"
Tâm Hồn Trong Trắng - Paule Constant full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Tâm Hồn Trong Trắng - Paule Constant full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
TÂM HỒN TRONG TRẮNG Paule Constant
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: TÂM HỒN TRONG TRẮNG
Tác giả: Paule Constant
Dịch giả: Hiệu Constant
Nguyên tác: White Spirit
Nhà xuất bản: Hội Nhà Văn
Năm xuất bản: 2007
Số trang: 320
Giá tiền: 58.000 Đồng
Khổ: 13 x 20 cm
Đánh máy: Thiên Nhai, Mai Ly, Vân Anh, Thùy Trâm, Thùy An Kiểm tra: Hồng Sơn
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 25/02/2011
Making Ebook Project #103– www.BookaholicClub.com
Bạn đang đọc ebook TÂM HỒN TRONG TRẮNG của tác giả Paule Constant do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
MỤC LỤC
NHỮNG TÁC PHẨM TẬN CÙNG CUỘC SỐNG CỦA PAULE CONSTANT
La Vonlonté De Dieu
Chuyến đi
César
Cảng Chuối
Sunset Boulevard
Cuộc đua xe tải
Guastavin
Nông trường chuối
Cửa hàng La Ressource De L’Africain
Victor
Ngôi nhà của chủ đồn điền
Mối diễm tình
White spirit
Sự ra đời của chú khỉ
Thầy Emmanuel
Lễ rửa nước thánh cho con khỉ
Bài học
Bạch tuyết
Cuộc chiêu đãi ở trong vườn
Dưới dấu hiệu của thiên thần
Kẻ đáng gờm
Trái tim hoang dại
Những con người tuyệt diệu
Cút về
Những kẻ cực lạc Bài thi ca của chú khỉ Happy end
NHỮNG TÁC PHẨM TẬN CÙNG CUỘC SỐNG CỦA PAULE CONSTANT
Paule Constant hiện tại sống tại Aix-en-Provence, một thành phố miền nam nước Pháp. Bà là giáo sư giảng dạy văn học Pháp tại trường Đại học Paul Cézzanne (Aix-Marrseille III). Là một nữ tiểu thuyết gia, nhưng đồng thời bà cũng viết rất nhiều tiểu luận và cũng là một nhà phê bình văn học độc đáo. Bà đã thành lập và là chủ tịch trung tâm đào tạo nhà văn trẻ Miền Nam (Pháp) - Jean Giono tại thành phố Aix-en-Provence.
Là một người bắt đầu sự nghiệp văn chương hơi muộn, cuốn tiểu thuyết đầu tay ra đời khi bà đã gần tuổi bốn mươi. Tác phẩm Ouregano (1980) đã ngay lập tức được bạn đọc đón tiếp nồng nhiệt và đã nhận được giải thưởng Valery Larbaud. Kể từ đó, nữ nhà văn làm việc không mệt mỏi và cho ra đời những tác phẩm có giá trị văn chương cao:
- Dinh thự (Propriété privée, 1981).
- Balta (1983).
- Một thế giới dành cho các tiểu thư (Un Monde à I’ Usage des Mademoiselles, 1987). Tác phẩm này đã được trao giải Tiểu luận hay nhất của Viện Hàn lâm Pháp.
- Tâm hồn trong trắng (White Spirite, 1989), tác phẩm này đã được trao giải thưởng Francois-Mauriac, giải Lutèce, giải Jean Baumel, giải dành cho tiểu thuyết hay nhất của viện hàn lâm Pháp (Grand Prix de l’Académie Francaise).
- Con gái ngài Gobernator (La fille du Gobernator, 1994), đây là một kiệt tác viết về nhà tù khổ sai của Pháp ở các nước thuộc địa, điển hình là châu Phi. Tác giả cho biết đây là tác phẩm tâm đắc nhất của bà. Tác phẩm đang được dịch ra tiếng Việt.
- Năm 1998, tiểu thuyết Nỗi Niềm đã đưa Paule Constant lên đỉnh cao trong sự nghiệp cầm bút của bà, tác phẩm đã được trao giải Goncourt, đồng thời cũng được giải Tiểu thuyết hay nhất được khán giả truyền hình Pháp bình chọn.
- Bạn đọc sau đó phải chờ 5 năm tiếp sau, nữ tiểu thuyết gia mới lại cho ra đời cuốn Đường ngọt và mật hiệu (Sucre & Secret, 2003). Truyện được xây dựng trong bối cảnh ở Mỹ, và phong cách ứng xử của người phụ nữ trước án tử hình, tác phẩm được giải của Amnesty Internationale Bruxelles năm 2003.
- Béte à Chagrin (2007), tác phẩm phê phán kịch liệt xã hội tiêu thụ, nó khiến con người đôi lúc trở nên mụ mị, mất đi tính người. Một tác phẩm có thể coi là trinh thám tâm hồn người. Những day dứt giằng xé, đuổi bắt của những nghĩ suy trong tâm hồn của chính một con người được bộc lộ mãnh liệt qua những trang phân tích tâm lý nhân vật hết sức độc đáo và đặc sắc.
Trong hầu hết các tác phẩm của mình, Paule Constant thường đi ngược dòng chảy với xã hội hiện tại. Bà đi sâu tìm hiểu cuộc sống đến tận chân tơ kẽ tóc, qua đó mà thực chất được phơi bày lộ liễu. Văn của Paule Constant là giọng văn trần thuật, hiện thực. Bà là một nhà văn giàu kinh nghiệm sống và cặp mắt quan sát sâu rộng. Sáng tác của bà gần gũi với các tầng
lớp người trong xã hội. Từ giàu sang đến nghèo hèn, ai cũng có thể tìm được bóng dáng mình trong đó. Chủ đề các tác phẩm của bà thường đề cập đến các nước thuộc địa. Bà lách sâu xuống đến tận cùng của đáy cuộc sống để moi bới từ đó lên chút tinh hoa tình người còn sót lại trong xã hội vật chất hóa này. Trong các tác phẩm của bà, cái ranh giới giữa người và vật đôi khi hay bị xô đẩy và nó hết sức mong manh. Những tác phẩm của Paule Constant đã được chọn để giảng dạy trong các trường học, được các công trình nghiên cứu văn chương chọn làm chủ đề nghiên cứu ở Pháp cũng như nhiều nước trên thế giới.
Các tác phẩm của bà đã được dịch ra trên ba mươi thứ tiếng.
Bà cũng tham gia cộng tác với nhiều chương trình văn học trên các đài truyền hình, đài phát thanh và các báo viết.
Bà còn là thành viên ban giám khảo của các giải thưởng văn học lớn như giải Femina, giải Francois Mauriac, giải Jean Giono, giải Valery Larbaud, giải Tropiques, Des Ecrivains du Sud.
- Hiệu Constant -
La Vonlonté De Dieu
Con tàu tên là LA VOLONTÉ DE DIEU, tà tà qua lại giữa châu Phi và chính quốc, chở đen, chở trắng, là tàu tình cho những ủy ban xí nghiệp, tàu cứu tế cho những cơ quan buôn bán từ thiện, và lúc nào cũng là tàu phế thải như cái thùng rác. Bên dưới vỏ tàu, phương Tây đang chìm đắm nhưng tàu vẫn tiếp tục chạy, bởi vì đấy là nguồn lợi của viên thuyền trưởng và của bao nhiêu người khác nữa: chủ đồn điền, nhà buôn, hoặc công chức, những kẻ này sống bám vào thân hình nó như những con sò vẫn liếm láp gỉ tàu, sắt vụn và liếm láp cả những tai họa đại dương. Con tàu vĩ đại thật, người bà đã thốt lên khi đến gần bên cạnh, hơn nữa cái tên nó rất hay.
Victor đã đáp lời mục rao vặt của một công ty xuất nhập khẩu muốn tuyển những người trẻ, khỏe, năng động, dám nhận trách nhiệm… cho các chi nhánh của hãng ở châu Phi. Bởi người ta chẳng đòi hỏi bằng cấp nào, và chi phí chuyến đi lại được đài thọ, nên Victor chẳng ngần ngại gì. Anh viết thư trả lời kèm theo một chiếc phong bì dán sẵn tem để nhận lời hối đáp và anh ra vào nôn nóng ngóng người phát thư. Anh nhìn thấy bác ta từ xa, ở góc nhà Favre nơi mà bác ta sẽ bắt đầu chuyến đưa thư hàng ngày, bác dựng xe đạp dưới cửa sổ, giữa những bụi hoa dã yên thảo hai màu trắng đỏ và những bụi hoa leo phong lữ, rồi tán gẫu với mỗi gia đình một tý. Victor lấy làm sốt ruột. Bà anh đã đến gần sát sau lưng mà anh không hay, tay bà cầm phong thư. Bà đã tới tận bưu điện kiếm nó và đã mở ngay ra xem: anh đã được tuyển và sẽ lên đường vào giữa tháng.
Anh phải chuẩn bị hành trang. Hai bà cháu đi xe đò lên tỉnh. Người bà diện đồ láng, tay cầm túi xắc, tai đeo đôi hoa ngọc thạch đỏ thứ thiệt, đầu ngẩng cao và là hiện thân của sự hãnh diện. Trên đường đi, bà nhẩm tính các thứ phải mua, bà tiên liệu các bước đường định mệnh của anh trong những tháng ngày sắp tới. Bà có tính hoang tưởng, cộng thêm chút dạ anh hùng và hiến sinh, tuy đã thuyên giảm phần nào nhờ ở chỗ bà hằng mong ước có được một tư cách khả kính trưởng giả. Bà chấp nhận trật tự đặt định của loài người và quy luật của đấng tối cao, nên lúc nào bà cũng phát hiện được ở mọi nơi và trong mọi sự việc những tín hiệu của ý muốn bề trên. Anh thích bà kể vanh vách về đời anh giống như người ta bói bài. Làm sao
bà biết tất cả những thứ đó hả bà? Anh hỏi bà. Bởi ta già rồi, bà đáp lại, và anh chợt hiểu rằng ở độ tuổi hai mươi người ta chưa đủ sức dự đoán tương lai được.
Họ lần lượt ghé vào tất cả những nhà buôn lớn, có cửa hiệu rạng rỡ cha truyền con nối, có thương hiệu chạm khảm nơi mặt tiền, có quầy hàng bằng gỗ, ngăn kéo có tay nắm bằng đồng, những nhà thương mại chuyên về chăn gối, đồ lót, đồng phục, mũ hay complet. Bà đi trước, anh theo sau, trong dáng bộ loi choi kiểu vịt con còn sót lại từ thời anh thơ ấu, luôn bị ám ảnh bởi tấm lưng rộng đen tuyền của bà. Bà không mệt mỏi kể chuyện cuộc đời sắp tới của anh, đến nỗi mà anh có thể đọc thuộc lòng tương lai thành đạt của mình. Cứ lặp đi lặp lại như vậy, riết rồi mọi việc tưởng cũng hóa thành sự thật. Nhưng còn lâu hai bà cháu mới chinh phục nổi các cô bán hàng và thuyết phục được những ông trưởng quầy, họ thảy đều đánh giá được qua những câu chuyện dây cà dây muống mào đầu của bà cụ già, số tiền còm cõi mà cụ sẽ chi tiêu. Ta thấy những cửa hàng này không còn giống như trước đây nữa, bà nhận xét với đứa cháu. Chẳng biết tiếp đón gì cả. Mày nhớ nhé, trong thương trường, khách hàng là thượng đế. Họ rẽ sang những cửa hàng lớn. Ở cửa hàng Conchon-Quinette, họ bị một anh chàng lẻo mép ăn mặc giống như người mẫu, thấy món bở cần phải chinh phục, ba hoa ép họ mua hàng. Bà chọn cho anh một bộ complet đen, dày và nặng, loại chịu trận nổi một cuộc đời phiêu lưu táo bạo nhọc nhằn mà vẫn tạo được cho anh dáng khắc kỷ và nghiêm nghị mà tuổi trẻ mới đến của anh chưa có được.
Anh diện ngay bộ complet vào để đi tới chào nhà họ Favre, gia đình đang ngự trị trong xóm này là chủ khách sạn vừa cửa hàng thực phẩm vừa quán rượu, chủ tiệm ăn dành cho khách chào hàng, chủ trạm xăng, và còn là chủ của nhiều các thứ khác, như một xưởng thợ mộc, và biết bao những thửa đất cho cấy rẽ. Cả làng đều làm công cho họ còn bà thì giúp việc ngay trong nhà họ. Phải đến chào họ thôi, bà nói. Hai bà cháu dẫn nhau đi, nhưng lần này thì anh trước, bà sau. Bà thấy cháu mình thật đẹp. Đi trước đi, để ta ngắm mày chút nào. Nhưng bà có ngắm cháu đâu, bà uống ừng ực, bà nhai nghiến ngấu. Thế mà bà có đỡ khát đỡ đói được đâu, trong lúc đôi hoa tai cứ tưng tửng nhảy nhót như bầy cá vừa vớt khỏi nước sáng lấp lóa. Đứng trước cây thánh giá mà nhà họ Favre đã dựng lên ngay chính giữa quảng trường nhỏ trước nhà họ như để đánh dấu thế chiếm ngự của họ, bà tự dưng đưa tay làm dấu thánh, tin tưởng mãnh liệt nổi lên trong lòng, hệt như mình
đang thành khẩn cầu nguyện và quỳ gối tạ ơn chúa Alléluia, xin Chúa phù hộ chúng con, bà cầu khấn.
Hai người không đi vào nhà hàng bằng lối qua cửa hàng như mọi ngày, mà vào hẳn cửa dành cho quý khách viếng thăm cửa hàng trong những dịp lễ lớn, có giá mắc áo măng tô đính gương và xô đồng đựng dù mà sáng nào bà cũng phải đánh bóng sáng loáng. Ai đấy? Một giọng đàn bà vang lên mà không chạy ra xem. Bà đáp lại: Là thằng nhỏ, nó muốn đến chào từ biệt mọi người. Riêng bà thì chẳng là cái thá gì! Giọng nói lại vọng ra rằng: là Victor hả, thì cứ việc qua đây, bởi tôi chỉ có một mình, không thể bỏ mặc khách hàng được. Bắt buộc phải qua cửa hàng vậy.
Để Victor diện bộ complet đen, bà anh chắc đã muốn được tiếp ở phòng khách, có ghế ngồi, và thân chinh ông Favre sẽ ra chào họ và còn có thể mời họ một ly Lillet[1], chứ không phải ở trong cửa hàng thực phẩm và bởi một trong mấy ả con gái nhà họ Favre, hơn nữa lại là một ả đeo tạp dề. Thế có chuyện gì vậy? Cô ta vẫn hỏi từ xa. Cháu nó sắp đi châu Phi, bà trả lời. A thế! Cô ta nói, và khi nghe cô ta thốt lên câu A thế! ấy, người ta cảm tưởng là sắp xảy ra một thảm họa nào đó đã âm ỉ từ lâu. Đối với tương lai của đứa cháu người hầu nhà mình thì cô mường tượng nó sẽ diễn ra ở trong nhà tù Sing-Sing hoặc trong nhà ngục Cayenne, ở tại đảo Quỷ nhiều hơn đảo Cứu Tinh[2]. Quá tin chắc ở điều tồi tệ nhất đó, cô ta cũng chẳng thèm hỏi xem Victor đi làm gì nơi đó. Liếc nhìn xéo anh, cô bực mình bởi cả khối đen tuyền kia, nó không báo trước được điềm may gì. Một cô khác đột ngột bước vào. Lại cùng một câu hỏi và lại cùng một câu trả lời. Phi châu phong tỏa đầu óc họ, bộ complet lại kìm giữ họ. Người bà chờ đợi để giải tỏa đống câu trả lời của mình, nhưng muốn trả lời thì ít nhất cũng phải đợi các câu hỏi được nêu ra. Tịch không có gì, nếu có thì không ngoài việc các cô muốn biết rõ là: khi được RẢNH RANG vì chuyến xuất ngoại của đứa cháu trai, thì liệu bà có thể GIÚP THÊM HỌ MỘT TAY, dành thêm chút ít thời giờ nữa cho cửa hàng hay cho quán rượu được không. Bà trả lời: được. Các cô thở phào.
Bà chưa bao giờ than thở điều gì trước mặt anh, mà chỉ co rúm lại xung quanh những tủi nhục của mình. Đờ người trong sự thụ động tuy hạnh phúc nhưng nhu nhược, anh bỗng nhận thấy dưới vành tai bà, những viên ngọc
thạch treo lủng lẳng như hai giọt nước tối sẫm làm cho khuôn mặt bà vàng ểnh đi thật thiểu não. Trạng thái tê mê khoái lạc và đầy tự tin xóa mờ đi sự rối loạn trong lòng và làm dịu bớt cảm nghĩ của anh. Sự đón tiếp của gia đình nhà Favre đối với anh cũng không quá đối nghịch hơn xưa, cũng chẳng khác gì sự đón tiếp trong ngày lễ ban thánh của anh, ngày đó bà cháu anh cũng đã phải vào nhà qua lối cửa hàng, thậm chí hai người cũng đã phải xếp hàng cùng với những bà khách mua hàng, và lại còn bị ả trực cửa hàng mặt nặng mày nhẹ, bởi lẽ nếu không có buổi lễ ban thánh đó thì chính bà anh là kẻ phải trực quầy: Tôi đừ quá rồi, bận tối mặt tối mũi đây, trước khi ánh mắt của ả ta, do va phải miếng băng tay bằng lụa trắng, làm nở một nụ cười, và bàn tay lưỡng lự đưa về phía ngăn kéo tiền, nhưng sau đó bỗng dứt khoát quay hẳn về phía hộp kẹo. Về cái hôm đó, trong miệng mình, anh giữ mãi hương vị của món quà bố thí nhỏ nhoi là chiếc bánh thánh và viên kẹo chua ngọt của vị cam. Bà anh đã cảm ơn họ.
Chứng chỉ học hết cấp cũng chẳng mở được cho anh cánh cửa phòng khách của gia đình Favre. Tùy hoàn cảnh đó thôi, cũng khó đoán biết trước được gì hơn hệt như đoán biết được thời tiết nóng nực ngày hôm ấy. Thế mà hai bà cháu đã gần như nhìn thấy trước mắt chiếc bàn vuông trên đó ông Favre vẫn gói hàng, chiếc đàn dương cầm và hai chiếc phô-tơi da, đầu ghế được phủ tấm khăn thêu kiểu Anh; thật sự là rất gần. Hai người đã đi qua hết cả khu hành lang, sau đó bà anh đã dùng hông huých anh một cú rất mạnh về hướng góc tường để tránh lối đi lộ liễu có thể dẫn vào bếp. Muộn quá rồi, đằng sau bà cháu họ, một giọng nói vang qua cửa sổ mở toang gọi họ vào vườn để thưởng thức những sản phẩm mùa hè của cô nàng làm vườn. Họ đã chúc mừng anh thi đỗ ngay giữa những cọc đậu leo, nhưng kém phần hào hứng hơn việc giới thiệu những quả cà chua, loại saint-pierre, to tròn đỏ thẫm mà nữ nghệ sĩ vun xới mong muốn họ chiêm ngưỡng. Chuyện của anh xếp sau những củ cà rốt, những quả dâu tây và một cây mơ đầy hứa hẹn do đã ra cành từ năm trước. Tuổi trai tráng thường đặc biệt hiếm hoi những sự kiện lớn, cho nên phải ngồi chờ đợi đến một hoàn cảnh hết sức tầm thường chỉ cho thấy sẽ đi qua tất cả mọi thất bại có thể xảy ra. Người bà kì vọng rất nhiều ở thời gian quân dịch do anh sẽ đóng bộ quân phục. Nhưng rồi chẳng có chuyện tòng quân gì sất, anh thuộc lớp được miễn. Nhưng gặp cái rủi cũng là một dịp may, bà lại nói thế.
Bà cứ khăng khăng, mặc dù chưa đi xa như thế bao giờ, bà vẫn muốn chính mình đưa thằng nhỏ tới Bordeaux, lấy cớ là anh sẽ được đánh giá cao hơn khi có phụ huynh đi cùng. Bà đóng vai người mẹ, người cha, và cả người ông, bà là tất cả quá khứ của anh, còn anh là tương lai của bà. Bà sẽ bảo đảm cho Victor, một thanh niên dũng cảm cần cù và lương thiện. Nhất là tính lương thiện, danh dự của những kẻ bần hàn. Để tỏ lòng lương thiện, bà sẽ sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình. Để thuyết phục, bà sẽ sẵn sàng đòi chịu các thử thách như chiếc nhẫn để hờ trên mặt tủ, đồng xu bỏ quên trong túi áo, chiếc ví đánh rơi được hoàn lại, đồng tiền thối đủ từng chinh một. Đến Bordeaux là tận cùng tất cả những gì bà có thể làm được cho anh, tận cùng những gì mà tuổi tác và điều kiện sống của bà cho phép. Mặc dù bà diện đôi hoa tai ngọc thạch đỏ của những ngày lễ long trọng, nhưng thành phố vẫn phát hiện ra con người thật của bà, một bà già quê mùa, không phải thuộc loại người vững tin ung dung và tự phụ, mà thuộc đẳng cấp bên dưới, loại xoàng xĩnh, phục tùng và luôn sợ sệt. Bà thấy chóng mặt.
Trong lúc chờ đến giờ hẹn, họ ngồi đợi trong một quán cóc đối diện kho cảng, nơi chiếc bàn phóoc-mi-ca làm bực mình bầy ruồi nhặng bay lao nhao. Họ gọi cà phê, vì thức uống này rẻ hơn cả, mặc dầu vậy, bà vẫn cúi xuống tận sát bên tai người cháu thì thầm rằng, với cái giá ấy, nó vẫn còn quá đắt. Bà nghi rằng đó là thứ nước thứ hai, là chuyện có vẻ thường xảy ra trong các nhà hàng lớn. Những khách hàng của gia đình Favre không thấu được niềm hạnh phúc của họ. Trong bà luôn bị pha trộn giữa một bên là niềm kiêu hãnh mãnh liệt và bên kia là sự hạ mình run rẩy, một bên là mong muốn được quyền phê phán mọi thứ và bên kia lại là tự nhẫn nhục chịu đựng. Được người khác phục vụ bà cảm thấy bối rối, bà luôn miệng cảm ơn từng chuyện. Chắc hẳn bà muốn lau rửa tách cà phê của mình và mang lại trả cho chủ quán chiếc tách sạch bong. Đầu óc vẩn vơ, Victor vô tình dùng ngón tay cái nghiến nát con ruồi, rồi ngạc nhiên sao mình lại có thể giết nó một cách dễ dàng đến vậy.
Ông Beretti, giám đốc hãng này, chủ nhiệm sở nọ, như đã được in theo kiểu khắc cổ trong tấm danh thiếp ghim trên cửa phòng, tiếp hai bà cháu họ trong buồng ngủ. Người bà không ngờ rằng công chuyện áp phe lại được bàn bạc giải quyết ngay bên chiếc giường bừa bãi thế ấy, với một người đàn ông thì vẫn còn bận py-za-ma kẻ sọc thò hẳn ra ngoài áo choàng mặc trong phòng may bằng chất polyester in nhái theo kiểu cachemire. Mặt kính
nghiêng nghiêng của chiếc gương lớn có giá đỡ làm hình bóng họ phản chiếu trong đó hơi dài ra. Những phòng khách sạn bao giờ cũng làm mắt bà cụp xuống, bà không thích phục vụ khách ăn điểm tâm trên giường. Kẻ có thế lực ấy luôn làm việc như vậy; các văn phòng, thư ký và tất cả những thứ khác, ông ta đã để hết lại ở châu Phi… Ở đây chỉ là đi ngang qua, càng phải nán lại bao nhiêu ngày, ông ta càng hài lòng bấy nhiêu, rồi thì ai biết nấy nhờ. Ông sắp trở về châu Phi cùng với những Giám đốc của mình.
Giám đốc, từ này làm lóa mắt bao kẻ. Bà đã nghe rõ mồn một rằng Victor sẽ làm Giám đốc của một trong những chi nhánh của tập đoàn LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN. Do đó, bà anh chợt tự vấn: liệu có phải quá quá không, bà đi tiễn một kẻ học việc thì người ta lại biến nó thành một ông chủ. Thôi bà không việc gì phải lo lắng, tập đoàn LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN sẽ đào tạo các cán bộ cho riêng công ty của mình mà. Tiếp theo là cả một bài luận trường thiên về các loại băng cấp khí vô dụng, nhất là trong lĩnh vực thực hành cụ thể. Rất đơn giản nhé, với ông ta, riêng Beretti, thì ông quyết chẳng cần đến kỹ sư đỗ đạt trường Đại học Bách khoa. Còn về những điều kiện lương bổng… Bà bật kêu lên, sau sự tin cậy mà họ vừa được trao gửi, thì những điều kiện, thôi tùy ý ông. Beretti quay về phía Victor, ánh mắt dò hỏi. Bà tôi muốn thế nào thì thế ấy… Vậy thì ta ăn mừng chứ? Beretti kêu đồ uống. Mặc dù trời đã rất nóng, nhưng họ vẫn từ chối, một thói quen là bao giờ cũng từ khước cái mình thích, để khỏi phải mang ơn.
Bà cảm thấy khó ở, đôi chân yếu đuối không thể trụ được nữa, cả mặt bà đầm đìa mồ hôi. Đối với bà, Phi châu hình như không khủng khiếp bằng Bordeaux. Thành phố lớn làm bà mệt mỏi. Thương tình, Beretti mời bà nghỉ tạm ở ghế phô-tơi. Nhờ vậy họ có thời giờ chứng kiến ông ta khuấy trộn công việc. Những cú điện thoại, đứng thẳng hay đi đi lại lại trong phòng. Hai tấn thuốc trừ sâu hả? OK. Một tấn sun-phát à? OK. Một tấn thuốc diệt chuột hả? OK. Một tấn sút ăn da hả? OK. Một tấn lemon-rubb hả? Ông đưa mắt hỏi họ: Quézaco? Biết gì về cái đó không? Tôi không biết, Victor trả lời. Beretti nhún vai, bà hẳn phải biết thứ đó chứ, bà cụ nghe này, đó là một loại dùng để giặt, để đánh gỉ, để tẩy trắng. Nước gia-ven à? Bà Victor vừa mới lấy lại chút bình tĩnh trả lời. Không, tên gọi có cái trăng trắng ở trong. Trắng Tây Ban Nha, trắng chì, trắng Meudon…, những từ cứ tượt đi, chỉ độc màu trắng, đánh nổi màu trắng, trắng túi, lấy trắng máu. Không, không
phải thế, Beretti khoát tay. Muối, người bà, lúc này đã phát hoảng, trả lời, muối ăng lê, muối bạc, a-xít muối…, không, không, Beretti ngắt lời và nhíu mày lại. Hay đó là white spirit? Người bà đột nhiên nói theo ngẫu hứng. Đúng rồi, ông ta trả lời và chỉ thẳng ngón tay về phía bà như muốn gắn chặt từ ấy trong miệng bà, đúng thế, WHITE SPIRIT, cái tên hàng bằng tiếng Mỹ, đó là thứ bán chạy hơn cả ở bên đó. OK tấn lemon-rubb nhé, ông ta nói vào điện thoại. Sau đó ông ta từ chối mọi lời đề nghị khác, bởi vì con tàu cũng như ông ta, đều đã bị chất quá tải, ông hết tiếp tục nổi. Cậu sẽ chẳng thiếu hàng để bán đâu nhé, ông quay về phía Victor nói với một cái nháy mắt rõ dài.
Bà đã muốn đi kèm với anh cho tới chót. Bà đi cạnh anh, bà muốn xách hộ chiếc va li để anh khỏi mệt, và hơn nữa bà vẫn còn nhiều điều để nói. Nhưng bà chẳng nhớ được từ nào sất. Từ miệng bà chỉ phát ra mỗi bản hùng ca đầy tin tưởng vào phẩm chất tốt của Victor, vào tất cả những gì mà anh sẽ làm, sẽ thấy, sẽ phải thực hiện. Êm ái và ấm áp làm sao, hệt như khi bà miêu tả từng nét đẹp hằn lên vầng trán, của khóe mắt và của vành môi anh. Cảm giác được yêu mến một cách tuyệt đối giống như ngày ấy, khi tháo giầy cho anh, bà đã giữ chặt đôi chân ấy để sưởi ấm chúng trong đôi bàn tay xương xẩu, gân guốc và to kềnh, mà anh cảm nghĩ là đã già cỗi. Lúc đó anh chợt hiểu rằng đôi bàn chân mình là một thứ đồ vật hoàn hảo và tuyệt vời. Bối rối, anh đã đành cúi xuống hôn lên đôi bàn tay thô kệch để khỏa lấp cái khoảng cách quá lớn về vẻ đẹp và tình thương giữa chân và tay.
Bà tháo đôi hoa tai ngọc thạch đỏ ra, đặt vào tay anh và giữ bàn tay ấy trong tay bà thật lâu. Đầu bà gióng lên như một chiếc chuông nhà thờ, lần lượt trút bỏ tất cả rồi lại đong đầy tất cả những gì bà vừa nói, nhắc đi nhắc lại toàn những điều thừa và lại thiếu những điều chủ yếu, trong một bầu khí tình cảm hỗn độn, có rất nhiều thất vọng nhưng lại vô vàn tin tưởng, với niềm hạnh phúc cùng nỗi bất hạnh, với niềm hứng khởi kéo theo sự mệt mỏi. Vào lúc ấy, trên bến cảng, bà đã thốt lên khi ngước mắt nhìn chiếc tàu: Con tàu vĩ đại thật, và cái tên nó rất hay.
Chuyến đi
Về biển, từ cửa tàu, anh chỉ nhìn thấy được một đường nét xám mỏng manh vấy dầu và óng ánh sắc màu cứ mở ra rồi đóng lại giữa thành tàu và bến cảng. Không có thời giờ để quay lại nhìn, ngay lập tức, anh chạy vọt theo sau Beretti lỉnh xuống hầm tàu mà chẳng biết gì cả. Một cánh cửa sắt được đục thủng lỗ chỗ để thoáng khí, có mười sáu ghế giường, mỗi bên tám chiếc và giữa có một bồn rửa tay, chẳng có lấy một ô cửa sổ: Thưa quý ngài, đây là buồng của quý ngài! Còn ông ta thì quay gót trở lên boong.
Sau đó là mạnh ai nấy chạy bổ kiếm giường, bọn này muốn giường ngủ trên cao, bọn khác lại chiếm phía dưới nhân danh những nguyên tắc tuyệt đối và đối kháng, còn những ai đi sau thì lấy các chiếc còn lại. Túi đồ ngổn ngang, lúc đầu thì gầm gừ nhau, sau đó thì lại vội vàng liên kết nhau để nhờ nhau giữ chỗ. Bây giờ, khi tất cả đã dược định vị, nghĩa là đã có thể nằm co quắp nửa người cùng với túi hành lý lủng củng của mình, họ đánh giá tình hình. Họ nói: Đúng là thế giới bị đảo ngược! Đúng là phường buôn người da trắng! Họ châm thuốc hút, cốt để cho thêm chút hương khói vào chuyện đang xảy đến với họ.
Họ căm ghét nước Pháp, châu Âu và phương Tây, và nếu như họ không tỏ rõ rằng họ yêu thích châu Phi nhưng mọi sự đều khiến ta hiểu như thế. Trong gian phòng nhỏ xíu này, trên chiếc ghế giường nhỏ hẹp này, trong lòng tàu cũng giống như kẻ trong lòng đất, tựa những xác chết, họ lần hồi nhớ lại sự chật chội của cuộc đời mình. Họ đã luôn luôn sống trong sự kèn cựa, bị hối thúc và bị giới hạn đủ thứ. Đối với họ tất cả những gì dã qua đều quá nhỏ bé, ti tiện, từ những chiếc bàn trong tiệm rượu, thứ nước trong cốc cho tới tiềm thức con người. Đấy là còn chưa tính đến cà-vạt, cái vật tượng trưng cho sự ngột ngạt của xã hội và của thể xác họ. Họ buộc tội nó đã ràng buộc họ, thắt chặt họ, dù là cùng lúc và do phản tác dụng, họ mất tiền như người ta mất máu. Mình đã bị lừa rồi. Tiền bạc cứ khoác áo ra đi khỏi tay họ. Còn họ lại huênh hoang bảo rằng đã thủ tiêu hết chúng. Họ không hề luyến tiếc điều gì, chắc chắn sẽ dựng lại cơ đồ, NĂM BẢY HỒI SỨC MẤY, họ chuẩn bị làm giàu, tuy trông thảm hại, cứng đầu cứng cổ và sẵn sàng nhận mọi thỏa ước.
Con tàu rùng mình. Một tiếng động, những cơn chấn động mới lạ. Một cơn gió bất chợt, một cơn bão bất ngờ, một tai biến không lường trước, họ nói thế tựa như những thủy thủ giàu kinh nghiệm. Có những cú lắc mạnh mà Victor lắm khi chẳng hiểu rõ là lắc dọc từ trước ra sau hay là lắc lư từ trái qua phải. Tuy rằng những cú lắc đó đều được một nhà phiêu lưu ngẫu hứng nào đó xác định đích danh từ trong chiếc ghế giường của hắn ta, nhưng ngay lập tức hắn ta cũng bị một tay yêng hùng biển cả khác phản bác lại, vĩnh viễn đánh loạn ý kiến với những mạn trái, mạn phải, những sóng lừng và những trận rập rình linh tinh khác. Quả có những ngày thật khủng khiếp.
Để biết mình đang ở đâu, anh phải nhờ người khác nói rõ, nhưng chẳng mấy chốc lại có sự phản đối đến từ chiếc giường thứ ba phía bên dưới, khiến con tàu bị rời đi nhiều hải lý về phía bắc. Victor khựng lại, như thể vào giây phút này những cỗ máy tàu đang dừng hẳn để chờ sự chỉ dẫn đến từ chiếc giường phía đối diện, chỉ dẫn này làm cho con tàu bỗng nhiên bị bạt không những nhiều hải lý về phía nam mà còn vào sát bờ biển hơn và hầu như sắp chạm vào đấy. Anh lo sợ đắm tàu, sau đó lại hy vọng nó, hy vọng cho bầu trời, cho mặt biển và cho bờ cát. Anh biết rõ hầu hết những gì cần biết về những trận đắm tàu mà ta là người duy nhất sống sót, chợt tỉnh dậy trên bãi cát khi gặp con sóng nhỏ trào tới hôn lên mặt, với những tiếng kêu náo loạn của đàn chim vẹt bất chợt bay vút lên bầu trời như những mũi tên. Nhưng LA VOLONTÉ DE DIEU lại tránh những bờ biển dịu êm, tiến ra nơi trong bóng tối và trong đêm đen, ra nơi mà biển không có đáy. Và rồi sẽ là sự chìm đắm, sự kiệt sức, bàn tay co quắp bám lấy chiếc thùng rỗng, không còn là giấc ngủ nhẹ nhàng tiềm tàng trong tiếng nhạc của vỏ sò nữa mà sẽ là một sự chết đuối vĩnh hằng.
Xét cho cùng, tốt nhất thà nên theo dõi cuộc hành trình của tay nằm trên chiếc giường đối diện, hắn thường hý hoáy vẽ nguệch ngoạc lên tường chỗ hắn nằm. Đầu tiên, hắn kẻ những đường nét, đường cong mà rồi hắn lấy mu bàn tay xóa đi, việc này chẳng làm Victor nghĩ gì khác hơn là khi anh ta thấy người ta vẽ bậy lên tường, tức là một việc nhơ bẩn và phải cấm đoán. Một hôm, nhìn tư thế của hắn từ phía sau, Victor nhận ra người bạn đồng hành ấy không còn tiếp tục hý hoáy vẽ lên tường nữa. Trước mặt hắn ta, có một vòng tròn hoàn hảo. Victor lặng ngắm nó giống như đang ngắm nhìn
một vật hiển nhiên và cần thiết, và rồi anh không còn nghĩ đến nó nữa, giống như con người ta không còn nghĩ tới trời trăng gì nữa, một khi những vầng nhật nguyệt đã được trả về cho ta. Và chẳng còn ngày nào mà nhà họa sĩ im lặng và lầm lì ấy lại không thêm vào hay tô điểm bức phác thảo của mình. Hắn ta làm cho vòng tròn phong phú thêm bằng những nẹp sắt dày, những chiếc ốc giả to đồ sộ, thành một bức vẽ cơ khí tuyệt vời, tuyệt hảo và vô dụng y như một kiệt tác của ông thầy thủ công, một chiếc cửa sổ trổ vào hư vô. Sau đó, màu xám hoa trên nền xám, hắn ta bắt đầu phác họa ra biển và trời, bộc nét đường chân trời xa để biển tách biệt khỏi trời. Lúc ấy, những người đồng hành mới bắt đầu nhận thấy có chuyện gì đó đang xảy ra. Họ dò xét, họ bình phẩm. Họ hỏi chàng họa sĩ liệu có chịu thêm vào đó những con hải âu không. Chàng ta nhún vai bởi vẫn còn quá sớm. Những con hải âu, thực ra, chỉ mãi sau này mới xuất hiện, cùng thời điểm với một đường viền mỏng màu xám, rất khó hiểu là gì. Tiếp đến hình như là một con thuyền, nhìn từ xa. Chỉ mãi rất lâu sau này, khi họ vừa trải qua một cơn bão, thì họ mới thấy thấp thoáng những cây cọ đầu tiên. Có thể nói rằng họ thật vui sướng vì điều đó, họ không còn kìm nén sự bồn chồn nữa, họ cho nhau những lời khuyên. Lúc này khi chàng họa sĩ đã hoàn thành xong kiệt tác của mình, các người đồng hành bắt đầu phát biểu về những cái mà họ chưa tưởng tượng ra, họ bình phẩm, phê phán. Nhưng điều đó lại làm cho Victor rất hài lòng, bởi vì anh luôn tưởng tượng ra châu Phi giống như thế. Nhà họa sĩ nằm quay lưng lại, mắt nhắm nghiền, ép sát mình vào khung cửa sổ, hình dáng chàng đang thực sự phiêu du.
Thỉnh thoảng, giữa hai cánh cửa xập xoè, Beretti thò chiếc đầu nhẵn bóng đang ngày càng bắt màu do chuyến đi, một màu da rám nắng hung hung đỏ, một màu nâu của gạch nung già. Ông ta đến kiểm tra “lô hàng”, e sợ có thùng rượu nào bị va đập thủng dưới hầm tàu, hoặc liệu có xác chết nào ở đâu đó không. Nhưng không, tất cả đều diễn ra tốt đẹp. Mọi người rướn cổ về phía ông ta; những cặp mắt hõm sâu, râu ria mọc rậm rì, và họ cố nặn cho ra một nụ cười. Họ hy vọng một ánh mắt, họ dò tìm một cử chỉ. Beretti nói với họ sẽ không còn bao lâu nữa, họ chẳng hiểu liệu ông ta đang dự báo về cuối cuộc hành trình hay cuối cuộc đời của bọn họ, thì ngay lập tức ông ta đã đóng sập cánh cửa lại. Bên trong bốc mùi hôi hám, một mùi vị thống khổ chua loét, giống như mùi bốc lên ở những nơi nuôi gà nhốt hàng loạt, một cái gì đó thối rữa và vô cùng đau đớn.
Đến lúc này, phải tự hỏi xem không khí trong tàu lưu thông thế nào. Luồng khí bay tới được chỗ này của họ chắc đã phải đến từ boong tàu nơi có những trò chơi ô, ở đó những tay chơi dùng đầu gậy cong hình bán nguyệt đẩy những quân cờ gỗ hình tròn vào những ô có in số. Rồi luồng khí ấy lại thổi qua sa-lông rộng lớn Chambord[3], quán rượu Surcouf, phòng ăn Beaugency, với những tấm khăn trải bàn trắng muốt và rượu mạnh, xì gà và đủ các thứ hương vị. Nó cũng đã từng mơn trớn tất cả những căn buồng sang trọng, với da Nga, phấn phủ da tự tan dần, nước hoa tinh chất bôi sau tai, dầu thơm hiếm có bôi cổ tay. Tiếp đến là những căn phòng của khách du lịch, xịt nước thơm Cologne cho sạch sẽ, với mùi cây oải hương lộng gió; ở đây, trong khung cửa sổ tàu, biển đã thay trời. Rồi không khí lại bị tù đọng lâu ngày trong bếp, hấp những hơi khăn khẳn âm ỉ, dai dẳng chứa đựng mùi thiu thối khó chịu. Ít khí hay tiệt khí, hoặc cả luồng khí vừa thoát khỏi những cỗ máy, đầy tiếng ồn ào, tựa như lớp sơn không chịu khô đi rồi giọt sơn đông lại và dẻo quẹo ở đầu móng tay khi ta chạm đến. Một luồng khí nửa dầu, nửa mồ hôi được những đôi mắt nhắm nghiền đón nhận để không làm hao mòn nó, cơ thể không cử động để khỏi phải tiêu dùng nó. Những cặp mắt dán chặt vào những lỗ khoan thô sơ. Một chuyến du hành nín thở.
Sự ám ảnh đeo đuổi những nhà lữ hành dưới hầm tàu, đã trở nên bức thiết cùng với thời gian, đó là được ngoi lên mặt đất, đi ngược gió tới tận nơi boong tàu có bãi chơi bóng chày, nhảy tót vào các xuồng cứu hộ, chun người dưới tấm bạt phủ, và trở thành những kẻ đi chui tránh nước, tránh gió, tránh cả những vì sao. Đêm đến, họ thay phiên nhau đi chiêm ngưỡng những cảnh tượng sang trọng. Qua những khung cửa sổ thật sự, trên những tấm bình phong lóe sáng như trong các rạp chiếu bóng, họ trông thấy rõ một nhà ngoại giao mặc quần cộc, một nhà công nghiệp mỏi mệt, một ngài thống đốc mình trần, để tự xác nhận là những người ấy chẳng qua cũng tương tự như bao người khác. Một người đàn ông, một người đàn bà, những mối bất hòa thầm lặng, những cái liếc sắc như dao. Hoặc thảng chẳng có gì, một trang phụ nữ trầm ngâm mơ màng trước gương soi, một đấng nam nhi đang nhìn vào hư vô; người vợ bận đủ các loại màu sắc, người chồng sửa sang lại chiếc cà-vạt; đằng sau họ, những tiếp viên dọn dẹp, thu lượm, cào xếp, trải thẳng chăn mền và kéo đóng các tâm ri đô. Thế nào? Mấy gã bên dưới hỏi. Họ trao đổi cho nhau số phòng, có những phòng lại thú vị hơn những phòng khác, với những cô gái trẻ, hay những cô tóc vàng. Trên đó, những cô gái trẻ, đúng ra là rất hiếm, còn tóc vàng ấy thì, bọn họ đã kịp
nhận ra, phần lớn là những mái tóc giả. Victor cứ ngỡ rằng anh sẽ vui vẻ ngắm nhìn trời đêm với các vì sao, sẽ sung sướng trông thấy những con sóng bạc đầu lấp lánh ánh lân tinh bên dưới sống mũi tàu. Nhưng trời tối quá, nước nhiều quá, màn đêm dày đặc quá giăng giăng khắp nơi, nên anh đành sưởi ấm lòng mình bằng cách quan sát những ô cửa sáng đèn, quay lưng lại với toàn bộ không gian mênh mông, màn đêm bao la, nước không đáy, bầu trời bất định. Anh thấy thích thú hơn cái ô vuông cửa sổ, cái vòm tròn cửa kính tàu, cái lỗ chiếc ổ khóa, một cái gì đó cụ thể khả dĩ chịu đựng được, chứ không phải tất cả sự bao la rộng lớn của cả thế giới này đang đè nặng lên vai anh.
Từ sau chiếc cửa sổ nơi anh đứng rình ngắm, anh để ý đến một cặp tình nhân. Gần đến nỗi mà anh có thể nhìn rõ thân thể lõa lồ của họ và điều đó lại càng thu hút sự chú ý của anh. Họ đối điện nhau từ hai phía trong phòng. Người đàn ông nhìn chằm chằm vào người đàn bà lúc này đang nửa nằm nửa ngồi trên giường ngủ, hai chân dang rộng. Sau đó, ông ta hất ngược đầu và phần trên cơ thể, cùng với những động tác nặng nề và cương quyết của loài bò tót sắp xung trận. Ông ta lấy đà, chạy dấn ba bước làm rung chuyển cả những gương kính và đổ ầm xuống người đàn bà. Xong ông ta vội đứng ngay dậy để rồi lại đổ sập xuống. Sau đấy, ông ta nằm rũ rượi, bất động, mệt lả kiệt sức. Bằng những động tác trườn lết chậm chạp, người đàn bà tự toài ra được và, trước khi Victor chợt hiểu, cô ta đã đi ra ngoài, đứng trên boong tàu, ngay sát kề anh.
Cả thân thể nàng trần truồng, mảnh dẻ, mái tóc dài đen huyền che phủ khuôn mặt và cả nửa thân trên. Gần đến nỗi mà anh có thể chạm được vào người nàng. Chết lặng vì khiếp đảm, vì tò mò và cũng vì sự thích thú lạ kỳ, anh im tiếng. Anh còn nghe rõ cả hơi thở mạnh của nàng, tiếng nàng thở ngắt quãng. Do giao cảm, nhịp thở của nàng lây sang anh, làm anh thở hổn hển. Bị quáng mắt bởi màn đêm, nàng vẫn chưa nhìn thấy anh, nhưng nàng cảm nhận được sự hiện diện của anh do hơi thở và mùi từ anh bốc ra. Không một cử chỉ, không chút sợ hãi hay thẹn thùng, bằng giọng mệt mỏi một cách lạ lùng đi đôi với một động tác xói mòn, một động tác ngoài lề đường hè phố, nàng chìa tay xin anh điếu thuốc.
Victor chưa từng trông thấy một người đàn bà lõa thể, anh cũng chưa bao giờ hút thuốc. Anh lấy làm tiếc về điều đó. Anh lục tìm vô vọng trong
chiếc túi rỗng để chứng tỏ thiện chí của mình, để cho lời xin thuốc hút của cô nàng khỏi trở nên quá bẽ bàng. Nhưng chán chường, nàng đã quay lưng đi và, khuỷu tay chống trên lan can tàu, hai mắt nhắm nghiền, nàng trưng cả khuôn mặt mình cho tiếng sóng rì rầm của biển. Anh nhìn thấy mái tóc nàng bay chập chờn trong gió, lưng nàng thật mảnh khảnh, cặp mông nàng tròn trịa và anh không sao lấy lại được nhịp thở bình thường của mình. Nàng rời khỏi tay vịn, lắc mạnh đầu và tóc, anh bỗng thấy cặp vú của nàng và hình ảnh đó làm họng anh khô lại, một sự suy nhược chợt xâm chiếm anh phía bên trên đầu gối và bàn tay anh trở nên giá lạnh đột ngột. Nàng đi về phía cửa phòng mình và quay lại nhìn anh, anh vội cụp mắt xuống. Cánh cửa phòng khép lại, anh cảm thấy nhẹ hẳn người.
Qua cửa sổ, anh cố nhìn tiếp theo nàng. Nàng đang đứng giữa phòng, anh để ý đến cái bụng nàng hơi phình ra, đến hai núm vú nàng và đến mớ lông đen rậm rì, xoăn tít nằm giữa hai đùi. Gã đàn ông hồi nãy, hắn cũng vậy, đang ngẩng đầu nhìn nàng. Hắn chống khuỷu tay xuống giường để gượng ngồi dậy và lẳng cả thân hình phì nộn thô kệch của mình để đứng lên. Ngồi, hai tay kẹp giữa đùi, hắn ngắm nhìn nàng. Nàng vẫn đứng, với một vẻ uyển chuyển nhẹ nhàng gần như của loài vật, lấy đầu chân trái gãi lên bắp chân phải. Đã nhìn thấy nàng, Victor không thể ngắm nghía nàng được nữa. Đã được ban phát một ánh mắt, anh tin mình đang yêu.
Thiên thần hay tiên nữ? Anh khám phá ra rằng, để đo sắc đẹp của nàng, anh chỉ có loại từ ngữ che giấu cặp vú dưới tên gọi là nửa thân trên, loại từ ngữ gọt tròn các hình khối và cắt xẻo bớt từ vòm ngực hai cục u mĩ miều căng đầy và nhọn hoắt mà hồi nãy mắt anh đã thấy, loại từ ngữ cạo sạch các túm lông và để lại những cơ thể tương tự những con ma khổng lồ hồng hồng, trơn tuột, loại từ ngữ làm át đi mùi tự nhiên dưới hương thơm của hoa tím, loại từ ngữ cũng khép tóc tai theo kỷ cương dưới những kiểu mũ, kiểu tóc, cũng gò nén cặp mông vào một cái đít giả, một khối đặc, một bầu tròn che lấp đường vạch cao, rãnh ngăn cách tối mờ mờ. Anh đã nhìn thấy hình dáng tròn trịa, vòm uốn cong về hướng chiều sâu mà bây giờ anh bắt đầu ngờ ngợ. Người đàn bà này không phải là một thiên thần, cũng không phải là một tiên nữ. Nàng là gì, anh không tìm ra nổi từ ngữ để diễn tả cho đúng.
Về phòng, anh cố gắng giữ kín sự khám phá của mình, nhưng bí mật của anh tự phọt ra. Anh thấy mình như bị truất đi điều bí mật ấy. Gã giường số
sáu, tuy đã vẽ xong hình cửa sổ và sẵn sàng để cập bến, lại bất ngờ sờ đến những cây bút chì của mình, một ả tố nga khêu gợi nằm dưới tán lá cọ. Cả hội xúm lại quanh giường chàng ta, mỗi đường nét chí ít đều dấy lên tất cả những niềm say đắm, như thể đầu bút chì, trong lúc phác họa, đã thực sự chạm phải bộ phận mà chàng ta đang vẽ. Xuyên suốt công việc thiết kế địa hình xác thịt mà bọn họ nhớ rõ từng nỗi rung động, từng mối cảm giác, họ gào lên vì sung sướng. Không phải đấy đâu, không phải ở đấy, bọn họ rên rẩm, bởi vì ở đấy, đối với họ, ở đấy giống như một sự vuốt ve, và là điều khen quá đáng. Ả khêu gợi nhìn ngắm họ giống như kiểu nhìn của những ả khêu gợi, hai cánh tay vừa vắt chéo sau đầu, vừa nâng cao mái tóc. Bọn đàn ông nhao nhao bình luận phê phán, vú ả chưa đủ to, mông ả chưa đủ dầy, chỗ xẻ chưa đủ rộng. Họ sôi động lên. Họ ưa những bức tranh buồn cười, họ thích chúng hơn các bức ảnh và dĩ nhiên hơn cả những người đàn bà bằng xương bằng thịt… Quên béng cô gái của Victor, họ kể cho nhau nghe, với lời lẽ cay nghiệt, về phía kia của cuộc tình đàn bà. Và họ kết thúc với những câu chuyện nhà thổ. Victor nhìn ngắm, Victor lắng nghe. Những điều đó lắc lư trong cơ thể anh, khiến anh không phải say sóng nhưng cũng làm anh cảm thấy buồn nôn.
Cái gì thế này? Trong lần ghé thăm cuối cùng, lần mà ông ta đã thề rằng đây là lần cuối cùng, thật sự cuối cùng, Beretti vừa hỏi vừa chỉ cô gái trên tường. Bọn họ liền giải thích cho ông, cho ông biết ngay phòng nằm ở đâu và số mấy, và tựa như những người bạn tốt, họ thúc đẩy ông hãy tự đến đó mà xem. Chính họ cũng chẳng tin mấy vào điều ấy. Nhưng gã ấy và cô nàng làm chuyện đó suốt đêm, nhảy sổ lên nhau, ôm quặp nhau rồi lại rời nhau ra mà cũng chẳng đi đến đâu, vẫn cùng một sự bướng bỉnh của gã trai, vẫn cùng một sự nhẫn nhục của cô gái. Hai người có vẻ giả bộ làm tình với nhau. Beretti không biết cô gái ấy là ai. Nhưng ông biết rõ gã đàn ông ấy, và này, hãy tin lời tôi, đấy không phải là chuyện đùa đối với ông ấy đâu nhé. Rồi trong phòng, cả bọn bỗng chợt nín lặng. Đó chính là César, chính ngài César Di Marino, ông chủ của đồn điền DEVIL’S BANANA, mười ngàn hec-ta cây chuối, chính ngài là thị trưởng của Cảng Chuối, nhà bảo trợ cho SUNSET, ông chủ của con tàu LA VOLONTÉ DE DIEU. Hãy coi chừng nghe các cha nội, đấy không phải là những thứ để biết đâu, ông ta nói với họ. Chàng họa sĩ ở giường số sáu vội vàng mặc áo quần cho ả khêu gợi, hắn ta vẽ thêm vào hình cô ả hai mảnh quần áo tắm.
César
Sức mạnh tình dục của César Di Marino đang trên đà suy tàn. Rất bi quan, những nhà chuyên môn dự kiến chóng hay chầy thì chuyện tàn phế có thể xảy ra. Đã từ vài năm trước, người ta khuyên ông đi giải phẫu, một ca giải phẫu mà, trong lời giải thích lúc ấy, nhà phẫu thuật, có lẽ đã đơn giản hóa quá lố sự phức tạp. Họ đã bàn đến chuyện phải lắp thêm vào một dương vật bằng nhựa. Nhưng, đồ nhựa dưới con mắt của César lại là một thứ chẳng hay ho gì, ông thấy nó có vẻ như vật gia dụng ấy. Chắc hẳn ông chấp nhận một dương vật bằng vàng, bằng bạc hoặc thảng bằng ngà voi… Chứ không thể bằng nhựa. Ông thấy hình như ta không thể trông đợi một sự sảng khoái nào lắm từ thứ nguyên liệu này.
Trước vẻ hoài nghi của bệnh nhân, nhà phẫu thuật đã nói chính xác rằng, trên thực tế thì đó là một trái bóng nhỏ… Một trái bóng hả? Trí tưởng tượng của ông lập tức bỏ rơi thứ ngũ kim để quay về với những đồ chơi. Chắc hẳn, ông đang nhìn thấy những quả bóng bằng màng ruột mỏng nhẹ nhàng, những quả bóng da nằm kẹt trong lưới, những trái bóng thoát bổng lên bầu trời, nhưng lại có những trái bị vỡ tung, những quả bị thủng đến thảm hại, những quả khác lại yếu ớt đến tồi tệ… Không, dứt khoát rồi, không có bóng biếc gì hết, cao su chứa quá nhiều hứa hẹn thất bại. Ông đã biết quá rõ cái đó thông qua kinh nghiệm thủa thiếu thời. Bố ông đã từng dùng đầu thuốc lá đang cháy đâm thủng một quả bóng to màu tím của ông. Thôi, rất cám ơn, đây là những điều cám dỗ mà người ta không thích đeo chúng trên mình. Với chuyện này ông đã giữ mãi trong mình một kỷ niệm có tính tàn bạo gần như ở mức xác thịt, chính là chuyện đã khích ông kịch liệt chống lại cha mình, người cha mà sau này đã ngỏm vì thủng ruột như một quả bóng bị chọc nổ.
Ông bèn đi khám một bác sĩ tâm thần, bác sĩ ngồi nghe ông kể một cách lơ đãng. Trường hợp của ông có vẻ rằng rất thường tình. Ông không làm tình à? Rồi thì sao? Thì… thì…, César bối rối. Ông cụ ơi, ông không ăn nằm với đàn bà thì cũng giống như năm mươi phần trăm thiên hạ, tôi vừa nói gì nhỉ, đúng ra là phải nhăm nhăm phần trăm và thậm chí là tám nhăm phần trăm theo các con số thống kê cuối cùng. Hãy nghĩ kỹ đi, ông lang nói,
ông không làm tình: thì cũng tựa như lũ trẻ con và các ông già, theo ý ông thì con số ấy là bao? Ông không làm tình thì chẳng khác những nhà kinh doanh bị kiệt sức, những người về hưu non đầy lo âu, hay những kẻ thất nghiệp ở cuối thời kỳ nhận tiền trợ cấp. Vậy tăng thêm bao nhiêu người nữa? Ông không làm tình thì cũng giống như những cặp vợ chồng đã quá thừa mứa, như những người cha trẻ đã quá mệt nhừ, giống như những kẻ nhập cư sống xa bà xã, hay như những nhân viên bưu điện sau vài năm làm việc… Ông không làm tình thì cũng giống như những kẻ không làm tình và ông lại mong muốn làm tình giống như một thiểu số hiếm hoi có làm tình! Hãy đành chịu vậy, cụ ạ! Có một số thứ thuốc nào đó chứ, thưa bác sĩ, César năn nỉ. Cóc có thuốc nào hết, ông lang vừa nói, vừa lười biếng lấy ra cuốn sổ kê đơn. Ông chỉ cần đừng uống rượu nữa, đừng hút thuốc nữa, và chắc vị thầy thuốc đã quên béng lý do khiến César đến khám, ông ta thêm vào: đừng có làm tình nữa.
Với sự tuyệt vọng của những con bệnh khi nhận ra giới hạn của ngành y, César đổ lỗi cho khoa học và những ông lang băm phải mang trách nhiệm về nỗi bất hạnh của mình và tìm sự cứu trợ trong những ngành thuốc song hành. Ông tìm thầy thôi miên. Thay vào việc lắp ráp, người ta hứa với ông có một thứ ánh sáng đỏ lờ mờ, thế mà ông lại chẳng nhìn thấy gì lóe sáng lên cả, cà rồi sẽ có một luồng khí nóng bốc lên trong sống lưng mà ông cũng lại không cảm thấy gì… Ông thầy chữa bệnh xương, quá tự tin ở tài năng, đã tiến hành bằng một loạt những câu khẳng định: Ông nhìn thấy, ông cảm thấy, ông… Chẳng có đếch gì hết. César không nói không, vì nói họ cũng chẳng tin, thế là đành nói có, thanh toán tiền và không quay lại đó nữa. Người ta cắm hàng loạt những cây kim rải rác khắp nơi trên cơ thể ông cho tới tận lúc cả hình hài ông giống hệt một con nhím vàng rộm. Tịch không có gì. Ông uống hàng loạt cao đơn hoàn tán sừng tê giác, vuốt hổ, mai rùa, răng cá mập, ngà voi, mũi cá kiếm… Ông thấy hầu như cơ thể mình trở thành con tàu huyền thoại của Noé. Không còn cách nào khác, ông quyết định hàng năm đi trị bệnh ở Vichy. Rượu whisky, và những người đàn bà mà người ta gặp trong những thành phố nước suối này, vội vã và tuyệt vọng. Các nàng đánh lá bài được ăn cả ngã về không và, giống như người khác đặt cá cược đến mức tự vẫn trong các sòng bạc, các nàng có lẽ đã muốn uống cho đến cạn cả nguồn nước. Các nàng gặp những đấng mày râu đã từng có một sự nghiệp lẫy lừng, những nhà cựu ngoại giao và những viên quan chức già tới để trị bệnh “bụng phệ” thuộc địa của họ. Các nàng
gặt hái được ở họ một lời tán dương, một cử chỉ lịch thiệp mà trí não họ, do một phản xạ máy móc nào đó đã khiến họ rối rít, lúng túng và rất đỗi ngạc nhiên đã có thể đáp ứng được yêu cầu, đồng thời ước lượng những thập kỷ đã ngăn cách họ kể từ lần gặp trước. Họ hẹn hò với các nàng ở gần suối nước, nhưng, sự phản trắc lại ló ra dưới vẻ tuyệt vọng, các cô dâu tương lai thường bỏ rơi chiếc xe lăn để lấy một cây gậy chống, buông rơi biệt thự yên tĩnh ở vùng ngoại ô để tìm về ở trong một căn hộ trên đại lộ Saint Germain[4], rồi lại bỏ trốn với kẻ nào chân cẳng còn nhanh nhảu hơn hay giàu có hơn.
Trong bối cảnh này, ta hình dung ra ngay đâu là thành công có thể đạt được của một César Di Marino, mà tàn tật ngoại hình do một tai nạn lúc đi săn chỉ giới hạn vào một cánh tay cứng đơ, và một bàn tay cụt trang bị mỗi ngón cái và ngón út. Ông để tâm vào cuộc sống hiện tại và, một khăn tắm rộng quấn vòng quanh cổ, chậm rãi đi tới Nguồn nước suối Célestins, yêu chuộng thiên nhiên và những khoảng rộng thoáng. Qua vài mẩu rao vặt, ông nói sẽ tặng cho người nào đó một chuyến đi du lịch tới châu Phi, hứa hẹn CUỘC SỐNG THẬT, và đảm bảo sẽ đi tới hôn nhân nếu đồng cảm với nhau. Bù lại ông cũng đòi hỏi người đó cơ thể phải quyến rũ, dịu dàng và nhiều nhất hai nhăm tuổi. Ông đã thành công ngoài dự kiến. Cả mấy chục cô chen chúc nhau ở quán Cà phê Nhà ga, nơi ông tổ chức những cuộc gặp gỡ với họ. Các nàng tới từ khắp nơi, không quá bị ám ảnh bởi điều kiện khêu gợi hay phải dưới tuổi hai nhăm. Những nữ luật sư, bác sĩ, giáo viên, họ từ bỏ văn phòng, phòng khám hay trường học để đến với ông; những tâm hồn bị tổn thương, những bà mẹ một mình nuôi con. Ông là niềm hy vọng cuối cùng của họ. Các nàng yêu tất cả nơi ông, Chức Vụ Tổng Giám Đốc, Độ Tuổi Năm Mươi Rực Rỡ, Chuyến Du Lịch, Châu Phi, Cuộc Hôn Nhân, và cuộc sống thật.
Ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên, ngài đã kéo họ lên giường, và rất chăm chỉ đóng cái trò ấy với họ, với thời gian kéo dài cần thiết. Thế mà không hề có một cử chỉ ngạc nhiên. Một vài nàng cũng đi đến khoái lạc. Họ có sự đồng tình kinh khủng, luôn biện hộ cho ông bằng hàng nghìn lý do, và thì thầm vào tai ông muôn vàn lời hứa. Các nàng làm cho ông an tâm hơn các vị bác sĩ, mặc dù cũng chẳng đem lại được kết quả gì. Họ còn chứng nhận với ông rằng cứ như thế lại tốt hơn, chẳng ra gì cả, vậy còn thuận tiện hơn
nhiều. Ông đã dắt theo vài người trong số những nhiệt tình viên tuyệt vời này xuống tàu. Ở đồn điền, người ta gọi họ là những Quý Bà, người ta hơi e ngại các nàng, bởi những người phụ nữ này đã mang công tác từ thiện một sự cuồng nhiệt gần như là tình dục. Tất cả các thời giờ mà các nàng không dùng để đi vào khoái lạc, thì họ dùng để chăm sóc người bệnh, dạy chữ cho trẻ em, và la lối tất cả mọi người. Nói cho cùng, điều nặng hơn cả sự bất lực của César, mà các nàng không thể bao dung chấp nhận được, lại chính là châu Phi… Họ không kháng cự được lâu. Cuộc sống thật làm họ gãy đổ, César dẫn họ ra tàu trở về cố quốc; một số còn yêu cầu được về bằng máy bay. Những nàng xinh đẹp nhất thì trụ lại SUNSET, khu nhà thổ hạng sang ở Cảng Chuối, các cô quả là có thiên hướng trong lĩnh vực này.
Năm nay, tuy thời gian chữa bệnh đã kết thúc mà ông vẫn còn chưa tìm được ai để dẫn xuống tàu, người đẹp trong ngày này, người mà ông phải tiếp, được nhận diện nhờ việc đang cầm tờ báo trong tay, có một cái gì đó vừa thiếu tự nhiên lại vừa thật cuồng nhiệt đến nỗi mà ông từ bỏ ý định đến bắt chuyện. Ngồi ở chiếc ghế băng đối diện, ông quan sát nàng ta trong liền hai tiếng đồng hồ. Nàng đánh phấn hai lần, tô son lại ba lần, nhìn đồng hồ hai mươi hai lần, còn cặp chân thì không ngừng ngọ ngậy. Cuối cùng nàng bỏ đi như một nữ thần bị xúc phạm. Còn ông thì đã uống cạn bốn ly whisky.
Một cô gái còn rất trẻ đến ngồi vào chiếc ghế giả da, chỗ của cô nàng sôi động hồi nãy. Không chút ghê tởm, nàng ta uống cạn cốc nước còn lại và vơ luôn nắm tiền lẻ. Đó là một cô gái làng chơi nửa mùa vẫn còn dịu dàng, hơi bẩn, hơi lờ đờ, nhưng lại có một cái gì đó làm động lòng. Ông bỗng bật cười thầm trước sự cố gắng của cô nàng để được bao tiền cà phê. Các nàng phải đi đến tận nước này, ông lẩm nhẩm, chỉ vì năm frăng! Ông bỏ lại trong đĩa số tiền pourboire thật lớn mà người bồi bàn vội vàng chạy đến lượm ngay. Thế nào, sắp đi chứ, ngài César? Đúng là sắp đi thật, và ông cũng chẳng lấy làm bực bội khi phải bỏ lui tất cả những thứ đó. Ngài quả là may mắn, người bồi bàn tiếp tục, ngài sẽ tìm lại được ánh nắng mặt trời… Khi nghe thấy từ “ánh nắng mặt trời”, cả người cô gái như có điện giật. César làm bộ không nhìn nàng mà vẫn tiếp tục nói với người bồi bàn cảm thấy mình chẳng ra gì, cả đời bị lượng cà phê phải hầu dọn cho khách hàng đổ xuống đè bẹp, rồi còn gánh nặng của những ngày đông tháng giá, những ngày mưa. Trên chiếc ghế băng, cô gái trẻ như bị ngốt lên. Thôi, thế nhé,
César vừa nói vừa đứng lên, mà tôi còn phải lấy hành lý… Ông đảo nhanh cặp mắt để xem cô gái có cắn câu không. Nàng bật ngay dậy.
Nàng đi theo ông với sự dễ dàng ngoài sức tưởng tượng của loài chó bị bỏ hoang, dáng đi xiên xiên, bụng thóp lại, để ý đến ông một cách bồn chồn lộ liễu, lúc đầu có vẻ e dè cách vài mét, và sau đó khi không thấy bị xua đuổi, tiến đến sát gần ông. Cô ta đã cắn câu, ông nghĩ với sự mãn nguyện. Nàng bắt chuyện với ông, lời lẽ có chút gì khàn khàn, nghèn nghẹn và ngột ngạt. Không trả lời, ông muốn để cho keo dính ráo thêm tý nữa. Họ đi qua công viên vô cùng đẹp nằm dọc theo sông Allier. Ánh nắng chiếu xuyên qua những hàng cây. Mặt trời! Đó là một trò chơi trẻ gái, một-hai-ba-mặt trời[5]! Nàng bám riết ông, khi ông ngoảnh lại thì nàng lại dừng. Ông sắp tới bờ sông, sau đó thì có lẽ sẽ lỡ mất. César cảm thấy thích thú, nàng sẽ nói sao nhỉ? Sẽ tự dâng hiến như thế nào?
Nhưng này, cô bé ơi, và ông chụp xuống vai nàng, và trong ánh sáng lờ mờ vẽ lên mặt nàng những mảng tối sáng, ông quan sát nàng, nàng nhắm mắt lại. Ông chăm chú dò xét, mặt trời xuyên thẳng xuống dưới những cành cây. Cô không phải là… và miệng cô gái hé mở như để khoe hàm răng. Ông giật mạnh tóc nàng ra phía sau…, cô là, à, cô là… Nước Pháp, nó làm bạn xám xịt đi, và cặp mí mắt cô gái nháy lia lịa, và ánh nắng run rẩy ở đầu hàng mi nàng. Sấp hay ngửa? Nếu sấp, nàng là dân da đen, nếu ngửa, dân da trắng. Có người thấy nàng da đen nhưng xinh xắn. Sự mập mờ, những dòng lệ, sự chia bài nhầm, châu Phi và ánh nắng mặt trời, tất cả được đánh cuộc và thua mất ngay cùng một lúc. Nàng nín thinh, bỗng nhiên không còn sức để đeo đuổi tay nhà giàu, sự nghèo hèn bắt đầu đắm chìm ngay tại đây, trong công viên trang nghiêm, đằng sau một thân cây.
Quả là một con da đen không châu Phi và thiếu ánh mặt trời, một con da đen của xứ Vichy thuộc tính Allier, một con da đen… da trắng. Ông nghĩ đến lũ bạn và tưởng tượng ra vẻ mặt của họ khi gặp nàng, ông phì cười. Tiếng cười làm ông buồn đi tiểu và cảm thấy trong cái ấy của mình một cảm giác chích chích khiến ông loáng thoáng nhớ lại sự ham muốn tình dục. Cảm thấy ở đầu dương vật ông như đang lắng dần một sự thèm thuồng xẹt qua và rỉ nhớt, và miệng ông tròn lại trong tiếng thốt ngạc nhiên. Cô thắng rồi đấy, ông nói với nàng, Thôi, đừng có mệt sức làm gì, cô sẽ đi, sẽ đi với
tôi. Cô ả sẽ chọc cười lũ bạn cho mà xem. Vừa kịp giờ, trong phòng lớn của khách sạn Relais Sévigné, những hành lý của Ông lớn đã được tập trung lại. Hai cánh tay đung đưa dọc theo chiếc quần gin bạc màu, một túi mây buộc ở đầu quai da đeo trên vai, cô gái đã sẵn sàng. Ông hái một bông hoa chờm ra khỏi bó để tặng nàng. Thế còn tên cô? Lola, nàng trả lời, và giọng nói của nàng đã bắt đầu khác trước.
Cảng Chuối
Ánh nắng mặt trời, ít nhất là ở nơi tàu LA VOLONTÉ DE DIEU cặp bến, thì rặt một màu nâu, màu của nước đục và đất nhão, cả một vùng đầm lầy mênh mông dập dềnh dưới vòm trời vàng sậm. Vượt lên trên tất cả là một bãi xỉ, một bãi thải khổng lồ, một khối màu nâu sậm, như keo nhớt, thối khẳn, đang trườn ra biển tạo thành một dòng sông dài nhớp dính, một hòn non chuối thối. Còn mùi bốc lên thì khỏi nói.
Thế nhưng, trên boong tàu cao sang, người ta nhìn thấy César đang khoa chân múa tay trước núi phân này. Ông gào lên: Đồ dơ dáy, đồ bẩn thỉu. Thoạt đầu, từ này có vẻ rất chính xác, thích đáng và không hề quá lố, nhưng mặc cho tính phổ quát của nó, từ “bẩn thỉu” kém cỏi đó cũng không thể bao trùm được cái này. Quá đỗi kinh hoàng, chung quy là khiếp đảm: Ba tháng sản xuất chuối, sản xuất liên tục, thừa thãi, vô tội vạ, khăng khăng, vấp phải sự đình công không kém phần cương quyết, cứng cỏi, ngu ngốc kiên trì điên dại của bọn công nhân bốc hàng ở phía bên kia trái đất. Bẩn thỉu, từ này không áp dụng cho chuối mà để chỉ những người thợ bốc dỡ ở bến cảng, ở đây, từ này còn mang một âm hưởng đạo đức. Nhưng để chỉ đống núi chuối thối kia, thì còn từ gì nữa nhỉ? Bức tường phu khuân vác, núi chuối, và giữa hai cái là đại dương mênh mông. Chuối thối rữa lẩn chìm vào lòng đại dương.
Nói cho cùng, ở bên kia bờ đại dương, chuối chưa bao giờ thực sự ăn bén vào đời sống. Người ta uổng công chế biến nó thành bột, thành rượu manh, trộn lẫn nó với ca cao, lúa mì, rồi lại sấy khô nó, nhưng hương vị chuối thì không tài nào che giấu đi được. Phải nhìn thấy những người tiêu dùng lưỡng lự khi đứng trước giỏ hoa quả, thấy kẻ quả cảm nhưng phân vân về cách thức chế biến trái chuối, và thấy tất cả những máy mó khi nấu nướng, cắt nhỏ, nghiền nát, nhào trộn để làm nó biến dạng. Nhưng vị chuối vẫn còn đó, không lẫn vào đâu được, thậm chí ngay cả trong đĩa sa lát hoa quả thập cẩm. Dưới bất kỳ hình thức ngụy trang nào, người ta vẫn nhận ngay ra nó: một quả chuối, chỉ một quả thôi, thì cũng đủ làm cho đĩa sa lát chuyển vị đi. Chỉ còn mỗi nó ở trong miệng, tất cả đều trôi chảy, riêng mùi chuối vẫn đọng lại ở đầu lưỡi. Một niềm hy vọng cuối cùng đặt vào chuối
nướng, được tinh lọc trên đám lửa xanh lơ bốc ra từ rượu mạnh. Nhưng lửa, nếu mà là rượu rum cũng không vô hiệu hóa được chuối; khi ngọn lửa tắt đi, bản thể vẫn còn nguyên, chuối hoàn chuối, lại còn ngọt hơn và nhây nhớt hơn nữa.
Đứng trước những nông trường chuối rộng mênh mông, cả thế giới giống như một kẻ dự bữa ăn tối, vào lúc cuối bữa, do dự không biết có nên dùng món tráng miệng hay không. Có quá nhiều chuối. Quá màu mỡ, quá ê hề gây nôn ọe. Chuối nằm lại trên bờ châu Phi trong khi phương Tây lại vui thú với các loại quà bánh khác. Những người phu khuân vác đẩy chuối xuống biển. Nhưng người ta vẫn sản xuất nó một cách mù quáng. Những Nhà Sản Xuất Chuối đổ ra cả hàng mấy ngàn tấn, họ chọn lọc những thửa đất tốt nhất, chọn giống sinh lợi nhất. Họ đã gạt bỏ loại chuối lợn, hai năm nở quả một lần để thay vào loại chuối cho quả quanh - năm - sát - đất, mọc bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào, chuối thừa mứa, chuối vô chính phủ, chuối doạ nạt, phá rối sự cân bằng sinh thái, kinh tế và xã hội. Càng ngày càng nhiều chuối. Không có mùa, không đất không trời gì hết mà chỉ có chuối, CHUỐI và CHUỐI, chẳng có thứ gì khác. Các Nhà Sản Xuất Chuối cóc cần quan tâm, họ đang ở trong một vòng xoắn quái quỷ, họ chẳng thèm biết rằng ở bên kia đại dương, người ta không muốn có chuối nữa, người ta không thể chịu đựng được nó nữa.
Ở Mégalo, người ta rất lo ngại chuối, là thứ đã làm hỏng hết các con đường của người ta, đã đánh quỵ nền kinh tế quốc gia, đã phá hủy môi trường - đến nỗi không còn chấp nhận cho nó được vận chuyển quá cảnh qua cảng chở hàng nữa. Người ta đã dành cho nó cái thuộc địa cũ, với lối ra vào khó khăn, bao quanh bởi một thành phố chết chìm mỗi khi trời đổ mưa, và bởi một nghĩa địa nhấp nhô xác chết. Đấy là cảng dành cho chuối. Những con tàu lớn thì đậu ngoài khơi xa giống như bị cách ly. Người ta đổ bộ những Nhà Sản Xuất Chuối lên nơi đó như lưu đày những kẻ ôn dịch. Mùi chuối bám vào đồng tiền của họ, và ở thủ đô, người dân thường không quý trọng họ. Thế là người ta đã tập hợp ở điểm F., được biệt danh là Cảng Chuối, tất cả những gì cần thiết cho cơ đồ của họ, những quầy mua bán lớn, những nhà băng và nhà thổ. Kiểu ấy tựa như một thành phố trong phim cao bồi tuy không có bụi nhưng đầy sự thối rữa, và tất cả ai nấy đều hài lòng.
Trong cảng, đất lấn biển, đáy biển như được bồi dần lên. Để cặp bờ, người ta phải dùng xuồng đáy bằng để vận chuyển từ tàu lớn vào. Ngoài khơi, LA VONLONTÉ DE DIEU giống như một cái tháp màu trắng sáng lừng lững lấp lánh. Trong lúc tiến về phía trước, đối mặt với núi lầy nhầy như keo, Victor chợt hiểu ra rằng gã họa sĩ cạnh cửa sổ tàu đã nói dối về cây cọ, và về tất những chuyện còn lại, bãi cát, bầu trời xanh lơ. Chỉ duy nhất có cô gái trong bức tranh là đúng. Nhưng trong ấy cô ta còn trẻ quá với mái tóc dài mà gió đã thổi cho rối tung, một chiếc váy nhỏ xíu, đôi xăng đan lưới. Anh chậm nhận ra nàng, bởi vì anh mới chỉ thấy nàng vào lúc nàng khỏa thân.
Lola, túi mây trên vai, ngắm nhìn trái núi đang tiến lại gần. Đó không phải là ánh nắng, nhưng nàng tự nhủ thầm với mình, trong đất nước này, ánh nắng có lẽ là thế. Nàng nhầm giờ, nhầm ngày, nhầm năm và nhầm cả lục địa. Và trong cùng lúc ấy César đi đi lại lại trên tàu, đối diện với trái núi mà người ta cảm nhận được độ thối rữa nồng nặc, đang gào lên. Đồ rác rưởi, đồ bẩn thỉu. Trong khi quan sát người đàn bà trẻ, Victor không nghĩ tới những gì đang đón chờ anh, anh mơ màng đến tình thế phi lý giữa việc nhìn thấy một người đàn bà khỏa thân và khi gặp lại cô ta trong trang phục.
Beretti dừng lại trên bến cảng để thao dõi việc bốc dỡ hàng từ các xuồng xuống. Toàn bộ chuyến hàng của con tàu, những thùng rượu dập vỡ bốc mùi thối khẳn, cần phải được đưa xuống thẳng đứng, những kiện hàng khổng lồ, những bao tải đay đầy ứ phải lăn xuống, những túi ba lô. Cẩn thận, Beretti gào lên, hai tay đưa về phía giỏ hàng, cẩn thận, và đứng đối diện với những Giám Đốc vẫn còn đang bị lóa mắt do anh sáng và sau nhiều ngày sống trong ổ chuột nên đang cảm nhận được sự bập bềnh của đất, khi mà mặt đất chối từ ổn định, các anh không thể giúp một tay à! Bọn họ cũng chỉ đòi hỏi mỗi điều ấy và, trên bến cảng, họ cũng năng nổ như Beretti. Cũng lảo đảo, cánh tay họ cũng đưa lên, họ cũng gào lên với bọn da đen đang treo lơ lửng trên những sợ dây chão: Cẩn thận, và với những người đang xếp hàng vào xe tải: Nhẹ nhàng thôi! Có những thứ bị bẹp vỡ, qua tiếng động phát ra, họ nghi là không thể vớt vát lại được nữa. Một tảng lớn, chẳng rõ là thứ gì, bỗng mất hút trong biển. Đó quả là một sự mất mát lớn không lường trước được!
Tất cả hãy lại đây, Beretti nói trong lúc tập hợp nhóm người của mình, không còn xa nữa đâu, tôi sẽ dẫn các anh đi. Họ đi dọc theo khu nghĩa địa dành cho người da trắng, nạn nhân của bệnh sốt vàng da. Để tỏ bày nỗi đau đớn, những tàn phá và sự lan rộng của nạn dịch, người ta chỉ biết cách dựng lên những tác phẩm nhà binh, những tượng tính lông lá của đại chiến thứ nhất[6]đang ngậm kèn thổi, những tượng hình đàn bà phủ phục ngay sát những người lính đang co quắp hay lờ đờ, những chú gà trống nổi đóa, những thiên thần tí hon đội mũ bảo hiểm, tất cả những thứ đó vương víu trong lá cờ bằng đá, trong khăn vải liệm với những nếp gấp thẳng cứng, trong những dải nơ kiểu vùng Alsade cứng nhắc giống như xi măng mà người ta dùng để đúc chúng. Chiến tranh à? Victor hỏi. Không, Beretti đáp lại, nạn dịch đấy… Và do sản xuất quá độ tượng đài dành cho người quá cố, nên có những thị xã nhường chúng lại cho một châu Phi vẫn luôn mang ơn họ.
Họ đi dọc theo một phố đường đất, nhấp nhô ổ gà đây đó, giữa các tòa nhà thời thực dân, mà cây cối mọc lên đã lấn chiếm dữ dội bằng cách tiết ra không thiếu những rễ móc, cành thắt chặt và gai độc, và giữa các căn hầm mới hơn xây cất bằng những nguyên vật liệu thu nhặt được, gồm những khối đá xây mộ đã được cào khắc tên vài người Pháp nào đó, những mảnh sắt vụn mà ta có thể đoán được tuổi nhờ sự phân tầng của lớp gỉ. Nơi đây tựa như một kho chứa đồ tạp nham khổng lồ tua tủa các biển quảng cáo, trên chóp đầy đèn nê-ông, trang bị điện hết tầm: những vì sao xẹt sáng lóe lên rồi lại tắt ngấm, những chàng cao bồi bằng bóng đèn bật sáng xen kẽ nhau, lúc đỏ, lúc xanh, những chiếc máy bay khi cất, khi hạ cánh, những khóe miệng lúc há lúc ngậm, những cặp mắt nhấp nháy… tất cả như đi theo những hiệu lệnh một hai, một hai, co thắt và run giật có vẻ như sắp được chập mạch và đứt điện. Điện cũng chưa đến được với tất cả mọi người. Phía dưới kia, vẫn còn những người sống bằng củi lửa, bằng nước tù đọng, bằng cối giã tay không ngừng, với những cử chỉ lề mề còn giữ lại được từ thủa sơ khai của loài người. Trên những cánh cửa, vài bức tranh hồn nhiên được vẽ lên để ca ngợi tài cán của một chú thợ hớt tóc, một anh thợ may, và của một vài nhà xuất - nhập khẩu kém phần minh bạch, ít nhất là về mặt chính tả.
À LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN. Khi họ tới trước nơi này, đây rồi, Beretti nói. Tất cả bước vào trong một kho chứa hàng khổng lồ. Những
bao tải xếp cao ngất ngưởng tới tận mái nhà, trong một thế rất tròng trành mà bọn da đen, vẫn là bọn ở cảng hồi nãy, đang nguy hiểm trèo lên. Sau quầy, một thằng bé con lai tuyệt đẹp, nước da màu đồng sáng, với đôi mắt tuyệt hảo: xanh và trong suốt như màu lục bảo, viền hàng lông mi dày, dài và cong vút, trông dễ sợ như những nhị hoa của một số loài cây ăn thịt người. Mình trần, đã hơi béo bự, cổ lủng lẳng chiếc dây chuyền vàng. Đẹp đến nỗi khiến ta phải hoảng sợ.
Chào chú. Ôm hôn, tay vỗ lên tấm lưng trần. Bố thế nào? Beretti hỏi, qua đó cho thấy tính thiêng liêng gia đình, bền chặt của công ty. Vẫn thế. Giọng nói phát ra từ sau quầy thu tiền. Lại một con bé nữa, nhưng hom hem, vàng ủng, như là bản sao của đứa con trai nhưng cằn cỗi và biến chất. Nếu thằng con trai là bông hoa, thì cô ả là cái lá, là cành nhánh hay cái gai. Theo lời thằng con trai thì bố có vẻ trở thành mất trí, ông không chịu để cho ai đến gần, ông không muốn ai nói chuyện với ông. Thế thì sao? Cô bé lai lại nói, và ra mặt giận dỗi.
Dù sao thì chú cũng đến chào ông một câu, Beretti nói. Đứa con gái nhún đôi vai còm của mình. Ta hình dung, từ bộ ngực chìa ra trên quầy thu tiền, một kẻ còm cõi, với cặp chân khoèo. Những Giám Đốc im lặng, vẫn còn choáng váng bởi chuyến đi biển, đứng yên sau quầy, vạch phân cách thế giới. Beretti đi về phía một khối thủy tinh, hơi giống những khối pha lê của các viện bảo tàng mà trong đó người ta thường cất giữ những đồ cổ quý giá. Chủ nhà, cha đẻ của LA RESSOURCE to béo khủng khiếp, đang vừa ngự trong khối thủy tinh đó, cách ly tiếng ồn và khí nóng, vừa theo dõi công việc đi lại của công ty mình. Ông ta ở trong một chiếc hộp làm lạnh, cả khối thịt khổng lồ của ông áp sát vào mặt kính, làm thành từng mảng hồng dính vào chỗ này, chỗ kia, nơi mà cơ thể ông chạm vào như thể là có những ống giác hút chặt ông vào trong chiếc hộp của mình. Tối đến, hai thằng bồi đẩy chiếc hộp ngả về phía sau để ông có thể ngủ. Ông ra lệnh bằng dấu hiệu, một chiếc ròng rọc được mắc vào để làm cử động cánh tay phải của ông. Chỉ một tia mắt, một thằng bồi nâng lên hay hạ bàn tay của ông xuống. Ông không còn muốn nhúc nhích nữa, ông không còn muốn người ta đụng chạm vào ông.
Tôi đây, Beretti nói. Cuối cùng cũng về đấy à, kẻ béo phệ lên tiếng. Và rồi, trong một khoảng thời gian hình như rất lâu, người ta chẳng còn nghe
thấy gì nữa. Kẻ béo phì, cặp mắt trắng dã, mơ một giấc mơ nặng nề, cụ thể mà nó lại cứ ì ra đó, không chịu đi đi cho. Khiến người ta có ý muốn giúp ông. Thế nào? Beretti hỏi. Thế nào à? Kẻ béo phì nói, và bằng một cử chỉ, chỉ hơi nhích khẽ mà cũng đủ làm cho chiếc ròng rọc rít lên, ông ta chỉ về phía sâu trong cùng của kho chứa hàng. Nhiều thế này cơ à… Beretti nói, ấy là chưa tính đến những gì tôi mang về. Lại thêm một thời gian im ắng rất lâu không có chuyện gì xảy ra. Kẻ béo phì vất vả xua đuổi giấc mơ của mình, điều đó làm cho ông ta có cái nhìn chòng chọc đầy ảo giác kinh hoàng. Mọi người chờ một tiếng nấc, một cơn co thắt, một cái gì đó từ bên trong giải tỏa cho ông. Victor đã từng biết đến những lần đợi chờ kéo dài khủng khiếp, những câu chào hỏi câu nệ không dứt, những lời phát biểu hời hợt che lấp những vấn đề chính yếu, nhưng lần này không có gì giống như thế. Anh thấy hình như có lẽ phải đánh thức ông ta dậy, hình như từ câu nọ sang câu kia, ông ta có lẽ đã quên mất sự có mặt của bọn anh ở đây.
Họ ở đây tất, Beretti tấn công thẳng thừng. Và như để hối lỗi: đó là tất cả những gì tôi đã có thể làm được. Bọn họ, ai nấy đều luộm thuộm, nhem nhuốc, râu ria rậm rì, chỉ duy nhất có Victor là đã cố gắng sửa soạn đôi chút, cạo râu, diện complet đen và thắt cravat. Một đám tù khổ sai với những cặp mắt rực lửa như loài sói. Kẻ béo phì quan sát họ kỹ lưỡng, tiếng động của công chuyện làm ăn đã đánh thức ông ta tỉnh dậy ngay. Tôi đã thông báo cho họ biết nội dung công việc, bọn họ đồng ý hết, Beretti nói. Victor không dám cắt ngang lời ông, chắc ông thừa biết ông đang làm gì. Vào thời khắc này anh tin tưởng nơi Beretti. Kẻ béo phì hất đầu: năm mươi phần trăm trả vào lúc giao hàng, số còn lại vào đúng kỳ hạn. Vâng, Beretti nói. Bao gồm cả hàng tồn kho, kẻ béo phì nói rõ. Đương nhiên rồi, Beretti trả lời. Thế thì mọi chuyện ổn rồi, kẻ béo phì kết luận. Beretti quay về phía những ông Giám Đốc của mình, khoa tay ra hiệu với họ để nói rằng mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ.
Mấy gã đàn ông đứng đợi đằng sau quầy, giống như ở vạch xuất phát. Ông ta vốn như thế, Beretti phân trần. Khi ta nghĩ đến chân dung doanh nhân mà ông ta đã từng là…, kẻ giỏi nhất trong chúng ta, kẻ giỏi nhất trong tất cả mọi người. Bắt đầu từ con số không, ở một ngách khỉ ho cò gáy không hình dung được… Không phải như các anh bây giờ đâu, các anh được cung cấp xưởng thợ, cửa hàng, được cung ứng hàng hóa, khách khứa… Chẳng có gì phải làm hết. A, có chứ, đến đây ông ta phá lên cười to,
BÁN,… Các anh sẽ gắp thăm những chi nhánh cửa hàng cho mình. Câu này cùa Beretti như thể báo hiệu khởi đầu cuộc đua tìm hạnh phúc. Bọn họ đang ở trong tư thế sẵn sàng, chân trên bàn dậm. Đằng sau quầy thu tiền, đứa con gái lại đang viết tên các cửa hàng chi nhánh lên những mẩu giấy nhỏ. Những địa danh xa lạ, những tên gọi không thể phát âm nổi, nhưng họ lại thấy hài lòng khi nhẩm đọc những từ chẳng nói lên được điều gì, như thể số phận, khi đã gán cho họ những mẩu giấy đó, đã tỏ ra ưu ái họ. Họ còn một tiếng đồng hồ.
Cả bọn tản đi trong niềm phấn khởi hân hoan của lũ trẻ khi vào giờ tan lớp. Họ biết sẽ đi tiêu khiển ở đâu, tất cả vào nhà thổ. Nhà mái tôn lượn sóng, nhà bằng hộp các tông, nhà bằng mảnh gỗ ghép, khách sạn sang trọng có kiến trúc theo kiểu bánh ga tô cưới, ở Cảng Chuối, có nhiều nhà thổ hợp với tất cả mọi sở thích. Xin chào mừng, lũ gái kêu hét ầm ĩ trên bậc thềm nhà, welcome, các cô vừa gào lên vừa vén tấm ri đô bằng hột cườm của các nhà thổ loại xoàng xĩnh nhất, willkommen. Các cô bỏ dở bữa ăn gồm thịt bò hộp và đậu đỏ, họ thay nhau đuổi ruồi và nhanh chóng bắt tay vào việc. Nhanh lên em, một gã nói mà đầu óc đã ở tận đâu đâu, nhanh lên chứ, xe tải của anh sắp đi rồi.
Victor ở lại trong kho chứa hàng. Này, cậu làm gì ở đây thế? Beretti hỏi tựa như người ta lục vấn một đứa trẻ không muốn chơi. Và cũng giống như một đứa trẻ ngồi tách trong sân trường vào giờ ra chơi, Victor không trả lời. Cậu không đi với bọn chúng à? Beretti vẫn tiếp tục hỏi. Victor hé nở một cười đủ để nói rằng đó chẳng qua là những cuộc chơi mà anh chẳng hiểu trò trống gì cả. Tại vì bà cậu à? Beretti cật vấn.
Trong hộp, chiếc ròng rọc thực hiện công việc của dây và bánh xe của nó, kẻ béo phì ra hiệu cho họ đến gần, ông ta muốn nói với họ điều gì đó. Hai người vượt qua quầy, rất thành kính đối với thần tượng, họ đứng quanh chiếc hộp. Victor chợt nghe như tiếng kêu của loài chuột, anh chưa bao giờ nghe ai nói chuyện xuyên qua một khối pha lê. Bố Già ngỏ lời với anh. Ông ta hỏi tuổi cậu đấy. Hai mươi, Victor trả lời. Nhưng đối với những con người ấy, tuổi tác này chẳng nói lên được điều gì, đấy là hai mươi tuổi của thủa xưa, hai mươi tuổi được chăm ẵm và chín muồi dần bởi một người đàn bà, và lại là một người đàn bà thuộc một thế hệ khác. Hai mươi tuổi với sự thẹn thùng của người trinh nữ, sự ngây thơ của trẻ con, sự trong trắng của
cô gái mới lớn, hai mươi tuổi đã xoa hồng đôi má và điểm lệ trên mi, hai mươi tuổi không biết nói thành lời. Từ đấy, ắt phải có một quầng sáng bao quanh chàng trai trẻ áo đen, hay có chăng ít ra vẻ đẹp của chàng, tựa như một luồng ánh sáng phát ra từ đôi mắt. Hai người thì thầm thủ thỉ sát tai nhau. Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện đó, Beretti trả lời. Bố Già muốn phái cậu đến LÀNG KIỂU MẪU, vẫn là giọng của Beretti. Đó là cơ sở của César, một chi nhánh mà chúng ta có những ưu đãi rất đặc biệt. Tôi chúc mừng cậu, cậu có thể viết thư về cho bà được rồi đấy. Cám ơn ông, Victor trả lời mà chẳng hiểu gì. Tôi gửi gắm cậu cho tay đốc công của nông trường chuối, lát nữa cậu sẽ đi cùng đoàn xe tải của nhóm DEVIL’S BANANA. Cám ơn ông, Victor nhắc lại lời cảm tạ hồi nãy.
Sunset Boulevard
SUNSET trước đây là dinh thự của viên thống đốc, với nhiều dãy cột trắng và hàng hiên phía trước, kiến trúc kiểu thuộc địa với những bụi hoa dâm bụt. Nó còn có thể được xem như một khách sạn hạng sang chỉ hơi xuống cấp một chút và dưới lớp ve hồng quét phủ lên các cánh cửa, ta vẫn còn hình dung ra những tấm biển đồng khắc tên cơ quan hành chính: Phòng Cấp Hộ Chiếu, Phòng Hôn Nhân, Phòng Hộ Tịch. Ở đầu hồi nhà, nơi mà trước đây đã từng phấp phới lá cờ tổ quốc Pháp, thì bây giờ lại sáng lóa lên bóng đèn xanh nê-ông bật suốt ngày đêm. SUNSET phục vụ quầy bar, nhà hàng và khách sạn, nó hơi kiểu như câu lạc bộ. Phía sâu trong quầy bar, che giấu cầu thang danh dự trước đây, là một tấm ri đô lớn bằng nhung đỏ do nhà hát ca kịch thành phố Limonge thải nhượng lại, tấm ri đô xác định ranh giới của ngôi nhà thổ đích thực, ranh giới giữa ngày và đêm, giữa cái đúng đắn và cái cấm đoán. Đi nhà thổ, thì cứ ít nhiều là vượt qua đằng sau tấm ri đô. Mỗi tháng một lần, tấm ri đô ấy được trịnh trọng mở ra trình diễn một đêm sinh hoạt có chủ đề. Giá cả ăn uống tăng gấp đôi.
Bà chủ, là một cựu nghệ sĩ điện ảnh Pháp, chỉ giữ lại từ tên họ của mình mỗi cái tên riêng, thường kể cho bất kỳ ai muốn nghe những thảm họa xảy ra trong cuộc đời bà: Người Mỹ đã dụ dỗ bà ký một hợp đồng kỳ diệu vào thời điểm vinh quang nhất của bà, chỉ nhằm ngăn chặn bà cạnh tranh với những minh tinh của họ. SUNSET BOULEVARD là tất cả những gì bà đã cứu vãn được khỏi tay Hollywood, khỏi sự thảm sát của thời gian và khỏi sự quên lãng của giới mày râu. Bà sẵn sàng mở cho xem những mẩu báo kể lại rằng bà đã làm lại cuộc đời, và rằng, dưới ánh nắng của vùng nhiệt đới, bà đã tìm lại được nguồn hạnh phúc. Những vòng hoa quấn quanh cổ, khuôn mặt đã phị ra dưới tác động của bia và một người tình tóc đen huyền kiểu la-tanh còn quá trẻ, mà bài báo giới thiệu như người có công làm bà hồi sinh. Chính hắn ta là kẻ đã dẫn bà đến châu Phi, sau đó thì bỏ mặc bà ở đấy. Và trong khoảng thời gian ấy, hắn ta đã kịp đâm thủng một bên mắt của bà.
Ysée đòi hỏi những chị em dưới tay bà phải thật trắng, thanh lịch, tao nhã, mắt mi giả và váy viền lông tơ thiên nga. Một chú thợ làm đầu sáng
nào cũng tới để búi cao lên những mái tóc đen xậm và cứng đờ làm ta liên tưởng đến những kiểu đầu iroquoises, những chiếc mũ bảo hiểm của các nữ kỵ sĩ. Chú ta rải xuống bờ vai các nàng những khối lớn tóc vàng mà chú gắn chặt từng lọn xoăn với lọ gôm xịt cứng. Ngay chính bản thân Ysée cũng chỉ xuất hiện trước mọi người với cái mũ và tấm khăn voan trùm ngang mặt, để che đi con mắt chột đã điểm trên mặt bà một vết trắng đục. Bao trùm lên SUNSET là một không khí của Hollywood, được cải biến với những nàng búp bê Barbie, toàn bộ biểu hiện một phong cách văn hoá rất Pháp.
Đối với những cô gái dưới trướng mình, như Ysée vẫn thường nói, bà có MỘT HOÀI BÃO TO LỚN. Một cô gái mà không bận tâm để trở thành hoàn hảo, không có ý chí tiến thủ, không chịu học hành, thì chỉ là kẻ thua thiệt. Chính vì thế mà sự khai nhập vào nghề này do bà chủ xúy rất gay go và làm rúng động nhiều định kiến về sự buông trôi bừa bãi trong các nhà chứa. Không thể có sự buông thả trong nhà thổ. Ysée điều hành lãnh địa của mình bằng một bàn tay sắt, với một uy quyền khắt khao. Chiếu theo kỷ luật khủng khiếp của hãng phim FOX, các cô gái làng chơi phải biết diễn kịch, phải biết ca hát và nhảy múa. Các cô theo những khóa học về cách thức đi đứng. Ysée dạy họ kiểu ngồi khép hai chân. Bà chỉ cho họ cách cầm túi xách tay theo đúng kiểu Nữ hoàng nước Anh và muôn vàn thứ khác nữa, cần thiết cho cuộc sống chung. Bà nói với các nàng rằng: Các em là những Nàng Công Chúa, đừng bao giờ quên điều ấy. Trong lúc chờ đợi, vào giờ dùng whisky, các Nàng Công Chúa kê chiếc đầu được xịt gôm cứng nhắc và cả những kiểu cách cầu kỳ của họ lên chiếc gối dài, và trao tấm thân đã tháo bỏ đi bộ váy thiên nga cho những đợt xung kích thô lỗ của những Nhà Trồng Chuối.
Về phía quầy bar, có sự dồn dập thường gặp vào những ngày tàu về cảng. Những cư dân ở Cảng Chuối, mặc dù luôn hy vọng được các thông tin mới mẻ, thì vẫn tỏ ra thích thú với những tin tức cũ rích từ một vài tuần nay, mà họ đã từng nghe ở ra-đi-ô, bởi vì các khách du hành, giống như những kẻ sống sót khỏi một thảm họa, mang đến cho họ, qua những thông tin có hơi biến đổi, một cái gì đó đáng tin cậy hơn bản tin khô khan do một giọng đọc có phần yếu ớt phát đi từ tận chân mây cuối trời. Ở quán bar, tựa như trong phòng làm việc, người ta giải quyết công chuyện làm ăn, những việc đầu tiên, những việc dễ nhất, những việc khẩn cấp nhất. Vào giờ này, SUNSET, chính là THÀNH PHỐ TRUNG TÂM BUÔN BÁN, nhiều lắm
người ta chỉ hình dung ra những động tác bị bóp ngạt bởi tấm ri đô của xứ Limogne, của các nàng đang tập tuồng, và chỉ nhận ra tiếng rè của một đĩa hát dập theo mỗi nhịp bước chân của họ.
César, mình ơi! César, tình yêu của em! Ông ta vừa mới bước vào, người yêu của tình yêu. Ysée đang ở trong vòng tay ông ta, rụi mặt nghẹn ngào vì xúc động và vì hạnh phúc. Bà kết giao với César bằng những mối quan hệ lâu năm và bất diệt. Chính với bà mà sự bất lực tình dục của ông đã ló dạng với sự xuống cấp không gì ngăn trị nổi, sự yếu kém này đã tăng dần với tình bằng hữu ngày càng thắm thiết giữa họ; trên giường, phần lớn thời gian càng ngày càng được họ dùng để bàn bạc công chuyện. Đấy là vào thời kỳ mà bà còn một mình cùng hai cô gái chèo chống để duy trì một quán hát hạng bét, và chính bà cũng phải đem thân xác mình ra mà sử dụng. Một hôm, cả hai bỗng chợt hiểu rằng họ cởi bỏ hết áo quần và kéo nhau lên giường với một sự vui nhanh cực độ, chẳng khác những vận động viên bơi lội tháo bỏ quần áo và lao mình xuống nước, là chỉ để nói chuyện tiền bạc. Với những tấm drap kéo phủ lên mình, họ tán gẫu như những nhà kế toán. Nàng mơ tưởng cao xa, chàng đã mua cho nàng nhà SUNSET. Anh thấy không, nàng nói với chàng, cái mà anh đã làm cho em, cả đời em sẽ mang ơn anh. Ông biến phòng làm việc trước đây của Thống đốc thành phòng ngủ của mình. Từ sân thượng, ông nhìn thấy biển, ông lặng ngắm những thùng chứa chuối và ông dõi ánh mắt nhìn ra xa, con tàu LA VOLONTÉ DE DIEU toả sáng lấp lánh như vầng thái dương. Ông đang ở nhà của mình, ông đưa đến đấy những người đàn bà chạy theo mình. Ông là người đàn ông được yêu thương nhất trên đời. Ông mơ màng: Khi nào anh chán mọi việc, thì em xem, chính ở nơi đây mà anh sẽ lui về ẩn dật.
Khi nhìn thấy César, khách hàng trong quầy bar giật nhỏm hết dậy trên ghế của họ và lũ con gái lộn nhộn sau tấm ri đô. César, tụi em ai cũng nhớ anh, Ysée vừa nói vừa bước tránh qua một chút để nhìn ông ta rõ hơn. Xem này, César vừa nói vừa đẩy Lola lên phía trước mặt. Ối trời! Bà thốt lên khi trông thấy Lola. Ôi trời! Một lời cảm thán biểu thị niềm vui sướng trước một món quà xấu xí thậm tệ, tuy nhiên lại rất kỳ thú. Và ông ta đang đung đưa trên hai chân, hết bên nọ đến bên kia, rất tự hào về trò nghịch của mình… César, anh mang cái thứ gì về thế này! Không xinh à? César vừa hỏi vừa nói đớt. Không đẹp à, cả người đen giòn như thế này kia mà? Và ông lấy mọi người trong phòng và lũ bạn ra làm chứng, nhưng kém phần tự
tin ở mình kể từ lúc nhìn thấy những đống chuối và nhận ra viên đốc công đang xấu hổ và ủ ê trong một góc phòng. Câu chuyện đùa của ông ta hình như trở nên kém hay. Lola bây giờ giống như một quả pháo xịt ngòi, một ngọn pháo bông tắc nghẹn. Nó chẳng đen! Một gã ngồi ở quầy rượu nói. Vậy thì anh muốn thế nào! Ysée thốt lên. Nó lại cũng không trắng, vẫn gã đó thêm vào. A! Bảo thế thì tôi còn nghe được, Ysée nói, anh làm tôi hãi quá, và bà ta áp cả hai bàn tay lên ngực để ra vẻ xúc động mạnh, như thể tim bà sắp sửa chạy ra khỏi lớp áo cánh.
Này, César vừa nói vừa lẩn đằng sau Lola, quà cho mình đấy. Cho em à! Lúc này thì bà ta trở lại nghiêm nghị. Cái này thì không! Anh muốn em làm gì với nó… Những đứa con gái như thế này có đầy rẫy trên các vỉa hè ở Mégalo, những đứa con gái như thế này, anh chẳng có cả đống trong các nông trường chuối của anh à! Anh lường được chăng cái phải làm để biến nó thành, em không nói là chấp nhận được, mà chỉ là coi được thôi! Cám ơn nhiều đấy, em chỉ vừa mới dạy dỗ xong khoá Lala Turner! Thôi, đủ rồi, César tìm cách hoãn binh lộ rõ nỗi bực bội, chỉ là chuyện tế nhị mà… Anh sẽ giữ nó cho anh. Chẳng phải là em không muốn làm vừa ý anh, César ơi, anh biết rõ mà, nhưng một đứa con gái như vậy là cái hạt thối trong chùm, là phần mốc xanh trên lớp mứt, nó sẽ huỷ hoại danh tiếng của nhà SUNSET trong nháy mắt. Anh đã nói với em là chuyện đâu có đó mà, César cắt ngang, và lúc này, ông hoàn toàn nghiêm mặt lại, khiến nàng cảm nhận và trở nên lo lắng. Lại đây, bà nói với Lola, mình để mặc bọn đàn ông với nhau. Guastavin! César cất tiếng gọi.
Viên đốc công tiến lại gần. Hồi trước, ông ta đã từng là bạn thân của César, hầu như là bạn tâm giao. Trong công chuyện làm ăn, không bao giờ người ta gọi tên người này mà quên tên người kia, như thể trong cặp bài trùng không phân biệt được ai là người này, ai là người kia. Họ đã khởi sự cùng nhau, nhưng trong cuộc đời song đôi này của họ, César đã tận hưởng được nhiều hơn Guastavin. Tiền tài, hạnh phúc, đàn bà và thức ăn, ông đã chiếm hết. Viên đốc công cứ héo hon dần, điều đó được biểu hiện ở giày dép, chúng cứ luôn luôn to dần lên. Ơ mà này, Guastavin, ở tuổi ông mà bàn chân vẫn cứ to lên thế kia à! Ysée kinh ngạc thốt lên. Không thưa mợ, đốc công trả lời, đấy là do các bắp chân tôi teo lại. Hai sợi dây giắt trong đôi giày lính thô kệch.
Cùng với viên đốc công, César tháo gỡ đầu đuôi gốc ngọn chuyện đống chuối thối cao thành núi đó. Guastavin đã thực thi công việc của mình: hắn đã coi sóc việc thu hoạch chuối, tiếp đến là việc vận chuyển chuối tới tận cảng. Nhưng ở đó đã có một sự tắc nghẽn, cơn ác mộng đối với viên đốc công. Lẽ ra mày nên đút ít tiền, César trách cứ. Đút, nhưng đút cho ai mới được chứ? Tất cả những gì đút được thì đã đút hết rồi, và viên đốc công đưa ra một danh sách kinh khủng, từ những Bộ trưởng tới những tay loong toong hầu giấy tờ văn phòng. Thế còn thằng Tổng thống? Không, đốc công chưa chạy tới cấp đó. Tổng thống, hắn ta đã không nghĩ đến. Dù sao, mày cũng phải làm một cái gì với đống chuối! César chơi ác, bởi ông biết rõ rằng ngoài việc tống xuất đi, không thể làm gì khác được, ngay cả việc ngâm chúng vào si-rô cũng không thể,
… Các cô ai cũng giống ai hết, các cô tưởng rằng chỉ cần trình diện là được tuyển mộ. Các cô ngỡ rằng chỉ cần bước đến châu Phi là đã trúng số độc đắc. Vậy, tôi sẽ nói cho mà biết, châu Phi thì cũng tợ như châu Mỹ, gay go cam khổ. Ở đây, bọn đàn ông ý à, chúng có hết mọi thứ trong tay, và lại còn chơi không mất tiền nữa chứ. Để bắt bọn chúng trả tiền, thì phải mang đến cho chúng thứ xa hoa sang trọng, tuyệt hảo… Một thân thể thôi thì chẳng là cái cóc khô gì, ai mà chả có hai cẳng chân, hai cánh tay và phần còn lại! Một thân thể, em sẽ học, đó là những gì xung quanh nó, đó là dáng vẻ thể hiện. Khi em không phải có mái tóc mà có một kiểu đầu, không phải có ngực, mông mà có một dáng hình, không phải có chân cẳng mà có một dáng đi, không phải có làn da mà có một mùi thơm, không phải có đôi mắt mà có một cái nhìn… thì, con ơi, sau này ta sẽ lại đề cập đến… Tất cả các cô, ai cũng tin là chỉ cần nằm ngửa ra, dạng to háng, nhưng một thằng đàn ông, hắn không ngủ với chỗ hẻm của các cô đâu mà hắn làm tình với giấc mơ đang toát ra từ các cô.
Ysée kể lể cho Lola nghe câu chuyện khủng khiếp hồi ở Hollywood của bà. Ðể có chứng cứ cụ thể, bà lôi ra cuốn Điện ảnh thế giới đã hơi bị gặm nhấm, lật từng trang, gợi lại Marilyn, Jane, Carol, như thể bà đã từng đi lại hết sức thân thiết với họ. Bà nói, người ta ám hại bà cũng giống như đã giết chết Marilyn. Bà luôn cảnh báo lũ con gái, mà nói chẳng bao giờ thừa, là nên đề phòng giới điện ảnh, bọn luật sư ám muội, những tên đầu mối ma cô, những thứ đạo diễn khinh thường phụ nữ, những nhà sản xuất phim bê tha trụy lạc. Ysée làm mê hồn người nghe trong chừng mực bà thuật lại những
trang báo. Người ta có cảm tưởng rằng bà đang kể sự thật, bởi bà nhắc lại nguyên văn từng từ một những điều mà ta đã đọc ở đâu đó, một câu chuyện vừa lờ mờ, vừa chính xác, tràn đầy những tình cảm chân thành và những điều ám chỉ. Bà gợi dậy những hoài niệm, giáng cho những bằng chứng không thể chối cãi, những sự tự vẫn của Martine và Marilyn, sự rút lui giữa đường của Brigitte. Bà xác nhận trí thông minh của Michèle và vẻ đẹp của đôi chân Marlène.
Lola có cảm giác phi thường được phép ngồi cùng bàn với Ava Gardner và Audrey Hepburn tập hợp lại dưới vầng hào quang khó tả của Garbo. Nàng Công chúa của xứ tuyết trắng, con thiên nga của dòng sông Mát-xcơ va, Ysée xác nhận và, trước cái nhìn thán phục bao trùm lên mình, bà bị xâm chiếm bởi một niềm xúc động gần như có tính nghệ sĩ: Tuổi trẻ khủng khiếp quá, bà thì thầm. César thật chẳng phải lẽ chút nào. Ta sẽ làm gì với em đây, hả cô bé? Lola chẳng biết gì cả, nàng đang cân nhắc, chiểu theo sự hoàn hảo của Ysée, thì hẳn còn rất nhiều điều phải làm. Nàng mang tuổi trẻ trong mình như mang một thứ dị tật, nàng cảm thấy mình thật mong manh, thiếu trang bị và nhất là hết sức vụng về, và vô cùng đen. Nàng cầu khẩn: có thể một ngày nào đó, được không? Nàng nài nỉ: hay là sau này? Ysée vơ cả nắm tóc của cô gái trong tay và giật mạnh về phía sau. Trời ạ, cái đầu bù này! Bà đã không nói lời chối từ.
Ysée! Tiếng gọi vẳng lại từ cuối phòng. Ðó là một người đàn ông nhỏ thó, quắt queo do tuổi già, mà hình như duy có đôi bàn tay là còn giữ được dáng cỡ ban đầu của chúng, đôi bàn tay có vẻ to tướng. Lola nhận ra gã hồi nãy đã nói rằng nàng không đến nỗi đen lắm, nàng thấy cảm kích về điều đó và khẽ đứng lên nhường ghế cho hắn. Chị thấy đấy, Ysée, để cho Lệnh Bà xứ Montsoreau ấy mà. Thôi rồi, lại giở trò, hắn lại giở chứng, một cái chứng dai dẳng và ám ảnh. Hắn trở nên như thế từ khi đọc cuốn Lệnh bà de Montsoreau[7]. Cả một cuộc đời lăn lộn với chuối, và rồi hôm nao gặp một cuốn sách, cuốn sách đó và chỉ còn nó trong đầu. Bà nói với hắn một cách nhẹ nhàng, tuổi già như thế thì đáng phải tôn trọng: Nhưng, vậy bác sẽ làm gì với Lệnh bà xứ Montsoreau?
Lão già đã có chủ ý của mình, và ông bắt đầu trưng nó ra như vẫn thường làm một cách không mệt mỏi, từ ngày sức khoẻ bị tai biến đã khiến
lão đột ngột trở nên nhạy cảm với vẻ đẹp thuần khiết của những tình cảm thanh tao và quả cảm. “Rồi bà ta nói với ông ấy”, “rồi ông ấy bảo với bà ta”, “rồi sau đó”, “nhưng trong lúc ấy…”. Điều này khiến Ysée nổi khùng. Chỉ mong lão để mặc cho bà yên với Lệnh bà xứ Montsoreau. Và để nhấn mạnh dứt khoát sự đối lập của mình: Vở này không thể dựng được. Còn lão thì đã cho tay vào túi để lấy tiền thanh toán chi phí.
Bà đã dàn dựng các vở Sissi và Cléopâtre, hai vở thành công hơn cả với một bức hoạt cảnh tả thời Trung cổ một cách sỗ sàng, mà tiếp theo đó, những Nhà trồng chuối có thể trổ tài chơi các Lệnh bà đội mũ chóp nhọn. Công việc tái tạo, vừa mang tính lịch sử lại có vẻ điện ảnh này, đòi hỏi một lượng sinh lực dồi dào không thể hình dung nổi, một sức tưởng tượng không biết mệt mỏi, những phương tiện tài chính vượt bậc. Lụa thì phải là lụa thật, nếu không NGƯỜI TA CHẲNG NHÌN THẤY LÀ LỤA, đấy là khẩu hiệu của bà. Bà luôn doạ dẫm mọi người rằng bà không còn đủ sức lực, không còn đủ can đảm nữa, nhưng công chúng đã cuồng nhiệt khích lệ bà, những Nhà trồng chuối đã ứng ra những khoản tiền chi viện vô kể. Bà đã được thưởng huân chương Nghệ thuật và Văn học của vùng Mégalo. Bức ảnh đăng trong tờ NHẬT BÁO mới thật là khủng khiếp, toàn mực, ở giữa có một vết trắng trải rộng quá mức do nụ cười bày tỏ niềm sảng khoái. Từ đấy bà bỗng thôi cười hẳn, cho rằng không còn phù hợp với lứa tuổi của bà nữa.
Tuy nhiên, lão già lên tiếng, đưa cằm hất về phía Lola, con nhỏ này có thể sẽ làm nên, chuyện ấy đấy. Nó sẽ không ở lại đây đâu, Ysée nói. Và khi biết rằng mình sẽ không được quyền ở lại SUNSET, rằng điều này đã hoàn toàn dứt khoát rồi, sau lúc e ngại thì rồi lại hy vọng, ở một nơi quá vui vẻ như thế này, thì Lola thấy tim mình như thắt lại, nàng xin được mang theo các số Điện ảnh thế giới. Ysée cho nàng mượn cuốn sách mà tất cả các nữ nghệ sĩ đã từng lấy ở hãng FOX. Cuốn sách tích tụ những lời khuyên và những kỷ niệm của một cựu nữ hoá trang, hoa hậu Priddy, người đã từng biến tất cả họ thành những cô gái tóc vàng, mảnh mai, cao ráo, đẹp rạng rỡ nhưng lại rất ác độc. Hãy đọc cái này trước đi đã, bà nói với nàng.
Cuộc đua xe tải
Những cỗ xe tải của nhóm DEVIL’S BANANA nằm chờ trước cửa SUNSET đợi César cho tín hiệu xuất phát. Họ đã bị chậm hai giờ đồng hồ, và sẽ chỉ tới nơi vào lúc đêm đã buông mà thôi. César giúp cô gái trèo vào trong ca bin của chiếc xe đầu tiên và tự tay ông ta cầm lái. Vào thời khắc này, tất cả đều răm rắp như một, những tay lái xe đồng loạt nhảy lên ca bin của họ, ta chỉ còn nghe thấy một tiếng dập cửa duy nhất, tiếng rú khủng khiếp của ba mươi ngàn mã lực máy nổ nhất loạt gầm ré lên.
Trong chiếc xe tải thứ mười ba, bị nén chặt giữa một bên là người thợ máy và bên kia là người lái xe, Victor cảm thấy cỗ máy rung lên, tăng tốc độ. Trước mặt anh, bụi bốc lên từ mười hai chiếc xe đi đầu, sau lưng anh là lớp bụi của cỗ xe sau, giữa hai chiếc xe chỉ thấy bụi là bụi. Này liệu hồn nhé, cha thợ máy nói, sắp nổ đấy. Và trên thực tế, nổ thật, những cú rung xe hung bạo, những cơn tăng tốc điên cuồng, những hồi phanh hoang dại, những cú trượt rít óc. Tên tài xế, lúc đầu rất căng thẳng, xâu tới tấp những động tác nhanh và chính xác, những cú về số đúp, phanh trượt, vừa phóng vừa hãm, toàn bộ các thứ đó với những cú xoay vô lăng rộng liền tay, dồn vào đấy tất cả sức mạnh của đôi cánh tay và xiết chặt bằng những cú cơ bắp. Victor lãnh đủ vào hai bên cạnh sườn, càng dữ dội hơn nữa do những cử chỉ thao tác lái xe được cha thợ máy lặp lại từ phía bên phải, với chức năng là nhân đôi những động tác của tên tài xế. Cha thợ máy lái xe với một chiếc vô lăng tưởng tượng, một hộp số huyền ảo, và một bộ phanh giả tưởng, hắn ta còn phóng đại những tiếng ồn ã bằng miệng, lúc phát ra tiếng òng ọc, lúc huýt sáo gió, lúc lại rít lên. Ðua xe mà, hắn ta hắt ra trong một tiếng thở phào.
Mỗi khi từ chính quốc trở về, mọi người ai cũng biết, César thường tổ chức một cuộc đua xe với những tay tài xế, lũ cu li khuân vác và các tay đốc công của mình. Cá cược nhau làm sao vượt được ông. Ðó là một cuộc đua xe khai mào để ông thiết lập lại quyền uy, để ông đánh gục mọi ý đồ tham vọng có thể nhen nhóm khi ông vắng mặt hơi lâu. Ðối với bọn tài xế, thì đó là giấc mơ lại được hâm nóng. Cần phải tận mắt chứng kiến xem họ chăm sóc xe của họ như thế nào trong lúc chờ đợi cuộc đọ tài, xem họ chải
chuốt cho chiếc xe tải đồ sộ của mình, thử đi thử lại máy nổ, đánh bóng thùng xe. Họ đánh xe tới những hồ nước, rửa ráy và quét sạch lốp xe cứ như là họ đang rửa chân cho một con tượng vậy. Và sau khi chiếc xe đã được cọ rửa kỹ càng, họ lại trang điểm cho nó bằng những dải ruy băng, bằng những chùm hoa giấy, những hàng chữ thần diệu nhằm đảm bảo cho họ sự thắng cuộc và che chở cho họ khỏi ảnh hưởng của quỷ sứ. ĐỊNH MỆNH PHÓ THÁC ƠN TRÊN, AI BIẾT THÌ HƯỞNG, TA ĐẾCH SỢ CÁI CHẾT.
Nhưng mà cái bọn họ không đếch sợ chút nào, là sự tử vong của chiếc xe tải, là viễn tưởng của chiếc xe bị nổ nằm chết dí trong hố, của chiếc xe bị vỡ tan hoang và bị đốt cháy thành tro bụi. Người tài xế, nếu may mắn sống sót, sẽ ngồi sát bên chiếc xe của mình để canh chừng không cho ai đến chặt sẻ hay rút xương nó. Anh ta sẽ chăm chút cho nó đến tận giây phút cuối cùng, cho đến tận bãi xả xe, ở đó anh ta sẽ còn mãi mãi khóc cho chiếc xe của mình. Ðịnh mệnh không ưu đãi những ai do sai lầm của mình mà đánh mất xe, họ sẽ bị tội đày cả đời phải lẽo đẽo đi sau bóng ma của chiếc xe của mình. Ðôi lúc người ta bắt gặp những con người khốn khổ ấy, nhầm tưởng họ là những kẻ hành hương, hay những người điên; họ thực ra chỉ là những tay tài xế mồ côi xe.
Victor bị xô vập vào kính chắn gió. Xe đã phanh gấp và sau đó dừng hẳn. Cả đoàn xe dừng lại. Đến nơi rồi à? Anh hỏi người tài xế đeo kính kiểu tonton-macoute, một lối đeo kính đặc biệt của cánh lái xe. Người này nhún vai, tỏ vẻ coi thường thằng nhỏ da trắng này vốn chẳng hiểu gì về lề thói phong tục. Chưa, cha thợ máy trả lời anh, đây chỉ mới là cổng vào đồn điền chuối thôi. Khi rơi xuống, lớp bụi đỏ chỉ để cho thấy ngọn cây với những chiếc là dài cuộn lại, dựng đứng tua tủa lên trên bầu trời, những chiếc lá rộng hình cánh quạt, những cụm hoa mọng nước, những buồng chuối xanh, những quả chuối nhỏ xíu xếp thành tầng. Đây à? Victor hỏi. Ừ đây, cha thợ máy trả lời.
Có rộng không? Victor hỏi. Tên tài xế cười gằn. Đầu tiên có DEVIL, tiếp đến là BULL nối liền với ÉLÉPHANTE, có lẽ phải đến hai mươi ngàn héc ta, vẫn là giọng người phụ lái, có thể còn lớn hơn nữa. Thế còn sau đó thì sao, ý tôi muốn nói là xa hơn những cánh đồng chuối? Victor hỏi. Tay tài xế huơ một tay lên với động tác vừa mơ hồ lại vừa khoáng đạt. Trước đây, vẫn tiếng người phụ xe, thì có rừng. Nhưng hình như sự chính xác này
chạm nọc tên lái xe, anh ta vội vàng thêm vào, đó cũng chỉ là nghe kể lại thôi… Chẳng nơi nào tốt hơn DEVIL đâu, người phụ xe hùa kết luận để lấy lòng tên tài xế. Victor tự hỏi không biết mọi người dừng lại ở giữa đường để làm gì.
Khi tiến vào trong đồn điền, ngay lúc bước qua hàng chuối đầu tiên, sự kích động của César đã lên tới cực điểm, ông yêu đồn điền chuối của mình, ông yêu từng thửa trồng, từng buồng cho đến từng quả chuối một. Ông dừng xe và kéo theo cái bà đi cùng ấy chạy vượt qua những hàng chuối để cùng hưởng thụ một cuộc hoan hỷ đồng nội và dân dã giữa chốn thiên nhiên, một sự khai vị cho CUỘC SỐNG THỰC. Và cả lần này nữa, ông cũng không quên thực hành thói quen đã trở thành lễ tục và vui vẻ dâng lễ hiến sinh cho thần Pan ông tổ của chuối. Vào dịp này, ông tin vào sự quen thuộc của nơi chốn, và vào những rung lắc của cuộc đua. Ông đã đẩy Lola vào sau những bụi chuối. Những chiếc xe tải đứng lại đợi họ.
Khi Lola ra khỏi vườn chuối, Victor thoáng nhìn thấy nàng, tuy nàng ở rất xa. Anh cảm thấy điềm lành là nàng tham gia chuyến đi. Đoàn xe lại tiếp tục khởi hành, nhưng đi chậm lại. Họ tiến vào con đường đất latérit, không gian nơi này đơn điệu không đâu sánh được. Tên lái xe biểu hiện sự thất vọng của mình bằng những cú đập lòng tay lên bánh lái được bọc lớp da cừu dày cộm nên có kích thước giống như một chiếc bánh xe ô tô. Lờ hẳn Victor, hắn trò chuyện với cha thợ máy, trao đổi với nhau những câu liến láu và cười không ngớt.
Victor thấm mệt, anh tự hỏi trong thư viết cho bà, anh sẽ miêu tả một thân cây chuối hay một quả chuối như thế nào. Anh mường tượng lại quả chuối đã từng mua trong cửa hàng thực phẩm. Anh khó có thể nói tình tứ được, và cảm thấy rằng, để làm vui lòng bà, anh phải kể một cái gì đó thật lạ thường, thật ngoài tầm tưởng tượng và thật đẹp. Nếu như là một cây gì khác thì anh đã có thể ép vào trong trang thư một chiếc lá, một cánh hoa. Anh lại tự hỏi mình đã bao giờ được bà ngoại kể cho nghe những câu chuyện có dính đến cây chuối chưa. Chẳng có chút hoài niệm nào. Anh chỉ có cảm hứng đối với những gì anh biết, chứ không đối với những gì mà anh khám phá, trừ đối với cô gái… nhưng anh lại chỉ biết cô ta theo một cách nào đó.
Ðêm bất ngờ sụp xuống. Những ánh đèn pha làm sống lại màu xanh bụi bặm của lá cây. Chúng hiện ra cũng gần rõ như ban ngày. Chỉ có ánh sáng toả xuống từ một nền trời vô hình là đã biến mất. Khi thoáng thấy một vài ngôi nhà - những túp lều vách đất chênh vênh bên lề đường phủ đầy bụi bặm bốc lên từ chính con đường ấy, và là dấu hiệu chứng tỏ họ sắp đến một ngôi làng, Victor thấy nhẹ cả người. Những chiếc xe đông lạnh to lớn khi đi ngang đã làm rúng động những túp lều ấy. Vậy chúng ta đã đến nơi rồi à? Victor bật hỏi với sự ương ngạnh bồn chồn của lũ trẻ thường không dám thú nhận sự mệt mỏi của mình. Ta đến nhà để xe, người phụ lái nói với vẻ kiêu hãnh, bởi hắn ta biết rằng, ở đó, hắn sẽ được dịp làm cái phần việc quan trọng nhất trong chức năng của mình, là giữ xe suốt đêm, và nếu như người tài xế mà vui vẻ thì lại là rửa xe, cạo sạch các bánh, gỡ bùn tận những rãnh lốp xe, rửa thùng xe bằng máy phụt nước, có thể là còn mở cả ca-pô và thò cả đầu vào trong đó để hít thở mùi hơi nóng và mùi dầu máy. Hắn ta khiêm tốn dò tìm ánh mắt tên tài xế qua cặp kính đen. Nhưng tên tài xế vẫn còn chưa biết rõ liệu mình sẽ thoả mãn hay bất bình trong cuộc đua xe này. Có những lý lẽ thuận mà cũng có những lý lẽ nghịch. Anh ta không thắng, nhưng chưa hẳn đã là kẻ thua cuộc. Anh ta vẫn giữ vững được vị trí của mình, nhờ một vài tiểu xảo nhà nghề đánh võng sang trái rồi lại sang phải, ngăn không cho ai vượt qua mặt. Nhưng anh ta cũng không khá hơn những tay đua khác, và điều đó thì Ông César thế nào cũng sẽ nói với họ, vậy là có thể anh ta sẽ cảm thấy nhục nhã, sẽ muốn nằm dài gần chiếc xe to rồi vừa ngắm nhìn những vì sao đang mọc, vừa chờ cơn nóng hầm hập của trận đua được giải toả dần đi tựa như cơn sốt trên trán một đứa trẻ bị ốm.
Ðoàn xe đậu thành từng hàng song song trên một khu đất rộng mênh mông, xung quanh là nhà chứa xe và trạm xăng. César đứng lên phát biểu, Victor lờ mờ hiểu rằng đây vẫn chưa phải là lúc mà ông chủ của hãng DEVIL vượt trội trong nghề lái xe, thậm chí ông còn thấy họ nhát gan quá cỡ so với lần trước, rồi ông la mắng chiếc xe về chót. Victor sửng sốt khi thấy đó là một kẻ da trắng, một gã ăn mặc lôi thôi, điệu bộ căng thẳng mệt mỏi, có vẻ chẳng thích thú gì với cuộc đua. Sao thế Guastavin, sao vẫn lẽo đẽo phía sau à? Bộ tưởng lái máy kéo à? Và những tên tài xế, mới chỉ phút trước còn cảm thấy bị tổn thương, thì lúc này lại hoàn toàn thoải mái nhẹ nhõm khi chứng kiến kẻ về chót bị chế nhạo, mà về chót thì cũng phải, bởi vì xuất hành ở vị trí này do nhiệm vụ được giao phó là khoá sổ đoàn xe. Ấy là điều nằm trong sách lược tinh tế của César nhằm thực thi quyền lực: tự
tuyên bố là kẻ thắng cuộc và, để cho sức ép không quá đỗi nặng nề, chỉ định luôn kẻ thua cuộc.
Victor trông thấy cô gái, cô trèo lên chiếc xe jép do César cầm lái. Dưới ánh đèn pha ô tô, anh không thực sự nhận ra nàng, vì cô ta đã vén cao tóc lên. Lần đầu tiên, anh hình dung ra khuôn mặt nàng. Anh xúc động trước sự trong trắng bộc lộ từ cổ nàng và vẻ tươi mát của đôi má. Nếu anh muốn đi với ông Guastavin, người phụ xe nói, thì ở đằng kia kìa, và Victor vội vàng bước về phía gã da trắng đang ủ rũ và lần này ngồi trên một chiếc máy xe kéo thật. Victor leo lên cái thanh đỡ cong cong của một bánh xe khổng lồ và bọn cu ly tụ tập hàng loạt trong thùng moóc xe kéo. Trong số họ, không có một tên đeo kính nào, và cũng chẳng có một tên phụ lái nào. Thế những bác tài không đi cùng à? Victor hỏi. Không, Guastavin trả lời, họ về nhà họ ở trong ngôi làng thật cơ, còn bọn ta, ta không có được cái may mắn ấy, ta phải đến tận LÀNG KIỂU MẪU. Victor hiểu ngay rằng có hai loại nhân công, những người có quyền sống theo tập quán của mình, bọn tài xế được thuê thuộc lớp người ấy, còn lại là những kẻ khốn cùng, bọn bỏ làng, những thứ lưu vong thì sống theo những quy tắc của LÀNG KIỂU MẪU và làm những công việc hạ đẳng. Victor cảm tưởng rằng anh đã vượt qua đường phân thuỷ, đường phân cách thế giới loài người, và rằng chiếc máy kéo đang đưa anh đi một cách chậm chạp nhưng không cưỡng lại được về phía những kẻ bị giáng truất, những kẻ đói nghèo và những kẻ lạc loài.
Họ dừng lại trước cổng ra vào một lán trại, nơi mà nhiều tổ hợp cực mạnh phát điện cho việc ướp lạnh chuối, đang cung cấp suốt đêm suốt ngày một ánh sáng trắng xanh cho những ngọn đèn treo lơ lửng như những tháp canh. Trong bộ complet len đen tuyền, Victor thấy kiệt sức do mệt mỏi và nóng nực, nhưng vượt trên tết cả, anh nhận thấy nhô lên một sự khó chịu ngột ngạt khó tả khiến anh thở gấp. Dưới ánh đèn xanh, hai bên con đường thẳng tắp, là những túp lều đóng kín mít hầu giữ lại bên trong bốn bức tường chút ít bóng tối cần thiết cho giấc ngủ. Bên ngoài là ngày, bên trong là đêm. Người ta nhìn thấy những mảnh giấy bay chập chờn, phân biệt đốm sáng đo đỏ của mắt một con mèo, mà ánh đèn dữ dội nổ lách tách biến thành một thứ hồn ma bóng quế.
Guastavin
Họ trườn theo lối đi chữ chi giữa những chướng ngại chắn quanh một căn nhà tồi tàn tựa như những công sự bảo vệ thành trì này. Victor nghe thấy tiếng dây xích va vào nhau lạo xạo, và nhất là nghe thấy tiếng động phát ra từ cổ họng và ngực Guastavin, những tiếng thở hổn hển, những tiếng rên khò khè và cả những tiếng thở dài. Guastavin tháo chốt những cánh cửa, kéo rút những thanh khoá, đẩy lăn những thùng tô-nô chứa đầy cát sang một bên. Hắn mở ra một lối đi qua bức tường. Bằng một cử chỉ ngắn và như ra lệnh, hắn ra hiệu cho anh đi theo, một cử chỉ mà người ta có thể nói là quen thuộc với những viên sĩ quan điều khiển cuộc tấn công. Cả hai bước vào một cái âu phòng đen ngòm. Không một lời, sau khi Victor đã đi qua Guastavin tỷ mỷ xếp đặt lại thứ công sự phòng chống theo một danh mục kiểm hết sức chu đáo. Khi mọi việc đã xong xuôi, hắn lấy chìa khoá mở một cánh cửa mà trước đấy Victor vẫn chưa kịp nhận ra vì nằm sâu trong hẻm tường. Một ngọn đèn trần rất trắng và sống sượng toả rạng một phòng khách, với hai chiếc ghế bành nhựa đen, một chiếc bàn thấp, những chiếc ghế xếp dọc bờ tường và, cuối phòng, gần tủ lạnh, là một bức tranh trừu tượng lớn, nét vẽ bút chì uốn lượn và táo bạo hung hăng.
Guastavin buông mình xuống ghế bành, thở hổn hển, hai cánh tay buông thõng. Ngồi đi, hắn nói với Victor, cứ thoải mái. Victor cởi áo vét đen lúc này đã nóng xực và ẩm sì, trên người anh, mồ hôi chảy thành dòng dưới lớp áo. Viên đốc công còn cởi bỏ hơn nữa. Toàn thân trần trùng trục chỉ còn mỗi chiếc quần sịp và đôi giày da cứng keo mà hắn đã kịp tháo dây ra. Ngồi đi, hắn nhắc lại, và bỗng kêu lên một tiếng gì đó về phía chiếc ghế bành mà hắn chỉ cho anh. Victor ngạc nhiên đến độ rúng động khi chợt thấy một khối đen tuyền bứt ra khỏi chiếc ghế nhựa. Một hình dạng vừa lùn lại vừa dài, một hình người nhưng lại không hề là người. Từ trước đến giờ, Victor chưa bao giờ nhìn thấy một con tinh tinh.
Bằng một động tác nhanh nhẹn và dang rộng, con vật mau chóng nhặt tất cả quần áo của viên đốc công vương vãi tứ tung, và cùng với sự hăm hở đó, nó muốn lấy cả chiếc áo vét đen của Victor, nhưng anh cố giữ ôm chặt áo vào ngực. Sững sờ, con khỉ đi giật lùi trong dáng vẻ của loài nhện, bằng
một tay nó ôm lấy quần áo, quẳng tất cả vào thùng tô-nô xẻ đôi dùng làm thùng giặt và rửa. Nó sẽ giặt đấy, đốc công giải thích và đây là lần đầu tiên, hắn để lộ ra sự mãn nguyện, sự hài lòng của một gã khi ở chính nhà mình, nên chỉ việc ngồi thọc chân dưới gầm bàn. Ðồ uống đi! Guastavin gào lên. Ðang cúi nửa mình trong thùng giặt, con khỉ làm vẻ điếc. Rõ là nó không thích bị quấy rầy trong lúc bận rộn như vậy, hơn nữa, nước bắn tung toé và bọt xà phòng nổi đầy có vẻ khiến nó khoái chí. Đồ uống đi, Guastavin kêu tướng lên.
Con khỉ miễn cưỡng đi về phía tủ lạnh, mở tủ lấy ra một két bia nhỏ đặt lên bàn và, vẫn với thái độ bực bội moi từ trong hộc tủ tường hộp hạnh nhân rang muối, lê từng bước để mang đến bên bàn, lưỡng lự giây lát như muốn giữ hộp đó lại nhưng trước mệnh lệnh ngắn gọn và dằn giọng của viên đốc công, nó vội vàng vất mạnh lên bàn. Nó kéo vội một chiếc ghế, xê lại gần, trèo lên ngồi gọn trong đó và bắt đầu dùng một tay trên gãi cổ và lưng và một tay dưới gãi một chỗ nào đó phía cạnh sườn. Guastavin chĩa một hộp bia về phía Victor và một hộp cho con khỉ, cả hai tháo mở nắp hộp và đưa lên môi uống.
Mừng anh đến đây! Ðốc công vừa nói vừa nâng hộp bia lên… welcome, như người ta vẫn nói ở đây; từ này phát ra từ miệng hắn nhưng chẳng có gì là vui vẻ cả. Victor cảm thấy mình bị rơi xuống đáy sâu của màn đêm sau hàng loạt cú bổ nhào và cuối cùng đã đẩy anh ngã chúi xuống, từ ngôi làng nhỏ tới Bordeaux, từ Bordeaux tới lòng hầm con tàu LA VOLONTÉ DE DIEU, rồi từ hầm tàu tới sân Cảng Chuối, rồi lại từ Cảng Chuối đến ngôi làng không tên, trong cái lỗ tận cùng tối thui là phòng khách tồi tàn của Guastavin này, có thể nói là cái gì đó gần như sự tuyệt vọng. Xa quá, sâu quá, có lẽ phải cần nhiều cố gắng lắm, phải tốn nhiều thời giờ lắm để leo ngược dốc; ngay bây giờ và tại đây, người ta đã chẳng còn hình dung ra ban ngày nữa. Anh chợt hiểu ra điều mà người ta thường hay nhắc tới trong những buổi lễ ở nhà thờ khi họ nói về sự vĩnh hằng.
Thế nhưng, anh nghe người ta kể với một niềm vững tin chẳng thích hợp chút nào, mà thái độ u uất của viên đốc công càng khiến nó trở nên vớ vẩn hơn, thậm chí còn mờ ảo hơn, người ta nói rằng anh đến dây để buôn bán, để KHAI TRIỂN, giống như ông Beretti nói về hãng LA RESSOURCE DE L’AFFRICAIN. Anh nói để mà nói, để mà nhắc lại
những từ ngữ đã từng trấn an anh và chắc vẫn làm bà anh phấn chấn, anh bám vào chúng như bám vào một sợi dây thừng. Giữa ông ta và cơn ác mộng, chỉ có một độ dày trong suốt của kiểu xưng hô khách sáo, lời thì thầm của từ “quý ngài” mà người ta đã dạy anh phải luôn đặt trước bất kỳ một cái tên nào. Nhưng anh biết rõ rằng chuyện của anh chẳng đứng vững chút nào, và cũng chẳng phải vì con người đang ngồi dối diện với anh kia mà anh lại phải kể chuyện đó ra. Guồng máy thì gã này đã biết rõ, từ khuôn viên ban đầu của cây chuối đầu tiên mà chính tay hắn ta đã đặt gốc, từ những tên cu ly đầu tiên mà hắn ta đã tuyển mộ, từ những viên gạch đầu tiên, nói cách khác là từ buổi đặt nền móng đầu tiên. Bằng chứng hả? Hắn ta chỉ còn lắp bắp những từ cụt ngủn, cụt ngôn từ xã giao, rồi cụt về ngữ nghĩa, một thứ ngôn ngữ của loài khỉ.
Trước kia, vâng trước kia, thật khó chê bởi mọi chuyện chuyện đều trôi chảy. César và hắn ta giống như hai ngón tay trong cùng một bàn tay, nhưng sau đó, chẳng hiểu vì sao, cũng tựa như giữa những cặp song sinh, người này lại phổng phao lên nhờ hút hết phần của người kia. Phải rất lâu sau Guastavin mới hiểu được điều đó, bởi chừng nào mà những thành công của César còn làm hắn khoái chí, thì chừng ấy ông này còn tiếp tục thành đạt trên lưng hắn. Khi hắn nhận ra điều đó thì đã quá muộn. Hắn đã mất đi vị trí của mình, buộc phải tụt lùi chạy xa đằng sau César, là kẻ bị căm thù nhất bởi là kẻ được yêu thương nhất. Chuyện thường tình.
Cũng chẳng biết thế nào, nhưng ngay cả trong đời sống thường nhật, giữa những con người bình thường nhất, lại có những sự trở chiều gần như mang tính chính trị, những sự đảo ngược đồng minh, những gián đoạn đột ngột, những hợp đồng bí mật và, giống như trên những bãi chiến trường vẻ vang nhất, thì vẫn có những thất bại, sự lui quân, tháo chạy, và có những trận thua chạy tán loạn làm anh mất máu hơn cả nghìn người chết. Ai nói là cuộc sống tẻ nhạt, rằng chẳng có gì xảy ra ở đây hết? Dù sao ở đây thì không thế. Người ta đi từ trận này sang trận khác, từ những trận giáp là cà cho tới những trận mang tính chiến lược lớn, vừa là tướng vừa là mồi súng, lúc là chiến thắng, lúc là chiến bại. Điều đó phụ thuộc vào những cái tầm phào, vào một người đàn bà đi ngang qua, vào một cuộc gặp gỡ, vào một thứ tình cảm khó diễn tả, hay nó cũng có thể phụ thuộc vào một cơn bão âm ỉ không nổ ra được, và thậm chí còn phụ thuộc cả vào một lời nói quá đáng. Hơn nữa, cái mà người ta tin tưởng vào đó nhất, thì… xịt, biến đâu mất. Vỡ
mộng, rã rời, tống khứ đi. Hệt như Victor đang thấy hắn trong lúc này, theo như hắn nói, hắn là kẻ sống lưu đày trong sự lưu đày.
Hắn đã cảm nhận rõ ràng rằng mọi chuyện sẽ không suôn sẻ, hắn thấy rõ rệt là César không còn thân thiện với hắn nữa, hay ít ra là không thân thiện như trước đây. Hắn đã có dịp nhắc nhở César điều đó thì César kêu toáng lên: Sao cậu lại có thể nói thế được nhỉ! Hơn nữa, bạn đây, bạn ở kia, César thề bồi với hắn bằng tất cả các thứ tình bạn trên đời. Tình bạn chứ không phải tình anh em… Thôi thì cũng đã là một cái gì đó. Nhưng sau đó, không còn cả tình bằng hữu, và Guastavin lại nài hỏi. Chính hắn là người đã phát biểu nhân danh tình bạn, hắn dùng từ này vốn rất bình dị, rất trung hoà. Và César đã trả lời hắn rằng, tình bạn…, trong cuộc sống không phải chỉ có tình bạn, vả lại đấy không phải là một luận cứ, và không phải vì tình bạn mà trở nên mù quáng… Một hôm, chắc viên đốc công sẽ có thể nói đúng, vào giờ phút nào thì ông ta đã ngừng gọi hắn bằng cái tên thật, mà đặt cho cái biệt hiệu là GUASTAVINO… Và thế là tôi không nỡ uống mừng! Hiện giờ không còn ai nhớ được tên tuổi thật của hắn, ngay bản thân hắn, hắn cũng nói là đã quên rồi… Có thể chỉ còn một mình César, đây là niềm hy vọng duy nhất của hắn, là còn nhớ lại được trong nỗi hối hận về tội lỗi của ông ta. Những điều hắn đang nói ra chính là để Victor hiểu rằng hắn không phải là một người bạn lịch thiệp giống như, hắn lấy ví dụ, một Ngài Gilbert nào đó luôn tự cho mình là nhân vật quan trọng… Hắn lúc này đang mang đầy niềm cay đắng, sự oán hận tràn lan.
Con khỉ biểu thị một sự buồn chán cực độ, cắt ngang bằng những tràng gãi tẻ nhạt. Nó gãi không phải vì đặc biệt thèm gãi, mà gãi hời hợt bằng ngón tay trỏ có móng dài cong. Victor quen dần với khuôn mặt mềm mềm như cao su này, trên khuôn mặt đó những đường nét được tô gọt thẳng gọn, những nếp nhăn khắc sâu bên khoé miệng, rồi hai lỗ mũi. Anh thấy nó không đẹp. Anh quan sát lớp lông đen, dầy rậm rạp ở cổ nó. Và anh không thể rời mắt khỏi những bàn tay của con vật này, mà nó có đến những hai đôi, tất cả cử động cùng lúc, ngọ nguậy không ngớt, một cách bất ngờ khiến anh khó chịu. Một hôm, viên đốc công nói, người ta mang đến cho hắn một đứa bé con, không nhỉnh hơn con mèo, mà lại ngoan và hiền… và chẳng mấy chốc, ngoảnh đi ngoảnh lại nó đã lên tới bốn nhăm ki-lô-gam, trở nên ngu xuẩn, luôn cau có lười biếng, bẩn thỉu chưa từng thấy và lại dâm dục một cách dữ tợn. Nhưng chuyện đã thế rồi, biết làm sao được, hắn kết luận
với nét thư giãn dịu dàng lộ ra trên vẻ mặt, muộn quá rồi, ta đã quá quyến luyến nó. Con khỉ cái cảm nhận rõ sự quyến luyến này đến độ, tự lấy một lon bia nữa uống, và Guastavin cũng chẳng nghĩ đến việc cấm đoán nó.
Nó buồn chán, Guastavin nói. Và ta cũng nên hiểu nó một tý, giam ở đây, không ra ngoài, chỉ dọn dẹp một tý, làm bếp một tý, nó không có nhiều trò giải trí. Tôi không thể dẫn nó theo đến nông trường, bọn họ muốn bắt nó, họ nói rằng tôi không có quyền giữ con vật này, vì họ cho rằng đó là một loại người đã bị bỏ bùa hay bị ma ám. Bọn họ chỉ nghĩ đến việc đuổi nó đi, và về phía nó, nó cũng chỉ nghĩ đến mỗi điều ấy. Ba tháng trước đây, thiếu chút nữa thì họ đã làm được việc ấy, nhưng cánh tài xế lại đem nó về cho tôi. Lúc ấy nó cứ luồn lách trong các túp lều, có thể nó đã gặp một đàn tinh tinh khác, nhưng chắc không theo kịp chúng được, những cánh tay nó không còn đủ sức nữa. Bây giờ, tối đến, mỗi khi về tới nhà, là tôi lại sợ không còn gặp nó nữa. Nó rất tinh khôn, đã từ lâu nó luôn nhìn xem tôi đóng cửa như thế nào và nó đã học được cách. Lần nó bỏ đi, tôi ngỡ mình phát điên. Thế rồi cũng tìm lại được nó, trong tình trạng như thế này. Nó đang mang bầu, viên đốc công nói và, do Victor vẫn tỏ vẻ lạnh lùng, NÓ ĐÃ LỢI ĐƯỢC ĐỨA CON. Con khỉ cái hiểu chuyện, nó phát ra một tiếng kêu nhỏ, như một tiếng cười rúc rích, đôi môi chành ra, toàn bộ hàm răng phô hết ra ngoài để biểu thị sự hài lòng mãnh liệt nhất của loài thú ăn thịt. Đến lúc đó, Victor mới nhận ra là bụng con khỉ hum hum nhọn, cặp vú căng tròn. Chưa một lần anh nhìn rõ đàn bà chửa, hình ảnh người sắp làm mẹ lại bất ngờ đến với anh trong cái bụng ánh xà cừ dưới lớp lông đen dài. Anh chợt nhận ra là con khỉ đang trần truồng. Anh thấy cực kỳ bối rối, không phải vì anh đang nghĩ rằng Guastavin và con khỉ lại có thể… Nhưng vì sự có bầu của nó khiến nó đột nhiên mang giới tính một cách kỳ lạ. Giữa hai hàng mi khép hờ, con khỉ đưa ánh mắt mơ màng về phía Victor. Bằng đầu một bàn tay dưới, nó chạm nhẹ vào anh, gần như một cách máy móc. Nó thích anh rồi đấy, Guastavin nhận xét. Thôi tôi phải đi, Victor vừa nói vừa kịp đứng lên. Muộn rồi, Guastavin nói, phải đợi đến mai. Ở đây, buổi tối chẳng ai ra đường cả. Sao vậy? Victor hỏi, bởi anh thấy ngôi làng có vẻ thanh bình. Anh có tin vào điều ác không? Ðốc công vừa hỏi vừa rướn cả khuôn mặt về phía trước. Victor bảo là tin vào sự bất công, vào sự buồn chán, anh tin vào sự hiểm độc của con người, vâng, chắc chắn thế. Không, không phải chuyện đó, đốc công nói, chuyện khác cơ, tôi không tìm ra chữ để nói, anh biết rõ mà, cái ác ấy! Thực ra thì ở đây có những uy lực rùng
rợn, và hắn tách rời từng âm một, những uy lực đen tối hãi hùng. Nhưng hắn biết rằng Victor, giả sử có tin hắn, thì cũng chẳng tin gì hơn như tin vào công việc bán buôn của mình. Thế anh nghĩ vì sao mà tôi lại sống trong tình trạng như thế này? Sợ kẻ trộm à? Có đếch gì mà trộm? Sợ bọn ám sát à? Vậy để tôi nói cho anh nghe, tôi thích thà chết đi còn hơn là phải chịu đựng những nỗi thống khổ hiện tại. Và nếu như không có nó, hắn chỉ về hướng con khỉ… Hắn bỏ lửng để Victor tự hiểu rằng hắn muốn kết liễu đời mình. Hắn đưa cả ngón tay vào miệng để bắt chước nòng khẩu súng lục, làm động tác bóp cò, người nẩy lên, cái giật nẩy cuối cùng. Con khỉ phá lên cười sằng sặc.
Muộn quá rồi, cái ác đang rình rập và, thực thế, vào lúc này khi mà hắn đã nói điều ấy ra, Victor nghe rõ từng tiếng loạt xoạt trên tường đang lướt nhẹ khắp xung quanh nhà. Chúng đang tìm cửa vào đấy, viên đốc công nói. Con khỉ đã kịp trèo hẳn lên đầu gối chủ nó. Nhưng bọn chúng là ai vậy? Victor hỏi. Tất cả, đốc công trả lời, cả lũ chúng nó, tất tần tật. Những con vật, đồ vật, tất cả những gì không chấp nhận, tất cả những gì muốn nổi loạn. Ðầu hắn còn nhổm hẳn về phía trước như để thổ lộ một điều bí mật. Bọn chúng có một tôn giáo, như là một giáo phái, bọn chúng tin vào sự quay trở lại thiên đường, điều khác chăng là đối với bọn chúng đấy là việc quay trở lại quê hương xứ sở, hoặc một cái gì đó đại loại như thế. Hắn kết tội toàn bộ dân chúng, hắn huơ tay làm một động tác muốn nói rằng mọi sự có thể XOAY BIẾN trong phút chốc. Ở đây đâu được an toàn bằng chỗ César đằng kia, nơi hắn ta thì yên ổn, giữa khu đất quang đãng. Và rồi, đã nói đến nước này, thì hắn chẳng ngại cáo giác ngay cả lũ trẻ con.
Trẻ con, ý tưởng này dường như quá đỗi phi lý đối với Victor, anh luôn tin chắc là nếu còn tồn tại người mà ta không thể kết tội được cho dù về bất cứ điều gì, thì đó chính là lũ trẻ, bởi chúng là hiện thân của sự ngây thơ vô tội trên đời. Nhưng bọn này thì không, Guastavin nói… chúng nó thì không. Theo hắn, nỗi hận thù của bọn trẻ dành cho hắn đã lên tới cực điểm. Đã từ nhiều năm nay, bọn chúng thường giăng bẫy hắn. Trước cửa nhà, hắn đã từng tìm thấy những mũi tên con đã được tôi cứng trên lửa, bọn chúng còn mắc cả một hệ thống dây thòng lọng ngáng cổ hắn. Qua một khe hở nơi cánh cửa, bọn chúng đã cố thả vào nhà hắn một con rắn chuối nổi tiếng cực độc, vết cắn của nó gây chết người như bỡn. Guastavin đã thoát khỏi tất cả các loại bẫy giết người đó, hắn ta lại càng trưởng thành lên và mạnh mẽ
thêm, đến độ trở thành một kẻ không thể phá huỷ nổi. Và chính điều đó, cái điều làm cho bọn chúng thất vọng, lại càng đẩy chúng tới cùng. Bọn chúng không còn dư dả thời gian. Nơi đây, tuổi thơ không kéo dài là bao. Trong khi kẻ khác tưởng mình là vĩnh cửu hay bất tử, những đứa trẻ này biết rõ rằng chúng sẽ chẳng còn tồn tại được bao lâu nữa. Chẳng bao lâu, những ụ kiến sẽ mọc đầy đầu, sẽ ru ngủ cuộc đời, thú vui và hạnh phúc của chúng. Ở miền đất này, thực tình mà nói, chính sự ngắn ngủi của tuổi thơ đó đã cứu sống hắn. Trước cái nhìn ác liệt của một thằng lỏi, hắn tự trấn an mình bằng cách nghĩ rằng cái đó sẽ đi qua nhanh thôi và nhanh hơn nó tưởng. Chỉ cần một hoặc hai năm sau, hắn sẽ chiếm lại thằng cu đó, lúc đó nó sẽ u mê và chịu hàng phục hắn. Sẽ chẳng còn gì phải lo lắng ngoài những cú toukouk, tức những cơn điên loạn gây tang thương, khi một thời thơ ấu không dập tắt trọn vẹn bỗng trỗi dậy rực cháy.
Hắn ta điên rồi, Victor tự nhủ trước hằng loạt những lời buộc tội thiếu minh bạch của hắn, anh cảm thấy mình nhẹ nhõm hẳn khi nghĩ rằng sự điên khùng của cả thế giới loài người chỉ tụ họp lại trong đầu một kẻ duy nhất. Hắn ta điên, Victor nhủ thầm để tự trấn an mình, giống như người ta vẫn thường nói: đó chỉ là một giấc mơ, ngày mai trời sáng ta sẽ lại thức đậy. Ðầu gối lên lưng trần của Guastavin, một tay quàng qua vai chủ, con khỉ cái đã thiu thiu ngủ. Victor thấy ghê tởm trước cảnh cọ chạm giữa làn da trần và trắng nhạt của một con người với lớp lông đen sậm của con vật. Anh thấy có sự sỗ sàng quá mức trong vòng tay ôm ghì của bọn họ. Con khỉ cái quay đầu lại, cằm gập cong lại, và vào lúc Victor quan sát nó, cặp mắt nó bỗng mở to, vàng óng, nhìn chằm chằm, hoàn toàn tỉnh táo. Anh chợt hiểu rằng nó đang nhìn thấy anh, rằng ngay bản thân nó cũng đang có một ý tưởng về anh, rằng có thể nó cũng đang dựng ra một kế hoạch nào đó. Tựa như những con vật thường lảng tránh ánh mắt của con người, để thoát khỏi ánh mắt con khỉ cái, Victor đành nhìn chăm chăm lên tường, cố gắng tìm một ý nghĩa cho những đường vòng vèo của bức tranh trước mặt.
Anh có thích dự báo thời tiết không? Guastavin bỗng hỏi. THÍCH ấy à! Về dự báo thời tiết, Victor biết đến những dấu hiệu thuộc nhà nông và thông thường, như mèo, chân đưa lên gãi tai, như sự bồn chồn của ngựa khi sắp có bão lớn, và như sự ngủ vùi của loài chó cạnh lò sưởi khi tuyết rơi. Nhưng còn ở đây… Tôi nghe dự báo thời tiết biển, viên đốc công giải thích, và hắn ta mơ màng nhắc đến: Dogger Bank, Fisher Bank… Dự báo thời tiết, đó là
cuộc chiến đấy, hắn nói, tôi ghi tên những cơn bão, tôi dự báo những trận đấu trên bầu trời, và thỉnh thoảng tôi cũng đánh mất vài xoáy ấm. Anh nên quan tâm đến những thứ này. Bởi vì ở đây, hắn nói thêm, cái mà ta thiếu nhiều nhất là thời tiết… weather, hắn thêm vào để cho người đối diện hiểu được. Cả hai người đã ngả lưng trên ghế phô-tơi, mắt nhắm lại, ánh sáng xuyên qua mí mắt đốt nóng rực. Trong giấc mơ chập chờn, Victor cảm nhận rằng giấc ngủ đang chiếm lấy anh, và anh cố lắc mình cho tỉnh ngủ, thế là anh cứ để tràn ngập những từ như: Tại đây có mùa hè, mùa đông không nhỉ? Anh đã nghe nói về một mùa khô, một mùa mưa… Hồi xưa, vâng, Guastavin đã từng nếm mùi những vòi rồng khủng khiếp, những cơn mưa triền miên làm bại hoại mặt đất, biến nó thành từng dòng bùn cuốn chảy, những lúc cả bầu trời như sập xuống đen kịt giữa ban ngày ban mặt, hoặc mặt trời nóng rát hút cạn tới những giọt nước cuối cùng, trong kỷ niệm cuối cùng của con người cuối cùng còn sót lại… nhưng hiện tại, công việc trồng trọt trên những diện tích lớn như vậy đã đảo lộn tất cả. Những đám mây đã trốn biệt khỏi bầu trời, những cỗ máy tưới khổng lồ đã thay thế các cơn mưa. Ngày nào cũng vậy, tôi nói rõ, ngày nào mà Đấng tối cao làm ra cũng vậy, anh phải nghe tiếng những cỗ máy tưới, và anh sẽ quên đi cả tên của mỗi mùa. Hắn bỗng khóc nấc lên.
Nông trường chuối
Gà gáy. Một tiếng kêu lan rộng, trải dài làm bừng lên một cái mào đỏ rực, một cái đuôi hung hung và hai cái chân vàng choé, như đã có một cái gì bồn chồn, bực bội vừa khiến ánh sáng ban ngày loé lên vừa gây chiến với nó. Nhưng tiếng kêu ấy không có câu trả lời vang vọng, nó không vang từ chỗ này sang chỗ kia để làm sống dậy các cánh đồng, núi đồi, thế giới và bầu trời. Chính sự im lặng đó đã đánh thức Victor dậy.
Con khỉ cái chạy lăng xăng, làm các vật dụng va chạm nhau, đẩy những cái bát lăn lông lốc. Nó sắp dao dĩa lên bàn như bày cho một thứ bữa ăn sáng. Nhưng điều nó mong muốn nhất là nhóm lửa. Nó nhảy bổ lên bao diêm, nhưng Guastavin đã kịp giật lại từ tay nó. Nó rít lên và chuệnh choạng bỏ đi, bò lồm ngồm ngang một bên, kiểu con nhện, đáng điệu vụng về và trái tréo theo đúng nghĩa đen của từ này. Và khi trông thấy con khỉ cái đó biến thành con côn trùng khổng lồ, trong lúc chỉ một vài phút trước đó anh còn nhìn thấy nó đứng thẳng bằng hai chân, chăm lo dọn dẹp, thì sự thay đổi ấy làm Victor kinh hãi, bởi nó nhắc nhở rằng đường phân cách rất thu hẹp giữa một bên là loài cầm thú tăm tối nhất, tức loài côn trùng, và bên kia là cái mà ta gọi là loài người.
Nước vừa nóng, Guastavin chọc thủng hai lỗ trong hộp sữa Gloria. Con khỉ cái cố đòi tự mình được dốc Nescafé vào trong những chiếc bát. Nó cho nhiều quá. Nhưng Victor không nói gì để phải nhìn thấy nó lặp lại thái độ co ro, đen đúa và thú tính mà sự thất vọng do làm hỏng việc gây ra nơi nó. Phải đi thôi, Guastavin nói. Hắn đứng dậy, mở một ngăn kéo và dắt khẩu súng lục vào thắt lưng. Con khỉ cái rên xiết. Nó thích được đón chủ Guastavin của nó đi làm về, thích được giặt các quần áo rách rưới cho hắn, mang đồ cho hắn uống với điều kiện là hắn chỉ có một mình, nhưng nó lại căm ghét việc nhìn hắn đi ra khỏi nhà. Buổi tối, những cử chỉ mà nó đành cho hắn níu kéo hắn lại; buổi sáng, những cử chỉ đó lại làm hắn muốn xa rời. Con khỉ thích phục vụ cà phê; nhưng nó lại căm thù tách cà phê đã xua đuổi chủ nó ra khỏi nhà. Ngay câu đầu tiên hắn mở miệng, nó đã khóc. Cùng với một cái miệng của mình, hắn chào nó, rồi lại nói lời giã biệt nó. Với cùng một bàn tay, hắn âu yếm vuốt ve nó, rồi hắn lại đánh nó. Nó yêu
mến khuôn miệng và bàn tay của hắn. Khi sinh con xong, chắc nó sẽ bận bịu. Con khỉ cái ngắm nhìn miệng chủ, rồi nó vẫn khóc rấm rứt. Phải đi thôi, hắn nói, go! Và câu nói phát ra từ miệng hắn cũng rên xiết như tiếng rên xiết của con vật.
Những đầu máy kéo và những chiếc xe tải của tập đoàn DEVIL’S BANANA lên đường vào quãng bốn giờ sáng. Phải tính thêm hai giờ đồng hồ nữa trước khi những người công nhân kịp đến điểm tập trung, ở đấy họ phân chia thành từng nhóm thu hoạch khác nhau. Chỉ vừa mới xuống khỏi xe, bọn thợ đã ai nấy đi thành hàng một dưới những thân chuối, tới tận những khu xa nhất là nơi họ bắt đầu ra tay. Kíp trưởng, mà ta có thể dễ dàng nhận ra với cặp kính đen, tới ước lượng các buồng chuối và ra lệnh chặt. Người chặt giơ đao lên, tên cu li chìa người đỡ buồng chuối rơi xuống, xốc ngay ngắn lên vai và chuệnh choạng vọt đi, từng bước lật khật vội vàng, về hướng xe tải. Trên đường đi, hắn sượt qua những tên cu li khác đang chạy ngược từ phía xe về khu chặt. Ðó là một dây chuyền rất sát sao mà không một ai được phép cắt đứt. Một người bị thương, một kẻ bị ngã là toàn bộ dòng người sẽ bị tản mạn, đi lang thang giữa những thân chuối, bỗng nhiên hoảng loạn, vài lời nói lẹt đẹt vang lên, bối rối, rã đám, và nguy hơn tất cả: bị mất phương hướng.
Không gì có giá trị bằng những dòng người thon mảnh xuyên thẳng qua đồng chuối với một nhịp độ vững vàng. Ðội ngũ trách nhiệm chăm lo để được thế, luôn miệng la mắng, giục nhanh hơn nữa, luôn miệng bảo quick trong một thứ tiếng Anh bồi, ngắn gọn hơn, búa bổ hơn, như một tiếng kêu của loài vẹt. Kik, kik, bọn cu li cũng dằn từng tiếng để tự cổ vũ mình chạy nhanh hơn nữa trong khu rừng chuối. Kik, những tên vừa đổ chuối vào xe, chạy tay không trở về khu chặt, nói với họ, kik. Một cuộc chạy đua với thời gian, chạy đua chống sự mềm nhũn, vàng úa và sự thối rữa của chuối. Kik, nếu như không muốn chuối bị nghiền nát khi tới nơi. Kik, kik, kik, cả đồn điền chuối vang lên mỗi tiếng gõ mõ đó giống như tiếng kêu đồng thanh của một đàn vẹt đông đúc.
Guastavin chờ ở điểm tập hợp chuối. Toàn bộ sự cố gắng, tất cả số lượng chuối đều quy tụ về phía hắn. Công việc của hắn là thị sát các hàng người tới lui tỏa vào vườn chuối, để đến từng người, nhòm ngó xem có ai sắp bị kiệt sức không, sửa thẳng cách vác chuối cho buồng chuối khỏi tuột
xuống đất. Lo ngại sự mệt mỏi sẽ tác hại đến nhịp độ sản xuất, không để cho bọn cu li kịp thở sau cố gắng cuối cùng khiêng hất buồng chuối, giám sát việc chồng chất các buồng chuối lên xe, thúc kẻ này rời nhanh, tiếp kẻ khác mau đến, tránh sự ùn tắc làm nản lòng kẻ đang làm việc. Bởi vì, nếu như bọn người này rất chịu khó, và trên thực tế đúng là họ như thế, Guastavin cũng đã công nhận điều ấy, thì họ lại từ chối vác buồng chuối quá thêm một phút cần thiết, hay đúng hơn là họ từ chối việc vác chuối đứng im một chỗ. Việc của họ là chạy ngay khi họ cảm thấy một sức nặng trên lưng và dừng lại khi không còn cảm thấy nó nữa. Chấm hết, họ không muốn biết thêm gì nữa sất. Chẳng mấy chốc, nếu có ai nêu vấn đề gì khác thì sẽ gặp ngay những yêu sách và những tiếng kêu ca eo sèo. Để hiểu vì đâu có khẩu revolver.
Guastavin chăm lo cho công việc trôi chảy không mắc mứu. Hắn quy hoạch các dự trình cắt chuối, tự mình đi thị sát thực tế để giới hạn khu vực chuối cần thu hoạch, đánh dấu các điểm mốc bằng con dao phạt, chỉ cần một nhát chém, hắn làm cả thân chuối đổ xoài trên mặt đất. Hắn cảm thấy hài lòng khi đã vạch ra từng ranh giới như vậy cho các tổ chặt. Mười hoặc hai mươi tổ, theo tỉ lệ mỗi tổ ba ki lô mét, vị chi cả thảy là ít nhất ba chục cây số trong tầm chân, thêm vào đấy hắn chẳng biết rõ có bao nhiêu thân chuối trong tầm tay, nhưng đó là yếu tố tiên quyết để mọi việc chạy tốt. Hắn đã có sáng kiến là để cho thợ bắt đầu công việc từ nơi xa nhất, bởi vì, cùng lúc với sự mệt mỏi gia tăng, những tên thợ ngày càng tiến gần về nơi đổ hàng, và buồng chuối cuối cùng, buồng ở sát bên xe tải, sẽ rời khỏi thân cây vào hơi thở cuối cùng, chỉ cần lảo đảo một cái là đẩy thẳng nó lên thùng xe. Và bọn thợ buộc phải làm nốt để còn về nhà.
Ngày trước, để làm hài lòng César, hắn đã tổ chức những cuộc thi đua hái quả, với giải thưởng là những hộp sữa và huy chương cho ai xuất sắc nhất, một dải ruy băng vàng và xanh, một thứ cấp bậc huân chương chuối thực ra chưa bao giờ chinh phục được ai. Hắn đã lục tìm một ca khúc hùng tráng để cho hát nhịp theo sự cố gắng, một bài ca mà ngồi từ chiếc xe chỉ huy của mình, hắn vẫn có thể nghe được, một điệu nhạc hai nhịp làm nền cho cuộc diễu hành vác chuối. Nhưng giữa các tổ lại thiếu sự đồng bộ, giống như trong một điệu canon tồi, khi một gã hát sai hoặc hát nhầm sang đoạn của người bên cạnh. Chỉ tổ làm cho nản chí thêm. Thà im lặng lại tốt hơn, chỉ có như thường lệ những tiếng rên xiết và những tiếng thở mạnh
dồn dập, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng kêu của một tay thợ chặt bị đứt tay hay của một đứa cu li nào đó bị sai khớp. Guastavin là một người có niềm tin, có kỷ cương. Chừng nào mà niềm tin và kỷ cương còn rực lên trong đầu hắn thì chừng ấy hắn còn tin là mình làm việc chưa đến nơi đến chốn. Hắn có những cuộc khủng hoảng thật sự vì tuyệt vọng bởi mỗi ngày chỉ có hai mươi bốn giờ, bởi bọn cu li mỗi đứa chỉ có hai chân hai tay. Khi một kẻ nào đó bị thương, lúc đầu hắn gào toáng lên là đồ phá hoại, sau đó hắn chạy chữa nhanh chóng.
Không ai nổi dậy chống lại thứ quả cây ngu muội này, chống lại thứ phong phú bừa bãi vô độ này, thứ thiên nhiên liên tục ứ đọng phải không ngừng khai thông, thứ cấu tạo vô tận, thứ sinh sản nhọc nhằn và ẩm ướt, chống lại thứ cây bị các thời đại bỏ quên, cây chẳng ra cây, không gỗ không cành, và chống lại cái thứ hãi hùng bao phủ lên hàng ngàn hec-ta bằng hàng triệu thân gốc. Nỗi đớn đau, mệt mỏi, những đêm mất ngủ, những chuyến thị sát địa hình chẳng gây được sự ghét bỏ hay sự ghê tởm đối với chuối, mà chúng lại dẫn thẳng đến sự thù hận giữa người với người. Guastavin tố giác bọn cu li, còn bọn cu li lại gán cho Guastavin đủ thứ tội vạ. Chỉ trong thời gian ngắn, tất cả những người lao động ở nông trường chuối, từ kẻ mạt hạng tới người có máu mặt nhất, đều coi đốc công là kẻ thù duy nhất, tên thù đã áp đặt nhịp độ làm việc hết sức dữ dội, đã đo diện tích đốn chặt cây, đã ấn định giờ giấc làm việc, đã phân phát tiền lương và nhất là đã định đoạt những khoản tiền phạt ghê gớm, những mức trừ lương. Là kẻ, chỉ do một tiếng “có” hay “không” đã có thể rút ngay khẩu revolver ra. Lòng thù hận có thể thế chỗ cho rất thiều thứ khác, về mặt động lực cố gắng, nó còn mang lợi nhiều hơn bản ca hùng tráng, còn có hiệu lực nhiều hơn một cái dải ruy băng vàng và xanh, còn tự bằng lòng với cái KIK, KIK, và còn lấy đó làm nguồn cảm hứng. Chính nỗi oán thù này đã đẩy họ hành động. Sở dĩ bọn chặt chuối còn chịu đựng được là nhờ hình dung rằng họ đang chặt chính cổ của viên đốc công, còn bọn cu li khuân vác thì nghĩ rằng chúng đang vác hàng ngàn tử thi của viên đốc công. Ðiều bất ngờ đáng buồn đối với họ là, sau cả ngàn lần ám sát hắn, họ vẫn gặp lại hắn như một bóng ma lẩn quất giữa đám xe.
May cho Guastavin là kỹ thuật nông học đã làm được việc. Một chiếc phi cơ phun thuốc trừ sâu một tuần ba lần xuống đồng chuối. Nơi bọn cu li, tác dụng của thuốc trừ sâu mà họ hít thở suốt ngày làm sự mỏi mệt của họ
tăng lên gấp mười. Một số, là những người già cả hay yếu đuối nhất, thì buổi tối họ lâm vào một trạng thái ngất ngây như đã lặn sâu dưới nước. Những cử chỉ của họ không còn ăn khớp nhau nữa, cả quyết tâm trừ khử viên đốc công cũng bớt xuống. Khi đêm về, trên những chiếc xe tải quay về làng, người ta có thể nghe thấy tiếng cười kỳ cục ngược đời của bọn cu li say thuốc trừ sâu.
Nhưng chính trong làng, ở những sinh hoạt an nhàn thường nhật, thì sự căm thù đốc công mới đạt tới đỉnh điểm của nó. Nó lan rộng trong giới phụ nữ. Các bà đi làm ở xưởng sấy chuối. Các nữ công nhân cấp I thì bóc chuối; cấp II, mà muốn lên được cấp này phải có thâm niên 5 năm trong ngành bóc chuối, thì thái chuối thành những miếng mỏng. Họ sử dụng những lưỡi dao nhỏ và sắc mà tối tối khi ra về, các bà phải để lại trên giá dao. Các lát chuối tròn được chuyển vào những nồi hấp lớn, từ đấy bốc ra một làn hơi dày đặc, làn hơi đó lập tức quay lại ngang qua tất cả các lỗ trổ, như thể bị các quả chuối tươi hít lại.
Lòng căm thù viên đốc công được truyền sang nhiều nhất trong đám trẻ, vì bọn này, trong mỗi lời quở mắng của người lớn, đều nhìn thấy sự đe doạ của Guastavin, cơn giận dữ của Guastavin, hình ảnh hắn ta hai má nhợt nhạt, cổ phồng lên. Khẩu súng ngắn của Guastavin, păng-păng, để mặc nạn nhân nằm hai tay bắt chéo trên sàn nhà. Đấy là những đứa trẻ đáng yêu, nhanh nhẹn, nhưng đến tuổi dậy thì, thì chúng lại có hai cục lớn mọc trên trán, hàm răng bị đẩy về phía trước, sức lớn ngừng lại, và lông mọc đầy khắp tứ chi lẻo khẻo và oằn oại của chúng. Chúng bỏ học, lũ con gái thì vào xưởng sấy, còn lũ con trai, cũng với nhiệt tình như nhau, thì sẽ lao động ở nông trường chuối. Ngay khi qua khỏi tuổi vị thành niên, chúng không còn tuổi tác gì nữa. Già cả, sồn sồn hay còn thời trai tráng, chúng hợp thành một khối xám xì và buồn tẻ xung quanh đám con cái chúng.
Một ông giáo được nhóm DEVIL’S BANANA tuyển mộ và trả lương dạy chúng theo một chương trình ngông ngáo, dùng để trông trẻ hơn là dạy dỗ trẻ. Clément thuộc về tầng lớp mà ở đây người ta gọi là những ông thầy chuối, những gã tự đào tạo, và theo như thầy đã đọc được trong từ điển còn gọi là những người-tự-học. Cho dù thầy làm gì đi nữa, thì vẫn cứ thất vọng trước tương lai của các đứa trẻ. Thầy dạy học, dạy viết cho những người thậm chí còn không biết nói. Việc dạy học đung đưa giữa một bên này là
một hiện tại không cần thiết và bên kia là một tương lai vắng bóng. Bài tập ngữ pháp là đổi thì hiện tại thành tương lai. Khi những học sinh đã biết sử dụng thuần thục thì tương lai, thì việc còn lại của chúng là làm sao quay về với thì hiện tại.
Vào giờ ra chơi, trong ngôi làng hoang vắng, chúng chia thành những băng nhóm, chúng chế ra những khẩu súng nhỏ xíu bằng gỗ, bằng dây thép, chúng chơi trò bắn súng păng-păng mày chết rồi nhé, hay trò hun chuột. Chúng rình rập xung quanh nhà Guastavin. Chúng bò lết, vây quanh nhà. Và, khi nghe thấy tiếng xe tải đưa những người đàn ông từ nông trường chuối trở về và tiếng còi hú báo hiệu giờ nghỉ của những người đàn bà, bọn chúng tranh nhau bỏ trốn tựa như đàn chim sáo đá phân tán. Các bậc cha mẹ lại gặp chúng ngay trước thềm nhà, đang ôn bài, đang đọc thuộc lòng thì tương lai.
Những người đàn ông trở về. Họ say xỉn gặp khó khăn để đi thẳng, hai cánh tay dang rộng xoay tròn, họ vấp ngã và gục xuống đất, vừa cười khoái trá vừa huơ tay chân loạn xạ. Quả là một cảnh tượng ghê gớm và nhục nhã. Sự say xỉn của bọn họ thật không tốt, bởi không phải say vì rượu vang, không phải vì rượu mạnh, và lại càng không phải do ma túy, mà là do thuốc trừ sâu. Sự say xỉn đến từ công việc, từ sự cố gắng, từ sự mệt mỏi. Không phải họ từ nhà hàng, tiệm rượu bước ra, mà họ từ cánh đồng chuối trở về, và những hành động vô kiểm soát của họ là các cơn giãy giụa của những côn trùng đang chết.
Nếu họ chỉ ho, khạc nhổ, thì sẽ là những kẻ đáng thương, nhưng đây thì không, với đầu óc trống rỗng, cặp mắt máu đỏ ngầu như bị bệnh sán óc, họ trở nên thô kệch và đáng ghê tởm. Nếu không có sự cố gắng của Clément, đã từng thuyết phục chúng tin tưởng vào phẩm cách của lao động thì những đứa trẻ đã chế giễu cha chúng. Và thái độ của những người đàn bà còn nói lên nhiều đến hậu quả mà các ông chồng gây ra nơi họ. Nín thinh, với vẻ nghiêm khắc mà ta dành cho những kẻ sắp bị ta mắng mỏ, các bà múc đầy những bình nước lớn dội lên đầu các ông chồng cho họ tỉnh lại. Thế là, khi họ cảm nhận những cơn đau đầu vật vã hành hạ, thì họ quay lại làm người.
Ðêm xuống, ngôi làng chìm trong tĩnh lặng cùng với nỗi đớn đau và niềm thù hận đang ngày càng tích tụ lại. Những người đàn bà vòng tay ôm
chồng để giữ ông ta lại, vòng tay ôm con để ngăn chúng làm điều bất hạnh. Guastavin cảm nhận được tất cả mọi điều đó đang xảy ra sau lưng mình; nỗi sợ hãi qua năm tháng đã đạt tới mức chóng mặt. Thế là hắn dựng lên những chướng ngại trên các con đường và chăng đầy những hàng rào thép gai. Nhưng quả là một trận đấu vô ích. Hắn biết là hắn đang bảo vệ mạng sống của mình, nhưng tâm hồn hắn từng bị ám sát không biết bao lần thì đã tiêu tan đi từ lâu. Tiêu tan, hắn nói, và khi đã tìm được tên cho cái gì không thể đặt tên, hắn thấy tâm hồn nhẹ nhõm đi được phần nào.
Cửa hàng La Ressource De L’Africain
Những ngôi nhà nhỏ trong làng nằm rải rác dọc theo hai phố thẳng góc với nhau: một hộp vuông bê tông, một mảnh đất đá đỏ, vài bức tường, dăm miếng tôn, một cửa ra vào, một cửa sổ. Ta thấy rõ ông kiến trúc sư đã sử dụng giấy kẻ ô trong cuốn tập học trò. Ông ta đã dùng những dòng nét to để làm đường phố chính và chỉ cần tô đậm các ô vuông để ngăn thành những ngôi nhà. Áp dụng độ chính xác của đồ án vào hiện thực chẳng khó khăn gì, các chú thợ sao chép lại trên mặt đất những gì họ nhìn thấy trên trang giấy được xé ra từ cuốn vở, và vì họ chỉ có những nguyên vật liệu chế tạo sẵn, đều vuông vắn, hình chữ nhật hay hình khối vuông, nên họ không vướng víu gì khi ghép hình lại cho đúng. Các nhân viên của DEVIL’S BANANA thì rất đỗi kinh ngạc, khi thấy việc dựng nhà chỉ kéo dài chưa đến một tuần. Sau đó người ta đánh số các ngôi nhà.
Ngôi làng thì chưa bao giờ được đặt tên. Do xuống cấp quá nhanh, nên nó chỉ giữ mỗi cái trên giấy tờ thiết kế, nhưng NGÔI LÀNG KIỂU MẪU, mà César đã nghĩ ra dưới sự thúc đẩy và điều khiển của bà Ysée ở SUNSET, đã không còn gợi lại hơi hướng của bản vẽ ngay ngắn và tuyệt hảo mà César đã phác họa ra. Những cư dân được may mắn trú ngụ ở đó thì tô điểm lại cho hợp thị hiếu của họ với những chiếc lốp cũ nát, những chiếc xô thủng, và, theo kiểu nhà của chính Guastavin, nghĩa là có rào rất nhiều dây thép gai xung quanh khu nhà vui đẹp của họ. Cửa hàng LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN trong thời kỳ đó đã thực hiện được những phi vụ tuyệt vời trong việc bán dây thép; kiếm được đồng nào là họ lại rót cả vào cửa hàng. Họ rũ tung những bó dây thép ấy lên, quấn vòng vòng, uốn quăn chúng vào, kết tròn chúng xoắn chúng vào nhau, giăng thành băng dài, thật là một sự điên loạn. Khi một con vật bị chết kẹt trong hàng rào gai đó thì người ta không thể nhặt nó đi được. Loài mèo, vốn nổi tiếng là khôn khéo nhanh nhẹn, vậy mà lại là những nạn nhân chủ yếu. Dưới chuối, cả ngôi làng bốc lên mùi xác chết, với phía sau là mùi thum thủm từ các gia nội.
Ysée, người chuyên môn về tổ chức sắp xếp, cũng mất tinh thần khi thấy họ quẳng ra từ ô cửa sổ duy nhất cơ man là rác rưởi. Nếu hiểu khoảng
trống là khoảng trống, thì cửa sổ đối với họ chẳng qua chỉ là một lỗ trống. Họ dùng nó như một cái ống đổ rác. Quẳng ra ngoài rồi quên đi, như thể, phía bên kia, cái đống đang to dần lên không còn là rác rưởi nữa. Nhìn từ góc độ nào đó, dù cho Ysée không vừa lòng, thì đấy không còn là rác rưởi. Thật vậy, vào những bữa ăn, người ta thấy những bàn tay thò qua cửa sổ để hái ngay trên đống uế tạp một quả cà chua đỏ mọng hoặc một quả ớt cay rụt lưỡi ngay, và cũng vẫn các bàn tay ấy, lại thò ra để vứt những hạt ớt hay những cuống cà chua. Người ta tìm thấy ở đó đầy những mảnh chai vỡ, các loại hộp thủng, những bộ lòng gà, và cả sắn, khoai và mướp… Nó là một cái garde-manger đấy, một bà mập ú thích đùa đã nói thế, khi thấy đống rác của mình cứ cao dần lên.
Cửa hàng LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN nằm ở cuối làng, nó đứng chặn ở ngay đầu đường, gần bãi đậu xe, không xa xưởng sấy và trung tâm phát điện là bao. Cơ sở này có hình dáng bề ngoài và sự uy nghi của một nhà kho, được xây bằng gạch nén màu xám và có bức tường chắn bằng tôn lượn sóng đã bị gỉ đến ngang thân. Victor cố lết tới tận đó, anh đã không thể tưởng tượng ra đi bộ dưới thời tiết nóng ẩm thì khó khăn tới nhường nào. Dưới cái nóng hừng hực, bộ complet đen như muốn thiêu đốt anh. Sau đêm ở nhà Guastavin thì mối kinh hoàng và sự mệt mỏi đã đi tới tột cùng, anh thở yếu ớt. Vài mét nữa thôi, ba nấc như những nấc thềm nhà và trên bậc thềm đó, ngự trị một cái tháp lừng lững, một người đàn bà khổng lồ cao tới nửa trượng rộng cũng tầm ấy, đầu quấn nguyên tấm drap thay cho khăn đội. Hai tay chống nạnh, mụ chặn đường anh ngay lối vào LA RESSOURCE, hai bên hông là một thằng gù phía hữu, một thằng thọt phía tả, cẳng nó chỉ to bằng chiếc bánh mì baguette[8], háng và chân nó hợp thành một góc kỳ dị. Muốn gì? Mụ béo hỏi.
Mụ hoàng Mab bán hàng vặt ngay chính trên bậc thềm của LA RESSOURCE, dưới phần mái tôn nhô ra, tạo cho mụ bóng râm, dưới tấm biển nổi tiếng, giống y chang tấm biển trang trí mặt tiền nhà kho chứa hàng ở Cảng Chuối và tất cả các chi nhánh khác. Mụ bán những đồ lặt vặt như gạo, mì, đậu hạt, mụ bẻ những phong chocolat thành những ô vuông nhỏ, bán bột từng thìa, bán đậu từng hạt. Mụ bán cái khó sờ thấy, gạo đếm hạt, muối đong đê nhỏ. Mụ đã thiết lập một nền thương mại tý hon trong một cửa hàng chỉ bằng cái thùng đựng xà phòng. Mụ bán lẻ từng mẩu đường
cộng thêm một vài con tắc kè hoa sấy khô, những con mối đựng trong hộp Zan, là những thứ vô giá trong một vùng đất mà thuốc trừ sâu đã huỷ diệt tất cả. Phải tận mắt chứng kiến sự láu cá của mụ, nghệ thuật cân đo, rồi sau đó trong lúc gói hàng mụ còn nhón lại tý tẹo trong cái nhúm còm cõi ấy, phải nhìn vẻ làm cao khinh khỉnh của mụ trước những kẻ nài nỉ xin xỏ, phải xem phong cách mụ thu tiền. Không bán chịu. Đệ Nhất Phu Nhân quả là có khiếu về thương mại. Phải tìm cách đánh bật mụ ta qua một bên.
Kém chút phần tự tin hơn tối qua lúc anh bộc lộ với Guastavin, Victor giải thích rằng anh đến nhận chân điều hành cửa hàng LA RESSOURCE. Mụ hoàng Mab làm anh kinh sợ. Bản tính anh hay ngại những người đàn bà luống tuổi, sự tự tin của họ, sức mạnh và cả sự ăn nói thoải mái của họ. Đặc biệt các bà thường phô bày suồng sã những thứ liên quan tới tình dục, giống như cách mà những người mẹ tò mò vẫn có đối với thân thể con cái họ. Được thoát ra khỏi sự ham muốn, ít ra là anh tin như thế, các bà hay dùng những từ ngữ sống sượng và xúc phạm để nói về chuyện đó, cố tình gây chướng, với ánh mắt đầy ngụ ý… Và người ta lại cảm thấy bị đánh giá thấp so với giá trị đích thực của mình, so với tầm cỡ thực sự của mình. Nồi nào thì vung nấy, anh thấy thích những thiếu nữ trẻ mới lớn hơn, các nàng chưa tự tin lắm ở mình, còn hơi do dự, không có ý thức về vẻ duyên dáng của mình, hoặc còn bị ám ảnh bởi sự lóng ngóng của mình đến độ các nàng chưa hề nghĩ tới việc đánh giá người khác. Về khía cạnh này, anh thấy hình như cô gái trên tàu…
Tôi có hợp đồng đây, anh lục tìm trong túi và chìa ra tờ giấy của Beretti. Anh lấy ngón tay dí vào từng con chữ: Viết ở đây này. Qua mí mắt, mụ quan sát anh, hai khe mắt xiên xiên ti hí nằm giữa khối chình ình này. Mụ có vẻ vững như bàn thạch và không thèm đụng vào tờ giấy. Victor thấy mình yếu đuối và thậm chí ngớ ngẩn khi huơ huơ tờ giấy trước núi thịt khổng lồ này, anh phát ra giả thuyết rằng có lẽ mụ ta không biết đọc. Lũ người chỉ viết ra khi chúng đã mất LỜI NÓI, mụ nói với anh: Ai hiểu sao thì hiểu. Tao đọc còn giỏi hơn cả mày nữa kia, mụ nói thêm, bởi vì tao, tao biết đọc VĂN TỰ. Ngay sau đó mụ ra lệnh cho hai kẻ tàn tật chuyển hàng hóa và đặt thùng xà phòng lên vỉa hè đối diện trực tiếp với cửa hàng. Mụ hoàng Mab quay gót. Victor đã xúc phạm đến Phẩm giá, gây tổn thương nơi Truyền thống, làm hại ngành Thương mại. Rồi đây, cuộc cạnh tranh được báo hiệu sẽ diễn ra khốc liệt.
Victor ở lại với hai kẻ tàn tật. Ông chủ ơi, Ông chủ, chúng rên rỉ, bà này tồi lắm… Và khi nhìn kỹ vẻ dị dạng của họ thì ta dễ dàng tin họ ngay. Chàng Hoàng tử đẹp trai ló dạng dưới bao lớp thất sủng. Sự đánh bùa chỉ còn chờ dịp tiêu trừ. Nhưng rất nhanh, Victor đã khám phá ra rằng bọn họ cũng chỉ là những nạn nhân của chuối, khuyết tật làm họ có phần nhỏ đi, cùng với sự miệt mài tột bậc gắn bó với những ai đã từng ra sức đấu tranh và từng thắng cuộc vinh quang, nhưng đồng thời họ cũng có tính càu nhàu láu lỉnh để đối phó với những gì có thể ngáng trở họ. Ông chủ, Ông chủ, bọn chúng líu ríu nói, CON MẸ ẤY muốn chiếm cửa hàng đấy. Bọn họ đã chống chọi được, để bảo vệ LA RESSOURCE từng li từng tấc, Victor đã tới thật đúng lúc, mụ ta đang tóm lấy chìa khóa. Họ nâng rèm cửa lên, cả sáu trăm mét khối trống rỗng rền vang.
Với những quầy hàng gỗ dài thòn ngăn cách kho chứa đồ với người mua hàng, LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN làm ta khá liên tưởng đến cái có thể gọi là khu nhà ăn trong trại tù. Chẳng có gì nhiều, và món ích lợi được nâng giá trị lên thành đồ sang trọng. Một bánh xà phòng thơm Palmolive được trưng bày trên giá hàng chẳng khác gì một lọ nước hoa Guerlain[9], và một hộp cá mòi Kerbronec được tôn lên như là loại trứng cá Petrossian xanh lơ. Những thứ này để bán chứ hả? Victor hỏi. Không, hai kẻ giúp việc trả lời, chỉ giữ đấy thôi. Thế còn cái này? Victor vừa hỏi vừa chỉ vào đống bi đông sắt có vòng viền xung quanh giống những thùng mà tàu LA VOLONTÉ DE DIEU đã đổ xuống Cảng Chuối. Cái đấy thì cũng không, những tên giúp việc lại đồng thanh trả lời, chưa ai động đến cả. A, ra vậy, Victor thốt lên, anh nhìn ra ngoài, đôi mắt anh chạy dọc con đường đến tận đầu làng, không có cả bóng dáng một con mèo. Vậy thì không có gì sất cả à? Victor buột miệng hỏi. Chẳng ai cả, bọn giúp việc trả lời.
Tầm mắt Victor lướt dọc từ những thùng sắt sáng loè trong góc tối ở tận cùng kho chứa đồ, sang mụ hoàng Mab đang ngồi bất động dưới ánh nắng. Mắt anh nhấp nháy khi chuyển từ tối qua sáng và từ sáng qua tối, tựa như một chiếc đũa dò mạch nước đâm ra hoảng loạn trên nguồn suối mà nó nhận ra tuy chưa nhìn thấy. Hết nhìn đống thùng, mắt anh chuyển qua người đàn bà, và lại từ người đàn bà bắt qua đống thùng, như thể cả hai cùng thuộc về một điều bí ẩn mà anh không giải được. Mụ hoàng Mab thu mình
lại trong mớ khăn luộm thuộm của bà ta, khuôn mặt đen nhánh bừng sáng lên như thỏi than đá. Tất cả đều sáng rực, chiếc váy lụa và những chiếc vòng vàng đeo tay của mụ, những chiếc vòng bạc lủng lẳng ở hai tai. Mụ quả là một thiên thể sống, một hòn lửa đã lan tới tận nơi này, một cú sét chai cứng lại, một lượng dung nham đang sôi sục. Nhưng mụ ta muốn gì? Victor hỏi. Hôm nay là ngày nhập hàng, mụ ta đang chờ đấy.
Victor ngoi trở về thực tế. Anh biết rõ rằng định mệnh sẽ không bỏ rơi anh giữa đống thùng phuy và hai ba hộp thức ăn uống. Cả ba người đứng đợi. Vào cuối chiều, anh trông thấy kế tiếp nhau, đoàn cu li từ các cánh đồng chuối trở về, và chiếc xe tải giao hàng cho các cửa hàng của tập đoàn LA RESSOURCE. Cả khách hàng lẫn hàng hoá. Anh mừng mình đã gặp cơ may. Theo một trình tự đã được chứng nghiệm từ lâu, chiếc xe tải dừng lại, Victor ký vào một bảng kê khai tên hàng, hai tên cu li dỡ hàng xuống, trong lúc hai kẻ giúp việc nói chuyện kiêu kỳ với nhau. Người tài xế chìa tay ra, Victor bắt tay hắn. Người tài xế nhìn tay chẳng hiểu gì cả. Victor tự hỏi liệu mình đã vụng về chỗ nào đó chăng. Phải thanh toán chứ, tài xế nói. Thanh toán cái gì? Victor hỏi lại. Thanh toán cái đã ghi trong giấy này, tài xế trả lời. Victor luống cuống lật giở bàn kê khai hàng: năm mươi phần trăm trả khi giao hàng, phần còn lại đợi đúng thời hạn… Anh chợt vỡ lẽ ra những gì ghi trong hợp đồng, anh không phản đối lại, nhưng anh không có tiền. Tôi buộc phải lấy lại hàng vậy, người tài xế nói, và bọn cu li đã rục rịch vác các kiện hàng trở ra xe. Chờ chút đã, xin chờ một chút đi, Victor cầu khẩn, và anh đưa mắt nhìn xung quanh, anh nghĩ tới Guastavin… Cầm lấy này, Mụ hoàng Mab nói, rồi mụ dúi vào tay anh một nắm tiền nhàu nát, cầm lấy đi rồi mày sẽ giả lại cho tao sau. Cám ơn, cám ơn nhiều, anh chìa nắm tiền cho người tài xế. Tuần sau nhé, tài xế gào lên. Ừ, tuần sau, Victor cũng gào lại, giọng đầy biết ơn, và anh bất đầu dỡ hàng ra. Cái gì thế? Mụ hoàng Mab hỏi. Lô đầu tiên là những lò nướng hành mì, lô thứ nhì cũng chỉ toàn lò nướng bánh mì, còn lô thứ ba là những hộp xi đánh giày hiệu La Lune. Victor lao vội ra phía cửa như muốn hét lên: Cứu tôi với! Lớp bụi bốc lên do chiếc xe tải giao hàng hồi nãy vẫn chưa kịp rơi hết xuống mặt đường.
Ðiều mà lẽ ra viên giám đốc tiền nhiệm của cửa hàng LA RESSOURCE DE L’AFRICAIN của LÀNG KIỂU MẪU đã phải nói cho anh biết là cửa hàng không tuân thủ theo quy luật cung cầu như người ta vẫn tưởng, mà nó lại phụ thuộc vào số lượng hàng tồn kho. Chính quốc và toàn thể thế giới đã
đổ xuống vùng Mégalo tất cả những sản phẩm mà họ đã chế tạo nhầm. Đến trung tâm Mégalo, sau khi bình chọn những gì được xem là tốt hơn cả, họ tiếp tục đẩy phần còn lại tới Cảng Chuối, và ở Cảng Chuối, người ta lại lựa tiếp một lần nữa, để mỗi tuần đảm bảo cho LÀNG KIỂU MẪU cái lô hàng đáng vất đi. Người ta trông thấy cung cấp qua nơi đây những đồ vật dị dạng, những thứ đại khủng, những cái mới lạ kỳ quặc, những ý hay trong ác mộng, ấy là còn chưa tính đến những di tích đã lỗi mốt, những màu mè không được ưa thích, những kiểu dáng lỗi thời, những chất liệu bị cấm đoán, những đồ chơi trẻ em dễ bắt lửa, những loại sữa bị nhiễm xạ.
Tất cả những thứ hàng đó được ùn ùn chở tới với một số lượng điên rồ, một xe tải đầy yếm trẻ con có khả năng gây bệnh ung thư, một hòm khoá quần loại răng sắt to đã hoen gỉ - loại khoá này đã một thời là mốt trang bị cho các cửa quần Âu, một xe xà phòng bánh xanh để tẩy đồ trắng, một xe kem đỏ để đánh trắng hàm răng. Nơi đây sự thừa mứa điều chỉnh sự thiếu hụt. Giờ đây, những người dân bản địa phải đùng đến bản năng mà cha ông họ đã từng sử dụng hòng vô hiệu hoá các cạm bẫy của rừng nguyên sinh, để khám phá những chiếc bẫy mà phương Tây đang giăng ra cho họ.
Số phận của một khối hàng tồn kho được định đoạt nội trong một buổi chiều, nó phụ thuộc phần nào vào Mụ hoàng Mab. Không dính dáng gì đến lợi ích của nó, và người ta không thể dự tính trước, một món hàng được đánh giá là hấp dẫn, hay cũng bởi cùng một quá trình không thể kiểm soát nổi, nó lại bị coi thường và nằm thối trong kho. Người ta đổ xô vào mua yếm trẻ con và cả tá xu-chiêng sa tanh tím, nhưng lô xà phòng bánh xanh thì vẫn còn nguyên. Chúng chảy rữa trong cửa hàng và mỗi cơn mưa đến lại làm loang rộng vết đốm ra khắp cửa tiệm, nhuộm xanh cả chân các bà khách hàng.
Khi lượng hàng tồn kho mà viên giám đốc cam kết sẽ bán cho bằng hết còn chất đống trên đôi tay và trong tâm hồn ông ta, thì giám đốc cửa hàng tung ra hàng loạt những đợt khuyến mãi tuyệt vọng hòng vớt vát: mua ba tặng một, sau đó là mua hai tặng hai… nhưng rồi cũng không đem lại kết quả khả quan. Những cư dân trong LÀNG KIỂU MẪU chẳng mấy quan tâm đến. Họ lấy năm cái để làm gì trong khi đến một cái họ cũng chẳng muốn. Phải gợi nơi họ những ý tưởng về cái đồ vật đã bị chuyển nghĩa hàng trăm lần từ lúc được sáng chế ra, và nếu có thể, phải xoay hướng khác nữa,
phải giải thích bằng cả ngàn cách sử dụng chưa hình dung ra trước đây của loại khoá rút, phải bán thuốc đánh răng mà nói là son môi, bán các ống tiêm mà bảo là quả bóp nước rửa mình, và bán lò nướng bánh mì mà cho là quạt điện. Nhưng viên giám đốc cũng chưa đủ trí tưởng tượng bằng một đám dân vốn đã quá quen tự xoay xở lấy, trí tưởng tượng họ còn giàu hơn ông ta. Và ông ta dẫu sao cũng là người lương thiện, chắc chắn rằng giả sử ông đã biết là những chiếc yếm trẻ con kia có mang mầm mống bệnh ung thư, thì ông ta đã không bán.
Một trong những lý do cơ bản khiến LA RESSOURCE gặp khó khăn là do chỗ thức ăn cung cấp cho làng đến từ một nguồn khác. Cứ hai ngày một lần, những chiếc xe quân nhu lại chở đến những thịt và sắn, cả xương và bột lấm bùn. Ngày trước, khi giới công nhân còn chưa đông, người ta phát cho họ và cho cả gia đình họ những bữa ăn nấu sẵn, những khẩu phần lâm chiến mua lại của một số quân đội đã đánh cuộc rằng cuộc chiến sẽ kéo dài, và đã gặp bất ngờ khi thắng lợi quá mau lẹ hay khi thất bại quá chóng vánh. Trong mỗi khẩu phần có một thanh mứt mộc qua, một thỏi Tonimalt, hai con cá mòi ngâm dầu, một nhân pa-tê cứng hay nhão, một bát canh khô đã rút sạch nước, một viên vi-ta-min C sủi, và rượu vang đỏ dưới dạng bột. Ngoài ra, còn có thêm một gói thuốc rịt dạ dày và một tấm các tông trên đó viết bằng nhiều thứ tiếng: CHÚC CÁC CHÚ MÀY ĂN NGON! Không bao giờ có vấn đề về việc tái lập khối lượng khẩu phần. Và như thường lệ, các khó khăn đến từ nơi khác, ở nơi mà ta không ngờ đến: từ những người tiêu dùng, từ đám công nhân trong làng.
Ðã có một cuộc đình công, và còn có thể gọi đó là một cuộc nổi loạn mà ai nấy đều khắc sâu trong tâm khảm dưới cái tên CUỘC NỔI LOẠN CỦA NHỮNG CHIẾC GA-MEN. Bọn ngốc này lại thích sắn và thịt hơn, thích tự mình nấu ăn lấy, tự nhóm lửa, tự làm mất thì giờ, đấy là chưa tính đến tất cả các thứ bậy bạ mà bọn chúng quẳng vào đấy, những con gián, con kiến. Xin chào những cơn đau bụng. Trong khẩu phần ăn có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng, nhưng bọn chúng đếch cần biết chuyện ấy. Và chính bản thân Ysée đã thốt lên giá mà bọn họ chịu cho thêm vào thức ăn chút đỉnh chuối, dễ như không ấy mà, thế mà vẫn không chịu, không chuối chiếc gì hết. Bọn họ đã tôn thờ chuối ngang hàng với một vị thần, nên không muốn ăn thứ ấy.
Ðiều này làm Ysée tức điên lên. Nhìn bữa ăn đầy đủ, gói ghém hoàn hảo trong lớp giấy tẩy trùng, với đủ chất ngọt, chất đạm và chất béo cần thiết mà lại bị bỏ hoài như vậy, để thay vào đó là một khúc xương ống mà người ta chả biết xương gì, được ninh rất lâu với bột, về mặt ăn uống thì chẳng ra cái cóc khô gì. Bà ta đã thuyết phục César: Chí ít cũng nên ăn một quả chuối mỗi ngày, trưa chuối, chiều chuối, lót dạ cũng chuối, chuối sao mà dễ chuyên chở lại lành, tốt và ngon miệng… César biết rõ điều ấy, nhưng dân làng lại không muốn ăn. Ôi dào, thế thì mặc xác các người, bà buông câu, nếu bị ốm đau bệnh tật thì đừng có mà ca thán nhé!
Victor đòi ít giấy và phong bì, tên Gù mang đến cho anh tập giấy viết thư máy bay, tập giấy duy nhất trong tủ kính cửa hàng. Victor cầm cây bút bi mẫu của cửa tiệm, giờ đây anh biết nên phải tiến hành như thế nào. Anh viết thư cho Beretti, yêu cầu ông ta xét lại bản hợp đồng và cho phép anh đi nơi khác. Anh cũng viết luôn về cho bà. Với bà, anh kể rằng mọi chuyện tiến triển hết sức thuận tiện và rằng sở dĩ anh chậm viết thư là vì anh đã quá bận rộn, nhưng mỗi khi chứng kiến những cảnh kỳ thú diễn tới hàng ngày là anh lại nhớ đến bà. Tờ giấy mỏng tanh vẫn còn in dấu hằn của lá anh viết xin thôi việc. Dưới làn ánh sáng ban ngày là là lướt qua, bà lão già đúng ra sẽ có thể đọc được những dấu vết nản chí của đứa cháu, như khắc sâu trên giấy, dấu vết của lòng tuyệt vọng và gánh nặng rã rời của nó.
Victor
Beretti không trả lời thư Victor. Những đợt nhập hàng cứ tiếp tục ngày một dồn dập, và Mụ hoàng Mab vẫn tiếp tục trả hộ tiền. Cuộc sống đối với Victor sao mà nhọc nhằn, nhọc nhằn hơn bao giờ hết, nhọc nhằn đến mức độ anh chưa một lần ngờ tới! Nó đòi hỏi, còn hơn cả lòng dũng cảm, một sự cam chịu tuyệt đối, một sự quên mình hoàn toàn. Kho hàng là một cái bẫy, cho dù cựa quậy thế nào đi nữa, thì anh cũng không thể thoát ra được; quầy bán hàng hạn định ranh giới tột cùng mà anh chẳng vượt qua, cùng lúc anh vừa là tù nhân vừa là cai ngục. Anh chả có ý định sửa sang gì hết và ngủ luôn trên chiếc giường đai vải tại cửa hàng, tắm rửa luôn trên chiếc chậu dành để bán, và cứ như vậy, anh sử dụng luôn tất cả những mặt hàng bày bán: một tí màng xà phòng, một chút mùi vị thuốc đánh răng, một ánh hình trong gương. Anh sống bằng những thứ trích lấy ra từ cửa hàng. Lúc đói, anh ăn một hộp trong số tồn kho. Tuỳ theo những mặt hàng mới được giao đến mà anh chọn món ăn. Trong suốt cả một tháng trời, anh chỉ ăn độc có một loại kem tráng miệng mà anh không tài nào định rõ nổi hương vị là gì qua sắc màu lẫn mùi mẽ của nó, rồi cũng có lúc trong cả nửa tháng, anh chỉ ăn mấy khứa cá ngừ ngâm dầu và mấy hộp quả đậu cô-ve xanh. Hộp nào cũng đã quá hạn sử dụng từ lâu. Nhiệt độ xung quanh cao tới mức mà đồ chứa trong hộp vẫn luôn âm ấm và bắt đầu lên men. Chỉ cần thêm ánh nắng ngoài trời là đủ để hâm nóng lên, đặt hộp ở mép cửa sổ mười phút là nó đã nóng lên tới bảy mươi độ C, và nó phụt mạnh khi ta mở nắp ra.
Tối đến, anh như thấy Guastavin lao vụt qua. Người mà anh đã từng thề là lẩn tránh này thì giờ đây anh lại ngong ngóng đón đợi và ré gọi. Ê! Guastavin! Thời tiết này thì sao hả? Người kia mất trớn dừng phắt lại, quay nửa người về phía anh, và trong tư thế sẵn sàng đi tiếp, hắn gào lên: Có biến động lớn ở biển Ai-len. Không đùa chứ? Victor níu hắn lại. Guastavin giải thích: Một luồng gió địa cực tiến xuống bị những đợt gió nóng từ sa mạc Sahara thổi tới chặn lại, nên tạo ra một khối khí cầu gây ra giông bão ở Ai len. Một sự VÂY HÃM, Guastavin bình luận và tự hỏi làm thế nào chúng sẽ thoát ra. Sông Tamise, Thames[10], hắn dịch ngược, bị đóng băng. Chào, good-bye và lỉnh đi ngay, kik, kik, lại vội vội vàng vàng về xem con khỉ cái
của hắn có trốn đi chăng. Vậy là, ở nơi kia, mùa đông đã đến rồi, Victor nhủ thầm, và nỗi nhớ nhà lại ập đến làm tim anh nhói buốt.
Lại một hy vọng hão khác, ông thầy giáo làng, người đã đến thăm anh ngay tuần đầu, Clément là một cậu trai trẻ ăn mặc kiểu cách và nói năng rất trau chuốt, một tấm gương hoàn hảo điển hình cho sứ mệnh truyền bá văn minh của một nền văn hóa lớn. Cậu ta tự chăm sóc mình một cách tỉ mỉ, từ dáng vẻ tới ngôn ngữ. Cậu học thuộc lòng rất nhiều cuốn sách, đến mức có thể đọc nhẩm vanh vách cả hàng chương dài với vẻ lưu loát ứng khẩu tài tình. Do sự ngẫu nhiên to tát nhất, sự ngẫu nhiên của một thư viện được những giáo sĩ dòng tên quản lý có những cuốn sách đã giúp cậu khai khẩu, những tác phẩm khoa học kỹ thuật ra đời từ thế kỷ XVIII. Ngôn ngữ của cậu ta vừa rất trừu tượng, vừa chứa đầy tài trí, rất hình tượng nữa, nhưng lại theo cách mà ngày nay người ta đã mất thói quen sử dụng. Dù cậu ta chẳng ý thức về điều đó, nhưng những lời lẽ cậu ta phát ra đã in dấu sẵn trên hình hài mình, và các cử chỉ của cậu lại đượm một cái gì đó cổ lỗ, uốn éo, mang quá nhiều sự cung kính trong hai cánh tay và trong chiếc đùi, miệng chúm chím đỏ chót. Nay có Clément trong làng như thể xưa có Bougainville[11] ở Tahiti. Bản ứng dụng vào xứ đen.
Clément đã chờ đợi gặp được ở Victor một kiểu cách như chính cậu ta, và cậu ta không che giấu sự thất vọng của mình trước chàng trai trẻ này, người chẳng biết ăn nói gì cả vì chẳng biết chi hết. Clément đã từng nghe César nói chuyện, nghe Guastavin và thậm chí nghe cả Ysée, họ không dùng những ngôn từ mà cậu ta biết, chỉ nói vài câu ngắt quãng và méo mó, những câu chữ nuốt đi một nửa, sau đó lại oẹ ra, chẳng có cái gì cậu ta nhận ra, như thể ngôn ngữ qua miệng họ đã trở nên tàn phế. Rồi cậu ta chưa thể nghỉ ngơi trước khi chạy vội đến thư viện các giáo sĩ dòng tên, mở một cuốn sách ra để tự trấn an mình rằng ngôn ngữ vẫn còn tồn tại, tuy ẩn náu ở một nơi. Cậu cẩn thận gập sách lại, ken chặt nó vào giữa những cuốn khác để không còn chỗ hổng nào, vì sợ rằng một chút vẻ đẹp tinh thần sẽ xổng mất. Này! Cậu lúc lắc cái gì thế hả? Thầy tu phụ trách thư viện hỏi. Ngay ông thầy tu cũng chẳng ăn nói lịch sự chút nào hết.
Xin chào - Xin chào[12], Victor không tìm thấy gì hơn để nói. Clément nhìn ngắm khoé miệng Victor và chẳng thấy gì từ đó phát ra cả. Clément
nói rất nhiều, cậu ta kể chuyện thư viện và ông thầy tu; rõ ràng là Victor chẳng hiểu gì, cả thư viện lẫn thầy tu; thậm chí anh còn không hiểu nổi vấn đề gì đang được đề cập đến, thư viện - thầy tu, không dám chắc là anh có thể lặp lại được hai từ này. Anh có bộ quần áo đẹp thật, Clément nhận xét khi nhìn thấy bộ trang phục cũ màu đen móc ở trần nhà, và đung đưa như người bị treo cổ tuỳ theo các cơn gió thổi qua. Cùng lúc ấy, Victor tìm lại được lời nói, anh kể lại chuyến đi xe đò với bà anh, về cửa hàng Conchon - Quinette, về chuyện ở hãng wool-mark. Clément chẳng hiểu gì hết, nhất là những chuyện Conchon - Quinette và wool-mark, nhưng lòng kiêu hãnh của cậu ta quá lớn để hạ cố hỏi rõ lại. Bộ quần áo đen, có sự huyền bí của những ngôn từ lạ lùng và sần sùi này phủ lên, giờ đối với cậu ta, như đã mất đi nhiều vẻ quyến rũ.
Victor mòn mỏi chờ đợi Clément quay lại, theo anh thì tuổi trẻ của hai người là yếu tố đủ sức để kết tụ họ lại với nhau, bởi chính vì lẽ đó mà các bậc cha mẹ nối kết tình bạn cho con cái mình, cùng tuổi là có thể cùng chơi với nhau chứ! Rõ ràng là Clément không muốn chơi với Victor, còn Victor thì cảm thấy tổn thương về điều ấy. Anh trông ngóng lũ trẻ, như thể chúng sẽ mang đến cho anh một vài câu nhắn của Clément. Nhưng chẳng có gì hết, và thật ra anh cũng nhận ra ở mỗi đứa trẻ một chút gì đó của Clément, ngay bọn chúng cũng nói năng bằng một thứ ngôn ngữ mà anh chẳng hiểu, như thể nó mang một giọng điệu nặng nề. Anh nhìn chúng rong chơi ở đầu làng phía đằng kia khi chúng đang đóng trò bủa vây ngôi nhà Guastavin.
Guastavin, ê Guastavin! Anh muốn báo cho hắn biết rằng anh đã nhìn thấy một đứa trèo lên nóc nhà hắn. Liệu hắn đã nghĩ tới việc bảo vệ mái nhà chưa nhỉ? Guastavin nhún vai. Tôi biết hết rồi, tôi đã khám phá ra điều ẩn giấu. Một em à? Victor hỏi khi nghĩ tới cô gái dạo nọ. Không, Guastavin trả lời, một thằng đàn ông. Guastavin đã nghi ngờ chuyện này từ lâu, và nay hắn mới có bằng chứng cụ thể, là César tự lái chiếc xe jep với gã đó ngồi bên cạnh. Victor nêu giả thuyết rằng có thể đó chỉ là một tay sản xuất chuối, và trong trường hợp như vậy thì chẳng việc gì đáng lo ngại cả. Nhưng Guastavin thì biết rõ gã ấy, hắn nhìn ra rồi, tên nó là Gilbert. Cũng giống như tôi ngày xưa ấy mà, khi tôi còn có một cái tên riêng, hắn nói thêm với vẻ cay đắng. Hắn lấy Victor làm chứng rằng tên Gilbert này một ngày nào đó sẽ thay chỗ hắn. Vậy thì anh cũng đừng quá lo, Victor nói để an ủi hắn. Nhưng Guastavin cũng chẳng ăn nhậu gì được với những lời xoa dịu kiểu
đó. Anh biết không, hắn ta tiếp tục nói, tôi đã nhìn thẳng vào mặt César, như thế này này, và khi thằng chả thấy rõ là tôi đang nhìn nó, thằng chả đã quay mắt đi nơi khác. Anh muốn tôi nói không, theo tôi thì thằng chả đã trở nên xấu đặc, XẤU thậm tệ, thế thôi! Victor không nhớ là César đã từng đẹp trai bao giờ chưa. Ðúng đấy, có thể lắm, Guastavin chấp nhận, nhưng hiện tại hắn dứt khoát xấu. Tại sao thế? Victor hỏi để kéo dài cuộc nói chuyện. Nhưng Guastavin lại không có thời giờ. Nó đang chờ hắn ở nhà. Mà này, dạo này nó ra sao? Victor hỏi. Guastavin làm một động tác tròn tròn hả hê trước mặt hắn, càng ngày càng to ra chứ sao. Hẹn lần sau vậy nhé? Chắc chắn rồi, họ cần phải gặp lại nhau, nhưng bây giờ thì chưa được, không thể được lúc nó còn đang mang bầu, vì nó không chịu đựng nổi bất kỳ ai. Victor gật đầu tán thành, đây quả là một giai đoạn khó khăn phải vượt qua.
Vào việc đi, Victor ra lệnh. Gù và Thọt có biệt hiệu là hai B[13], đang cau có, trưng ra những khuyết tật trên hình hài chúng, những khuyết tật đã ngăn cản chúng quét bụi, lau nhà, khiêng nặng khuân vác. Thế là Victor không còn dám hạch hỏi chúng đang làm gì nữa. Cái bướu làm lệch hẳn cơ thể nhỏ thó của Gù, khiến nửa phần trên của nó quắt lại vừa vặn trong cỡ áo sơ mi trẻ em, bên trên nó là cái đầu dài ngoằng nhìn quằm quặp xuống phía dưới, cái chân thọt khốn khổ của đứa kia lại mang lại cho nó dáng đi giống con cào cào, tất cả những tật nguyền này đủ giải thích tại sao hai đứa không đi lao động trong vườn chuối. Nhưng Victor không sao chịu đựng nổi ánh mắt của bọn chúng và, còn khủng khiếp hơn cả ánh mắt, những chuyện ngồi lê đôi mách của chúng đã đầu độc cả làng. Cả hai đứa đến rất đúng giờ, quãng sáu giờ sáng và lập cập vào nhau ra về, như trứng với đá vào tám giờ tối. Victor không hề biết bọn chúng trú ngụ ở đâu và sống bằng gì. Vào khoảng giữa trưa, chúng giở chiếc gói buộc tàu lá chuối rồi cả hai ngồi xổm, ăn uống xì xụp với nhau. Thỉnh thoảng Victor cũng biếu cho chúng một hộp đồ ăn mà chúng cất để mang đi, không mở ra xem. Cả hai đến đây khi trời còn đang tối, và lại ra đi khi trời đã tối mịt mùng, khoảng thời gian còn lại trong ngày chúng nhìn ngắm ánh nắng và nói không ngớt, với những lời lẽ liên tục, vô cùng tận và đơn điệu, thỉnh thoảng chỉ ré lên đôi câu chua chát. Ta tự hỏi liệu chúng còn có thể học hỏi nhau những gì mà chúng đã chẳng biết trước hết rồi.
Hết phương sách, hy vọng có một vật báu cất giấu đâu đó, Victor mở những thùng phuy ra; hẳn hai lớp bọc, có hình ngọn lửa bốc cháy và nguy hiểm chết người với hai ống xương gạch chéo và cái đầu lâu, tất cả những dấu hiệu này cảnh báo rõ ràng rằng đây là một sản phẩm độc hại. Hai B liền sán tới gần: Tránh đụng trực tiếp, rất dễ bốc cháy, trong trường hợp nhiễm độc, phải liên lạc ngay với trung tâm phòng chống độc phẩm gần nhất. Cái gì vậy, hả Ông chủ? Bọn chúng hỏi. Tôi không biết, Victor trả lời, anh đang phân vân giữa chất a-xit đậm, thuốc độc a-sen, thuốc khử chuột và nước tẩy cạo lemond-rubb. Đứng trước cái chất bột lỏng lờ nhờ bị biến chất nặng, dưới tác động của không khí, đang sủi bọt trắng như mủ và bốc hơi nghi ngút, đẩy lên bề mặt từng mảng dầy phồng rộp, hai B vẫn tiếp tục hỏi: Ngoài chuyện nguy hiểm ra, thứ này còn dùng để làm gì, hả Ông chủ? Tôi chẳng biết mô tê gì cả, Victor trả lời, nhưng bởi lúc này mùi thối nồng nặc đã bốc toả khắp kho hàng, nên anh nghĩ cứ để mặc các thùng như vậy, không mở ra thêm. Một trong hai B kêu than là thấy khó thở quá, còn đứa kia thì nói mắt nhìn thấy toàn màu đỏ. Không hề gì, Victor trấn an, với kiểu của một Beretti thứ hai: Do sản phẩm bị ướt đấy mà, chỉ cần để nó khô đi là hết ngay thôi. Rồi họ vần những thùng hàng đó ra ngoài, để dưới nắng, và quả nhiên không còn bọt nổi lên nữa, chất lỏng đặc dần lại. Sau vài tuần, chỉ còn lại một chất bột trắng rất mịn đọng ở đáy thùng. Victor hồ hởi trong lòng.
Victor bắt chước kỹ thuật của Mụ hoàng Mab. Khi chứng kiến những mánh khoé vặt vãnh của mụ, một gói vài hạt, một lọ vài giọt, Victor tự nhủ: muốn cho mặt hàng trở nên hấp dẫn hơn thì nên để trần loại bột đó trong một thứ chai lọ thật nhỏ. Anh quay sang hỏi ý kiến hai B. Náo động lớn. Cả hai lục lọi tìm kiếm. Để nó trong những hộp xi đánh giày, Ông chủ ạ, thằng Gù nói. Thế là trong nhiều ngày liền, họ hí húi đong đầy những chiếc hộp nhỏ sau khi đã dốc sạch chất xi khô không khốc trong đó đi. Họ làm công việc đó thật cẩn thận và chăm chút, bằng những động tác nhẹ nhàng, rồi đóng nắp hộp lại: trên nắp, một mảnh trăng trắng mỉm cười nấp sau mảnh trăng đen buồn trầm lắng. Toàn bộ việc đó chẳng ích lợi gì, nhưng Victor lại cảm thấy sung sướng vì đã tìm ra cách giao việc cho chúng. Thế nhưng, chúng đã phải dừng tay trước khi kết thúc thùng đầu tiên, vì không bao lâu sau, chúng than đã bị bỏng rộp tay. Một sáng nọ, chúng phát hiện ra là những đầu ngón tay bị ăn mòn. Chưa đầy hai hôm sau, da tay chúng co nhăn hết lại, còn các mút ngón tay thì trơ hết thịt ra và rỉ nước. Chất này
còn ăn mạnh trên da người hơn anh tưởng và trên ấy hiệu ứng có vẻ như lan rộng ra. Tưởng khi dùng đến sẽ làm thuyên giảm hay dịu đi, ngược lại nước và các loại kem bôi tuồng như càng làm nó tăng gấp bội, và vết bỏng, đúng là một vết bỏng đấy, lại càng tỏa rộng thêm mỗi ngày một ít. Sau các ngón tay, nó bắt đầu tấn công đến mu và lòng bàn tay. Hai B tỏ vẻ không quá lo lắng, chắc bởi lẽ đã quá quen chịu đựng đớn đau trong cuộc đời. Về phần Victor, suốt ngày anh lo lắng chăm sóc chúng, thử đủ các loại băng, các phương cách vặt, các thứ thuốc hổ lốn. Một hôm, không biết nhờ đâu mà vết bỏng tự nhiên dịu lại, chí ít là ở bề mặt, vết thương bỗng đóng sẹo. Nhưng Hai B lại bị mất đi màu da của mình, chúng trưng ra ở những đầu cánh tay đen nhẻm của mình những bàn tay hồng nhạt. Buộc phải ngừng làm việc, chúng huơ huơ hai bàn tay ra trước mặt bằng những động tác nhanh nhẹn, nhẹ nhàng như thể là những con bướm kỳ diệu đang bay hay những con chim thần thoại đang múa.
Victor vẫn chưa bán được gì. Rốt cuộc thì vẫn chỉ có Mụ hoàng Mab là đối tác duy nhất của anh, anh bán sỉ cho mụ, mụ là nhà băng của anh. Mụ chiếm hữu hết toàn bộ thời giờ của anh. Vân vê hàng giờ một hộp sữa trong tay, kỳ kèo, bắt giảm giá hết thứ này đến thứ khác; nhưng bởi mụ là người đã cho anh vay tiền, nên mụ, vừa luôn miệng nhắc anh món nợ vừa tự cho phép lấy hàng mà không trả tiền. Để kết toán, anh đành miễn cưỡng đồng ý bán cho mụ một gói mì hình chữ A, B, C… loại mì này quý hơn những thứ mì khác không mang hình chữ, loại mì mà riêng anh cũng chỉ đánh giá ngang hàng với bánh xà phòng thơm và hộp cá mòi. Mụ hoàng Mab hớn hở mang đi; mười phút sau, cả đám đông vồn vã và tò mò chia nhau gói mì, từng chữ, từng chữ một. Với thành tích bậc thầy này, mụ khổng lồ đã hạ bút ký tên vào kiệt tác của mình trong sự nghiệp bán lẻ từng tí một. Cái gì thế? Mụ vừa hất hàm hỏi hai B, vừa chỉ những chiếc hộp tròn mà, bằng những đầu ngón tay hồng hồng của mình chúng đang đặt vào trong các hộp các tông bánh bit-côt. Chưa biết là gì, bọn chúng trả lời, chưa quyết định là gì.
Những kẻ khác, bọn cu li, những người dân trong làng, Victor vẫn chưa quen biết một ai, anh chỉ thoáng thấy họ từ bên trên, và vì xa quá nên anh không trông rõ họ được. Anh nhìn họ như trong một giấc mơ, bởi đấy thật là những sinh linh trong mơ. Anh không thể tin vào sự có thực của họ được. Chỉ có Guastavin là thật, Clément là thật, một Clément mà anh chỉ gặp một lần duy nhất, và Mụ hoàng Mab là thật, chứ những người kia thì không…
trừ những đứa trẻ ở đầu đường đang chơi trò vây hãm thành Chabrol. Thôi nào, lại một lá thư nữa cho bà vậy, nhưng để nói gì cho bà mới được chứ? Anh lại lần kiếm tìm từ. Tối đến, anh thấy thèm một sự yên tĩnh bao trùm đặc kín để hàm anh đóng lại, một sự bất động để anh đờ người ra, thế mà đây mới chính là khoảnh khắc anh phải chiến đấu chống lại sự cuồng loạn vô hình của đời sống ngầm trong bóng đêm, một đời sống mù loà, nguyên sơ.
Anh dấu hạt đi, cất gọn bột và mì vào hộp; anh hoàn toàn không để gì ngoài một đĩa nước trên những “kiến trúc thượng tầng” mong manh nhằm chống lại sự tấn công của lũ kiến, rồi lũ gián, lũ nhện từ đống chuối bị thuốc trừ sâu đuổi ngược vào làng. Bộ complet của anh là đối tượng kích thích lòng ham muốn điên loạn của mọi loài vật tí hon mà ta có thể hình dung ra, anh đã phải treo nó lên trần nhà để tránh chuột. Dây, tường, khoảng không, thế mà vẫn chưa đủ an toàn. Một đêm, anh đã quần nhau với một con chuột cống, nó men dọc theo trần nhà, đầu dốc xuống, cố ngoi đến để gặm nhấm sợi dây. Con vật đã vận dụng nhiều trí thông minh và nhiều cố gắng trong phi vụ này, đến nỗi mà, khi bị phát hiện, nó đã gióng lên một tiếng rít kinh hoàng, và do Victor cuối cùng đã dùng chổi xua đập được mấy cú vào nó, nó rơi tụt xuống đất đánh bịch một cái, nhưng lập tức nhổm dậy để kịp nghênh chiến với anh. Trước lòng kiên quyết của con vật, Victor lùi lại, nhưng ngay sau đó, một cơn giận dữ bỗng bùng lên, anh quay lại trận đấu và rượt theo sát con chuột với một sự hùng hổ tàn bạo mà chưa bao giờ anh nghĩ là mình có đủ khả năng làm được: rốt cục dồn nó vào chân tường, và mặc nó kêu dữ dội, anh đã chọc thủng mình con vật, đúng thế, anh đã xọc chết nó bằng cán chổi. Một trận thảm sát!
Chuyện khó nhất bây giờ là làm sao tống khứ cái xác chết. Anh phải nắm đuôi nó, khá nặng đấy, và lẳng nó ra ngoài. Quyết định quá vội vàng, và động tác lẳng quá ngắn, nên xác con chuột rơi cách cửa hàng không bao xa. Victor ngóng đợi rồi hy vọng nơi các con mèo. Tối hôm đó, mèo lại không đến. Sáng hôm sau, xác chuột vẫn nằm trơ ở đó. Victor không sao hướng mắt mình ra khỏi cái khối thẳng đờ và cứng kèo đang nằm giữa con đường cát. May làm sao là mặt trời bắt đầu ló rạng, khiến lũ ruồi ngay lập tức bâu lại. Và xác chết trương phềnh lên, giật nảy nhoi nhói, như bị cơn lợm giọng. Nó lăn qua một bên, đen bóng và lóng lánh, rồi lại nhúc nhích, dợm bước tới. Từ cái xác chết phát ra tiếng lốp bốp. Ðêm tới, Victor không
còn nhìn thấy gì hết. Nhưng đàn ruồi nhặng thì lo say quẩng mỡ, đập loạn xạ điên cuồng vào cánh cửa sổ duy nhất vẫn còn loé sáng của cửa hàng.
"""