" Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa Tập 6 - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tập San Nghiên Cứu Văn Sử Địa Tập 6 - Nhiều Tác Giả full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : TẬP SAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA 6 Tác giả : NHIỀU TÁC GIẢ Nhà xuất bản : BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA HÀ NỘI Năm xuất bản : 1955 ------------------------ Nguồn sách : Đức Châu Đánh máy : Đỗ Trung Thực Kiểm tra chính tả : Tô Thúy Nga, Trương Thu Trang Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 26/08/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn TÁC GIẢ và BAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA HÀ NỘI đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC TINH THẦN TRANH ĐẤU ĐỂ BẢO VỆ ĐỘC-LẬP VÀ HÒA BÌNH CỦA DÂN TỘC VIỆT-NAM MỘT VẤN ĐỀ VỀ VĂN HỌC SỬ VIỆT-NAM : CÓ THỂ LIỆT NHỮNG BÀI VĂN YÊU NƯỚC DO NGƯỜI VIỆT-NAM TRƯỚC KIA VIẾT BẰNG CHỮ HÁN VÀO VĂN HỌC DÂN TỘC CỦA TA KHÔNG ? I. Sự phát triển văn học dân tộc của Việt-nam II. Nội dung dân tộc và hình thức dân tộc III. Những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Trung-quốc cần được liệt vào kho tàng văn học Việt-nam BÓC TRẦN QUAN ĐIỂM THỰC DÂN VÀ PHONG KIẾN TRONG QUYỂN « VIỆT-NAM SỬ LƯỢC » CỦA TRẦN TRỌNG-KIM I. Lời nói đầu II. Những quan điểm phi lịch sử của tác giả « Việt-nam sử lược » III. Những quan điểm phản dân tộc của tác giả Việt-Nam Sử lược IV. Kết luận NHỮNG TIẾNG PHẢN KHÁNG CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG DÂN CA VIỆT-NAM I. Phụ nữ nông thôn đã nhận thức khả năng của họ như thế nào ? II. Tư tưởng của phụ nữ đối với việc hưởng thụ III. Đối với việc gả bán trong hôn nhân dưới chế độ phong kiến, phụ nữ đã chống đối như thế nào ? IV. Tư tưởng chống đối của phụ nữ đối với chế độ đa thê V. Đối với cảnh góa bụa, phụ nữ đã nói lên những gì trong ca dao ? VI. Kết luận ĐÁNH ĐỔ THUYẾT MAN-TUÝT TRONG KHOA HỌC ĐỊA LÝ I. Quan điểm sai lầm của Gu-ru và Rô-bơ-canh về dân số II. Quan điểm của Gu-ru và Rô-bơ-canh là con đẻ của thuyết Man-tuýt hiện nay đang được đế quốc Mỹ ra sức truyền bá để gây chiến tranh 1) Thuyết Man-tuýt 2) Thuyết Man-tuýt mới của đế quốc Mỹ và phe lũ III. Thuyết Man-tuýt không có chút cơ sở khoa học nào và chỉ là để biện hộ cho giai cấp tư sản và chống lại nhân dân lao động 1) Sự tăng nhân khẩu và mật độ nhân khẩu không phải là lực lượng quyết định sự phát triển của xã hội loài người 2) Qui luật nhân khẩu của Man-tuýt là qui luật giả tạo 3) Chính chủ nghĩa tư bản hiện nay đã gây ra nạn đói và là lực lượng phản động cản trở bước tiến của xã hội loại người 4) Nhân khẩu tăng nhanh và sản xuất tiến mạnh ở Liên xô và các nước dân chủ nhân dân là một bằng chứng cụ thể đập tan thuyết Man-tuýt IV. Kết luận : Cần phải kiểm tra lại những sách địa lý viết về Việt-Nam trước đây và đả phá thuyết Man-tuýt chứa đựng ở trong đó TÀI LIỆU THAM KHẢO : VẤN ĐỀ QUI LUẬT KINH TẾ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA PHONG KIẾN DUY VẬT LỊCH SỬ LÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA KHOA HỌC LỊCH SỬ ? TẬP SAN NGHIÊN CỨU VĂN SỬ ĐỊA THÁNG 3 và 4-1955 - Tinh thần tranh đấu để bảo vệ độc lập và hòa bình của dân tộc Việt-nam. T.H.L. - Một vấn đề về văn học sử Việt-nam : Có thể liệt những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Hán vào văn học dân tộc của ta không ? MINH-TRANH - Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển « Việt-nam sử lược » của Trần Trọng-Kim. TRẦN HUY-LIỆU - Những tiếng phản kháng của phụ nữ nông thôn trong dân ca Việt-nam. VŨ NGỌC-PHAN - Đánh đổ thuyết Man-tuýt trong khoa học địa lý. HƯỚNG-TÂN - Tài liệu tham khảo : Vấn đề qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa phong kiến. - Duy vật lịch sử là cơ sở lý luận của khoa học lịch sử. MINH-CƯƠNG TINH THẦN TRANH ĐẤU ĐỂ BẢO VỆ ĐỘC-LẬP VÀ HÒA-BÌNH CỦA DÂN TỘC VIỆT-NAM KHÓA họp Quốc hội thứ 4 vừa qua, ý chí sắt đá của nhân dân toàn quốc trong việc củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất đã được vang lên qua những nghị-quyết-án, những bài tham-luận của các đại biểu Quốc hội. Trong bài này, với những tài liệu lịch sử, chúng tôi muốn nêu lên tinh thần tranh đấu để bảo vệ độc lập và hòa bình đã trở nên một truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Lịch sử dân tộc Việt-nam là một lịch sử trường kỳ chống ngoại xâm. Từ trước, ông cha ta đã bao lần chiến đấu để giữ toàn vẹn đất đai của tổ quốc, để giữ vững chủ quyền của dân tộc. Nhưng sau mỗi lần thắng lợi, ta đều cố tìm một giải pháp hòa bình. Hai yếu tố đã đem lại thắng lợi cho cuộc chiến đấu của chúng ta là chính nghĩa và lực lượng dân tộc. Chính nghĩa phải dựa vào lực lượng của dân tộc thì chính nghĩa mới được tỏ rõ, được bảo vệ. Lực lượng dân tộc phải phục vụ cho chính nghĩa thì lực lượng dân tộc mới được phát huy, được kiện toàn. Quá trình lịch sử của dân tộc ta cũng có thể nói là quá trình đấu tranh cho độc lập và hòa bình. Đây là những chứng cứ lịch sử : * Cuối thế kỷ thứ 13, quân đội viễn chinh Mông-cổ, với đà chiến thắng từ đông sang tây của chúng, đã bị đập tan trước sức căm thù mãnh liệt và ý chí bảo vệ đất nước của dân tộc ta toát ra trong bài « hịch tướng sĩ » của Trần hưng-Đạo, trong sự đoàn kết nhất trí của hội nghị Diên- hồng. Sau khi vạch rõ những thủ đoạn bóc lột tham tàn của bọn xâm lược, Trần-quốc-Tuấn đã hạ quyết tâm « …muốn lột da, xé xác, uống máu quân thù cho hả giận… » và « bêu đầu Hốt-tất-Liệt dưới cửa khuyết ». Tới khi đã đánh thắng quân Nguyên ở bến Chương dương và cửa Hàm tử, tiến lên khôi phục kinh thành Thăng long, phấn khởi trước những chiến công rực rỡ, Trần-quang-Khải vẫn đề cao cảnh giác để củng cố hòa bình, đã thốt ra trong bài thơ tại bữa tiệc khao quân : « Chương dương cướp giáo giặc ; Hàm tử bắt quân thù. Thái bình nên gắng sức. Non nước vững muôn thu ». Từ năm 1418 đến năm 1427 là cuộc tràng kỳ chiến đấu của dân tộc Việt-nam, do Lê Lợi cầm đầu chống với quân Minh xâm lược. Hồi nghĩa quân còn lập căn cứ địa ở miền núi rừng Thanh-hóa, cầm cự với địch, bức thư của Nguyễn Trãi trả lời cho tướng nhà Minh là Phương Chính đã vạch rõ những hành vi phi chính nghĩa và kết quả tất bại của địch bằng những câu : « Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm ngọn. Tụi bay chỉ ưa lừa dối, giết hại những người vô tội, hãm người vào chỗ chết mà không biết xót xa. Trời đất không thể dung tụi bay. Cả người sống lẫn người chết đều căm thù tụi bay. Vậy mà tụi bay không biết sửa lỗi, lại còn quấy hôi bôi nhọ, sau này có hối lại cũng không kịp ! » Rồi đó, ta càng đánh càng mạnh, địch càng đánh càng yếu, Lê-Lợi đã nắm chắc phần thắng trong tay, nhưng vẫn muốn tìm một giải pháp hòa-bình, rút bớt ngày thảm khốc của chiến-tranh, nên trong một bức thư gửi cho tổng-binh Vương-Thông, có những câu : « Theo ý tôi trộm nghĩ thì cái kế của ngài trong lúc này không gì bằng rút quân về để hai nước dứt được cái nạn chém giết nhau, để cho quốc gia khỏi bị hư hại… Nay ngài lại không nghĩ thế, mà chỉ chăm chú đắp thành đào hào, hàng ngày lén mở cửa thành, cho quân ra đánh cắp rơm củi, sao mà khốn đốn đến thế ? Nếu ngài tưởng rằng thành trì hiểm yếu có thể cố giữ để đợi thời, thì tôi e nước xa không cứu được lửa gần. Nếu ngài tưởng rằng quân trong thành còn nhiều, muốn quyết một trận sống mái thì tôi nói để ngài biết rằng : khi tôi còn ở Khả lam, Trà lân, các ngài có mấy vạn quân tinh nhuệ, còn tôi chỉ có mấy trăm quân ruột thịt, vậy mà tôi còn đánh cho tan tác như chẻ nứa. Huống chi hiện nay suốt giải Diễn, Nghệ, Thanh-hóa, Tân bình, Thuận-hóa và các lộ Đông-đô, quân tinh nhuệ của tôi có hàng mấy chục vạn ; vậy thì cái cơ thắng bại, người ta có thể tính trước mà biết được rồi ». Khi quân Minh đã kiệt sức, Vương-Thông phải nhận lời giảng hòa, nhưng bên trong vẫn đắp lũy đào hào, chờ quân cứu viện. Một lần nữa, Lê-Lợi gửi thư cảnh cáo cho Vương Thông, trong đó có những câu : « Xưa nay người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì đổi mất làm còn, hóa nhỏ thành lớn. Mất thời mất thế thì mạnh trở nên yếu, yên hóa ra nguy. Sự cơ thay đổi như trở bàn tay. Nay các người không hiểu thời thế, chỉ quen gian dối, theo kiểu hạng người tầm thường, nói sao được việc dùng binh ? Các người bên ngoài thì nói chuyện giảng hòa, nhưng bên trong vẫn âm mưu giả dối. Tông tích mờ ám. Trước sau không nhất trí. Như vậy thì người ta tin sao được mà chẳng ngờ ?… Sự thế ngày nay dù có vị thượng tướng đem quân đến đây cũng quyết chẳng làm nên được trò trống gì ; huống chi Trương-Phụ chẳng qua đến để nộp mạng là hết. « Nay các ngươi thế cùng sức kiệt, binh lính mỏi mệt, trong thì hết lương, ngoài không cứu viện, bám bíu lấy một khoảnh đất, thoi thóp trong một mảnh thành, chẳng phải là miếng thịt trên thớt, con cá trong chậu rồi sao ? » Cũng bức thư này, sau khi kể 5 cái cớ bại vong của bên địch, Lê-Lợi đã nhấn mạnh vào cớ thứ sáu : « Nay ta dấy quân khởi nghĩa, trên dưới một lòng, anh hùng ra sức, binh lính ngày càng luyện, khí giới ngày càng tốt, vừa cày ruộng vừa đánh giặc. Trái lại, quân trong thành ngày càng mỏi mệt, tất nhiên phải tự diệt vong. Ngồi giữ một mảnh thành nhỏ để chờ sáu cớ bại vong ụp đến ; ta thật đáng tiếc cho các ngươi… Nếu các ngươi quyết rút quân về nước, ta sẽ cho sửa sang cầu cống, sắm sửa tầu thuyền, muốn đi đường thủy hay đường bộ đều được tùy ý. Quân ra khỏi cõi đều được đảm bảo chắc chắn, không lo ngại gì… Cuối cùng, nếu các ngươi vẫn không nghe theo lời ta thì hãy chuẩn bị một trận sống mái ở giữa đồng bằng để thử tài cao thấp, chớ không nên ngồi rù một xó làm gì ! » Đồng thời, trong những bức thư gửi cho bọn tướng nhà Minh đương bị vây hãm ở thành Bắc-giang và thành Tam giang, Lê Lợi vẫn tỏ lượng khoan hồng, lòng nhân ái bằng những câu : « Nay các nơi như Thanh-hóa, Diễn-châu, quân giữ thành đều đã mở cửa ra hàng. Vợ con tài sản của họ đều không bị đụng chạm mảy may. Ta nghĩ cái kế hay hơn hết của các ngươi bây giờ là ra khỏi thành, cùng quan đốc quân họ Sái 1quyết định việc về, để khỏi chết uổng mấy nghìn tính mệnh ở trong thành… Nếu các ngươi chịu ra ngoài thành cùng ta hòa hảo, ta sẽ coi các ngươi như anh em, bảo toàn cho tính mệnh và vợ con. Nếu không chịu như vậy thì tùy lòng các ngươi, chỉ trong sớm tối sẽ biết, không lâu gì. Đến lúc ấy các ngươi có hối lại cũng không kịp nữa ». Thế rồi, kết thúc cho mười năm chiến đấu anh dũng và gian khổ là bài « Bình Ngô đại cáo » của Nguyễn-Trãi. Nó nói lên sự toàn thắng của chính nghĩa, của dân tộc yêu chuộng độc lập và hòa bình. Chính nghĩa ấy là « làm điều nhân nghĩa, cốt để yên dân ; đánh kẻ bạo tàn, cốt để cứu dân ». Bằng ngọn bút sắc bén của nhà văn cách mạng trào Lê, những tội ác của quân giặc cướp nước đã được nêu ra và cuối cùng chính nghĩa bao giờ cũng thắng : « Lấy chính nghĩa mà thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. « Trận Bồ-kết như sấm như sét, trận Trà-lân tre chẻ ngói tan. « Sĩ khí hăng hái, quân danh vang lừng. « Bọn Trần-Trí, Sơn-Thọ nghe hơi đà mất vía, lũ Lý-An, Phương-Chính thở dốc chạy thoát thân. « Thừa thắng đuổi dài, Tây kinh đã là của ta ; Thuận đường thẳng tiến, Đông đô cũng thu phục lại. « Ninh kiều máu giặc thành sông, tanh hôi muôn dặm ; Tất-đồng thây giặc đầy nội, thối để ngàn năm. « Trần Hiệp là tâm phúc giặc, đã phải bêu đầu ; Lý Lương là tay sai giặc, cũng đà mất mạng. « Vương Thông dẹp loạn, loạn càng thêm loạn ; Mã-Anh gỡ nguy, nguy lại thêm nguy ». Cho tới khi đánh tan những đạo viện binh cuối cùng của Liễu Thăng, Mộc Thạnh, thì khí thế nghĩa quân, biểu hiện lực lượng vĩ đại của dân tộc, đã trở nên vô địch : « Voi ta uống mà nước sông cạn, gươm ta mài mà đá núi mòn. « Đánh một trận phanh thây kình ngạc ; đánh hai trận tan tác chim muông. « Như tổ kiến phá toang đê núng, như gió to rung trút lá khô. « Đô đốc Thôi-Tụ quì gối xin hàng, Thượng thư Hoàng Phúc cúi đầu chịu trói. « Đường Lạng-sơn, Lạng-giang, xác giặc ngổn ngang ; sông Sương giang, Bình than, máu thù lênh láng… « Hai đạo binh đến cứu, chưa đứng yên đã tan rã, các thành giặc hết kế, chỉ còn việc cởi giáp xin hàng ». Cũng lúc ấy, chính sách nhân đạo phát nguyên từ lòng nhân ái của dân tộc Việt nam lại được thể hiện ra : « Tướng giặc bắt về, thân tàn vẫy đuôi xin tha khỏi chết ; đạo trời không giết, chúng ta theo ý mở rộng lòng nhân. « Phương Chính Mã Kỳ được cấp năm trăm chiếc thuyền, vượt biển về mà vẫn còn mất vía ; Vương Thông Mã Anh được cấp mấy nghìn xe ngựa, về nước rồi trống ngực còn rung. « Chúng đã tham sống sợ chết, xin hòa hiếu thực tình ; ta cốt toàn quân là hơn, cùng nhân dân yên nghỉ ». Rồi, hòa bình lập lại, ngày vinh quang của tổ-quốc hiện ra : « Xã tắc vững nền, non sông mở mặt. « Trời đất qua bĩ đến thái ; mặt trăng mặt trời vừa mờ lại trong. « Xây thái bình để lại muôn đời ; rửa nhục nhã nghìn xưa hết sạch ». Những lời nói có ân, có uy, có tình, có nghĩa trong bản Bình Ngô đại cáo kể trên chẳng những biểu hiện khí-phách anh hùng, lòng tự tin của dân tộc, mà còn tỏ rõ tinh thần tha thiết với hòa-bình, gắn liền hòa-bình với độc lập. * Từ năm 1771 đến năm 1789 là cao trào khởi nghĩa của nông dân Tây-sơn, đánh tan các phe phái phong-kiến ở trong nước và giặc ngoại xâm Mãn-Thanh câu kết với phong-kiến nhà Lê. Bài hịch bằng chữ nôm của Nguyễn Nhạc khi mới lên ngôi vua đã nêu rõ chính-nghĩa trong việc dẹp loạn nuôi dân : « sinh dân phải nuôi dân làm trước ; gặp loạn đành dẹp loạn mới xong » và « sửa chính dẹp tà, lấy nhân đổi bạo ». Vì chính-nghĩa nên được nhân dân ủng hộ. Nghĩa quân Tây-sơn nắm được hai yếu tố quyết thắng là chính nghĩa và lực lượng nông dân, nên vừa vùng dậy đã làm nên những sự nghiệp long trời chuyển đất, thay đổi đại cục. Sau khi đã chôn xác hàng vạn quân xâm lược trên gò Đống-đa, tiến vào đô thành Thăng-long, trong bức thư gửi cho vua Càn-long nhà Thanh, Nguyễn Huệ đã tỏ bày tinh thần tự cứu của nhân dân và chủ trương hòa bình của mình. Cuối cùng, Nguyễn Huệ không quên cảnh cáo cho bọn xâm lược nếu còn ngoan cố, không chịu chấm dứt chiến tranh thì tiền đồ của chúng rất là phiêu-lưu : « Nếu cuộc binh đao vẫn cứ tiếp diễn thì tôi đành phải nghe theo lẽ phải, tìm đường giữ lấy vận mệnh nước mình. Lúc ấy tình thế sẽ biến chuyển ra sao, không thể biết trước được ». Rồi, sau khi đã lập lại hòa bình, trong bài chiếu của vua Quang-Trung đã nói lên ý định củng cố hòa bình, kiến thiết quốc gia : « Nước ta lâu nay loạn lạc, lại luôn luôn bị đói kém, đinh tán điền hoang… Đến nay là lúc bắt đầu ổn định thì việc khuyến khích nông tang làm cho nước được phồn thịnh cần phải tiến hành… Cảnh giầu thịnh sau này, trẫm sẽ cùng muôn dân cùng hưởng ». * Trở lên trên, lịch sử đã chứng nhận sự thiết tha với độc lập và hòa bình của dân tộc ta. Hòa bình và độc lập là hai mặt của một vấn đề. Từ trước, nguyện vọng của dân tộc ta không có gì khác hơn là tự mình làm chủ lấy mình và sống hòa bình để xây dựng đất nước. Độc lập chỉ có nghĩa là giữ vững chủ quyền của dân tộc. Hòa bình không có nghĩa là khuất phục, uốn cong tinh thần bất khuất của dân tộc. Có bảo vệ được độc lập thì mới bảo vệ được hòa bình. Nói một cách khác, hòa bình chỉ có thể lập được một khi độc lập được đảm bảo. Trần-quốc-Tuấn, Lê-Lợi, Nguyễn-Huệ đã lãnh đạo nhân dân dành quyền độc lập và đem lại hòa bình cho tổ quốc. Chính nghĩa phải thuộc về những người tranh đấu cho độc lập, cho hòa bình. Dân tộc Việt-nam yêu chính nghĩa, ham muốn độc lập và hòa bình, hàng nghìn năm luôn luôn kiên quyết tranh đấu cho độc lập và hòa bình. Truyền thống ấy ngày càng được bồi dưỡng, phát triển và biểu hiện rõ rệt nhất dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ-tịch, của Đảng Lao-động Việt-nam trong cuộc kháng chiến vĩ đại và hòa bình thắng lợi hiện nay. Ai cũng biết, sau cuộc cách mạng tháng Tám, chủ trương của ta là giữ vững chủ quyền đất nước, cố tìm mọi giải pháp hòa bình với thực dân Pháp. Từ hiệp định 6-3 đến tạm ước 14-9, ta đã cố tránh một cuộc chiến tranh đương đe dọa, tỏ rõ ý chí hòa bình. Cho tới khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm, dã tâm cướp nước của bọn thực dân đã bộc lộ rõ ràng, nhân dân ta muốn níu lấy hòa bình cũng không được nữa, nên lại phải một phen đứng dậy, quyết chiến quyết thắng quân thù. Trong 9 năm chiến tranh, giặc càng đánh càng yếu, ta càng đánh càng mạnh. Nhưng bên tinh thần hy sinh anh dũng của quân và dân ta, không một lúc nào, không một cơ hội nào, ta không tỏ rõ ý muốn hòa bình, chấm dứt chiến tranh. Đối với nhân dân nước Pháp, ta luôn luôn kêu gọi đoàn kết, thắt tình hữu nghị giữa hai dân tộc, chống cuộc chiến tranh bẩn thỉu ở Việt nam. Mãi tới trận lịch sử Điện-biên-phủ, lực lượng vĩ đại của dân tộc ta đã bảo cho quân địch biết nếu chúng không chịu chọn một giải pháp hòa bình thì sẽ bị hoàn toàn tiêu diệt trên giải đất Việt-nam. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết, hòa bình được lập lại là kết quả của cuộc chiến đấu anh dũng và gian khổ của dân tộc Việt nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hồ Chủ-tịch và chính phủ, cộng với sự giúp đỡ của các nước bạn trong phe mặt trận dân chủ quốc tế do Liên-xô lãnh đạo ; nhưng cũng còn là do ý chí hòa bình của dân tộc Việt-nam. Một dân tộc không chịu khuất phục, không chịu mất nước, kiên quyết đem xương máu để xây dựng nền độc lập của mình. Nhưng dân tộc ấy cũng rất yêu chuộng hòa bình, chán ghét chiến tranh và một khi đã lập lại được hòa bình thì quyết bảo vệ hòa bình. Đây là một truyền thống, một dân tộc tính của dân tộc Việt nam. Vì vậy, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất là hai nhiệm vụ chính của dân tộc Việt nam trong lúc này. Có củng cố được hòa bình thì mới thực hiện được thống nhất. Cũng như có thực hiện được thống nhất thì mới củng cố được hòa bình. Dân tộc Việt-nam với truyền thống anh dũng và yêu chuộng hòa bình của mình, đã từng chiến đấu cho độc lập và thống nhất tổ quốc, lại đương tranh đấu để củng cố hòa bình. Chúng tôi tin rằng : dân tộc ta, từ chín năm qua, đã thắng lợi trong việc bảo vệ đất nước ; ngày nay sẽ thắng lợi trong việc bảo vệ hòa bình. Chúng ta đã đánh bại những kẻ xâm lăng đất nước. Chúng ta sẽ chặn tay những kẻ vi phạm hiệp định. Dựa vào chính nghĩa, dựa vào lực lượng dân tộc cùng lực lượng hòa bình thế giới, chúng ta cần nói cho đối phương biết rằng : cái hòa bình mà chúng ta quyết tâm bảo vệ đây là hòa bình xây dựng trên công lý, trên chủ quyền bất khả xâm phạm của dân tộc Việt-nam. Kẻ nào cố ý vi phạm hiệp định, phá hoại hòa bình, sẽ bị chính nghĩa, bị lực lượng vĩ đại của những người yêu chính nghĩa, yêu hòa bình, đè bẹp, nghiến nát. Trước kia, dưới ngọn cờ khởi nghĩa của các vị anh hùng dân tộc như Trần-quốc-Tuấn, Lê-Lợi và Nguyễn-Huệ, dân tộc ta đã bao phen giành được độc lập và hòa bình. Nhưng một điều mà chúng ta phải nhận thấy rằng : dưới chế độ phong kiến, hòa bình chỉ là tạm thời, không phải là hòa bình lâu dài và không thể là hòa bình lâu dài. Chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, do giai cấp công nhân lãnh đạo, mới có một nền hòa bình thực sự và lâu dài. Chẳng những thế, lực lượng bảo vệ hòa bình hiện nay chẳng phải chỉ dựa trên khối đoàn kết dân tộc, mà còn có cả một hậu thuẫn vĩ đại là các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa cùng những người yêu chuộng hòa bình trên khắp thế giới. Vì vậy, trong khi điểm lại những quá trình lịch sử, chúng ta tự hào về bản lĩnh anh dũng, tinh thần bất khuất, ham muốn hòa bình của dân tộc, chúng ta càng tin tưởng vào lực lượng hòa bình ngày càng lớn mạnh trên thế giới. Hòa bình nhất định được củng cố. Thống nhất nhất định được thực hiện. Độc lập, dân chủ nhất định được hoàn thành. T.H.L. MỘT VẤN ĐỀ VỀ VĂN HỌC SỬ VIỆT-NAM : CÓ THỂ LIỆT NHỮNG BÀI VĂN YÊU NƯỚC DO NGƯỜI VIỆT-NAM TRƯỚC KIA VIẾT BẰNG CHỮ HÁN VÀO VĂN HỌC DÂN TỘC CỦA TA KHÔNG ? TRONG khi bàn đến sử văn học Việt Nam, một số anh em chúng tôi đã cùng nhau trao đổi ý kiến về vấn đề sau này : Có thể liệt những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Hán vào kho tàng văn học Việt-nam ta không ? Qua cuộc trao đổi ý kiến sơ bộ ấy, có 3 kết luận như sau : 1) Không. Vì đã nói đến văn học Việt-nam thì chỉ có thể kể đến những bài chữ nôm hay tiếng Việt mà thôi. 2) Có. Vì nói đến văn học Việt-nam tức là nói đến văn học dân tộc ; mà nói đến văn học dân tộc thì phải nói đến nội dung trước. Nội dung đã dân tộc thì sao lại không kể là văn học dân tộc. 3) Nên kể vào loại văn học Hán Việt. Vì nội dung không phải là Hán mà hình thức không phải là Việt. Trong « Bài Hịch tướng sĩ của Trần Hưng-Đạo… » đăng ở Tập san Văn Sử Địa số 5, bạn Trần Đức Thảo cũng gợi ra vấn đề này. Và bạn Trần Đức Thảo kết luận : « Vậy chúng ta hãy nhận đây là một tác phẩm thiên tài của văn hóa dân tộc… » tức là cũng chưa có ý dứt khoát rằng đó là văn học Việt-nam. Chúng tôi lại vừa có dịp đọc ý kiến của ông Nguyễn Đức Nam, một nhà giáo viết thư hỏi Nha giáo dục phổ thông (ý kiến này đăng ở Chuyên san giáo dục phổ thông số 2 năm 1955) về vấn đề nói trên. Đây là câu hỏi của ông Nam : « Trong xu hướng văn chương yêu nước của giai cấp phong kiến, có những bài hịch nguyên văn chữ Hán của Hoàng Diệu và Phan Đình Phùng. Đây là một quan điểm văn học mà chúng tôi chưa được thấy rõ. Hoàng Diệu và Phan Đình Phùng là những người yêu nước, hơn nữa là những anh hùng dân tộc nhưng họ lại dùng Hán văn để làm phương tiện diễn đạt và vũ khi chiến đấu, thì địa vị của họ trong văn học Việt-nam như thế nào ? » Vấn đề đã đặt ra, thì tất hết thẩy những người quan tâm đến lịch sử văn học nước ta đều cần cùng nhau giải quyết. Nhưng giải quyết ra sao ? Theo ý riêng của chúng tôi, muốn đi tới một kết luận đúng, chúng ta cần cùng nhau nhận định những vấn đề như sau : - Sự phát triển văn học dân tộc của Việt-nam. - Nội dung dân tộc và hình thức dân tộc của văn học. - Rồi căn cứ vào hai điểm trên đi tới giải quyết vấn đề : có thể liệt những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Hán vào kho tàng văn hóa dân tộc không. I. Sự phát triển văn học dân tộc của Việt-nam Văn học là một phương diện của sự biểu hiện thái độ của người ta đối với cuộc đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Sự biểu hiện thái độ ấy diễn ra bằng tiếng nói bằng chữ viết ghi lại ý nghĩ, tình cảm của người ta qua các thời đại. Lịch sử văn học của bất cứ nước nào, xét cho đúng, chính là quá trình của sự biểu hiện ấy. Về tiếng nói của các nước, thì không một nước nào từ lúc đầu đã có một tiếng nói ổn định ngay. Tiếng nói là « sản phẩm của cả một số thời đại liên tiếp, trong đó, nó thành hình, được bồi bổ phong phú, phát triển và trở thành tinh tế » 2. Nó phát triển « từ những ngôn ngữ bộ lạc (clans) lên đến ngôn ngữ thị tộc (tribus), từ ngôn ngữ thị tộc lên đến ngôn ngữ bộ tộc (nationalités) và từ ngôn ngữ bộ tộc lên đến ngôn ngữ dân tộc » (nations).3 Như vậy, chúng ta thấy rằng : tiếng nói của bất cứ nước nào cũng trải qua những biến chuyển trước khi trở thành tiếng nói của dân tộc. Sự phát triển của tiếng nói tiến đến một lúc nào đó thì văn tự cũng xuất hiện. Rồi văn tự cũng phát triển lên. Lịch sử chữ viết của tất cả các nước đều trải qua những bước phát triển ít nhiều tương tự nhau. Sự phát triển tiếng nói và chữ viết của dân tộc ta là một bằng chứng. Mặc dầu không phải là những nhà ngôn ngữ học, chúng ta cũng đều biết rằng tiếng nói của dân tộc ta ngày nay là kết quả sự gặp gỡ nhiều thứ tiếng nói của các tộc khác và kết quả Việt hóa những tiếng nói của các tộc khác trên cơ sở những tiếng nói đầu tiên của tộc mình. Trong những tiếng của các tộc khác, thì tiếng Trung-quốc đã làm cho tiếng của nước ta được bồi bổ thêm, phong phú thêm một cách rõ rệt. Tiếng Trung-quốc cũng như văn hóa Trung-quốc ngay khi tiếp xúc với nhân dân ta từ thế kỷ thứ X trở về trước, đã không Hán-hóa nhân dân ta như một nhà sử học nào đó đã kết luận, trái lại, lại dần dần bị Việt hóa. Chữ Trung-quốc truyền bá vào nước ta, nhưng âm của những chữ ấy đã bị Việt hóa. Ngày nay, xét trong tiếng nói của ta, rất nhiều tiếng còn gợi cho ta thấy có họ hàng xa gần với những âm của chữ Trung-quốc đọc theo Việt. Nhân dân ta đã Việt hóa chữ Trung-quốc, và dùng ngay chữ Trung-quốc để diễn ra tiếng của nước mình trên giấy trong chừng mực có thể. Hai chữ Bố, cái, nguyên nghĩa chữ Trung-quốc là Vải, là cái nắp đã được dùng để ghi những tiếng Bố, cái nghĩa là mẹ. Nhưng không có thể mượn tất cả những âm Việt của những chữ Trung-quốc để ghi được mọi tiếng nói của mình cho nên nhân dân ta vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại mỗi khi muốn ghi chép ý nghĩ và tình cảm của mình bằng tiếng nói dân tộc. Nhân dân ta không chịu khuất phục trước những trở ngại ấy. Kinh nghiệm cấu thành chữ Trung-quốc của nhân dân Trung quốc đã giúp nhân dân ta cơ sở để tạo ra chữ nôm. Sự xuất hiện chữ nôm là kết quả một quá trình lâu dài của một công trình Việt hóa chữ Trung quốc cũng như tiếng nói của dân tộc ta là kết quả của một quá trình lâu dài Việt hóa nhiều thứ tiếng của các tộc khác. Nói đến văn học sử của một nước, chúng ta không thể không nhắc đến quá trình biến diễn của tiếng nói và chữ viết của nước ấy. Nói sử văn học Pháp phải nhắc đến tiếng ga-lô-rô-manh (gallo romains), tiếng sen-tơ (celtes), tiếng phờ-răng (franc) ; phải nhắc đến chữ la-tinh và sự liên quan của nó với chữ Hi-lạp. Nói đến sử văn học Trung quốc, không thể không nói tới những chữ thô sơ viết theo tượng hình đến sự phát triển từ văn ngôn đến bạch thoại. Nói đến sử văn học của Cao-miên, Pathét Lào, thì tất phải nói đến chữ Phạn. Và nói đến sử văn học dân tộc của ta, làm sao lại không thể nói đến chữ Trung quốc ? Sử văn học của một dân tộc là sự phát triển của văn học nước ấy. Tất nhiên là cả sự phát triển về nội dung lẫn hình thức. Có những tác phẩm văn học tuy về hình thức chưa hoàn toàn dân tộc nhưng nội dung là dân tộc ; ngược lại cũng có những tác phẩm hình thức là dân tộc nhưng nội dung lại không phải là dân tộc mà là phản dân tộc. Nói đến sử văn học dân tộc của một nước, chúng ta không thể không chú ý đến điểm đó. Nghiên cứu sử văn học dân tộc của ta, chúng ta càng cần đặc biệt chú ý đến điểm ấy. II. Nội dung dân tộc và hình thức dân tộc Yếu tố cấu thành một dân tộc phải chăng là chỉ có tiếng nói ? Không. Sự cấu thành một dân tộc là quá trình phát triển để đi tới ổn định, của một khối cộng đồng người có chung nhau một tiếng nói, một lãnh thổ, một đời sống kinh tế và một đời sống văn hóa. Tiếng nói chỉ là một trong những yếu tố ấy mà thôi. Huống hồ tiếng nói của một dân tộc, trước khi được ổn định đã phải trải qua một quá trình phát triển khá lâu dài. Những bạn chủ trương rằng : không thể liệt những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Trung quốc vào kho tàng văn học Việt-nam được, chỉ là dựa vào một lẽ duy nhất : chữ Trung quốc không phải là chữ Việt-nam. Nhưng vấn đề không phải giản đơn như thế. Giải quyết vấn đề theo như bạn ấy, tức là chưa đếm xỉa đến tất cả những yếu tố cấu thành một dân tộc, và chưa thấy rõ rằng chữ viết của bất cứ dân tộc nào cũng phải trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Nói một cách khác, tức là chưa đi sâu vào những tiêu chuẩn để nhận định thế nào là văn học dân tộc. Hầu như các bạn ấy, khi nói tới văn học dân tộc, đã không nghĩ tới rằng phải chú trọng đến nội dung dân tộc của văn học. Vì vậy khi kết luận các bạn ấy chỉ đếm xỉa đến hình thức và cũng không quan tâm đến rằng : hình thức dân tộc của một nền văn học cũng không phải một buổi mai nào đó, đã xuất hiện ngay mà hình thức dân tộc của một nền văn học cũng là do trải qua một quá trình phát triển. Những bạn kết luận rằng : « Không thể liệt những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Trung quốc vào kho tàng văn học Việt-nam được mà phải coi đó là thuộc về văn học Hán Việt » cũng chính là những người chỉ đứng ở phía hình thức để nhận xét vấn đề. Lịch sử dân tộc Việt-nam là lịch sử đấu tranh để tiến lên ổn định khối cộng đồng của mình về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và về văn hóa. Trong quá trình đấu tranh để tiến lên ấy, nhân dân Việt-nam một mặt phát huy dân tộc tính của mình, một mặt hấp thụ tất cả những yếu tố của các dân tộc khác để bồi bổ dân tộc tính của mình, làm cho dân tộc tính của mình càng thêm vững chắc. Việc hấp thụ ấy không phải việc lai giống, không phải là việc hóa mình thành cái khác, mà chính là hóa cái khác, thành của mình. Văn học Trung quốc vào Việt-nam đã bị hóa đi ; nội dung văn học Trung quốc đã Việt nam hóa để phục vụ cho cuộc đấu tranh tự vệ của Việt-nam ; hình thức văn học Trung quốc tức là chữ Trung quốc bắt đầu thay đổi về âm, rồi từ chỗ thay đổi về âm, chữ Trung quốc cũng biến hóa và trở thành cơ sở để người Việt-nam tạo ra thứ chữ của mình, tức là chữ nôm. Cho nên không thể cho rằng nước ta có một thứ văn học gọi là văn học Hán việt. Vì dân tộc Việt-nam không phải là dân tộc Hán việt và bản thân mỗi người Việt nam từ xưa tới nay vẫn là người Việt-nam, chứ không phải là người Hán Việt. Chúng ta hãy trở lại vấn đề nội dung dân tộc của văn học. Theo ý tôi, khi bàn đến văn học dân tộc của Việt-nam thì trước hết chúng ta cần chú ý đến nội dung dân tộc. Nội dung dân tộc phải là tiêu chuẩn đầu tiên để xét văn học của một dân tộc. Tất nhiên là chỉ riêng nội dung vẫn chưa đủ, mà còn phải kể đến hình thức. Những truyền thuyết, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ của nước ta chính là những tác phẩm kể cả về nội dung và hình thức đều có tính chất dân tộc. Nhưng đó mới chỉ là những tác phẩm truyền miệng. Trong quá trình phát triển của dân tộc ta, đến một lúc nào đó, chữ viết mới bắt đầu có. Mà trong khi chưa có chữ viết của mình, nhân dân ta đã mượn chữ Trung-quốc để ghi ý nghĩ, tình cảm của mình. Trong những giai đoạn lịch sử ấy, ghi ý nghĩ và tình cảm bằng chữ là một nhu cầu. Nhưng chữ của mình chưa có. Nhân dân ta đành tạm thời phải mượn chữ của Trung-quốc. Những bài văn chữ Trung quốc xuất hiện, nhưng tinh thần những bài văn ấy, nội dung những bài văn ấy là tinh thần và nội dung Việt-nam. Và ngay thứ chữ Trung-quốc ấy cũng đã được phát âm theo tiếng Việt. Những âm ấy không còn phải là âm Trung-quốc nữa. Một bài văn nội dung và tinh thần có tính chất Việt nam, phục vụ cho sự phát triển của dân tộc Việt-nam thì vì sao lại không kể được là văn học Việt nam. Đó là nói về thời kỳ mà ta chưa có một thứ chữ ổn định. Nhưng ngay khi dân tộc ta đã có một thứ chữ ổn định mà vì điều kiện nào đó, người nước ta phải viết văn bằng chữ của nước khác để nói lên tinh thần dân tộc của mình thì những bài văn ấy, theo ý chúng tôi, vẫn cần được xếp vào kho tàng văn học dân tộc. Lấy tỉ dụ những bài văn của cụ Phan Bội-Châu bằng chữ Trung-quốc khi cụ bôn ba ở nước ngoài. Tiêu chuẩn chính để xét xem một bài văn có phải thuộc về văn học dân tộc là nội dung, thì những bài văn và tác phẩm nói trên rất xứng đáng là những tác phẩm văn học dân tộc. Nếu bạn nào ngại nhân dân ta không hiểu được thì có gì đâu, chúng ta sẽ dịch ra tiếng Việt, ghi lại bằng chữ Việt miễn là dịch sao cho đúng tinh thần của nó. Bây giờ lại nói đến hình thức dân tộc. Hình thức dân tộc mà nội dung không dân tộc có phải là văn học dân tộc không ? Theo ý chúng tôi, không nên liệt những bài văn với nội dung phản dân tộc vào loại văn học dân tộc. Những tác phẩm viết bằng chữ Việt nhưng nội dung nhằm ca tụng bọn phá hoại dân tộc của bọn tay sai ôm chân thực dân Pháp trước kia như Hoàng Cao Khải, Phạm Quỳnh kể sao được vào kho tàng văn học dân tộc của ta ? Những bạn chủ trương rằng chỉ cần đếm xỉa đến hình thức, chắc chắn sẽ phải nhận rằng những tác phẩm ấy không xứng đáng là văn học dân tộc. Nói đến văn học dân tộc tức là nói đến những công trình góp vào việc phát triển dân tộc, đẩy mạnh việc ổn định tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và đời sống văn hóa của nhân dân nước mình… Những bài văn đi ngược lại sự phát triển dân tộc, những bài văn nhằm đem lãnh thổ của tổ quốc mình bán rẻ cho kẻ khác, phá hoại đời sống kinh tế và văn hóa của nhân dân Việt-nam dù là được diễn ra bằng những lời văn tiếng Việt điêu luyện như thế nào, cũng không đáng được kể là văn học dân tộc của Việt-nam. Theo ý chúng tôi, đó là những tiên chuẩn chúng ta cần thỏa thuận với nhau trước khi cùng nhau bắt tay vào việc nghiên cứu văn học sử Việt-nam. Căn cứ vào những tiêu chuẩn ấy, chúng ta sẽ dễ dàng giải đáp câu hỏi : có thể liệt những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Trung-quốc, vào kho tàng văn học của ta không ? III. Những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Trung-quốc cần được liệt vào kho tàng văn học Việt-nam Nếu chúng ta thỏa thuận với nhau rằng nói đến lịch sử văn học dân tộc của Việt-nam tức là nói đến cả quá trình phát triển của văn học của chúng ta về nội dung và hình thức, thì chúng ta không thể không kể đến những bài văn yêu nước của người Việt-nam trước kia đã viết bằng chữ Hán. Văn học dân tộc của ta ngày nay chính là sự tiếp nối của sự phát triển văn học thời xưa, dù đó là những tác phẩm truyền khẩu, những tác phẩm viết bằng chữ Trung quốc hoặc viết bằng chữ nôm. Nếu chúng ta thỏa thuận với nhau rằng, nói đến văn học dân tộc của ta, trước hết ta phải kể đến tiêu chuẩn nội dung trước thì chúng ta nhất định phải kết luận rằng : những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Trung quốc cần được liệt vào kho tàng văn học Việt-nam. Chúng ta cứ lấy một vài tác phẩm làm ví dụ. Chẳng hạn bài thơ của Lý Thường Kiệt : « Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ! » 4 (Nếu bọn giặc nào đến xâm phạm Việt Nam thì liệu hồn ! chúng bay chỉ đến mua lấy thất bại mà thôi !) Ý nghĩ ấy không phải chỉ là ý nghĩ của Lý Thường Kiệt, ý nghĩ ấy là ý nghĩ của toàn thể nhân dân ta trong thế kỷ thứ 11 và bao nhiêu thế kỷ kế tiếp. Cho đến ngày nay, đối với bất cứ kẻ nào mưu xâm lược nước ta, nhân dân ta cũng sẵn sàng cảnh cáo bằng lời nói hoặc bằng chữ viết với ý nghĩ rằng : « Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm. Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ». Tất nhiên là trong điều kiện mà nhân dân ta đã có một thứ chữ ổn định rồi thì chúng ta không viết như thời Lý Thường Kiệt, mà chúng ta dùng thứ chữ ổn định của chúng ta trực tiếp ghi lại ý nghĩ của chúng ta. Trong thế kỷ thứ XI, tiếng nói của nhân dân ta, vẫn còn đang trên đà phát triển. Những tiếng Nam quốc, sơn hà, Nam đế, định phận, xâm phạm, bại đã trở thành tiếng Việt, đã bị Việt hóa. Và cả những chữ ghi những tiếng ấy cũng đang trở thành chữ nôm. Bài thơ của Lý Thường Kiệt chính là một tác phẩm đã ghi lại một giai đoạn mà khối cộng đồng Việt-nam đang tiến trên con đường ổn định hóa về tiếng nói, về lãnh thổ, về đời sống kinh tế và về đời sống văn hóa. Rồi đến thế kỷ thứ 13. Bài « Hịch tướng sĩ » của Trần quốc Tuấn và nhiều bài thơ khác viết bằng chữ Trung quốc cùng với những bài thơ viết bằng chữ nôm đã đánh dấu một bước tiến của văn học Việt-nam ở một giai đoạn mới. Văn học dân tộc của một thời đại chính là sự phản ánh xã hội của thời đại và củng cố chế độ trong thời đại. Bài hịch của Trần quốc Tuấn đã phản ánh một ý niệm về lãnh thổ của giai cấp thống trị ở Việt-nam, đã phản ánh một quan niệm về đời sống kinh tế và đời sống văn hóa của nước ta trong thế kỷ thứ XIII. Quan niệm đó là : Nếu lãnh thổ Việt nam vào tay giặc Nguyên thì « chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc của các ngươi cũng hết, chẳng những là gia quyến của ta bị đuổi, mà vợ con của các ngươi cũng nguy ; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ và trăm năm về sau tiếng xấu hãy còn mãi mãi, mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dẫu muốn vui vẻ, phỏng có được hay không ?… » Hoặc nếu có thể dẹp tan được giặc, thì : « Chẳng những thái ấp của ta được vững bền mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc ; chẳng những là gia quyến của ta cũng được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui với vợ con, chẳng những là tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được phụng thờ tổ phụ, trăm năm vinh hiển ; chẳng những là một mình ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho »… Thật là rõ ràng. Giữ được lãnh thở thì đời sống kinh tế, đời sống tinh thần sẽ giữ được, những ý nghĩ ấy chứa đựng một nội dung dân tộc rất là thiết thực trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Chính những ý nghĩ ấy đã củng cố sự vững vàng của dân tộc tính ; đã phát triển được đời sống kinh tế và văn hóa của nhân dân ta trong thế kỷ thứ XIII và đã cho phép Trần Nhân Tôn ghi lại : « Sơn hà thiên cổ điện kim âu » 5 và cho phép Trần Quang Khải ngâm lên : « Thái bình tu nỗ lực. Vạn cổ thử giang sơn ». Nội dung ấy, tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu hòa bình ấy chính là sự phản ánh ý nghĩ, tình cảm của nhân dân Việt-nam lúc bấy giờ. Như vậy, dù là viết bằng chữ Trung-quốc, chúng ta không thể nào phủ nhận được rằng những bài văn ấy không phải là Việt-nam, những tác phẩm ấy không phải là những tác phẩm văn học Việt-nam. Bài Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi trong thế kỷ XV có phải là một bài văn không ? Có phải là một tác phẩm văn học dân tộc của Việt-nam không ? Nội dung bài ấy phải chăng là nội dung Hán Việt ? « Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà thì bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại thân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khoa liễm vét không sơn trạch : nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hổ bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả. Tàn hại côn trùng thảo mộc, nheo nhóc thay, quan quả điêu liên. Kẻ há miệng đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng về vì những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay ! Trúc rừng không ghi hết tội ; dơ bẩn thay ! Nước bể khôn rửa sạch mùi… » Bản án ấy đối với quân thù của nhân dân Việt-nam lúc bấy giờ, phải chăng không phải là của người Việt-nam ? Phải chăng là của người Hán Việt ? Không ! Những lời đanh thép và thống thiết ấy chỉ là những lời ở đáy lòng của những người Việt-nam yên nước, của những người đã : « Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo ». Bài văn với một nội dung như thế, không thể liệt được là một bài văn lai Hán và Việt, mà đó là một tác phẩm văn học Việt-nam rất súc tích, dồi dào, không những nói lên ý nghĩ và tình cảm của người Việt-nam ở một thời đại, mà còn nói lên tâm tình của bao nhiêu thế hệ Việt-nam. Bài văn ấy đã đánh dấu một bước tiến lên của dân tộc Việt-nam để bảo vệ lãnh thổ của mình, ổn định đời sống kinh tế và văn hóa của mình, tóm lại đã củng cố và phát triển dân tộc tính của mình. Như vậy, vì sao lại không liệt được vào kho tàng văn học dân tộc của Việt-nam ? Địa vị của Hoàng Diệu, Phan đình Phùng, những tác giả các bài hịch yêu nước, kêu gọi nhân dân bảo vệ lãnh thổ của mình, trong văn học như thế nào ? Đối với câu hỏi ấy, nếu chúng ta đã thỏa thuận với nhau trong nhận định quá trình phát triển văn học của nước ta cả về nội dung và hình thức, nếu chúng ta thỏa thuận với nhau tiêu chuẩn để liệt một tác phẩm văn học vào kho tàng văn học dân tộc trước hết là nội dung dân tộc, thì chúng ta không thể nào gạt bỏ được những bài thơ yêu nước, những bài hịch yêu nước của bao nhiêu tiền nhân xưa kia đã viết bằng chữ Trung quốc. Vì vậy, theo ý riêng tôi thì những bài văn yêu nước do người Việt-nam trước kia viết bằng chữ Hán có thể và cần được liệt vào kho tàng văn học dân tộc của Việt-nam. Và chúng ta cần đánh giá địa vị của những tác giả các bài văn ấy một cách xứng đáng. Nghiên cứu văn học sử Việt-nam, chúng ta không thể không nghiên cứu những bài văn ấy. Nghiên cứu văn học sử Việt-nam chính là để hiểu biết xã hội Việt-nam qua các thời đại biểu hiện như thế nào trên lãnh vực văn học, thế mà lại muốn gạt bỏ những bài văn yêu nước vì những bài văn ấy viết bằng chữ Trung-quốc, thì còn căn cứ vào đâu mà hiểu được xã hội nước ta trước kia và sự biến diễn văn hóa của nước ta qua các thời đại. Xét văn học cũng như xét bất cứ một hiện tượng xã hội nào, phải chăng là chúng ta nên chỉ cần căn cứ vào hình thức ? Phương pháp suy luận theo hình thức ảnh hưởng khá nhiều trong nhiều người chúng ta, làm cho chúng ta sao lãng thực chất của vấn đề, dắt ta đi quá xa chân lý. Đã đến lúc chúng ta cần kiểm điểm lại phương pháp ấy và riêng trên địa hạt nghiên cứu văn học sử của Việt-nam, theo ý chúng tôi, chúng ta lại càng cần hết sức tránh phương pháp ấy. MINH-TRANH BÓC TRẦN QUAN ĐIỂM THỰC DÂN VÀ PHONG KIẾN TRONG QUYỂN « VIỆT-NAM SỬ LƯỢC » CỦA TRẦN TRỌNG-KIM của TRẦN HUY-LIỆU I. Lời nói đầu CUỘC cách mạng dân tộc dân chủ của chúng ta hiện nay nhằm vào hai đối tượng chính là đế quốc và phong kiến. Đứng trong địa hạt văn hóa, chúng ta có nhiệm vụ tẩy rửa những vết tích của thực dân và phong kiến còn đầy rẫy ở xung quanh chúng ta, ở bản thân chúng ta, cả ở trong đầu óc chúng ta. Riêng đối với sử học, một lợi khí sắc bén mà hàng trăm, ngàn năm nay, phong kiến và đế quốc đã dùng nó để mê hoặc nhân dân rất có hiệu lực. Vì vậy, trong khi học tập, nghiên cứu những quan điểm sử học mới, chúng ta cần phải thanh trừ những cái gì là phi lịch sử, là phản lịch sử, là phản dân tộc, là đầu độc dân chúng còn lại ở trong tủ sách, trong nhà trường, trong câu chuyện, trong ý niệm của chúng ta. Hiện nay, sau chín năm kháng chiến gian khổ và anh dũng, hòa bình đã được lập lại trên đất nước ta. Tại miền Bắc, nhân dân ta đã được hoàn toàn giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân và phong kiến. Cuộc phát động quần chúng cải cách ruộng đất đương tiến hành. Nhưng đừng tưởng như thế là chúng ta sẽ thanh toán những thù địch của chúng ta một cách mau chóng và gọn ghẽ. Kẻ thù của ta đã bị khuất bóng, bị đánh đổ trên quá một nửa đất nước ta. Nhưng tư tưởng và lý luận của chúng vẫn còn có địa vị ở trong chúng ta, còn ám ảnh, bao vây đầu óc chúng ta. Thật thế, kẻ thù bằng xương bằng thịt thì chúng ta dễ tìm thấy để chiến đấu ; nhưng tư tưởng thù địch lẩn quất ở trong chúng ta thì nhiều khi chúng ta lại dung dưỡng cho nó. Vì vậy, chúng tôi đề nghị các bạn văn hóa, đặc biệt là các người nghiên cứu văn, sử, địa nên tranh thủ thời gian, làm một cuộc kiểm điểm phê bình, tự phê bình để « cáo giác » những « tang vật » của bọn thực dân và phong kiến còn dấu kỹ ở trong các tác phẩm từ trước tới giờ. Cũng trong tinh thần « thực sự cầu thị », phê bình và tự phê bình, chúng ta nhân dịp này có thể cùng nhau thảo luận, tranh luận, đi sâu vào vấn đề để tìm ra chân lý. Nếu việc làm của chúng ta gây thành được một phong trào trên sách báo, trong câu chuyện, trong nhà trường, trong nhân dân thì việc tẩy rửa những tàn tích đế quốc và phong kiến trong địa hạt văn học của chúng ta nhất định có kết quả tốt. Cố nhiên là chúng ta xướng lên việc học tập, nghiên cứu, phê bình và tự phê bình để tẩy rửa những quan điểm đế quốc và phong kiến còn sót lại trên địa hạt văn-sử-địa không có nghĩa là cổ động người ta đốt hết những sách vở ấy đi, theo một vài kinh nghiệm trong cuộc vận động Đời sống mới ; mà chỉ là vạch ra những tư tưởng thù địch, đẩy mạnh việc học tập và xây dựng nền văn hóa mới của chúng ta. Từ số tập san này, chúng tôi bắt đầu làm cái việc tố cáo những quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển « Việt-nam sử lược » của Trần Trọng-Kim, vì nó là một quyển sử được thông dụng nhất trong thời Pháp thuộc, sau cuộc đại chiến thứ nhất. Và cho đến bây giờ đây, nó vẫn chưa bị đào thải hẳn. Như vậy, công dụng và ảnh hưởng của nó không nhỏ. Nhiều người rất khổ tâm trong khi đả kích nó, nhưng vẫn phải dùng nó, vì chưa có quyển sử khác xứng đáng thay vào. Nhưng cũng chính vì sự thông dụng của nó, chúng ta càng phải vạch rõ những quan điểm từ phi lịch sử đến phản dân tộc của nó, căn bản là quan điểm của thực dân và phong kiến, đặng đánh bạt những ảnh hưởng tai hại ấy đi. Quyển Việt-nam sử lược mà chúng tôi căn cứ vào để phê bình đây là quyền in lần thứ 5, tác giả đã sửa chữa nhiều câu nhiều chữ, khác với những lần in trước và xuất bản vào năm 1954, Như thế nghĩa là những tư tưởng phản ánh trong quyển sách này là đúng với tư tưởng của tác giả trước ngày tử trần, Chúng ta có đem ra phê bình cũng không ai có thể nói rằng đó là những quan niệm đã qua của tác giả. Nói rõ như thế rồi, tôi xin bắt đầu vào việc phê bình. Cũng cần nói thêm rằng : đây chỉ là một bài phê bình nhỏ đối với quyển sách 574 trang, nên cũng chỉ có thể vạch ra những nét lớn về quan niệm, không đi vào chi tiết từng câu từng chữ. II. Những quan điểm phi lịch sử của tác giả « Việt-nam sử lược » Những quan điểm phi lịch sử ở trong quyển Việt-nam sử lược rất nhiều. Đây chỉ lấy ra một vài đoạn làm thí dụ. Nhận định về việc bọn phong kiến nhà Minh sang xâm lược nước ta vào thế kỷ thứ 15, Trần Trọng-Kim viết : « Xem công việc của Hồ Quí-Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế mà giả thử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu nữa cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền cướp nước. Bởi thế Hồ Quý-Ly mới làm việc thoán đoạt mà nhà Minh mới có cớ mà sang đánh lấy nước An-nam ». 6 Ở đây, tôi không đi sâu vào quan hệ Trung-Việt lúc bấy giờ để nói rõ bọn phong kiến nhà Minh sau khi nắm chính quyền ở Trung-quốc, một mặt củng cố địa vị ở trong nước, một mặt vươn thế lực ra nước ngoài thế nào. Đặc biệt là đối với nước ta, chúng định xâm chiếm để vơ vét tài nguyên và dùng làm căn cứ địa để thông thương sang Nam-dương, Thái-lan, Ấn-độ thế nào. Tôi hãy trở lại chỗ lập luận của Trần Trọng-Kim : tại sao bọn phong kiến nhà Minh đánh chiếm nước ta ? Vì có Hồ Quí-Ly làm việc « thoán đoạt ». Tại sao Hồ Quí-Ly làm việc thoán đoạt ? Vì lòng tham xui khiến. Thế nghĩa là nước ta bị xâm chiếm để bước vào một giai đoạn khác, xuất phát điểm đều là do lòng tham của Hồ Quí-Ly. Chớ nếu Hồ Quí-Ly cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung thì lịch sử Việt-nam lại xoay ra thế khác. Lập luận như thế thì chẳng những giai đoạn lịch sử này, mà còn bao nhiêu giai đoạn lịch sử khác, động cơ chuyển vần của nó đều là do lòng tham của một kẻ nào có quyền lực ; do đó, lịch sử phát triển của một dân tộc hay cả loài người không có một qui luật nhất định nào cả. Sự thực lịch sử có như thế không ? Có cho phép tác giả Việt-nam sử lược nói như thế, nhận định như thế không ? Một nhận thức thông thường và cũng là căn bản là : xã hội biến chuyển do những điều kiện khách quan trong xã hội đó quyết định, mà căn bản là sự biến chuyển của nền kinh tế. Tập đoàn phong kiến thống trị là họ Trần bấy giờ, sau khi đã thành công trong việc chống ngoại xâm Mông-cổ, đã không quan tâm tới đời sống của nhân dân, lại tăng cường sự bóc lột tô và thuế, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân để chia cho các công thần làm thái ấp 7, dùng nô tỳ để khai khẩn đất hoang làm trang hộ riêng 8. Ấy là chưa kể những xa hoa hủ hóa là một truyền thống trong nếp sống của bọn vua chúa phong kiến mà Trần Dụ Tôn, Trần Nghệ-Tôn là điển hình. Cũng chưa kể vì sự bất lực của bọn phong kiến thống trị mà những nạn lụt lội, mất mùa diễn ra hầu như không năm nào không có. Trong tình trạng thối nát của một dòng vua đương lúc sa sút, những mâu thuẫn xã hội càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nội bộ phong kiến tại triều đã nổ ra giữa Trần Dụ-Tôn với Trần Quốc-Chân, giữa Trần Nghệ-Tôn với Trần phế đế và giữa Trần Khát-Chân, Trần Nguyên-Hãn với Hồ Quí-Ly. Mâu thuẫn giữa phong kiến với nông dân đã nổ ra những cuộc nông dân khởi nghĩa ở nhiều nơi, như nông dân trại Chiêm-chiêu nổi dậy năm 1329 và năm 1337, nông dân Thái ở dọc sông Đà nổi dậy năm 1341. Cuộc vũ trang khởi nghĩa của nông dân Yên-phụ do Ngô Bệ làm đầu, hợp với những gia nô và nô tỳ từ các thái ấp trốn ra đã kéo dài từ năm 1344 đến năm 1360. Cuộc bạo động của các gia nô và nô tỳ trốn khỏi từ các nhà vương hầu do một người tên là Tề lãnh đạo, đã nổi dậy ở Lạng-sơn và Nam-sách năm 1354. Một cuộc bạo động lớn của nông dân là cuộc bạo động do Phạm Sư Ôn chỉ huy đánh chiếm kinh-đô ba ngày, làm triều đình nhà Trần phải bỏ chạy. Như thế đủ cho chúng ta thấy cơ đồ nhà Trần bị tan vỡ không phải vì lòng tham của Hồ Quí-Ly mà sinh ra và sau đó, nước ta bị phong kiến nhà Minh xâm chiếm là có cả một nguyên nhân sâu xa của nó. Nhưng theo Trần Trọng-Kim, thì, mặc dầu nhà Trần đã thối nát đến thế, Hồ Quí-Ly vẫn cứ nên « giúp nhà Trần cho có thủy chung » và do đó « …tiếng thơm để lại nghìn thu ». Đến đây, tôi muốn hỏi tác giả : (nếu tác giả còn sống) thế nào là « thủy chung », thủy chung đối với ai ? Thế nào là « thoán đoạt » giữa hai phe phong kiến tranh nhau chính quyền ? Cho cả đến gọi là « tiếng thơm để lại nghìn thu » ấy có quả là « thơm » không ? Đây không những rọi ra một quan điểm sai lầm về sử học của Trần Trọng-Kim, mà còn bóc trần cả một quan niệm cổ hủ của đạo đức phong kiến mà Trần Trọng-Kim đã đem ra để nhận xét và phê bình lịch sử. Huống chi như trên đã nói, Hồ Quí-Ly tranh quyền cướp nước của nhà Trần là việc diễn ra trong nội bộ giai cấp phong kiến. Nhưng chúng ta phải nhận : với những cải cách táo bạo như hạn chế việc cướp ruộng đất, chia lại công điền, sửa đổi lại pháp luật, hạn chế việc nuôi gia nô, v.v… Hồ Quí-Ly, tiêu biểu của phái phong kiến cải lương, đã tiến bộ hơn phái phong kiến phản động nhà Trần đương đi tới tan vỡ. Nhưng sau đó, dư đảng của phong kiến nhà Trần là bọn Trần Thiêm-Bình lại rước quân xâm lược nhà Minh về cướp nước và làm nội ứng cho giặc, làm cho nước ta bị rơi vào ách đô hộ của phong-kiến nhà Minh. Như vậy, chúng ta càng thấy rõ nước ta bị mất nước về nhà Minh là tại Hồ Quí Ly « không giúp nhà Trần cho có thủy chung » hay chính nhà Trần đã gây ra điều kiện mất nước và đám tôn thất nhà Trần đã công nhiên rước giặc về cướp nước ? Sang một giai đoạn lịch sử khác. Chép đến cuộc « Tây sơn dấy binh », Trần Trọng-Kim đã tìm ra nguyên nhân của nó bằng mấy câu : « …Nguyễn Nhạc trước làm biện lại ở Vân-đồn, cho nên sau người ta thường gọi là biện Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ vào rừng làm giặc ». 9 Nếu căn cứ theo lập luận này, chúng ta có thể suy diễn sau đây : vì Nguyễn Nhạc máu mê cờ bạc, tiêu mất tiền thuế rồi sợ tội, bỏ vào rừng làm giặc, do đó, mới có cuộc đảo lộn cả một thời đại lịch sử. Trái lại, nếu Nguyễn Nhạc là một công chức thuần cẩn, không đánh bạc thì sẽ không tiêu mất tiền thuế. Không tiêu mất tiền thuế thì Nhạc vẫn là anh biện lại tầm thường, không trở nên anh tướng giặc, do đó, lịch sử Việt-nam lại xoay ra cách khác. Sự thật lịch sử có cho phép chúng ta suy luận một cách sơ sài để vặn bánh xe lịch sử đi lung tung như thế không ? Ở đây, chúng tôi cũng không đi sâu vào hoàn cảnh lịch sử bấy giờ đã nổ ra cuộc Tây-sơn khởi nghĩa, mà chỉ nêu lên một vài nét chính để tìm thấy động cơ đã nổ ra nó. Như chúng ta đã biết, từ thế kỷ thứ 16 đến thế kỷ thứ 18, chế độ phong kiến ở Việt-nam hãm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Những cuộc phân tranh liên tiếp giữa các phe phong kiến như Trịnh – Mạc, Nguyễn – Trịnh đã làm cho lực lượng phong kiến bị suy yếu và đời sống của nhân dân trong nước rất khổ cực. Riêng về nông dân miền nam dưới quyền thống trị của nhóm phong kiến nhà Nguyễn càng bị chiếm đoạt ruộng đất và bóc lột tàn nhẫn. Chế độ quan điền-trang và quan-đồn-trang đã biến nông dân lao động thành những tá điền của những đại địa chủ, dòng họ hay tay sai của chúa Nguyễn. Thuế khóa nặng về và phiền phức. Chế độ phu dịch và binh dịch đã làm đình trệ sức sản xuất của nông dân. Nạn hối lộ hoành hành. Do đó, nông dân ở nhiều nơi đã nổi dậy chống lại bọn thống trị tham tàn. Cuộc khởi nghĩa của nông dân Tây-sơn, một thái-ấp của họ Nguyễn, nổ ra trong những điều kiện chín mùi và trên một cơ sở vững chắc. Vì vậy, nó vừa nổ ra thì đã lở đất long trời ; hệ thống phong kiến tan rã từng mảnh. Như vậy, cái động lực xoay chuyển thời đại bấy giờ là sự vùng dậy của đại khối nông dân giữa mấy trùng áp bức, chứ không phải do một động cơ cá nhân Nguyễn Nhạc. Cố nhiên là hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, những thủ lĩnh của nông dân bấy giờ, đã đóng vai trò quan trọng của lịch sử. Nhất là Nguyễn Huệ, một người xuất thân trong làng áo nâu, đã đánh bại những phe phong kiến từ Nam tới Bắc và dẹp tan giặc ngoại xâm cấu kết với phong kiến. Nhưng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ sở dĩ làm được những việc phi thường ấy, đâu có phải chỉ vì cái tài xuất chúng của cá nhân, mà chính là sức mạnh của quảng đại nông dân thiếu ăn, thèm ruộng. « Thời thế tạo anh hùng », Nguyễn Huệ xứng đáng là một bậc anh hùng. Nhưng anh hùng đã do thời thế tạo ra. Thời thế đây là sự đổ nát của các phe phong kiến, là chí căm thù của nông dân lên tới cao độ. Và do đó, ảnh hưởng ngược lại, Nguyễn Huệ trở nên « anh hùng tạo thời thế » ! * Đến một đoạn giải thích tình hình xã hội khác. Trong bài « chế độ và tình thế nước Việt-nam đến cuối đời Tự-Đức », Trần Trọng-Kim viết : « Hễ ai đi học mà vì lẽ gì không thi đỗ, làm quan không được thì bức chí quay ra làm giặc để tìm cách hiển vinh, thành ra trong nước hay có giặc giã ». 10 Thế nghĩa là : bao nhiêu cuộc nông dân bạo động và giặc giã nổi lên dưới thời phong kiến, thì, theo Trần Trọng Kim, đều là do một bọn bất đắc chí, bị thất bại trong khoa trường hay hoạn trường gây nên, chớ chẳng liên quan gì đến tình hình kinh tế, đời sống nhân dân chút nào cả. Sự thực lịch sử có như thế không ? Dở lại từng trang lịch sử nước ta, không kể những cuộc chiến-tranh chính nghĩa chống ngoại xâm hay những cuộc phân tranh giữa các phe phong-kiến, còn thì là những cuộc khởi nghĩa của nông dân hay những đám giặc cướp nổi lên từng địa phương. Tại sao xã hội xảy ra những hiện tượng ấy ? Chính vì đời sống của nhân dân không yên, nên trật tự xã hội không thể duy trì được. Căn bản là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với sức sản xuất. Bao giờ mâu thuẫn đến cao độ thì nổ ra cuộc cách mạng. Tác giả Việt-nam sử lược đã không thấy rõ nguồn gốc của những biến chuyển xã hội, mà chỉ bị ám ảnh về một vài động cơ cá nhân để suy diễn lịch sử một cách ngây thơ. Không nói đâu xa, nói ngay một người mà có lẽ Trần Trọng-Kim đã nhằm vào là Nguyễn Hữu-Cầu. Cầu học giỏi, thi không đỗ, sau làm « giặc ». Nhưng nếu Cầu chỉ là một nhà nho bất đắc chí thì làm sao có được sự ủng hộ của nông dân, lập nên được sự nghiệp « đục trời khuấy nước » trong tám năm dòng dã (1743-1751), đánh tan những quân đội tinh nhuệ nhất của chúa Trịnh ở Kinh-bắc ? Nguyễn Hữu Cầu sở dĩ huy động được nông dân vì đã đem quyền lợi lại cho nông dân. Sử chép Cầu đã lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo và đánh các thuyền buôn gạo chia cho dân đói. Do đó, nghĩa quân đi đến đâu được dân ủng hộ đến đó, « thiếu lương thực thì có dân cung cấp. Không biết đường lối thì có dân chỉ dẫn ». Và cái danh hiệu « Đông đạo thông quốc bảo dân đại tướng quân » đã tỏ rõ cái mục đích bảo vệ nhân dân của Nguyễn Hữu-Cầu. Kể ra một chuyện trong nhiều chuyện như thế để nói lên rằng : qua các triều đại phong kiến ở Việt-nam, « trong nước hay có giặc giã » chính là biểu hiện sự khủng hoảng của chế độ phong kiến, chớ không phải do những động cơ riêng của từng cá nhân, nhất là không phải vì « không thi đỗ, làm quan không được thì bức chí quay ra làm giặc » theo lối suy luận của « sử gia » Trần Trọng-Kim ! Một ví dụ khác nữa, khi nói đến nguyên nhân nước ta bị mất vào tay bọn thực dân Pháp xâm lược, thì Trần Trọng Kim, cũng như một số người khác, đã qui cả vào việc cấm đạo và cấm thông thương của triều đình Huế. Trần Trọng Kim đã viết ra những câu : « …bởi những sự lầm lỗi ấy cho nên nước Pháp mới dùng binh lực… » và « giám mục Pen-lơ-ranh (Pellerin) trốn xuống tầu Ca-ti-na (Caltinat) ở Đà-nẵng về yết kiến Nã- phá-luân thứ ba và hoàng hậu Ơ-den (Eugène) là người sùng đạo nên tức giận đánh ta », v.v… Nói gọn lại, vì ta cấm thông thương, cấm truyền đạo nên thực dân Pháp mới đánh chiếm nước ta. Nếu ta để cho họ được thông thương, truyền giáo tự do thì đâu đến nỗi !… Cũng theo lý-luận của Trần Trọng-Kim thì thật không may cho dân tộc Việt-nam đã gặp phải vua và hoàng hậu nước Pháp bấy giờ là « ngưởi sùng đạo nên tức giận đánh ta », chớ nếu họ không phải là người sùng đạo thì ta có cấm đạo chăng nữa, họ cũng chẳng gây chuyện với ta. Do đó, dân tộc ta chẳng phải hơn 80 năm đeo ách nô lệ ! Kết luận như thế, Trần Trọng-Kim không những đã bào chữa cho bọn thực dân xâm lược Pháp, mà lại còn che đậy cho cả một chế độ phong kiến thối nát. Với bài này, hôm nay, tôi không làm được cái việc tìm ra nguyên nhân mất nước một cách kỹ càng cả điều kiện chủ quan lẫn khách quan của nó. Chỉ biết rằng nước Việt-nam ta hồi ấy, cũng như nhiều nước nông nghiệp khác ở Á-đông, là một thị trường rộng lớn mà các nước tư bản phương Tây dòm ngó vào. Riêng về tư bản Pháp, chúng đã để tâm xâm chiếm nước ta từ khi Gia-Long cho con sang « khấn hứa » với Pháp-hoàng Lu-y thứ 16 (1784). Rồi, từ phái đoàn thương mại Ta-véc-ni-ê (Tavernier) Ba-rông (Baron) đến hội truyền giáo ngoại quốc, kế hoạch cướp nước của chúng đã vạch ra và theo đuổi ráo riết. Đạo quân thứ năm gồm có những bọn đội lốt thày tu đã dọn đường trước cho một cuộc can thiệp bằng vũ lực, chỉ chờ có dịp là gây hấn. Trong lúc ấy thì chế độ phong kiến Việt-nam đã thối nát đến cực độ. Mâu thuẫn giữa phong kiến và phong kiến, nhất là giữa phong kiến và nông dân càng trở nên sâu sắc. Những cuộc bạo động của nông dân và giặc cướp nổi dậy tứ tung, làm cho trật tự phong kiến không còn duy trì được. Cho tới khi giặc ngoại xâm tràn vào, giai cấp phong kiến thống trị chống đỡ yếu ớt, rồi đầu hàng, cấu kết với giặc. Như vậy, việc ngăn cản truyền giáo hay thông thương của triều đình Huế bấy giờ chỉ là một cớ cho bọn xâm-lược kiếm chuyện can thiệp vào, chớ đâu phải là một nguyên nhân mất nước. Dẫn ra một số thí dụ kể trên trong quyển Việt-nam sử lược, chúng ta có thể tạm kết luận rằng : theo kiến giải của Trần Trọng-Kim thì nước ta có lúc mất về bọn phong kiến Trung-quốc và sau đó là thực dân Pháp, lịch sử nước ta có cuộc Tây-sơn khởi nghĩa cùng bao nhiêu cuộc bạo động khác đều do những động cơ cá nhân rất tầm thường, rất riêng lẻ. Như vậy, lịch sử chỉ là những cái tình cờ chồng chất lại, không theo một qui luật nào nhất định. Nhìn về trước, người ta không biết sao lại có ngày nay. Nhìn về sau, người ta cũng không biết nó sẽ phiêu lưu đến đâu. Như vậy, chẳng có gì là bước tiến hóa của lịch sử ; chẳng có gì là qui luật phát triển của xã hội. Người ta sống trong thời đại như sống trong cõi « lơ mơ », không biết hành động thế nào để đẩy cho bánh xe lịch sử tiến lên, không biết căm thù những chế độ đã kìm hãm sức sản xuất, kìm hãm lịch sử. Quan niệm duy tâm của Trần Trọng-Kim nhất định không được phép tồn tại và phổ biến mãi trong nhà trường, trong nhân dân ta. III. Những quan điểm phản dân tộc của tác giả Việt-Nam Sử lược Bằng những lập luận kể trên, Trần Trọng-Kim đã rơi vào quan niệm duy tâm, một quan niệm phi lịch sử. Nhưng nó chẳng phải chỉ dừng lại ở đây. Nó còn dẫn tới quan niệm phản dân tộc. Trong một đoạn giới thiệu lịch sử dân tộc ta, Trần Trọng Kim viết : « Từ khi người Việt-nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại lập được cái nền tự chủ và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống mình, ấy là đã tỏ ra rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn cho lắm. Tuy rằng mình chưa làm được việc gì cho vẻ vang bằng người, nhưng mình còn có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường thịnh ». 11 Đánh giá dân tộc ta, đánh giá lịch sử dân tộc ta như thế có đúng hay không ? Theo cái mức « đề cao » của Trần Trọng-Kim thì khí lực của dân tộc ta cũng « không đến nỗi kém hèn cho lắm », nghĩa là kém hèn vừa vừa thôi. Và, mặc dầu Trần Trọng-Kim có « an ủi » là « mình (dân tộc ta) còn có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường thịnh » ; nhưng trở về trước thì « chưa làm được việc gì cho vẻ vang bằng người ». Đọc đến đây, mỗi người trong chúng ta đều muốn thét vào mặt tác giả (nếu tác giả còn sống) mà hỏi rằng : « một dân tộc hàng mấy nghìn năm sống bên bọn phong kiến khổng lồ ở Trung-quốc luôn luôn xâm lược mình, muốn tiêu diệt mình, đồng hóa mình, vậy mà dân tộc ấy vẫn luôn luôn nêu cao tinh thần bất khuất, viết nên những trang lịch sử tràng kỳ chống ngoại xâm bằng những chữ lớn « Đống đa », « Chi-lăng », « Chí-linh », « Vạn-kiếp », « Bạch-đằng », vậy thì dân tộc ấy có đáng cho một kẻ cầm bút viết sử như Trần Trọng-Kim phê rằng « chưa làm được việc gì cho vẻ vang bằng người » hay được khen một cách vớt vát là « không đến nỗi kém hèn cho lắm » không ? » Không ! Lịch sử đã chứng nhận dân tộc ta không phải kém hèn, đã khai thác nên một giải non sông gấm vóc từ Mục-nam-quan đến mũi Cà-mau với sức lao động và đức tính cần cù của mình, đã tranh đấu hàng nghìn năm để giữ vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền đất nước. Trong dân tộc đã từng sản sinh ra những nhà chính trị và quân sự đại tài như Trần Quốc-Tuấn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ… đã có những nhà văn học nổi tiếng như Lê Văn-Hưu, Phan Huy Chú, Nguyễn Du, Nguyễn Thị Điểm, Hồ Xuân-Hương, v.v… Mặc dầu có những lúc nước bị mất, nhưng dân tộc đã bao phen vùng dậy. Bao nhiêu con yêu của đất nước đã đem xương máu, mồ hôi để xây dựng nền độc lập cho tổ quốc, giải phóng cho giống nòi. Cũng vì cái truyền thống bất khuất của dân tộc ngày càng phát triển nên qua những ngày Pháp thuộc, những cuộc chiến đấu bằng vũ trang hay tranh đấu chính trị vẫn luôn luôn không ngừng và tiến tới tổng khởi nghĩa tháng tám, nước Việt-nam dân chủ cộng hòa ra mắt trước nhân dân thế giới của một thời đại mới. Ấy là chưa kể đến chín năm Kháng chiến, nhân dân Việt-nam, dưới quyền lãnh đạo của Đảng Lao-động Việt-nam và Hồ Chủ tịch, càng phát huy truyền thống anh dũng, lực lượng dân tộc lên tới cao độ, đem lại hòa bình thắng lợi ngày nay. Như vậy, chỉ có những kẻ mất hết cả tính tự tôn của dân tộc, lòng tự tin vào dân tộc, cam tâm làm tay sai cho địch, thay thày đổi chủ tới hai ba lần, mới dám đánh giá dân tộc một cách thảm hại như thế. Thế rồi, giải thích cái nguyên nhân đã làm cho nước ta « không đến nỗi hèn kém cho lắm » và « chưa làm được việc gì cho vẻ vang bằng người », Trần Trọng-Kim đã qui vào địa thế và khí hậu nước ta : « …Nước ta ở phía Đông thì có bể, ở phía Tây, phía Nam thì những người Mường người Lào là những người văn minh kém hơn mình cả, còn ở phía Bắc có nước Tàu là hơn mình, nhưng Tàu lại to quá, sự giao thông với mình thì cách trở xuyên sơn, đường sá khó khăn không tiện, chỉ có quan tư thỉnh thoảng đi lại mà thôi, chứ dân trong nước không mấy khi đi ra đến ngoài bờ cõi nước nhà. Người mà cả đời không đi đến đâu, mắt không trông thấy cái hay cái dở của người thì tiến hóa làm sao được ? »… Và « người mình về xứ nóng nực, cách ăn mặc giản dị, đơn sơ, không phải cần lao lo nghĩ cũng đủ sống, cho nên ai cũng thích nhàn lạc, quí hồ khỏi chết thì thôi, chứ không muốn lao tâm lao lực lắm như những người ở các nước văn minh khác… » 12 Theo nhận định kể trên, Trần Trọng-Kim đã rơi vào thuyết địa lý quyết định và khí hậu quyết định của một số sử gia lạc hậu. Nói theo Trần Trọng-Kim, thì, nước ta đã bị quyết định bởi hai điều kiện địa lý và khí hậu như thế thì dân tộc ta còn « tiến hóa làm sao được ? » Chúng ta không chối địa lý có ảnh hưởng một phần nào đến sinh hoạt của dân tộc. Nhưng đó không phải là một điều kiện quyết định, hơn nữa, nó không phải cố định. Cũng một địa lý hình thế ấy, nhưng về khách quan cũng như về chủ quan, nước Việt nam trong thời kỳ phong kiến đã không giống nước Việt nam vừa là phong kiến vừa là thực dân địa. Nhất là, nước Việt-nam dân chủ cộng hòa ngày nay thì những cái mà Trần Trọng-Kim đưa ra tưởng là muôn đời không thay đổi ấy đã không còn tồn tại nữa rồi. Nhưng nếu chúng ta chỉ gán cho Trần Trọng-Kim cái quan niệm « tĩnh » đối với sự vật biến chuyển thì cũng còn là nhẹ. Đằng này, Trần Trọng-Kim không phải chỉ có thế. Vì đứng trên cương vị của giai cấp phong kiến địa chủ, Trần Trọng-Kim đã phủ nhận đức tính cần lao của dân tộc ta. Chỉ có bọn đế quốc, bọn địa chủ phong kiến hay tay sai của chúng ăn bám trên sức cần lao của nhân dân lao động mới « thích nhàn lạc », mới « không phải cần lao lo nghĩ cũng đủ sống » mới « không muốn lao tâm lao lực lắm… » Nếu dân tộc ta chỉ « thích nhàn lạc », « không muốn lao lâm lao lực lắm » thì đã không có nước Việt-nam ngày nay lớn lên trong quá trình chiến đấu và sản xuất ! Nếu tác giả Việt-nam sử lược còn sống tới ngày nay sẽ thấy cái đám người « thích nhàn lạc » « không muốn lao tâm lao lực lắm », để sống nhàn lạc trên mồ hôi nước mắt của người khác đương được quyết định cái số phận của họ ra sao ! Nhưng đối với dân tộc Việt-nam ta, Trần Trọng-Kim chẳng phải chỉ « ca tụng » có thế. Trong bài giới thiệu dân tộc tính của « người Việt-nam », Trần Trọng-Kim đã viết ra một đoạn sau đây : « Về đàng trí tuệ và tính tình thì người Việt-nam có cả tính tốt và tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng tiến, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm năm đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vốn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt và hay bài bác chế nhạo. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật. « Tâm địa thì nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trang hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn ». 13 Trước hết, tôi phải nói rõ cái cảm giác của tôi khi nghe những lời giới thiệu về « người Việt-nam » kể trên tưởng như nghe lời phê phán của một « quí quan » nào trong thời Pháp thuộc, hay khách du lịch ngoại quốc nào từ Việt-nam trở về, chớ không thể ngờ cái giọng quá ư vô tình, quá ư khinh bạc ấy lại thốt ra ở một người mang dòng máu Việt nam, sống trên đất nước Việt-nam, chẳng những thế, còn viết sử Việt-nam. Và, tất cả một đoạn tả người Việt-nam, theo ông Trần Trọng-Kim, đấy là dân tộc tính của chúng ta đấy ! Cũng cần nói qua : dân tộc tính từ đâu mà có ? Nó quan hệ với những yếu tố cấu thành một dân tộc trong một quá trình lịch sử nhất định. Bàn về một dân tộc tính, người ta cũng không thể căn cứ vào một thời gian ngắn ngủi, một toàn cảnh lẻ loi hay một đám người ít ỏi nào. Ví dụ : người ta có thể thấy người Việt-nam từ sau Cách mạng tháng Tám và chín năm Kháng chiến khác với người Việt-nam trong thời Pháp thuộc. Một đằng dưới sự áp bức về vật chất và tinh thần, mọi đức tính hay của dân tộc bị chèn ép xuống. Một đằng, trong hoàn cảnh phấn khởi và cởi mở, mọi đức tính hay của dân tộc đều được phát huy lên. Bọn xâm lược nhà Nguyên không thể nhìn dân tộc tính của người Việt nam qua những tên phản bội Trần Kiện, Trần Ích-Tắc, mà phải thấy dân tộc tính của người Việt-nam qua tinh thần bất khuất của Trần Bình-Trọng, tinh thần đoàn kết chống ngoại xâm trong hội nghị Diên-hồng và chí căm thù hiện trên cánh tay có thích hai chữ « Sát Thát » của quân lính nhà Trần. Cũng như thực dân Pháp không thể nhìn dân tộc tính của người Việt-nam qua những tên phản bội dân tộc như Trần Đình-Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao-Khải, hay ở đám kỳ mục khăn đen áo dài phủ phục trước hương án vệ đường trong khi xe ô-tô của toàn quyền, thống sứ tung bụi chạy qua, hay ở đám người leo đu, liếm chảo, bịt mắt bắt dê trong những ngày « hội tây » ở các thành phố, mà phải nhìn thấy tinh thần bất khuất và tin tưởng ở những chiến sĩ cách mạng trước khi lao mình vào máy chém còn hô « Việt-nam độc lập », ở những cuộc kháng Pháp không ngừng hơn 80 năm của các tầng lớp nhân dân, các dân tộc. Cố nhiên là dân tộc tính cũng như dân tộc không phải là cố định. Nó còn biến chuyển, còn tiến triển trên bước đường lịch sử của nó. Nhưng bây giờ, chúng ta hãy trở lại câu hỏi : dân tộc tính của người Việt-nam có đúng như điều nhận xét của Trần Trọng-Kim không ? Chưa nói đến những « tính xấu », hãy nói ngay những « tính tốt » mà Trần Trọng Kim đã tặng cho dân tộc ta thì hầu hết đều dựa vào đạo đức phong kiến theo kiểu một « giáo sư » cho điểm « học sinh » ; chớ thật ra, những tính tốt đặc biệt của dân tộc ta như tinh thần bất khuất, ham muốn hòa bình chẳng hạn, thì đều bị Trần Trọng-Kim bỏ qua không nói đến. Trái lại, những tính xấu mà Trần Trọng-Kim gán vào cho dân tộc ta thì cũng theo kiểu « quan chủ tây » đối với anh em bồi bếp Việt-nam phục vụ cho chúng hay sĩ quan Pháp đối với binh lính Việt nam ngày trước. Ở đây, có lẽ tôi không phải làm cái việc phân tích từng chữ mà Trần Trọng-Kim đã « cho điểm » dân tộc ta, như « tinh vặt », « quỉ quyệt », « nhút nhát », hay « khiếp sợ », « nông nổi », « hay làm liều », « hay khoe khoang », « hiếu danh vọng », « thích chơi bời », « mê cờ bạc », « tin ma quỉ », « kiêu ngạo », « hay nói khoác », v.v… vì tất cả những cái đó, nói chung là căn tính nô lệ mà Trần Trọng-Kim đã thấy ngay ở mình, ở những người xung quanh mình, ở trong tầng lớp giai cấp mình trong thời-kỳ Pháp thuộc hay Nhật thuộc, rồi cả gan nói là của dân tộc Việt-nam. Sự thật lịch sử đã đính chính hùng hồn những kẻ cầm bút bôi nhọ lịch sử Việt-nam, rằng nếu nhút nhát hay khiếp sợ thì dân tộc Việt-nam đã không có được những trang lịch sử oanh liệt chống phong kiến Trung-quốc hàng nghìn năm và chống thực dân Pháp hàng trăm năm ! Nếu không kiên nhẫn thì dân tộc Việt-nam đã không dựng nên được nước Việt-nam hiện tại, đổ bao nhiêu máu, mồ hôi để khai thác từng tấc đất từ Quảng-bình đến mũi Cà-mau ! Đã đánh giá dân tộc Việt nam như vậy, cố nhiên Trần Trọng-Kim cho việc mất nước là phải, bài xích những cuộc khởi nghĩa và ca tụng công ơn khai hóa của nước Pháp. Trong bài nói về « văn thân nổi loạn ở Nghệ-an », Trần Trọng-Kim viết : « Sự suy nhược của mình đã sờ sờ ra đấy, thế mà vẫn cứ không chịu mở mắt ra mà nhìn, lại vì sự tức giận một lúc mà làm việc nông nổi càn rỡ để cho thiệt hại thêm, như thế thì tội trạng của bọn sĩ phu đối với nước nhà chẳng to lắm ru ! » 14 Đến bài nói về « công việc của bảo hộ », Trần Trọng Kim viết : « Từ khi đánh dẹp ở các nơi đã yên rồi, các quan tổng đốc toàn quyền lần lượt sang kinh doanh việc Đông Pháp và lo mở mang về đường chính trị, kinh tế và xã hội theo chính sách của nước Pháp ». 15 Rồi đi tới kết luận « vận mệnh nước Việt-nam hiện nay còn ở trong tay người Pháp, sự hay dở tương lai chưa biết ra thế nào » 16. Ở đây, chúng ta không đi sâu vào những nguyên nhân suy nhược của nước ta mà chính bọn phong kiến thống trị phải chịu trách nhiệm hoàn toàn. Tuy thế, sau khi bọn phong kiến tại triều đã đầu hàng giặc, câu kết với giặc rồi, một số sĩ phu không cam tâm quì gối cúi đầu, đau lòng trước cảnh nhà tan nước mất, nên đã lãnh đạo nhân dân ; phất cờ khởi nghĩa, thét to những khẩu hiệu « bình Tây sát tả ». Như vậy, mặc dầu còn có nhiều sai sót, đứng trên cương vị của họ, họ cũng đã tỏ được một phần nào tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Nếu Trần Trọng-Kim cho đó là « nông nổi càn rỡ », là có tội với nước nhà thì nhất định Trần Trọng-Kim phải hoan hô những tên Trần Đình-Lộc, Nguyễn Thân, Hoàng Cao-Khải là những tên tay sai đắc lực của thực dân Pháp, những « đại đao phủ » trong cuộc đàn áp phong trào văn-thân, và cũng nói theo Trần Trọng-Kim, như thế công ơn của bọn « …« Khuyển-Ưng » của « bảo hộ » đối với nước nhà chẳng to lắm ru ! » Còn đối với « công việc của bảo hộ » thì Trần Trọng-Kim đã chịu khó nêu lên những việc đặt nhượng địa, mở mang các công cuộc kiến thiết, đường sá, lập xưởng đóng tầu thủy, chỉnh đốn tài chính, mở mang sự học hành, đặt cục y tế, làm nhà bệnh viện, mộ lính khố xanh, khố đỏ, v.v… nhưng còn bao nhiêu sự nghiệp khác mà Trần Trọng-Kim chưa nói đến như chiếm đoạt ruộng đất, cướp nguyên liệu, kìm hãm công thương nghiệp, giáo dục ngu dân, đầu độc bằng rượu, thuốc phiện, tước đoạt mọi quyền tự do dân chủ, khủng bố phong trào cách mạng, v.v… Phải chăng Trần Trọng-Kim đã vô tình hay cố ý quên đi ? Nhắc đến « vận mệnh nước Việt-nam », Trần Trọng-Kim tỏ ý hoài nghi « sự hay dở tương lai chưa biết ra sao ? » vì « ở trong tay người Pháp ». Sự thật lịch sử đã sáng như ban ngày là : vận mệnh nước Việt-nam là do nhân dân Việt-nam quyết định, chớ không phải do bọn xâm lược quyết định. Bọn phong kiến Trung-quốc trước kia như nhà Hán, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh, v.v… đã từng xâm lược hay đô hộ nước Việt-nam, nhưng không quyết định được vận mệnh nước Việt-nam, điều này một người viết sử như Trần Trọng-Kim không thể không thấy rõ. Sau cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám, bản tuyên ngôn độc lập đọc tại vườn hoa Ba-đình Hà-nội, Trần Trọng-Kim càng phải thấy quyền quyết định vận mệnh nước Việt-nam đã biểu lộ trong ý chí của dân tộc Việt-nam như thế nào. Quyết định ấy là đánh đuổi quân xâm lược ra ngoài bờ cõi, làm cho nước Việt-nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, đem lại hòa bình dân chủ và cơm áo cho nhân dân. Trong quá trình lịch sử, nhân dân Việt-nam đã quyết định, đương quyết định lấy vận mệnh của mình. Chỉ có những kẻ nào không tin vào lực lượng dân tộc, quen dựa vào thế lực nước ngoài thì mới đeo kính đen để nhìn tương lai dân tộc một cách mờ ám. IV. Kết luận Đọc Việt-nam sử lược, chúng ta đã thấy những quan điểm phi lịch sử cho đến quan điểm phản dân tộc của tác giả Trần Trọng-Kim. Đối với quan điểm trên, chúng ta có thể coi Trần Trọng-Kim cũng như một số sử gia duy tâm khác, không biết đường đi của lịch sử, không nắm vững qui luật của lịch sử. Nhưng đối với quan điểm dưới, Trần Trọng-Kim đã phạm lỗi lầm một cách nghiêm trọng. Quyển V.N.S.L. đã không phản ánh được công cuộc chiến đấu và sản xuất vĩ đại của dân tộc ta qua các quá trình lịch sử, lại cũng không nói lên được những đức tính quí báu của dân tộc ta là lòng yêu nước nồng nàn, yêu hòa bình, yêu lao động và kiên nhẫn chịu gian khổ. Trái lại, dân tộc Việt-nam trong trí óc và hiện trên nét bút của Trần Trọng-Kim thì chỉ còn là một dân tộc quá mức tầm thường. Hiện tại của nó đã bi đát. Tiền đồ của nó cũng lờ mờ. Quan niệm này còn phản ánh từ một giai cấp phong kiến suy đồi và phản bội dưới thời Pháp thuộc mà Trần Trọng-Kim là phát ngôn nhân của nó. Chúng đã uốn gối trước quân thù, lại hình dung dân tộc Việt-nam qua những tinh thần bạc nhược, cử chỉ, tác phong bại hoại của chúng. Giai cấp ấy cố nhiên không còn có tiền đồ. Nhưng chúng lại tưởng dân tộc Việt-nam cũng cùng một vận mệnh với chúng. Đã không còn tin ở mình, không biết có dân tộc, giai cấp phong kiến Việt-nam những ngày cuối cùng chỉ còn lần lượt ôm chân những kẻ thù của dân tộc : thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ. Chúng ta phải nhận những quyển sách như quyển V.N.S.L. của Trần Trọng Kim được phổ biến trong các nhà trường và dân gian đã làm lợi rất nhiều cho bọn thống trị là thực dân Pháp. Vì còn có gì thú hơn cho bọn cướp nước là làm cho đám người bị trị mất hết lòng tự tin dân tộc, lòng tự tôn của dân tộc, làm cho đám người bị trị tê liệt cả chí căm thù, trở lại hoan nghênh công ơn khai hóa của kẻ chinh phục mình. Dân tộc Việt-nam đương bước sang một giai đoạn mới nhằm thẳng mục tiêu hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Những quan điểm thực dân và phong kiến chứa đựng trong quyển V.N.S.L. phải bài trừ cho hết ! Tôi sẽ trở lại vấn đề này. TRẦN HUY-LIỆU 5-4-1955 NHỮNG TIẾNG PHẢN KHÁNG CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG DÂN CA VIỆT-NAM của VŨ NGỌC-PHAN DÂN ca của ta đã nói lên nhiều nhất tình yêu nồng nàn thắm thiết của người nông dân. Đó là tình yêu những người cùng chung cảnh khổ như mình, tình yêu quê hương đất nước, và đặc biệt là tình yêu của đôi bên trai gái. Nhưng trong xã hội phong kiến, về đường tình ái, người lao động có bao giờ được như ý nguyện của mình, nên họ luôn luôn phẫn uất và căm thù sâu sắc giai cấp thống trị. Ở xã hội Việt-nam ta, trong thời phong kiến dài dằng dặc, nhân dân lao động đã sống một đời cực khổ, và trong giai cấp bị áp bức bóc lột ấy, quá nửa phần còn sống cực khổ hơn nữa. Quá nửa phần ấy là phụ nữ. Sự khổ cực tăng thêm ấy mà phụ nữ phải chịu đựng đã do chế độ hôn nhân gây nên. Một chế độ đặt quyền gả bán vào tay người gia trưởng và coi người phụ nữ như một kẻ vị thành niên suốt đời, nhiều khi như một món hàng, bán vào tay ai cũng được. Trước khi nói đến việc hôn nhân ở xã hội phong kiến Việt-nam, chúng ta không thể không nói đến sự đóng góp vào lao động và sản xuất của phụ nữ Việt-nam trong thời phong kiến. Vì do ở như việc có làm nhưng không có hưởng thụ, có góp phần vào mọi việc xây dựng mà không có quyền lợi gì, nên phụ nữ càng căm thù sâu sắc những kẻ cố tâm duy trì chế độ làm cho họ khổ cực. Có nghe họ tự nói lên khả năng lao động, khả năng sản xuất của họ trong dân ca, chúng ta mới hiểu được tư tưởng, tâm lý của họ trong khi họ than thở, phẫn uất, căm thù, chống đối những sự đàn áp bóc lột. I. Phụ nữ nông thôn đã nhận thức khả năng của họ như thế nào ? Người ta bảo đàn bà không có sức lực như đàn ông, nên đàn ông đã đóng vai chủ lực trong sản xuất và nắm hết quyền hành trong tay, nhưng thật ra người ta đã không thấy rằng đàn bà cũng đã lăn lộn trong cuộc đấu tranh thiên nhiên, trong cuộc đấu tranh xã hội và cũng đã chịu đựng gian khổ không kém gì đàn ông. Lúc bình thường, người phụ nữ Việt-nam ở nông thôn đã đóng góp rất nhiều vào sản xuất, đóng góp một cách tích cực, phấn khởi, với hết tất cả tấm lòng say sưa với công việc của mình, với người cùng lao động với mình. Vì họ đã nhận thấy rằng do bàn tay lao động của họ, nên mới có hạt thóc, hạt ngô, mới có ao, có giếng, có xóm, có làng. Được cùng người mình thương yêu cùng lao động, người đàn bà rất hả hê sung sướng : « Ai ai cũng vợ cũng chồng, Chồng cày vợ cấy, trong lòng vui thay ! » Nhưng nhiều khi quá gian lao, niềm vui cũng tiêu tán, người phụ nữ trở nên uất ức, lên tiếng than thở phẫn uất về tình cảnh quá vất vả của mình, đến nỗi : « Một ngày hai bữa cơm đèn, Còn gì má phấn răng đen, hỡi chàng ! … … … Một ngày hai lượt trèo non Lấy gì mà đẹp, mà giòn, hỡi anh ! » Cấy cày trên đồng ruộng, hái củi, tìm măng, đào nâu, đào củ ở núi cao rừng thẳm, những nông sản, những lâm sản cung cấp cho toàn dân, đâu có phải chỉ do bàn tay lao động của nam giới ? Vất vả lầm than như thế, người phụ nữ rất căm ghét chế độ áp bức bóc lột mình, làm cho mình đến nhan sắc cũng không gìn giữ được. Mà những kẻ áp bức bóc lột chị là ai ? – Cũng lại là nạn nhân của chế độ phong kiến : người cha chồng, người mẹ chồng. Ngay những khi có con mọn mà chiến tranh chống xâm lăng bùng nổ, phụ nữ cũng hăng hái tham gia công tác trong quân đội. Trong thời gian kháng chiến vừa qua, người mẹ ru con : con ngủ cho ngoan, để mẹ đi phá đường quan ngăn giặc, trăng lặn mẹ về 17, thì vào thời Triệu nữ vương, người mẹ cũng đã ru con : « Ru con, con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành con voi. Muốn coi lên núi mà coi, Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng. Túi gấm cho lẫn túi hồng, Têm trầu cành kiếm cho chồng đi quân ». Trong thời phong kiến, không phải lúc nào cũng chống giăc ngoại xâm. Ngoài những cuộc khởi nghĩa của nông dân, nội chiến luôn luôn xảy ra, và thường thường giữa bọn chúa phong kiến với nhau trong thời cát cứ. Ở vào cảnh cô đơn, một mình đã gánh vác hết mọi việc, đến khi gặt hái xong xuôi, còn phải gánh lương cho chồng, và có khi cùng một lúc cả cho con, một việc cực kỳ gian khổ của người phụ nữ trong thời đường giao thông còn thiếu thốn : « Kìa ai tiếng khóc nỉ non ? Ấy vợ chú lính trèo hòn Đèo ngang. Chém cha cái giặc chết hoang, Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng ! Gánh từ xứ Bắc, xứ Đông, Đã gánh theo chồng, lại gánh theo con… » Đèo Ngang, Phố Cát là những nơi trên đường vào Trung bộ ; còn xứ Bắc, xứ Đông là Kinh-bắc, Hải-dương. Đâu có thể là cuộc nội chiến giữa họ Nguyễn và họ Trịnh. Bọn chúa phong kiến đã bắt chồng bắt con chị làm bia đỡ tên, đỡ đạn cho chúng, để chúng chia xẻ đất nước, tranh giành quyền lợi riêng cho chúng ; ở nhà đã thiếu người sản xuất, đến thân chị, chị cũng phải trèo đèo lội suối, gánh số gạo của mình làm ra để nuôi chồng, nuôi con đi lính ; sự bóc lột trắng trợn và nặng về ấy của giai cấp phong kiến thống trị đã làm cho người phụ nữ phẫn uất đến cao độ. Chị đã chửi nào mặt bọn phong kiến là « giặc », làm cho chị vừa chịu đựng cảnh phân ly, lại vừa phải gian khổ. Có khi sự bóc lột của giai cấp thống trị tàn tệ, ráo riết quá mức, bần cùng hóa người nông dân đến cực độ, đến nỗi chồng đã đi làm « việc công », vợ ở nhà cũng phải gánh một tạp dịch khác, cho đến con thơ chỉ trông vào sữa mẹ, cũng phải chịu đói khát. Vừa thương con vừa căm giận, người mẹ đem tâm sự mình ngỏ với đứa trẻ thơ ngây : « Cái cò là cái cò vàng, Mẹ đi đắp đàng, con ở với ai ? Con ở với bà, bà không có vú ! Con ở với chú, chú là đàn ông… » Tuy người phụ nữ không đả động gì đến bọn thống trị, mà đã nói lên được hết tính chất bóc lột và tàn ác của chúng. Nhân dân lao động đã đắp đường không công cho giai cấp phong kiến thống trị, cũng như đã đắp thành, đào hào cho chúng. Đây là những « đường cái quan » những đường chiến lược, để giai cấp thống trị củng cố « trật tự » của chúng, để chúng có phương tiện đàn áp nông dân. Đã ở trong cảnh cực khổ do giai cấp thống trị gây ra, người nông dân lại bắt buộc phải đi làm cái việc để chúng tăng cường uy thế của chúng, hòng hành hạ mình dễ hơn, đó là những lý do gây nên oán hận mà người phụ nữ nông thôn muốn ngỏ với con trước khi vác cuốc ra đi. Về mặt khác, những câu trên này cũng cho ta thấy rõ óc thực tế của người nông dân : « Chú là đàn ông » đã đành, còn dĩ nhiên bà phải có vú, nhưng có vú mà không còn sinh sôi được thứ gì để nuôi cháu, thì có vú cũng như không. Người phụ nữ Việt-nam đã đem kinh nghiệm và sức lao động của mình đóng góp rất nhiều vào sản xuất, vào mọi việc kiến thiết đất nước. Vậy không phải người đàn bà không làm được những việc như đàn ông mà phải ở vào địa vị thấp kém trong xã hội. Lý do chính là chế độ hôn nhân đã xây dựng trên cơ sở tư hữu tài sản, đặt người phụ nữ vào một địa vị thấp kém về kinh tế. Mình trần thân trụi từ trẻ đến già, dù có làm ra thì cũng là của cha, của chồng hay của con trai ; do đó mà dưới chế độ phong kiến, tài sản trong gia đình chỉ toàn nam giới được thừa kế. Người phụ nữ tuy có lao động, có sản xuất, nhưng không có hưởng thụ. Sự quy định ấy của phong kiến làm cho bản thân người phụ nữ không thể nào tự do, tự lập được, luôn luôn phải lệ thuộc vào cha, anh, hay chồng, con. II. Tư tưởng của phụ nữ đối với việc hưởng thụ Đã có ý thức về khả năng lao động và sản xuất của mình, đã nhìn nhận thấy những công việc mình đóng góp vào việc xây dựng đất nước, người phụ nữ Việt-nam lại càng phẫn uất, căm thù đối với cái chế độ nó đàn áp bóc lột mình. Suốt đời người đàn bà đã bị coi là kẻ vị thành niên, thì dù có được chia một phần nào, cũng rất ít ỏi, không đáng kể : « Hỡi cô cắt cỏ đồng mầu ! Chăn trâu cho khéo làm giàu cho cha. Giàu thì chia bảy chia ba. Phận em là gái được là bao nhiêu ! » Con gái ở với cha mẹ, đem sức lao động của mình để làm giàu cho cha, chứ không phải cho mẹ, vì mẹ chẳng qua cũng chỉ ở vào địa vị vị thành niên đối nới tài sản như mình. Tài sản « chia bảy, chia ba » là chia cho các anh em trai, chứ mình là « phận gái » được là bao ! Người thôn nữ đã nhận thấy rằng chỉ vì mình là gái nên mình chẳng được là bao, chứ thật ra « đổi phận làm trai được », thì với khả năng của mình, mình có thua kém gì nam giới. Ở một chế độ còn có người bóc lột người, có những tư tưởng chống đối với chế độ, nhưng đồng thời lại có những tư tưởng nâng đỡ, bênh vực chế độ ấy. Theo đạo « tam tòng », người con gái khi còn ở nhà phải lệ thuộc vào cha ; lấy chồng, theo chồng ; chồng chết theo con trai ; nếu phải là gái không chồng mà cha chết thì theo anh. Trong chế độ phong kiến, đối với phụ nữ, việc qui định tài sản rất là gắt gao. Việc qui định ấy chủ yếu làm cho phụ nữ, không bao giờ được độc lập về kinh tế, dù chính phụ nữ đã góp phần xây dựng kinh tế gia đình. Trong 24 huấn điều của Lê Hiến-tông (1500), huấn điều thứ 8 và thứ 9 đã qui định như sau về phụ nữ : « 8) Khi chồng chết, phải thương yêu con vợ trước, hoặc con vợ lẽ của chồng, nếu có gia tài, không được chiếm đoạt làm của riêng mình. « 9) Khi chồng chết mà mình chưa có con, thì phải ở lại nhà chồng giữ việc tang tế, đúng nghi lễ, không được dấu diếm chuyển vận tài sản nhà chồng đem về nhà mình ». Lễ giáo phong kiến nẩy nở ở quan hệ sản xuất trong một hoàn cảnh và thời kỳ nhất định, và thích ứng với quan hệ ấy, đã hạn chế người nông dân, nên nhiều khi họ đành yên phận tạm thời trong việc cưới gả : « Số giàu lấy khó cũng giàu, Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo ». Trong công cuộc đấu tranh thiên nhiên nhân loại đã rất hăng hái, bền bỉ. Nhưng trong lúc phương thức sản xuất chưa cho phép người ta có điều kiện để vượt mọi khó khăn trong cuộc đấu tranh thiên nhiên, thì đối với những sức quá mạnh của thiên nhiên, người la đâm ra sợ hãi, gán cho nó những sức mạnh thánh thần. Cuộc sống đơn lẻ của người nông dân thời xưa, cũng lại làm giảm sức đoàn kết đấu tranh của họ. Sự mê tín bắt nguồn từ đó. Như vậy, những điều mê tín, dị đoan của nông dân trong thời phong kiến, giai cấp thống trị không thể tạo ra được, nhưng chúng đã lợi dụng sự mê tín ấy, phát triển nó ra, để hạn chế lực lượng đấu tranh của nông dân, cố làm cho nông dân tin rằng địa chủ giàu là tại số, nông dân nghèo là tại số, và trong xã hội phụ nữ thấp kém hơn nam giới cũng do trời định. Bởi vậy, chế độ phong kiến cũng đã chi phối được một phần nào tư tưởng người dân lao động. Do đó mà dân gian văn học đã chịu ảnh hưởng một phần ý thức tư tưởng phong kiến. Nhưng có phải người nông dân nào cũng tin ở lời tuyên truyền lừa dối của giai cấp địa chủ phong kiến không ? Không phải người nào cũng bùi tai nghe như bọn địa chủ đã tưởng, không phải người nông dân nào cũng ngốt lên về chúng giàu mà chúng cần phải xoa dịu. Trong hôn nhân, nếu phải xứng đôi vừa lứa, người nông dân cũng không tin gì ở số mệnh, dù nghèo, đôi lứa thiếu niên cũng kết nghĩa vợ chồng cùng nhau để chung hưởng hạnh phúc : « Chẳng ham nhà ngói bức bàn, Trái duyên, coi bằng một gian chuồng gà. Ba gian nhà rạ bà xòa, Phải duyên coi tựa chín tòa nhà lim ». Cái giàu của địa chủ là do ở bóc lột nông dân, chiếm hữu ruộng đất. Trong cuộc sống hàng ngày ở nông thôn, người nông dân đã thừa biết việc ấy, nên trong thâm tâm họ khinh bỉ cái giàu không lao động của chúng, họ căm thù chúng đến xương tủy. Bởi vậy, đã có những người nông dân không trông đợi gì ở số để được giàu. Với tính thẳng thắn, chân thật, người nông dân đã quan niệm rằng : yêu nhau thì lấy nhau, cùng sống với nhau tuy trong cảnh nghèo, nhưng với mối tình thắm thiết thì dù nhà nhỏ như chuồng gà, cũng bằng chín tòa nhà lim. Đó là một tư tưởng phản đối cái quan niệm giàu tại số, nghèo tại số và cái lối đem giàu sang dụ dỗ mà bọn phong kiến đưa ra. III. Đối với việc gả bán trong hôn nhân dưới chế độ phong kiến, phụ nữ đã chống đối như thế nào ? Muốn cho bộ máy thống trị của chúng dễ điều khiển, bọn phong kiến thống trị tuyên truyền lễ giáo, tổ chức trật tự phong kiến ngay từ trong gia đình ; cho nên những người gia trưởng, con trưởng quyền hành hống hách, làm mưa làm gió trong gia đình, chỉ là những sản phẩm của chế độ phong kiến. Trong trật tự ấy, việc hôn nhân phải là việc chỉ có thể do cha, anh định đoạt, còn người con gái là người quan hệ, nếu theo lễ giáo phong kiến, chỉ đóng một vai thụ động « đặt đâu, ngồi đấy ». Nhưng trong quá trình đấu tranh của nông dân đối với giai cấp phong kiến thống trị, người phụ nữ đã không chịu người ta xếp đặt chỗ ngồi cho mình. Họ luôn luôn thắc mắc, lo âu về thân phận mình và luôn luôn có tư tưởng chống đối chế độ đè nén họ. Sự chống đối ấy thể hiện ra nhiều mặt, mực độ khác nhau tùy theo hoàn cảnh : có lúc thì là những lời thắc mắc băn khoăn, có lúc thì là những lời mỉa mai nguyền rủa, có lúc thì là lời công kích, thóa mạ kịch liệt cái chế độ nó đè nén mình. Sự chống đối ấy cũng biểu lộ tính chất người nông dân nước ta trong mọi cuộc đấu tranh dưới thời phong kiến, khi chưa có sự lãnh đạo của giai cấp công nhân : « Thân em như giải lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ? Em vin cành trúc em tựa cành mai, Đông đào tây liễu, em biết lấy ai bạn cùng. … … … Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào gác tía, hạt ra ruộng cày ! » Người con gái biết mình ở vào một hoàn cảnh gò bó, chèn ép như thế, nhưng cũng vẫn mạnh dạn tỏ rõ thái độ của mình, nói lên cái hướng mình muốn đi tới, nói lên những ai mới là người xứng đôi vừa lứa với mình : « Em vin cành trúc, em tựa cành mai ». Tùng, trúc, mai, « tuế hàn tam hữu », những cây ấy ngày đông tháng giá vẫn mơn mởn xanh tươi. Trong cuộc đời đấu tranh liên lục, khi gặp những lúc gian khổ, chỉ những người lòng son dạ sắt, mới luôn luôn phấn khởi và bền bỉ đấu tranh, giữ nguyên được khí tiết, được vẻ cao quí như cây tùng, cây trúc, cây mai. Những trang thanh niên ấy mới là người lọt vào mắt xanh người thôn nữ. Cái cảnh rực rỡ sán lạn « đông đào tây liễu » kia thật là một triển vọng chính đáng về tương lai của họ. Nhưng dưới chế độ phong kiến, người con gái đã mất quyền chủ động. Không có quyền xây dựng tương lai của mình, người thôn nữ chỉ còn như một « giải lụa đào phất phơ giữa chợ », ngọn gió phong kiến tàn ác kia rất có thể đưa mình bất cứ vào tay ai. Đã như hạt mưa sa, thì may ra được sung sướng, chẳng may ra bị khổ sở, vì trăm sự vẫn do như ngọn gió. Nhưng có phải như thế là người thôn nữ chịu ép một bề trước ngọn gió tàn nhẫn ấy không ? « Số giàu, lấy khó cũng giàu », người thôn nữ, phần thì tin ở số, nhưng cũng lại tin cả ở khả năng lao động của mình, vậy nếu có bị gió đưa mình « ra ruộng cày » thì mình cũng vẫn cứ có thể có ăn, có mặc, vì chị đã biết : « Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu… » Cản trở sự lựa chọn của người thôn nữ trong hôn nhân chính là do ở lực lượng phản động của chế độ phong kiến, nên trên đường tình trắc trở, đôi trai gái phẫn uất, đã kể lể cùng nhau những lời chua xót, nhưng thật chứa chan tình tứ : « Chúng ta là bạn thong dong, Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng. Bởi chưng thầy mẹ nói ngang, Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau ! » Chỉ mới « nói ngang » đã gây nên chia rẽ, gây nên trắc trở trong tình yêu của nam nữ thanh niên, đủ biết cái uy thế của gia trưởng trong chế độ phong kiến độc đoán, hà khắc biết chừng nào. Tuy vậy, tác giả bài ca dao trong quần chúng nhân dân vẫn cứ thổ lộ nỗi bất bình phẫn uất và ý nghĩ chua cay của mình, ý nghĩ chung của hầu hết nam nữ thanh niên ở nông thôn. Dưới chế độ phong kiến, người nông dân bị hành hạ khổ sở, bị bóc lột tàn tệ, nên bao giờ họ cũng nhìn thấy kẻ thù của mình là giai cấp địa chủ phong kiến, nhưng người nông dân đã bị trói buộc trong hệ thống bóc lột của chúng, nên tuy biết là địa chủ nó ác, đến cả trong sự lấy vợ cho con nó, nó cũng nhằm vào việc bóc lột sức lao động của người con dâu, người nông dân vẫn bắt buộc phải gả con vào nhà địa chủ. Hãy nghe người thôn nữ phẫn uất về việc mình phải gả bán vào « nhà giàu », lấy « thằng bé tỷ tỳ ty » : « Mẹ em tham giàu, khiến em lấy thằng bé tỷ tỳ ty, Làng trên xã dưới thiếu gì trai tơ ! Em trót đem thân cho thằng bé nó dày vò… » Nhưng không phải chỉ riêng người con gái có tư tưởng chống đối. Chính người con trai cũng không ưng lấy vợ lớn như chị cả của mình, cho nên người ta đã phải khuyên nhủ vỗ về cả người con trai nữa, vì có thế mới giải quyết được sự ép gả người con gái : « Có phúc lấy được vợ già, Sạch cửa sạch nhà, lại ngọt cơm canh. Vô phúc lấy đứa trẻ ranh, Nó ăn nó bỏ tung tành nó đi ». Chúng ta đã thấy không riêng gì những kẻ trong giai cấp phong kiến lấy vợ già cho con. Trong nhiều gia đình nông dân, việc cưới gả ấy cũng vẫn có. Đó cũng thể hiện một mặt khác của tư tưởng người nông dân sống trong hoàn cảnh xã hội phong kiến. Bị đối xử tàn nhẫn, không phải bao giờ người phụ nữ nông thôn cũng chịu ép một bề. Họ muốn thoát khỏi chốn đầy đọa đen tối, nhưng còn vấn vương trăm mối về tình yêu, nên có những phút đấu tranh tư tưởng thật là cảm động : « Vợ chồng đầu gối má kề, Lòng nào mà bỏ mà về cho đang ! Hồ về chân lại đá ngang, Về sao cho dứt cho đang mà về ! » Tình yêu thắm thiết ấy, người phụ nữ luôn luôn muốn giữ cho bền, đành ở lại nhà chồng, luôn luôn phẫn uất về những hành động ác nghiệt của nhà chồng đối với mình, nhưng cũng chỉ chịu đựng được đến một mực độ nào đó, rồi đến khi sự đàn áp bóc lột trở nên nặng về quá sức, người phụ nữ không còn thấy chút quyền sống của con người, thì cũng quyết tâm dứt tình dứt áo ra đi : « Cô kia đội nón đi đâu ? Tôi là phận gái làm dầu mới về. Mẹ chồng ác nghiệt đã ghê, Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi ». Kẻ gây sự chia rẽ ở đây là mụ mẹ chồng ác nghiệt. Mẹ chồng ác nghiệt thuở xưa đã trở nên một nhân vật mà tục ngữ ca dao của ta luôn luôn nhắc đến. Như nói đến cái tình giữa mẹ chồng nàng dâu thì : « Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng ». Hay nói đến cương vị của bố mẹ chồng và nàng dâu trong gia đình thì : « Bố chồng như lông con phượng, Mẹ chồng như tượng mới tô, Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi ». Người phụ nữ nông thôn luôn luôn phải cọ sát với những gai góc trong gia đình nhà chồng, nên họ cũng là người thấy rõ cái chân giá trị của những con người trong nhà chồng hơn ai hết. Tuy cương vị của những kẻ làm bố mẹ chồng như « lông con phượng », như « tượng mới tô », nhưng dưới con mắt người nông dân, cái « giá trị » của bọn ác nghiệt ấy lại khác hẳn : « Bố chồng là lông lợn hạch, Mẹ chồng là đách lợn lang, Nàng dâu mới về là bà hoàng thái tử ». Mấy câu ca dao này chứng tỏ người phụ nữ chống đối quyết liệt hẳn bố mẹ chồng ác nghiệt ; thật ra, như vậy là họ đã chống đối cái chế độ đàn áp họ, vì những kẻ kia sở dĩ được có cương vị và quyền hành như thế, cũng do chế độ phong kiến qui định. Cho nên, như ngày nay ta đã thấy, dưới chế độ dân chủ cộng hòa, một khi thực hiện được dân chủ ở nông thôn bằng cách đem lại cho nông dân những quyền lợi thực tế về kinh tế và chính trị, thì cũng không còn những bố mẹ chồng ác nghiệt nữa. IV. Tư tưởng chống đối của phụ nữ đối với chế độ đa thê Dưới chế độ phong kiến, trong cảnh một vợ một chồng đã có những sự khổ não như thế, đến cảnh làm lẽ thì còn chồng chất thêm một nỗi khổ nữa : « Lấy chồng làm lẽ khổ thay ! Đi cấy đi cày chị chẳng kể công. Đến tối chị giữ lấy chồng, Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài. Đến sáng chị gọi : Bớ bai ! Trở dậy nấu cám, thái khoai, đâm bèo. Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo… Cho nên tôi phải đâm bèo thái khoai ». Những lời tả thực thấm thía và đầy phẫn uất ấy đã nói lên sự bóc lột lao động, sự ghen tuông hành hạ của địa chủ và lý do chính chỉ là nghèo. Người thôn nữ căm giận địa chủ đối xử và bóc lột mình tàn tệ nhưng vì chưa có thể có một quan điểm giai cấp rõ ràng, nên cũng chỉ mới biết vì mình nghèo, nên người ta mới « có quyền » đối xử tàn tệ với mình, chứ cũng không rõ được mình nghèo bởi ai. Về cảnh chồng chung, có chị còn than thở : « Thân em làm lẽ chẳng hề, Có như chính thất mà lê giữa giường ! Tối tối chị giữ mất buồng, Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò. Mong chồng, chồng chẳng xuống cho, Đến khi chồng xuống gà đã o o gáy dồn ! Cha mẹ con gà kia ! sao mày vội gáy dồn ? Mày làm tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con ! » Tâm sự của một người thôn nữ làm lẽ ở một gia đình phong kiến đã biểu lộ một cách hiện thực, chất phác và cặn kẽ. Tâm sự ấy còn biểu lộ một cách mỉa mai, khi người thôn nữ nghĩ đến mụ địa chủ ngồi xềm xệp suốt ngày ở giữa giường, chỉ tay năm ngón và không bao giờ lao động. Đến lão địa chủ thì trong bài ca dao, chỉ tả có bốn chữ : « Đến khi chồng xuống… » nhưng đã có những câu : « Tối tối chị giữ mất buồng » ở trên, và « gà đã o o gáy dồn » ở dưới, làm nổi hẳn thời gian lên, và hình dung ngay được tên địa chủ sợ vợ vì lòng dâm dục phải lén lút trong đêm tối… Người phụ nữ với manh chiếu nằm ở chuồng bò đã nhận thấy sự tàn ác của mụ địa chủ, chị rất oán ghét mụ, oán ghét thâu canh, nhất là chị còn trong tuổi xuân, suốt năm canh thao thức… Trong những phút trằn trọc, căm giận ngấm ngầm ấy, đến con gà cũng phá tan được giấc mộng xuân mong manh của chị. Chế độ phong kiến đã bóp nghẹt tư tưởng người nông dân, nên khi ở vào cảnh cô đơn, đã có những người thôn nữ chỉ hờn duyên tủi phận, oán giận âm thầm, biết mình khổ, nhưng chưa nhìn thấy thật rõ kẻ thủ, kẻ làm mình khổ. Bởi vậy, người thôn nữ đã than thở : « Mong chồng, chồng chẳng xuống cho ! » nhưng thật ra kẻ ấy nào có phải chồng chị. Kẻ ấy chính là kẻ đại thù của chị, vì trong tư tưởng hắn, hẳn không coi chị là « vợ » hắn, mà chỉ là một thứ đồ chơi để hắn thỏa lòng dâm dục và đồng thời là một công cụ hẳn vứt ở chuồng bò để giữ bò, giữ của cho hắn, để cấy cày, làm giàu cho riêng hắn. Đã bị gả bán vào một nơi bị coi là một thứ công cụ sinh dục và công cụ sản xuất, thì đến khi người thôn nữ nhìn nhận thấy sự bóc lột và muốn rời bỏ, những kẻ đã chủ tâm bóc lột cũng không chịu để mất người đang làm giàu cho chúng : « Chị em ơi ! người ta trông thấy mặt chồng thì mừng. Sao tôi trông thấy mặt chồng thì như gừng với vôi ! Chị em ơi ! lấy chồng trước chẳng sánh đôi ; Từ ngày tôi lấy phải nó, tôi chẳng nguôi trong lòng, Ba bốn lần tôi trả của chẳng xong… » Lễ giáo, lệ luật phong kiến đã trói buộc người phụ nữ vào một tình trạng rất khó vùng vẫy. Đụng chạm với gừng với vôi, người phụ nữ đã chịu đựng rất khổ sở, nhưng dù là gừng, là vôi, nóng cay trăm phần, người phụ nữ cũng vẫn mạnh dạn đấu tranh để ra khỏi vòng tù túng. Còn phải giam hãm ngày nào, chị còn « chẳng nguôi trong lòng », còn bất bình ngày ấy, nhưng tục lệ gả bán đã không cho chị ra thoát. Cảnh chồng chung cực khổ, lại thêm lệ luật phong kiến trói buộc, nên đã bán mình làm lẽ, vào nhà địa chủ thì cũng khó gỡ cho ra. Đã có những phụ nữ thốt ra những lời quyết liệt sau này : « Đói lòng ăn nắm lá sung, Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng. Một thuyền một lái chẳng xong, Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào ! » « Ăn nắm lá sung », đây chỉ là một cách nói. Bí lắm, đến ăn nắm lá sung là cùng. Thốt ra lời nói ấy, người phụ nữ đã cầm chắc rằng : nếu thoát ly quan hệ gia đình, mình sẽ vẫn sống được, nhờ ở mình tự lao động, mình có kinh nghiệm sản xuất, không cần đi lấy lẽ và nương tựa vào tài sản của người. V. Đối với cảnh góa bụa, phụ nữ đã nói lên những gì trong ca dao ? Tuy đạo tam tòng rất khắt khe đối với phụ nữ trong chế độ phong kiến, nhưng không phải người đàn bà góa nào cũng cam phận ở vậy, hương khói thờ chồng. Trong thâm tâm, người phụ nữ Việt-nam đã hiểu rằng ở những trường hợp chồng chết mà không con, quan hệ chủ yếu của mình với gia đình nhà chồng như thế là cắt đứt, nhưng lễ giáo phong kiến lại qui định rằng : chồng chết, người vợ phải cư tang ba năm ; còn người chồng nếu vợ chết, chỉ phải để tang một năm, hay nếu cần thiết, có thể lấy vợ khác ngay cũng được. Đối với sự bất công ấy của chế độ phong kiến, người phụ nữ Việt-nam đã cực lực phản đối, vì « mỗi năm, một tuổi, như đuổi xuân đi », nên người đàn bà góa vừa thương thân mình vừa oán trách chế độ tàn ác : « Lênh đênh chiếc bách giữa dòng, Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì. Gió đưa cây trúc ngã quì, Ba năm trực tiết, còn gì là xuân ». Nhưng cũng có những phụ nữ chống đối hẳn với chế độ phong kiến không chỉ ở lời nói mà bằng cả hành động, dù có sáu con mà ở vào hoàn cảnh gia đình không chịu đựng được, cũng quyết tâm tái giá : « Hỡi thằng cu Bé ! Hỡi thằng cu Lớn ! Cu Tý, cu Tỵ, cu Tỷ, cu Tỳ ơi ! Con dậy con ăn, con ở với bà, Để mẹ đi kiếm một và em thêm. Bố con chết đi, trong bụng mẹ đây nó hãy còn thèm ; Mẹ xem quẻ bói, vẫn còn đàn em trong bụng này. Con ra gọi chủ vào đây ! Để mẹ giao trả cái cơ nghiệp này, mẹ đi… » Những câu ca dao trên này cho chúng ta thấy rõ tư tưởng chống đối của phụ nữ, sự mong muốn của phụ nữ có quyền tự do kết hôn, tự do tái giá, khi không hại đến ai. Sống trong một hoàn cảnh bực bội như thế, người đàn bà đã mạnh dạn nói ra sự ước muốn của mình : đồng thời chị cũng lại sợ dư luận, nên trong cái hoàn cảnh người ta còn mê tín rất nhiều, người đàn bà đã rào trước đón sau, đổ việc mình tái giá là tại số, tuy chính chị không tin ở số trong việc này, việc mà chị hoàn toàn chủ động. Nhưng ngoài những cách thu xếp (con ở với bà) và thổ lộ những lý do về sinh lý, về số tướng (bụng mẹ còn thèm, mẹ xem quẻ bói), vẫn còn có chỗ mắc míu nhất mà người phụ nữ đã biết và chị phải gỡ cho xong : đó là cơ nghiệp nhà chồng do chị tạm thời quản lý để nuôi đàn con nhỏ. Phải giao trả hết tài sản ấy cho em chồng, bấy giờ người phụ nữ mới thoát ly được quan hệ nhà chồng. Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, khi muốn thoát khỏi vòng giam cầm của lễ giáo hủ bại, người phụ nữ chỉ có thể làm đến thế là cùng. Chị đã chống đối hẳn cái « nề nếp » phong kiến những cái mà giai cấp thống trị đã tô bằng những nét vàng son. Nề nếp ấy người phụ nữ đã biết là giả đạo đức, là ích kỷ, vì nó cho phép nam giới có quyền tự do hoàn toàn trong việc lấy vợ, còn người gái góa phải thủ tiết thờ chồng trọn đời mới được coi là « có đức ». Người đàn bà đã căm giận đến cực độ, nên mới thốt ra những lời nói như trên, những lời quyết liệt, muốn phá tan tành nhà ngục đen tối mà giai cấp phong kiến thống trị giam cầm họ. VI. Kết luận Dân ca Việt-nam đã nói lên rất nhiều khả năng lao động và sản xuất của phụ nữ, sự bóc lột nặng nề mà phụ nữ phải chịu, tuy họ có làm nhưng không có hưởng thụ. Sự lầm than ấy của họ lại thêm những nỗi khổ cực của họ trong hôn nhân. Đó là những sự rất trái ngược mà giai cấp thống trị đã luôn luôn xoa dịu bằng những lối giả đạo đức của chúng. Nhưng không phải người nông dân nào cũng bị lừa dối, một số đông đã bền bỉ đấu tranh trong hàng bao nhiêu thế kỷ. Sự chống đối ấy của phụ nữ đã thể hiện trong dân ca của chúng ta, khi thì là lời than thở, khi thì là lời phẫn uất, căm hờn, khi thì là những lời phản kháng quyết liệt. Những tiếng phản kháng của phụ nữ đã vang lên trong biết bao đời nay, mà chế độ đàn áp bóc lột vẫn tồn tại. Suốt trong chế độ phong kiến, người phụ nữ Việt-nam ở nông thôn vẫn thấy đời sống của mình không khác xưa mấy tý. Họ vẫn phải làm lụng vất vả quá độ, vẫn phải phụ thuộc vào chồng, vào con, còn những quyền lợi thực tế họ vẫn hoàn toàn không có. Chúng ta đã biết trong khi chưa có được giai cấp tiền phong lãnh đạo thì trong thời phong kiến, nông dân tuy có chống đối quyết liệt, nhưng vẫn rời rạc và không thể đoàn kết đấu tranh triệt để được. Hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt-nam, người nông dân, cả phụ nữ lẫn nam giới, đều đã thấy và sẽ thấy sức sản xuất của mình được giải phóng ; họ đã bắt đầu có những quyền lợi thực tế về kinh tế, về chính trị, mà họ đã muốn có từ lâu. Dưới chính thể dân chủ cộng hòa, phụ nữ Việt-nam đã được hưởng những quyền bình đẳng với nam giới về đủ mọi mặt. Có lao động, có sản xuất, thì nữ giới cũng như nam giới, đều có hưởng thụ như nhau ; phụ nữ sẽ hoàn toàn được độc lập về kinh tế, và chế độ hôn nhân cũ ở nước ta với mọi sự bất công và thối nát của nó, sẽ không tồn tại được nữa. Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, phụ nữ Việt-nam đã bắt đầu phát triển khả năng dồi dào của mình về lao động, về sản xuất, về văn nghệ, về quân sự cũng như về kiến thiết. Họ đã đóng góp rất nhiều công sức vào cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc, cũng như hiện nay họ đang tích cực tham gia vào mọi công cuộc kiến thiết ở miền Bắc và đấu tranh ở miền Nam. Nhờ quan hệ ruộng đất mới, thích hợp với sức sản xuất mới, nước ta nay mai sẽ trở thành một nước công nghiệp để sau này tiến tới xã hội chủ nghĩa. Phụ nữ Việt-nam đã bắt đầu có một đời sống tự do như nam giới, quan hệ gia đình cũ do đó sẽ không còn, và trong việc hôn nhân, phụ nữ sẽ được hoàn toàn giải phóng, xứng đáng với khả năng sản xuất của họ, với công sức mà họ đã đem ra phục vụ cho kháng chiến thắng lợi, cũng như cho củng cố hòa bình, để thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. VŨ NGỌC-PHAN ĐÁNH ĐỔ THUYẾT MAN-TUÝT TRONG KHOA HỌC ĐỊA LÝ của HƯỚNG-TÂN GẦN đây, chúng tôi có được gặp một số bạn giáo sư chuyên dạy địa lý. Các bạn ấy cùng chúng tôi trao đổi ý kiến về một vài quyển địa lý của các nhà địa lý thực dân viết về Việt-nam, trong đó có những quyển của Rô-bơ-canh (Robequain) và Gu-ru (Gourou). Một bạn nói rằng đó là những sách hoàn toàn có giá trị. Một bạn khác cho rằng trong khi ta chưa có đủ sách dạy, thì đó là những sách rất tốt cho ta. Những sách đó như thế nào, chúng ta cần phải đánh giá cho đúng. Ở đây chúng tôi chưa nói đến tất cả những lập luận sai của các tác giả ấy, mà chỉ đề cập đến một quan điểm phi khoa học và phản động. Đó là quan điểm mật độ dân số quyết định hay là quan điểm của thuyết Man-tuyt. (Malthus) I. Quan điểm sai lầm của Gu-ru và Rô-bơ-canh về dân số Dưới đây, chúng tôi trích ra một vài đoạn trong những sách của Rô-bơ-canh và Gu-ru : « Xét về toàn bộ, nông dân Bắc kỳ nghèo khổ và vẫn cứ nghèo khổ như thế mãi. Mật độ dân số cao quá là một bệnh không thuốc nào chữa được… » (Gu-ru : « Việc sử dụng đất đai ở Đông dương thuộc Pháp », trang 443) """