"Sân Chơi Của Chúa - Lịch Sử Ba Lan - Norman Davies & Diệp Minh Tâm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sân Chơi Của Chúa - Lịch Sử Ba Lan - Norman Davies & Diệp Minh Tâm (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lịch Sử] Ebooks Nhóm Zalo TỦ SÁCH LỊCH SỬ THẾ GIỚI NORMAN DAVIES SÂN CHƠI CỦA CHÚA LỊCH SỬ BA LAN (Tập 1) Diệp Minh Tâm dịch NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC ebook©tudonald78 | 26-12-2021 Ebook này được thực hiện theo dự án “SỐ HÓA SÁCH CŨ” của diễn đàn TVE-4U.ORG TÁC GIẢ -------- NORMAN DAVIES (1939-) Norman Davies sinh năm 1939 tại Bolton, là sử gia hàng đầu người Anh, đã công bố nhiều tác phẩm gây nhiều tiếng vang về lịch sử châu Âu, lịch sử nước Anh và Ba Lan. Xem thêm tại Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Norman_Davies -------- TÊN RIÊNG VÀ TỪ ĐẶC BIỆT (Bổ sung của người dịch)1 Aleksei I: Aleksei Mikhailovich Romanov (1629-1676), Sa hoàng nước Nga (1645-1676), cha của Pyotr Đại đế. Alfred: (849-899) Vua của Saxony Tây trong giai đoạn 871-899 và Vua nước Anh trong giai đoạn 886-899, một trong những nhân vật nổi bật trong lịch sử nước Anh. Alfred bảo trợ cho việc giáo dục thần dân của ông, và bản thân ông đã dịch nhiều công trình lịch sử quan trọng. Alpes: dãy núi ở miền trung-nam Châu Âu, chạy theo hình vòng cung dài 1.200 kilômét từ vùng biên giới Pháp-Ý đến sông Danube ở Áo. Altranstadt: lâu đài ở Saxony, nơi Karl XII ép Ba Lan ký Hiệp ước Altranstadt để truất phế Vua Âugust II. Angevin: xem Anjou. Anjou: vùng đất lịch sử hiện nay ở miền tây-bắc nước Pháp, trong thế kỷ XIV là công quốc dưới quyền công tước. Tính từ “Angevin” xuất phát từ danh từ “Anjou” chỉ người Anjou, và cũng chỉ ba nhánh vương triều thời Trung cổ xuất phát từ Anjou, sau đó lan rộng, trị vì nhiều nước Châu Âu như Anh, Iceland, Hungary, Croatia, Ba Lan, Naples và Sicily, Albania, Jerusalem… Vương triều Anjou trị vì Ba Lan bắt đầu bằng Ludwik Węgierski. Anna Jagiellonka, tên theo Anh ngữ: Anna Jagiellon. Ít nhất có ba nhân vật trùng tên: Anna Jagiellonka (1476-1503): con gái của Kazimierz IV Jagiellończyk 1476, cưới Bogusław của Pomorze. Anna Jagiellonka (1503-1547): cháu nội của Kazimierz IV Jagiellończyk, cưới Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh là Ferdinand I. Anna Jagiellonka (1523-1596): con gái của Zygmunt I “Stary”, cháu nội của Kazimierz IV Jagiellończyk, em của Zygmunt II Âugust, năm 1575 được bầu làm Vua Ba Lan và Đại Công tước Lietuva, năm 1576 cưới Stephen Báthory và ông này đảm nhiệm các chức vụ của bà, vì thế bà là quân vương cuối cùng của Vương triều Jagiellonowie. arenda (tiếng Ba Lan có nghĩa “cho thuê”): phương thức của người Do Thái tương tự như cách cho thuê tài chính ngày nay, nhưng chủ yếu qua sự thỏa thuận giữa người chủ bất động sản (đất đai, trang trại, quán trọ, nhà máy giấy phép đánh cá và đi săn…, thậm chí cả thôn làng hoặc cả huyện), hoặc quyền thu phí và thuế. Hệ thông cho thuê tài chính này thịnh hành trong các thế kỷ XVI đến XVIII, tạo mối quan hệ mật thiết giữa người Do Thái và các cộng đồng Ba Lan, Ukraina…, cũng tạo nguồn thu nhập đáng kế cho các gia đình Do Thái. Người cho thuê (quý tộc, yếu nhân…) thường vắng mặt trên đất đai của mình, nhận một khoản tiền để dùng vào việc khác. Người Do Thái thuê lại (được gọi là “arendator”) để khai thác bất động sản mà thu lợi nhuận cho riêng mình; hoặc thu phí và thuế thay cho chủ nhân và giữ lại khoản dịch vụ. Theo cách thứ hai, triều đình cũng nhờ người Do Thái thay mặt đi thu phí và thuế nên vô hình trung người Do Thái làm việc giống như quan chức triều đình. Việc giao nhiệm vụ thu thuế theo cách này cũng phổ biến ở Tây Ban Nha và Pháp. Armenia: vùng đất lịch sử, ngày xưa là một quốc gia độc lập, kế tiếp bị Mông Cổ rồi Đế quốc Ottoman và Nga xâm chiếm, hiện nay miền tây nam thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, miền đông-nam thuộc Iran, và miền tây-bắc thuộc nước Cộng hòa Armenia. Âugust II: tên gốc là Friedrich-Âugust, tên theo Anh ngữ: Âugustus II “The Strong” (1670-1733), có biệt hiệu “Người Cường tráng”, Tuyển hầu tước Frederick Âugustus I của Công quốc Saxony (1694-1733), Vua Âugust II của Ba Lan (1697-1706) rồi được phục hồi (1709-1733). Âugust III, tên theo Anh ngữ: Âugustus II Wettin (1696-1763): Tuyển hầu tước Friedrich Âugustus II của Saxony (1733-1763), Vua Âugust III của Ba Lan kiêm Đại Công tước của Lietuva (1734-1763), nhưng trong suốt 30 năm trị vì chỉ có mặt ở Ba Lan tổng cộng không đến 3 năm, giao việc điều hành Ba Lan- Lietuva cho Bá tước Heinrich Bruhl, vì thế làm suy yếu Ba Lan-Lietuva, dẫn đến cuộc Phân chia Ba Lan. Avar: một chủng tộc Mông Cổ, vào thế kỷ thứ V nổi lên trong lưu vực Sông Volga, đến thế kỷ sau bị người Thổ đánh bại. Những người sống sót chia ra hai nhóm: một nhóm lưu lại Đông Âu, nhóm kia đi về lưu vực Sông Danube, định cư ở Dacia (thuộc Rumania bây giờ). Đến cuối thế kỷ thứ VI, người Avar hiện diện từ Sông Volga đến Biển Baltic, trở thành một thế lực mạnh ở Châu Âu, xua đuổi các dân tộc Slav miền Tây đi nơi khác. Họ cường thịnh không được lâu: đến năm 795-96 họ bị Charlemagne Đại đế đánh bại rồi bị Morava hầu như tận diệt, một số ít sống sót nhập vào các cộng đồng người Slav. Áo: lịch sử của Áo liên quan mật thiết đến Đức. Đế quốc La Mã Thần thánh của người Đức đặt thủ đô tại Wien, cũng là thủ đô của Áo. Trong giai đoạn 1438-1806 (trừ thời gian ngắn 1742-1745), Vương triều Habsburg gốc Áo ngự trị trên ngai vàng của Đế quốc La Mã Thần thánh, vì thế đế quốc này còn được gọi là “Đế quốc Habsburg”. Năm 1804, Đế quốc Áo được thành lập. Trong giai đoạn 1867-1918; Áo và Hungary thỏa hiệp thành lập Đế quốc Áo- Hungary trong đó người Đức chiếm vị thế quan trọng. Năm 1879, hai Đế quốc Đức và Áo-Hungary ký hiệp ước liên minh. Sau Thế chiến I, Áo thành lập nước cộng hòa liên bang. Balkan: bán đảo ở đông-nam Châu Âu, ba mặt giáp biển: đông giáp Biển Đen, nam giáp Địa Trung Hải, tây giáp Biển Adriatic và Biển Ionian, gồm Nam Tư cũ, Albania, Hy Lạp, Rumania, Bulgaria, và phần Thổ Nhĩ Kỳ phía Châu Âu. Bán đảo Balkan là cửa ngõ để Trung Âu và Đông Âu thông ra Địa Trung Hải, vì thế có tầm quan trọng về địa-chính trị. Bayern (tên theo Anh ngữ: Bavaria): bang tận cùng phía nam của cộng hòa Liên bang Đức hiện nay, đóng thủ phủ ở München, từ năm 1871 là một vương quốc nằm trong Đế quốc Đức. Sau Thế chiến I (1914-1918), Bayern là bang nằm trong cộng hòa Đức. Báthory: Stephen Báthory, tên theo Anh ngữ: Stefan Batory (1533- 1586), nhà quý tộc gốc Hungary, thuộc nhánh Somlyo của gia tộc Báthory, Hoàng thân Transylvania (1571-1586), Vua Ba Lan (1576-1586) và cũng là Công tước Lietuva (1576-1586) vì cưới Anna Jagiellonka, con gái của Zygmunt I “Stary”. Nhiều sử gia xem ông là một trong những vị vua được bầu vĩ đại nhất của Ba Lan vì thực hiện được nhiều cuộc cải tổ, thành lập quân đội chính quy thường trực, chiến thắng trong một số trận đánh quan trọng chống Nga, và cũng có tài ngoại giao. Bài trừ hình tượng (Anh ngữ: Iconoclasm, theo gốc từ Hy Lạp eikon có nghĩa “hình tượng” và klaein có nghĩa “phá vỡ”): quan điểm chống việc sử dụng hình tượng, tranh ảnh với mục đích tôn giáo, đặc biệt là phong trào dấy lên mạnh mẽ trong hai thế kỷ thứ VIII và thứ IX ở Đế quốc Byzantine do Hoàng đế Leo III chỉ thị, gây nhiều xáo trộn. Giáo hoàng chống đối, nhưng Leo và người kế vị Constantine V thực hiện chặt chẽ chủ trương này. Belarus: vùng đất lịch sử tương ứng với nước Belarus ngày nay, một phẩn nhỏ ở Ukraina, Slovakia, miền Đông Ba Lan và miền Tây nước Nga; ngày xưa còn được gọi là Ruthenia Trắng (Anh ngữ: White Ruthenia, Việt ngữ có lúc gọi là Bạch Nga); trong thời tiền sử là vùng định cư của người Belarus (có nguồn gốc từ các sắc dân Krivichi, Dregovichi, và Radimichi), đến cuối thế kỷ thứ X là Công quốc Polotsk (Polatsk) rồi bị sáp nhập vào Kyivan Ruś, quốc gia quan trọng đầu tiên của người Slav Đông. Đến thế kỷ XIV là một phần của Đại Công quốc Lietuva rồi sau đó thuộc Cộng hòa Ba Lan-Lietuva. Đến cuối thế kỷ XVIII bị sáp nhập vào Đế quốc Nga; năm 1919 là một phần của Liên bang Xô Viết. Hiện nay, Belarus là nước Cộng hòa độc lập. Bellegarrigue: Anselme Bellegarrigue, sinh ra trong giai đoạn 1820- 1825, người Pháp có tư tưởng cổ vũ chế độ vô chính phủ, lập tờ báo mang tên L’Anarchie (Chế độ vô chính phủ). Ông truyền bá ý tưởng về một nền dân chủ không có chính phủ trung ương, công dân được quyền tự do cá nhân tuyệt đối và tự nguyện tham gia vào chính quyền địa phương. Berber: sắc tộc sống chủ yếu ở Bắc Phi, theo đạo Hồi, qua nhiều thế kỷ đã pha trộn với nhiều sắc dân khác nên bây giờ chỉ còn được phân biệt qua ngôn ngữ thay vì chủng tộc. Beza: Theodore Beza (1519-1605), nhà thần học và giáo dục người Pháp, làm phụ tá cho John Calvin và sau đó tiếp nối công việc ông này trong Phong trào Cải cách. Biển Adriatic: nhánh của Địa Trung Hải, miền nam Châu Âu, giữa bờ đông của Ý và bờ tây của Bán đảo Balkan. Biển Bắc: một nhánh của Đại Tây Dương, nằm giữa bờ đông của Anh quốc và lục địa Châu Âu. Biển Manche nối Biển Bắc với Đại Tây Dương ở phía nam. Biển Baltic: biển nằm về phía đông-bắc của Châu Âu, chung quanh là Thụy Điển, Phần Lan, Đức, Ba Lan, Nga… Khi nói đến các nước vùng Baltic là chỉ các nước nhỏ gồm Phần Lan, Estonia, Latvija và Lietuva nằm dọc bờ nam, là mục tiêu tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn. Biển Caspi: biển trong lục địa, nằm giữa Châu Á và Châu Âu (Nga). Vào thời của Pyotr, Biển Caspi ngăn cách Nga và Đế quốc Ba Tư. Biển Đen: biển trong lục địa, nằm giữa đông-nam Châu Âu và Tiểu Á, phía bắc và đông giáp Nga, Ukraina và Georgia, phía tây giáp Rumania và Bulgaria; cả bờ nam là Thổ Nhĩ Kỳ. Biskupin: địa điểm khai quật khảo cổ học và mô hình bằng kích thước thật của một khu định cư có pháo đài phòng thủ thuộc Văn hóa Lusatian vào Thời đại đồ sắt, được sử dụng như một bảo tàng ngoài trời, nằm ở vùng trung- bắc Ba Lan, cách Poznan 90 kilômét về hướng đông-bắc. Bismarck: Công tước Otto von Bismarck (1815-1898), người thành lập Đế chế thứ Hai, được gọi chính thức là Đế quốc Đức mà ông là Thủ tướng đầu tiên (1867-1890). Bodin: Jean Bodin (1530-1596), triết gia người Pháp, được biết đến nhiều nhất nhờ lý thuyết về chế độ quân chủ chuyên chế, là một trong những nhà tư tưởng tiên phong bảo vệ chủ đề này mà không dựa trên lý luận theo tôn giáo. Ông biện luận rằng vua các nước không nên bị đặt dưới Đế quốc La Mã Thần thánh, và phải có đủ quyền hành để cai trị tất cả thần dân và định chế của họ. Bolesław I, tên theo Anh ngữ: Bolesław I “The Brave” hoặc “The Valiant” (967-1025), có biệt hiệu “Dũng cảm”2 (tiếng Ba Lan: “Chrobry”), thuộc Vương triều Piast, nối ngôi cha là Mieszko I làm Công tước Boleslav IV của Cechy (1003-04), Công tước Ba Lan (992-1025), Vua Ba Lan đầu tiên từ năm 1025 vì dưới triều ông Ba Lan trở thành vương quốc, có lãnh thổ tương ứng gần đúng với nước Ba Lan ngày nay, gồm Đại Ba Lan, Tiểu Ba Lan, Mazowsze, Śląsk và một phần Pomorze. Con trai là Vua Mieszko II của Ba Lan. Bolesław II, tên theo Anh ngữ: Bolesław II “The Bold” hoặc “The Generous” hoặc “The Cruel” (sinh 1039 hoặc 1042, qua đời 1081 hoặc 1082): có biệt hiệu “Táo bạo” (tiếng Ba Lan: “Szczodry”) hoặc “Phóng khoáng” hoặc “Tàn ác”, thuộc Vương triều Piast, con trưởng nối ngôi cha Kazimierz I làm Công tước Ba Lan (1058-1076), Vua Ba Lan (1076- 1079), bị truất phế sau một cuộc nổi loạn để nhường ngôi cho em là Władysław I Herman. Bolesław III, tên theo Anh ngữ: Bolesław in “Wrymouth” (1085-1138): có biệt hiệu “Miệng méo” (tiếng Ba Lan: “Krzywousty”), con của Władysław I Herman, Công tước Ba Lan (1102-1138), ban đầu cùng trị vì với anh cùng cha khác mẹ là Zbigniew (10737-1114), năm 1107 truất phế Zbigniew để trị vì một mình, sau đó thống nhất Ba Lan và chống lại Đế quốc La Mã Thần thánh, khi qua đời để lại di chúc chia lãnh thổ cho bốn con trai, từ đó Ba Lan phân hóa thành 5 lãnh địa kình chống nhau, mở đầu cho Thời kỳ Phân hóa. Trong số các con của ông, 3 người nối ngôi là Władysław II “Wygnaniec”, Bolesław IV “Kędzierzawy” (Bolesław IV “The Curly”) và Kazimierz II (Casimir II “The Just”). Bolesław IV, tên theo Anh ngữ: Bolesław IV “The Curly” (1120-1173): có biệt hiệu “Tóc quăn” (tiếng Ba Lan: “Kędzierzawy”), con trưởng của vợ kế của Bolesław III. Khi ông này qua đời, người anh cùng cha khác mẹ (con vợ đầu của cha) Władysław II “Wygnaniec” lên làm Vua Ba Lan, ông được nhận các phần đất Mazowsze và Kujavia, vì thế ông còn được gọi là “Bolesław của Mazowsze.” Khi các em cùng cha khác mẹ của Władysław II “Wygnaniec” đẩy ông này đi lưu vong, ông lên làm Đại Công tước Ba Lan (1146-1173). Người kế vị ông là Mieszko III stary. Bolesław V, tên theo Anh ngữ: Bolesław IV “The Chaste” hoặc “The Shy”: (sinh trong giai đoạn 1221-1229, qua đời 1279): có biệt hiệu “Trong trắng” (tiếng Ba Lan: “Wstydliwy”) hoặc “Nhút nhát”, con của Władysław Odonic Plwacz Leszek I “Biały”, Công tước Kalisz và Gniezno (1277- 1279). Bosporus và Dardanelles: hai eo biển ở Đế quốc Ottoman tạo đường thông thương từ Biển Đen đến Địa Trung Hải, vì thế có tầm quan trọng về địa-chính trị: tàu thuyền từ Nam Châu Âu (như của các nước Bulgaria, Rumania, Ukraina, Nga…) muốn đi ra Địa Trung Hải phải đi qua hai eo biển này. boyar: tước hiệu quý tộc của một vài nước Châu Âu. Ở Nga, boyar thường nắm giữ chức vụ trọng yếu qua hội đồng (Duma) boyar, thường có chức năng hành pháp kết hợp tư pháp. Boyar của Lietuva có thế lực yếu hơn. Brandenburg: công quốc nằm quanh thủ phủ Berlin, chư hầu của Đế quốc La Mã Thần thánh, từ năm 1618 hợp nhất với Phổ để trở thành Brandenburg- Phổ, là công quốc chủ chốt dưới quyền Tuyển hầu tước của Vương quốc Phổ (1701-1871) có Vua đầu tiên là Friedrich I, và vương quốc chủ chốt của Đế quốc Đức (1871-1918), sau Thế chiến II một phần được giao cho Ba Lan, một phần thuộc Đông Đức. BretislÂus I (sinh giữa 1002 - 1005, mất 1055): Công tước Cechy (1035- 1055), về phe với Hoàng đế Conrad II, năm 1039 xâm lăng Ba Lan chiếm Poznań và cướp phá Gniezno, mang đi thi hài của Thánh Wojciech, rồi trên đường về chiếm Wrocław. Năm 1047, Hoàng đế Henry III giúp đàm phán hòa ước giữa BretislÂus và người Ba Lan, theo đó Ba Lan cam kết không tấn công Cechy nữa để đổi lấy khoản trợ cấp hằng năm cho Gniezno. Buda: thành phố nhỏ, vào thế kỷ XIV là thủ phủ của Vương quốc Hungary, được xem là một trung tâm văn hóa của Châu Âu, đến năm 1873 ba thị trấn nam kế nhau là Obuda, Buda và Pest được sáp nhập với nhau để trở thành Thủ đô Budapest của nước Hungary độc lập. Burke: Edmund Burke (1729-1797), chính khách và nhà hùng biện người Anh, đại biểu Nghị viện Anh, có xu hướng cổ vũ nhân quyền. Byzantine: xem Đế quốc La Mã. Calvin: chủ thuyết thần học và giáo phái Cơ đốc của John Calvin (1509- 1564), nhà thần học người Pháp trong Phong trào Cải cách, tin tưởng tuyệt đối nơi quyền hạn thiêng liêng của Chúa định sẵn số phận sống chết của con người. Tư tưởng của chủ thuyết Calvin ảnh hưởng sau xa đến xã hội, như cho rằng sự cần kiệm là tính tôt về đạo đức. Capetia: Vương triều của các vua trị vì nước Pháp trong giai đoạn (987- 1328), được gọi theo tên của người mở đầu vương triều là Hugh Capet. Năm 987, Vua Louis V (hậu duệ dòng chính cuối cùng của Charlemagne Đại đế) qua đời, giới quý tộc bầu Hugh Capet, Bá tước của Paris, lên làm vua. Từ đó, Capet mở đầu một vương triều mới và chuyển đổi nền quân chủ phong kiến lỏng lẻo thành một chính quyền trung ương, tạo nền tảng cho nước Pháp sau nay. Carlyle: Thomas Carlyle (1795-1881), nhà phê bình và sử gia người Scotland, tạo nhiều ảnh hưởng trong các tác phẩm châm biếm xã hội. Carolingia hoặc Carlovingian: vương triều thứ hai của các vua người Frank trị vì các vùng đất Tây Âu từ thế kỷ VII đến thế kỷ thứ X. Carpathians: dãy núi dài 1.500 kilômét ở miền trung và đông Châu Âu, trải dài theo hình vòng cung từ Slovakia đến Romania; hai đầu của dãy núi đều chạm đến Sông Danube. Catherine của Áo (1533-1572): thuộc Vương triều Habsburg, Hoàng đế Ferdinand I của Đế quốc La Mã Thần thánh, vợ của Vua Zygmunt II Âugust. Cách mạng Pháp: sự thay đổi sau xa của hệ thống xã hội và chính trị của nước Pháp, xảy ra trong giai đoạn 1789-1799. Một vài sự kiện quan trọng gồm có việc dân chúng Paris phá ngục Bastille, phe cách mạng truất phế và xử tử Hoàng đế Louis XVI, Hội nghị Quốc dân tuyên cáo thành lập nền cộng hòa hứa hẹn tự do và bình đẳng thay thế nền quân chủ chuyên chế. Cách mạng Pháp tạo ảnh hưởng sau rộng cả bên trong và bên ngoài nước Pháp, và được xem là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử Châu Âu. Cải cách Gregory (Anh ngữ: Gregorian Reform): phong trào cải cách được đề xướng bởi Giáo hoàng Gregory VII (1073-1085), người cho rằng phong trào lấy theo tên của Giáo hoàng Gregory I (5407-604), với mục đích củng cố tính liêm khiết đạo đức và vị thế độc lập của hàng giáo phẩm, cũng liên quan đến Đế quốc La Mã Thần thánh và các vương triều khác của Châu Âu. Celt: chủng người sống ở miền Tây và Trung Âu trong một thiên niên kỷ trước Công nguyên, tạo ảnh hưởng về ngôn ngữ, tập tục và tôn giáo cho các dân tộc khác trong vùng. Charlemagne Đại đế (742? hoặc 7477-814): Vua của người Frank (768-814), mở rộng vương quốc thành Đế quốc Frankish, Hoàng đế trị vì Đế quốc miền Tây (Anh ngữ: Empire of the West) trong giai đoạn 800-814. Không bao lâu sau khi Charlemagne qua đời, đế quốc này tách ra làm hai phần: phía Tây là tiền thân của nước Pháp hiện giờ, phía Đông là Đế quốc La Mã Thần thánh. Charles II (1630-1685): Vua cả ba nước Anh, Scotland và Alien (1660- 1685). Charles IV (1316-78): Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh kiêm Vua Cechy và Vua của người Đức (1347-1378). Triều đại của ông được đánh dấu bởi việc ban hành Sắc lệnh Vàng, thiết lập quy trình bầu cử Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh. Chiến tranh Ba mươi Năm (Anh ngữ: Thirty Years’ War)-, một loạt những chiến trong giai đoạn 1618-1648, diễn ra trên các lãnh thổ của người Đức. Khởi đầu, cuộc chiến chủ yếu dựa trên xung đột tôn giáo giữa các phe nhóm Công giáo và Tin Lành trong Phong trào Cải cách. Dần dà, cuộc chiến lan rộng giữa một bên là những hoàng thân người Đức và bên kia chủ yếu là Thụy Điển và Pháp muốn hạn chế quyền lực của Đế quốc La Mã Thần thánh. Từ cuộc chiến này, Thụy Điển chiếm được nhiều lãnh thổ của người Đức. Chiến tranh Ba mươi Năm là một trong những cuộc chiến gây tàn phá nặng nề nhất trong lịch sử Châu Âu. Chiến tranh Bảy Năm (Anh ngữ: Seven Years’ War): diễn ra trong giai đoạn 1756-1763, gồm một bên là Phổ, Anh và Công quốc Hanover; bên kia là Áo, Công quốc Saxony, Pháp, Nga, Thụy Điển và Tây Ban Nha. Sau cuộc chiến, Phổ trở lại là nước hùng mạnh ở Châu Âu nhờ vận may là cái chết của Nữ Đại đế Ekaterina II của Nga. Chiến tranh Cách mạng Pháp: một loạt những cuộc xung đột diễn ra (sau khi Hoàng đế Louis XVI của Pháp bị Cách mạng Pháp đưa lên máy chém) trong giai đoạn 1792-1802 (có nguồn ghi là chỉ đến năm 1797) giữa chính quyền cách mạng Pháp thuộc Đệ Nhết Cộng hòa (được Ba Lan, Đan Mạch hỗ trợ) và một số nước Châu Âu (chủ yếu là Đế quốc La Mã Thần thánh, Phổ, Hà Lan và Anh). Sau năm 1797, chỉ còn Anh quốc tham chiến với Pháp; các nước khác hoặc bị Pháp đánh bại hoặc đi đến thỏa hiệp với Pháp. Chiến tranh chính thức kết thúc với Hòa ước Amiens năm 1802. Sau đó là giai đoạn hòa bình 1792- 1815, trung gian giữa Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon (Napoléon đăng quang năm 1804). Chiến tranh Mười ba Năm (Anh ngữ: Thirteen Years’ War): xảy ra trong giai đoạn 1454-1466, do các tỉnh của Phổ nổi dậy chống Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton, yêu cầu Kazimierz IV Jagiellończyk trợ giúp. Kết quả là Hiệp sĩ Teuton bị đánh bại, thủ phủ Marienburg của họ thất thủ, họ phải ký Hòa ước Toruń thứ Hai năm 1466. Phổ bị chia làm hai: Phổ Tây tức Phổ Hoàng gia (kể cả thành phố cảng Gdańsk) dưới quyền cai trị trực tiếp của Ba Lan (qua đó tái lập lối tiếp cận của Ba Lan ra biển), và Phổ Đông trở thành Công quốc của Công tước Phổ, chư hầu của Vương quốc Ba Lan. Chiến tranh Hussite: xem Hus. Chiến tranh Kế vị Áo: (Anh ngữ: War of the Austrian Succession) diễn ra trong giai đoạn 1740-1748, do cái chết của Hoàng đế Charles VI của Đế quốc La Mã Thần thánh, năm 1740. Trước khi ông này qua đời, nhiều nước châu Âu đã đảm bảo con gái ông là Maria Theresa sẽ nối ngôi. Tuy nhiên, khi ông qua đời, có ba người tranh giành ngai vàng: Charle Albert, Tuyển hầu tước của Công quốc Bayern (sau này là Hoàng đến Charles VII của Đế quốc La Mã Thần thánh); Vua August III của BaLan; và Vua Philip V của Tây Ban Nha. Chiến tranh diễn ra giữa một bên là Bayern, Pháp, Tây Ban Nha, Sardinia, Phổ, và Saxony (sau đó Saxony ngả về bên kia) chống lại Áo, Hà Lan, Nga, và Anh ủng hộ Maria Theresa. Chiến tranh kết thúc với thỏa ước không nước nào được giữ phần đất đã đánh chiếm (trừ ít ngoại lệ), và Maria Theresa được nối ngôi. Chiến tranh Kế vị Ba Lan: (Anh ngữ: War of the Polish Succession) diễn ra trong giai đoạn 1733-1735, vì lý do Tuyển hầu tước Công quốc Saxony kiêm Vua Ba Lan là August II qua đời năm 1733, và Stanisław Leszczyński (đã làm Vua Ba Lan lúc trước) tranh giành ngai vàng với con trai vua quá cố là August III. Chiến tranh kết thúc với việc xác định August III là Vua Ba Lan. Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha: (Anh ngữ: War of the Spanish Succession) diễn ra trong giai đoạn 1701-1714 giữa liên minh gồm Anh, Áo, Bồ Đào Nha, Đan Mạch và Hà Lan, chống lại liên quân Pháp và Tây Ban Nha cùng một số công quốc nhỏ của Ý và Đức. Lý do trực tiếp của cuộc chiến tranh này là tranh chấp về tính pháp lý của Philip V, cháu nội của Hoàng đế Pháp Louis XIV, khi kế vị ngai vàng Tây Ban Nha năm 1700. Lý do sau xa là việc kế vị này làm thay đổi cán cân quyền lực giữa các nước liên quan. Chiến tranh Teuton: hoặc Chiến tranh Ba Lan-Lietuva-Teuton, diễn ra trong giai đoạn 1409-1411, giữa Cộng hòa Ba Lan-Lietuva và Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton. Các Hiệp sĩ Teuton thảm bại nặng nề trong Trận Grunwald (Tannenberg) và không bao giờ phục hồi thế lực như trước cuộc chiến. Nhiều thành trì của họ được giao cho bên Ba Lan-Lietuva. Hòa ước Toruń thứ Nhất chấm dứt chiến tranh theo những điều khoản thuận lợi cho Hiệp sĩ Teuton so với chiến bại của họ. Chiến tranh Thụy Điển: thuật ngữ này được các sử gia sử dụng không đồng nhất. Trong sách này, tác giả chủ yếu nhắc đến cuộc chiến giữa Ba Lan-Lietuva dưới quyền Jan III Sobieski và Thụy Điển diễn ra từ năm 1655 đến năm 1660, trong giai đoạn mà sử gia gọi là “Cơn Hồng Thủy”. Một số tài liệu gọi Chiến tranh Thụy Điển là những trận chiến giữa Ba Lan-Lietuva và Thụy Điển diễn ra không liên tục trong 7 thập kỷ, từ năm 1595 cho đến năm 1660; trong khi một số tài liệu khác chỉ nhắc đến giai đoạn 1600-1629. Chmielnicki: Bogdan Chmielnicki (1595-1657), tộc trưởng người Cossack, được Hãn quốc Crimea hỗ trợ, cầm đầu một cuộc nổi loạn (1648-1651) vì lý do các yếu nhân Ba Lan-Lietuva đã đối xử với bộ tộc Cossack như là nông nô, gây nhiều thiệt hại cho Cộng hòa Ba Lan Lietuva. Chuyên quyền Khai sáng (Anh ngữ: Enlightened Despotism), thời kỳ quân chủ trong thế kỷ XVIII, khi các quân vương chuyên chế dưới ảnh hưởng của Thời đại Khai sáng tiến hành những cải cách xã hội và chính trị. Những quân vương nổi bật trong nhóm này là Nữ Đại đế Ekaterina II của Nga, Vua Friedrich II của Phổ, và Hoàng đế Joseph II của Áo. Cicero (106-43 tCN), chính khách, nhà văn và nhà hùng biện thời La Mã cổ đại. Conrad II (9907-1039): Vua Đức từ năm 1024, Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1027, tiếp nối Vương triều Saxon và khởi đầu Vương triều Salia. Conrad III (1093-1152): Vua Đức đầu tiên (1138-52), không bao giờ được bầu làm Hoàng đế nhưng tự nhận là “Vua của người Đức” cho đến khi qua đời, khởi đầu Vương triều Hohenstaufen (1138-1254) mà một vài người được bầu làm Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh. Constantinople: xem Istanbul. Cossack (một số tài liệu Việt ngữ dùng từ “Cô-dắc”): các bộ tộc sống chủ yếu ở Ba Lan, Lietuva, Nga và phần Châu Á tiếp giáp. Mỗi bộ tộc Cossack sống ở một vùng riêng dưới quyền một thủ lĩnh thường do người Cossack bầu ra nhưng có khi trong thế kỷ XVII-XVII do Nga đưa lên trong số người Cossack thân Nga. Riêng trong Quân đội Cộng hòa Ba Lan Lietuva có thành phần được gọi là “kỵ binh Cossack” thì không phải gồm người Cossack, mà được trang bị và tổ chức theo đội hình và chiến thuật của người Cossack. Sách nguyên bản không phân biệt rõ lúc nào “người Cossack” và lúc nào “kỵ binh Cossack” liên quan đến sự kiện được kể. Courland: công quốc nhỏ phía nam Riga, dưới quyền của công tước, lệ thuộc vào Ba Lan, hiện nay thuộc về nước Latvija. Córdoba (tên theo Anh ngữ: Cordoba): thành phố miền nam Tây Ban Nha hiện nay, trong các thế kỷ thứ VIII-X chịu ảnh hưởng của người Moor. Công đoàn Đoàn kết (tên Ba Lan: Solidarność): được thành lập năm 1980, trở thành một lực lượng đối lập chính trị ở Ba Lan, đến năm 1989 họ đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử nghị viện. Lech Wałęsa, một ứng cử viên của Công đoàn Đoàn kết, thắng cử Tổng thống Ba Lan năm 1990. công đồng: định chế hoặc đại hội có chức năng quản lý giáo vụ cao nhất trong một giáo hội Cơ đốc, đứng dưới giáo hoàng (Công giáo) hoặc giáo chủ (như trong Chính thống giáo), thường bao gồm những nhà lãnh đạo giáo hội cấp cao, chủ yếu là hồng y, tổng giám mục và giám mục. Định chế Công đồng là cơ quan thường trực, còn đại hội Công đồng được tổ chức định kỳ hoặc đột xuất theo lệnh triệu tập của giáo hoàng hoặc giáo chủ. Công đồng Constance: xem Hus. Công đồng Trent: Công đồng thuộc Công giáo Vatican hoạt động trong giai đoạn 1545-1563, nhằm ứng phó với Phong trào Cải cách, đề xướng cuộc cải tổ trong Giáo hội và xác định giáo lý cơ bản. Các nghị quyết của Công đồng được Giáo hoàng Pius IV chuẩn y ngày 26/1/1564, là tiêu chuẩn cho đức tin và cách hành xử của Giáo hội cho đến giữa thế kỷ XX. Công đồng cũng truyền tải đến cặc nhà lãnh đạo trong Giáo hội đường hướng nhằm đem lại sức sống mới cho Giáo hội trong giai đoạn Phản Cải cách. công quốc: lãnh thổ thường dưới quyền vua hoặc hoàng đế của một nước lớn và được trị vì bởi người có tước hiệu (như bá tước, công tước, hoàng thân…), thường là cha truyền con nối nhưng có nơi do hoàng đế chỉ định. Các công quốc khác biệt nhiều về mặt tổ chức và phân chia quyền lực, ví dụ công quốc của công tước có vị thế cao hơn của bá tước, công quốc của Tuyển hầu tước có vị thế cao hơn của công tước… Công quốc mạnh có lãnh thổ rộng, quân đội hùng hậu và được nhiều quyền tự chủ nên có vị thế không thua một quốc gia có vua. Trong sách này, đại công quốc chỉ công quốc lớn do đại công tước trị vì. Công tước hoặc quận công (duke): đôi lúc được nâng cao thành đại công tước (ở Nga được gọi là hoàng thân), là tước hiệu thường ở bậc cao nhất của giới quý tộc, chỉ thấp hơn vua và hoàng đế; trong lịch sử thường có quyền hành trị vì thật sự một công quốc lớn được gọi là “duchy” (lãnh thổ của công tước). Hiện nay một số nền quân chủ Châu Âu vẫn còn duy trì tước hiệu này nhưng chỉ có tính cách tượng trưng. Cộng hòa Ba Lan: trong lịch sử, Ba Lan được xem là đã trải qua ba nền Cộng Hòa như sau: Nền Cộng hòa thứ Nhất (1569-1795): tức Cộng hòa Ba Lan Lietuva. Nền Cộng hòa thứ Hai (1918-1939): nước Ba Lan độc lập, được thành lập sau khi Thế chiến I kết thúc, và được xem là kết thúc khi Đức và Liên Xô xâm chiếm Ba Lan vào đầu Thế chiến II. Nền Cộng hòa thứ Ba (1989-hiện tại): được thành lập sau khi chế độ cộng sản chấm dứt, tên nước được đổi lại là Cộng hòa Ba Lan. Cộng hòa Nhân dân Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polska Rzeczpospolita Ludowa) là tên chính thức của nước Ba Lan trong giai đoạn 1952-1989, nhưng không được xem là nước Cộng hòa đúng nghĩa. Cộng hòa Ba Lan-Lietuva hoặc Liên minh Ba Lan-Lietuva hoặc Khối Thịnh vượng chung Ba Lan-Lietuva: thể chế chính trị trong giai đoạn 1569-1795, được thành lập theo bộ luật được gọi là Liên hiệp Lublin vì được ký kết ở Thành phố Lublin, bao gồm chủ yếu Vương quốc Ba Lan và Đại Công quôc Lietuva cùng một số công quốc nhỏ, có diện tích bao phủ hiện nay là Ba Lan và Lietuva, toàn bộ Belarus và Latvija, một phần của Ukraina, một phần của Estonia, và một phần miền tây nước Nga. Một trong những đặc điểm của Khối Thịnh vượng chung là thể chế “Dân chủ Quý tộc” hoặc “Tự do Hoàng kim“, trong đó quyền hành của quân vương bị hạn chế bởi luật lệ và bởi Nghị viện Cộng hòa do giới quý tộc kiểm soát. Hệ thông này là tiền thân cho những ý niệm hiện đại của các chế độ quân chủ lập hiến và dân chủ mở rộng cũng như thể chế liên bang. Cơn Hồng thủy: theo nghĩa hẹp là cuộc xâm lăng Cộng hòa Ba Lan Lietuva của Thụy Điển trong giai đoạn 1654-1660; theo nghĩa rộng là một loạt những cuộc xung đột trong giai đoạn 1648-1667 ở Ba Lan-Lietuva, bắt đầu là cuộc nổi loạn của Chmielnicki. Sau khi cuộc nổi loạn bị dập tắt, Nga viện cớ này để xâm lăng Ba Lan-Lietuva năm 1654. Cùng năm, Thụy Điển với sự trợ giúp của Transylvanian cũng lợi dụng cơ hội mà xâm lăng Ba Lan-Lietuva. Nhiều nhà quý tộc Ba Lan-Lietuva vì bất mãn với Vua Jan II Kazimierz mà quay sang ủng hộ Thụy Điển, giúp Thụy Điển chiếm phần lớn lãnh thổ nhà, thậm chí khuyến khích Vua Thụy Điển lên ngôi Ba Lan Lietuva. Sự tàn phá diễn ra trên diện rộng: một phần ba số dân thiệt mạng (trên 3 triệu người), với hàng trăm nghìn người Do Thái bị sát hại. Cơn Hồng thủy dẫn đến việc người Cossack sống quanh Kyyiv cùng Công quốc Phổ trên thực tế trở thành độc lập, đánh dấu sự chấm dứt của Thời đại Hoàng kim của Ba Lan-Lietuva. Theo tinh thần Hòa ước Hadiach ngày 16/9/1658, Ba Lan-Lietuva nâng các bộ tộc Cossack và Ruthenia lên vị thế ngang hàng với Ba Lan và Lietuva trong Khối Thịnh vượng chung, và trên thực tế chuyển biến Khối này thành Khối Thịnh vượng chung Ba Lan Lietuva-Ruthenia (tiếng Ba Lan: Rzeczpospolita Trojga Narodow, “Khối Thịnh vượng chung Ba Quốc gia”). Hòa ước này thay đổi sau xa diện mạo lịch sử của Đông Âu. Crimea: bán đảo phía đông-nam Ukraina, được nối với lục địa qua Eo đất Perekop. Vào thế kỷ XV, Hãn quốc Kim Trướng của Bạt Đô (xem Mông Cổ) tan rã thành bốn hãn quốc đứng đầu là hãn vương; một trong bốn hãn quốc này là Crimea. Vì Crimea do một sắc tộc Thổ cai trị và là chư hầu của Đế quốc Ottoman của người Thổ, nên giữa hãn quốc và đế quốc này có mối quan hệ mật thiết. Hiện có bang cộng hòa tự trị Crimea thuộc nước Ukraina. Cựu giáo: Vào thập kỷ 1650, Giáo chủ của Giáo hội Chính thống Nga là Nikon khởi xướng cuộc cải tổ trong giới tăng lữ, gây nên tình trạng phân hóa trong Giáo hội này, được gọi là sự ly giáo. Một số giáo dân chống đối lại cuộc cải tổ, được gọi là “Tín đồ Cũ” thuộc nhánh Cựu giáo, thành lập nên những thể chế theo đường hướng xưa cũ của họ. Cyril và Methodius: (827-869 và 826-885) hai anh em người Hy Lạp ở Đế quốc Byzantine, đi truyền giáo lý Cơ đốc cho các dân tộc Slav ở Morava, tạo chữ viết Cyrillic sau đó được dùng cho một số ngữ văn, được Giáo hội Chính thống giáo tôn sùng. Năm 1980, Giáo hoàng John Paul II phong cho hai ông là Đồng Thánh bổn mạng của Châu Âu, cùng với Thánh Benedict của Nursia. Cechy (tiếng Anh: Bohemia, tiéng Đức: Bohmen, tiếng Ba Lan: Czechy): vùng đất lịch sử ở Trung Âu, bao quanh Thành phố Praha, chiếm hai phần ba diện tích của nước Cộng hòa Séc ngày nay. Cechy là một công quốc hùng mạnh trong thời Trung cổ, đến thế kỷ XV bị tàn phá nặng nề trong Chiến tranh Hussite, sau đó thuộc về Đế quốc Áo-Hungary, đến thế kỷ XX là một phần của Tiệp Khắc, khi Tiệp Khắc tách đôi năm 1993 thì thành một phần của mtóc Cộng hòa Séc ngày nay. Dagome ludex: tựa tài liệu cổ xưa, được cho là có liên hệ đến Ba Lan, tuy chỉ đề cập đến “Dagome” và “Ote” (Mieszko I và vợ, Oda von Haldensleben) cùng các con của họ vào năm 991. Dagome iudex chỉ còn tồn tại ở thể tóm lược được hoàn tất khoảng năm 1080. Phần lớn sử gia tin rằng Dagome là hợp nhất của hai tên: tên thánh Dago, tức “Dagobert” (được giả định là tên thánh của Mieszko), và tiếng Slav Me, tức “Mieszko.” Chữ Latinh ludex (quan tòa) có thể được hiểu là “hoàng thân.” Tuy nội dung không minh bạch và nhiều địa danh bị viết sai chính tả, Dagome ludex có tầm quan trọng lớn lao đối với lịch sử Ba Lan vì đã miêu tả tổng quan Ba Lan trong thời kỳ này. Dalmatia: dải đất nằm dọc bờ Biển Adriatic, đông-nam Châu Âu, hiện nay phần lớn thuộc về nước Croatia. Danzig: xem Gdańsk. Daszyński: Ignacy Daszyński (1866-1936), chính trị gia Ba Lan, thành lập Đảng Xã hội Chủ nghĩa Ba Lan, sau Thế chiến I làm thủ tướng một thời gian ngắn trong chính phủ lâm thời của Ba Lan, sau đó đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan. Suốt cuộc đời chính trị, ông nổi tiếng là người trong sạch. Dân chủ Quý tộc: xem: Cộng hòa Ba Lan-Lietuva. Dân quân: ở Ba Lan có tên theo tiếng Ba Lan là Armia Krajowa (gọi tắt: AK), được thành lập năm 1942, đến năm 1944 có quân số lên đến 380.000, trung thành với chính phủ Ba Lan lưu vong thân phương Tây, tổ chức kháng chiến chống quân Đức đang chiếm đóng Ba Lan. Kình chống với Lực lượng Dân quân là Quân đội Nhân dân (tên theo tiếng Ba Lan: Polish Armia Ludowa, gọi tắt: AL), được Liên Xô hậu thuẫn. de Mirabeau: Bá tước Honoré Gabriel Riqueti de Mirabeau (1749- 1791): chính khách người Pháp theo đường lối cách mạng, sử gia, Chủ tịch Quốc hội Pháp (1791). Dionysius Xứ Halicarnassus: (60 tCN?-7 tCN?), sử gia và nhà phê bình người Hy Lạp, được biết đến nhiều nhất nhờ bộ sử “La Mã Cổ đại”, trình bày lịch sử thành phố này từ thời huyền thoại đến năm 264 tCN. Trong số 20 quyển sách ông viết, 10 quyển được bảo toàn nguyên vẹn, còn lại được bảo toàn một phần hoặc được những tác giả đời sau tóm gọn. Dù không đạt đến tiêu chuẩn viết sử ngày nay, các tư liệu lịch sử của ông được xem là nguồn quý giá về thời kỳ có rất ít ghi chép để lại. Dmitri Giả mạo: chỉ 3 kẻ giả mạo Dmitri, con trai Sa hoàng Ivan IV, để có tư cách nối ngôi. Dmitri thật, là con trai của Ivan IV đã bị giết năm 1591 khi lên chín tuổi, nhưng kẻ giả mạo cho rằng mình đã thoát khỏi âm mưu ám sát. Cộng hòa Ba Lan-Lietuva ủng hộ kẻ giả mạo để làm công cụ gây ảnh hưởng lên Nga, còn Tòa thánh Vatican cũng ủng hộ để phát huy thanh thế của Công giáo ở Nga. Dmitri Giả mạo I lên làm Sa hoàng năm 1605 và bị sát hại năm sau. Dmitri Giả mạo II được góa phụ của Dmitri Giả mạo I nhận lại là chồng. Được các yếu nhân Ba Lan cung ứng tiền bạc và binh sĩ, Dmitri Giả mạo II đánh chiếm một số thị trấn Nga rồi tiến về Moskva. Nhưng với sự xuất hiện của Vua Zygmunt III Wasa và một đoàn quân liên minh Nga-Thụy Điển, Dmitri Gia mạo II phải bỏ chạy rồi sau cùng bị hạ sát. Dmitri Giả mạo III xuất hiện năm 1611, được người Cossack ủng hộ giúp ông đi đánh phá chung quanh Moskva, rồi tôn ông lên làm Sa hoàng năm 1612. Cuối cùng, vì bị chống đối ông phải chạy trốn, nhưng bị bắt giải về Moskva và bị hành quyết trong vòng bí mật. Dniepr hoặc Dnepr: sông dài 2.290 km (dài thứ ba Châu Âu), chảy từ bắc xuống tây-nam Moskva, qua đầm lầy Pripet, có một đoạn trung lưu là biên giới giữa Nga và Ba Lan, gần hạ lưu chảy qua thị trấn Smoleńsk và Thành phố Kyyiv rồi đổ ra Biển Đen. Do Thái Askenaz: (Askenaz là tiếng Do Thái, có nghĩa: “Đức”), nhóm người Do Thái ban đầu sống trong thung lũng Sông Rhine và nước Pháp lân cận, đến các thế kỷ XI đến XIII di cư về miền Đông (như Ba Lan, Lietuva và Nga). Người Do Thái Askenaz khác biệt với người Do Thái Sephardic (gốc Tây Ban Nha) về ngữ điệu, truyền thống văn hóa, lễ nghi tôn giáo… Hiện nay, người Do Thái Askenaz chiếm trên 80% tổng số người Do Thái trên toàn thế giới, nhưng ở chính nước Do Thái thì hai nhóm người có dân số ngang nhau. Domesday Book: bộ sách ghi chép kết quả những cuộc tổng điều tra đất đai của triều đình và người thuê đất này ở Vương quốc Anh dưới triều Vua William I (1027-1087, trị vì từ 10660, có nội dung được xem là “mô tả nước Anh”, nhưng theo tên gọi thông dụng Domesday từ chữ “doomsday”, có nghĩa: phán xét cuối cùng, bởi vì người được điều tra không có quyền thay đổi những gì nhân viên điều tra ghi chép. Cuộc tổng điều tra được xem là thành tựu hành chính nổi bật thời Trung cổ, vì đã cung cấp sử liệu quý giá cho phần lớn các làng mạc và thị trấn Anh quốc thời bấy giờ. Dorpat: thị trấn ở bắc Estonia, vào thế kỷ XVII nằm dưới sự kiểm soát của Thụy Điển, bị Nga đánh chiếm trong Đại chiến Bắc Âu, hiện nay có tên Tartu thuộc nước Estonia. Dòng Biển Đức: dòng tu do Thánh Benedict của Nursia (580?-547) lập ra, nhấn mạnh lối sống vì cộng đồng và lao động chân tay, không đòi hỏi khổ hạnh, mà còn chú trọng việc cung cấp đủ vật chất cho người tu. Mười hai tu viện đầu tiên được xây dựng trong thế kỷ XII gần Roma. Đến thế kỷ XIV đã có hàng chục giáo hoàng, hàng trăm hồng y, và hàng nghìn tổng giám mục xuất thân từ Dòng Biển Đức; cũng như có nhiều vua chúa, hoàng hậu và nhà quý tộc đi theo dòng này. Trong thế kỷ XX, dòng này lan rộng qua Mỹ. Dòng Camêlô: tức Dòng Đức Bà trên Núi Carmel (Order of Our Lady of Mt. Carmel), khởi sinh từ cộng đồng tu sĩ ẩn cư do Thánh Berthold đứng đầu ở Palestine trong thế kỷ XII, được Giáo hoàng Honorius III chuẩn y năm 1226. Dòng Đa Minh: dòng tu Công giáo do Thánh Dominic lập nên năm 1214 ở Toulouse nước Pháp, với tôn chỉ chống lại dị giáo đương thời, bằng cách rao giảng và nêu gương cần kiệm. Được Giáo hoàng Honorius III chuẩn y năm 1216. Dòng Khất thực (Anh ngữ: Mendicant, theo tiếng Latinh mendicare, có nghĩa “ăn xin”): thuộc Công giáo, tu theo lối khổ hạnh, có lời nguyện sống thanh bạch, không làm chủ gia sản, chủ yếu sống nhờ từ thiện. Vào thế kỷ XIII, các dòng tu được công nhận gồm chủ yếu Dòng Phanxicô và Dòng Đa Minh Dòng Phanxicô: dòng tu do Thánh Francis của Assisi lập nên khoảng năm 1208, được Giáo hoàng Innocent III chuẩn y năm 1209. Tín đồ dòng này đi từ nơi này đến nơi khác giảng đạo, tình nguyện sống nghèo khó, làm từ thiện, và đặc biệt là tham gia vào giáo dục. Bốn giáo hoàng đã xuất thân từ dòng tu này. Trên cuộc hành trình thứ nhất của Christopher Columbus đến Tân Thế giới, có một nhóm tu sĩ Dòng Phanxicô đi theo; họ xây dựng những nhà nguyện đầu tiên ở Châu Mỹ ở nước Cộng hòa Dominic ngày nay. Trong khi Dòng Phanxicô từ Tây Ban Nha lan quan Trung Mỹ, Dòng Phanxicô từ Pháp lan qua Canada và Hoa Kỳ. Dòng Phanxicô đã lập nên một số trường đại học và cao đẳng ở Hoa Kỳ. Dòng Tên: Dòng tu Công giáo do Thánh Ignatius của Loyola lập nên năm 1534, được Giáo hoàng Pope Paul III chuẩn y năm 1540. Dòng tu này chú trọng nhiều vào lĩnh vực giáo dục, từ lúc đầu đã trao nhiều học bổng cho các ngành học về thần học cũng như thế tục. Đạo hữu Ba Lan (Anh ngữ: Polish Brethren hoặc Arians, tiếng Ba Lan: Arianie): tên chính thức là Giáo hội Cải cách Thiểu số Ba Lan (Anh ngữ: Minor Reformed Church of Poland), nhánh Giáo hội Tin Lành được thành lập năm 1556, cổ vũ bình đẳng và tình huynh đệ giữa con người, công kích giáo điều về Ba Ngôi, chủ trương phân cách giữa giáo hội và chính quyền, chống các đặc lợi xã hội dựa trên quan hệ tôn giáo, kêu gọi tín đồ không đi làm nghĩa vụ quân sự… Năm 1658, giáo hội này bị trục xuất khỏi Ba Lan, các tín đồ đi sang Anh, Phổ Đông và Hà Lan, cho xuất bản rộng rãi chủ thuyết của họ và tạo nhiều ảnh hưởng đến các triết gia sau này. Đế quốc Áo-Hungary: cũng được gọi là nền Quân chủ Lưỡng quốc, nằm ở miền trung Châu Âu, do Vương triều Habsburg trị vì trong giai đoạn 1867- 1918. Đế quốc này có hai nước Áo và Hungary, mỗi nước có riêng hiến pháp, chính phủ, nghị viện, và ngôn ngữ. Người Magyar cai trị Hungary còn người Áo gốc Đức cai trị phần đất còn lại trong Đế quốc. Hai nước được kết nối bởi một quân vương duy nhất, là hoàng đế của Áo kiêm vua của Hungary, cũng có chung các bộ trường ngoại giao, chiến tranh, và tài chính. Đế quốc Đức (Đức ngữ: Deutsches Reich): được Bismarck thành lập năm 1871 sau khi thông nhất các vương quốc và công quốc do người Đức cai trị, chấm dứt năm 1918 khi Hoàng đế Wilhelm II thoái vị. Mặc dù Bismarck rất mong muốn, ông vẫn không thể nắm bao quát lãnh thổ được gọi là “Áo-Đức” trong Đế quốc Đức. Deutsches Reich là tên chính thức được tiếp tục sử dụng cho Cộng hòa Đức (1919-1933) và nước Đức dưới chế độ Quốc xã (1933-1945). Đế quốc La Mã: còn được gọi là nước Cộng hòa La Mã, nổi lên từ năm 27 tCN, vào thời kỳ cực thịnh kiểm soát 5,9 triệu kilômét vuông chung quanh Địa Trung Hải. Đến cuối thế kỷ thứ III, để tiện việc cai trị một lãnh thổ quá rộng, Đế quốc La Mã được chia ra thành hai đế quốc La Mã Đông và La Mã Tây, thường do hai hoàng đế cai trị nhưng đôi khi có một hoàng đế duy nhất. Năm 330, Hoàng đế Constantine đặt thủ phủ Đế quốc La Mã Đông tại Byzantium và đổi tên thành phố này thành Constantinople. Vì thế, sử gia sau này gọi Đế quốc La Mã Đông là “Đế quốc Byzantine”, và một số sử gia xem Đế quốc Byzantine là bắt đầu từ năm 330. Năm 395, hai Đế quốc La Mã Đông và La Mã Tây tách rời hẳn nhau nên một số sử gia khác xem Đế quốc Byzantine là bắt đầu từ năm 395. Năm 476, Đế quốc La Mã Tây tan rã, còn Đế quốc Byzantine tức La Mã Đông vẫn tồn tại. Đến năm 1453, người Thổ Ottoman đánh chiếm Constantinople, xóa hản Đế quốc La Mã, thành lập Đế quốc Ottoman. Đế quốc La Mã Thần thánh hoặc Thánh chế La Mã (Anh ngữ: Holy Roman Empire): còn được xem là Đế quốc thứ Nhất của người Đức, do Giáo hoàng Leo III thành lập năm 800 và cử Charlemagne Đại đế làm hoàng đế. Việc này dựa trên ý tưởng làm sống lại Đế quốc La Mã Tây đã suy tàn từ thế kỷ thứ V, nhằm tạo ra đối trọng với Đế quốc La Mã Đông, tức Đế quốc Byzantine. Từ thế kỷ thứ X, đế quốc được cai trị bởi vương triều người Đức, nên còn được gọi là “Đế quốc Đức.” Lãnh thổ của Đế quốc thay đổi theo từng thời kỳ, tùy thuộc vào tiềm lực quân sự và chính sách ngoại giao. Thời cực thịnh vào thế kỷ XI đến XII, đế quốc này trải xuyên suốt từ Biển Bắc xuống đến Địa Trung Hải, bao gồm lãnh thổ rộng lớn của các nước hiện nay: Đức, Áo, Thụy Sĩ, miền Đông nước Pháp, Bỉ, Hà Lan, miền Tây Ba Lan, Cộng hòa Séc, và nửa phần trên của nước Ý. Tuy nhiên, đến thê kỷ XVI—XVII đặc biệt là trong Chiến tranh Ba mươi Năm, Đế quốc đã suy yếu nhiều, do Vương triều Habsburg trị vì, đóng thủ phủ ở Wien. Lúc đó, Hoàng đế chỉ là tước hiệu tượng trưng vì quyền lực thật sự là do các lãnh thổ và công quốc thành viên nắm giữ. Đế quốc La Mã Thần thánh bị giải tán năm 1806 (ứng với câu châm biếm của Voltaire để mô tả thực trạng: “không phải thần thánh, không phải La Mã, mà cũng không phải là đế quốc”). Tuy thế Đế quốc La Mã Thần thánh vẫn để lại vọng tưởng nối tiếp cho người Đức về sau. Otto von Bismarck thiết lập Đế quốc Đức năm 1871, sau này được gọi là “Đế quốc thứ Hai,” và Adolf Hitler, trong khát vọng dựng nên một nước Đức hùng mạnh, tạo viễn tưởng của “Đế quốc thứ Ba.” Đế quốc Nga: tên gọi chính thức nước Nga do Pyotr Đại đế đưa ra năm 1721, cho đến khi vương triều sụp đổ năm 1917. Đế quốc Ottoman: Đế quốc do người Thổ theo đạo Hồi trị vì, lấy Istanbul làm thủ đô. Vì thế, trong lịch sử các từ “Thổ” và “Istanbul” được dùng để chỉ Ottoman. Đế quốc Ottoman cực thịnh trong thế kỷ XVI, lúc ấy lãnh thổ trải rộng qua ba lục địa, bao trùm các nước hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bulgari, Romania, Nam Tư (sau này phân làm 6 nước độc lập), Hungary, Albani, Syri, Lebanon, Jordan, Do Thái, Aden, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisi, Algeri, Cyprus, Armenia, Georgia, và một phần nước Nga. Cư dân Ottoman phần đông theo đạo Hồi; sắc tộc chính là người Thổ Ottoman, kế đến là Ả Rập, Kurd, Tatar Crimea, Bosnia, Albani… Cũng có hàng triệu dân theo Cơ đốc giáo: Hy Lạp, Serb, Hungary, Bulgaria… Ekaterina II (tên theo Anh ngữ: Catherine II): nhũ danh Sophie Augusta Fredericka, tên Nga Ekaterina Alekseyevna (1729-1796), lúc sinh ra là Công chúa Đức, cưới Hoàng đế Pyotr III của Nga rồi thay ông này mà làm Nữ Hoàng đế Nga (1762-1796), được phong tặng là Nữ Đại đế. Bà để lại dấu ấn trong lịch sử nước Nga bằng cách mở rộng lãnh thổ Nga về phía nam xuống đến Biển Đen và về phía tây qua Châu Âu, trong khi tiếp tục công cuộc hiện đại hóa do Pyotr Đại đế khởi xướng, mặt khác nhờ trình độ tri thức đã thể hiện Thời đại Khai sáng của nước Nga. Elbe: sông dài 1.170 km ở miền trung Châu Âu, chảy qua các thành phố Dresden và Hamburg của Đức, nối bằng kênh với Sông Odra ở Cộng hòa Séc cùng các sông Rhine và Weser ở Đức hiện nay, rồi chảy ra Biển Bắc phía nam Đan Mạch. Elbląg (tên tiêng Đức trong lịch sử: Elbing): thành phố miền bắc Ba Lan có cảng trên Sông Elbląg thông ra Biển Baltic, được Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton xây dựng trong thời Trung cổ. Sau khi Phẩm cấp này bị đánh bại, Elbląg lần lượt qua tay Vương quốc Ba Lan (1466), Vương quốc Phổ (1772), và Đế quốc Đức (1871), từ năm 1945 thuộc về Ba Lan. Elizabeth I (1533-1603): Nữ hoàng Anh và Ireland (1558-1603), phụ nữ đầu tiên ngồi trên ngai vàng nước Anh, có tính khí cứng cỏi, rất được yêu mến trong khi trị vì và thậm chí trở thành huyền thoại lớn lao sau khi qua đời. Không hề kết hôn, Elizabeth I là người cuối cùng của Vương triều Tudor. Elizaveta (tên theo Anh ngữ: Elizabeth): Elizaveta Petrovna (1709- 1762): con gái út của Pyotr Đại đế và Ekaterina I, Nữ Hoàng đế của Nga (1741- 1762). Estonia: hiện giờ là nước cộng hòa ở đông-bắc Châu Âu, giáp với Vịnh Phần Lan (phần kéo dài của Biển Baltic) về hướng bắc, nước Latvija về hướng nam, Nga về hướng đông, và Biển Baltic về hướng tây. Sau Thế chiến I, Estonia là nước độc lập, bị Liên Xô sáp nhập năm 1940, và trở lại thành nước độc lập từ năm 1991. Ferdinand I (1503-1564): thuộc Vương triều Habsburg, Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (1558-1564). Ferdinand II (1578-1637): thuộc Vương triều Habsburg, cháu nội của Ferdinand I, Vua Cechy (1617-1619), Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (1619-1637), Vua Hungary (1621-1625). Flander: một vùng của sắc dân Flemish có những nét đặc thù về văn hóa, trải dài từ miền Bắc nước Pháp đến miền Nam Hà Lan và phân nửa miền Tây, vào thế kỷ XI nằm trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Flemish: xem Flander. Frank: nhóm bô tộc gốc người Đức, vào giữa thế kỷ thứ II sống dọc Sông Rhine rồi mở rộng dần thế lực cho đến đỉnh điểm khi một người Frank là Charlemagne Đại đế lên làm hoàng đế năm 800, mở ra Đế quốc La Mã Thần thánh. Riêng đất của người Frank phát triển thành Đế quốc Pháp, mang tên “France” biên thể từ Frank. Frederick I Barbarossa (1122-1190): được bầu làm Vua Đức năm 1152, đăng quang Vua Ý năm 1154, đăng quang Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh năm 1155, đăng quang Vua Burgundy năm 1178. Friedrich I (1657-1713): Vua đầu tiên của nước Phổ (1701-1713), nguyên là Tuyển hầu tước Friedrich III của Công quốc Brandenburg (1688-1701), con của Đại Tuyển Hầu tước Friedrich Wilhelm. Friedrich II (1712-1786): thuộc Hoàng tộc Hohenzollern, Vua nước Phổ (1740-1786), được xưng tụng là Friedrich Đại đế của Phổ, con của Friedrich Wilhelm I và cháu nội của Friedrich I. Ông liên minh với Nữ Hoàng đế Ekaterina II của Nga trong cuộc Phân chia Ba Lan thứ Nhất năm 1773, tiếp nhận Phổ Hoàng gia, qua đó thông nhất hai vùng Brandenburg và Pomorze. Vì không có con, cháu gọi ông bằng chú là Friedrich Wilhelm II nối ngôi ông. Friedrich III: xem Friedrich I (1657-1713), Vua nước Phổ. Friedrich-August: xem August II. Friedrich Đại đế: xem Friedrich II. Friedrich Wilhelm (1620-1688): thuộc Vương triều Hohenzollern, Đại Tuyển hầu tước của Brandenburg (1640-11688), được xem là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, tạo nền móng cho Công quốc Phổ hùng mạnh để con trai ông xưng làm vua Friedrich I, nâng Phổ lên hàng vương quốc. Friedrich Wilhelm I, tên theo Anh ngữ: Frederick William I (1688- 1740): Vua Friedrich Wilhelm I của nước Phổ (1713-1740), coh của Friedrich I. Kế vị ông là Friedrich II (Friedrich Đại đế). Friedrich Wilhelm II, tên theo Anh ngữ: Frederick William II (1744- 1797), thuộc Vương triều Hohenzollem, Vua nước Phổ (1786-1797), cháu nội của Friedrich Wilhelm I. Friedrich Wilhelm III, tên theo Anh ngữ: Frederick William III (1770- 1840), thuộc Vương triều Hohenzollern, Vua nước Phổ (1797-1840), con trai của Friedrich Wilhelm II. Frisia: vùng đất lịch sử ở tây-bắc Châu Âu, bên bờ Biển Bắc, bao gồm phần lớn Hà Lan ngày nay, một phần tây-bắc Đức và Đảo Frisian, lấy tên từ dân tộc Frisia gốc Đức đã định cư ở đây từ thời tiền sử, dần dà phát triển ngôn ngữ và văn hóa, cá biệt còn tồn tại cho đến ngày nay. Vào thế kỷ XVI, phần lớn Frisia thuộc quyền kiểm soát của Đế quốc La Mã Thần thánh, đến năm 1579 gia nhập Cộng hòa Hà Lan dưới tên Friesland, nổi tiếng Frisia là ngôn ngữ chính thức. Fronde: một loạt những cuộc nổi loạn chống lại triều đình Pháp trong giai đoạn 1648-1653, dưới triều Hoàng đế Louis XIV của Pháp. Bắt đầu chỉ là do Nghị viện phản đối chính sách thuế khóa của nhà Vua, sau đó biến thành nổi dậy có vũ trang. Năm 1649, lực lượng chính phủ ngăn chặn quân nổi dậy và hai bên đạt thỏa thuận dung hòa. Nhưng đến năm 1650, cuộc nổi dậy lại bùng nổ khi giới quý tộc tranh giành quyền lực với triều đình, nhưng thất bại. Cuộc nổ dậy đánh dấu lần cuối cùng giới quý tộc Pháp chống lại quân vương, và củng cố quyền lực của triều đình. Galicia: vùng đất nằm dọc triền bắc của dãy núi Carpathians, là lãnh địa quan trọng của người Slav trong hai thế kỷ XI và XII, sau đó thuộc về Ba Lan. Sau cuộc Phân chia Ba Lan thứ Nhất năm 1772 thuộc về Đế quốc Áo; sau Thế chiến I thuộc về Cộng hòa Ba Lan gồm các tỉnh Tarnopol, Lwów, Stanisławów, và Kraków; sau Thế chiến II thuộc về Ukraina của Liên bang Xô Viết với các tên được thay đổi: Tarnopol thành Temopol, Lwów thành Lvov, và Stanisławów thành Stanislav; hiện nay nằm trong nước Ukraina độc lập và các tên được đổi lại thành Temopil’, L’viv, và Ivano-Frankivs’k. Riêng Kraków vẫn thuộc Ba Lan. Gall Vô danh: được gọi theo tiếng Ba Lan là Gall Anonim, sống vào khoảng thế kỷ XI đến thế kỷ XII, không rõ gốc gác (hoặc là người Pháp hoặc là giáo sĩ Ý hoặc là giáo sĩ Dòng Biển Đức đến từ Venice), tác giả quyển sách được viết khoảng năm 1115 bằng văn tự Latinh Cronicae etgęsta principum Polonorum (Sử biên niên các Quận công và Hoàng thân Ba Lan). Ông được xem là sử gia đầu tiên mô tả nước Ba Lan. Gdańsk (tên theo tiếng Anh và Đức: Danzig): thành phố ở miền bắc Ba Lan, nơi hai nhánh Sông Wistla chảy qua, trong thời Trung cổ bị người Đức, Phổ (cũng do người Đức cai trị) và Ba Lan chiếm đi lấy lại nhiều lần, do đó hai tên Gdańsk và Danzig cũng đổi qua lại; sau Thế chiến I được Hòa ước Versailles quy định dưới quyền kiểm soát của Hội Quốc liên theo thể chế “Thành phố Tự do”; hiện nay thuộc Ba Lan. Giáo hội Chính thống Nga: bộ phận Cơ đốc giáo dưới quyền Giáo chủ ở Moskva, được cho là bắt nguồn từ Giáo hội Báp-tít ở Kyyiv năm 988 (vì thế lễ kỷ niệm 1.000 năm của Giáo hội diễn ra vào năm 1988). Khởi đầu, Giáo hội nằm dưới sự lãnh đạo của Giáo chủ ở Constantinople, rồi dời đến Moskva năm 1326 sau khi Mông Cổ tàn phá Kyyiv. Đến năm 1448, Giáo hội Chính thống Nga trở thành độc lập khỏi Giáo chủ ở Constantinople. Năm 1700, sau khi Giáo chủ Adrian qua đời, Pyotr Đại đế không đề cử giáo chủ mới như truyền thống, mà đợi đến năm 1721 mới thành lập Công đồng Tối cao để cai quản Giáo hội. Cơ cấu này được duy trì cho đến sau Cách mạng Nga năm 1917, khi đó các giám mục bầu lên giáo chủ. Głogów: thị trấn gần biên giới tây-nam nước Ba Lan hiện nay, một trong những thị trấn cổ nhất của Ba Lan. Gniezno hoặc Gnesen: thành phố miền trung-tây của Ba Lan, cách Thủ đô Warszawa 225 kilômét về hướng tây-bắc, thủ đô đầu tiên thuở xưa của Ba Lan và cũng là thủ phủ truyền thống của Công giáo Ba Lan. Gomułka (1905-1982): nhà lãnh đạo Cộng sản Ba Lan, trong Thế chiến II tham gia kháng chiến chống Đức Quốc xã, được cử làm phó thủ tướng năm 1944. Năm 1949, vì có ý chống đối Stalin kiểm soát nội tình Ba Lan, ông nêu lên chủ trương “Con đường Ba Lan tiến lên xã hội chủ nghĩa”, nên mất mọi chức vụ trong nhà nước và đảng, rồi bị giam. Sau khi Stalin qua đời năm 1953, ông được đưa ra khỏi nhà tù và được phục hồi, rồi đến tháng Mười năm 1956 được bầu làm Bí thư thứ nhất của Đảng. Sự kiện “tháng Mười của Gomułka” được người dân Ba Lan cho là đánh dấu một giai đoạn mới để Ba Lan có thể đi theo con đường tương đối độc lập, cởi mở. Goth: chủng tộc Đông Đức bắt nguồn từ Scandinavia, khoảng 600-300 năm tCN di cư đến vùng giữa hai sông Odra và Wistła, rồi tiến thêm về miền nam nước Nga và pha trộn với những chủng tộc khác, sau đó chia thành 2 nhánh Visigoth (Goth Tây) và Ostrogoth (Goth Đông). Đến thế kỷ thứ XVIII, người Goth nói chung bị đồng hóa với các chủng tộc khác, ngôn ngữ và văn hóa của họ cũng không tồn tại. Grodno: thành phố cảng bên bờ Sông Neman thuộc Ba Lan, hiện có tên Hrodna thuộc Belarus. Grotius: Hugo Grotius (1583-1645): chính khách và nhà luật học người Hà Lan, người đặt nền móng cho công pháp quốc tế hiện đại. Ông bài bác quyền của bất cứ nước nào giành chủ quyền mặt biển ngoài khơi làm lãnh thổ của riêng mình. Ông cũng lên án chiến tranh, cho rằng chỉ chấp nhận chiến tranh nếu vì lý do đúng lý và nếu việc hòa giải đã thất bại. Gulf Stream: dòng hải lưu âm của Đại Tây Dương, chảy từ Eo biển Florida theo hướng đông-bắc đến ngoài khơi Newfoundland của Canada. Dòng hải lưu Gulf Stream đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều hòa khí hậu ở miền Tây Châu Âu. Gustav II Adolf: tên theo tiếng Anh: Gustavus II Adolphus (1594- 1632), Vua Thụy Điển (1611-1632), nhà chỉ huy quân sự đại tài nhờ chiến thuật sử dụng pháo binh cơ động, phương án tấn công linh hoạt nhưng vẫn tổ chức phòng thủ chặt chẽ, và nghệ thuật tâm lý chiến truyền đạt từ người chỉ huy đến người thừa hành thấp nhất. Trong lịch sử Thụy Điển, chỉ có ông được Nghị viện Thụy Điển ban tặng danh hiệu “Đại đế.” Habeas Corpus: (tiếng Latinh, có nghĩa: “bạn có thân xác”), trát tòa cho phép bắt giam người, nhằm tránh việc giam giữ người trái phép. Habsburg hoặc Hapsburg: vương triều người Đức, được xem là một trong những vương triều có thế lực nhất trong lịch sử Châu Âu cận đại, bắt đầu năm 1273 với Hoàng đế Rudolf I của Đế quốc La Mã Thần thánh. Trong giai đoạn 1440-1806 (không liên tục), người lãnh đạo Vương triều Habsburg thường nắm ngai vàng của Đế quốc này. Người của Vương triều Habsburg cũng đứng đầu Đế quốc Áo-Hungary từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, và trong nhiều thời điểm khác nhau cũng là vua các nước Cechy, Hungary, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Quân vương cuối cùng của Vương triều là Hoàng đế Charles I của Áo kiêm Vua Charles IV của Hungary (1916-1918). Hanover: trong thế kỷ XVII là một công quốc trong Đế quốc La Mã Thần thánh, có thủ phủ cùng tên, do một công tước trị vì; đến năm 1692 công tước Hanover nhận thêm tước hiệu Tuyển hầu tước. George I (1660- 1727), Tuyển hầu tước Hanover từ năm 1698, kiêm nhiệm vua Anh và vua Ireland từ năm 1714, mở đầu cho Hoàng tộc Hanover ở triều đình Anh. Trong giai đoạn 1814-1866, Hanover là một vương quốc và trong giai đoạn 1866-1946 là một tỉnh của Vương quốc Phổ. Sau Thế chiến II, Hanover là một phần của Bang Saxony Hạ thuộc Đức. hansa: tên gọi phường hội buôn bán bắt đầu ở Châu Âu vào thế kỷ XI, lúc nền mậu dịch và đô thị hóa tăng mạnh. Các thương gia thường di chuyển từ nước này qua nước khác, và để bảo vệ lẫn nhau, thương gia cùng thành phố thường đi cùng nhau theo đoàn lớn. Các thành viên trong đoàn bầu lên thủ lĩnh, cùng cam kết tuân theo chỉ thị của thủ lĩnh và hỗ trợ lẫn nhau khi có kiện cáo, tranh tụng. Các thành viên của phường hội còn dành cho nhau những đặc quyền buôn bán trong cùng thành phố. Hedwig: xem Jadwiga. Hellenist: nền văn hóa và học thuật Hy Lạp lan rộng trên miền Địa Trung Hải và Trung Đông giữa thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, được gọi là Hellenist (theo tiếng Hy Lạp Hellas có nghĩa “Hy Lạp”) để phân biệt với nền văn hóa Hy Lạp cổ điển được gọi là “Hellenic.” Trung tâm điểm văn hóa là ở Thành Phố Alexandria của Ai Cập được xây dựng trong thời kỳ này. Nhiều tiến bộ về y khoa, vật lý thiên văn học, toán học, diễn ra trong thời kỳ này. Hengist và Horsa: Hengist hoặc Hengest (7-488?) là tên theo tiếng Đức có nghĩa “sư tử”, cùng với em trai Horsa (có nghĩa “ngựa”) là hai nhân vật người Saxon nhuốm màu huyền thoại, được cho là đã lãnh đạo người Jute gốc Đức từ miền trung và bắc Scotland và bắc Ireland. Sau khi đánh bại người Pict, Hengist làm vua xứ Kent, nước Anh, cho đến khi qua đời, còn Horsa cũng lưu lại đây rồi tử trận sau một trận đánh khoảng năm 455. Henry II (973-1024): con của Henry II, Công tước Xứ Bayern, kế vị cha trong tước vị này từ năm 995 dưới vương hiệu Henry IV, Vua Đức từ năm 1002, Vua Ý từ năm 1004, Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1014 đến khi qua đời, được Giáo hoàng Clement II phong thánh năm 1146. Henri III (1551-1589): tước danh gốc là Henri III de Valois, Công tước Xứ Anjou, Vua Ba Lan với tước danh Henryk II Walezy (1573-1574), Vua Pháp (1574-1589), em trai Vua Charles IX của Pháp (1550-1574), anh Vua Francis II của Pháp (1544-1560), và Francis II cưới Nữ hoàng Mary của Scotland (1542- 1587). Vì thế, trong giai đoạn này hoàng gia Ba Lan có mối quan hệ mật thiết với Pháp và Scotland. Sau khi Charles IX bất ngờ qua đời, Henri II bỏ trốn khỏi Ba Lan để về Pháp nối ngôi với vương hiệu Henri III (theo Anh văn: Henry III - cạn tránh nhầm với Henry III, Vua nước Anh). Ông là vua Pháp cuối cùng của Vương triều Valois. Henry V (1086-1125): Vua Đức (1098-1125), Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (1106-1125), kế vị cha là Henry IV. Kế vị ông là Hoàng đế Lothair II. Henryk I “Brodaty” (1163-1238): tên theo Anh ngữ: Henry I “The Bearded”, có biệt hiệu “Râu quai nón”, thuộc nhánh Śląsk của Vương triều Piast, Công tước Śląsk Hạ từ năm 1201, Công tước Tiểu Ba Lan từ năm 1232 và là hoàng thân cấp cao của toàn Ba Lan cho đến khi qua đời. Người kế vị là con trai thứ ba, Henryk II “Pobożny.” Henryk II “Pobożny” (1191-1241): tên theo Anh ngữ: Henry II “The Pious”, có biệt hiệu “Mộ đạo”, thuộc Vương triều Piast, con trai thứ ba của Henryk I “Brodaty”, nhận tước hiệu Công tước Śląsk Hạ từ năm 1163 thuộc nhánh Śląsk của Vương triều Piast. Ông thống nhất phần lớn các lãnh thổ bị phân hóa: Śląsk Hạ, Đại Ba Lan và Tiểu Ba Lan. Henryk III “Biały” (1227-1266): có biệt hiệu “Da trắng”, con của Henryk II “Pobożny”, Công tước Wrocław sau khi Śląsk Hạ bị phân chia vào năm 1248. Herod (73tCN?-4tCN): Vua người Judea, được kể trong kinh thánh Tân Ước là tìm cách giết hài đồng Jesus bằng cách ra lệnh giết tất cả trẻ em dưới 2 tuổi ở Bethlehem. Hiến chương: trong thời Trung cổ, khi một khu định cư đã có cuộc sống ổn định thì vua chúa ban hiến chương chính thức thiêt lập thị xã hoặc thành phố cho khu định cư ấy, quy định những nghĩa vụ cùng đặc quyền và đặc lợi. Hiệp Sĩ Teuton: Teuton là tên gọi những bộ tộc cổ xưa sống ở miền đất hiện nay là Bắc Đức, Đan Mạch và Pháp, bị Đế quốc La Mã tiêu diệt năm 102 tCN. Từ “Teuton” còn sót lại để chỉ những dân tộc người Đức. Một Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton được thành lập vào cuối thế kỷ XII dưới sự lãnh đạo của một Thủ lĩnh (Anh ngữ: Grand Master), đặt căn cứ ở vương quốc Phổ, với quân phục và khiên nền trắng và chữ thập màu đen, xây dựng một loạt thành trì vững chắc. Từ đây, họ tiến hành những cuộc tấn công mở rộng lãnh thổ về miền đông chống các dân tộc Slav. Đến thế kỷ XIV, các Hiệp sĩ Teuton trở thành một lực lượng hùng mạnh, thống trị Đông Âu và Trung Âu. Trong nhiều thế kỷ, họ tiếp tục thôn tính các dân tộc Slav và giúp người Đức mở rộng lãnh thổ về phía Đông Âu. Hiệp ước Quốc Xã-Liên Xô (28/8/1939): còn được gọi là Hiệp ước Motolov-Ribbentrop, có tên chính thức là “Hiệp ước bất tương xâm giữa Đức và Liên bang Xô viết”; Nghị định thư bí mật đính kèm quy định các nước Phần Lan, Estonia, Latvija, Lietuva và Rumania thuộc vùng ảnh hưởng của Liên Xô; hai nước đồng ý chia nhau Ba Lan. Hohenzollern: vương triều bắt nguồn từ các Hiệp sĩ Teuton của người Junker, trị vì các nước Phổ, Đức và Rumania từ thế kỷ XVI, kéo dài đến hoàng đế cuối cùng của Đế quốc Đức là Wilhelm II (trị vì 1888-1918). Hòa ước Grzymułtowski: Hòa ước giữa Ba Lan và Nga, được ký kết năm 1686 sau khi Ba Lan đã kiệt quệ vì nhiều năm chiến tranh. Ba Lan nhượng cho Nga vùng đất Ukraina màu mỡ, từ đó đánh dấu sự vươn mình của nước Nga. Hòa ước Oliwa: được ký kết tháng 5/1660 tái lập hòa bình giữa Cộng hòa Ba Lan-Lietuva và Thụy Điển. Hòa ước Westphalia (Anh ngữ: Peace of Westphalia): một số hòa ước nhằm chấm dứt Chiến tranh Ba mươi Năm, chủ yếu là Hòa ước Tây Ban Nha ngày 30/1/1648 để chấm dứt chiến tranh và hòa ước ngày 24/10/1648 giữa Hoàng đế Ferdinand III của Đế quốc La Mã Thần thánh, một số hoàng thân người Đức, cùng Pháp với Thụy Điển. Hòa ước Westphalia được các sử gia ghi nhận là cột mốc bắt đầu kỷ nguyên lịch sử hiện đại. hội đồng: trong lịch sử, chỉ chung cơ quan quy tụ chủ yếu giới quý tộc hoặc lãnh chúa địa phương, có chức năng vừa là hành pháp (như chính phủ) vừa là lập pháp (như nghị viện). Tùy vị thế của quân vương yếu hay mạnh mà hội đồng có thế mạnh hay yếu, khi mạnh nhất có thể lấn át quyền hành của quân vương. Hợp nhất: Giáo hội xuất xứ từ Chính thống giáo, chấp nhận đức tin Công giáo và quyền tối cao của giáo hoàng, nhưng duy trì nghi thức cùng luật giáo hội khác biệt và tổ chức riêng rẽ của hàng giáo phẩm. Giáo hội Hợp nhát còn được gọi là Cơ đốc giáo miền Đông. Hun: bộ tộc du mục gốc Châu Âu, có lẽ xuất phát từ các chủng tộc Thổ Nhĩ Kỳ, Tatar, hoặc Ugria. Có lẽ một nhánh người Hun sông ở phía tây Trung Hoa mà từ thời Tiền Hán (206 tCN đến 8) được người Trung Hoa gọi là Hung Nô. Trong hai thế kỷ thứ IV và thứ V, người Hun chủ yếu phân bổ dọc bờ bắc Biển Caspi và cướp bóc Đế quốc La Mã. Từ nửa thế kỷ thứ IV, người Hun chiến thắng nhiều đoàn quân Châu Âu giữa hai sông Volga và Don rồi tiến đến Sông Danube, lên đến đỉnh điểm là những cuộc hành quân dưới quyền chỉ huy của thủ lĩnh Attila, dần dà thu nhận nhiều chủng tộc hòa nhập với họ cho đến lúc họ mất bản sắc Châu Á và khó được phân biệt dựa trên chủng tộc hoặc ngôn ngữ. Sau cái chết của Attila năm 453, thế lực của người Hun suy yếu và không còn giữ vị thế quan trọng trong lịch sử Châu Âu. Hus: Jan Hus hoặc John Huss (13697-1415): người Cechy, Linh mục Công giáo (1400-), Trưởng khoa Triết học Đại học Praha (1401-), có những hoạt động nhằm cải cách Công giáo (cuối cùng dẫn đến việc thành lập Hội thánh Tin Lành qua chủ thuyết Phúc Âm), bị Công giáo cấm thuyết giảng. Năm 1414, Hus được triệu đến Công đồng Constance (được thiết lập nhằm giải quyết những xung đột trong giáo hội). Sau khi được Hoàng đế Sigismund của Đế quốc La Mã Thần thánh đảm bảo, Hus thấy đây là cơ hội để bảo vệ quan điểm của mình. Nhưng khi đến nơi, ông bị đưa ra xét xử với tội dị giáo. Được yêu cầu tỏ ý ăn năn và cam kết sẽ không thuyết giảng giáo điều của mình nữa, ông từ chối. Ông bị kết án tử hình và bị đưa lên giàn thiêu. Cái chết của ông dẫn đến “Chiến tranh Hussite” trong đó người theo giáo điều Hus (được gọi là “Hussite”) can dự, diễn ra trong giai đoạn 1419-1436 giữa Công giáo và Đế quốc La Mã Thần thánh. Hussar: kỵ binh thiện chiến của Hungary trong thế kỷ XV, được trang bị bằng gươm, búa, giáo, súng lục…, là một thành phần của Quân đội Cộng hòa Ba Lan-Lietuva, nổi tiếng nhờ các chiến công đánh thắng quân Nga, Thụy Điển, Ottoman… Sau đó, từ “Hussar” được dùng đẻ chỉ kỵ binh các nước Châu Âu khác được tổ chức và trang bị tương tự như kỵ binh Hungary. Istanbul hay Istambuł: thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, có vị trí chiến lược vì nằm ở đầu phía nam của Eo biển Borphorus, nơi Châu Âu va Châu Á tiếp giáp nhau, khởi đầu mang tên Byzantium. Đến năm 330, Hoàng đế Constantine chỉ định Byzantium làm thủ phủ của mình, đổi tên thành phố này thành Constantinople (có nghĩa: Thành phố của Constantine), vì thề trong giai đoạn 330-395 Constantinople là thủ phủ của Đế quốc La Mã. Trong các giai đoạn 395-1204 và 1261-1453, Constantinople là thủ phủ của Đế quốc Byzantine tức Đế quốc La Mã Đông, 1204-1261 là thủ phủ Đế quốc Latinh. Năm 1453, người Ottoman chiếm được thành phố, đổi tên thành phố thành Istanbul và đặt nơi này làm thủ đô của Đế quốc Ottoman. Khu lịch sử của Istanbul đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Ivan III: hay Ivan Đại đế hay Ivan III Vasilyevich (1440-1505), trị vì nước Nga với tước hiệu Đại Hoàng thân (1462-1505), được phong tặng là “Vĩ đại”. Ivan IV: hay Ivan Bạo chúa hay Ivan IV Vasilyevich (1530-1584), lên ngôi Đại Hoàng thân Đại Công quốc Moskva nam 1530, đến năm 1547 là người đầu tiên chính thức xưng tước hiệu sa hoàng nước Nga, trị vì cho đến khi qua đời. Từ “Ivan Bạo chúa” hoặc “Ivan Hung đế” (Anh ngữ: Ivan the Terrible) là do sử sách ghi để phán xét vị vua hung bạo này. Jacobin: tên được dùng để gọi các thành viên của một câu lạc bộ chính trị Pháp giữ một vai trò quan trọng trong Cách mạng Pháp, có hai nhà lãnh đạo nổi tiếng là de Mirabeau và Robespiere. Jadwiga hoặc Hedwig tức Thánh Jadwiga (1734-1399): con gái út của Ludwik Wegierski, bị xem là con tốt trong việc dàn xếp hôn nhân: lúc còn rất nhỏ được cha cho hứa hôn với Wilhelm 5 tuổi, người sẽ thừa kế ngôi vị Đại Công tước Áo của Vương triều Hapsburg. Nhưng vì cha và chị bất ngờ qua đời, năm 1384 lúc lên 10 tuổi Jadwiga được tôn làm “Vua” Ba Lan có quyền hành tuyệt đối như vua, rồi nhận quyết định phải cưới Jagiello. Vương triều Hapsburgs muốn xúc tiến hôn lễ giữa Wilhelm và Jadwiga nhưng bị phía Ba Lan từ chối. Hôn lễ giữa Jadwiga và Jagiełło giúp thống nhất Ba Lan, Lietuva và Ruthenia thành một định chế chính trị hùng mạnh để đương đầu với sự bành trướng của Nga và Đức; Jagiełło lên làm Vua Ba Lan, tức là Władysław II Jagiełło. Vương triều Hapsburg vu khống rằng Jadwiga đã thành thân với Wilhelm nên Jadwiga mang tội ngoại tình và Jagiełło chiếm đoạt vợ người. Sự vu khống này làm tổn hại thanh danh của Jadwiga cho dù Giáo hoàng Boniface IX lên tiêng bênh vực bà. Trong lúc ấy, Jadwiga chuyên làm việc từ thiện và hỗ trợ người nghèo khó, tài trợ việc cải tạo Đại học Kraków… Năm 1997, Giáo hoàng John Paul II phong thánh cho Jadwiga. Xem thêm chi tiết trong Chương 4. Jagiełło: xem Władysław II Jagiełło. Jagiellonowie (tiếng Anh: Jogalia, Jagiełłonians, Jagiełłos, Jogailos; tiếng Lietuva: Jogailaićiai): vương triều mở đầu bằng, Władysław II Jagiełło, Đại Công tước Lietuva. Người của vương triều Jagiellonowie cai trị trong thế kỷ XIV đến XVI trong các chức vụ Đại Công tước Lietuva (1377-1392 và 1440- 1572), vua của Ba Lan (1386-1572), vua của Hungary (1440-1444 và 1490-1526), và vua của Cechy (1471-1526). Sau đó, người của vương triều tạo thành một nhánh miền Đông của Vương triều Habsburg. Trong thời đại của Vương triều Jagiellonowie, Ba Lan vươn lên đỉnh cao về quyền lực, kinh tế và văn hóa. Jan Kazimierz Wasa, tên theo tiếng Anh là John Casimir Vasa (7- 1672): con của Zygmunt III Wasa, nối ngôi anh là Władysław IV Wasa, Vua Cộng hòa Ba Lan-Lietuva cuối cùng thuộc Vương triều Wasa (1648- 1668) và Vuạ Thụy Điển trên danh nghĩa (1648-1660), bị buộc phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Thụy Điến, chấp nhận Thụy Điển làm chủ vùng Livonia và Thành phố Riga, sau khi thoái vị ngai vàng Ba Lan quay về Pháp làm tu sĩ Dòng Tên. Giới quý tộc Ba Lan bầu Michael Korybut Wisniowiecki lên nối ngôi. Janko của Czarnków: (13207-1387): sử gia người Ba Lan, Phó Thủ tướng Ba Lan (1366-1371), viết lại những sự kiện lịch sử trong giai đoạn 1370-1384 mà ông chứng kiến. Jefferson: Thomas Jefferson (1743-1826), tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ (1801-1809), tác giả bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ. John Paul II (1920-2005): người Ba Lan, Giáo hoàng Công giáo trong giai đoạn 1978-2005, là giáo hoàng không phải người Ý kể từ năm 1523. Jogaila: xem Władysław II Jagiełło. Joseph I (1678-1711): con trai trưởng của Hoàng đế Leopold I, Vua Hungary từ năm 1687, Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh kiêm Vua Cechy (1705-1711). Ông tiếp tục tham dự Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, do Leopold I khởi phát, chống lại Hoàng đế Pháp Louis XIV của Pháp, trong nỗ lực vô vọng nhằm đưa em trai là Charles (sau nay là Hoàng đế Charles VI của Đế quốc La Mã Thần thánh) làm Vua Tây Ban Nha. Tuy nhiên, nhờ chiến công của Hoàng thân Eugene Xứ Savoy, ông áp đặt được bá quyền ở Ý. Joseph II (1741-1790): Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (1765- 1790), được xem là một quân vương Chuyên quyền Khai sáng vì bãi bỏ chế độ nô lệ, bãi bỏ án tử hình… Karamzin: Nikolay Mikhaylovich Karamzin (1766-1826), sử giá, nhà văn và nhà thơ Nga, được cử làm sử gia triều đình Nga năm 1803, soạn nên bộ Lịch sử Nước Nga gồm 12 tập, nhưng khi qua đời vẫn chưa hoàn thành mà chỉ viết đến đầu thế kỷ XVII. Karl X (1655-1660): Vua Karl X Guslav của Thụy Điển (1654-1660), nối ngôi em họ (con của cậu ruột) là Nữ hoàng Christina, vì thế mở đầu vương triều dòng ngoại. Nối ngôi ông là con trai, Karl XI. Karl XII: (1682-1718), vua của Thụy Điển (1697-1718), dẫn quân xâm lăng nước Nga dưới triều Pyotr Đại đế, bị đại bại (1709). Dưới triều đại của ông, Thụy Điển từ một nước hùng mạnh bị xuống dốc rõ rệt, mất nhiều đất đai, tạo cơ hội cho Nga vươn lên. Kazimierz I, tên theo Anh ngữ: Casimir I “The Restorer” (1016-1058): được đặt biệt hiệu “Người Phục hồi” (tiếng Ba Lan: “Odnowiciel”), thuộc Vương triều Piast, nối ngôi cha là Mieszko II, Công tước Ba Lan và trên thực tế là Vua Ba Lan (1039-1058). Ông được gọi là “Người phục hồi” vì đã tái thống nhất tất cả phần đất của Vương quốc Ba Lan và tái sáp nhập Mazowsze, Slask và Pomorze vào lãnh thổ Ba Lan. Ông không được đăng quang làm Vua Ba Lan vì có những mối đe dọa từ bên trong và bên ngoài đối với vị thế của ông. Kazimeirz II, tên theo Anh ngữ: Casimir II “The Just” (1138-1194): được đặt biệt hiệu “Công bằng” (tiếng Ba Lan: “Sprawiedlliwy”), thuộc Vương triều Piast, con trai nhỏ nhất của Vua Boleslaw III, nối ngôi Mieszko III “Stary” làm Công tước của Krakow và hoàng thân cấp cao (Đại Công tước) của Ba Lan (1177-1194). Ông cho giái quý tộc và Giáo hội nhiều đặc lợi và đặc quyền. Kế vị ông là con trai, Leszek II “Biały.” Kazimierz III, tên theo Anh ngữ: Casimir III “The Great” (1310-1370): vị Vua duy nhất của Ba Lan được ban tặng và duy trì biệt hiệu “Vĩ đại” (tiếng Ba Lan: “Wielki”), con của Władysław I “Łokietek“, Vua Ba Lan (1333-1370), là vua cuối cùng của Vương triều Piast. Dưới triều của ông, Ba Lan vươn lên thành một cường quốc Đông Âu. Ông thành lập Đại học Kraków, đại học đầu tiên của Ba Lan; khuyến khích người Đo Thái nhập cư; cải thiện đời sống của nông dân, vì thế ông cũng có biệt hiệu “Vua của Nông dân.” Ông qua đời mà không có con kế vị, nên người cháu là Vua Louis I của Hungary kiêm làm Vua Ba Lan và hợp nhất hai nước theo phương diện cá nhân. Kazimierz IV Jagiellończyk, tên theo Anh ngữ: Casimir IV Jagiellon (1427- 1492): con thứ hai của Vua Władysław II Jagiełło và em trái của Władysław III Warneńczyk, Đại Công tước Lietuva từ năm 1440 và Vua Ba Lan từ năm 1446 cho đến khi qua đời. Ông khởi động Chiến tranh Mười ba Năm chống Hiệp sĩ Teuton, ký Hòa ước Toruń phân chia Phổ thành Phổ Tây và Phổ Đông. Trong số các cón trai ông, những người nối ngôi gồm có: Władysław II Jagiellończyk (1456-1516) làm Vua Cechy (1471- 1516) và Vua Hungary (1490-1516); Thánh Kazimieras Jagiellon (1458-1484), có lúc được tôn làm Vua Hungary; Jan Olbracht (1459-1501), trị vì Ba Lan 1492-1501; Aleksander (1461-1506), Đại Công tước Lietuva 1492-1506, Vua Ba Lan 1501-1506; Zygmunt I (1467-1548), Đại Công tước Lietuva kiêm Vua Ba Lan 1506- 1548. Kazimieras Jagiellon tức Thánh Kazimieras, tên theo Anh ngữ: Casimir Jagiellon (1458-1484): cháu nội của Albert II thuộc Vương triều Habsburg và Jogaila, con trai thứ hai của Kazimierz IV Jagiellończyk, làm phụ chính cai trị Ba Lan khi cha vắng mặt (1481-1483). Người cha muốn dàn xếp hôn nhân cho ông với con gái của Hoàng đế Frederick III trị vì Đế quốc La Mã Thần thánh, nhưng ông từ chối vì muốn độc thân. Ông sống và cai trị với phẩm giá cao, có cá tính thu hút. Năm 1522, Giáo hoàng Adrian VI phong thánh cho ông, và ông được tôn làm Thánh Bổn mạng của Lietuva và Ba Lan. Năm 1948, Giáo hoàng Pius XII tôn Ông làm Thánh Bổn mạng đặc biệt cho giới trẻ. Khởi nghĩa Warszawa: Vào tháng 8/1944, khi quân Liên Xô tiến gần Warszawa, chính phủ lưu vong của Ba Lan kêu gọi khởi nghĩa nhằm giải phóng thủ đô. Dân quân Ba Lan (AK) phát động cuộc khởi nghĩa trong khi quan Liên Xô chỉ còn cách 20 kilômét mà không hỗ trợ gì. Phía Ba Lan kêu gọi phương Tây trợ giúp nhưng không được Liên Xô đồng lòng nên phương Tây cũng không giúp được. Vì thế, cuộc khởi nghĩa là vô vọng. Quân AK chỉ có 12.000-20.000 người, phần lớn chỉ có vũ khí nhẹ, chống lại khoảng 20.000 quân Đức trang bị mạnh hơn. Sau hơn hai tháng cuộc khởi nghĩa bị Đức dập tắt. Kết quả là khoảng 150.000 đến 300.000 người Ba Lan bị sát hại, 90.000 dân thường bị đưa vào các trại tập trung của Đức. Thành phố Warszawa bị không quân Đức phá hủy hầu như hoàn toàn. Cuộc Khởi nghĩa Warszawa tạo cơ hội cho Đức tiêu diệt lực lượng AK thân phương Tây, và mở đường cho quân Nga tiến vào thành lập chính phủ Ba Lan thân Cộng sản mà không gặp kháng cự đáng kể. Kim Trướng: xem Mông Cổ. Kopernik: Nikolaus Kopernik, tên theo tiếng Anh: Nicholas Copernicus (1473-1543), nhà thiên văn học người Ba Lan và làm việc ở Phổ, cũng tham gia vào những lĩnh vực toán học, luật, nhà tâm lý học, hành chính, ngoại giao, kinh tế…, nêu ra hình thức hiện đại đầu tiên của lý thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm), cho rằng Trái Đât là một hành tinh quay xung quanh Mặt Trời một vòng trên một năm, và quay quanh trục một vòng trên một ngày. Thuyết nhật tâm được trình bày cùng với thành quả của hàng chục năm lao động tí tuệ trong quyển sách Derevolutionibus orbium coelestium (Bàn về chuyển động quay của các thiên thể) được xuất bản vào năm ông mất, 1543, mặc dù ông đã tiến gần đến lý thuyết này từ nhiều chục năm trước. Ông cũng khám phá được vị trí chính xác của những hành tinh đã được biết, và giải thích nguyên nhân gây ra các mùa: vì trục quay của Trái đất không vuông góc với mặt phẳng quỹ đạo của nó. Những công trình của Kopernik đóng góp phân quan trọng cho tri thức con người và tạo bước ngoặt quan trọng của thiên văn học, tương tự như Euclid đối với hình học, Isaac Newton đối với vật lý và Darwin đối với sinh học (qua Thuyết tiến hóa). Konrad I Mazowiecki (1187?-1247), con của Kazimierz II, Công tước Mazowsze từ 1199 và cũng cai trị Kuyavia từ 1202. Konlgsberg: thành phố cảng biển của Công quốc Brandenburg sau đó thuộc Vương quốc Phổ, hiện có tên Kaliningrad, thuộc Nga. Kraków: (tên theo Anh ngữ Cracow): thành phố lớn thứ hai của Ba Lan, ở miền nam Ba Lan, nam dọc bờ Sông Wistła, được xem là thủ đô văn hiến của Ba Lan. Trung tâm lịch sử của Kraków đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Kronstadt: pháo đài trên Đảo Kotlin ngoài khơi Thành phố Sankt Peterburg, cách cửa sông Neva 25 kilômét, nhằm bảo vệ cửa ngõ của Sankt Peterburg. Kronstadt đã được công nhận là Di sản Van hóa Thế giới. Kujawy: vùng đất lịch sử ở cực bắc Đại Ba Lan, phía tây Mazowsze, phía đông Pomorze, nằm giữa Sông Wistła phía đông, Sông Noteć phía tây, hai Sông Noteć và Krówka Rivers phía nam, thành phố lớn nhất là Włocławek. Kyivan Ruś: (sách nguyên bản ghi “Kievan Rus”, là phiên âm tiếng Anh): vùng đất lịch sử bao quanh Thành phố Kyyiv, được người Viking gốc Thụy Điển gọi là “Rus” khai phá và định cư rồi pha trộn với người Slav trong giai đoạn khoảng từ năm 880 đến giữa thế kỷ XII. Vùng đất trải dài từ miền thảo nguyên Ukraina đến Hồ Ladoga phía bắc và lưu vực Sông Volga phía đông, tức bao gồm một phần Belarus, Ukraina và Nga hiện nay. Giống như các thể chế Trung cổ khác, Kyivan Ruś ban đầu không phải là một quốc gia có chế độ trung ương tập quyền chặt chẽ, mà là sự kết hợp lỏng lẻo của một số lãnh địa được cai trị riêng rẽ theo cách cha truyền con nối. Kyyiv (tên theo Anh ngữ: Kiev): thành phố thủ phủ của tỉnh Ukraina, nằm bên bờ sông Dniepr, hiện nay là thủ đô nước Ukraina. kwarciane (tiếng Ba Lan, từ gốc “Kwarta” có nghĩa “Thuế một phần tư”): loại hình quân đội được trả chi phí bằng một phần tư thu nhập từ đất đai của triều đình. Các đại tá trung đoàn trưởng hoặc thủ lĩnh quân đội thường được giao khoán một số tiền để tự họ lo tuyển quân hoặc tìm lính đánh thuê và trang trải các chi phí cho đoàn quân dưới quyền. Đối với đất đai ở vùng sâu vùng xa, quân vương thường cho giới quý tộc hoặc thương nhân hoặc người Do Thái thuê (theo hệ thống arenda) mà không có phương tiện theo dõi sổ sách kế toán, vì thế hay tạo nhũng lạm hoặc chậm chi trả cho đội quân kwarciane. Đôi lúc các đơn vị bất mãn thành lập Liên minh khiếu nại để dùng vũ lực đòi tiền nợ. Ladoga: hồ lớn nhất Châu Âu, nằm ở miền cực bắc Nga, giữa hai tỉnh Karelia ở phía bắc và Ingria ở phía nam, xả nước vào Sông Neva chảy qua Thành phố Sankt-Peterburg. Langobards hoặc Lombards: những bộ tộc người Đức, khởi đầu định cư dọc hạ lưu Sông Elbe, vào thế kỷ thứ VI xâm chiếm những vùng miền bắc và trung Ý để lập nen Vương quốc Lombardy, đến năm 774 bị Charlemagne Đại đế chinh phục. Latvija (tên theo tiếng Anh: Latvia): vùng đất ở đông-bắc Châu Âu, nằm trên bờ Biển Baltic, giữa Estonia về hướng bắc, Lietuva về hướng nam, Nga về hướng đông, khởi đầu có các bộ tộc Baltic cư ngụ, sau đó chịu sự cai trị của Phẩm cấp Livonia do người Đức dựng lên, rồi trở thành một phần lãnh thổ của Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton, đóng thủ phủ ở Riga, đến năm 1300 trở thành một thế lực hùng mạnh ở trung-đông Châu Âu. Năm 1561, lãnh thổ Phẩm cấp Livonia bị phân chia và sáp nhập vào Ba Lan Lietuva. Trong giai đoạn 1629- 1721, Thụy Điển kiểm soát miền Bắc Estonia và Latvija ở miền trung Livonia, lập nên Công quốc Livonia để cai trị trực tiếp như là một tỉnh, lãnh thổ tương ứng gần đúng với nước Latvija hiện nay. Sau Đại chiến Bắc Âu, năm 1721 Thụy Điển vĩnh viễn nhượng Livonia cho Nga, sau đó phần Livonia thuộc Ba Lan cũng bị sáp nhập vào Nga. Livonia nhân cơ hội Cách mạng Nga 1917 bùng nổ và Thế chiến I (1914-1918) kết thúc mà tuyên bố nước Latvija độc lập, nhưng đến năm 1940 Liên Xô xâm lăng và sáp nhập Latvija vào Liên bang Xô Viết. Năm 1991, Liên Xô công nhận nền độc lập của Latvija. lãnh địa hoặc đất phong (Anh ngữ: fief): dưới chế độ phong kiến thời Trung cổ, là vùng đất thường ở vùng sâu vùng xa nên quân vương khó kiểm soát, thay vào đó quân vương ban cho chư hầu nhỏ để tiện thu thuế hoặc tuyển người làm nghĩa vụ quân sự. Lãnh chúa hay yếu nhân có nhiều quyền hành trên lãnh địa của họ, chỉ trừ các lĩnh vực quan trọng như quân sự, ngoại giao… Chế độ này bắt đầu thông dụng trong thế kỷ thứ VIII ở châu Âu; khởi đầu các lãnh địa không được cha truyền con nối: quân vương vẫn làm chủ đất và có thể lấy đất đai lại khi lãnh chúa không trung thành với họ hoặc qua đời. Đến giữa thế kỷ thứ X, nhiều lãnh địa được cha truyền con nối, nên dòng họ lãnh chúa có điều kiện để tạo thế lực ở địa phương. Khi quân vương suy yếu, phải lệ thuộc nhiều vào tiền thuế và người làm nghĩa vụ quân sự từ lãnh địa thì lãnh chúa có cơ hội thể hiện quyền lực của họ, gây sức ép cho quân vương. Leibniz: Gottheld von Leibniz (1646-1716), Tiến sĩ luật người Đức, triết gia, nhà toán học và chính khách, được xem là một trong những nhà trí thức xuất chúng nhất trong thế kỷ XVII. Những công trình nghiên cứu của ông bao quát nhiều linh vực: toán học, triết học, thần, học, luật, ngoại giao, chính trị, vật lý… Leo X (1475-1521): tên gốc là Giovanni de’ Medici, Giáo hoàng (1513- 1521). Dưới thời của ông có những mâu thuẫn với Martin Luther dẫn đến việc ông này thành lập nhánh Phúc Âm. Năm 1521, Leo X trục xuất Martin Luther khỏi Công giáo, nhưng ông và triều chính Tòa thánh không nhận ra tầm quan trọng của cuộc cách mạng đang xảy ra trong giáo hội ông cầm quyền. Leopold II (1747-1792): Đại Công tước Tuscany từ năm 1765, Hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh (1790-1792) kế vị anh là Hoàng đế Joseph II. Kế vị ông là con trai Francis II. Leszek I “Biały” (11867-1227), tên theo tiếng Anh là Leszek I “The White” (“Da Trắng”), thuộc Vương triều Piast, Hoàng thân Xứ Kraków từ 1202 hoặc 1206, kế vị cha là Kazimierz II làm Đại Công tước Ba Lan (1194-1227, được đăng quang chính thức năm 1202), có những cuộc chiến tranh với Mieszko III Stary, người muốn chiếm lại ngai vàng, và con của ông này, Vladislav Laskonogi. Triều đình của ông mất quyền kiểm soát đất nước; quyền hành rơi vào tay giới quý tộc và tăng lữ. Leszek II “Czarny” (1242-1288): tên theo tiếng Anh: Leszek “The Black”, có biệt hiệu “Da Đen”, một trong những công tước Ba Lan trong Thời kỳ Phân hóa, trị vì Kraków (1279-1288). Dưới triều của ông, Mông Cổ mở cuộc tấn công và cướp bóc lần thứ ba, vào năm 1287. Lietuva (tên theo tiếng Anh: Lithuania): nằm ở đông-bắc Châu Âu; giáp với nước Latvija về hướng bắc, nước Belarus về hướng đông và nam, Ba Lan và Nga về hướng đông-nam, Biển Baltic về hướng tây. Từ thế kỷ XIII, sau khi chống chọi được Hiệp sĩ Teuton, Lietuva là một vương quốc, đặt thủ phủ ở Wilno. Năm 1386, Đại Công tước Jogaila hợp nhất Lietuva với Ba Lan theo quan hệ cá nhân khi ông cưới “Vua” Ba Lan là Jadwiga. Trong hai thế kỷ XVI và XVII, Lietuva nằm trong một quốc gia hợp nhất gọi là Cộng hòa Ba Lan- Lietuva với Ba Lan chiếm địa vị ưu thế. Sau cuộc Phân chia Ba Lan thứ Ba, Lietuva bị sáp nhập vào Nga. Sau Thế chiến I, Lietuva là nước độc lập, lại bị Liên Xô sáp nhập năm 1940, và trở lại thành nước độc lập tư năm 1991. Liên hiệp Lublin: xem Cộng hòa Ba Lan-Lietuva. Liên hiệp Warszawa: vì lý do vị cua cuối cùng của Vương triều Jagiellonowie qua đời mà không có người kế vị, giới quý tộc Ba Lan hội họp ở Warszawa để quyết định ai sẽ làm vua kế tiếp. Kết quả là Henri Xứ Valois được bầu lên ngai vàng Ba Lan, và bản tuyên ngôn Liên hiệp Warszawa được ký kết ngày 28/1/1573 thành lập Liên bang Warszawa, bắt đầu thời kỳ phát triển vai trò của tập đoàn cầm quyền và xu hướng tản quyền trong giai đoạn 1573-1648. Liên minh Bar: Liên mình hội tụ các nhà quý tộc Ba Lan, được thành lập ngày 29/2/1768 tại Thị trấn Bar (nằm bên bờ Sông Rov, trong Tỉnh Podole), gây Chiến tranh Liên minh Bar với Nga trong giai đoạn 1768- 1772 nhằm đẩy lùi các lực lượng của Nga khỏi lãnh thổ Ba Lan, và cũng nhằm chống lại các cải cách của Stanisław II August giới hạn quyền của yếu nhân Ba Lan. Sau vài chiến thắng ban đầu, cuối cùng Liên minh Bar bị quân Nga đánh bại. Trên 5.000 nhà quý tộc bị Ba Lan bắt và mang đi đày ở Siberia. Sau cuộc chiến tranh này, Ba Lan bị Phổ, Nga và Áo phân chia lãnh thổ. Liên minh Khiếu nại (tiếng Ba Lan: konfederacja, chỉ có nghĩa “liên minh”): một trong các quyền cơ bản của Tự do Hoàng kim, theo độ giới quý tộc, tăng lữ hay thị dân có quyền thành lập liên minh một cách hợp pháp để theo đuổi khiếu nại tố cáo và thậm chí chống lại vua. Nếu vua không công nhận Liên minh Khiếu nại thì Liên minh được xem là một vụ Nổi loạn Hợp pháp. Liên minh Thần thánh (Anh ngữ: Holy League): một số liên minh của những nước theo Cơ đốc giáo. Liên minh Thần thánh trong giai đoạn 1683- 1699 là do Giáo hoàng Innocent XI chủ xướng, quy tụ Đế quốc La Mã Thần thánh, Cộng hòa Naples và Cộng hòa Ba Lan-Lietuva, đến năm 1686 có thêm Nga tham gia. Liên minh này nhắm chống lại Đế quốc Ottoman, và kéo dài cho đến Hòa ước Karlowitz năm 1699 sau khi Ottoman bị đánh bại, mở đầu cho sự suy tàn của Ottoman và sự trỗi dậy của Vương triều Habsburg. Livy: tức Titus Livius (59 tCN-17), nhà sử học La Mã, tác giả bộ Lịch sử La Mã, một trong những nguồn tài liệu cơ bản về La Mã trong thời kỳ đầu và là một trong những tài liệu kinh điển của La Mã cổ đại. Bộ sử này gồm 142 tập (hiện chỉ còn 35 tập nguyên vẹn), ghi chép những sự kiện từ lúc xây dựng La Mã vào năm 753 tCN cho đến năm 9 tCN. Livonia (tên theo tiếng Ba Lan: Inflanty): vùng đất lịch sử, hiện nay được chia ra giữa Latvija và Estonia, trong thế kỷ XIII đến XVIII chịu ảnh hưởng luân phiên dưới Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton, Thụy Điển, Cộng hòa Ba Lan- Lietuva và Nga. Louis XIV (1638-1715): Hoàng đế Pháp (1643-1715), hoàng đế thứ ba của Vương triều Bourbon; triều đại 72 năm của ông là dài nhất trong cả lịch sử Châu Âu. Cách cai trị của ông là đặc trưng cho chế độ quân chủ tuyệt đối vì không bị định chế nào (như Nghị viện, Hội đồng…) kiểm soát. Ông kế thừa một nước Pháp chia rẽ trong nội bộ, quân đội yếu đuối và tài chính kiệt quệ, nhưng khi qua đời để lại một trong những cường quốc mạnh nhất Châu Âu. Louis XV (1710-1774): Hoàng đế Pháp (1715-1774), cháu gọi Louis XIV bằng ông cô. Triều của Louis XV trở nên suy yếu, dẫn đến Cách mạng Pháp (1789-1799). Louis XVI (1754-1793), Hoàng đế Pháp (1774-1792), lên ngôi vì cha và hai anh đã qua đời. Khi Cách mạng Pháp nổ ra năm 1789, ông cùng hoàng gia bị bắt giam. Năm 1791, hoàng gia tìm cách trốn đi Áo, nhưng bị bắt lại. Louis XVI tuyên thệ sẽ tuân theo Hiến pháp mới 1791, nhưng tiếp tục chống đối cách mạng và hợp tác với các kẻ thù của Pháp. Năm 1792, Hội nghị Quốc dân chính thức phế truất ông, mang ông ra xử rồi đưa ông lên máy chém. Vợ của ông là Hoàng hậu Marie-Antoinette, con gái út của Nữ Đại Công tước Maria Theresa của Áo, sau đó cũng bị xử tử. Luật Kulm hoặc Luật Culm hoặc Luật Chełmno (tiếngĐức: Kulmer Recht, Kulmer Handfeste): bộ luật của người Đức về hành chính đô thị, do Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton đặt ra năm 1233, được áp dụng ở các thành phố thuộc quyền kiểm soát của Phẩm cấp, sau đó lan rộng ra những lãnh thổ khác ở Trung Âu trong thời Trung cổ. Luật Lübeck: luật quản lý đô thị dựa trên sự tự quản, được soạn thảo cho Thành phố Lübeck năm 1226, và sau đó thịnh hành trong hai thế kỷ XIII và XIV. Luật này thay thế chế độ cai trị cá nhân từ thời xa xưa của những bộ tộc, và cũng thay thế chế độ của quân vương do Charlemagne đặt ra để cai trị các thành phố chư hầu. Trên lý thuyết, Luật Lübeck cho phép việc quản lý đô thị được độc lập với quân vương qua hình thức hội đồng do các hiệp hội nghề chuyên nghiệp bầu ra, vì thế chỉ người có kiến thức, kinh nghiệm và thành đạt mới được trao quyền quản lý đô thị. Luật cũng cấm cha con và anh em được bầu vào hội đồng cùng nhiệm kỳ, để tránh ảnh hưởng của những gia tộc lớn. Luật Magdeburg hoặc Quyền Magdeburg (Đức ngữ: Magdeburger Recht): các văn bản luật phát xuất phát từ thị tấn Magdeburg của người Đức, quy định mức độ tự trị của thị trấn mà lãnh chúa địa phương ban cho, sau đó được hàng trăm thị trấn và làng xã Đức áp dụng. Đây được xem là hệ thống luật đô thị quan trọng nhất của Đức trong thời Trung cổ, cũng được nhiều vương triều ở Trung Âu và Đông Âu áp dụng, từ đó thúc đẩy sự thành lập hàng nghìn thành phố và thị trấn. Ludwik Węgierski (1326-1382): còn được gọi là Louis I của Anjou hoặc Louis I của Hungary, người đứng đầu nhánh chính của Vương triều Angevin, con trai trưởng Vua Charles I của Hungary, cháu gọi bằng cậu của Kazimierz III, làm Vua Hungary (1370-1382), Vua Croatia, Dalmatia, Jerusalem và Sicily tự năm 1342, và tiếp ngôi Kazimierz III để làm Vua Ba Lan từ năm 1370, mở đầu Vương triều Anjou, con gái là Jadwiga nối ngôi làm “Vua” Ba Lan. Luther: Martin Luther, xem Phúc Âm. Magna Carta (tiếng Latinh, có nghĩa “Đại Hiến chương”): văn bản của Vua John nước Anh (1167-1216, trị vì 1199-1216) ban hành năm 1215, ghi những cam kết của ông đối với thần dân mình khi trị vì nước Anh. Bản Đại Hiến chương này gồm 63 điều khoản về tự do cho giáo hội, ứng xử giữa triều đình và các lãnh chúa, ứng xử giữa lãnh chúa và nông nô, hệ thống tư pháp… Trong những thế kỷ tiếp theo, Đại Hiến chương là kim chi nam cho quân vương Anh về cách thức hành xử với công dân của họ. Magyar: chủng tộc đã thành lập và tiếp tục sống trên nước Hungary cho đến bây giờ, khởi đầu sống ở vùng trung lưu châu thổ Sông Volga, đến thế kỷ thứ IX và thứ X tiến vào Châu Âu, sau đó vẫn duy trì ngôn ngữ, truyền thống và các sắc thái khác khiến cho họ khác biệt với những chủng tộc láng giềng. Main: phụ lưu chính của Sông Rhine, do hai sông Main Trắng và Main Đỏ hợp lưu gần Kulmbach, miền đông-bắc Bayern. Sông Main chảy về hướng tây 523 km rồi nhập vào Sông Rhine đối diện Thành phố Mainz. Thành phố quan trọng nhất bên Sông Main là Frankfurt. Maria Theresa: (1717-1780), con gái Hoàng đế Charles VI của Đế quốc La Mã Thần thánh, Nữ Đại Công tước của Áo, Nữ hoàng Hungary và Cechy (1740-1780). Năm 1745, bà giúp đưa chồng lên làm Hoàng đế Francis I của Đế quốc La Mã Thần thánh, nhưng vẫn có ảnh hưởng trong việc triều chính, giúp củng cố và thống nhất chế độ quân chủ Áo trong thế kỷ XVIII, đưa Đế quốc tham gia Chiến tranh Bảy Năm và cuộc Phân chia Ba Lan thứ Nhất. Vợ chồng bà có 16 con, trong số đó là hai Hoàng đế tương lai Joseph II và Leopold II, cùng Marie-Antoinette, sau này là Hoàng hậu của Louis XVI. Marlborough: John Churchill (1650-1722), Công tước thứ Nhất Xứ Marlborough; đại tướng Anh, được xem là một trong những nhà chỉ huy quân sự tài ba nhất trong lịch sử Châu Âu. Năm 1702, ông được cử làm Tổng Tư lệnh liên quân Anh-Hà Lan trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Maximilian I (1459-1519): thuộc Vương triều Habsburg, chính thức làm Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh từ năm 1508 cho đến khi qua đời, nhưng trị vì cùng với vua cha từ khoảng năm 1483, mở rộng ảnh hưởng của Vương triều qua chiến tranh và hôn nhân, chẳng hạn như cháu nội của ông cưới con trai và con gái của Władysław II Jagiellończyk. Maximilian II (1527-1576): thuộc Vương triều Habsburg, con của Ferdinand I, Vua Cechy (1562-1576), Vua Hungary và Croatia (1563- 1576), Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (1564-1576). Mazówsże (tên theo Anh ngữ: Mazovia): trong thế kỷ thứ X có lẽ là một phần của lãnh thổ Ba Lan dưới triều Mieszko I, sau cái chết của Bolesław III trở thành một công quốc dưới quyền công tước, đặt thủ phủ ở Płock, đến năm 1526 trở thành một tỉnh của Vương quốc Ba Lan, sau các cuộc Phân chia Ba Lan trong thế kỷ XVIII thuộc Phổ, sau Thế chiến I được giao về Ba Lan cho đến ngày nay. Michelet: Jules Michelet (1798-1874), sử gia người Pháp, được biết đến nhiều nhất nhờ bộ 17 tập History of France (Lịch sử nước Pháp, 1833- 1867), cũng là tác giả các bộ sử nổi tiếng Universal History (Lịch sử thế giới) và History of the Roman Republic (Lịch sử Cộng hòa La Mã)… Trước khi qua đời, ông cho xuất bản hai tập đầu tiên của bộ History of the nineteenth century (Lịch sử Thế kỷ mười chín, 1872-). Mieszko I (922? hoặc 930?-992): cha của Bolesław I, nhà lãnh đạo của Ba Lan đầu tiên được ghi chép trong lịch sử, vào năm 966 được rửa tội theo Công giáo và được Hoàng đế Otto I của Đế quốc La Mã Thần thánh công nhận là Công tước Ba Lan, sau đó nhiều người Ba Lan noi gương mà cải đạo như ông. Sự kiện này có tầm quan trọng về mặt chính trị vì nó đánh dấu bước khởi đầu của Ba Lan như là một phần của Tây Âu theo Cơ đốc giáo. Mieszko I mở đầu vương triều Piast, tuy đến năm 1025 Ba Lan mới được công nhận là vương quốc. Mieszko I “Plątonogi”: tên theo Anh ngữ: Mieszko I “Tanglefoot” (1130?- 1211), thuộc Vương triều Piast, con thứ của Władysław II “Wygnaniec”, cùng với anh Bolesław I “Wysoki” tức Bolesław I “The Tall” trị vì Công quốc Wrocław (1163-1173), Đại Công tước Ba Lan (1210-1211). Mieszko II: Mieszko II Lambert (990-1034), thuộc Vương triều Piast, nối ngôi cha là Bolesław I làm Vua Ba Lan trong giai đoạn 1025-1031 rồi bị anh là Bezprym soán ngôi, năm 1932 được phục hồi khi Bezprym bị giết chết, cha của Kazimierz I “Odnowiciel”. Mieszko III “Stary” tên theo tiếng Anh: Mieszko III “The Old” (11217- 1202) có biệt hiệu “Ông Già”, thuộc Vương triều Piast, con của Bolesław III, Công tước Đại Ba Lan (1138-1202) và Đại Công tước toàn Ba Lan, bị mất ngôi rồi được phục hồi nhiều lần nên thời gian trị vì gián đoạn: 1173-1177, 1190, 1198-1199,1202. Minin: Kuzma Minin (7-1616), người Nga yêu nước đã tổ chức một đoàn quân để chống lại cuộc xâm lăng của Ba Lan. Minin là người bán thịt giàu có ở Thành phố Nizhniy Novgorod, và là thành viên trong hội đồng thành phố. Năm 1610, nước Nga lâm vào cảnh vô chính phủ. Quân đội Ba Lan và Lietuva đã tiến vào Moskva, người Nga e sợ Công giáo sẽ trấn áp Giáo hội Chính thống Nga và nước Nga có thể trở thành chư hầu của Ba Lan. Minin kêu gọi mọi người đóng góp vào quỹ nhằm lập một đoàn quân để bảo vệ đất nước, riêng ông hiến tất cả gia sản của mình. Sau khi đã thu được một số vàng lớn, ông kêu gọi quân tình nguyện, phái liên lạc viên đi các thị trấn, nhà thờ và tu viện, kêu gọi họ noi gương Nizhniy Novgorod. Đoàn quân tiến về Moskva và lớn mạnh dần trên đường đi, tấn công quân Ba Lan và Lietuva. Quân Ba Lan đang chiếm Kremlin phải đầu hàng, trả tự do cho các tù nhân họ đã bắt, kể cả vị Sa hoàng tương lai là Mikhail Fyodorovich Romanov. Năm 1613, Minin được phong làm quý tộc và Mikhail lên ngôi Sa hoàng, bắt đầu Vương triều Romanov. Moldavia: khởi đầu vào thế kỷ XIV là vùng đất độc lập ở miền đông nam Châu Âu, trên lãnh thổ Rumania và Ukraina hiện nay, lúc lên đến đỉnh điểm trải dài từ Sông Dniester phía đông đến dãy núi Carpathians phía tây, đến năm 1512 là công quốc chư hầu của Đế quốc Ottoman, năm 1812 bị Nga thôn tính. Nước Moldova (gọi theo tiêng Romania) hiện nay chiếm phần lớn công quốc ngày xưa. Montesquieu: Bá tước Montesquieu (1689-1755), nhà bình luận và luật gia người Pháp. Tác phẩm đầu tay của ông được xem là kiệt tác văn học có tựa đề Les lettres persanes (Những bức thư Ba Tư, 1721), trình bày những bức thư của hai nhà quý tộc Ba Tư đang du hành trên đất Pháp, qua đó Montesquieu châm biếm nền chính trị, tình hình xã hội và những vấn đề tôn giáo của Pháp đương thời. Quyển sách được xem là một trong những tác phẩm đầu tiên của Thời đại Khai sáng, và của sự công kích các định chế của Pháp kể cả vương triều giúp khơi mào cuộc Cách mạng Pháp. Moor: sắc tộc có nguồn gốc Ả Rập ở Bắc Phi, vào thế kỷ thứ VIII chinh phục Tây Ban Nha, mang theo cơ cấu ngôn ngữ, tôn giáo, xã hội và chính trị của họ, xây dựng nhiều đại học Hồi giáo giảng dạy y khoa, toán học, triết học và văn chương. Người Moor định cư với số đông ở các nước Morocco, Mauritania và Algérie (tên của hai nước đầu có gốc là từ “Moor”). Morava (tên theo tiếng Anh: Moravia; tên Đức: Mahren): vùng đất lịch sử của người Mahren (thuộc nhóm Slav), vào cuối thế kỷ thứ VI là lãnh thổ triều cống cho Charlemagne Đại đế, dưới triều Svatopluk (cai trị 870- 94) được kết hợp với Cechy và Slovakia thành một công quốc hùng mạnh, nhưng sau đó ngày càng lệ thuộc vào Cechy, đến thế kỷ XV vẫn còn kết hợp với Cechy dưới Vương triều Habsburg và sau đó là Đế quốc Áo Hungary, đến năm 1918 thuộc Liên bang Tiệp Khắc. Năm 1993, khi Tiệp Khắc tách làm hai nước thì Morava chiêm khoảng một phần ba diện tích của Cộng hòa Séc ngày nay và nằm ở phía tây nước này. Mông Cổ: Vào thế kỷ XII, đội quân của Hãn vương Bạt Đô (Anh ngữ: Batu Khan), cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, đánh phá nhiều vùng ở Châu Âu từ Nga cho đến Ba Lan, Hungary, Đức, thung lũng Sông Danube…, rồi lập nên một đế quốc rộng lớn mà sử Hoa văn gọi là Hãn quốc Kim Trướng (Anh ngữ: Empire of the Golden Horde), Kim Trướng hoặc Golden Horde có nghĩa là “lều màu vàng”, tên bắt nguồn từ việc người Châu Âu có ấn tượng mạnh với lều trại màu vàng của đội quân Mông Cổ dựng lên san sát nhau dọc bờ sông mà họ đứng bên này sông nhìn sang. Đến năm 1241, các đạo quân của Bạt Đô tiến đến gần bờ Biển Asiatic, chuẩn bị tiến công tiếp Tây Âu. Bị chia rẽ và có tiềm năng quân sự yếu đuối, Tây Âu chỉ trông chờ bị nuốt chứng. Nhưng may mắn cho họ, Bạt Đô bất ngờ nhận tin người chú là Đại hãn Oa Khoát Đài (Anh ngữ: Ogodei), con thứ ba của Thành Cát Tư Hãn, vừa tử trận ra lệnh rút quân về miền Nam nước Nga để tham dự đại hội lập Đại hãn mới. Từ lúc ấy, quân Mông Cổ không còn trở lại với lực lượng hùng mạnh nữa, nhưng để lại nhiều nước Châu Âu (kể cả Ba Lan) hoang tàn, Hãn quốc Kim Trướng vẫn kiểm soát miền Nam nước Nga trong gần bốn thế kỷ cho đến cuối thế kỷ 15. Đầu thập kỷ 1400, Hãn quốc Kim Trướng được phân ra làm 4 hãn quốc nhỏ: Kazan, Astrakhan, Sibir (Siberia), và Crimea. Trong thập kỷ 1500, Sa hoàng Ivan IV tiêu diệt 3 hãn quốc đầu, riêng Hãn quốc Crimea đến năm 1783 mới bị sáp nhập vào Nga. Murad II (1404-1451): Hoàng đế Đế quốc Ottoman trong các giai đoạn 1421-1451 và 1446-1451, người đánh bại Władysław III Warneńczyk năm 1444. nagana: quy trình kiện tụng theo luật dân sự của Vương quốc Ba Lan thời Trung cổ, trong đó một người có thể cáo giác người khác về tội mạo nhận là thuộc giới quý tộc. Người bị cáo giác phải mời sáu nhân chứng để xác nhận tư cách quý tộc của mình. Nếu bị cáo không chứng minh được tư cách này thì tỏa xử tịch thu tất cả tài sản để giao cho người cáo giác. Narva: sông chảy từ Hồ Peipus đến Thị trấn pháo đài Narva rồi chảy ra Vịnh Phần Lan. Thị trấn pháo đài Narva nằm trong Estonia, bên bờ nam Sông Narva, hiện nay thuộc về nước Estonia. Neisse: sông ở trung-bắc Châu Âu, dài 256 km, bắt nguồn từ miền tây bắc Cộng hòa Séc, hợp lưu với Sông Odra gần Eisenhuttenstadt, Đức, một đoạn là biên giới Đức-Ba Lan hiện nay. Nero: (37-68), hoàng đế thứ năm (54-68) của Đế quốc La Mã. Neumark: vùng đất chạy dọc phía đông và phía bắc Sông Odra, phía tây nước Ba Lan hiện nay; trong các thế kỷ XVI đến XIX bị chiếm qua chiếm lại giữa Đế quốc La Mã Thần thánh, Công quốc Brandenburg (nên còn được gọi là Brandenburg Đông), Phổ và Đế quốc Đức; hiện nay thuộc Đức. New England: có nghĩa “nước Anh mới”, vùng đất miền đông-bắc Hoa Kỳ, nơi từ thập kỷ 1620 tín đồ Thanh giáo từ Anh quốc bắt đầu đến định cư. Vùng này hiện bao gồm các bang Manie, New Hampshire, Vermont, Massachusetts, Rhode Island, và Connecticut Phía tây vùng này giáp Thành phố New York, phía bắc giáp Canada, phía đông nhìn ra Đại Tây Đương. Nhiều biến cố lịch sử trong thời kỳ lập quốc và giành độc lập cua Hoa Kỳ xảy ra tại vùng này. Nghị viện Cộng hòa: trong giai đoạn 1569-1793, là cơ quan lập pháp Sejm theo tiếng Ba Lan, gồm có Thượng viện (tiếng Ba Lan: Senat), và Hạ viện (tiếng Ba Lan: izba Poselska, có nghĩa: Viện Phái viên). Thượng viện bắt nguồn từ Hội đồng Cơ mật trong “nền Dân chủ Quý tộc” của chế độ Cộng hòa thứ Nhất Ba Lan. Lúc đó, Thượng viện quy tụ các đại thần trong triều đình, thống đốc các tỉnh, tổng trấn các lâu đài (tất cả do vua chỉ định), và giám mục do Giáo hội chỉ định. Hạ viện khởi đầu có định chế hội đồng (tiếng Ba Lan: wiece), đến thế kỷ XV được thiết lập như là cơ qunt thường xuyên, được bầu gián tiếp hai năm một lần. Cho đến cuối thế kỷ XVI, Nghị viện quyết định dựa trên đa số. Sau đó, giới quý tộc được trao quyền phủ quyết tự do: đại biểu nào cũng có thể bỏ phiếu chống một nghị quyết khiến cho hoạt động của Nghị viện bị tê liệt. Năm 1791, nguyên tắc phủ quyết tự do bị bãi bỏ. Nghị viện Cộng hòa chấm dứt sau cuộc Phân chia Ba Lan thứ Ba. Dưới nền Cộng hòa thứ Hai (giữa hai cuộc Thế chiến), từ Sejm được dùng để chỉ Hạ viện. Thượng nghị sĩ được bầu qua lá phiếu phổ thông. Năm 1946, Thượng viện Ba Lan bị xóa bỏ, Sejm là cơ quan lập pháp duy nhất. Năm 1989, Thượng viện được tái lập, cùng với Sejm tạo thành Quốc hội của nước Ba Lan. Nihil Novi: gọi tắt từ Nihil novi nisi commune consensu (theo nghĩa thông thường là: Khi có việc liên quan đến ngươi nào thì phải hỏi ý kiến người ấy), là tên gọi theo tiếng Latinh một bộ luật do Nghị viện Cộng hòa thông qua năm 1505. Bộ luật Nihil Novi thành lập “nền Dân chủ Quý tộc” trong thể chế Cộng hòa thứ Nhất Ba Lan. Thể chế này chấm dứt năm 1795 sau khi xảy ra cuộc Phân chia Ba Lan thứ Ba. Novgorod: ban đầu là một vùng đất độc lập, bị Sa hoàng Ivan IV sáp nhập thành một tỉnh của Nga, phía nam của Tỉnh Ingria; là một trong những tỉnh biên phòng quan trọng trong giai đoạn đầu của triều đại Pyote Đại đế và là trung tâm thương mại sầm uất. Vị thế này suy giảm sau khi Pyotr dựng nên Sankt-Peterburg. Thị trấn Novgorod của tỉnh này nằm gần cực nam của Hồ Ilmen. Những đền đài lịch sử ở Novgorod đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Nổi dậy 1830: bắt đầu tháng 11/1830 trong thời gian 1830-1831, khởi đầu do một nhóm hạ sĩ quan chống lại sự cai trị của Đế quốc Nga ở Ba Lan và Lietuva, sau đó có thêm nhiều tầng lớp Ba Lan tham gia, cuối cùng bị quân Nga với sức mạnh vượt trội đánh bại năm 1831. Nổi dậy 1863, còn được gọi là Nổi dậy tháng Giêng: bắt đầu tháng 1/1863 và kết thúc khi những người nổi dậy cuối cùng bị bắt vào năm 1865, khởi đầu tự phát do một số thanh niên chống lệnh gọi thi hành nghĩa vụ quân sự trong Quân đội Nga, sau đó có thêm các sĩ quan và cặc nhà chính trị Lietuva tham gia. Quân nổi dậy yếu kém chỉ có thể thực hiện chiến dịch du kích, nhưng cuối cùng nhiều người bị Nga bắt và đày đi Siberia. Nổi loạn Hợp pháp (tiếng Ba Lan: Rokosz): một phần của Tự do Hoàng kim, là quyền hợp pháp của Giai cấp Quý tộc nổi loạn chống lại vua khi vua vi phạm quyền tự do được bảo đảm của họ. Được biết đến nhiều nhất là Nổi loạn Hợp pháp Lubomirski diễn ra trong giai đoạn 1661- 1667, do Thủ hiến của Vương quốc Ba Lan là Jerzy Lubomirski cầm đầu, chống lại Vua Jan Kazimierz Wasa. Bối cảnh của cuộc nổi loạn là sự thù địch giữa phái thân Pháp (do Hoàng hậu Louise-Marie cầm đầu) và phái thân Vương triều Habsburg do giới quý tộc cầm đầu (nhiều người thân Tòa thánh Vatican). Lubomirski lãnh đạo giới quý tộc chống lại những cải cách nhằm giảm bất công xã hội. Khi bị thất thế, Lubomirski xin được ân xá, được chấp nhận, rồi đi lưu vong ở Slask thuộc Áo. Cuội Nổi loạn Hợp pháp Lubomirski làm mất uy tín của Triều đình Ba Lan rất nhiều. Nước Nga cũ (Anh ngữ: Muscovy3, sử Hoa văn ghi là “Nga Tư La”): khởi đầu là vùng đất chung quanh Moskva, sau đó là Đại Công quốc Moskva (dưới quyền Đại Công tước hoặc Đại Hoàng thân), dần dần được mở rộng, nhất là trong hai thế kỷ XIV-XV, nhưng là chư hầu của Hãn quốc Kim trướng, nên phải nộp triều cống. Trong triều đại của Ivan IV, Muscovy thoát khỏi sự kiểm soát của Mông Cổ; Ivan IV xưng tước hiệu Sa hoàng nước Nga. Bắt đầu từ năm 1480, người Nga không còn nộp triều cống cho Mông Cổ nữa. Đến năm 1721, Pyotr Đại đế chính thức gọi tên nước là Đế quốc Nga. Từ lúc này trở đi là “nước Nga mới”. Odra hoặc Oder: sông dài 912 km ở miền trung-bắc Âu Châu, chảy qua Tiệp Khắc, Ba Lan hiện nay, nối với Sông Elbe qua một con kênh rồi ra Biển Baltic. Trước Thế chiến II, Sông Odra chảy qua lãnh thỗ Đức, sau 1945 đoạn hạ lưu được quy định là đường biên giới Đức-Ba Lan. Osman II (1603-1622): Hoàng đế thứ 16 của Đế quốc Ottoman (1618- 1622), có chủ trương cải cách sâu rộng, những bị các thành phần bảo thủ chống đối truất phế rồi hạ sát. Ostrogoth: những vùng đồng bằng rộng thu hút di dân từ nơi khác đến, tạo nên làn sóng xâm chiếm tiếp nối nhau, lập nên những khu định cư của nhiều sắc tộc nói các thứ tiếng khác nhau, dẫn đến sự hòa trộn của các sắc tộc này. Trong những thế kỷ đầu thiên niên kỷ thứ nhất, người Goth gốc Đức đánh đuổi các dân tộc gốc Á khỏi Scythia và lập nên một vương quốc Ostrogoth (có nghĩa: Goth phía đông) ven bờ Biển Đen. Đến thế kỷ thứ IV, người Hun đến xâm chiếm người Ostrogoth. Tuần tự sau đó, đến phiên người Avar gốc Mông Cổ, rồi đến người Magyar du mục gốc Á, rồi đến người Khazar gốc Thổ, kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ X. Oświęcim (tên theo tiếng Anh: Auschwitz): thị trấn cách Thành phố Kraków của Ba Lan khoảng 60 km về hướng tây-nam. Otto I (912-973): còn được gọi là Otto Đại đế Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (962-973), Vua nước Đức (936-973), con của Vua nước Đức Henry I. Otto II (955-983): con của Otto I, Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (967-983), ban đầu cai trị nước Đức cùng với cha cho đến năm 973 khi cha qua đời thì cai trị một mình. Otto III (980-1002): được bầu làm Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh năm 983 sau cái chết của cha, Otto II. Pannonia: vùng đất lịch sử từ thế kỷ thứ X thần phục Vương triều Habsburg, từ thế kỷ XVI thần phục Đế quốc Ottoman, sau Thế chiến I được chia ra là phân nửa miền tây của Hungary cùng với những phần nhỏ của Áo, Croatia, Serbia, Slovenská, Bosnia và Herzegovina… Patkul: Johann Reinhold von Patkul (1660-1707), nhà quý tộc Livonia, vì Livonia bị Thụy Điển chiếm mà không trao quyền hành cho giới quý tộc Lavonia nên ông luôn nỗ lực để giành lại quyền hành này, thuyết phục Ba Lan và Nga đánh Thụy Điển, từ đó khơi dậy Đại chiến Bắc Âu. Phái viên (tiếng Ba Lan: poseł): người được giới quý tộc địa phương cử hoặc được hội đồng địa phương bầu ra để đi họp ở Nghị viện Cộng hòa hầu đưa ra những yêu cầu, dự thảo luật… cần được thảo luận. Các Phái viên hợp thành Viện Phái viên đứng trên Thượng viện. Đúng như tên gọi, Phái viên không có quyền tự quyết định như đại biểu Nghị viện, mà chỉ là công cụ cho giới quý tộc ra yêu sách trọng Nghị viện bởi vì họ bị bắt buộc phải phát biểu đúng như ý của nhà quý tộc đã sai khiến họ. Phân chia Ba Lan: ba cuộc phân chia Cộng hòa Ba Lan-Lietuva do Phổ, Nga và Đế quốc La Mã Thần thánh (Áo) gây ra: Phân chia thứ Nhất: năm 1772. Phân chia thứ Hai: năm 1793 (Áo không tham gia). Phân chia thứ Ba: October 24,1795. Nga chiếm khoảng phân nửa lãnh thổ Ba Lan, Phổ và Áo mỗi nước chiếm một phần tư còn lại, xóa sổ Cộng hòa Ba Lan-Lietuva. Một số tài liệu ghi “Phân chia thứ Tư”, là một trong các sự kiện sau: năm 1815, sau thời đại của Napoleon, phân chia Công quốc Warszawa tại Hội nghị Wien; năm 1832, sáp nhập “Vương quốc Hội nghị” vào nước Nga, và năm 1846 sáp nhập Cộng hòa Kraków vào Đế quốc La Mã Thần thánh; năm 1939, Đức Quốc xã và Liên Xô phân chia Ba Lan theo Hiệp ước Quốc xã-Liên Xô. Phong trào Cải cách (Anh ngữ: Reformation): cuộc cách mạng tôn giáo trong Cơ đốc giáo ở Tây Âu vào thế kỷ XVI, chấm dứt quyền năng tối thượng của giáo hoàng và khởi đầu cho các hội thánh Tin Lành. Phong trào này thay đổi toàn diện lối sống thời Trung cổ ở Tây Âu, mở đầu một kỷ nguyên mới trong lich sử hiện đại, kết quả là quyền lực và tài sản của giới quý tộc phong kiến và Công giáo La Mã suy giảm, được chuyển qua các thành phần trung lưu và vương quyền. Nhiều lãnh thổ giành được độc lập về chính trị, tôn giáo và văn hóa. Cùng lúc, việc xóa bỏ hệ thống phong kiến giúp tháo gỡ những trói buộc về thương mại do giáo điều truyền thống đặt ra, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại (Xem thêm: Phúc Âm). Phong trào Thi hành (Anh ngữ: Qxecutionist Movement, tiếng Ba Lan: Ruch egzekucyjny): Phong trào do giới quý tộc phát động trong thế kỷ XVI ở Vương quốc Ba Lan và sau đó ở Cộng hòa Ba Lan-Lietuva nhằm chuyển một số quyền hành từ triều đình và giáo hội qua giới quý tộc. Các đòi hỏi chính của Phong trào Thi hành là tôn trọng hiến pháp và soạn luật hướng dẫn thi hành hiến pháp (“thi hành luật”), trả lại cho triều đình đất do yếu nhân làm chủ bất hợp pháp (“thi hành đất đai”), tăng quyền hành cho Nghị viện Cộng hòa (qua Luật Nihil novi), thi hành luật cấm quan chức cấp cao kiêm nhiệm chức vụ thứ hai… Một số yêu sách được đáp ứng, nhưng đến thế kỷ XVII Phong trào Thi hành mất uy thế. Phổ: (tên Đức: PreuBen), khởi đầu là vùng đất của người Prussi giữa Sông Wistła và hạ lưu Sông Niemen, nằm ven bờ nam Biển Baltic, đến cuối thế kỷ thứ X bị Hiệp sĩ Teuton thôn tính làm chư hầu. Hòa ưóc Toruń thứ Hai năm 1466 chia Phổ ra thành Phổ Tây và Phổ Đông. Phổ Tây tức Phổ Hoàng gia (tên Ba Lan: Prusy Królewskie), kể cả thành phố cảng Gdańsk là lãnh địa (tỉnh tự trị) của Ba Lan, sau Thế chiến I lại thuộc về Ba Lan. Sau Thế chiến II, phần đông-bắc được sáp nhập vào Liên Xô, phần còn lại được giao cho Ba Lan. Phổ Đông, vùng đất chính của Phổ (vì thế sách sử thường gọi tắt là “Phổ”), còn dưới quyền kiểm soát của Phẩm cấp Hiệp sĩ Teuton, nhưng là chư hầu của Ba Lan, liên tục lớn mạnh rồi thoát ra khỏi Ba Lan thành Công quốc Phổ độc lập năm 1660, Vương quốc Phổ độc lập năm 1701 đóng thủ phủ ở Konigsberg (Kaliningrad ngày nay); rồi thành Vương quốc Phổ lớn nhất và hùng mạnh nhất của Đế quốc Đức (1871-1918), lãnh thổ trải dài từ Lietuva đến Ba Lan và phần lớn nước Đức hiện nay, thủ phủ là Berlin. Sau Thế chiên II, Phổ Đông được chia cho Liên Xô, Ba Lan và Lietuva, phần còn lại thuộc nước Đức ngày nay. Phúc Âm (Anh ngữ: Lutheran): khởi đầu là chủ thuyết thần học phát sinh từ Martin Luther (1483-1546), nhà thần học người Đức đã khởi xướng Phong trào Cải cách Đức có tầm ảnh hưởng sau rộng từ tôn giáo đến chính trị, kinh tế giáo dục và ngôn ngữ, khiến cho ông trở thành một trong những nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Châu Âu. Chủ thuyết Phúc Am dần dà phát triến thành giáo hội, đả kích sự suy đồi của Công giáo thời Trung cổ. Ví dụ, Luther cho rằng Thượng đế chứ không phải giáo hội, có thể tha thứ cho tội lỗi của con người. Chủ thuyết Phúc Âm làm lung lay sự thống trị của Công giáo ở Châu Âu và mở đường cho sự phát triển của giáo hội Tin Lành. Phục hồi (Anh ngữ: Restoration): sự phục hồi thể chế quân chủ của Anh và Pháp. Ở Anh là việc Vua Charles II lên ngôi (1660-1685) sau khi khối Thịnh vượng chung Anh (1649-1653 và 1659-1660) chấm dứt. Ở Pháp là việc Hoàng đế Louis XVIII lên ngôi năm 1814, sau khi Napoléon thoái vị; sự phục hồi thứ hai là nói đến việc Louis được phục hồi năm 1815. Piast: vương triều cai trị Ba Lan từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIV. Mieszko là quân vương đầu tiên (cai trị 960-992); Kazimierz III là người cuối cùng (cai trị 1333-1370). Piłsudski: Józef Klemens Piłsudski (1867-1935), nhà cách mạng, người chiến đấu cho nền độc lập, vị anh hùng quốc gia Ba Lan. Sau Thế chiên I, Ba Lan được độc lập, ông là Quốc trưởng (1918-1922), Thống chế (1920-) chỉ huy quân đội, rồi trở thành nhà lãnh đạo độc tài của nền Cộng hòa thứ Hai của Ba Lan trong giai đoạn 1926-1935. Ông được nhiều người Ba Lan cho là nhân vật nổi bật nhất của Ba Lan trong thế kỷ XX. Hầu như mỗi thành phố của Ba Lan đều có con đường mang tên ông, và tượng ông được dựng lên ở nhiều nơi. Polanie: một sắc tộc Slav Tây sống ở lưu vực Sông Warta, chư hầu của Đế quốc La Mã Thần thánh, người lãnh đạo nhận tước hiệu công tước do Đế quốc này phong, từ thế kỷ thứ X trấn áp hầu hết các bộ tộc Slav giữa Sông Odra và Sông Bug Tây và giữa dãy núi Carpathians và Biển Baltic, và cũng lấn chiếm đất của Mazowsze, Kuyavia, Đại Ba Lan… Vương triều Piast hợp nhất các bộ tộc Polanie vào Vương quốc Ba Lan. Pomorze (tên theo Anh ngữ: Pomerania; tên Đức: Pommern): vùng đất nằm bên bờ Biển Baltic, giữa hai con sông Wistła và Odra, phía bắc Berlin; vào thế kỷ thứ VII là nơi một bộ tộc người Slav sinh sống, kế tiếp bị Hiệp sĩ Teuton chiếm đoạt, đến Hòa ước Westphalia (1648) được chia ra cho Brandenburg và Thụy Điển, đến năm 1815 thuộc Vương quốc Phổ. Sau Thế chiến II, phần phía tây Sông Odra được nhập vào Đông Đức, hiện nay thuộc nước Đức thống nhất; còn phần phía đông con sông cuối cùng được nhập vào Ba Lan. Poniatowski: Hoàng thân Józef Antoni Poniatowski (1763-1813), Bộ trưởng Chiến tranh và Tổng Tham mưu trưởng quân đội Công quốc Warszawa dưới quyền cai quản của Pháp, được Pháp phong Thống chế năm 1809, chỉ huy quân đội Ba Lan về phe với Pháp mà chống Nga, tử thương do đạn lạc từ quân Pháp. Pontic: dãy núi ở miền bắc Thỗ Nhĩ Kỳ ngày nay, chạy dọc bờ Biển Bắc. Potsdam: thành phố miền đông-bắc Đức hiện nay cách Berlin 25 kilômét về phía tây-nam. Poznań (tên theo tiếng Đức và Anh: Posen): thành phố miền tây Ba Lan, một trong những thành phố cổ nhất nước, thủ phủ của Đại Ba Lan, sau Thế chiến I đến giờ luôn thuộc về Ba Lan. Principate (theo tiếng Latinh princeps, có nghĩa “thủ lĩnh”): giai đoạn đầu của Đế quốc La Mã kéo dài cho đến thế kỷ thứ III, có đặc điểm là các Hoàng đế La Mã cai trị dựa trên các thủ lĩnh chính trị; hoặc, là người của triều đình hoặc là của công chúng, nhằm tạo ra ảo tưởng chế độ Cộng hòa La Mã kéo dài và việc trị quốc dựa trên dân quyền. Pripet hoặc Pripyat: vùng đầm lầy pha rừng ngập nước rộng gần 300 kilômét vuông, thuộc lưu vực Sông Pripet rộng 100.000 kilômét vuông, ở miền trung tây của Liên Xô trước đây, hiện giờ nằm giữa Belarus về phía bắc và Ukraina về phía nam. Proudhon: Pierre Joseph Proudhon (1809-1865), nhà lý thuyết chính trị học người Pháp, đôi lúc được gọi là cha đẻ của chủ nghĩa vô chính phủ hiện đại, có tư tưởng chống sự lạm dụng của quyền hành tập trung. Ông định ra một xã hội trong đó bản chất đạo đức và ý thức về trách nhiệm của con người được phát triển đến mức cao đến nỗi không cần có chính phủ để quản lý xã hội. Proudhon bài bác việc sử dụng sức mạnh để áp đặt bất kỳ hệ thống thể chế nào đối với người dân. Trong một xã hội lý tưởng mà ông gọi là “trật tự trong tình trạng vô chính phủ”, con người sẽ tự nguyện hành xử theo ý thức trách nhiệm và đạo đức. Premyslovci hoặc Premyslid: Vương triều người Séc trị vì Cechy (thế kỷ thứ IX-1306) và Ba Lan (1300-1306). Ptolemy (100?-170?): tên thật là Claudius Ptolemaeus, nhà thiên văn học và toán học và cũng có đóng góp trong các lĩnh vực quang học và địa lý, sống và làm việc chủ yếu ở Alexandria, Ai Cập, đã đưa ra những lý thuyết và giải trình thiên văn học chiếm vị trí quan trọng trong tư tưởng khoa học cho đến thế kỷ XVI. Pyotr Đại đế: Pyotr Alekseyevich (1672-1725), đăng quang Sa hòang với vương hiệu Pyotr I năm 1682, được Thượng viện Nga trao tước hiệu Pyótr Đại đế và Hoàng đế của Đế quốc Nga năm 1721. Pyotr III: Fyodorovich (1728-1762), Hoàng đế Nga (1762), cháu ngoại của Pyotr Đại đế. Quân chủ Kép: xem Đế quốc Áo-Hungary. Reconquista: tiếng Tây Ban Nha có nghĩa “Tái chiêm”, chỉ việc tín đồ Cơ đốc chiến đấu để giành lại quyền hành từ tín đồ Hồi giáo đang chiếm đóng Tây Ban Nha từ đầu thế kỷ thứ VIII. Chế độ Hồi giáo suy giảm từ năm 1000, đến năm 1492 thì việc tái chiếm hoàn tất. Reval: thủ phủ của Tỉnh Estonia, ban đầu nằm trong Đế quốc Thụy Điển, bị Pyotr Đại đế chiếm rồi dùng làm căn cứ Hạm đội Baltic của Nga, hiện nay là thủ đô Tallinn của nước Estonia. Khu vực phố cổ của Tallinn đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Rhine: một trong những sông chính ở Châu Âu, dài 1.320 km, chảy qua Thụy Sĩ, Áo, Pháp, Đức, Hà Lan rồi ra Biển Bắc; đoạn trên cùng là biên giới Thụy Sĩ-Áo, đoạn kế là biên giới Pháp-Đức. Riga: thủ phủ của Tỉnh Livonia, nằm bên cửa Sông Dvina, được thành lập vào thế kỷ XII để làm thủ phủ của Giám mục Livonia, đến năm 1581 được gồm trong Cộng hòa Ba Lan-Liétuva, năm 1621 bị Thụy Điển chiếm nhưng trao quyền tự trị, năm 1721 được nhượng cho Nga, hiện nay là thủ đô của nước Latvija. Trung tâm lịch sử của Riga đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Romanov: Vương triều trị vì nước Nga từ năm 1613 cho đến Cách mạng Nga năm 1917, khởi đầu là Mikhail Feodorovich Romanov. Cha của Pyotr Đại đế, Aleksei I, là người thứ hai trong dòng họ trị vì, kế tiếp là người anh cùng cha khác mẹ Fyodor III của Pyotr Đại đế cùng Pyotr Đại đế làm đồng-Sa hoàng. Rosenberg: Alfred Rosenberg (1893-1946), đảng viên Đức Quốc xã có học thức lúc đảng còn trong thời kỳ phôi thai, khởi xướng và thực hiện nhiều chủ trương của Quốc xã. Rousseau: Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), triết gia người Pháp, lý thuyết gia về xã hội và chính trị, một trong những cây bút hùng hổn nhất trong Thời đại Khai sáng. Rudolf II (1552-1612): thuộc Vương triều Habsburg, Vua Rudolf của Hungary (1572-1608), Vua Rudolf II của Cechy (1575-1608/1611), Đại Công tước Rudolf V của Áo (1576-1608), Hoàng đế Rudolf II của Đế quốc La Mã Thần thánh (1576-1612). Rurik: Vương triều trị vì Kyivan Ruś, các lãnh địa tiếp nối, và thời kỳ đầu nước Nga thống nhất, từ năm 862 đến năm 1598. Theo một nguồn sử liệu, người khởi đầu vương triều này là Rurik, một nhân vật trong truyền thuyết ở Novgorod, thuộc bộ tộc Ruś. Đến giữa thế kỷ XII, Kievan Ruś bị phân chia làm nhiều lãnh địa Ruś (tên theo Anh ngữ: Russian, tức Nga), mỗi lãnh địa do một nhánh của Vương triều Rurik trị vì. Đến cuối thế kỷ XV, Lãnh địa Moskva nắm quyền lực ưu thế so với các lãnh địa khác. Bắt đầu với Ivan IV, người trị vì Lãnh địa Moskva sử dụng tước hiệu “Sa hoàng toàn Nga” và thống nhất các lãnh địạ. Vương triều Rurik chấm dứt khi Sa hoàng Fyodor I Ivanovich qua đời năm 1598. Ruthenia: địa danh của nhiều vùng đất khác nhau, tùy người gọi và thời kỳ lịch sử, nói chung là vùng đất hiện giờ có tên Zakarpattya ở Ukraina, ngày xưa nằm giữa các nước Ba Lan, Áo, và Đế quốc Áo Hungary. Phần nằm ở đông-nam là Ruthenia Đỏ (Ruś Czerwona) thuộc Tiểu Ba Lan thu được từ Hungary; ở nam và tây-nam là Ruthenia Đen (Czamoruś); còn Ruthenia Trắng là Belarus ở miền bắc. Trong cuộc Phân chia Ba Lan thứ Nhất, phần đất Ruthenia của Ba Lan bị Áo và Nga chia nhau; Ruthenia Đỏ thuộc Ukraina. Phần của Áo (được gọi là Galicia) được trả về Ba Lan năm 1918 nhưng sau Thế chiến II bị sáp nhập vào Liên Xô. Phần của Hungary (Podkarpatská Ruś) là một tỉnh tự trị của Tiệp Khắc trong giai đoạn 1919-1939, được trả về Hungary trong Thế chiến II rồi được sáp nhập vào nước Cộng hòa Ukraina của Liên Xô năm 1945. Thủ phủ của Ruthenia là Uzhgorod (cũng được viết là Uzhhorod). Ruthenia Đen: vùng đất bao quanh Novgorodok (Navahrudak), ở miền tây Belarus hiện nay. Thật ra, địa danh này lần đầu tiên xuất hiện khoảng năm 1360 nhưng để chỉ Ruthenia Đỏ (trong nước Ukraine ngày nay), lúc ấy nằm trong lãnh địa Lietuva. Địa danh “Ruthenia Đen” thường được dùng từ thế kỷ XVIII. Ruthenia Đỏ (tên Ukraina: Chervona Ruś, tên Ba Lan: Ruś Czerwona): năm 1018, được sáp nhập vào Ba Lan, năm 1031 vàp Rus, năm 1340 trở về Ba Lan. Từ lúc này, địa danh “Ruthenia Đỏ” được ghị vào lịch sử. Hiện nay, vùng này được chia hai: phần phía tây bao quanh Przemyśl làm nằm ở miền đông Ba Lan, phần phía đông bao quanh Lviy là nằm ở miền tây Ukraina. Ruthenia Trắng: xem Belarus. Rửa tội lại (Anh ngữ: Anabaptist): một số giáo phái thuộc Cơ đốc giáo nổi lên ở Châu Âu (đặc biệt là Đức, Hà Lan và Thụy Sĩ) trong thời kỳ Phong trào Cải cách, chủ trương rửa tội lại cho người lớn dù người này đã được rửa tội hồi còn nhỏ. Chủ thuyết chính yếu của các giáo phái này là dựa vào đức tin cá nhân và lòng tự nguyện theo đạo, vì thế việc rửa tội cho trẻ sơ sinh đi ngược lại chủ thuyết này: con trẻ không thể tự mình quyết định. Sa hoàng (Anh văn: Czar hoặc Tzar): biến thể từ tước hiệu caesar của đế chế La Mã, thể hiện ý niệm Sa hoàng là người trị vì thay mặt cho Thượng đế. Tước hiệu này đã được dùng cho người đứng đầu Đế quốc Bulgary từ thế kỷ thứ X và ở Serbia giữa thế kỷ XIV. Năm 1547, Ivan IV là người đầu tiên chính thức xưng tước hiệu Sa hoàng của nước Nga. Saladin: tên theo tiếng Ả Rập là Salah al-Din Yusuf ibn Ayyub (1138- 1193), năm 1169 làm Tổng Tư lệnh quân đội Syria và Tể tướng Ai Cập, giúp hồi phục nền kinh tế và quân đội Ai Cập rồi đánh lui quân Thập tự chinh và đánh chiếm Jerusalem năm 1187. Các sử gia đạo Hồi tôn vinh ông hết mực; các tác giả (kể cả tiếu thuyết gia) phương Tây cũng ca ngợi ông. Sankt-Peterburg: thành phố lớn thứ hai và cảng biển lớn nhất của Nga, nằm trên vùng cực Bắc ở đầu Vịnh Phần Lan (một nhánh của Biển Baltic), bao trùm cửa sông Neva, do Pyotr Đại đế ra lệnh xây dựng từ bãi đầm lầy, nhằm mở một đường giao thông hàng hải và căn cứ hải quân Nga. Thành phố có chức năng là thủ đo của Nga trong giai đoạn 1712-1918, sau đó được đổi tên là Leningrad khi Moskva được dùng làm thủ đô, hiện nay mang tên cũ trở lại là Sankt-Peterburg. Sarmatian: sắc tộc du mục thời cổ đại, vào thế kỷ thứ V tCN sống ở giữa bờ Biển Caspi, Sông Don và Biển Azov, đến thế kỷ thứ III tCN mở rộng từ Biển Baltic đến Biển Đen và từ Sông Wistla đến Sông Volga, cho đến thế kỷ thứ IV thì bị người Hun trấn áp. Savoy: một cống quốc do công tước trị vì; nằm giữa nước Pháp và Ý hiện nay. Saxon và Saxony: Saxon là bộ tộc gốc Đức, từ thế kỷ thứ II sinh sống ở miền Bắc nước Đức hiện nay, đến giữa thế kỷ thứ IV xâm chiếm lãnh thổ của người La Mã, và đến cuối thế kỷ thứ VI bành trướng khắp vùng tây-bắc nước Đức hiện hay. Vào thế kỷ thứ IX, họ thành lập công quốc Saxony trải dài đến gần Sông Rhine và Sông Odra, nhưng công quốc này tan rã vào thế kỷ XII. Sau đó, cái tên “Saxony” được áp dụng vào một lãnh thổ hoàn toàn khác biệt: Công quốc Saxony được thành lập vào giữa thế kỷ XIV, một công quốc lớn do tuyển hầu tước cai trị ở tây-bắc Châu Âu, chủ yếu là của người Đức gốc Saxon, đặt thủ phủ ở Dresden. Đến năm 1871, Saxony trở thành một trong những vương quốc thành viên của Đế quốc Đức. Vùng trung-đông nước Đức thống nhất hiện nay có Bang Saxony, tương ứng gần đúng với Công quốc Saxony ngày trước. sách giáo lý hỏi-đáp: loại sách giáo lý của Cơ đốc giáo được soạn ra dưới thể những câu hỏi và đáp (như là người con hỏi và người cha đáp), lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỷ thứ VIII, sau đó được nhiều giáo phái khác nhau tiếp tục biên soạn. Vào thời gian đầu của Phong trào Cải cách, loại sách này có tầm quan trọng đặc biệt vì Martin Luther nhấn mạnh việc giáo dục giáo lý. Phúc Âm cho trẻ em. Sắc lệnh Vàng (Anh ngữ: Golden Bull): khởi đầu là sắc lệnh do Hoàng đế Đế quốc Byzantine ban hành, kèm theo một món trang trí làm bằng vàng thể hiện một con dấu của Hoàng đế được sử dụng như là ý nghĩa ngoại giao quan trọng khi Hoàng đế tỏ ý chúc phúc nước chư hầu, do Hoàng đế đơn phương ban hành mà không cần có sự ràng buộc nào đối với nước tiếp nhận. Sắc lệnh Vàng Rimini do Hoàng đế Frederick II trao năm 1226 để công nhận sự hiện diện của Hiệp sĩ Teuton ở Phổ. Sắc lệnh Vàng được sử dụng trong gần tám trăm năm ở những vương triều khác về sau cho đến thời Phục Hưng cũng noi gương ban hành Sắc lệnh Vàng tương tự. Scandinavia: tên áp dụng chung cho ba nước ở Bắc Âu: Na Uy và Thụy Điển (tạo nên Bán đảo Scandinavia) cùng Đan Mạch. Shlisselburg (tên phiên âm tiếng Anh: Schlusselberg hoặc Schlusselburg): pháo đài có tên cũ là Noteborg khi còn thuộc Thụy Điển, nằm nơi Hồ Ladoga chảy vào Sông Neva. Năm 1702, Pyotr Đại đế đánh chiếm pháo đài này rồi đổi tên là Shlisselburg (tên Nga: …, có nghĩa Chìa khóa), hiện nay mang tên Petrokrepost (có nghĩa: “Pháo đài của Pyotr”), đã được công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. siêu hình (Anh ngữ: metaphysics): trong triết học, là tư tưởng liên quan đến tính chất của thực thể chung cục. (Trong một thời gian dài, tư tưởng siêu hình có xu hướng đưa ra những lý thuyết dựa trên tri thức, đi trước (từ lý luận) thay vì tri thức đến sau (từ kinh nghiệm). Từ tri thức đi trước, nhưng suy diễn được tạo ra và được cho là đúng với tất cả sự vật. Sigismund tức Sigismund của Luxembourg (1368-1437): Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh (1433-1437), Hoàng đế cuối cùng thuộc Vương triều Luxemburg, kiêm Vua của Hungary và Croatia (1387-1437). Sigismund là một trong những thế lực phía sau Công đồng Constance nhằm chấm dứt Ly giáo, nhưng cũng dẫn đến Chiến tranh Hussite. Slav: các dân tộc khởi thủy ở các lưu vực Sông Odra và Wistła thuộc Ba Lan bây giờ, sau đó phân tán ra các hướng đông, tây và nam, cho đến năm 800 đã trở thành khác biệt về ngôn ngữ, phân bố ở Đông Âu và Trung Âu, bán đảo Balkan, và quá dãy núi phía Châu Á. Nhánh phía Đông gồm những dân tộc Nga, Belarus, Ukraina; nhánh miền Tây gồm những dân tộc Ba Lan, Séc, Slovak; và nhánh phía Nam gồm những dân tộc Slovenská, Serb-Croatia, Macedonia, và Bulgaria. Slovakia: vùng đất thuộc miền trung Châu Âu, từ thế kỷ thứ X là một phần đất của Hungary, trong thế kỷ XV thuộc Vương triều Habsburg và là trung tâm văn hóa chính trị của Hungary với thủ phủ là Bratislava, sau Thế chiến I thuộc Tiệp Khắc, hiện là nước cộng hòa độc lập với thủ đô là Bratislava. Slovenská (tên theo Anh ngữ: Slovenia): vùng đất ở miền trung-nam Châu Âu, khởi đầu thuộc Đế quốc La Mã, đến giữa thế kỷ thứ VII là nước độc lập, đến thế kỷ thứ IX thuộc Đế quốc Frankish, thế kỷ thứ X là công quốc Carantania thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh, sau đó thuộc Đế quốc Áo-Hungary, sau Thế chiến I nằm trong Nam Tư, hiện giờ là nước độc lập. Smolensk: thành phố ở vùng trung-tây nước Nga, nằm bên bờ Sông Sniepr (gần biên giới Nga-Belarus hiện nay). Sobieski: Jan III Sobieski, tên theo Anh ngữ: John III Sobieski (1624- 1696), Thủ lĩnh trong Quân đội Ba Lan, từ năm 1665 lập được nhiều chiến công trong Chiến tranh Thụy Điển 1655-1660, và cũng chiến thắng quân Cossack, Đế quốc Ottoman và Thổ, Vua của Ba Lan kiêm Đại Công tước Lietuva (1674- 1696). Năm 1683, ông chỉ huy quân đồng minh giải vây Thành phố Wien đang bị quân Ottoman công hãm, tạo ra bước ngoặt cuối cùng trong cuộc xung đột kéo dài 250 năm giữa Cơ đốc giáo Châu Âu và Đế quốc Ottoman thuộc Hồi giáo, vì sau đó Ottoman bị đánh đuổi vĩnh viễn khỏi Trung Âu. Ông được xem là vị vua tài giỏi cuối cùng của Ba Lan. Sau khi ông qua đời, Ba Lan rơi vào vòng ảnh hưởng của Nga. Stalingrad: thành phố miền tây-nam nước Nga, nằm bên bờ Sông Volga, được nối với Sông Don qua Kênh Volga-Don, vì thế có vị trí chiến lược là nút giao thông đường thủy quan trọng, hiện nay có tên là Volvograd. Trong Thế chiến II, Stalingrad là nơi Đại Quân đoàn thứ Sáu của Đức Quốc xã bị đánh bại, Thống chế Tư lệnh Đại Quân đoàn đầu hàng; Trận Stalingrad tạo nên một điểm ngoặt quan trọng trong cuộc chiến. Stanisław: Leszczyński Stanislaus (1677-1766), được Karl XII đưa lên làm Vua Ba Lan (1704-1709), năm 1733 được bầu lại làm Vua Ba Lan nhưng thoái vị năm 1736. Stanisław II August (1732-1798): khi sinh ra là Bá tước Stanisław Antoni Poniatowski, năm 1755 được người cậu trong gia tộc Czartoryski gửi đi trong phái bộ sứ thần của Anh. Ở-Nga, Nữ Đại đế Ekaterina II tương lai bị ông thu hút; hai người có quan hệ tình cảm với nhau. Đến năm 1758, nhờ ảnh hưởng của Ekaterina II, ông được Nga công nhận là Đại sứ của Saxony. Năm 1764, ông được bầu làm Vua Ba Lan-Lietuva kiêm Đại Công tước Lietuva với vương hiệu Stanisław II August. Năm 1795, ông thoái vị sau cuộc Phân chia thứ Ba giữa Nga, Áo và Phổ, vì thế ông là vị vua cuối cùng của Cộng hòa Ba Lan- Lietuva. Stanisław Poniatowski: xem Stanisław II August. Steven I (967/969/975-1038): Đại Hoàng thân người Magyar (997- 1001), Vua Hungary đầu tiên (1001-1038), được xem là người thành lập nước Hungary, cùng với con trai là Imre được phong Thánh năm 1083. Ông là một trong những vị Thánh được yêu mến nhất ở Hungary. Szczecin (tên theo tiếng Anh và Đức: Stettin): thành phố cảng phía bắc Ba Lan, nằm bên bờ sông Odra, thông ra Biển Baltic, vào đầu thế kỷ thứ X có các bộ tộc người Slav sinh sống, đến thế kỷ XIII thuộc Công quốc Pomorze, từ năm 1648 thuộc Thụy Điển, sau Đại chiến Bắc Âu được giao cho Phổ, sau Thế chiến I là thủ phủ của Tỉnh Pommern thuộc Đức, hiện nay thuộc Ba Lan. Sully: Maximilien de Béthune, Công tước Sully (1560-1641), chính khách Phảp, phục vụ Vua Henry IV từ năm 1571, Bộ trưởng Tài chính từ năm 1596 cho đến khi Henry IV qua đời năm 1610, cũng đảm nhận thêm các nhiệm vụ liên quan đến công trình công cộng. Suvorov: Aleksandr Vasil’evic Suvorov (1729-1800), Thống chế Nga, Bá tước Nga, Hoàng thân Ý, Bá tước Đế quốc La Mã Thần thánh, phục vụ chiến trường Ba Lan đánh Liên minh Bar, chiếm Kraków (1768), mở đường cho Cuộc Phân chia Ba Lan thứ Nhất, năm 1794 đánh chiếm Warszawa, dập tắt cuộc Khởi nghĩa của Kościuszko dẫn đến Phân chia Ba Lan thứ Ba. Süleyman I (1494-1566): Hoàng đế Đế quốc Ottoman (1520-1566); dưới triều ông, Đế quốc Ottoman vươn đến đỉnh cao quyền lực và thịnh vượng. Śląsk (tên theo Anh ngữ: Silesia, tên Đức: Schlesien): vùng đất nằm dọc trung lưu và thượng lưu Sông Odra và dãy núi Sudetes, kế cận Saxony và Brandenburg, có thành phố lớn nhất là Wrocław, khi xưa thuộc Đế quốc La Mã Thần thánh rồi đến Đế quốc Đức, sau Thế chiến I bị các nước Ba Lan, Tiệp Khắc và Đức tranh chấp; phần bên Đức được chia thành Śląsk Thượng và Śląsk Hạ. Hiện nay vùng đất này bao gồm miền tây-nam Ba Lan, một phần Cộng hòa Séc cùng các bang Brandenburg và Saxony ở miền Đông nước Đức. Tacitus: Cornelius Tacitus (557-120?), sử gia Đế quốc La Mã, biên soạn những tài liệu lịch sử La Mã trình bày giai đoạn khoảng từ năm 14 đến """