" Tập San Sử Địa Tập 5: Đặc Khảo Về Phong Tục Tết Việt Nam và Các Lân Bang - Giáo Sư Sinh Viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn full prc pdf epub azw3 [Biên Khảo] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập San Sử Địa Tập 5: Đặc Khảo Về Phong Tục Tết Việt Nam và Các Lân Bang - Giáo Sư Sinh Viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn full prc pdf epub azw3 [Biên Khảo] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : TẬP SAN SỬ ĐỊA 4 Tác giả : NHÓM GIÁO-SƯ, SINH-VIÊN ĐẠI-HỌC SƯ-PHẠM SÀI-GÒN CHỦ TRƯƠNG Nhà xuất bản : Nhà sách Khai-Trí bảo trợ Năm xuất bản : 1966 -------------------- Nguồn sách : Từ Đức Châu Đánh máy : Tiffany Le Kiểm tra chính tả : thaoxuan304, lththao92, tranthanhvinh123, tolamvienkhoa, thuhien.ng95, bachvan94, dangkimngan28, quekhuong, trai_tim_gia_bang0288, Thư Võ. Biên tập chữ Hán : Đỗ Văn Huy Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 20/12/2017 Ebook được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn NHÓM GIÁO-SƯ, SINH-VIÊN ĐẠI-HỌC SƯ PHẠM SÀI-GÒN và nhà sách KHAI TRÍ đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC LÁ THƯ TÒA SOẠN GỐC TÍCH CÁC CHÚA TRỊNH VÀ MỘT BỨC THƯ NÔM CỦA TRỊNH KIỂM TRUNG-HƯNG THẬT-LỤC TRỊNH GIA THẾ PHẢ DỊCH PHẦN ĐẦU TRỊNH GIA THẾ PHẢ CHỈ-TRUYỀN (nguyên văn, bằng chữ nôm do TRỊNH-KIỂM viết) HAI BỨC THƯ BẰNG CHỮ NÔM VỀ THẾ-KỶ I7 I–BỨC THƯ CỦA KADOYA SICHIROBEI GỬI CHÚA NGUYỄN PHÚC-TRĂN II–BỨC THƯ CỦA TRỊNH CƯƠNG GỬI NGUYỄN-QUÁN-NHO LUẬN VỀ NGUYỄN TRÃI MỘT VỤ ÁN ĐỂ LẠI THƯƠNG CẢM CHO DÂN TỘC NGUYỄN TRÃI VÀ LÊ LỢI TÌNH-CẢNH HƯ NÁT TRONG TRIỀU-ĐÌNH VUA THÁI-TÔNG. VAI TRÒ NGUYỄN TRÃI LU MỜ CHÍNH NGUYỄN TRÃI ĐÃ GIÁN TIẾP GÂY RA VỤ ÁN LỆ-CHI VIÊN VỊ-TRÍ CỦA ĐẠI VIỆT CHIÊM THÀNH PHÙ NAM TRONG LỊCH SỬ VIỆT-NAM I–MỘT VÀI QUAN ĐIỂM : CÂY CÓ CỘI, NƯỚC CÓ NGUỒN II–LẠC VIỆT LÀ CỔ VIỆT III–SỰ HÌNH THÀNH SƠ KHỞI CỦA QUỐC GIA VIỆT NAM IV–HIỆN TƯỢNG GỌI LÀ NAM TIẾN : DÒNG LƯU CHUYỂN NHÂN CHỦNG V–HIỆN TƯỢNG GỌI LÀ NAM TIẾN : DÒNG LƯU CHUYỂN VĂN HÓA VI–GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : LỊCH SỬ VIỆT NAM NHÌN TỪ BÊN TRONG CÁC BỘ PHẬN TẬP THỂ MỘT VÀI CHỦ-TRƯƠNG CỦA TRIỀU ĐÌNH HUẾ TRONG HÒA-ƯỚC QUÍ-MÙI (25-8-I883) I–BẢO VỆ BẰNG BẤT CỨ GIÁ NÀO QUYỀN TỰ CHỦ CỦA TRIỀU ĐÌNH HUẾ Ở TRUNG KỲ ĐỂ TỪ ĐÓ CHỈ ĐẠO MỌI CUỘC KHÁNG CHIẾN TRÊN TOÀN LÃNH THỔ MỘT VÀI ÍCH LỢI CỦA KHOA HẢI-DƯƠNG-HỌC ĐỐI VỚI NGÀNH HÀNG-HẢI VIỆT-NAM THỰC-LỤC CHÍNH BIÊN TÂY THÁI HẬU CHƯƠNG IV. THOÁI CHÍNH TẠI DI-HÒA VIÊN HỘP THƠ SỬ ĐỊA SỬ ĐỊA TẬP-SAN SƯU-TẦM KHẢO-CỨU GIÁO-KHOA BAN CHỦ BIÊN : Nguyễn Thế Anh. Bửu-Cầm. Phan Khoang. Lâm Thanh Liêm. Phạm Văn Sơn. Thái Việt Điểu. Phạm Cao Dương. Phù Lang. Quách Thanh Tâm. Trần Đăng Đại. Phạm Đình Tiếu. Nguyễn Khắc Ngữ. Phạm Long Điền. Trần Anh Tuấn. Nguyễn Thái An. Trần Quốc Giám. Lan Đài. Nguyễn Sao Mai. VỚI SỰ CỘNG-TÁC THƯỜNG XUYÊN CỦA : Hoàng Xuân Hãn. Chen Ching Ho. Thích Thiện Ân. Lê Văn Hảo. Nguyễn Văn Hầu. Tạ Trọng Hiệp. Nguyễn Trần Huân. Phạm Văn Diêu. Bửu Kế. Nguyễn Khắc Kham. Trương Bửu Lâm. Lê Hữu Mục. Nguyễn Phương. Hồ Hữu Tưởng. Lê Thọ Xuân. Ưng Trình. Nghiêm Thẩm. Tô Nam. Bùi Quang Tung. BAN TRỊ-SỰ : Nguyễn Nhã. Nguyễn Nhựt Tấn. Phạm Thị Hồng Liên. Nguyễn Ngọc Trác. Trần Đình Thọ. Nguyễn Hữu Phước. Phạm Thị Kim Cúc. Trần Ngọc Ban. Phạm Văn Quảng. Phạm Đức Liên. TRÌNH BÀY : Kha Thùy Châu, N. N. Tấn THƯ TỪ, BÀI VỞ, NGÂN, CHI-PHIẾU : NGUYỄN NHÃ, 22I, Cộng Hoà, Saigon B. P. : 380 LÁ THƯ TÒA SOẠN Chính vì nhận thấy sự cần thiết của tinh thần khoa học trong ngành Sử Địa cũng như vì thiết tha đến sự góp phần vào công việc xây dựng ngành Sử Địa nước nhà còn quá kém cỏi, nên Tập San Sử Địa cố gắng ra đời. Nhưng hoàn cảnh thực tế đã khiến cho chúng tôi đã có lần phải nói rằng: « Trên bước đường tiến tới một trình độ khảo cứu khoa học chân chính, cũng như đạt tới một quan niệm khảo cứu phù hợp với sự tiến bộ của ngành Sử Địa hiện đại. Với thực lực hiện nay, Tập San nghĩ rằng phải có một cố gắng lớn lao, đòi hỏi một thời gian cũng như những cố gắng của mọi người ». Nếu nhìn với con mắt nghiêm khắc, thì chắc chắn Sử Địa chưa thể xứng đáng cho mọi người trông cậy. Nhưng nếu được hiểu cho những khó khăn, những trở ngại mà Sử Địa gặp phải, cái thực trạng vốn kém cỏi của ngành Sử Địa nước nhà, thì Sử Địa Tập San ít ra cũng được nhìn nhận ở điểm cố gắng, ở nhiệt tâm và thiện chí tiến tới của nó. Số người chuyên môn thật là hiếm, lại ít rảnh rang, số người quan tâm đến Sử Địa lại chẳng được là bao ! Phải đợi một thời gian, chúng tôi hy vọng như vậy, Sử Địa mới đáp ứng sự trông đợi của mọi người. Sự thiếu thốn tài liệu là trở ngại lớn lao cho việc nghiên cứu Sử Địa nước nhà. Phải chăng chính tại người mình kém về óc tồn cổ ? Vì thế, hiện nay Tập San đặt trọng tâm ở việc sưu tầm các sử liệu. Chúng tôi kêu gọi sự tiếp tay nơi quí vị xa gần. Sử Địa sẵn sàng đón nhận và đăng tải những sử liệu hiện đang tản mát khắp nơi như gia phả của các danh gia liên hệ đến lịch sử, các bia, thần tích, thần phổ… tại đất nước này. Vì thế dù là ở nơi xa xôi, mọi người nhất là các nhà giáo có thể dễ dàng tiếp tay với Tập San trong việc sưu tập các sử liệu kể trên để Sử Địa phổ biến, tồn giữ, khỏi bị thất truyền vì thời gian. Tập San Sử Địa cũng chú trọng tới lịch sử thời cận và hiện đại của nước nhà, bởi các sử liệu lịch sử thật là phong phú mà lại dễ tìm ; nhất là gần và có ít nhiều liên quan với thời đại chúng ta, đỡ phải mang tiếng là xa thực tế, bên lề cuộc sống, thích hợp với hoàn cảnh hiện tại của đất nước. TẬP SAN SỬ ĐỊA GỐC TÍCH CÁC CHÚA TRỊNH VÀ MỘT BỨC THƯ NÔM CỦA TRỊNH KIỂM HOÀNG XUÂN-HÃN TRUNG-HƯNG THẬT-LỤC Trong các vị vua chúa sáng-nghiệp trong lịch-sử Việt Nam, Trịnh Kiểm hẳn là người có khoảng đời hàn-vi độc-đáo. Thế mà trong khoảng chừng mười năm, từ địa-vị cố-cùng can-phạm, đã vượt lên đến hàng một đại tướng (được ban tước Dực quận-công năm Kỉ-hợi I539). Rồi sáu năm sau, chiếm hết quyền văn vũ, sau khi kẻ đỡ đầu mình, Nguyễn Kim, đã bị một viên hàng-tướng đầu độc (năm Ất-tị, I545). Biết đâu trong vụ nầy, không có tay ngầm của Trịnh Kiểm. Tuy bất ngờ chỉ lấy danh thái sư LẠNG quốc-công, nhưng kì thật đã nắm hết quyền-bính như một chúa-tể (Sau khi Mạc bỏ Thăng-Long, con là Trịnh TÙNG mới lên tự tôn là chúa vào năm Kỉ-mùi I599). Các sử-gia, khi chép gốc-tích vui chúa, thường tìm kiếm hoặc bịa đặt những điều linh-dị để xác chứng cái thuyết thiên định hoặc đức tin vào sự điềm lành. Nhưng đối với họ Trịnh, họ không giấu cái gốc hàn-vi ti-tiện. Ngay như các sử thần dưới triều Lê Trịnh cũng đã công-nhiên chép sự ấy rõ ràng. Trong triều chúa Tây Trịnh TỘ (I657-I682), các sử-thần dưới sự giám-sát Duệ quận-công HỒ SĨ-DƯƠNG1đã chép trong sách Đại-Việt Lê triều đế vương TRUNG HƯNG công nghiệp thật lục2đoạn dịch sau nầy về Trịnh Kiểm : Vương người huyện Vĩnh-phúc, làng Sáo-sơn (cũng đọc Sóc-sơn). Tằng tổ là Trịnh LIỄU ; nhà nghèo, ham học, tích đức, làm việc nghĩa. Họ hàng khen hiếu, làng xóm khen đễ. Xa gần nghe tiếng, ai là không kính mộ đức của ông. Một hôm trời cho ông được một ông thầy địa giỏi, táng được phúc-địa. Sau đó, ông dời đến ở làng Biện-thượng ; lấy vợ họ Hoàng. Thi đậu tam trường. Được hơn ba năm mới sinh Trịnh LAN. Trịnh Lan làm điều thiện không mỏi, nhân hậu có thừa ; lại lấy vợ họ Hoàng ở làng Biện-thượng, sinh Trịnh LÂU. Trịnh Lâu lại hay mở rộng lòng nhân, chăm làm việc phúc ; lấy vợ ở huyện Yên-định, xã Vệ-quốc, Hồ-thôn, cũng họ Hoàng, sinh Trịnh Kiểm (tức là Thái vương). Vương sinh ra thông-minh, biết rộng, không phải người thường ví kịp. Lúc mới sáu tuổi, cha mất sớm. Cùng mẹ, trở về quê tổ (Sáo-sơn). Đến năm lên chín, chăn trâu ở núi Phượng-sơn. Có khi trộm được gà vịt thì đem đến đó mà ăn ; kết-tập mục-đồng, luyện tập thành cơ ngụ. Người ta lấy làm lạ. Đến năm mười bảy tuổi, hùng-dũng hơn người, trí lược khác thường. Xã nhà sợ sẽ thành kẻ trộm cướp, nhiều lần muốn làm hại để tránh họa đến sau. Bấy giờ ở làng Biện-thượng có tôi nhà Mạc, Ninh-bang hầu, sai chăn ngựa. Được cấp cơm áo, lấy nuôi mẹ Vương hàng ngày tập cưỡi, rất tinh nhận được ngựa hay bèn trộm lấy một con, mà trốn đi tới sách Cổ lũng thuộc huyện Cầm thủy. Ninh-bang hầu đem chuyện mách họ Mạc. Mạc sai binh đi tìm ; nhiều lần không bắt được. Bấy giờ, vương liền theo Hưng quốc công Nguyễn KIM. Công thấy chí khi có đại-lược, trao cho tước Dực-nghĩa hầu, kiêm coi cơ kị mã Cấp cho lương thực, đãi rất hậu. Lại đem con gái trẻ gả cho… Nói tóm lại, khi trẻ, Trịnh Kiểm mồ-côi cha sớm, nhà rất nghèo. Làm nghề chăn trâu. Tính ngang-tàng, ưa trộm cắp. Trong sách Lịch triều Hiến-chương, Phan Huy-chú lại chép rằng : Trịnh Kiềm lúc hàn-vi nghèo túng, thường đi ăn trộm để nuôi mẹ (Nhân vật chí – Bản dịch, Xuất-bản Sử-học, Hà-nội, Tập I, trang I75). Huy-Chú có ý bào chữa cho Trịnh Kiểm để người sau tha thứ cho Trịnh Kiểm cái « thành tích bất hảo » kia. Theo tôi, Trịnh Kiểm ăn trộm, không những chỉ vì nghèo túng. Động-cơ chính là tính bất-kham. Sau khi xét thân thế y, ta sẽ thấy rõ rằng Kiểm thật không chịu ở yên, chịu thế-thường ràng buộc. Vì vậy, y không ngần-ngại làm những việc phi-pháp, tức phi thường. Sự ấy xui ra khi đã có chỗ làm ăn yên ổn với Ninh bang hầu, mà vẫn còn trộm ngựa tốt mà trốn. Chắc không phải vì danh nghĩa phù Lê đâu, như sau sẽ thấy. Chỉ vì tính ngang-tàng, thích phiêu lưu hành động. Lại thêm có óc lãnh tụ, lắm thủ-đoạn « gian-hùng ». Gặp được cơ-hội Nguyễn Kim cần người giúp rập, cuộc khởi nghĩa cần tay táo-bạo, Trịnh Kiểm ra tài hùng-dũng, thỏa chí phiêu-lưu. TRỊNH GIA THẾ PHẢ Tâm-lí ấy, tính-tình ấy của Trịnh Kiểm, ta sẽ thấy rõ hơn sau khi đọc một bản gia-phả họ Trịnh mà nay còn thấy. Bản nầy chép rất rõ-ràng về khoảng đời hàn-vi của Kiểm, nó khẳng-định những lời Trung hưng thật lực đã chép. Hơn nữa, chuyện có chép rất nhiều chi-tiết về bản thân Trịnh Kiểm và về một số người đương thời, làm ta có thể hiểu thấu tâm-lí họ, tập-tục tín-ngưỡng họ một phần nào. Cái quí hơn cả là một bức thư bằng chữ nôm, nguyên lời của Trịnh Kiểm dặn-dò gia-thuộc về mọi việc cải táng một phần của tổ-tiên mình. Tuy trong khi sao chép nhiều lần bởi những người không từng nghĩ tới ngữ-học, nhiều chữ chắc đã bị sửa hay lầm, nhưng một toàn thể gồm hơn năm trăm chữ kia giúp ta biết một phần nào lời nói của Trỉnh Kiểm và rộng ra, việt-ngữ cách nay chừng bốn trăm năm. Sau đây tôi sẽ dịch nguyên-văn đoạn chép về thân-thế Trịnh Kiểm, và tôi sẽ phiên âm và hiệu chú bức thư nôm. Trước đó tôi hãy giới-thiệu qua bản gia-phả ấy. Đó là bản TRỊNH GIA THẾ PHẢ, mà tôi đã được thấy lần đầu ở Thanh-hóa, nhưng không thấy bức thư, và sau thấy bản sao để ở thư-viện Đông-phương Bác-cổ (AI82I) tôi đã nhờ người sao lại3. Trên tờ đầu có chép rõ rằng : Gia-Long nguyên niên Bát nguyệt thập… nhật Bản tộc quyền thủ viên bản chi thân điệt TRỊNH CƠ thừa soạn. 本族權守員本支親姪鄭機承撰 (Năm đầu đời Gia-Long I802 tháng tám, ngày mười… cháu điệt người quyền coi việc thờ tự chi nầy họ ta, là Trịnh cơ, vâng lời soạn). Tóm tắt đại-cương sách, thì phần đầu sách chép về tổ tiên họ Trịnh gần như trong Trung hưng thực lục, rồi đến thân thể Trịnh Kiểm trước khi tòng sự Nguyễn Kim. Phần nầy là phần chính. Phần giữa chép những chi-tiết có tính-cách gia-đình của các vương phi từ Trịnh Kiểm đến Trịnh-Bồng, gồm những thời-điểm sinh, lập, mất, những tên tôn, thụy, và địa-điểm lăng phần. Phụ vào phần giữa, có chép tên và tôn hiệu của các vương-tử. Phần cuối là bảng kê theo thứ tự tháng ngày trong năm những lễ kị và sinh ở « chính cung », nghĩa là của các vương phi, và những lễ thường-xuyên khác. Trước bảng kê nầy, tác-giả có tóm-tắt thế-hệ mình và giải thích có sự kí-tải ấy, bằng những lời (dịch) sau : Trên đây, kể từ Thế-tổ Thái vương (Trịnh Kiểm) sinh hạ các vị vương, công, tổng cọng được chín mươi bảy chi. Ngoài ra còn có những đường-chi (dòng cùng họ nhưng khác gốc)… và họ Trịnh Vĩnh được ban quốc-tính… cọng thành chín mươi chín chi. Trừ một chi kế trưởng, thật còn chín mươi mốt (?) chi. Từ họ nhà phù Lê hoàng đến nay gần ba trăm năm, lâu đời cách diễn, đến năm Bính-ngọ, Cảnh-hưng thứ bốn mươi bảy (I786), ngày tháng sáu, vì quốc-biến (Quân Tây-sơn chiếm Thăng-Long và đóng ở phủ chúa mà chúng đốt trước lúc rút lui về Nam) mà chính-bản thế-phả để trong hòm vàng cất trong phủ chính bị thất lạc. May thay ! Trời giúp nên công. Năm Nhâm-tuất (I802), ngày tháng sáu năm đầu niên-hiệu Gia-Long, đại-giá bắc phạt, lấy lại kinh thành. Đoái nhớ đến họ thông-gia, nhà Vua bèn chiếu đòi (người họ Trịnh) tới, và sức bảo đem thế-phả tiến lên xem. Lại sức biên và báo tên người họ ta, đòi chi trưởng và người các chi ấy thân tới đầu phục, và đem gia-phả chi mình hội trình. Họ ta và viên nọ còn có Thế-gia sự-tích. Từng tờ từng chữ đem trình, chữa lại cho đúng mà soạn thành một tập chuyện xưa, dùng để lại đời sau hưởng lâu dài… Vậy theo lời Trịnh Cơ thuật lại trên, thì nhân khi Gia-Long đem quân đuổi Bảo-hưng, đóng doanh ở Thăng-Long, vua mới ra lệnh cho họ Trịnh trình thế-phả, cho nên mới theo một bản cũ mà soạn bản nầy. Mà quả thật vậy. Theo Đại-nam thật-lục chính biên Đệ nhất kỉ thì tháng sáu năm Nhâm-tuất (I802), Gia-Long tới Thăng-Long. Tháng bảy… Sai chọn người dòng-dõi họ Trịnh để coi việc thờ cúng họ Trịnh. Trước khi đại-giá bắc phạt, người họ Trịnh đều sợ bị giết. Vua hiểu rõ tâm tình, hạ chiếu dụ rằng : « Tiên-thế ta với họ Trịnh vốn có nghĩa thông-gia. Trong khoảng trung-gian, Nam Bắc chia đôi, dần thành ngăn rẽ. Đó là việc đã qua của người trước, không nên nói đến nữa. Ngày nay, Đàng trong Đàng ngoài thành một nhà. Nghĩ lại mối tình thích-thuộc tự bao đời, thương người còn sống, nhớ người đã khuất. Nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy nên ta báo cho hay. Hãy họp lại ; chọn lấy một người tộc-trưởng mà giữ việc thờ cúng, để giữ tình nghĩa đời đời » (Quyển I8. Xem bản dịch của Xuất-bản Sử-học Hà-nội, tập III, trang 48, 49). Đến tháng chín, cấp ruộng thờ (500 mẫu) cho họ Trịnh, sai Trịnh TƯ coi giữ việc thờ cúng. Lại tha binh dao và thân thuế cho 247 người họ Trịnh (Bản trên, trang 75,76). Những sự kể trong chính-sử khiến ta tin lời Trịnh Cơ chép trong lời bạt dẫn trên, và chắc rằng bản Trịnh gia thế phả nầy có căn bản đáng tin cậy. DỊCH PHẦN ĐẦU TRỊNH GIA THẾ PHẢ Sau đây là lời tôi dịch. Nguyên-văn không chia đoạn, không chấm câu. Muốn mạch lạc rõ ràng, tôi sẽ chia đoạn, và thêm tiểu-mục. Thỉnh-thoảng tôi lại chú-thích vắn-tắt bằng câu đặt trong cặp dấu ngoặc đơn. Những chú-thích dài thì sẽ để làm cước-chủ. TRỊNH LIỄU VÀ MỒ PHÁT TÍCH Ở lộ Thanh-hóa4phủ Thiệu-thiện, huyện Vĩnh-phúc, xưa là Vĩnh-ninh, sách Sáo-sơn, Trịnh LIỄU lấy vợ họ Hoàng – khuyết tên –. Cha, tên Trịnh KỈ, mẹ họ Hoàng – khuyết tên –. quê ở sách ấy. Gia-tư nghèo đói. Dời nhà tới chốn Eo Mực ở sách nhà, làm nghề bán nước chè cho khách để kiếm ăn. Một hôm, ông đi cày ở đồng trong núi. Đến chỗ Vực Tôm, gặp một ông già hơn chín mươi tuổi, sắc mặt sáng tươi, thần thể thanh tú. Già ấy hỏi ông nhà (Tr. Liễu) rằng : « Tiên-sinh người đâu, họ gì ? Cày ruộng chăn trâu ở núi mà lại siêng học hành thế nhỉ ! ». Ông nhà đáp : « Tôi quán ở Sáo-sơn. Từ nhỏ mồ-côi, nghèo đói. Vốn thích sách vở ». Trong khi trò chuyện, không dè mặt trời đã gác núi. Ông nhà bèn mời già về nhà nghỉ lại một đêm. Khi tới nhà, thì thấy mấy gian lợp lá, một cái chõng tre. Ông nhà mời già lên giường ngồi, kính cẩn đem mời ăn cơm sơ-sài nhạt-nhẽo. Già khen ông nhà có đức ; bảo ông rằng : « Lão đây vốn sành phong-thủy, thấy trong đất sách nầy, chỗ Nanh Lợn, có một huyệt có khí quí. Táng đó thì bốn đời sau phát vương ». Ông nhà nghe nói liền mừng. Theo lời, đem hài cốt cha mẹ nhờ già lập hướng mà táng. Táng xong bèn về. Đêm ấy trời đất chuyển động, mưa gió nổi to. Già hỏi : « Ông có dám đi thăm huyệt không ? ». Ông nhà đáp : « Có ». Bèn cắp dao đi thẳng đến chỗ ấy. Thấy điềm lạ làm sợ hãi ; bèn trở về. Già hỏi : « Ông có thấy gì không ? ». Ông nhà đáp : « Bốn bề đen tối, trong mộ thì có sáng như có ánh trăng. Xa trông thấy có rồng đen nằm ấp lên trên ». Già nói : « Rồng vàng là đế. Rồng đen là vương. Nhà ông nầy tích lại âm-công ; Trời giáng phúc cho đó ». Ngày hôm sau, ở chỗ mộ còn thấy dấu rồng nằm, làm gãy dẹp cây cỏ chung quanh đến một mẫu. Già bấy giờ thử đòi lễ vật. Ông nhà bán hết cả ruộng vườn mới được bảy mươi ba quan cổ-tiền (một nghìn đồng tiền), soạn-sửa đưa biếu già. Ông nhà lại hỏi : « Âm-địa đã xong ; còn dương-trạch (nhà ở) thì đặt chỗ nào ? ». Già biết lòng ông nhà thành, bèn mách cho một cuộc ở xã Biện thượng, chỗ Ngõ thẳng. Cuộc đất nầy thì phái sau có núi Hoành làm thế Huyền-vũ, phía trươc có núi Viễn-triều làm thế Chu-tước, phía tả có hình cờ lớn, phía hữu có hình gươm dài, trên lưng có hình mệnh-ấn ; chốn ấy có thể dựng nhà ở, tọa Quí, hướng Đinh5. Già lại mách : « Ở núi Hùng lĩnh, chỗ Mã cũ, có thể làm thọ-phần (mộ)». Nói xong, già từ giã lên đường. Ông nhà tiễn đi cùng. Đến chỗ Cổ-dải (hoặc Cổ-đái) thuộc huyện Tống-sơn, thì thình lình mưa gió ào tới, mù xuống mờ-mịt. Lão biến mất, không biết là đi đâu. Bấy giờ mới biết ấy là thần tiên đã hiện ra, đặc-biệt đến dâng phúc. Bởi thế, về sau, cứ chỗ đất nầy lập đền thờ, truy phong tôn hiệu là Tống thiên-vương. Hằng năm có đặt bài-vị thờ ở bên tả sân Phủ (phủ chúa Trịnh ở Thăng Long) mà cáo tế. TỪ TRỊNH LIỄU ĐẾN TRỊNH KIỂM Lại nói nối chuyện Trịnh-LIỄU. Ông cùng anh em gánh tiền (nguyên đã biếu cho già) mà trở về. Theo lời dặn, tới Biện-thượng dựng nhà ở. Sau đó, đi thi hương-tuyển đậu tam trường. Ông tự bỏ nhà ở chỗ Eo mực tại Sóc-sơn mà tới ở Biện-thượng. Chỉ được ba năm (thì mất). Con là Trịnh-LAN 鄭欄, lấy vợ họ Hoàng, người xã Biện thượng. Sau sinh Trịnh-LÂN 鄭橉, là con thứ. Lân lấy vợ họ Hoàng, quán huyện Yên-định, xã Vệ-quốc, Hổ-thôn. Sau, Lân sinh bốn trai. Con thứ ba tức là Trịnh-KIỂM 鄭檢. Còn con đầu, thì là Trịnh-THƯỢC 鄭杓, tức là ông Phúc nguyên, sinh ra Trịnh-QUANG 鄭桄, sau được phong tước Phong quốc-công. Vì gia-trưởng đại-tộc có nhiều công-lao sau con cháu được nối quản-lĩnh đội Phụng Nhất, coi miếu Chính cung (nhà thờ chính họ Trịnh ở trong phủ chúa) và phủ-từ (nhà thờ) Cầu Mộng (một cửa Thăng Long). TRỊNH KIỂM TRỘM TRÂU Lại nói đến chuyện ông nhà Trịnh Kiểm. Lúc vừa lên sáu, cha mất sớm. Ông cùng mẹ lại về tổ-quán ở Sóc-sơn. Đến năm lên tám, chín tuổi, rèo trâu ở núi Phượng ; cùng trẻ chăn trâu chơi đùa, kết thành đội ngụ, luyện tập ở núi như thể binh cơ. Hoặc khi trộm được gà vịt, thì cho mục-đồng ăn uống. Một hôm, ông bảo mục đồng đều sắp xếp đủ các đồ dao giắt lưng, nồi muối, cùng nhau tới phần đất Yên-việt, chỗ Đầu-voi, trộm lấy một con trâu nái. Rồi ở trong núi đốt lửa, làm thịt trâu để khao mục-đồng. Trong làng, có một người đi hái củi về, qua chốn ấy, thấy trong núi có khói lên ; bèn vào xem, thì bất ngờ trông thấy vậy. Các trẻ đều sợ chạy. Chỉ một mình ông Trịnh Kiểm nhà ta ngồi nghiêm chỉnh như thường, sắc mặt không đổi. Người kia hỏi duyên-cố (sự giết trâu). Ông nói : « Con trâu nầy bị gãy chân, cho nên có việc giết trâu ăn thịt nầy ». Người ấy bắt lấy tang vật, giắc ông về đình-trung, họp làng lại (để xử). Có kẻ bảo đem nhận nước giữa sông. Có kẻ nói nên đem kiện để quan ti trừng trị. Trong đó, có một người bảo rằng : « Chuyện nầy không phải là chuyện chim, chuyện muông. Bất quá ta (chỉ) bắt khoán để răn nó ». Các kẻ khác cũng bằng lòng bắt tộc-thuộc và mẹ đẻ, rồi đuổi ông đi ở đất khác. Ông bấy giờ I6 tuổi (năm I5I8). Từ đó phiêu-cư ở làng Bồ-xuyên6tại huyện Yên-mô (thuộc Ninh-bình ngày nay) ; ở trọ được kẻ nhà giàu Đến năm hăm bốn tuổi (I526) thì cưới vợ – có kẻ nói là họ Trần, tên Ngọc Lĩnh7– rồi lưu ở đó. Sau không biết tăm-tích bà ra sao. Nay tạm giữ tên lại để làm ghi. TRỘM NGỰA NINH-BANG HẦU Trong khoảng niên-hiệu Thống-nguyên (em Lê Chiêu tông, do Mạc Đăng-Dung đặt lên thay anh đã bỏ Kinh-thành trốn Mạc) năm Đinh-hợi (I527), họ Mạc đã tiếm ngôi Lê. Bấy giờ Lê có bầy-tôi tên NGUYỄN KIM, quê ở huyện Tống-sơn, trang Gia-miêu-ngoại, ngầm rút về sách Cổ-lũng huyện Cẩm thủy, mộ quân đánh Mạc. Tướng-quân nhà Mạc là NINH-BANG HẦU, họ Lê, quán xã Biện-thượng tiến phát quân về đóng ở phần đất huyện Vĩnh ninh. Mẹ già (Trịnh Kiểm), là bà họ Hoàng, thân tới xin đem con đến làm gia-thần, để ứng việc quân, may chi lập chút công danh. Ninh-bang hầu mừng, nạp nhận. Trước hết, ông Trịnh Kiểm nhà thưa với mẹ già xin đi tới nhà họ Trần ở Bồ-xuyên đem vợ con về. Ninh-bang hầu có trại ruộng vừa mua được ở sách Thọ liêu ; cho ông ở đó cày và chăn. Ông nuôi trâu ngựa. Hằng ngày tập cưỡi ngựa. Ông rất tinh về ngựa hay. Nhân đó, trộm lấy ngựa hay mà trốn sang huyện Cẩm-thủy. Ấy vì ông có người anh họ, trên Trịnh Quang – tức là Phong quốc-công (Theo đoạn trên thì Quang là con anh cả của Kiểm) – trước đó đã theo Nguyễn Kim ở sách Cổ-lũng và đã đón mẹ ông (Tr. Kiểm) để cấp cơm áo. Ninh bang hầu được tin ông đã trộm ngựa tốt của mình mà bỏ trốn ; bèn mách với Mạc. Mạc sai đuổi bắt. Ông trốn tại xã Yên-định ở nhà tên Nữu. MẸ GIÀ BỊ GIẤN NƯỚC Trước đó, người ở trai tới trình với Ninh-bang hầu rằng ông lấy trộm ngựa hay và bỏ đi đã nhiều ngày không thấy trở về. Ninh-bang hầu tìm bắt mẹ già ông. Mẹ già trả lời : « Sinh con ai nỡ sinh lòng ! ». Ninh-bang hầu dụ rằng : « Phải ! Hãy thả cho về tìm Trịnh Kiểm và đem ngựa đực trả lại. Như thế, mầy sẽ được thưởng. Nếu không thì sẽ đuổi tìm bắt không tha ! ». Bà khéo lời vâng mệnh mà về. Tìm được người có nghĩa cũ, nhờ bắn tin cho ông và bảo : « Quả thật, ta đã tìm được kế thoát vẹn toàn. Đừng lo đến mẹ già nữa ; hoặc có thể trở ngại công việc đó ». Ông được tin ấy. Đêm, ngầm về nhà người cậu ở Hổ-thôn (quê mẹ – xem trên), ý muốn đem trẻ già (vợ con và mẹ) cùng đi tránh họa. Kịp đến khi nghe tin ông đã về, mẹ liền gấp tới nhà người cậu. Bấy giờ, có kẻ khác ngầm mách Ninh-bang hầu. Hầu liền mật sai hai xã Sóc-sơn, Biện-thượng đem trai áp đến rình bắt. Khi ấy xã-trưởng xã Biện-thượng, là người trong họ, tới nhà ông Lang. Thấy mẹ con ông ở hiên sau đang bắt rận, lập-tức lấy hòn đất ném vào Ông ngoái cổ (nhìn), thì thấy ông Lang nhiều lần nháy mắt làm hiệu. Ông hiểu rằng có điều gì khác ý, liền chui qua mấy từng rào mà chạy trốn đến nhà tên Nhà Hữu8ở xã Yên-định. Người nầy rất có lòng lành, muốn làm kế cho ông thoát nạn. Y bèn mở kho thóc, bới thóc lên, (rồi) lấy cái bồ nan nhỏ, giấu ông ở trong ; bên trên lấy lúa che kín. Lúc ấy, người hai xã lùng tìm trong nhà ngoài vườn, đâu cũng không thấy tung-tích. Chúng bắt được mẹ già, điệu về giam lại. Bấy giờ, có kẻ quen ông trước, gốc Chiêm-Thành9, ở Biện-thượng, tên là Vũ Thì-An, vợ là Phan Thị-Man sinh được hai trai : Vũ Đình-Tung và Vũ Thì-Lương. Người ấy động lòng vì tình bạn cũ, tìm tới xã Yên-định. Đầu tiên, ông hơi nghi, nên lánh mặt. Vũ Thì-An chỉ trời, thề rằng : « Nếu tôi ở hai lòng thì Trời sẽ giết ». Nghe tiếng nói, ông mới nhận đó là bạn cũ ; bèn dám ra mặt để trò chuyện. Cha con Thì-An xin cùng ông đồng tâm kiệt lực. Đêm ấy, ba cha con y đưa ông đến sách Cổ lũng. Khi y trở về thì thấy Ninh-bang hầu đã sai xã Sóc-sơn đan lồng tre nhốt mẹ già ông, rồi bỏ tảng đá lớn vào trong mà ném xuống bến sông ở chỗ Tiền-đình. BẠN GIÚP TÁNG MẸ Thì-An tức-thì sai Đình-Tung đang đêm đi sách Cổ-lũng, vượt một mạch tới báo cho ông (biết) ngày ấy, ngày ấy, có chuyện thế nầy, thế nầy… Nghe xong câu chuyện, ông khóc xót không dừng ; than rằng : « Việc đã dường nầy, trả lời làm sao ? Người làng ta sao mà nhẫn tâm phụ bạc với ta như vậy. Ngày sau, nếu ta thành nghiệp lớn, thề sẽ không về làng cũ nữa10». Ông quay lại dặn Đình-Tung rằng : « Ta cùng cha con mầy, đã như gan với mật, đối nhau như thế, thì ta không nên nói nhiều lời. Ông ta tức là ông mầy (thành-ngữ, lời Lưu Bang, Hán Cao-tổ). Nhờ dùng đủ mọi cách mà tìm xác mẹ già ta. Cốt làm sao chôn giấu chỗ kín cho được. Ngày sau, Trời sẽ giúp ta thành công ; thì công mầy chẳng nhỏ. Mầy muốn gì tha hồ, ta sẽ cho ». Đình-Tung trở về đến nhà, mách chuyện lại với cha Thì An bèn thuê người xã Yên-lão giả đi dọc sông thăm dò, thì quả thấy thây nổi lên ở bến sông Biện-thượng, chỗ Quai-vạc. Bấy giờ, có người đánh cá quán ở Đông-biện, tên là An Dũng sáng sớm ra ngoài (sông), thấy thây nổi gần chỗ ấy. Nó về báo người làng ; toan sửa-soạn cuốc xuổng đi ra chôn. Khi ra đến chỗ ấy thì vừa đúng giờ Ngọ. Thình-lình thấy mối đùn lấp kín, đã thành mồ. Người ta đều cho đó là một sự lạ xưa nay (hiếm có). Há chẳng phải Trời xui ra sao ! Tiếng đồn rậy gần xa. Thì-An lại sai hai con đến xã Cổ-lũng, đem việc ấy mật báo với ông. Ông nói : « Tuy đó là điềm lạ tốt, nhưng nếu cứ để (mồ) yên ở chỗ ấy, thì ắt chúng (Mạc) sẽ biết ; sợ có sự đáng lo sau. Không bằng hãy trở về chóng mà ngầm lấy xác, đưa đến chỗ vắng, chôn giấu cho kín ». Rồi thì, bọn Đình-Tung trở về. Đêm ấy, lúc người ta ngủ say rồi, chúng bèn chỉnh-bị đòn thừng và chiếu mới, ngầm lấy xác mẹ già (Trịnh Kiểm), bọc kín cẩn-thận. Các con hỏi đem đi đâu. Thì-An bảo : « Điềm tốt rất lạ ; (như thế), thì động đến ắt người ta sẽ biết. Ta muốn tìm chỗ nào gần. Sợ ngày mai có kẻ thấy đã dời, thì sự-cơ bị lộ, và lời ủy thác sẽ không thể mong thành được. Thà rằng chịu khó nhọc một chốc, may khỏi sự lo gấp tới. Bất quá ta sẽ theo đường núi Đường Cán mà đi là phải đó ». Bọn cha con Thì-An gánh gồng đi đến chân núi. Phải chăng Trời đem tốt đến, chứng tỏ lòng thành. Chợt gặp hổ đứng giữa đường. Chúng kinh ngạc, sợ run ; bèn chạy băng ruộng khô, thẳng tới xứ Đồng Rạng, tức là ở đầu phần đất thôn Yên-việt. Thình lình nghe như có một tiếng súng nổ, Một khối tròn sáng từ đất bay lên trời. Chỗ ấy sáng như có bóng trăng mờ. Thì-An nhằm chỗ đất ấy mà táng. Xong xuôi rồi bèn về. Thì-An lại sai hai con trai đi tới Cổ lũng mách ông rành rành mọi việc. Ông bảo Đình-Tung rằng : « Nay ta rất rõ rằng cha con mầy quả thật có tình cố-cựu. Ta cảm bội khôn xiết. Các phần mộ (họ ta) ở quên nhà, thì đều ủy thác cho mầy hết thảy ». Bọn Đình-Tung kính-cẩn chịu lời mà về. THEO NGUYỄN KIM LẬP ĐƯỢC CÔNG DANH Đường-huynh (anh về họ mẹ) Thì-An là Phong-lộc hầu Trịnh Cơ đưa ông sang theo Hưng quốc-công Nguyễn KIM, gửi thân theo giúp việc. Một tối, ông nằm hóng gió mát. Đêm im lặng. Ông đánh một giấc trên chõng tre. Nguyễn Kim không ngủ ; rảo bước dạo chơi đêm, ngầm thăm trong doanh. Công (Nguyễn Kim) ngóng thấy trong tàu ngựa có ánh sáng hồng, bèn đè chừng đến chỗ ấy xem. Đến nơi thì thấy ông nhà đang ngủ say ; trên mặt có ánh sáng như có đuốc soi. Công bèn nghĩ đoán rằng đó là tượng đế vương. Hôm sau, Công triệu ông nhà tới, cho quản đội ngựa. Từ đó, Nguyễn Công thấy ông có anh khí, bèn cấp cho binh mã. Ông luyện-tập binh cơ, rồi đem quân đóng đồn lũy ở sách Vạn-lại. Kéo quân đánh Mạc, một trận đã thắng to. Nguyễn Công đem con gái, tên là Nguyễn Ngọc-Bảo6, gả cho ông, và giao cho ông các việc quan-trọng của vua và nước. Mỗi lúc ông đem quân đánh Mạc, thì không bận nào là không thắng. Tiếng ông nổi rậy bốn phương gần xa hưởng ứng. Hào kiệt qui phụ. Từ đó, nhà Lê cố thủ đất Thanh-hoa, cùng Mạc cự chiến ; nhuệ-khí càng mạnh…11 Ông tới huyện Phụng-hóa (Vùng Nho-quan ngày nay), giết đồ-đảng Côn-mang (Mường Côn ?) không sót đứa nào. Nguyễn Công lại sai ông nhà qua nước Ai-lao đón vua Nguyên-hòa (Lê Trang-Tông). Vua thấy ông trạng mạo phi thường, ủy cho tiết-chế, ban cho tước Quận-công. Bấy giờ ông 37 tuổi (Đại Việt Sử-kí toàn thư chép năm Nguyên-hòa thứ bảy – Kỉ hợi I539 – vua phong đại tướng quân Trịnh Kiểm là Dực quận-công) Ông trở về làng cũ mở tiệc đặt yến, bái tạ lăng mộ. Bấy giờ thái-úy Dương quốc-công (?) có ruộng ; ao, nhà, đất, mới mua ở xã Yên-hoằng, đem dâng. Ông mới dựng doanh, nhà ở ; trử dưỡng cung nữ, làm hành tại để khi qua lại trú nghỉ. TU CHỈNH MỘ PHẦN Phàm mỗi khi đến ngày lễ bái ở lăng, từ, hoặc đến tiết lễ khác, thảy thảy ông trở về doanh nầy, phát cỗ bàn, thết sĩ tốt. Sau lại lập các phủ-từ ở Sóc-sơn, Biện-thượng, Vệ-quốc. Lại đặt ngự-phủ ở các xã Yên-định, Yên-hoằng để làm nơi phụng sự gốc nhà. Bấy giờ có thầy tướng địa giỏi người nước ta. Ông nhờ thầy đặt sửa lại các phần mộ từ năm đời ở chỗ Mã-cũ. Lại nhờ xét lại mộ mẹ già – tức là Tuấn-đứa phu-nhân – ở xứ Đồng Ráng tại thôn Yên-việt ; thì (thấy) quả là đã được huyết-mạch của một cuộc đất lớn. Bèn tu-chỉnh để y nhiên. (Về việc nầy) còn đủ bài chỉ truyền do long-bút (bút của đức Thái-vương Trịnh Kiểm) thảo, sẽ chép phụ sau. CHỈ TRUYỀN (Nguyên-văn bằng chữ nôm. Xem bản sao ở phụ-trương) Chỉ truyền Thám-nhọ cùng Nhân-lộc, Thuần-tín đẳng : Việc tớ đã chất (a) cùng Trời Đất, cùng Tổ Tiên, đã tốt lành mọi lẽ. Việc tớ nhậm hành cho chúng ngươi về đấy tớ được cậy. Ngươi thế làm cho tận trung nghĩa, làm sao cho nhà tớ dõi truyền hưởng phúc muôn đời. Đã mượn cẩn-thận nhậm sự ; đã suất định nơi mả, bi giới phụ Tổ (b). Dùng (c) xây mả Tổ một bên, mà dùng về bên tả. Mà điểm huyệt thì (d) đặt la-kinh (e) cho chính phương hướng. Xem định ban ngày ; dựng dấu cho minh. Ngươi cho cẩn mật. Chờ đến giờ Hợi ; khi đến thì làm việc tớ mượn. Ngươi đã biết việc. Dù Thầy (h) cũng vậy, dù kẻ Báo (i), Kẻ Sóc cũng vậy, đến đấy đêm hôm, chớ cho biết là đâu ; mới yên lòng tớ. Tớ đã tin dùng. Ngươi phải vâng lời cẩn-thận cho lắm, để tớ được cậy. Việc là can-hệ, chẳng phải chơi đâu. Mà ngươi khi cải hành, phải cắt kẻ nhậm sự cho nên lên đường Long-tụ hội (k) mà cải. Mà ngươi dùng cùng quản phủ nhà ngươi (l) đi cùng. CHỈ-TRUYỀN (nguyên văn, bằng chữ nôm do TRỊNH-KIỂM viết) Bản sao của Hoàng Xuân-Hãn Chính việc thì mượn ngươi cứ giờ Hợi. Mà ngươi xem đồng-hồ (m) cho chính giờ. Mà ngươi mật hành cẩn-thận cho nên việc sẽ ra. Đường thì xa ; tớ đã tin dùng ; ngươi nghĩ thế nào cho cẩn-thận, chẳng phải gần mà truyền lời đi lại. Sự thì mặc (n) ngươi liệu dùng mọi lẽ cho trọn vẹn tốt lành, cho tớ cậy. Nhược bằng khai thấn thế quan, thì được giờ dần ngày hai chín (o). An táng thì sẽ đợi (giờ) Hợi (p). Đường thì xa ; Mặc (n) ngươi liệu cho kịp giờ mới nên việc. Mọi việc chính hành, ngươi giữ làm sao cho ai đấy, cùng thầy (h), mữa (q) cho ai biết. Chớ cho tường sự li thì mới yên lòng tớ. Kim ngân lễ vật, tớ nhậm hành cho. Mà ngươi phải nghĩ dù tế cáo việc chi, thì làm gia hậu cho trọng hậu. Mà ngươi trai-giới cho kính cho tin (r). Việc chính, dùng thì dùng cái gỗ vàng-tâm (s). Ấy cái trạng cải táng, vậy (t) tớ đã yên lòng nhậm sự cậy dùng. Dù làm việc, trước sau, ngươi phải nghĩ tiết thứ mà dụng hành. Những việc dùng thế nào, hoặc là mộng hiện, hoặc là tường thụy thấy những điều chi ; hoặc khi thế quan tài, hình hài đã tiêu hóa thể nào ; cho hết mọi lẽ (u), thì mặc (n) người dụng hành (c) mà biên mộ tờ trần sự thật cho hết tình-tệ trước sau mọi lời tường tận minh bạch. Rồi (x) việc thì cho ra kíp ; cho tớ được biết, cho yên lòng tớ. Mà ngươi biệt (y) tạm ở lại xem làm ba giá ngựa (z), cho yên mọi lẽ. Ngoài năm mười ngày, cho biến hóa vẹn vẽ. Thế nào hãy có tin ra cho (yên) (v) lòng tớ dạy. Thế nào thì ngươi sẽ ra chầu. Ngươi xem cẩn thận cho (yên) lòng tớ, cho tớ cậy. Với như : đất cải về đất (w) thì lại hoàn đấy. Tự truyền (g). VÀI NHẬN XÉT ĐỐI VỚI CHỈ TRUYỀN Đạc-điểm của bài chỉ truyền không những là lời bằng quốc-âm,12vì trái với điều nhiều người tưởng, trong thời Hán-học, quốc-âm hay được dùng trong thực-tiễn. Nhất là trong thời loạn, những kẻ chức-trách phần lớn không phải nho-gia, không phải văn-nhân. Sự lạ hơn là bài ấy đã tồn tại đến ngày nay, tuy nó không có tính-cách văn-chương một chút nào, mà cũng không có tính-cách long-trọng như những lời thề của Lê Lơi mà tôi đã trình. Nó chỉ có tính-cách gia-đình, khiến ta không có lí-do gì nghi ngờ nó không xác-thật. Nhưng bị sao đi sao lại, chắc có nhiều chữ sai, có chữ sót. Tôi đã nhận được một số sai sót mà tôi sẽ nêu sâu. Vả chăng, văn ta đời trước không hề chấm câu. Sự ấy khiến thêm hồ-đồ những câu đặt đã không gãy gọn. Sau đây tôi hiệu chú một vài điểm. Chỉ truyền là lời vua chúa ban xuống ngỏ một ý gì. Đây Trịnh Kiểm gửi chỉ cho ba người thân-tín mà y đã sai về quê lo việc cải táng tổ tiên. Không biết rõ ba người ấy, Thám-thọ, Nhân-lộc và Thuần-tín là ai. Chắc đó là ba hiệu tước mà thôi. Phải chăng đó là ba cha con Vũ Thì-An (xem trên) ? (a) Chất : nguyên viết chữ Chất, cũng đọc chí. Đọc theo tiếng chữ hay tiếng nôm cũng không thấy rõ nghĩa lắm. Hoặc là lấy nghĩa minh ước, thề hẹn và tiếng ấy xưa hay dùng. (b) Câu nầy khó chấm, khó phân tích. Tôi nghi có chữ sót và chữ sai. Nghĩa có lẽ là : đã định chia phần đất chỗ xây mộ, chỗ dựng bia. (c) Dùng : nghĩa xưa là làm. Cũng nói dụng hành. (d) Trong bản sao, chữ Thì có chỗ viết tránh húy vua Tự Đức, nhưng có chỗ không. Vả chữ Nhậm cũng húy vua Tự Đức thì không hề tránh. Thế chứng rằng kẻ cuối sao bài nầy viết sau đời Tự-Đức nhưng theo một bản cũ hơn. (e) La-kinh : địa bàn dùng để nhắm hướng. Cũng nói la bàn. (g) Dự : dự bị ghi lại. (h) : Thầy : Nguyên ở chỗ nầy viết chữ Tử là tía ; trong khoảng : dưới có viết chữ Thất kép. Chắc cả hai nơi đều chữ Sài đọc thầy 柴. Trỏ thầy địa. Vả trong Gia-phả, có nói đến thầy tướng địa người Việt được Trịnh Kiểm mời cải táng tổ tiên. (i) Nguyên viết « dù kẻ báo kẻ Sóc cũng vậy ». Không rõ nên chấm câu ra sao. Không lẽ bấy giờ Trịnh Kiểm còn sợ có kẻ mách chuyện với xã Sóc-sơn. Vậy tôi hiểu Kẻ Báo trỏ một làng nào đó cũng như Kẻ Sóc trỏ Sóc-sơn. (k) Câu nầy chấm khó. Phải đọc tụ-hội liền nhau chăng ? Long hoặc Long-tụ là đất nào ? (l) Quản phủ nhà ngươi : trỏ người coi phủ nào ? (m) Xưa dùng bình đồng đựng nước, có lỗ ở đáy cho nước chảy từng dọt để tính giờ. Vì vậy dụng-cụ đo thời-gian gọi là đồng-hồ. (n) Ở ba nơi, bản sao chép chữ Điểm, ý không hợp với câu. Chắc là chữ Mặc ; lầm vì tự-dạng. (o) Không rõ rằng xưa nói hai chín hay là đã sao sót chữ mươi. Khai thấn thế quan : mở quan tài lấy hài cốt rồi thay quan. (p) Nguyên không thấy chép chữ giờ. Những chữ tôi tin rằng : đã bị sót đều để trong dấu ngoặc đơn. (q) Mữa : tiếng cổ nghĩa là chớ. Nay cũng còn dùng ở nhiều địa-phương. (r) Tin : nghĩa là thành tín, kính tín. (s) Theo câu nầy, ta hiểu rằng Trịnh Kiểm dùng hai tiếng việc-chính để trỏ sự thu-thập hài cốt để nhập quan. Hình như đó là lối nói kiêng một cách kính-trọng. Gỗ vàng-tâm là một thứ gỗ mầu hơi vàng, khá nhẹ, nhưng không dễ mục. (t) Tôi để dấu phẩy trên tiếng Vậy, vì xét ngôn-ngữ xưa, nhất là trong bức chỉ truyền nầy, tôi nhận thấy những câu nói thường bắt đầu bằng giới-từ, nó biểu-diễn sự liên-tục trong ý-chí. (u) Lẽ : nghĩa là điều. (v) Ở hai nơi, nguyên viết cho lòng tớ. Tôi tin đã sót chữ yên, vì có chỗ khác trong bài dùng cho yên lòng tớ. (w) Câu nầy tôi không rõ nghĩa. Hoặc có chữ sai sót chăng ? Hoặc phải hiểu như sau : còn như đất đào lên khi cải táng, thì hãy hoàn lại trong huyệt cũ. Như vậy thì phải đặt dấu phết sau tiếng cải. (x) Nguyên viết chữ Lai. Chắc đó là chữ Lỗi 耒 tự-dạng rất gần, và phải đọc rồi. (y) Biệt : nghĩa là riêng. Ý chừng muốn bảo hãy cho kẻ khác về báo trước, còn ngươi thì riêng tạm ở lại. (z) Ba giá ngựa : trỏ đồ mã thay ba cỗ xe có ngựa kéo. Tiếng biến hóa dùng ở sau trỏ sự đốt mã. (g) Tư truyền : nghĩa là nay truyền cho. Công-thức cuối tờ truyền. Đại-ý lời truyền là khiến người thân-tín về quê cải táng mộ tổ (một hay nhiều mộ ?). Việc chọn đất đặt hướng thì có một thầy phong-thủy làm, việc ngoài thì có người giúp. Nhưng sự quan-trọng là không cho ai, kể cả thầy địa, biết chỗ cải táng là đâu. Mà táng thì táng đêm, giờ Hợi (từ 9 đến II giờ đêm) để khỏi người ngoài biết việc và biết chỗ. Lại dặn kĩ-càng ngày giờ thay quan tài, ngày hăm chín giờ Dần (từ 3 đến 5 giờ sáng) ; dặn làm các lễ cho long-trọng, dặn biên chép những mộng triệu, những điều trông thấy khi mở quan và dặn đốt mã trước khi về. Đọc thư, ta thấy rằng Trịnh Kiểm, cũng như mọi người trong thời xưa, rất tin thuật phong-thủy, tin sự đặt mồ mã tổ tiên rất có ảnh-hưởng đến sự nghiệp của con cháu. Đọc các chuyện xưa, như trong sách Công-dư tiệp-ký thì đủ thấy. Theo khoa-học ngày nay thì đó chỉ là dị-đoan. Nhưng đứng về phương-diện tâm-lí thì chính đức tin vào phong-thủy khiến nên thuật ấy rất có ảnh-hưởng về sự hành-động, vậy về sự nghiệp, của con người xưa. Những điềm lạ, những hiện-tượng bất thường kể trong gia-phả chưa hẵn là đã được bịa ra. Đó có thể chỉ là những hiện-tượng thiên-nhiên, có duyên-do lý học ; nhưng với tâm-thần tin điềm thụy thì con mắt thấy ra một cách dị-thường. Trịnh Kiểm mồ côi từ khi sáu tuổi, chắc bị thất học hoàn toàn. Đọc tờ truyền nầy ta không hề thấy vết nho-học chút nào. Còn như trong Thế-phả chép câu trả lời của Trịnh Kiểm « ngã ông tức nhược ông » (lời Lưu Bang Hán Cao-tổ, chép trong Sử-kí), thì đó chẳng qua là con cháu đời sau dẫn lời sách để dịch một ý thường của y mà thôi. Trái lại, lời thư Trịnh Kiểm rất hồn nhiên, như lời nói chuyện thường, nghĩa là không văn-hoa, không dàn-xếp. Ý lặp, ý dứt rồi lại nối, ý ngầm rồi bỏ lững. Lại hay dùng hư-từ, giới-từ làm câu nói có hình-thức liên-tục mà lời thành dây dưa. Bởi những điềm ấy, ta có đây một phản-ảnh của ngôn từ thường-dân đời xưa khá chắc-chắn. SỰ NGHIỆP TRỊNH KIỂM Tóm tắt sự nghiệp Trịnh Kiểm, theo Trịnh-gia thế-phả, Trung-hưng thật-lục, Đại-Việt toàn-thư và Đại-Nam thật-lục, thì ta nhận thấy như sau. Quả thật Trịnh Kiểm xuất thân cố-cùng. Tuy tằng-tổ Liễu có nho-học, đời ông không có nhịp học-hành. Sinh vào năm Quí-hợi đời Lê Hiến-tông (I503), lúc sáu tuổi đã mồ côi cha, phải đi chăn trâu. Năm mười sáu tuổi (I518) phải phiêu cư ở huyện Yên-mô vì phạm tội trộm trâu. Vào khoảng hăm lăm ba mươi tuổi (I527-I529), trở về huyện nhà coi chăn ngựa cho tướng Mạc, Ninh-bang hầu. Lại trộm ngựa của chủ mà sang trốn ở doanh Nguyễn Kim. Được Nguyễn Kim cất nhắc, Kiểm theo đánh Mạc, được ban tước Dực-nghĩa hầu (Tr. H), cưới con gái Nguyễn Kim (I533) rồi ban tước Dực quận-công (I539 – 37 tuổi). Sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc chết (Ất tị I545), Kiểm thay Kim cầm tất cả quyền-bính (43 tuổi) : được trao chức đô tướng, tiết-chế tất cả các doanh thủy bộ, kiêm coi tất cả các việc quân, việc trong triều ngoài quận, tước Thái-sư, Lạng quốc-công, được tiện nghi ban chức tước rồi tâu sau (T. Th. Quyển I6/7b). Lại « nghĩ rằng gốc lập nước cốt là được địa hình tốt, bèn chọn thắng-địa ở sách Vạn-lại mà lập hành-điện cho vua ở » (Tr. H. quyển L/6a). Ấy năm Bính-ngọ (I546 – T.Th. I6/8a). Trước đó chắc hành-tại ở Tây-đô (T.Th. I6/3a). Rồi Kiểm củng-cố địa-phương, thu phục nhân-tâm. Lê Trang-tông mất (Mậu thân I548), con mới tám tuổi được lập, tức là Trung-tông. Tự-nhiên quyền-hành hoàn-toàn vào tay Trịnh Kiểm. Năm Canh-tuất (I550), các đại-thần Mạc, Lê Bá Lân, Nguyễn Thuyến, các kiện-tướng như Nguyễn Quyện (con Thuyến) về theo Lê. Thế-lực Lê bành trướng. Kiểm đưa quân ra gần đến Thăng-long (I55I). Mở chế khoa ở Thanh-hoa để chọn văn-thần (I554). Kiểm đóng doanh ở làng mình : Biện-thượng (I554). Đánh lui đại-quân Mạc sai vào chiếm lại Thanh-hoa (I555). Năm Bính-thìn (I556), Trung-tông mất, không con. Trịnh Kiểm muốn chiếm ngôi vua, nhưng chắc sợ lòng dân không thuận trong khi thế-lực mình còn yếu. Vì vậy sai Phùng Khắc Khoan hỏi ý Nguyễn Bỉnh-Khiêm. Ông không đáp, chỉnh ngoảnh bảo người nhà rằng : « Năm nay mất mùa, vì lúa giống không tốt. Chúng bay nên tìm lúa cũ mà gieo ». Lại bảo ra chùa, khiến kẻ coi chùa quét giọn và đốt hương. Ngoài ra không bảo gì nữa. Ý chừng bảo ý ngầm thờ Bụt để ăn oản. (Công-dư tiệp-kí, chuyện Bạch-vân am cư sĩ) Khắc-Khoan về gấp cáo lại. Thế-tổ, Trịnh Kiểm, tỉnh-ngộ, bèn lập Anh-tông. Năm Đinh-tị (I557) Kiểm đại bại một lần nữa quân Mạc ở vùng Tống-sơn, nhưng khi kéo quân ra vùng Sơn-nam thì bị Nguyễn Quyện, bấy-giờ đã trở về theo Mạc (bị trúng kế của Nguyễn Bỉnh-Khiêm), đánh tan. Năm Mậu-ngọ (I558), sự nghi-kị đối với con cái Nguyễn Kim càng tăng. Con đầu Nguyễn Kim, là Nguyễn Uông, đã bị hại. Nguyễn Hoàng, theo chỉ-giáo Nguyễn Bỉnh-Khiêm và nhờ chị ruột Ngọc-Bảo là vợ Trịnh-Kiểm, được sai vào trấn Thuận hóa. Trịnh Kiểm bắt đầu chiến-sách đánh vòng lên phía tây bắc và đông bắc Thăng-long (I559, I560), nhưng danh-tướng Mạc là một thân-vương Mạc Kính-Điểm đem thủy-quân đánh úp vào Thanh-hoa, bắt buộc Kiểm phải rút quân trở về Tây đô. Năm Kỉ-tị (I559), Kiểm được phong thượng-tướng Thái quốc-công, lại tôn là Thượng-phụ. Nguyễn Hoàng từ Thuận hóa ra yết. Nhưng Kiểm bị ốm. Biết mình bệnh nặng, Kiểm tự giao binh-quyền cho con đầu là Trịnh Cối, đẩy Nguyễn Hoàng trở về Thuận-hóa. Rồi ngày I8 tháng hai năm Canh-ngọ (I570), bèn mất, thọ 68 tuổi. Được tôn tước Minh-khang Thái-vương, và thụy Trung-huân (T. Th. I6/26b). Táng ở làng Biện-thượng, chỗ Đường-cán ở núi Hùng-lĩnh. Xét lại, ta thấy Trịnh Kiểm chưa từng được phong vương hoặc nói cho đúng hơn thì không từng tự xưng vương. Nhưng từ năm Ất-tị (I545), sau khi nối nhạc-phụ giữ chức thái-sư, thì đã tự coi mình ở địa-vị vương. Bức chỉ truyền kia có lẽ viết vào năm ấy. Trong Thế-phả, liền sau bài ấy, có chép năm Ất tị (I545) chép lầm ra Kỉ-tị, vì tự-dạng), bấy giờ ông bốn mươi ba tuổi. Ý chừng đó là năm sai cải-táng phần-mộ tổ tiên. Hai tiếng chỉ truyền tỏ rõ rằng Trịnh Kiểm đã coi mình là bực vương-giả thật. Ngày nay, tất-nhiên ta không tin rằng nhờ mộ tổ mà họ Trịnh làm chúa tể trên bắc-phần nước ta trong 240 năm và truyền hơn mười đời. Nhưng ta cũng phải lấy làm lạ rằng trong một xã-hội thấm nhuần nho-giáo, với sĩ-phu luôn để chữ trung-quân làm đầu, mà vua Lê-chỉ có hư-vị, bầy tôi là chúa Trịnh lại nắm hết mọi quyền. Thế mới biết rằng cái nghị-lực kiên-cường, cái ý-chí tráng-dũng của Trịnh Kiểm đã đánh bạt quan-điểm luân-lí trong trường chính-trị nước ta trong lâu năm. Cái nghị-lực ấy có kết-quả tai-hại cho dân-tộc ta, là gây nên hai cuộc nội-chiến lâu dài : Trịnh Mạc và Trịnh Nguyễn và chỉ « đem thân trăm họ làm công một người ». Tuy vậy, nó cũng có một kết-quả hay nhưng bất ngờ : Nguyễn Hoàng vào phương Nam gây mối đầu của sự bành-trướng văn-hóa và dân-tộc Việt-nam vào góc Đông-nam châu Á, bành-trướng mạnh nhất trong khoảng hưu-binh gần một trăm năm giữa Bắc và Nam. Hậu-quả sự ấy chính là thời-cuộc khốc-liệt ngày nayởgócđấtnầy. Paris,mùahènămI966 HOÀNGXUÂN-HÃN HAI BỨC THƯ BẰNG CHỮ NÔM VỀ THẾ KỶ I7 BỬU CẦM I–BỨC THƯ CỦA KADOYA SICHIROBEI GỬI CHÚA NGUYỄN-PHÚC-TRĂN Theo KAWASHIMA MOTOJIRO 川島元次郎 [XUYÊN-ĐẢO NGUYÊN THỨ-LANG], Shuin-sen boèkishi 川島元次郎朱印船貿易 史 [Chư-ấn-thuyền mậu-dịch sử], Tòkyò I92I, tr. 469, thì năm I67013, một vị linh-mục Nhật-bản tên là Kadoya Sichirobei 角屋弋郎兵衛 [Giác-ốc Thất-lang-binh-vệ] (thường được người Việt-nam hồi ấy gọi là Cha Chanh 吒柾) đã gửi cho Nguyễn-Phúc-Trăn14, con của Hiền-Vương15, một bức thư bằng chữ nôm như sau : « Ông muôn tuổi. Có một em tôi16ở đất An-nam, nghe rằng đã làm tôi Ông, mừng lắm. Dầu muôn lẽ thì đã cậy trông ơn. Ông muôn tuổi ». II–BỨC THƯ CỦA TRỊNH CƯƠNG GỬI NGUYỄN-QUÁN-NHO Trong quyển Việt-nam phong-sử 越南風史17, chương 87, có câu ca-dao bằng chữ nôm : « Chàng về Vạn-Hoạch chàng ôi ! Con chàng bỏ đói ai nuôi cho chàng ? ». Soạn-giả là cụ NGUYỄN-VĂN-MẠI 阮文邁 đã chú-giải bằng chữ Hán như thế nầy :18 19 Phú nhi tỷ dã. Vạn Vãn-hà xã (kim Kiến-trung xã) Hoạch Cổ-đô xã, thuộc Thanh-hóa tỉnh Thiệu-thiên phủ. Chàng chỉ Nguyễn-Nho-Quan dã. Nho-Quan ư Hiển-tôn thời trúng trạng-nguyên, sĩ chí tể-tướng, thùy lão nhi quy, Hà-bắc chi nhân tư mộ chi, cố ca vân : Nho-Quan tắc tại, thiên-hạ lại chi, như anh nhi chi ư từ mẫu ; kim hoàng phi ký khứ, Lục-dã vân quy, tắc dân hà lại hồ ? Ngạn vân : « Tể-tướng Văn-hà, thiên-hạ âu ca », thị dã. Hựu tra Vãn-hà phổ-lục, Nho-Quan quy điền chi nhật, Trịnh An-vương dị thư viết : …Khả kiến Nguyễn tể-tướng đương thời chi đức vọng. Tích hồ sử thư biên bất đáo thử, cố tinh cập chi = [Câu ca-dao dẫn trên] làm theo thể phú và thể tỷ20. Vạn tức là xã Vãn-hà (nay là xã Kiến-trung), Hoạch tức là xã Cổ-đô, thuộc phủ Thiệu-thiên 21tỉnh Thanh-hóa. Chàng là chỉ Nguyễn-Nho-Quan. Nho Quan đã đỗ trạng-nguyên đời [Lê] Hiển-tôn22, làm quan đến tể-tướng, lúc tuổi già về hưu, người ở Hà-bắc23nhớ-nhung mến-tiếc ông, nên mới có câu hát như thế, ý muốn nói rằng : Nho-Quan còn tại chức, thiên-hạ được nhờ cậy, như đứa trẻ thơ nương tựa vào người mẹ hiền. Nay ông từ bỏ chức tể tướng, lui về vui thú cảnh điền-viên24, thì dân biết trông cậy vào ai ? Tục-ngạn có câu : « Tể-tướng Vãn-hà, thiên-hạ âu ca » là nói về ông vậy. Lại tra trong Vãn-hà phổ-lục thì thấy chép rằng ngày Nho-Quan về vườn, Trịnh An-Vương25có gửi cho ông một bức thư như sau : …26 Xem đấy, có thể biết được đức-vọng của Nguyễn tể-tưởng thủa ấy như thế nào. Tiếc rằng sử sách không chép đến chuyện đó, cho nên bây giờ chép luôn vào đây. Dưới đây là bức thư bằng chữ nôm của Trịnh Cương gửi cho Nguyễn Quán-Nho : Tôi gửi lời kính thăm thầy. Tôi thấy lòng trung-thành thậm cảm. Trước là giúp bề trên, sau là yêu tôi, mà thầy giữ lấy lẽ chính. Tôi đã được ơn nghĩa còn lâu. Tôi chẳng quên đâu. Ngày trước, tôi đã cho đưa túi trầu đến hầu, mà thầy cố từ. Khi bấy giờ tôi chẳng dám ép. Rày đã thung-dung ; tôi cho đem đến, lấy cho cam lòng tôi. Xin gửi kính lạy thầy. BỬU-CẦM LUẬN VỀ NGUYỄN TRÃI PHAN KHOANG MỘT VỤ ÁN ĐỂ LẠI THƯƠNG CẢM CHO DÂN TỘC Các vụ-án trong quốc-sử, không có vụ nào làm cho hậu thế cảm thương, uất hận bằng vụ án Lệ-chi viên.27 Một nhân-vật bác-học, đại nho, đã để lại một sự nghiệp văn-chương trác tuyệt, lớn lao như thế, một vị anh hùng có mưu lược, có tài trí, đã giải thoát giang sơn, dân–tộc khỏi ách thống trị ngoại bang một cách vẻ vang như thế, mà phải bị giết một cách bi-đát như thế, ai là người có lòng với dân-tộc, với quốc-gia, nghe nói đến chuyện Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc mà khỏi sụt-sùi, rồi đập bàn, la lớn : « Vô lý quá ! Đau lòng quá ! ». Trong các sự nghiệp văn-chương, chính-trị, ngoại-giao của Nguyễn Trãi, dân-tộc Việt-nam mang ân ông nặng hơn cả là ở công-cuộc giải phóng dân-tộc. Qua lịch sử nước nhà, những chiến tranh lớn lao và chiến thắng vẻ-vang hơn cả là cuộc đánh bại quân Nguyên đời Trần và cuộc đuổi quân Minh của vua Lê Lợi. Hai cuộc ấy, tuy tầm quan trọng ngang nhau, nhưng có những màu sắc và ý nghĩa khác nhau. Trần-hưng Đạo đã đánh bại được những toán quân từ nước ngoài vào xâm-lăng để giữ an bờ cõi. Lê Lợi đã đánh đuổi được những toán quân đương đô hộ nước nhà từ mười mấy năm trời để giành lại quyền tự chủ cho dân-tộc. Nhà Trần làm chủ một quốc-gia có tổ-chức đầy đủ mấy trăm năm, từ Tiền Lê, Lý, có quân-đội nền-nếp sẵn, đến đời Trần, quy mô lại rộng lớn, bền vững hơn nữa, nay gặp ngoại xâm, chỉ cần hô hào dân-khí khéo điều bát quân-đội để thắng những toán quân từ xa lạ mới xông vào bờ cõi. Lê Lợi là một kẻ nông dân áo vải, sống trong một lúc mà dân tài, dân lực đã kiệt quệ, « tuấn kiệt như sao buổi sáng, nhân-tài tợ lá mùa thu »28, một mình đứng lên, một mình tổ-chức, nước lã mà vã nên hồ, để đánh đuổi những toán người đương đô hộ đã có những tổ-chức hoàn bị về quân-đội, về hành-chánh, quen thuộc phong thổ, ở chính tại chiến-địa. Nhà Trần, nhờ ý-chí của một lớp người quí-tộc và gia-tướng, quyết bảo tồn những quyền lợi sẵn có, « khổ bấy giờ chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các người cũng hết »29– khéo đoàn kết được dân-tộc để thành công. Lê Lợi, một kẻ bình dân, không nỡ ngồi nhìn đồng bào rên siết trong cảnh lầm than, nên phải đứng lên mưu lo đại-sự. Ở bên cạnh người áo vải Lam-sơn, may có Nguyễn Trãi, một đại nho, cũng không phải vì bảo tồn gì cả, mà chỉ vì « việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo »30, và « nước Đại-Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu »31. Ấy là ý-thức-hệ Nho giáo mà cũng là chủ-nghĩa dân-tộc, chủ-nghĩa quốc-gia đó. Chính ý-thức-hệ ấy đã lãnh đạo cuộc kháng Minh và trong mười năm trời, ở bên màn trướng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi là hiện thân của ý-thức-hệ ấy, là khối óc của Lê Lợi, để vận trù, quyết sách, điều khiển tình hình, giao thiệp với địch, chiêu hồi những đồng bào đương phục-vụ địch, rồi đuổi được giặc Minh. Cái công nghiệp đối với dân-tộc, quốc-gia lớn lao thế ấy, mà sự báo đáp bi-đát, thảm-khốc thế kia ! Ôi ! NGUYỄN TRÃI VÀ LÊ LỢI Năm Canh Tí (I420), Bình-định-vương Lê Lợi đóng quân ở Lội-giang32, Nguyễn Trãi đến yết kiến, dâng bài sách Bình Ngô, vương khen ngợi, phong làm Tuyên-phụ Đại-phu Hàn lâm thừa chỉ và cho dự bàn mưu kế. Những lời Trãi bàn đều được Vương nghe theo. Từ đó một tay Nguyễn Trãi thảo tất cả các thư trát giao-thiệp với các tướng nhà Minh như Vương Thông, Phương Chính, Sơn-Thọ, dụ hàng các tướng hiện giữ các thành của địch, khuyên nhủ các người Việt-nam làm quan với người Minh. Đến năm Đinh-Mùi, Vương cho Nguyễn Trãi làm Lại-bộ Thương-thư, nhập nội Hành-khiển (Tể-tướng), kiêm giữ công việc viện Khu-mật. Sau khi đại-định, Thuận-thiên năm đầu (I428), vua Lê Thái-tổ ghi chép công trạng những công thần đã theo vua từ lúc khởi nghĩa ; tháng 2, cho 22I người được phong tước ; tháng 3, Nhập-nội đại-Hành-khiển Nguyễn Trãi được gia phong tước Quan-phục-hầu, tứ quốc tính. Năm Kỷ-Dậu (I429), phong Liệt-hầu cho các công thần 93 người, Nguyễn Trãi được dự vào hàng Á-hầu. Năm Kỷ-Dậu, xảy ra một việc có tương quan với Nguyễn Trãi là việc Trần Hãn bị bắt rồi tự tử. Trần Hãn vốn dòng-dõi Tư-đồ Trần-nguyên Đán (ông ngoại Nguyễn Trãi), có học thức, giỏi binh pháp, vào theo vua Thái-tổ một lần với Nguyễn Trãi, được vua hậu đãi, thương yêu Hãn được dự bàn những việc bí-mật, theo vua ra trận mạc, đến đâu cũng lập được chiến-công. Thuận-thiên nguyên-niên, tưởng lục công thần, Hãn được gia phong Tả-Tướng-quốc, tứ quốc tính. Hãn nói riêng với người thân tín rằng : « Nhà vua có tướng như Việt-vương Câu Tiển, không thể cùng hưởng yên vui, sung sướng được ». Hãn xin về hưu, vua ưng thuận, nhưng là vì dòng-dõi họ Trần, nên bị nghi kỵ. Hãn về ấp Sơn-đông, sống trong cảnh quê-hương, ông xây dựng phủ đệ, đóng ghe thuyền, chở binh khí Có kẻ dâng công, gièm pha với nhà vua rằng Hãn mưu toan làm phản. Vua tin, sai lực-sĩ đến bắt. Khi thuyền đến bến Sơn-đông. Hãn tự trầm, chết33. Đáng ra, cái chết của Trần Hãn phải làm cho Nguyễn Trãi đặc biệt lưu tâm. Trần Hãn là người có học thức, có bà con họ ngoại với Nguyễn Trãi, cùng Nguyễn Trãi rủ nhau vào Thanh hóa tìm theo Lê Lợi một lần, ắt có cái tình « thống giượng tương quan » vậy. Trần Hãn có nhắc việc Việt-vương Câu Tiễn34, Nguyễn Trãi ắt nhớ lại câu « công thành thân thoái » của Phạm Lãi, Trương Lương. Nhưng ông không theo câu ấy. Có lẽ vì nghĩ rằng ông là một trong những người sáng lập triều đại, ông có bổn phận góp phần xây dựng nó cho vững bền. Ông « cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dỉ »35thì âu là ông cũng có cái lý của ông. TÌNH-CẢNH HƯ NÁT TRONG TRIỀU ĐÌNH VUA THÁI-TÔNG. VAI TRÒ NGUYỄN TRÃI LU MỜ Vụ án Lệ-chi-viên cũng dễ hiểu. Và nó không phải hoàn toàn không do Nguyễn Trãi gây ra. Vua Thái-tổ băng, vua Thái-tông lên ngôi, mới II tuổi ; quyền hành đều ở trong tay Đại Tư-đồ Lê-Sát, làm Phụ chánh. Năm vua lên ngôi, trời hạn, nhà nông không cày cấy được. Bấy giờ bọn võ tướng công-thần khai quốc như Lê Ngân, Lê Vấn, Lê Liệt, Lê Bôi, Nguyễn Xí,Trịnh Khả đều còn tại triều. Họ là những người đã cùng vua Thái-tổ tham dự trận mạc, xông pha tên đạn, vào sanh ra tử, để gây dựng bản triều, nên đến nay, tước cao, quyền lớn, họ không khỏi tự cao, tự đại. Nguyễn Trãi tuy đứng đầu bên quan văn, nhưng là Á-hầu là bậc hầu thứ sáu, còn Lê Sát, Lê Vấn là Huyện thượng-hầu là bậc hầu thứ nhất, Lê Ngân là Á-thượng hầu là bậc hầu thứ hai. Lê Sát, làm Phụ-chánh, quyết định mọi việc theo ý riêng mình, gièm pha, giáng truất, giết hại những người không phải phe cánh của mình. Nhiều sự-kiện chứng tỏ triều-chính hư nát, và cái họa bè phái phát sinh, nhất là giữa văn-thần và võ-thần. Sau khi Trần Hãn chết, Nguyễn Trãi hình như cô độc, và chỉ được ủng hộ bởi những quan văn cấp nhỏ, tiếng nói không ảnh hưởng gì. Thế mà ông lại hay nói thẳng, hay chỉ trích, không kiêng nể, húy kỵ gì. Năm Thiệu-bình thứ I (I434), tháng 5, nhà vua sai sứ đem biểu văn và sản vật sang nhà Minh xin phong vương, Nguyễn Trãi soạn biểu văn, Nội-mật-viện Nguyễn-thúc Huệ và Học-sĩ Lê-cảnh Xước muốn sửa đổi vài chữ. Trải nổi giận, nói : « Bọn các người là hạng bầy tôi tụ liễm36, nạn hạn hán ngày nay đều do bọn các người gây ra cả ! ». Thúc-Huệ đem chuyện này mách Lê Sát và Lê Vấn. Lê Vấn nổi giận, trách Nguyễn Trãi rằng : « Những cớ gây nên tai nạn và hạn hán là do nhà vua và Thủ-tướng (Lê Sát) đó thôi, chứ không phải lỗi tại bọn này ; sao ông trách nhau quá lắm thế ? ». Nguyễn Trãi xin lỗi, nói : « Thúc-Huệ là hạng tài mọn, chỉ chăm đục khoét, vơ vét, thế mà hắn giữ chức then chốt trong nước, hễ có tâu bày điều gì hắn chỉ muốn làm cho thiệt dân, làm lợi cho nhà quan để dua nịnh bề trên, cho nên tôi mới nhân việc này mà nói ra đó thôi, chứ không phải có ý phúng thích và dị nghị nhà vua và Thủ-tướng gì đâu ». Nhưng Lê Sát vẫn không nguôi giận. Liền sau đó, có 7 tên cướp, đều là tái phạm, đáng tội tử hình. Bọn Lê Sát, Lê Ngân lấy làm khó nghĩ, vì e phải giết nhiều quá. Vua Thái-tông đem việc ấy hỏi Nguyễn Trãi, Trãi tâu : « Hình phạt không bằng nhân nghĩa, điều ấy rõ-ràng rồi. Nay một lúc giết 7 mạng người thì e không phải thịnh đức. Kinh Thư nói : « An nhữ chỉ » nghĩa là phải yên tại chỗ của mình. Ví dụ như trong cung là chỗ yên của bệ-hạ ; cũng có khi Ngài đi tuần du chỗ khác, nhưng không thấy yên, đến khi trở về cung, mới thấy là yên chỗ. Đấng nhân quân đối với nhân nghĩa cũng thế, phải lấy đấy làm chỗ ở yên, thỉnh thoảng cũng có khi dùng đến uy pháp, nhưng rồi phải trở về với nhân nghĩa ». Bọn Lê Sát bèn bảo Nguyễn Trãi : « Ông là người nhân nghĩa, có thể cám hóa kẻ ác, khiến họ trở nên người thiện, thì đây, xin giao cho ông bọn cướp này ». Rồi Lê Sát đem 7 tên tù phạm giao cho Nguyễn Trãi bảo quản37. Nguyễn Trãi nói : « Bọn ấy là đồ gian hảo, hung ác, pháp luật và chế-độ của triều-đình còn không răn chừa được chúng, huống chi Trãi này có đức độ gì mà cảm hóa nỗi ». Do đấy, chỉ chém hai tên cầm đầu, còn thì khép vào tội lưu. Xem thế thì sự xung đột giữa nho-thần Nguyễn Trãi và các võ-tướng đương cầm quyền, trong đó Lê Vấn, Lê Sát đương ở chức vị cao nhất, thực đã đến độ kịch liệt. Nhà nho Nguyễn Trãi hay đem Thi, Thư, Nhân, Nghĩa ra thuyết, còn những người võ biền ít học, thì cho đó là một sự khoa ngôn, không ích lợi thiết thực. Điều ấy không lạ, cuộc thắng trận còn gần-gặn, mới mẻ quá. Sau I0 năm dùng võ lực mà đánh đuổi được quân Minh, các tướng súy ấy vẫn còn cái cảm tưởng như Hán Cao-tổ lúc ban đầu rằng « Ta ngồi trên mình ngựa mà lấy được thiên hạ, cần gì đến Thi, Thư, Nhân, Nghĩa ». Chỉ trách Nguyễn Trãi trong một hoàn cảnh như vậy mà không khéo « tuần tuần thiện dụ, bác dĩ văn, rồi ước dĩ lễ » để phải « thuyết pháp trong bãi sa-mạc » và gây thêm chia rẽ giữa võ tướng và văn-thần. Trong triều-đình đã không có tiếng nói của người học thức, nên không chỉ chính-trị rối loạn, mà có khi vua tôi xúm nhau làm những việc càn dở rất buồn cười. Năm Thiệu-bình I, tháng 4, vì hạn hán lâu ngày, tổn hại nghề nông, lại vì chiếc thuyền ngự do Nghệ-an dâng tiến bị sét đánh, nên lập đàn cầu đảo, nhương trừ tai hoa. Thái-sử Bùi Hanh mật tâu rằng ngày I tháng 5 có tinh con vượn đen hút khí mặt trời nên có nhật thực, nhật thực thì trong nước có tai biến. Nếu giết con vượn thật để yểm trừ thì tai biến có thể qua khỏi. Lê Sát tin lời, bèn tâu xin ra lệnh cho dân ở miền rừng núi thuộc Tuyên- quang và Thái-nguyên săn bắt vượn đưa đến kinh-đô. Tới ngày đã được vượn, vua nghỉ thiết triều, làm phép yểm trừ ở trong cấm-cung ! Sở dĩ triều-chính bấy giờ hư nát như vậy, không phải chỉ vì võ-thần chuyên hoạch, mà trước hết, vì vua Thái-tông còn nhỏ dại, mà lại phóng túng, càn dở, không chịu nghe lời khuyên can. Năm Ất-Mão (I435), Sử38chép rõ những hành vi sai bậy của nhà vua mà một giám thần là Thiên-tước đã dân sớ đàn hặc : I) Nhà vua ở trong cung, chơi đùa với bọn hầu cận sả suồng ; các đại thần xin dùng bọn nho-thần vào hầu vua học tập ; vua không nhận ; 2) Vua cưng chiều một tên tiểu thụ39là Lê Cung, bọn Lê Sát xin giết Cung, vua không nghe, Sát cáo bệnh, không vào chầu ; 3) Nhà vua cỡi voi, cho lồng chạy trong sân hậu cung. Bấy giờ có người tiến con dê rừng, vua cho voi chọi nhau với dê, con dê vùng lên, xông vào húc, voi sợ lùi vào phía sau, sa xuống giếng chết ; 4) Những mẫu sư40mà vua Thái-tổ đã đặt bên cạnh Thái-tông đều bị vua khinh nhờ, quở mắng ; 5) Hai bà mẹ ghẻ của vua là Thần-phi và Huệ-phi (phi của vua Thái-tổ) vào khuyên răn vua, vua sai đóng cửa không cho vào 6) Các quan hầu cận thấy vua không đọc sách lại cầm cung đi bắn chim, đứng ra can ngăn, vua đã không nghe, lại giơ cung bắn họ 7) Vua Thái-tổ đã lựa chọn con em các công thần để hầu hạ vua học tập, vua xa lánh bọn này, chỉ chơi đùa với bọn hầu cận sả suồng ; 8) Vua chỉ chơi đùa và ban thưởng cho bọn hoạn quan ; 9) Khi ra coi triều, vua không giữ vẻ tôn nghiêm, bình tĩnh. Vua thì nhỏ dại, chỉ thích chơi bời, Tể-tướng thì dốt nát, tàn bạo, tình-trạng ấy đã được một tên thợ sơn nói ra rõ ràng để rồi y phải bị chém đầu : Bấy giờ điều động thợ sơn sửa chữa chùa Bảo-thiên, người thợ tên là Cao-sử-Đảng nói vụng rằng : « Thiên-tử thì kém đức để đến nỗi có hạn hán, đại thần thì ăn hối lộ để cất dùng kẻ nọ người kia, chẳng làm được công trạng gì cả ! có hay-ho gì mà còn nịnh Phật ! ». Có người đem chuyện ấy tố cáo với Lê Sát, Sát nổi giận, sai bắt Sử Đảng giao cho quan coi hình ngục xét xử ; Sử Đảng bị chém. Xem trên, ta biết Thái-tông là một vị vua hoang-đãng, hư hỏng, đại thần thì hầu hết dốt nát, phi vi, chỉ có Nguyễn Trãi là người có học vấn, công chính hơn. Vây nhà nho Nguyễn Trãi có biết không rằng ông đương lâm vào tình-trạng của quẻ « Bác » trong kinh Dịch-Quẻ Bác có 5 hào âm ở dưới tiến mạnh lên, một hào dương ở trên, cô độc, không chế ngự được, tức là âm thạnh, dương suy, tiểu-nhân mạnh, lấn át quân-tử. Lời tượng quẻ Bác nói : « Bất lợi hữu du vảng, tiểu nhân trưởng dã, thuận nhi chỉ chi ; quân-tử thượng tiêu tức ; dinh hư, thiên hành dã », (nghĩa là : hành động không lợi, tiểu nhân lớn lên, thuận mà ngăn nó ; người quân-tử chuộng sự nghỉ ngơi, đầy vơi là lẽ trời vậy) Nguyễn Trãi đã không « thuận nhi chỉ chi », cũng không « thượng tiêu tức » ! Không thi thố gì được, đáng ra Nguyễn Trãi phải theo quẻ « Độn » mà hành động. Quẻ Độn cũng là âm trưởng, dương tiêu, khuyên tránh đi, để chờ thời : « quân tử dĩ viễn tiểu nhân, bất ác nhi nghiêm » (nghĩa là : người quân-tử phải tránh kẻ tiểu nhân, không ác nhưng nghiêm với chúng). Nguyễn Trãi không làm như vậy, ông theo thái-độ của Gia-cát-Lượng. Sử sách đều chép rằng Lê Thái-tông là người thông minh, có lẽ Nguyễn Trãi còn hy vọng cải hóa vua mình chăng ? Nhưng Thái-tông thông minh mà không chịu học, khi mới lên ngôi, triều-đình dân biểu cử Nguyễn Trãi cùng bọn Trình-thuấn Dụ vào tòa kinh-diên dạy vua cho thành người có đức, nhưng vua giao trả tờ biểu ấy lại, không chịu, vậy thì cải hóa sao được ? Kinh Dịch nói : « Duy cơ dã năng thành thiên hạ chi vụ » (nghĩa là : thấy biết cái dự-triệu (điềm báo trước) mới làm thành được việc thiên hạ), và « quân-tử kiến cơ nhi tác, bất sĩ chung nhật » (nghĩa là : người quân tử trông thấy cái dự triệu thì hành động, đừng đợi trọn ngày). Nguyễn Trãi đã không tri cơ, hoặc kiến cơ mà không « tác », nên ông tiếp tục chịu lấy nhục nhã mà không thành được việc gì cho vua, cho nước cả ! Năm Đinh-Tị (I437) vua sai Nguyễn Trãi và hoạn quan là Lương-Đăng trông coi việc làm xe loan và qui định nhã-nhạc. Ai cũng biết luật-điệu âm-nhạc là món thần-diệu, tinh vi, nguyên-lý của âm-nhạc, căn bản của nhã-nhạc là những điều mà phải người có học thức mới am hiểu được. Nguyễn Trãi là người có đủ tư-cách để làm việc này, còn tên hoạn quan dốt nát Lương Đăng sao lại để dự vào đây ? Sự hợp tác ấy thật là miễn cưỡng, nó tỏ có sự dụng ý của người sai bảo. Quả nhiên, mấy tháng sau, những điều bàn luận về việc qui định nhã-nhạc của Nguyễn Trãi không được Lương Đăng đồng ý, Trãi xin thôi việc, nhà vua chấp thuận, còn những kiến nghị của Đăng được vua ưng theo, và ra lệnh cho thi hành. Tiếp đó, Lương Đăng dâng nhã-nhạc mới và nghi trượng lỗ-bộ41, đều được vua nghe theo, và phong Đăng làm Đô-giám Trung-thừa, Ngự-sử Trung-thừa là Bùi-cầm Hồ tức giận, tâu rằng : « Lỗ-bộ-ti Đồng-giám là Lương Đăng, Tiên Đế thấy hắn biết chút chữ nghĩa, cho làm Nội-nhân Phó chưởng, nhưng rồi thấy hắn chỉ khúm núm bề ngoài, không thẳng-thắn, không thể gần-gụi được, nên mới cho hắn ra làm Văn-đội42; thế mà nay lại cho lên làm chức quan to, vậy xin Bệ-hạ nghĩ lại ». Nhưng vua không nghĩ lại ! Thấy những nghi-thức mà Lương Đăng đề nghị cho các cuộc lễ được đem thi hành, Nguyễn Liễu tâu : « Từ xưa đến nay, chưa có bao giờ hoạn quan lại được tự chuyên, làm nát thiên hạ như vậy ! ». Đinh Thắng (một tên hoạn quan) từ trong nội đi ra, mắng rằng : « Hoạn quan làm gì mà nát thiên hạ ? Nếu nát thiên hạ thì phải chém đầu mày ! ». Vua bèn giao Nguyễn Liễu cho hình quan xét hỏi, Liễu phải tội thích chữ vào mặt, đày đi châu xa. Xem thế thì vua Thái-tông thiên vị hoạn quan quá lắm. Khi đặt Lương Đăng bên cạnh Nguyễn Trãi để thẩm định nhã- nhạc là nhà vua đã có dụng ý chỉ nghe theo Lương Đăng mà thôi, Nguyễn Trãi chỉ để bổ khuyết những chỗ dốt nát của Lương Đăng, nên khi Nguyễn Trãi không hợp-tác với Lương Đăng nữa thì cũng được. Vậy mà khi thấy thi hành các nghi-thức mới, Nguyễn Trãi còn rán gân cổ cùng Nguyễn Truyền, Đào-công Soạn tâu vua : « Lễ, nhạc là cốt ở người mới đặt ra được. Phải là người có tài đức như Chu-công rồi sau mới không thể chê trách về việc đặt lễ, chế nhạc. Nay nhà vua để cho hạng bầy tôi nhỏ mọn ở trong cung chuyên việc sắp đặt lễ nhạc, như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao ? Vả lại, việc làm của Đăng đều là dối vua, lừa dưới, không căn cứ vào đâu cả…» Vua không nghe. Nguyễn Trãi thật không thức thời chút nào hết ! CHÍNH NGUYỄN TRÃI ĐÃ GIÁN TIẾP GÂY RA VỤ ÁN LỆ-CHI-VIÊN Nhắc đến chuyện Thị Lộ lại càng thấy sự lầm lỗi của Nguyễn Trãi. Thị Lộ là một cô gái trẻ đẹp, thông minh, giỏi chữ, thơ hay ; và với cái cách ứng đối nhanh-nhẹn, cái giọng lẵng-lơ « …nỗi chi ông hỏi hết hay còn ? Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ, chồng còn chưa có, có chi con », nàng đã khuất phục được ông già cứng cỏi Nguyễn Trãi thì chắc cũng dễ mua chuộc được lòng sủng ái của chàng thanh-niên đa tình, hiếu sắc Thái-tông mới dưới 20 tuổi. Vợ mình như thế, vua mình như thế, mà lại cho nàng vào cung hầu hạ, sao Nguyễn Trãi không nghĩ đến cái lẽ phòng vi đổ tiệm43mà lại dung túng một sự gần-gụi ra ngoài lễ giáo như thế ? Xưa kia, nhiều vị vua còn trẻ, được bọn thị thần lén đưa đi chơi bời, đến nỗi tán thân, vong quốc, sách sử còn chê trách muôn đời, Nguyễn Trãi há không biết, thế mà ông lại gián tiếp đưa vua vào đường tội lỗi, để gây nên hậu họa lớn lao ! Có người nói rằng dưới chế-độ quân-chủ, vua đã muốn thì bề tôi không thể cưỡng lại. Không phải như thế. Chỉ những lúc triều-đình không có bề tôi khá, vua mới dám làm chuyện phi vi, còn khi có bậc đại-thần có phong-độ, đủ tư cách, nắm giữ được giềng mối thì vua, hoàng-hậu, thái-hậu, dẫu phóng đãng, hung hăng, cũng không dám vượt ra ngoài pháp tắc. Thị Lộ từ khi được vời vào cung, phong làm Lễ-nghi học sĩ, ngày đêm chầu hầu bên cạnh nhà vua. Nhập-nội Thị trung-hầu Lê-Lễ là một công thần khai quốc đã theo vua Thái-tổ từ lúc khởi nghĩa, bị Thị Lộ gièm pha với vua Thái tông, nên bị giáng xuống làm Thái-tử thiếu-bảo, đến khi ông mất mới khai phục được chức cũ. Xem thế thì trong chốn khuê phòng, Thị Lộ đã can dự vào việc chính-sự nữa ! Sự kiện ấy không thể không làm giảm uy tín của vị khai-quốc công-thần Nguyễn Trãi trước đồng-liêu và dân-chúng. Bấy giờ ở triều-đình và trong cung cấm đã xảy ra biết bao biến cố lớn lao, vì sự chia rẽ phe phái của các triều thần, vì sự tranh giành ảnh hưởng trong nội cung, nhất là vì vua Thái-tông lung-lăng, bồng-bột, hay nghe lời xui-xiểm. Hai vị đại-thần, cha của hai bà phi, kế nhau bị giết và hai bà phi tần ấy lần lượt bị phế truất. Năm Đinh-Tị (I437) tháng 5, vua giết Tể-tướng Lê Sát, người thù của Nguyễn Trãi, biếm truất những người phe đảng của Sát như Lê Ế, Lê-văn Linh, bà nguyên-phi Ngọc-dao, con gái của Sát bị phế làm thứ nhân. Phe phản đối Lê Sát và Lê Khả, Ư-Đài, Bùi-cầm Hồ được tái dụng. Khi giao cho Pháp-ti xét hỏi vụ Lê Sát thì Lê Ngân bào chữa cho Sát. Và khi hạ chiếu chém Sát, Lê Ngân tâu : « Sát là một đại thần, nếu phanh thây làm nhục, e đời sau chê cười ». Nhờ đó, vua cho phép Sát được tự tử. Tháng I2 năm ấy, viện một cớ nhỏ mọn, vua giết Nhập-nội Đại Đô-đốc Lê-Ngân ; bà Huệ-phi, con gái Lê Ngân, vừa được phong lên chức này thế bà Ngọc-dao cũng bị phế làm Tu-dung44. Bà Ngô Tiệp-dư (mẹ vua Lê Thánh-tông) cũng bị tố cáo có dính-dấp với bà Huệ-phi, nên bị xử phạt lưu, nhưng được Nguyễn-Trãi và Thị Lộ bảo toàn, giúp đỡ cho. Trong các biến cố ấy chắc không khỏi đã có ảnh-hưởng Thị Lộ xen vào. Như vậy, làm sao khỏi gây thêm chia rẻ giữa quần thần và Nguyễn Trãi, và tăng thêm ác cảm của họ đối với ông. Âu là một phần cũng vì Nguyễn Trãi không biết phòng vi đồ tiệm lúc ban đầu mới phát sinh trình trạng ấy, rồi kế theo là bao nhiêu hiềm khích, bất ngờ, để đưa đến cái chết của vua của ông và gia-tộc ông nữa. Tháng 7 năm Nhâm-Tuất (I442), vua Thái-Tông đến duyệt binh ở huyện Chí-linh. Nghe tin, Nguyễn Trãi đến rước xa-giá về thăm nhà ông ở Côn-sơn. Ở đây, Thái-tông gặp Thị Lộ, và nàng được lệnh theo xa-giá về cung, đến huyện Gia định (thuộc Bắc-ninh) thì trời tối, nghỉ lại ở Lệ-chi-viên, sáng hôm sau thì vua băng, ai cũng biết là vì trải qua một đêm tửu sắc quá độ và cảm nhiễm phong sương. Ở đây, chúng ta phải tự bảo : Đối với ông vua « vô lễ » ấy – ông Trãi phải biết một cách thấm-thía điều vô lễ ấy hơn ai hết – thì dẫu ông không dứt được cái nghĩa vua tôi, cũng nên « kính nhĩ viễn chi » là hơn, còn lom-khom chống gậy đến tận Chí-linh rước xách làm chi ! Rước « chàng » về Côn sơn mà có « nàng » ở đó, thì sự thế sẽ thế nào, ai cũng có thể biết trước, lẽ nào ông Trãi không biết ? « Quân » đã không đáng là « quân », mà « thần » cứ tận lực giữ lễ của « thần », đó là điểm thiên-lệch đáng trách ở đạo-lý của Nguyễn Trãi. Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, mỗi bên phải có bổn phận tương đối với bên kia ; quân đã vô lễ thì thần cũng có thể không tận trung kia mà ! * Tóm lại, Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong dân-tộc và lịch-sử Việt-nam. Vĩ đại ở sự-nghiệp văn-chương và công cuộc giải phóng dân-tộc. Còn về lẽ tiến thoái, về phong-độ của một đại thần rường cột quốc-gia thì e ông có nhiều chỗ thiếu sót, chưa được xứng hợp. « Công thành, thân thoái » và « cúc cung tận tụy, tử nhi hậu dĩ » hai đường lối ấy, kẻ đương sự tùy hoàn cảnh, tùy trường hợp mà áp dụng để tiến, thoái, chứ không thể nhất định cho một đường lối nào là đúng. Nguyễn Trãi đã có những bậc tiền bối xứng đáng để ông suy ngẫm : tiến thì như Lý-đạo Thành, Tô-hiến Thành, tuy gặp lúc khó-khăn mà vẫn làm tròn trách nhiệm ; thoái thì như Chu-văn An, thấy không thể làm được, phải lui đi để giữ toàn danh tiết và nêu gương cho đời, cảnh cáo người đương đạo. Nguyễn Trãi dưới triều Thái-tông, đã không biết thoái như Chu, mà tiến thì cũng không làm được việc như Tô, Lý. Sau khi nước nhà đại định, ông có giúp vào việc định lại pháp-chế, đặt ra điển-lệ, nhưng từ khi vua Thái-tông lên ngôi trở về sau, thì vai-trò của vị đệ nhất khai quốc công-thần bên văn trở nên lu mờ, ông không giúp gì được trong việc kinh bang tế thế. Vẫn biết ấy là vì bọn quyền thần chuyên hoạnh, nhưng cũng vì tính khí ông cương trực, chỉ biết một mực thẳng-thắn, cái chí ông cao mà cái lượng ông hẹp. Là một đại nho, nhưng ông không thực hiện được phần nào câu « quân tử sở quá giả hóa »45, vì ông là người khuê giác, cứng-cỏi, có góc, có cạnh, không được hồn nhiên ôn hòa, thuần hậu như người quân-tử lý-tưởng của Khổng-giáo. Trong lúc triều-chính rối-ren, vua trẻ dại, đại-thần càn dở, bấy giờ Nguyễn Trãi là người có đủ tư-cách hơn ai hết để chỉnh đốn lại giềng mối. Vì ông là người đã từng cộng tác với Tiên Đế trong những năm sáng lập khó khăn, đã được Tiên Đế yêu quí, ông là đệ nhất công thần khai quốc bên văn, là người học vấn uyên bác, văn-chương trác tuyệt, người đương thời đều biết. Nhưng Nguyễn Trãi đã không làm được như thế. Ông đã không khéo xử trí để cho trên an dưới thuận, trái lại, làm cho phe phái thêm chia rẽ. Lại xem việc Thị Lộ cùng các lời đối thoại của ông với Nguyễn-thúc Huệ và trong vụ Lương Đăng, thì thật ấy không phải là phong-độ của một bậc đại-thần thời xưa. Chính vì thiếu phong độ ấy mà Nguyễn Trãi đã không làm được cái nhiệm-vụ mà chắc ở dưới suối vàng, vua Thái-tổ cũng đã trách vọng ở ông. PHAN KHOANG VỊ-TRÍ CỦA ĐẠI VIỆT CHIÊM THÀNH PHÙ NAM TRONG LỊCH SỬ VIỆT-NAM Một vấn-đề của sử-học Việt-Nam TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG Bất thức Lư sơn chân diện mục Chỉ duyên than tại thử sơn trung (TÔ ĐÔNG-PHA) I. MỘT VÀI QUAN ĐIỂM : của sử-quan, sử-quan nối tiếp của Ông NGUYỄN-PHƯƠNG, Ông HỒ-HỮU-TƯỜNG II. LẠC VIỆT là CỔ VIỆT. III. SỰ THÀNH HÌNH SƠ-KHỞI CỦA QUỐC-GIA VIỆT-NAM IV. HIỆN TƯỢNG GỌI LA NAM TIẾN : giòng lưu chuyển nhân chủng. V. HIỆN TƯỢNG GỌI LÀ NAM TIẾN : giòng lưu chuyển văn-hóa. VI. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : Lịch sử nhìn từ bên trong các bộ phận tập thể. Giá trị tương đối của quan điểm các sử quan xưa. Những thành quả của triết lý phê bình sử học hiện tại giúp ích cho sự kiến tạo quan điểm mới như thế nào – Quan điểm mới so sánh với khuyến cáo của UNESCO – Quan điểm mới với thực tại phức tạp của quốc-gia – Quan điểm mới và triển vọng khảo sát tương lai. I–MỘT VÀI QUAN ĐIỂM : CÂY CÓ CỘI, NƯỚC CÓ NGUỒN Lúc lớn lên, không ai chú ý để nhớ mình đã học câu ấy vào lúc nào của cái thời học đọc, học viết. Nhưng điều quan trọng chắc không phải ở nơi thắc-mắc có tánh cách lý trí đó. Điều ta chú ý bây giờ chính là ở sự tràn trề tình cảm trong ý nghĩa luân-lý ẩn dấu nơi lời xác nhận có vẻ lửng lơ, có vẻ « cách trí » của lời khuyên kia. Có lẽ chính bởi sự thúc đẩy tình cảm mà ban sơ người ta đi tìm quá khứ của Tập thể Mình. Nhưng từ chỗ bắt đầu đó, người ta lại phân tán ra… Bởi vì trong suy tưởng, người ta phải được hướng dẫn bằng lý-trí – bao hàm sự chấp nhận và phủ-nhận những lý trí tập thành, thứ « danh khả danh » quen thuộc của loài người. Người ta đã tìm biết gì và tìm biết bằng cách nào quá khứ của quốc-gia dân-tộc ? Lý tế Xuyên, Trần thế Pháp… Ngô sĩ Liên, Phan thanh Giản… Ngô thì Sĩ… kẻ nhàn cư ngờ nghệch ghi chuyện « trâu ma, rắn thần », người cẩn trọng một cách vụng về, ghi chép, hay trông coi người ghi chép những đời vua,họ chúa kế tiếp nhau ngự trị trên một vùng đất nước, kẻ lại hãnh diện muốn chen ngòi bút Xuân thu vào sách vở. Nhưng cho dù không đồng ý nhau về việc phân chia thời đại – Đinh là thuộc ngoại kỷ hay bản kỷ – về việc chấp thuận triều đại – Triệu là « triều ta » hay không – các sử quan ngày xưa của chúng ta cũng xoay quan điểm quanh sự phát triển của dân tộc đến thời đại họ, ở khu vụ họ sống. Lịch sử được ghi chép ở đây là lịch sử giành sống độc lập của đám con cháu Thần nông, đời Hồng bàng, có vua Hùng, Lạc hầu, Lạc tướng chống đối với sức đồng hóa của người láng giềng mạnh, vừa là thù vừa là thầy ở phương bắc. Là thù của họ nên đánh đuổi họ cho « sơn hà nam đế cư », là học trò nên chấp nhận quan điểm « trung hoa », « trung quốc » đem đặt ở đồng bằng Nhĩ hà, coi các tập thể chung quanh là « phiên », là « liêu »… để mở rộng cương giới, vừa tăng thêm nguồn sinh lực quốc gia, vừa tránh xa ông thầy khó chịu cứ chực tròng ách nô lệ lên trên đầu. Biển phía đông, núi bên tây đóng khuôn lại con đường phát triển về nam. Thời Pháp thuộc, các sử gia Tây phương coi sự phát triển đó của quốc gia Việt nam như một bằng cớ biện hộ cho công trình thực dân của họ. Các sử gia ta thì nhắm mắt chấp nhận lý thuyết đó để lấy một niềm an ủi trong quá khứ oai hùng của dân tộc so với hiện tại đau buồn mà quốc gia phải chịu. Cũng nên lưu ý rằng quan điểm đó không phải là kết quả của một chấp nhận có ý thức : lối mòn dễ đi, vì quen thuộc, không thắc mắc thành tự nhiên ; các sử gia của ta của thế kỷ 20 đem danh từ « nam tiến » choàng lên sự lấn lướt một chiều suốt gần mười thế kỷ dẫn dân tộc Việt nam từ đồng bằng Nhĩ hà đến đồng bằng Cửu long, tiêu diệt dân tộc Chiêm thành, một phần Chân lập mà các sử quan xưa đã lần lượt ghi nhận. Cho nên mới có lời thương vay, khóc mướn, cùng lời biện hộ lúng túng của một sử gia đáng kính vừa qua đời : « …Nước Chiêm thành là nước Lâm ấp ngày trước đã từng qua mấy trăm năm, cùng với họ Lý, họ Trần đổi địch, chống với quân Mông cổ, không cho xâm phạm bờ cõi, lập nên một nước có vua, có tôi, có chính trị, có luật pháp. Nhưng chỉ hiềm người nước ấy cứ hay sang cướp phá ở đất An nam, thành ra hai nước không mấy khi hòa hiếu được với nhau. Đã là đối địch với nhau thì không sau (sao ?) tránh được cái luật chung của tạo hóa là khỏe còn, yếu chết (…) Chẳng những là đến nổi mất nước với chúa Nguyễn mà chủng loại Chiêm thành bây giờ cũng chẳng còn được mấy nghìn người nữa. Một nước xưa như thế mà nay như thế, dẫu rằng nước ấy đồng hóa với nước ta mặc lòng song nghĩ cũng thương tâm thay cho những nước yếu hèn không tránh được khỏi cái tai họa : « cá lớn nuốt cá bé »46. Không muốn đứng trong con đường vạch sẵn, có ông Nguyễn Phương và ông Hồ hữu Tường. Trình bày lại thuyết của ông Nguyễn Phương nơi các bài « Lịch sử Lạc Việt »47, « Tiến trình hình thành của dân tộc Việt nam »48. Để từ đó tìm xem ông đặt vị trí Lạc việt vào đâu trong lịch sử Việt nam, thật phải đầy ngại ngùng. Vì có một người, ông Bùi hữu Sũng khi hết sức dè dặt bày tỏ cho ông thấy những dấu vết Lạc việt còn lại trong sinh hoạt dân chúng, đã khiến ông phải rầy la. Tuy nhiên một lời viết ra là để cho kẻ khác hiểu, và kẻ khác hiểu những gì, một phần tùy vào mớ kiến thức có sẵn của họ, phản ứng tình cảm của họ… đã khiến họ thu nhận như thế nào, nhưng phần lớn khác cũng là bởi sự thực nằm trong những ý kiến phát biểu kia đã hướng dẫn họ. Bởi vậy, chúng tôi cũng phải tóm lược thuyết của ông Nguyễn Phương, đinh ninh rằng đã hiểu theo như ông đã cho mọi người cùng hiểu. Chúng ta có thể nói gọn lại – sau những lời dè dặt trên – là ông Nguyễn Phương muốn nghĩ rằng người Lạc việt « không phải là tổ tiên của người Việt nam », « không phải dân Lạc việt, người Việt nam rất giống dân Trung quốc : Người Việt nam ngày nay giống người Trung quốc về cả phương diện nhân chủng, cả về phương diện phong tục, tôn giáo, xã hội và đồng thời không giống gì hết về các phương diện đó với người Việt xưa ở đất cổ-Việt ». Kết luận có được là vì ông đã tìm tòi rành mạch rằng « sử sách không hề nói người Việt ở Nam việt đã di cư, trái lại có những tài liệu cho biết con đường Nam tiến của dân Trung hoa ». Đến đồng bằng Nhĩ hà « ở trong hoàn cảnh mới này, người Trung quốc đã (…), đầu ít lâu nhiều (…) kẻ trước, người sau (…), lúc đầu ở gần người Lạc-Việt, về sau mới lan dần ra miền châu thổ (…) Tiến trình hình thành dài mười thế kỷ. Thời gian đó, đủ để làm cho người Trung-Quốc di cư từ đời nầy qua đời khác đến ở đất Đại-Việt biến thành người Việt Nam… » Thế là dứt khoát. Nguồn gốc xa xôi của nước Việt « chỉ có trong tưởng tượng của Ngô-sĩ-Liên chứ không có trong sự thật… » Dân Lạc-Việt cũng như dân Chàm, Cao-Miên sau nầy đã từng sống trên đất Việt-Nam, nhưng không phải là dân Việt-Nam. Không chịu bằng lòng ở thời kỳ xa xưa đầy vẻ huyền hoặc khó cho một khối óc duy lý kiểu Aug. Comte chấp thuận, ông Nguyễn-Phương rút mạnh một cái : lịch-sử Việt-Nam thu ngắn lại trong phần sáng sủa, rành mạch dễ chấp nhận hơn. Trái với ông Nguyễn-Phương, ông Hồ-Hữu-Tường muốn gom lại coi lịch sử Lạc-Việt, Chiêm-Thành, Chân-Lạp là ba bộ phận lịch-sử của Việt-Nam, phát triển đồng quy đến độ kết thành cao nhất vào thế kỷ I9. Chiến tranh giữa các nước đó là cuộc chiến tranh phong kiến như cuộc chiến tranh phong kiến ở nước Pháp, thế thôi… Ông dẫn chứng rằng dân Miên chẳng hạn, không bị tiêu diệt mà chỉ bỏ tiếng Miên nói tiếng Việt. Không có vấn đề diệt chủng, chỉ có hiện tượng thay thế ngôn ngữ, hiện tượng « tiếng nuốt tiếng » thôi. Ông ví văn minh Việt Nam như các tầng lớp phù sa ở Hậu Giang : Nho, Phật, Lão và Tây Phương bồi đắp trên một nền văn hóa « trinh thuần » Việt như đất sét nhuyễn kết rơm rạ, tre thành vách nhà49. Giả thuyết này đáng chú ý ở chỗ mới mẻ và táo bạo của nó. Đáng tiếc là nó mất đôi phần tác dụng thuyết phục khi được lồng trong những chuyện ngụ ngôn, ma quái, tiểu thuyết, nằm trong những « thị kiến » của một lãn nhân, thị kiến mà như nhà văn Nguyễn mạnh Côn đã nói, có dọn sẵn con đường rút lui khi thất bại là sẽ làm thành « vẻ đẹp của người nghệ-sĩ ». Tuy chuyện ma quái đối với người hiểu biết chỉ là viên thuốc bọc đường để độc giả bình thường nuốt trôi được những lý thuyết khó khăn, nhưng việc trình bày lý thuyết mãi mãi dưới hình thức ngụ ngôn cũng chứng tỏ một ẩn ý hoài nghi không che dấu được. Ưu thế chăng là nhờ ở hình thức cợt đùa, bóng bẩy, rõ ràng như là không thực mà tác giả có thể vượt qua được những yếu kém về luận cứ, để không ai trách tác giả và mặt khác lý thuyết có vẻ suông sẻ, thuần nhất hơn. Đành rằng óc sáng tạo làm nảy sinh luận thuyết cũng đồng bản chất với mối khích động trong tinh thần nghệ thuật, nhưng người đi tìm hiểu vẫn mong trở lại chịu đựng sự khắc khổ trí thức để dừng nơi những bấu víu xác đáng, cho sử học, thành một khoa học, cho người ta thấy rõ quá khứ trong giới hạn khả năng con người – cả người chỉ vạch lẫn kẻ thu nhận. Trên nền tảng đó, chúng ta gắng đi tìm vị trí đích thực của ba tập thể Đại Việt, Chiêm Thành, Phù Nam trong lịch sử Việt Nam. II–LẠC VIỆT LÀ CỔ VIỆT Phải nói ngay rằng, khi phát biểu Lạc Việt là Cổ Việt, chúng tôi muốn khẳng định sự liên tục trong chuyển hóa Lạc Việt – Đại Việt. Nhưng điều nầy mắc phải sự cản trở của ông Nguyễn Phương. Đối chiếu ý tưởng với ông Nguyễn Phương thật rất khó vì tính cách nghiêm túc, cẩn trọng của tác giả này. Sử học muốn là một khoa học nên có cái tự kiêu riêng của nó, muốn gạt bỏ « những kẻ lạ mặt trong làng », không chấp nhận ý kiến của những kẻ không chuyên môn, những kẻ không được rèn cặp bằng phương pháp luận, những kẻ chưa « tiên lợi kỳ khí ». Cho nên mở đầu bài « Tiến trình hình thành… », ông Nguyễn đã nêu ra những nguyên tắc căn bản : « Tất cả các dân tộc trên thế giới (…) đều là những thứ người hỗn hợp, không thuần túy thuộc về một loại nhất định. Vì vậy một điều hết sức quan hệ cần chú ý là phải tìm nguồn gốc đại đa số dân chớ không phải dừng lại ở một thành phần nào, rồi bám chắc vào đó nói đó là nguồn gốc của dân tộc… Lấy cái giống làm đường lối tìm tòi, giống trong phong tục, trong tôn giáo, trong ngôn ngữ, trong nhân chủng (…) chưa đủ, còn (…) sự thay đổi của dân tộc qua trường kỳ lịch sử… Tìm lịch sử là phải dựa vào sử liệu, những sử liệu chính xác, đáng tin chứ không dựa vào những chuyện u linh, quái đản ». Trong bài, rải rác đến cuối cũng có những biện hộ lý thuyết : « Dựa trên sử liệu, chúng tôi đã cố nhìn vào nguồn gốc dân tộc Việt Nam một cách vô tư, không để cho một thành kiến, hay một lý thuyết nào có sẵn chi phối ». Chúng ta cũng bắt chước tính cẩn trọng đó để trình bày ý kiến. Trước nhất theo ý chúng tôi, khởi điểm cho giả thuyết của ông Nguyễn Phương là quan niệm về sử liệu và sự sử dụng tài liệu. Trả lời câu hỏi thế nào là tài liệu, chúng ta có thể thấy ngay đồng ý hay không đồng ý với giả thuyết của ông. Sử liệu, như ông đã nói, phải chính xác, đáng tin, chứ không phải những chuyện u linh, quái đản. Chúng ta phải nghĩ rằng quan niệm đó có hơi hẹp hòi. « Mọi thứ đều là tài liệu »50. Tài liệu chính xác, đáng tin hay không, đáng tin đến mức độ nào là tùy ở khả năng, sự trung thực của sử gia cho phép. Nghe sử quan nhà Nguyễn kể chuyện Gia Long bị Tây Sơn rượt, lênh đênh ngoài biển bảy ngày, bảy đêm, cầu trời bỗng được nước ngọt giữa biển, chúa tôi hết khát, cầm hơi quay về Phú Quốc, một sử gia mới học cách trí sao chẳng cho đó là chuyện bịa về phước mạng đế vương ? Nhưng hãy nhìn kỹ từ chỗ của Ma Ly mà Nguyễn Ánh chạy ra biển, hãy nhớ đến lưu lượng lớn lao của sông Cửu Long, hãy nhìn vào một tấm bản đồ vẽ đáy biển nơi nầy, sao ta không có một giải thích thỏa đáng về hiện tượng trên ? Bởi vậy, sách của Trần thế Pháp, Lý tế Xuyên51cũng là tài liệu. Tài liệu hai lần : tài liệu ghi nhận quá khứ trước thời đại họ và chứng từ về ý thức tâm lý của thời đại các tác giả đó sống. Ta không thấy lối sinh hoạt tế lễ trong dân chúng dưới đời Đinh qua câu chuyện Mộc tinh đó sao ? Sao không nghĩ rằng khi truyện Man nương kể việc một nhà sư, hiệu là Gia la Đồ lê, từ phương tây qua tu ở chùa Phúc Nham « hay làm phép đứng một chân », đó là dấu vết, nếu không là Bà la môn giáo, cũng là một hình thức Phật giáo nặng hình thức Fakir vào thời Sĩ Nhiếp ? Những bằng chứng này, đối chiếu với những khai quật cổ học về nền văn minh Lạc Trường, đâu có phải là những tài liệu mơ hồ, quỷ mỵ ? Chín cổ thành Troie, văn minh Mycène, Cnossos làm sao phát kiến được, nếu Schieleman coi quyển Iliade, Odyssée là kết tinh từ tưởng tượng phong phú của anh cuồng đồ Homère nào đó ? Câu chuyện I8 đời vua Hùng trị vì 2000 năm thật khó tin, nhưng sao ta không nhìn thấy ở đó sự giải thích của thời đại Lý Trần về sự phối hợp bản chất văn hóa xưa cũ của địa phương văn hóa Austro – asiatique – với những yếu tố văn hóa phương bắc tràn xuống mà họ Trần có lẽ không quên là nơi phát xuất của ông tổ họ ? Bộ ba Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng trở thành Hùng vương, Lạc hầu, Lạc tướng ; con cá sấu thành con giao, con long ; con chim Lạc thành Tiên, đó sao không phải là cố gắng giải thích chuyển hóa sau thời độc lập, những truyền thống thời tiền-ngoại-thuộc ? Vậy không phải là tài liệu không đáng tin, nhưng chính giới hạn kiến thức của người khảo sát đã khiến tài liệu không đáng tin. Rồi từ sự bất cập đó, người khảo sát đã chen vào trong luận cứ mình những phán đoán đầy thiên kiến. Mà như ta đã biết, sử học, muốn trở thành một khoa học, phải loại trừ những phán đoán giá trị đi. Ngô sĩ Liên lụm cụm, không biết đến khoa thổ tục học, nhân chủng học là gì mà còn không dám quả quyết là loạn luân câu chuyện dâu gia giữa kinh dương Vương, Đế Nghi52, huống chi chúng ta là người đời nay, được biết cả một lô những sự kiện về vấn đề inceste ! Quan niệm về tài liệu không phải dừng lại trong khuôn khổ những tài liệu thành văn mà còn thoát ra ngoài khuôn khổ đó nữa. Quan niệm ethno – histoire bị phủ nhận53, cũng như không có các khoa archéo-histoire, astro-histoire… nhưng sử học phải thu nhận những kiến thức ở các ngành khoa học nhân văn khác, càng ngày càng nhiều54. Những xác nhận của ông Nguyễn về sự giống nhau của dân Việt nam và dân Trung Hoa là một lối nói khác của sự phân biệt dân Lạc Việt và dân Việt Nam. Ông lấy chứng dẫn của ông Văn Tân ngoài Bắc để chứng tỏ về tôn giáo, người Lạc Việt có tô tem là chim mà người Việt Nam lại không có. Vấn đề này, ông Bùi hữu Sũng đã trả lời, tiếc rằng ông Nguyễn Phương, khi đối đáp, không nhắc tới cho sáng tỏ55. Riêng chúng tôi, thêm rằng tục lấy gà làm lễ tế tam sinh là một truyền thống nối tiếp lùi trong quá khứ bởi câu chuyện An Dương vương cắt cổ con gà trắng để xây thành Cổ Loa. Truyền thống ghi chép thành văn vào thế kỷ I4, nhưng có thể xuất hiện và thừa kế ngay ở thời cổ sơ vậy. Về sự sử dụng trống đồng, những bằng cớ của ông Nghiêm Thẩm đưa ra trong bài « Sự tồn tại của bản chất indonésien trong nền văn hóa Việt nam »56không thấy phủ nhận khi bài nghiên cứu lịch sử Lạc Việt, đăng vào năm I96I, được khai triển và đăng lại năm I965. Chúng ta nên lưu ý rằng thuyết ông Nguyễn nằm trong hai giới hạn : không gian (Hoành Sơn trở ra) và thời gian (đến thế kỷ thứ I0). Những luận cứ của ông Nghiêm cũng như ông Bùi nhằm vào việc tìm vết tích indonésien hay Lạc Việt trong giới hạn đó, đã trực tiếp hay gián tiếp chận đường thuyết ông Nguyễn, và luận cứ lan rộng trên nhiều lãnh vực chứ không phải bao gồm một thiểu số người trong vùng. Về phương diện nhân chủng, chúng ta không có tài liệu do người Đại Cổ Việt chẳng hạn, để biết mực độ mongolic trong dân chúng lúc ấy như thế nào. Ông Nguyễn Phương lại không cho ta rõ bằng cớ về phía đó và sự giống nhau trong nòi mongolic giữa người Việt và người Trung hoa có vẻ như là một khởi điểm tai hại cho ông trong cách thế khai thác sử liệu. Lối sắp xếp nhân chủng miền Đông Á có nhiều điểm phân vân :57 Hãy xem Ashley Montagu đặt người Nam Trung hoa, Đông dương, Miến, Thái, nội địa quần đảo Mã lai vào nhóm Indonésien cùng vói nhóm Mã lai ở trong sous-groupe mongoloïde – indomalais, khác với người Tàu Tây Tạng, Nhật, Triều tiên, Sibérien trong sous-groupe Mongoloïde cổ điển. Bà P. Laviosa Lambotti thì cho chủ nhân của nền văn minh nông nghiệp Samrong Sen (bao gồm cả Hòa Bình) là thuộc một loại Mông cổ xưa (dân proto mongolidé) pha trộn với giống Australoïde – négroïde, nói các thứ thổ ngữ austroasiatique 58. Giả thuyết này hình như gặp đồng tình ở người chú thích bức ảnh viên tù trưởng miền Cao nguyên khi nhà khảo sát này thấy giống đặc biệt với người tù trưởng da đỏ ở Mỹ châu, con cháu của một dòng Mongolic từ Sibérie tràn qua eo biển Béhring vào một thời băng giá xưa59. Cho nên tòa soạn Đại Học cũng phải thấy sự phức tạp của vấn đề để phân vân có lý rằng : « Có thể căn cứ vào một vài tài liệu sử học để chủ trương rằng dân Việt Nam từ dân tộc Trung Hoa mà ra. Nhưng vì sao ngôn ngữ của ta lại không phải là ngôn ngữ của người Tàu như trường hợp người Hoa kỳ, người Úc đối với người Anh ? … Ngoài ra lại có những bác sĩ cho rằng yếu tố Rhésus trong máu người Việt Nam không có một số lượng như trong máu người Tàu ? ». Nhưng hãy trở lại mớ tài liệu thành văn của ông Nguyễn Phương đã dùng để thử coi giả thuyết của ông nêu ra có thể chấp thuận được không. Ông Nguyễn bác bỏ « những chuyện u linh quái đản » vì thấy cái sai của Ngô sĩ Liên – trường hợp chuyện Triệu quang Phục – không có một chút thắc mắc nào, ông xa lánh những ý nghĩa thổ tục, trong các trang truyện huyền hoặc của Đại Việt sử ký, Lĩnh nam Chích quái, Việt điện U linh rồi thay vào đó bằng tài liệu của Tư trị Thông giám một cách cả tin. Điều đó thực đáng trách. Phương pháp luận sử học giáo khoa vẫn bảo ta phải phê phán một tài liệu có dưới tay – Công trình khoa học nào chẳng phải chịu đựng sự tra hỏi ? Tuy nhiên, tra xét, phê bình một tài liệu, không phải là vứt bỏ tài liệu ấy đi nhưng là để tìm lấy những gì còn dùng được. Nước Trung Hoa văn minh sớm hơn chúng ta, tài liệu sử sách có trước chúng ta, nên khi xét về thượng cổ sử Việt Nam, ngay cả đến các sử quan ngày xưa của chúng ta vẫn lấy tài liệu ở người bạn lớn phương bắc. Đừng nghĩ rằng các cụ nhắm mắt chép bừa mà mang tội. Ngô sĩ Liên thêm họ Hồng Bàng chẳng hạn, ngoài cớ bởi sự thúc đẩy của ý thức quốc gia, còn có sự thúc đẩy của ý thức phê phán : thêm vào « chính sử » phần ông cho là còn thiếu. Và chúng ta hiện nay khi dùng lại tài liệu Trung Hoa, thì không phải vì tinh thần vị quốc mà vì tinh thần phê phán khoa học thu nhận của Tây phương chúng ta phải phê bình các tài liệu đó trước khi sử dụng. Nói gọn ở đây, những tài liệu của sử sách Trung Hoa được ông Nguyễn Phương đem ra dùng một cách thiếu dè dặt, hay nói cách khác, ông tưởng đã dè dặt đủ rồi. Người Trung Hoa tất phải chép sự kiện xảy ra dính líu với người Trung Hoa trước. Tôi không nói luôn luôn phải, nhưng trước hết phải : điều không lấy làm lạ vì những nguyên cớ tâm lý ăn sâu vào bản tính con người. Tất nhiên cũng còn tùy thuộc vào loại sách ghi chép : một quyển du ký có nhiều tài liệu địa phương, còn một quyển sử triều đại thì chỉ nói đến đại phương đó khi có những liên quan gợi nên (sứ thần, quan chức cai trị, thương mãi…). Bởi vậy, nếu không bắt đầu bằng một ý thức cẩn trọng, trước những tài liệu nói đến sự di-cư qua phía nam của người Trung Hoa, thay vì phải giới hạn kết luận ở chỗ : « suốt ngàn năm Bắc thuộc, người Trung Hoa đem đến cho trung châu Bắc hà một sự đóng góp nhân chủng, văn hóa đến cao độ », người ta lại có thể nghĩ rằng giống như người Anh tới Úc, tới Hoa Kỳ, người Trung hoa sang Việt-Nam thành lập với con cháu họ một nước mới, một nước Trung hoa con, dân chúng da nám hơn, dễ xúc động hơn vì nắng nhiệt đới. Trên kia ta có nhắc tới ý niệm thiên hạ của người Trung hoa « Thiên hạ », dưới trời, của người Trung hoa, là giới hạn không gian mà văn minh Trung hoa lan tràn tới. Bên ngoài giới hạn đó là Man, là Di, là Địch, là Nhung, là Phiên…60. Và cương giới « thiên hạ » mở rộng ra khi người Trung hoa có nhiều mối tiếp xúc trong tư thế lấn át với bên ngoài hơn. Bởi vậy, cho nên dân Man miền nam mới theo ngày tháng mà chen vào lịch sử Trung hoa với các tên Ngô, Sở, Việt…, Bách Việt mới được chỉ rõ ra là Đông Âu, Mân Việt, Lạc Việt… Khi người Trung hoa cai trị được ta rồi thì coi là Man, là Liêu, đám dân miền núi khó trị, cố chấp giữ truyền thống, vì ảnh hưởng binh lực kẻ chiếm đóng không tới nơi. Còn đám dân đồng bằng, chịu phục tùng, chấp nhận và bắt chước lối sống của kẻ đi chinh phục, cho nên được nhận vào vòng dân của Hoàng đế được « vương hóa ». Đó là lời giải thích cho vấn nạn vì sao người Lạc Việt sau này không được nhắc tới mà chỉ nghe nói đến đám dân dã thần phục ở phía nam (An nam) dân đất Giao, châu Giao, những danh hiệu còn ý nghĩa đặc trưng địa lý hơn là tính cách đặc trưng nhân chủng. So sánh với một mực độ thô thiển, giống như khi ta có bổn phận với một người con nuôi, với một người lạ được chấp nhận vào vòng thân tộc, các quan Trung Hoa vì quyền lợi thực tiễn nữa, phải bảo vệ đám con dân bản xứ, một khi có « lũ phản loạn » : quấy phá và « lũ phản loạn » cũng không thể nào đánh quan lại Trung Hoa mà không chạm tới dân đồng chủng. Vì thế, không thể nhận rằng 60 thành mà Bà Trưng đánh phá gồm toàn dân Trung Hoa, phải coi I2 ngàn người đi theo Mã Viện phần lớn là người bản xứ Giao Chỉ, phải nghĩ rằng Cao Biền xây 40 vạn gian nhà tất để đồng bào ông chọn thứ khang trang ở, nhưng cũng dành phần còn lại cho dân bản xứ để chúng sống yên mà cai trị. Nói để người Trung Hoa chọn nhà tốt, không dựa trên một bằng cớ sử liệu nào hết, và chắc không ai đem câu đó chép vào một quyển sử đứng đắn sau này, nhưng điều đó suy diễn từ sự kiện chắc chắn là trong thời kỳ Bắc thuộc, người Trung hoa và lai Trung hoa, tất phải được hưởng quyền lợi hơn người bản xứ. Cho nên, khi Mẫu quốc không còn giữ được binh lực ở thuộc địa, những quan cai trị không còn quyền bính nữa, thì những người lai giống địa phương, nhờ uy tín, nhờ tiền của thâu nạp trong thời thuộc địa, lại bất mãn vì không được quyền lợi như người chính quốc, sẽ nhảy ra nắm lấy chính quyền, và được dân chúng ủng hộ. Đó là trường hợp của Lý Bí. Vì Bí là người gốc Tàu nên phổ hệ còn lại, khác hẳn với đám Đinh bộ Lĩnh, Lý công Uẩn, truyền thuyết người chăn trâu, kẻ làm con nuôi vị sư là dân bản xứ nên gốc tích tối tăm mù mịt. Vậy Lý Bí không phải là « người Việt Nam đầu tiên » mà chỉ là người trung gian trong biến chuyển giành độc lập thôi 61. Xin không lấy ví dụ ở ta mà vừa nguy hiểm, vừa không tôn trọng tính chất bất hồi của sử kiện. Hãy lấy ví dụ của các nước Phi châu, làm thuộc địa trong thời kỳ bộ lạc, và giành được độc lập trong thời kỳ nguyên tử mở màn62. Sir Roy Wellensky, Thủ tướng Hội đồng Liên bang Rhodésia Nyassaland có cha là một người Lithuanie, Tổng thống Kasa vubu của Cộng hòa Congo-Léopoldville có ông là một người Trung Hoa ; địa vị đó là kết quả của một chừng mực ưu đãi trong quá khứ mà dân bản xứ khó được hưởng. Nhưng xuất xứ của những vị nguyên thủ dù từ đâu đến, cũng không thể là bằng cớ để phủ nhận nguồn gốc đám dân chúng dưới quyền. Nước Xiêm La có một Phya Tâksin, dân Minh Hương, lên làm vua, đâu có phải vì đó mà không xưng được là « đất của người Thái » ? Lý Bí ý thức rõ ràng hơn ông Nguyễn Phương tưởng về địa vị của ông trong nước ông cầm đầu vừa giành được độc lập, không xưng mình là « vua nước Việt » (Việt đế) – tất nhiên gượng gạo hơn Đinh bộ Lĩnh, vua nước Đại Cồ Việt, và vị Thái sư « phò nước Việt » triều LÝ. Trở lại sự so sánh trên, ta thấy các nước Phi châu tân lập đã lấy lại danh hiệu các quốc gia trước thời ngoại thuộc, ít hay nhiều có dính dáng tới khu vực hiện tại : Cọng hòa Mali, Cọng hòa Ghana, Cọng hòa Magalasi…63để chứng tỏ sự kế tục truyền thống. Lý Bí không lầm lạc đâu, vì sau khi ông Nguyễn Phương tưởng yên chuyện trung châu Nhĩ Hà, đã thiên lý luận về phía nam, để quyết đoán vai trò đa số của người « Việt mới » lấn át dân bản xứ nơi khu vực này trong ý nghĩa chức quyền Hành quân Tổng quản của Lưu Phương, thì rải rác khắp nơi ta gặp những dấu nổi loạn của dân bản xứ, chứng tỏ thổ dân đủ cứng đầu để không chịu khuất phục và đủ số đông để gây khó khăn cho quan lại Triều đình. Muốn khỏi tra xét lôi thôi, chúng tôi lấy ngay các tài liệu của ông Nguyễn Phương. Hai năm sau khi Nhật nam qui thuận nhà Đường (624), một người tên Cương tử Lộ làm phản. Năm 687, có cuộc « nổi loạn của dân thổ » mà một người cầm đầu là Lý tử Thận. Năm 722, ở Hoan Châu, Mai thúc Loan làm loạn dấy quân 40 vạn, liên minh với Lâm ấp, Chân Lạp, Kim Lân chống Triều đình. Năm 79I, tù trưởng Đỗ anh Hàn vây Đô hộ phủ. Năm 8I9, lại có loạn của Dương Thanh, cựu Thứ sử Hoan châu mà Đại Việt Sử ký ghi thêm là « đời đời làm chủ dân mường ». Những chứng cớ nầy không thể bỏ qua được, nhưng ông Nguyễn Phương đã cố rút tầm quan trọng hiện diện của người địa phương nên cho đám loạn quân 40 vạn, liên minh với các nước, do một người đen da làm chủ, chỉ là một cuộc nổi dậy hơi quy mô và số lượng quân lính chỉ là tương truyền, trong khi chấp nhận không bàn cãi, số lượng 40 vạn nhà do Cao Biền cất (cứ bổ đồng 2, 3 người ở một nhà thì La Thành hồi đó có tới triệu dân ?). Trong khi đó H. Maspéro64dựa trên chữ « An nam thủ lảnh », « An man man cự » để xác định Hắc đế là probablement un seigneur thai ou muong. Dân bản xứ còn đó, lại thêm được học cách tổ chức kết tập xã hội, cải biến sính hoạt, sức mạnh mới của họ làm e dè quan quyền trị nhậm. Vì lẽ đó, Lý Bí khởi quân thì người theo đầu tiên là Triệu Túc, tù trưởng Châu Diên (bộ lạc của chồng Bà Trưng). Và khi thua quân, Lý Bí không chạy về miền xuôi, nơi ông Nguyễn Phương giả định có đồng bào của Lý, mà lại chạy về phía Châu Diên, qua Mê Linh, Phong Châu65, toàn là địa bàn của đám chủ tướng chống đối Mã Viện hồi đầu kỷ nguyên ! III–SỰ HÌNH THÀNH SƠ KHỞI CỦA QUỐC GIA VIỆT NAM Vậy sự liên lạc Lạc Việt – Đại Việt đã được chứng minh. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta chấp thuận một sư tiến triển dản dị, thuần nhất chủng tộc, đã đưa đám thổ dân trung châu Bắc Việt từ giai đoạn bộ lạc đến giai đoạn tổ chức thành quốc gia, cởi bỏ ách ngoại thuộc. Trên quan điểm động, Đại Cồ Việt có khác với Lạc Việt – điều đó không có gì làm ngạc nhiên – nhưng đó là sự khác biệt cần thiết của tiến hóa chứ không phải khác biệt gây nên bởi những nguồn gốc khác nhau. Hãy bắt đầu từ nơi nào mà thời gian và chứng cớ cho phép nhận biết ; hãy cố dừng lại trong vấn đề quy định. Đám thổ dân sinh sống ở trung châu Nhĩ Hà không phải chỉ là một dúm dân lẻ loi, mà là bộ phận của tập thể văn hóa lớn nằm tràn về phía bắc Chí tuyến Giải đến tận song Dương tử. Đại bộ phận đó, của tập thể đó, trước sức tràn lấn của văn minh phương bắc, đã gia nhập vào hàng ngũ Trung Hoa với các tên Ngô, Sở, Việt66. Sức tràn lấn đổ về phía nam bị ngăn trở, một phần vì sự chống đối quyết liệt của dân địa phương, (trường hợp Dịch hu Tống, An Dương Vương), một phần vì sự tan rã ở trung tâm Hoàng Hà (Tần, Hán, Sở), phần nữa trực tiếp từ nguyên nhân trên, vì sự cát cứ của quan lại Triều đình (trường hợp nhà Triệu). Đám người bị sáp nhập vào Trung Hoa đó không phải chịu đồng hóa dễ dàng. Không nói đến đám dân Miêu tử, không nói đến nước Đại Lý, Nam Chiếu sau này, ta thấy sự cưỡng ép đó xuất hiện phần nào trong tư trào văn học, triết lý miền Dương Tử. Giọng điệu bi ai của Sở từ so sánh với sinh hoạt nhã thuần, đằm thắm của Kinh Thi ; triết lý Đạo giáo có dấu vết tin tưởng nữ thần của nền nông nghiệp ở Trường giang, trong khi tìm cách siêu hóa đã chứng tỏ một mối hoang mang, lạc lõng, tiếc thương, hoài niệm quá khứ, khác với mối sinh hoạt tư tưởng phương bắc vững tin nơi hiệu quả của cơ cấu xã hội dưới sự bảo trợ của bực « thiên », « đế ». Sự khác biệt đó làm giàu cho tư tưởng Trung Hoa, nhưng cũng làm bằng chứng cho điều ta xác nhận là đám thổ dân Trường giang đi vào đại gia đình Trung Hoa vẫn chưa thấy hòa đồng được còn sống bên lề tập thể đó một thời gian khá lâu, và ý thức về điều đó mạnh tới nổi gây thành một trào lưu tư tưởng riêng. Đám thổ dân Lạc Việt có một lề lối sinh hoạt nông nghiệp và một tổ chức chính trị dựa trên cơ sở đó, cả hai đều có tính cách thô sơ : ruộng ăn nước nhờ thủy triều, xới bằng cuốc đá trau, hệ thống giai cấp với các tên trong sách Tàu là Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng. Sinh hoạt nông nghiệp đó, người Tàu đương thời không biết đến67. Cho nên chắc không phải là với ý lập dị mà giáo sư Trần kinh Hòa đề nghị tìm gốc chữ Lạc ở tiếng Chàm là alauk miếng (pièce)68. Thời tân thạch Samrong Sen có dấu vết nông nghiệp69. Và trung châu Đồng nai hiện nay, dù bị che lấp ồ ạt bằng đủ các thứ dụng cụ đưa nước vào ruộng, mới có, cũ có (máy bơm, xa quạt, gàu tát) vẫn cho thấy rõ người ta còn dùng hình thức ruộng Lạc, vì đó là cách dản dị nhất, tốn ít công nhất : nông dân các vùng sông Vàm Cỏ, chờ lúc triều lên, cuốc lấy một trổ ruộng cho nước sông chảy vào ; mía trên vùng cao (Gia Định, Bình Dương, Biên Hòa) được trồng trên luống, chừa rãnh dưới chân cho nước ngọt theo thủy triều ra vào hàng ngày khỏi thúi gốc mà lại không phải tưới. Lối lấy nước ruộng thô sơ đến như vậy tất cả không phải chờ đến thế kỷ I7, những người miền ngoài vào chỉ cho, người ta mới biết được. Cho nên chúng ta đề nghị gọi nền văn minh nông nghiệp đó một tên chung là Lạc điền để chỉ như một hình thức duyên hải của nền văn minh Samrong Sen mà người ta muốn ghép cho toàn vùng Đông nam Á. Sức đề kháng của nền văn minh phương nam được yếu tố thiên nhiên giúp đỡ : khí hậu ẩm ướt, gay gắt miền nhiệt đới cùng đám rừng rậm hoang vu của nó tạo ra, ngăn trở những toán quân phương bắc trong chừng mực mà những tiến bộ kỹ thuật của Trung Hoa chưa giúp họ vượt qua. Sức chống đối của thiên nhiên phối hợp khả năng với đám dân bản xứ càng ngày càng mạnh hơn. Không phải ngẫu nhiên mà các nước bên dưới chí tuyến Giải đều không bị người Trung Hoa xâm chiếm qua những cuộc tiến quân ồ ạt lúc đầu rồi lại tan tác vì dịch tể, đói khát lúc sau. Biên giới không phải chỉ mang ý nghĩa một ngăn cách thuần túy thiên nhiên mà còn là một đường vạch co dãn phân định hai lĩnh vực văn hóa. Nhưng tác dụng của văn hóa Trung Hoa trên Đất Cổ Việt không phải có tính cách tiêu diệt, phá hoại. Đám Lạc hầu, Lạc tướng khi được Triệu Đà cho quyền cai trị dân họ để ông rảnh tay đối phó với Hán Vũ đế, Lữ hậu, đã thu nhận phần nào quy mô của kỹ thuật đồng thau vùng Lưỡng Hà70. Cho đến khi toán quân Hán của Phục Ba Tướng quân Lộ bác Đức tiến vào Phiên Ngung thì đám tù trưởng đó mới thấy bị đe dọa nặng nề hơn. Tô Định chỉ là cái bung sũng cho người sau trút tội gây nên cuộc khởi loạn của đám tù trưởng Chu Diên, Mê Linh thôi. Trước đó, Tích Quang (I-5) rồi Nhâm Diên (20-33) đã đem những cải cách mới cho dân chúng, xáo trộn trật tự cũ : lễ cưới hỏi khiến ràng buộc đám dân chúng trước đó sống phóng túng ; lối làm ruộng cày trâu, chấp nhận một hệ thống thần linh với những lễ tiết mới loại bỏ tính cách thần linh của tù trưởng và từ đó đe dọa uy quyền thế tục của họ. Cho nên, Tô Định có « tham bạo », có chém thêm một ông Thi, tưởng để có thể ngăn ngừa được sức phản đối thì cũng chỉ là làm tràn thêm một cốc nước đã đầy thôi. Sự bất mãn có tính cách tập thể và ở ngay căn bản sinh hoạt sâu xa như vậy, giải thích vì sao sức phản đối đủ mạnh để đuổi Tô Định, nhưng lại dễ dàng tan rã trước quân Mã Viện. Không quên tài ba của viên tướng này, không quên đám quân tinh nhuệ dưới quyền, ta phải ghi nhận sức chống đối rời rạc của loạn quân. Ba năm Bà Trưng giữ gìn được đất nước chỉ là thời gian chuẩn bị cất quân chinh phạt của triều đình nhà Hán mệt mỏi vì phản ứng Vương Mãng. Sự kết hợp lỏng lẻo của loạn quân là do bởi tổ chức chính trị của họ chưa rứt bỏ được tình trạng bộ lạc. Ông Nguyễn Phương đã phân biệt Lạc Việt không phải là Tây Âu71 H. Maspéro cũng xác định được dân Dạ Lang ở huyện Chu Ngô, quận Nhật Nam « không biết cất nhà, ở trên cây, ăn cá thịt sống, buôn hương ». Mã Viện vào Thanh Hóa săn dư đảng Bà Trưng, thấy ở đấy dân sống nghề chài lưới, săn bắn, ăn thịt trăn, bắn tên đầu bịt xương và làm ruộng rẫy. Nhưng cổ vật đào được cũng không chứng tỏ ưu thế của tô tem ta quen gọi là Lạc : trống đồng Đông Sơn (Thanh Hóa) và hữu ngạn sông Hồng có hình chim, có người mang lông chim, mác đồng đào ở Thanh Hóa có hình chim, nhưng mác đồng đào ở Kiến An chỉ có hình cá sấu và lẫn lộn ở thống đồng Đào Thịnh (Yên Báy) thì có hình chạm người, thuyền, chim, cá sấu, con vật ám ảnh quen thuộc của người dân đất Giao72. Khi coi cuộc khởi loạn của Hai Bà là một phản ứng căn bản văn hóa thì ta cũng thấy được sự thành công của Mã Viện ồ ạt xua văn minh Trung Hoa vào đè bẹp văn minh Đông Sơn chỉ còn có một nửa tính cách indonésien bản xứ. Vai trò những di dân Trung Hoa nổi bật lên và một mặt thổ dân phải chấp nhận đổi thay, một mặt các làn sóng người Bắc phương tràn xuống chiếm ưu quyền khiến tình trạng văn háo, nhân chủng của địa phương càng thay đổi đi. Nhưng tiếng ngựa Mã Viện hí vang trời cũng không che lấp được tác động tiếp tục chuyển biến văn hóa trong vùng, lần này bắt nguồn từ một phương khác, phương tây. Có hai nguyên nhân khiến cho văn minh Ấn Độ truyền sang đông : tìm vàng và truyền đạo Phật. Vàng La Mã là Sibérie không đến nữa, Ấn Độ bèn quay sang đông. Phật giáo mang tính """