốp bước đi vào rừng.
Ánh bình minh muộn màng cũng đã loang khắp rừng tai-ga. Nhìn cái lưng gù của Cáp-ta-nốp lắc lư đi phía trước, I-van cảm thấy muốn rút phắt khảu súng ngắn ra khỏi bao và lần lượt cắm cả băng đạn vào cái thân xác to lớn và đáng ghét của hắn. Và bây giờ I-van không hiểu tại sao mình lại không đủ can đảm - thời cơ thuận tiện đến là thế! «Mà nói chung, những thời cơ như vậy thì thiếu gì? - I-van cười nhạt. - Có như thế mình mới là thằng ngu, như I-nhi-u-chin gọi».
Hôm đó, khi trời đã sáng hẳn, I-van và Cáp-ta-nốp đi ra con đường rừng tai-ga còn mới tinh vết chân giày, vết móng ngựa và vết bánh xe. Hai người hiểu ngay rằng đội du kích của Cru-gi-lin vừa mới qua đây để đi về hướng đông, vào những khu rừng phía bên kia mạch nước ngầm Ô-gơ-nhép-xki.
Hai tuần lễ sau, đội du kích quay trở lại sau khi được nghỉ ngơi và trang bị đầy đủ.
Trung đoàn của Du-bốp, sau khi mất chỉ huy, đã bị gọi đi nơi khác. Bây giờ vai trò đã đảo ngược, bây giờ đội du kích của Cru-gi-lin lại đuổi theo sát gót đám phỉ của Cáp-ta-nốp, dồn chúng lên phía thượng nguồn của con sông Grô-mô-tu-kha. Và nay Cáp-ta-nốp đang phải ẩn ở xóm Dát-cô-va Ban-ca nhỏ bé này.
I-van, vẫn như trước, làm cần vụ và vệ sĩ cho Cáp-ta-nốp. Anh càng ngày càng hốc hác, mắt trũng sâu, trở nên cau có, lầm lì.
- Thôi, mày đừng héo hon đi nữa! - Cáp-ta-nốp bảo I-van, khi họ đã đến Dát-cô-va Ban-ca. - Nó, con An-na của mày ấy, còn sống dai hơn cả mèo hoang nữa đấy.
- Sao? - I-van không hiểu.
- Nó còn sống... Đáng ra tao phải bồi thêm cho nó mấy nhát nữa. Còn bây giờ nó còn sống, thì tao cũng không lấy lại lời hứa với mày. Tao sẽ tóm được nó.
- Sao? - I-van hỏi lại lần nữa.
- Mi-kha-in Cô-xô-rô-tốp sẽ tóm được nó. Tao đã bảo hắn đi rồi. Sau khi trung đoàn của Du-bốp bị điều đi, Cô-xô-rô-tốp ở lại với toán phỉ của Cáp-ta-nốp.
- Hắn đi đâu? - I-van vẫn chưa hiểu gì cả.
- Đi bắt An-na. Có tin nó đã hoàn hồn sau viên đạn của tao và giờ đang đi các làng quyên thu ủng lông và găng tay cho bọn du kích. Thế nào Cô-xô rô-tốp cũng chộp được nó về.
Và Cô-xô-rô-tốp chộp được thật. Một ngày sau khi xảy ra cuộc nói chuyện trên, hắn trở về, ném An-na bị trói chặt chân tay xuống đất, rút miếng giẻ nhét ở miệng cô ra.
- Đây, nhận lấy, - hắn nói với Cáp-ta-nốp.
- An-na! An-na! - I-van kêu lên, chạy bổ tới.
- Thế thằng Ki-ri-an của tôi có đi với con bé này không? - Đê-mi-an I nhi-u-chin hỏi. - Giá mà tóm được nó cho tôi nữa! - Và, giẫm giẫm chiếc chân gỗ lên mặt đất, hắn nói thêm một câu khó hiểu: - Cứ như mình, mình lấy quách con bé này chứ không để cho thằng I-van...
An-na nằm trên mặt đất đầy bụi, tóc sổ tung, bị miếng giẻ nhét ở miệng làm nghẹt thở, người tái mét. I-van định cởi trói, giúp cô đứng lên, nhưng An-na đã tự quỳ dậy, ngẩng đầu ném sang I-van một cái nhìn làm anh phải sững người lùi lại. Và bây giờ...
* * *
Cáp-ta-nốp không dám nghênh chiến với đội du kích ở Dát-cô-va Ban-ca. Hắn dàn đám phỉ của mình chạy về làng Lu-nhe-vô, cách đấy hai chục véc xta. Lúc ăn cơm tối trong một ngôi nhà rộng rãi, Cáp-ta-nốp ra lệnh cho Đê mi-an I-nhi-u-chin dẫn An-na đang bị nhốt trong nhà kho đến.
- Thế mày nhất định không chịu lấy thằng I-van hả? Lần cuối cùng tao hỏi mày.
- Không cần đâu, - I-van ngồi trên chiếc ghế dài cạnh cửa sổ, nói, đôi môi anh méo xệch sang một bên. - Chẳng nài ép được đâu, thật thế. Thả cô ấy ra, ông Mi-khai-in Lu-kích. Cứ để...
- Cái gì? Nghĩa là mày từ chối nó chứ gì?
- Tôi sẵn sàng chết vì cô ấy... Nhưng ích gì... Cô ấy chẳng có lấy một mẩu...
- Còn mẩu với miếc gì nữa? - Cáp-ta-nốp nổi cáu.
- Đấy là tôi nói vậy. Không ép được đâu. Ông thả An-na ra, tôi sẽ phục vụ ông gấp đôi.
Cáp-ta-nốp vứt chiếc thìa gỗ xuống bàn, nhìn I-van chằm chằm, rất lâu. Rồi hắn quay lại nhìn con gái. An-na đứng cạnh lối ra vào, lưng tựa vào khung cửa. Cô mặc chiếc áo len dệt màu xám, chiếc váy đen nhàu nát và đi đôi ủng mềm, ống ủng ôm khít hai bắp chân đầy đặn. Chiếc áo da khoác choàng trên vai, mảnh khăn vuông hoa chít trên đầu không chặt để sổ ra mấy mớ tóc màu bạch kim.
Dáng người cao, cân đối, ngay cả trong bộ trang phục thô kệch, giản dị này, cô vẫn đẹp.
- Kể con ngựa cái lớn lên nhìn cũng trơn tru đấy nhỉ, - Cáp-ta-nốp cười gằn.
An-na từ lúc bước vào chưa nói một tiếng nào, nghe những lời này cũng không thèm đáp lại.
- Thế, còn nếu như tao thả mày ra, mày lại đến với bọn du kích chứ? - Đến với họ, - cuối cùng An-na mới hé đôi môi, đáp.
Cáp-ta-nốp thở hổn hển, những đường ven trên hai thái dương đẫm mồ hôi nổi hẳn lên.
- An-na, mày biết đấy, tao đã sống một cách thỏa chí, - hắn đột nhiên nói bằng một giọng khe khẽ. - Đã từng uống rượu, yêu đàn bà, đã từng có quyền hành thả cửa với mọi người. Nên bây giờ tao đánh nhau, nói một cách dễ hiểu, là để sống thêm cái cuộc sống như thế. Nhưng còn mày thì để làm gì? Mục đích gì? Sao mày lại đi theo bọn du kích ấy? Vì thằng Phê-đô hả?
- Cũng cả vì anh ấy.
- Thế còn vì cái gì nữa?
- Tôi không biết. Điều này không thể giải thích được một cách dễ dàng, bằng một vài lời. - Đôi lông mày dài của An-na nhíu lại, rồi run rẩy giãn ra như đôi cánh, bộ ngực căng sau làn áo dệt bắt đầu nổi sóng từng đợt, thở dốc. - Ông sống... Bằng cuộc sống đó ông đã đưa mẹ tôi vào sợi dây thòng lọng! Thế mà ông còn khoe cái gì?! Ông sống như loài thú vật. Nhưng còn có một cuộc sống khác - cuộc sống của con người! Thế đấy, tôi đi theo du kích, có lẽ vì... vì tôi đã thấy hết cuộc sống của ông. Tôi đã thấy ông ăn chơi trụy lạc như thế nào ở trại Ô-gơ-nhép-xki. Tôi muốn sống một cuộc sống của con người. Mọi người muốn xây dựng một cuộc sống của con người trên mặt đất này, và nhất định sẽ xây dựng được...
- Thật sao? Đừng nhầm đấy nhé!
- Nhất định sẽ xây dựng! Và người ta sẽ quét các ông khỏi mặt đất, như quét rác ra khỏi nhà, để khỏi thối tha, bẩn thỉu. Thế đấy...
- Nhưng nếu như xây dựng được, người ta có cho mày đến với cuộc sống ấy không? Sớm muộn gì rồi người ta cũng nhớ lại mày là con của ai. - Người ta sẽ nhớ... Người ta sẽ luôn luôn nhớ không phải tôi là con ai, mà tôi là người như thế nào, có xứng đáng với cuộc sống ấy không. Và người ta sẽ cho tôi đến với cuộc sống ấy. Còn anh, I-van, - An-na quay về phía cửa sổ, nơi I-van đang đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, - anh cũng nên nghĩ về điều này. Chúng đã treo cổ cha anh. Còn mẹ, không chịu nổi đau khổ, mới đây cũng đã...
- Mẹ? Mẹ...- I-van nhảy bật dậy và lặng người đi, không còn cảm thấy điếu thuốc đang đốt cháy ngón tay mình.
- Câm ngay! - Cáp-ta-nốp đập chiếc bát sứ to vào cạnh chiếc bàn gỗ, những mảnh bát bay tứ tung rơi xuống chân An-na gây ra tiếng kêu khô khốc như tiếng cây bị nổ khi trời quá lạnh. Cáp-ta-nốp nhảy đến bên An-na, vươn đôi tay lông lá đến sát cổ cô.
- Ông Mi-khai-in Lu-kích! - I-van thét lên, tiếng gươm anh tuốt ra khỏi vỏ kêu loảng xoảng.
- Mày... làm cái... gì vậy? Cáp-ta-nốp nặng nhọc nói ngắt quãng, từng tiếng một.
- Dù sao thì cũng là con gái của ông. Xin ông hãy thả ra. Cô ấy muốn đi đâu thì đi, - lần thứ ba, I-van lặp lại, ném thanh gươm vào góc nhà, lấy tay chùi mồ hôi thấm ra trên trán.
Cáp-ta-nốp nặng nề bước đến bên bàn, ngồi xuống.
- Thôi được, cứ để nó đi. Cứ để nó dẫn du kích đến đây.
- Thì chúng ta rời đây, đi xa hơn. Có ai ngăn chúng ta đâu? - Mày nói cũng phải đấy,- Cáp-ta-nốp nói, nhưng đôi mắt hắn với những đường máu nổi dày bò lướt khắp người An-na. - Mày vẫn ngủ với thằng Phê-đô phải không? - hắn hỏi trắng trợn.
- Ông đừng suy bụng ta ra bụng người, - An-na khép vạt áo da trước ngực lại. - Tôi không phải là giống súc vật như... để không cần cưới xin... - Như tao chứ gì? Mày cũng đã nói toạc ra rồi đấy. Thế bao giờ thì cưới? - Ông khỏi phải lo, chúng tôi sẽ cho mời ông đến. - An-na giễu cợt hắn. Tay Cáp-ta-nốp túm chặt lấy mép bàn dường như sắp sửa bẻ nát tấm ván dày, mặt nhẵn bóng như mặt đá, để ném vào người con gái. - Thôi được. Ai ngoài kia, dẫn nó đi! - Khi An-na đã bị đưa ra khỏi phòng, hắn quay lại I-van: - Còn mày nóng thế, chưa gì đã rút gươm ra... - Tôi tưởng ông muốn...
- Nhưng mày thì đằng nào mà chẳng thế, nó không...
- Không phải đằng nào cũng thế đâu, - I-van nói, đầu vẫn không ngẩng lên.
- Nếu vậy, mày là thằng hèn, I-van ạ, - Cáp-ta-nốp cười nhạt. - Nhưng thôi, tùy mày. Tao sẽ thả nó ra, cho nó muốn sống với Phê-đô, hay với con ngựa đực nào cũng được...
* * *
Suốt cả đêm I-van không chợp mắt. «Cả mẹ, như thế cũng coi như đã bị chúng treo cổ...», - anh nằm trên chiếc chăn đắp ngựa hôi hám và suy nghĩ, tim như bị ai bóp chặt, một cảm giác đau nhức nhối khắp toàn thân.
Ngoài cửa sổ, bầu trời đang chuyển dần sang màu trắng đục của ban mai. Chiếc giường Cáp-ta-nốp nằm khẽ rung lên, rít ken két.
- I-van, mày ngủ à? - Hắn hỏi khẽ. - Tao đi kiểm tra gác một tí đây. Cáp-ta-nốp bắt đầu mặc quần áo, cố gắng không gây ra tiếng động. Mặc xong, hắn xách ủng rón rén đi đến bên cửa và nhẹ nhàng bước ra ngoài. Việc Cáp-ta-nốp đi kiểm tra các vọng gác đêm hoàn toàn không có gì đặc biệt cả. Trong thời gian gần đây, dù đóng lại ở đâu, hắn đều tự mình, hoặc giao cho con trai là Di-nô-vi, đi kiểm tra việc canh gác quanh thôn. Nhưng không hiểu sao, I-van bỗng bị một nỗi lo ngại và sợ hãi bao trùm. Sự lo lắng mơ hồ, không thể giải thích được đó, I-van cảm thấy ngay từ chiều, khi bắt gặp ánh mắt của Cáp-ta-nốp dò dẫm một cách khả ố trên khắp
người con gái hắn. Rồi sau đó, Cáp-ta-nốp có nhiều cử chỉ khác với mọi ngày. Trước lúc nằm, hắn đi đi lại lại trong phòng, dường như đang tính toán một điều gì đó. Chốc chốc, hai lỗ mũi to tướng của hắn lại phập phồng, đôi môi lông lá giật giật, ánh mắt nhìn dữ tợn. Nhưng hắn vẫn không nói một lời nào, lăn ra giường và chỉ một lúc đã cất tiếng ngáy liền.
Và bây giờ, hắn lại nói rất khẽ, cố gắng sửa soạn nhẹ nhàng để khỏi làm cho I-van thức giấc... I-van chồm dậy, chạy đến bên cửa sổ. Khắp trong xóm không có lấy một ánh lửa. Góc nhà kho, nơi An-na bị giam, mờ mờ hiện ra trong bóng tối xám đục. Bên cạnh kho có một cỗ xe đã thắng ngựa, và hai bóng người thấp thoáng. Một lát sau hai bóng người đó dẫn An-na từ nhà kho ra, đẩy cô lên xe. Tất cả những cái đó I-van đoán ra nhiều hơn là nhìn thấy, tim anh đập mạnh. «Họ đưa An-na đi đâu? Chắng lẽ lại đưa đi thả? Thế mà Cáp-ta-nốp bảo đi kiểm tra...»
I-van căng mắt nhìn ra cửa sổ. Một trong hai bóng người, (theo dáng, I van nhận ra là Cáp-ta-nốp), cũng ngồi lên xe và quất ngựa chạy. Người thứ hai khập khiễng quay vào nhà.
I-van vơ vội lấy quần áo xỏ vào, rồi hấp tấp quấn xà cạp vào chân. Choàng chiếc áo vét lên vai, anh nhảy bổ ra cửa.
- Đi đâu? - tiếng của Đê-mi-an I-nhi-u-chin vang lên ngay ở cửa. - Buông ra! - I-van định xô lão cụt chân sang một bên, nhưng I-nhi-u chin đã khéo léo giơ chiếc chân giả bằng gỗ ra như ngọn giáo, đâm mạnh vào bụng I-van, làm anh đau điếng, gò người lại, rồi ngã ngồi xuống đất. Khi trấn tĩnh lại được, I-van thấy I-nhi-u-chin đang cầm khẩu súng ngắn chĩa vào người anh.
- Tao hỏi, mày định chuồn đi có xa không hả?
- An-na... An-na bị đưa đi đâu?
- Đưa đến nơi cần đưa, cha nói với con mấy lời rồi thả. Một giờ nữa chúng tao sẽ đi khỏi nơi đây. Nào, đưa tay ra sau lưng! Quay bước! Mày sẽ phải ngồi cho đến khi ông chủ về, sau ra sao tùy ông ấy. Đi đến nhà kho, tao bảo! Đừng có giở trò, tao bắn ngay tại chỗ.
I-van miễn cưỡng bỏ tay ra sau lưng, bước đi.
- An-na... Ông ấy đưa đi bắn...
- Đó là việc của ông ấy. Ông ấy là cha. Đi! Bước!
Họ đã đi đến cạnh nhà kho, I-van đã bước qua bực cửa. Nhưng khi I-nhi u-chin bắt đầu kéo hai cánh cửa nặng để đóng lại, I-van bất ngờ nhảy chồm tới như mèo vồ mồi, đè hắn xuống, tước lấy súng ngắn và giang thẳng tay
quật báng súng vào thái dương. I-nhi-u-chin chỉ kêu hự lên được một tiếng, giãy nảy lên rồi nằm im.
I-van nhảy lùi lại, bối rối. «Chẳng lẽ mình đánh chết rồi à? Chết thật à?!» Lão cựu hương trưởng làng Mi-khai-lốp-ca nằm không động đậy, tắt thở. I-van lôi xác hắn vào nhà kho, đóng cửa lại, và không kịp bấm chiếc khóa treo lủng lẳng trên thanh móc cửa bằng sắt, chạy bổ đến bên con ngựa của mình.
Ra khỏi làng Lu-nhe-vô, con đường chia làm nhiều ngả. Cáp-ta-nốp đi theo hướng nào không rõ. Mỗi con đường đều là một bí mật. Ở hai trạm gác đầu, bọn lính canh nói với I-van rằng không thấy Cáp-ta nốp, cũng không thấy bất cứ một ai khác ra khỏi làng. Ở trạm thứ ba, một tên phỉ còn trẻ, mặt phờ phạc vì thiếu ngủ, bảo:
- A-ta-man ấy à? Thấy cùng với con gái đi qua đây. Họ đi đâu thế, I-van? Không trả lời, I-van quất ngựa chạy theo con đường rừng đang hiện dần trong ánh bình minh buổi sớm.
Nếu như không nhờ có con ngựa đực của mình, chắc buổi sáng hôm đó I van không thể nào tìm gặp được Cáp-ta-nốp, và cũng không bao giờ anh còn thấy lại được An-na, thậm chí sẽ không biết được An-na đi đâu, bằng cách nào đã biến mất khỏi mặt đất này. Con ngựa của anh chạy theo con đường mòn đầy bụi được chừng năm - sáu véc-xta, rồi mặc dù I-van ra sức quất roi một cách không thương tiếc, nó bắt đầu chạy chậm lại và bỗng hí lên the thé. Ở một nơi nào đó bên sườn phía sau lập tức có tiếng ngựa cái hí đáp lại. «Ngựa của Cáp- ta-nốp» - I-van thoáng nghĩ. Anh quay ngựa lại. Dường như hiểu rằng ý muốn của nó và của chủ cũng trùng hợp với nhau, con ngựa ngoan ngoãn quay ngoắt sang bên, nhảy qua những bụi cây thấp, mang Xa-vê-li-ép đến một bãi rừng trống và trượt bốn vó trên mặt đất, dừng lại bên một đám cỏ ướt đẫm sương đêm.
Bên bìa bãi rừng trống, một chiếc xe ngựa đứng dưới gốc những cây thông cành rậm rạp, đen sì; cách đấy một quãng An-na nằm sóng soài, phơi trần đôi chân trắng; còn Cáp-ta-nốp đang nghiêng người, lom khom chạy khỏi chỗ cô nằm, kéo lê chiếc thắt lưng bằng da, vừa chạy vừa rút vội khẩu mao-de nòng dài từ một chiếc bao bằng gỗ.
Toàn bộ cảnh tượng trên hiện ra trước mắt I-van chỉ trong vòng một giây đồng hồ, và trong một khoảng thời gian còn ngắn hơn một giây, I-van hiểu ngay sự việc đã xảy ra ở đây. Ngay tích tắc đó, đầu anh sưng ù lên như bị nhét đầy thuốc súng, ý thức, tri giác bị bao phủ bởi một lớp gì cay và nóng.
Tiếng nói của Cáp-ta-nốp làm anh tỉnh lại:
- Cầu Chúa đi I-van. Những gì mày đã thấy ở đây, mày phải mang theo xuống âm phủ. Trên mặt đất này không một ai được biết đến điều đó... Qua tấm màn đen đang tan dần, trước mắt I-van dần dần hiện ra khuôn mặt đỏ gay, đẫm mồ hôi của Cáp-ta-nốp. Hắn đứng cách I-van ba bước, tay trái gài cúc chiếc áo vét, còn tay phải lăm lăm chĩa vào anh nòng khẩu mao de ám khói đen sì.
I-van không còn nhớ anh đã nhảy xuống ngựa đứng đối diện với Cáp-ta nốp như thế nào và từ bao giờ.
- Mày... mày... sao mày có thể... - anh lắp bắp từng tiếng nặng nhọc. - Việc đó mày không thể biết được đâu. Còn nó thì biết. Mày đến đây là ngu. Nếu không thì còn được sống...
I-van hiểu rất rõ rằng ngay bây giờ anh sẽ bị bắn chết. Bên thắt lưng anh cũng có súng, nhưng Cáp-ta-nốp sẽ không để cho anh kịp rút ra, không cho phép anh được nhúc nhích lấy dù một tí. Và I-van đứng bất động, đôi tay dài buông thõng. Một tay anh vẫn đang cầm chiếc roi ngựa ngắn.
Họng súng mao-de đen ngòm trong tay Cáp-ta-nốp đã bắt đầu chuyển động, giật nảy lên. «Ngay bây giờ, ngay bây giờ!» - Ý nghĩ như một tia chớp thoáng lên trong óc I-van. Và, không còn hy vọng gì nữa, anh nhanh như cắt vụt mạnh chiếc roi ngựa ngang mặt Cáp-ta-nốp, rồi nhảy bổ vào hắn. Cáp-ta-nốp nổ súng. I-van cảm thấy như bị ai lấy càng xe nện vào vai. Không còn hiểu mình đã bị bắn chết hay chỉ bị thương, cũng không thấy Cáp-ta-nốp đưa tay ôm lấy mặt, I-van lại vung roi, lần này quật vào bàn tay cầm súng. Khẩu mao-de rơi xuống cỏ, I-van nhảy bổ vào Cáp-ta-nốp đưa hai tay thít lấy chiếc cổ gân guốc đầy lông lá của hắn, và ra sức bóp. Hai người cùng ngã lăn ra đất.
- I-van... I-van! - Cáp-ta-nốp thở khò khè, đầu lắc lư, râu cọ cả vào mặt I van.
Cáp-ta-nốp khỏe hơn, hắn chống hai tay vào ngực I-van đã yếu sức vì mất máu và hất anh ra không khó khăn lắm. Nhưng hắn không kịp đứng dậy. I-van đã chộp lấy khẩu mao-de rơi trên cỏ và lại xông vào Cáp-ta-nốp đang lồm cồm bò dậy, xô hắn ngã ngửa ra và dùng hết sức ấn mạnh nòng súng vào ngực hắn bóp cò hai lần...
Anh không nghe thấy tiếng nổ. Anh chỉ nghe thấy tiếng mấy con ngựa giật mình phì mạnh và nhảy lồng sang phía bên kia bãi rừng trồng.
* * *
Mặt trời đã lên cao từ lâu, - tỏa nắng dịu xuống khu rừng. Một ngọn gió thoảng qua, từ từ làm se lại đám cỏ đẫm sương đêm.
Hai con ngựa đã hết sợ từ lâu, đứng kề đầu vào nhau. Con ngựa cái của Cáp-ta-nốp cọ má vào chiếc mõm dẹt của chú ngựa đực. Một lát sau, có lẽ vì đã chán những cử chỉ âu yếm đó, con ngựa đực bỏ đi ngắt cỏ ăn.
Một chú sóc nhảy nhót trên cành thông phía trên cỗ xe ngựa, làm những chiếc lá nhọn đã vàng khô rơi lả tả xuống.
Cáp-ta-nốp nằm hiền lành trên cỏ, hai tay doãi ra dường như đang ngủ. Ven khoảng rừng trống, nơi ánh nắng mặt trời còn chưa chiếu đến, An-na cũng đang nằm ngửa bất động và im lặng. I-van ngồi bên cạnh, đôi mắt trống rỗng nhìn không chớp ra một nơi nào đó trước mặt.
Từ khóe mắt nhắm nghiền của An-na, những giọt nước mắt vẫn chảy, chảy không ngừng. Máu loang đỏ cả vai trái của I-van.
Nếu như không có những giọt nước mắt kia và cái vai đẫm máu này, thì chẳng có gì để có thể nói rằng trước đấy nửa giờ ở đây đã xảy ra một tấn bi kịch của cuộc đời, một tấn bi kịch của con người. Dường như ở đây chỉ có ba người bạn đồng hành dừng lại để nghỉ ngơi, hai người đang nằm ngủ, còn một người đang ngồi canh cho hai bạn ngủ yên.
Lại thêm nửa giờ nữa trôi qua. Bỗng An-na nhổm người ngồi dậy, và dữ tợn, đầu tóc rũ rượi, rối bù, cô hét lên, giọng lạc đi:
- Anh đến đây để làm gì? Hắn đã định bắn chết tôi sau khi... Anh ngăn cản lại để làm gì?! Bây giờ anh hãy bắn tôi đi! Anh hãy bắn tôi đi! Bắn tôi đi!!
Và cô lại ngã vật xuống, lăn lộn trên cỏ, miệng rú lên như loài thú, mái đầu rũ rượi đập xuống đất. I-van vẫn ngồi yên bất động như cũ, không khuyên giải. Chỉ đến khi An-na đã kiệt sức, nguôi dần, anh mới nói, rất khẽ:
- Nhưng dù sao thì, An-na à, cũng phải sống. Còn về điều ấy... An-na ạ, sẽ không bao giờ và không ai biết được. Cần phải sống...
* * *
Chiều ngày hôm đó, một chiếc xe ngựa bốn bánh đi vào xóm Dát-cô-va Ban-ca đã bị du kích chiếm đóng. Những người mang súng vây lấy chiếc xe. Chợt có tiếng kêu:
-An-na! Xem kìa! An-na đã bị mất tích của chúng ta về kìa! Phê-đô, An na của cậu kia kìa!
Từ căn nhà đối diện với chiếc xe, Cru-gi-lin, A-lây-nhi-cốp và Pan-crát Na-da-rốp đi ra.
- Có việc gì đấy? An-na, cô từ đâu ra đây? - Cru-gi-lin đi đến hỏi. Chợt trông thấy I-van, trán anh nhíu lại. - Xa-vê- li-ép?!
- Tôi...
- A-à, thằng thổ phỉ cu-lắc, tự nó đã dẫn xác đến đây! - Phê-đô lách qua đám người, miệng hét lớn.
I-van dùng cánh tay còn lành hất xác Cáp-ta-nốp từ trên xe xuống đất không hiểu để làm gì, nói:
- Đây, a-ta-man của chúng tôi... tuy chỉ còn là cái xác. Còn tôi đây, các anh muốn làm gì thì làm. -Và I-van ngồi xuống cỏ cạnh xác Cáp-ta-nốp. - Muốn bắn thì cho một viên đạn vào trán. Chỉ có điều xin các anh làm nhanh lên.
- Ở chỗ chúng tao việc này chẳng phải đợi lâu đâu. - Vết sẹo còn mới ở trên má A-lây-nhi-cốp giật giật. - Nào, đi vào nhà. Xem xét xong - xin mời đứng vào tường!
I-van đứng dậy và bước đi, lưng gù xuống. An-na, trước đó vẫn ngồi dửng dưng, lãnh đạm trước mọi việc xảy ra xung quanh, bỗng rùng mình gạt Phê-đô vừa bước đến bên cạnh ra.
- Đừng! Đừng! Các anh nên xét rõ thực hư! Đừng...- An-na thét lên thất thanh, như một con chim sã cánh hết chạy đến bên cạnh Cru-gi-lin, A-lây nhi-cốp, lại đến Na-da-rốp, khi họ dẫn I-van vào nhà.
PHẦN THỨ NHẤT
Ba anh em
Liếc nhìn chiếc đồng hồ quả lắc bằng sắt tây đang kêu cót két trên tường, Đi-ma nhảy vội xuống giường: kim đã chỉ bảy giờ kém mười. Xóm làng tắm trong làn sương mù dày đặc.
Chỉ phía trên mái gỗ đẫm sương của mây ngôi nhà ở gần là còn thấy mờ mờ những ngọn cây đang khẽ lắc lư; còn xa hơn, tất cả đều mất hút trong màn sữa đục, đến chiếc tháp canh cứu hỏa ngất nghểu trên gò đất cao cuối phố cũng không còn trông rõ.
Đi-ma, mặc quần cộc và áo may-ô, đứng co ro trong vườn rau, đưa mắt nhìn qua hàng giậu trơn đã mốc đen, hết sang phải - phía vườn của nhà I nhi-u-chin, lại sang trái - phía sân nhà bà Ca-sca-rô-va. Nhưng cả Nhi-cô-lai I-nhi-u-chin lẫn Vích-to Ca-sca-rốp đều không thấy đâu cả. «Chắc lại đang ngủ khì, - Đi-ma ngáp, nghĩ thầm. - Thế này hôm nay lại có mà đi câu...» Và cậu đi ra bờ sông Grô-mô-tu-kha rửa mặt.
Những thân ngô ngả nghiêng, lá rẩy sương hạt lên vai, những gốc khoai tây ướt lạnh đâm vào chân ran rát. Đôi chân của Đi-ma tê cứng, đầy những vết chai sẹo sần sùi, trông hệt như vỏ một quả dưa chuột.
Chạy đến bên bờ sông, Đi-ma ngồi xuống bậc đá và buông thõng chân xuống lòng sông đầy cát ngập trong làn nước ấm. Ngay lập tức, những chú cá bống con liền xúm đến rỉa tới tấp vào bắp chân, ngón chân. - Chúng mày... - Đi-ma khẽ ngọ nguậy ngón chân.
Lũ cá bống vội chạy tản ra theo hình rẻ quạt, dừng lại cách chân của Đi ma chừng nửa thước, dường như đang suy nghĩ, thì thầm trao đổi với nhau, rồi thận trọng, nhưng tất cả cùng một lúc, bơi ngược trở lại.
Con sông nhỏ Grô-mô-tu-sca quả là kỳ lạ. Nước trong suốt như gương, lòng sông không rộng lắm, thậm chí nhiều chỗ chiều ngang chưa đầy một mét, những vụng nước cạn nằm khuất dưới các tán lá đan chéo nhau. Nhánh sông nhỏ này gần như là một con suối - bắt nguồn từ một nơi nào đó cách xa San-ta-ra, mãi trong những dãy núi An-tai, chảy ngoằn ngoèo qua suốt đồng cỏ cho tới tận làng. Đồng cỏ trần trụi, không có lấy một bụi cây, chỉ thỉnh thoảng nổi lên những gò đất trọc ảm đạm; còn dọc theo hai bờ Grô-
mô-tu-sca, mỗi bên rộng đến bốn chục mét, mọc đầy các loại cây tạp rậm rạp. Ở đây có cả hoàn diệp liễu, bạch dương, cả hoa kim ngân, rất nhiều dã anh và đặc biệt phúc bồn tử thì vô số. Nhưng nhiều hơn cả vẫn là loài thùy dương, mà ở San-ta-ra vẫn gọi là liễu trắng. Và tất cả đều bị các loài cây hoa bia, hoa đũm hương mọc bám quanh quấn quýt.
Những đám cây này gọi là biền sông Grô-mô-tu-sca. Mặc dù chúng không rộng lắm, bốn phía đều là đồng cỏ trống trải, sáng sủa, đôi chỗ cũng vắng vẻ, hoang dã đến nỗi làm cho các bà ở San-ta-ra đi hái quả dại phải lắm hôm mất vía. Những lúc đó, mặc cho bao nhiêu quả cây vừa hái được rơi vãi hết, mặc cho áo quần móc vào gai rách toạc, họ chạy bán sống bán chết ra đồng cỏ, rồi đứng đó, hai tay ôm lấy ngực mà hớp lấy hớp để cái không khí đăng đắng mùi ngải cứu.
Người ta đồn rằng ở trong các biền sông Grô-mô-tu-sca có rất nhiều điều bí ẩn. Có thể những điều bí ẩn đó chỉ hiện ra trong đầu một bà đi hái quả nào đó khi bà ta len lỏi vào tận biền sâu, mà cũng có thể họ bỗng như nghe vẳng lại một tiếng rú rùng rợn, làm sởn gáy, của con tinh lông lá bù xù, mà theo lời đồn đại, từ xưa tới nay vẫn sống cạnh đầm nước to nhất trên sông Grô-mô-tu-sca - cái đầm nước ấy vì vậy mà có tên là đầm Tinh. Ở San-ta-ra có người còn khẳng định rằng chẳng những họ đã nghe tiếng rú khủng khiếp đó, mà còn được thấy vào lúc tờ mờ sáng và chập choạng tối cái đầm nước khủng khiếp đó như sôi lên, một người to lớn, đen trùi trũi quay tròn trong đầm nước sẫm, đuổi những con sóng nặng chạy ra tứ phía.
Đến cạnh làng, biền sông Grô-mô-tu-sca trở nên thưa hơn. Hoàn diệp liễu và bạch dương đã dừng lại từ xa, hoa kim ngân cũng dần dần rời bỏ con sông. Những dòng sông nhỏ vẫn chảy về phía trước, qua những vườn rau, những đường làng nhỏ hẹp. Và, bây giờ, chỉ còn những hàng liễu trắng đi theo sông, vẫn như xưa, nghiêng mình sát mặt đất cúi chào ân nhân và người chủ của mình.
Ra khỏi làng, Grô-mô-tu-sca chảy xuống một trũng thấp, - ở đây những bãi lác và lau sậy rậm rạp đang đợi nó - rồi lặng lẽ chảy hòa vào con sông rộng đầy nước Grô-mô-tu-kha.
Sông Grô-mô-tu-kha lắm các giống cá, còn ở Grô-mô-tu-sca chỉ có mỗi loại cá bống và một ít cá thy-man sống trong các đầm nước phía trên nguồn. Về mùa đông, con sông Grô-mô-tu-kha hùng dũng bị đóng băng chết cứng lại - có năm, băng dày đến mét rưỡi, - còn Grô-mô-tu-sca nhỏ bé vẫn chưa bao giờ phải khoác một lớp vỏ băng dù chỉ mỏng một phân mét thôi.
Không có một đống tuyết nào có thể làm nghẽn được nó - tuyết sẽ tan ra trong làn nước cạn của Grô-mô-tu-sca, như tan trong nước nóng. Băng giá cũng không thể làm nó đông cứng được. Suốt mùa đông, con sông nhỏ Grô mô-tu-sca cứ bốc hơi ngùn ngụt, những đám hơi nước trắng tụ lại, trôi trên các biền sông Grô-mô-tu-sca như trên các mái nhà tắm hơi, còn cây cối đứng nặng trĩu những cành bao bọc trong một lớp băng dày, mấp mô và trong suốt. Chỉ chạm khẽ một cái, lớp băng phủ sẽ kêu lanh canh vỡ ra thành những mảnh vụn như thủy tinh, và cành cây trơ ra trần trụi. Nhưng chỉ độ ba-bốn giờ sau, nó lại được mang một lớp áo băng còn dày, còn diêm dúa hơn trước.
Đến cả những đợt giá rét hung hãn nhất cũng bó tay không thể làm gì được con sông Grô-mô-tu-sca nhỏ bé. Chỉ có làn sương mù trên sông là dày hơn, nặng hơn và lớp áo băng trên các cành cây thêm sang trọng, rực rỡ hơn mà thôi.
Đi-ma vã nước lên khuôn mặt đầy tàn nhang và lại nhìn qua hàng giậu, hết sang phải rồi sang trái... «Vẫn đang ngủ...»
Vừa lúc đó, cánh cửa nhà Lu-kê-ri-a Ca-sca-rô-va kẹt mở và Ca-sca-rô va - ở làng, mọi người vẫn gọi mụ ta bằng cái tên đó - bước ra, chạy vội đến nhà ngang, nơi dùng để nuôi gia súc.
Phía sau dãy Dve-nhi-gô-ra, mặt trời hình như bắt đầu lên, màn sương mù bao phủ trên làng San-ta-ra đã chuyển sang màu hồng lóng lánh. Chiếc tháp cứu hỏa cũng dần dần hiện ra rõ nét, mắt thường có thể nhìn thấy những mảng sương màu hồng thẫm đang trườn qua những cành dương lớn, liếm ướt từng ngọn lá.
Trong nhà ngang của Ca-sca-rô-va nghe có tiếng gà kêu táo tác, rồi mụ bước ra, một tay cầm con dao làm bếp, tay kia xách con gà mái vừa bị cắt tiết.
- Bà Lu-kê-ri-a ơi, - Đi-ma bước đến bên hàng rào, gọi - Vích-to đang làm gì ở trong ấy? Chúng cháu đã hẹn nhau đi câu cá...
- Cá nào? Câu cá nào? - mụ Ca-sca-rô-va lắp bắp, và như sợ hãi điều gì, kêu lên. - Thằng Vích-to hôm nay không đi đâu! Cái quân lêu lổng này, lạy Chúa, ngài xá tội cho con...
Và mụ biến vào nhà. Đi-ma nghe tiếng cài then cửa lách cách. «Y như chuột ấy, - Đi-ma lẩm bẩm. - Ban ngày mà cũng chốt cửa. Không biết mụ ta đang làm trò gì?»
Những dải nắng màu vàng nhạt giờ đã xé nát màn sương mù, xuyên qua các cành dương, chiếu xuống mặt đất. Chúng rất nhiều, có những dải rộng như tấm phản, lại có những dải bé như sợi tơ, và ở giữa vẫn là những mảng sương mù. Nhìn chúng, Đi-ma có cảm tưởng như những dải nắng đang đung đưa, sờ soạng trên mặt đất.
Một chiếc loa phóng thanh đặt trên bãi đất rộng cách đấy không xa, cạnh ngôi nhà gỗ lớn, nền gạch, dùng làm trụ sở huyện ủy, bắt đầu nói: - Đây là đài phát thanh Mát-xcơ-va, - tiếng phát thanh viên vang lên khắp làng. - Xin chúc các đồng chí và các bạn một buổi sáng tốt lành! Hôm nay là chủ nhật, ngày hai mươi hai tháng Sáu...
«Ở Mát-xcơ-va bây giờ làm gì có buổi sáng?! Ở Mát-xcơ-va bây giờ là ba giờ đêm. Trời chỉ mới bắt đầu hửng», - Đi-ma nghĩ thầm. Từ chiếc loa, tiếng hát vang ngân. Bài hát rất hay, bao giờ Đi-ma cũng thích nghe:
Nắng sớm mai hồng
Nhẹ phơi phới lòng
Chiếu trên tường cổ kính Crem-li...
Đi-ma lắng nghe, và mặc dù ở Mát-xcơ-va xa xôi giờ hãy còn là ban đêm, cậu vẫn tưởng tượng ra cảnh những tia nắng mặt trời đang nhuộm hồng những bức tường đá điện Crem-li mà cậu chỉ mới được thấy trong phim và tranh ảnh.
Xê-mi-ôn, anh cả của Đi-ma, bước ra vườn rau, nheo mắt, nhìn về phía mặt trời và vươn vai, các khớp xương kêu răng rắc. Bỗng nhiên anh cúi lộn người lại, đứng bằng hai tay và đi về phía bờ sông Grô-mô-tu-sca. Lúc qua luống cà-rốt, anh nhẹ nhàng nhún người trên đôi tay, dùng răng nhổ một cây còn nhỏ, màu xanh nhợt, và ngậm trong miệng mang đến bên bờ nước.
Đây chỉ là một tiết mục bình thường của Xê-mi-ôn. Anh tham gia trong nhóm tập võ xam-bô và còn biết nhiều thứ khác. Trong bụng, Đi-ma rất thèm làm được như anh, nhưng cậu tỏ vẻ thờ ơ ngoảnh mặt đi.
Trước khi rửa mặt, Xê-mi-ôn giũ giũ củ cà-rốt trong nước suối và cắn đánh rắc ngay một nửa, nháy mắt nhìn Đi-ma.
- Thế nào?
- Cái gì? Đi bằng tay ấy à? Tưởng giỏi lắm đấy...
- Cái thằng... chỉ phét. Thử xem nào?..
- Việc dễ không! - Đi-ma cáu tiết kêu lên và cố đứng lên bằng hai tay. «Dễ ngã ra sau lưng lắm... - cậu thoáng nghĩ. - Làm nát khoai tây, mẹ lại cho một trận...» Chỉ vừa kịp nghĩ đến đấy, Đi-ma đã nghe tiếng la hét của mẹ ập xuống đầu:
- Mày làm nát hết khoai tây của tao bây giờ, Đi-ma!
Thế là cậu ngã sóng soài ra đất, lưng đè lên luống khoai tây, chân tay duỗi thẳng.
Bà mẹ kêu thét lên, Đi-ma thấy đôi mắt lo lắng của mẹ đang cúi xuống sát mặt mình, liền nhảy vùng dậy.
- Thế nào?! Thế nào? - mẹ giật mạnh tay cậu hai lần. Rồi bà quay sang Xê-mi-ôn. - Mày bày cho thằng bé cái trò gì thế? Nhỡ nó gãy tay sái cổ thì sao hả?
Thấy mẹ vừa ngoảnh đi, Đi-ma liền chạy vội ra khỏi vườn rau. * * *
Bên bàn ăn trong gia đình Xa-vê-li-ép bao giờ cũng im lặng. Chủ nhà Phê-đô Xi-lan-chi-ê-vích Xa-vê-li-ép không ưa vừa ăn vừa nói chuyện. Nhưng hôm nay cái trật tự thiêng liêng đó bị cậu bé mười tuổi An-đrây - thành viên bé nhất của gia đình - phá vỡ. Húp được hai-ba thìa xúp, cậu khịt khịt mũi và nhắc đi nhắc lại mãi một câu:
- Me-ẹ! Cho con đi câu cá với nhé?...
Vợ của Xa-vê-li-ép, An-na Mi-khai-lốp-na, vẫn im lặng, dường như không nghe tiếng van vỉ của cậu con trai út.
- Thôi thì để cho nó đi, không mất đâu mà sợ - cuối cùng Xê-mi-ôn không nhịn được, lên tiếng.
Người bố liền quẳng chiếc thìa xuống, giận dữ lau chòm râu mép đen, ướt đẫm nước xúp mì ống.
- Này, Xê-mi-ôn, tao bảo... Khi bằng tuổi mày, tao đã chỉ huy một phân đội kỵ binh, chém đầu bọn bạch vệ, - và không hiểu sao, ông lại chỉ lên bức tường phía sau lưng, nơi treo bức chân dung phóng to từ một tấm ảnh cũ của bố ông, Xi-lan-chi Xa-vê-li-ép. - Còn mày, tuy đã hai năm đi lái máy kéo, vẫn ham nghịch như lũ trẻ chăn bò ấy.
Xê-mi-ôn ngước nhìn lên bức chân dung người ông. Cha anh rất giống ông nội, cũng vầng trán rộng và cặp lông mày mọc khít vào nhau, cũng bộ ria đen trên cặp môi dày, sống mũi thẳng với hai lỗ mũi rộng, mái tóc đen
"""