"
Sách Ngược Đời Xuôi - Gabrielle Zevin full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sách Ngược Đời Xuôi - Gabrielle Zevin full prc pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
The Stories Life of A.J.Fikry SÁCH NGƯỢC ĐỜI XUÔI Tác giả: Gabrielle Zevin
Người dịch: Hồng Ly
Phát hành: IPM
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2016 —★—
ebook©vctvegroup
24/11/2019
Cuốn sách này hoàn toàn là hư cấu. Ở đây, các quan điểm văn học dӵa trên hiểu biết của tác giả. Tên nhân vật, địa danh và sӵ kiện trong truyện là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tác giả hoặc được tác giả sử dụng một cách hư cấu.
come on, sweetheart
let’s adore one another
before there is no more
of you and me.
Tạm dịch:
Thôi nào, cô gái nhỏ
Hãy cứ yêu nhau đi
Trước khi chẳng còn gì
Giӳa ta và em nӳa.
Rumi[1]
PHẦN I
[2]
Cái đùi cừu
1953 – Roald Dahl[3]
Bà vợ dùng cái đùi cừu đông lạnh giết chồng rồi phi tang “hung khí” bằng cách nấu lên mời mấy tay cớm đánh chén. Một truyện ngắn khá hấp dẫn của Dahl dẫu cảnh sát trưởng Lambiase vẫn băn khoăn liệu một bà nội trợ chính cống có nấu đùi cừu theo như truyện miêu tả hay không: Không rã đông, không nêm nếm, cũng không ướp gia vị. Thế thì sẽ chẳng nhừ nổi, thậm chí còn chưa chín ấy chứ? Chuyên ngành của ta chẳng phải ẩm thực (hay hình sự), nhưng nếu con để ý những tình tiết nhỏ nhặt này thì toàn bộ câu chuyện sẽ bắt đầu sáng tỏ. Trừ vấn đề đó ra, tác phẩm rất đáng để giới thiệu vì ta biết một cô bé từng yêu thích James và quả đào khổng lồ[4] lắm lắm.
A.J.F.
Trên chuyến phà từ Hyannis tới đảo Alice, cô nàng Amelia Loman tranh thủ sơn móng tay màu vàng. Trong lúc đợi sơn khô, cô đọc lướt mấy ghi chú của người tiền nhiệm. “Tiệm sách Hải Đảo, doanh số xấp xỉ 350.000 đô la mỗi năm, nhӳng tháng hè bán chạy hơn do nhiều khách du lịch.” Tiền nhiệm Harvey Rhodes tổng kết. “Chỗ bán rộng khoảng 55 mét vuông. Không có người làm toàn thời gian ngoại trừ chủ tiệm. Khu vӵc sách thiếu nhi rất bé. Dịch vụ mua bán trӵc tuyến chưa chuyên nghiệp. Phương thức tiếp cận độc giả nghèo nàn. Chủ yếu là dòng sách văn học, đó là lợi thế cho chúng
ta nhưng tay Fikry rất kén chọn, thiếu Nic thì chẳng bán nổi quyển nào. May mà cả thị trấn có mỗi tiệm Hải Đảo.” Amelia hơi thiếu ngủ, cô ngáp dài tӵ hỏi liệu tiệm sách bé xíu đó có đáng để mình lết cả quãng đường dài đến thế hay không. Lúc sơn móng tay khô hẳn thì bản tính lạc quan trong cô cũng trỗi dậy, Ồ, đáng quá ấy chứ! Cô chuyên làm việc với nhӳng hiệu sách be bé cùng mấy tay chủ tiệm mà. Cô còn đa di năng, biết chọn đúng rượu cho bӳa tối (giỏi tổ chức, lại có thể chăm sóc mấy ông bạn say quắc cần câu), trồng cây, tìm chó mèo lạc, và nhiều tài lẻ khác nӳa.
Cô vừa bước lên bờ thì điện thoại kêu. Số lạ gọi tới. Giờ chẳng còn bạn bè nào của cô xài điện thoại vì chức năng nghe gọi cả. Mà cô cũng thích thế, thời buổi nào rồi còn gọi điện chỉ để thông báo mấy tin lãng xẹt mà ai cũng biết cơ chứ? Hóa ra đầu dây bên kia là Boyd Flanagan, thất bại thứ ba của việc hẹn hò qua mạng, cái gã đã dẫn cô đến rạp xiếc sáu tháng trước.
“Cách đây vài tuần, anh đã gửi tin nhắn cho em,” gã nói. “Em có nhận được không?”
Cô đáp mình mới nhảy việc nên mọi thứ cứ loạn cả lên. “Với cả, em nghĩ lại rồi. Hẹn hò qua mạng chắc chẳng hợp với em đâu.” Hình như Boyd không nghe được câu cuối, gã hỏi, “Mình đi chơi lần nӳa nhé?”
Một phút tưởng niệm cho buổi hẹn hò lần trước: Rạp xiếc khá hay ho nên ban đầu họ không để ý đến việc giӳa hai người chẳng hề có điểm chung. Đến cuối bӳa tối, sӵ thật phũ phàng dần hé lộ. Đáng lẽ, Amelia phải nhận ra điều này ngay khi hai người chẳng thể nhất trí được loại rượu khai vị, hay lúc gã thú nhận rằng mình không
hứng thú với mấy thứ “cũ kĩ”, như đồ cổ, nhà cửa, lũ chó và con người. Cô không cho phép bản thân khẳng định điều gì cho đến tận món tráng miệng. Amelia đã hỏi tên cuốn sách có ảnh hưởng nhất đến đời gã và nhận được câu trả lời: Nguyên lý kế toán - phần II.
Thế là cô khéo léo từ chối gã, thôi khỏi, cô chẳng muốn hẹn hò lần nӳa tẹo nào.
Nghe tiếng Boyd thở dồn dập, cô sợ rằng gã sắp khóc tới nơi. “Anh không sao chứ?” Cô hỏi.
“Đừng giả mèo khóc chuột.”
Amelia biết mình nên cúp máy luôn, nhưng cô không làm thế. Cô muốn nghe xem gã định nói gì. Phải kiếm vài thứ hay ho từ cuộc hẹn tồi tệ để có chuyện kể với lũ bạn chứ nhỉ?
“Sao anh lại nói thế?”
“Amelia này, tôi không gọi cho cô ngay sau cuộc hẹn đó đúng không?” Gã nói. “Tôi không thèm gọi vì tôi kiếm được một em ngon hơn nhiều, nhưng hẹn hò chẳng ra đâu vào đâu nên tôi mới cho cô thêm cơ hội. Cô tưởng mình hay lắm à? Tôi nói cho cô biết, cô cười trông cũng được đấy nhưng răng to oành, mông cũng chẳng khá hơn, rồi cái cách cô uống rượu cứ như mới 25 ấy, cô già quá rồi cô ạ. Đừng ăn mày còn đòi xôi gấc.” Gã xôi gấc bắt đầu nức nở. “Xin lỗi. Anh thӵc sӵ xin lỗi.”
“Không sao, Boyd à.”
“Sao anh lại không được chứ? Rạp xiếc vui mà, phải không? Anh cũng đâu đến nỗi nào.”
“Anh tuyệt lắm, rạp xiếc cũng hay.”
“Nhưng sao em lại không thích chứ? Nói anh nghe đi.” Tới lúc này thì có quá nhiều lý do để không ưa nổi gã, cô chọn đại một cái, “Anh nhớ lúc em bảo mình làm bên xuất bản còn anh nói không có hứng thú với sách vở không?”
“Trưởng giả học làm sang.” Gã kết luận.
“Về mặt nào đó thì cũng đúng. Nghe này, Boyd, em đang trong giờ làm. Em có việc rồi.” Amelia cúp máy. Cô không tӵ đắc về vẻ ngoài của mình, càng không quan tâm đến mấy lời của gã Boyd Flanagan. Dẫu sao, gã cũng đâu thӵc sӵ nói chuyện với cô. Cô chỉ là nỗi thất vọng mới nhất của gã mà thôi. Cô cũng thất vọng chứ bộ. Cô 31 tuổi rồi, đã đến lúc phải gặp gỡ ai đó.
Vậy mà...
Amelia luôn lạc quan tin rằng thà ở vậy còn hơn phải chịu đӵng một người chẳng đồng điệu hay không có chung sở thích với mình. (Đúng mà nhỉ?)
Mẹ cô thường càm ràm đống tiểu thuyết lãng mạn đã khiến con gái bà không thích nổi đàn ông ngoài đời thӵc. Bà nghĩ cô chỉ đọc mấy cuốn tình cảm sến súa, điều này quả là một sӵ sỉ nhục với Amelia. Thӵc ra, thi thoảng đọc thể loại đó cũng được nhưng gu của cô phong phú hơn nhiều. Hơn nӳa, dù ngưỡng mộ giáo sư Humbert[5] thật đấy, nhưng nếu có thӵc ngoài đời, cô cũng chẳng muốn lấy ông ta, yêu hay thậm chí quen thôi cũng không. Đến cậu chàng Holden Caulfield[6], ông chủ Rochester[7] hay ngài Darcy[8] cũng thế.
Biển hiệu treo trước cổng ngôi nhà kiểu Victoria đỏ tía đã bạc
phếch khiến Amelia suýt đi quá.
TIỆM SÁCH HẢI ĐẢO
Độc quyền cung cấp sách văn học
trên đảo Alice từ năm 1999
Sách, mỗi cuốn một khung trời
Người, chẳng ai là đảo[9]
Trong tiệm, một cô bé đứng quầy thu ngân đang đọc cuốn sách mới ra của Alice Munro[10]. “Này, quyển đó thế nào?” Amelia hỏi. Cô ngưỡng mộ Munro, nhưng ngoại trừ các kỳ nghỉ, cô lấy đâu ra thời gian mà đọc mấy cuốn sách không nằm trong danh sách giới thiệu cho khách hàng cơ chứ.
“Trường bắt đọc ạ.” Cô bé đáp.
Nghe Amelia giới thiệu là nhân viên kinh doanh bên nhà xuất bản Dӵc Long, cô bé vẫn chẳng buồn ngẩng lên, chỉ lơ đãng trỏ ra phía sau, “Chú A.J. đang ở trong văn phòng đó.”
Nhìn nhӳng chồng sách in thử cùng bản thảo vứt lộn xộn trên hành lang, Amelia cảm thấy nỗi thất bại đang vẫy chào phía cuối con đường. Chiếc túi trĩu nặng trên vai cô có vài cuốn sách cùng một catalog in đầy tên sách hay để giới thiệu cho ông chú A.J. Cô chưa từng tâng bốc mấy đầu sách mình đề xuất, chưa từng dối lòng mà la lên mình cuồng quyển này quyển nọ. Đối với cô, nội dung, bìa sách, tác giả hay website của tác giả đều có điểm hay ho để nói. Thế nên họ mới trả lương mình hậu hĩnh, thi thoảng Amelia lại tӵ đùa như vậy. Cô kiếm được 37.000 đô la mỗi năm chưa kể tới
thưởng, dù hãn hӳu lắm mới có.
Cửa phòng ông chú A.J.Fikry đóng im ỉm. Amelia đi được nửa đường thì tay áo len bị móc vào chồng sách, thế là hơn trăm quyển rơi rầm rầm xuống sàn. Cánh cửa bật mở, người đàn ông tên A.J.Fikry nhìn chằm chằm đống lộn xộn rồi liếc qua cô gái với mái tóc vàng sậm đang cuống cuồng dọn sách.
“Cô là ai?”
“Amelia Loman.” Cô gom được hơn mười quyển, và một nửa trong số đó lại rớt xuống.
“Để đấy đi.” Gã gầm gừ. “Mấy cuốn đó có thứ tӵ cả. Cô chỉ làm loạn lên thôi. Mời cô đi cho.”
Amelia đứng dậy. Cô nhận ra mình cao hơn tay A.J. này ít nhất mười phân. “Nhưng tôi có hẹn với anh.”
“Hẹn hò gì.” Gã nói.
“Có mà,” Amelia khăng khăng đáp, “tôi đã email cho anh từ tuần trước về các đầu sách mùa đông. Anh nói tôi đến vào thứ Năm hay chiều thứ Sáu đều được cả nên tôi đã hẹn thứ Năm.” Cuộc trò chuyện qua email ngắn gọn nhưng có thật, tuyệt đối không thể là tưởng tượng.
“Cô là đại diện bên xuất bản hả?”
Amelia gật đầu, thở phào nhẹ nhõm.
“Nhà xuất bản nào?”
“Dӵc Long.”
“Đại diện nhà Dӵc Long là tay Harvey Rhodes cơ mà,” gã đáp. “Tuần trước cô gửi email, tôi tưởng cô là trợ lý của Harvey hay gì
đó.”
“Tôi làm thay anh Harvey.”
A.J. thở dài não nề. “Thế thằng cha Harvey đó qua bên nào vậy?”
Anh ấy mất rồi còn đâu... Amelia chợt nghĩ có nên đùa lại rằng Harvey chuyển qua nhà xuất bản Kiếp Sau không, nhưng cô chỉ đáp đơn giản, “Anh ấy mất rồi. Tôi tưởng anh biết chứ.” Phần lớn khách hàng của cô đều biết cả. Anh Harvey là một huyền thoại trong giới kinh doanh xuất bản phẩm. “Có cáo phó đăng trên bản tin ABA[11], hình như cả Publishers Weekly[12] nӳa.” Giọng cô đầy thương cảm.
“Tôi không hay đọc tin tức ngành xuất bản.” Gã gỡ cặp kính đen dày cộm ra rồi cứ lau gọng kính mãi.
“Tôi lấy làm tiếc phải báo tin này cho anh.” Amelia chạm nhẹ lên tay gã nhưng liền bị hất ra.
“Tôi có quen thân thằng cha đó đâu mà thương với tiếc? Một năm gặp nhau được ba lần, mà lần nào hắn cũng nài ép tôi mua mua bán bán. Bè chứ bạn nỗi gì.”
Thôi, thế là vụ giới thiệu các đầu sách mùa đông đã đi tong. Cô nên hẹn quay lại vào dịp khác thì hơn. Nhưng cứ nghĩ tới hơn hai tiếng đồng hồ lái xe tới Hyannis rồi thêm tám chục phút đi phà lên đảo Alice, mà sau tháng Mười, lịch chạy phà lại rất thất thường, cô đành cố vớt vát, “Dẫu sao tôi cũng tới rồi, anh không phiền nếu xem qua vài đầu sách mùa đông bên Dӵc Long chứ?”
Văn phòng A.J. hoàn toàn khép kín, không cửa sổ, không tranh treo tường, trên bàn không đặt bức ảnh nào, không đồ trang trí, cửa thoát hiểm cũng không luôn. Trong phòng chỉ có sách, mấy giá kim
loại rẻ tiền (như loại để trong ga ra), một tủ hồ sơ đầy ӵ và chiếc máy tính cổ lỗ từ thế kӹ trước. Gã chẳng thèm lấy nước mời cô, và dầu đang khát khô cả cổ, cô cũng không buồn hỏi. Cô dọn một chiếc ghế chất đầy sách rồi ngồi xuống.
Amelia bắt đầu giới thiệu các đầu sách mùa đông. Đây là danh sách khiêm tốn nhất trong năm, cả về số lượng và chất lượng. Thӵc ra, có vài cuốn đầu tay khá ổn (chí ít cũng được kỳ vọng là ổn), còn lại thì chính nhà xuất bản cũng chẳng trông đợi nhiều. Vậy mà cô lại thích các sách “mùa đông” nhất, bởi chúng thường không được đánh giá cao, bị ngó lơ, tỉ lệ thành công thấp. (Chẳng phải quá phóng đại khi nói cô cũng đang tӵ thấy bản thân mình như thế.) Amelia kết thúc màn giới thiệu bằng cuốn cô thích nhất, hồi kí của một ông lão đã 82 tuổi, sống độc thân mãi tới khi kết hôn ở tuổi 78. Vậy mà chỉ hai năm sau, vợ ông qua đời vì căn bệnh ung thư, hưởng thọ 83 tuổi. Theo như hồi kí, tác giả là phóng viên mảng khoa học, chuyên viết bài cho rất nhiều tờ báo tại Trung Tây Hoa Kỳ. Văn phong khá tinh tế, hài hước chứ không chỉ toàn sướt mướt, khiến Amelia khóc như mưa trên tàu từ New York tới Providence. Đóa hoa nở muộn[13] chỉ là một cuốn sách nhỏ, nghe qua khá sáo mòn nhưng nếu đọc thử, mọi người chắc chắn sẽ yêu thích nó. Amelia cũng tin rằng, chỉ cần dám thử thì hầu hết các vấn đề của loài người sẽ đều có cách giải quyết.
Cô đang say sưa kể về Đóa hoa nở muộn thì gã A.J. gục đầu đánh cộp xuống bàn.
“Anh sao vậy?” Amelia hỏi.
“Không hợp với tôi,” A.J. Chán chường đáp.
“Anh cứ thử đọc chương đầu đã,” cô nhét bản thảo vào tay gã. “Đề tài có hơi cũ nhưng cách m...”
“Không hợp với tôi.” Gã cắt ngang ngay lập tức.
“Vậy tôi sẽ giới thiệu cho anh cuốn khác nhé.”
A.J. thở dài thườn thượt, “Còn trẻ nhưng cô cũng khá sành sỏi đấy. Có điều, thằng cha tiền nhiệm của cô ấy... Vấn đề là, Harvey biết khẩu vị của tôi. Gu của hắn hợp với tôi.”
Amelia đành đặt bản thảo lên bàn. “Vậy hãy cho tôi cơ hội để hiểu thêm về anh.” Cô nói, thoáng cảm thấy hao hao mấy ả trong phim khiêu dâm.
Gã lầm bầm gì đó, kiểu như Hiểu cái quái gì chứ?
Amelia gấp cuốn catalog lại. “Anh Fikry này, có thể nói cho tôi biết anh thích gì không?”
“Thích,” gã dài giọng nhại lại. “Tốt nhất là để tôi kể cô nghe mấy thứ tôi không ưa nổi nhé? Chủ nghĩa Hậu hiện đại[14], Chủ nghĩa Hiện thӵc huyền ảo[15], mấy bà đồng ngồi lảm nhảm về cõi âm hay thuyết Hậu tận thế. Cả thể loại xài đủ thứ phông chӳ rồi nhét đầy hình ảnh mà đa phần đều vô nghĩa nhằm thu hút thị hiếu khách hàng. Tôi không nuốt nổi đống tiểu thuyết văn học về Holocaust[16] hay các bi kịch khác của nhân loại, làm ơn đi, tôi cần người thӵc việc thӵc. Rồi mấy thứ lai tạp kiểu như tiểu thuyết trinh thám văn học, viễn tưởng văn học này nọ. Lạy Chúa, văn học chỉ nên đơn thuần là văn học, thể loại nào phải ra thể loại ấy chứ. Hổ lốn thì khó mà viết cho ‘tới’ được. Sách thiếu nhi cũng chẳng khá hơn, nhất là mấy quyển kể về lũ trẻ mồ côi, và tôi cũng không muốn làm loạn tủ sách của mình với mấy cuốn chuyên dành cho độc giả trẻ. Tôi
không thích thứ gì quá 400 trang hoặc dưới 150 trang. Tôi bị dị ứng với loại tiểu thuyết đạo nhái của mấy ngôi sao truyền hình thӵc tế, sách tranh của người nổi tiếng, hồi kí thể thao, sách chuyển thể từ phim, mấy thứ lạ thường và không thể không nhắc đến ma cà rồng. Tôi hiếm khi đặt sách đầu tay, mấy cuốn lãng mạn hài hước viết về đám thiếu nӳ, thơ thẩn hay sách dịch, và cô, cô chẳng cần giới thiệu với tôi ‘nhӳng xê ri đầy hứa hẹn’ nếu nó không nằm trong danh sách bán chạy nhất của Thời báo New York[17]. Tóm lại, cô Loman này, dẫu cô có ngợi khen nức nở hay hứa hẹn rằng tôi sẽ bán được bao nhiêu bản trong Ngày của Mẹ thì cuốn hồi kí mỏng dính của một lão già tầm thường có vợ mất vì ung thư cũng chẳng thể chấp nhận nổi.”
Amelia đỏ bừng mặt, vì tức giận nhiều hơn là xấu hổ. Vài điều gã nói không sai, nhưng đâu cần lăng mạ vô lối như thế. Kiểu gì thì nhà xuất bản Dӵc Long cũng không bán tới một nửa số thể loại sách mà gã vừa liệt kê. Cô nhìn kĩ người đối diện, hơn cô chục tuổi là cùng chứ mấy. Còn trẻ mà nhỏ mọn quá sức. Cô đành hỏi, “Vậy anh thích thể loại nào?”
“Sách nào cũng được, miễn không phải đống trên,” gã đáp. “Thi thoảng, tôi cũng miễn cưỡng chấp nhận vài tuyển tập truyện ngắn, dẫu khách hàng chẳng bao giờ động tới.”
Trong danh sách của Amelia chỉ có duy nhất một cuốn truyện ngắn, mà lại của tác giả mới. Cô chưa đọc hết và cũng không có thời gian đọc hết nhưng truyện đầu tiên khá hay. Nội dung về hai lớp học sinh khối Sáu, một Mӻ một Ấn tham gia chương trình quốc tế tìm bạn qua thư. Sách được viết dưới góc nhìn của cậu bé Ấn Độ
đang học cùng lũ trẻ Mӻ kia. Cậu kiên trì giảng giải nhӳng thông tin sai lệch hài hước về văn hóa Ấn cho đám bạn. Cô hắng giọng, cổ vẫn khô khốc, “‘Năm mà Bombay thành Mumbai’[18], tôi nghĩ nó đặc biệt h...”
“Bỏ đi,” gã nhìn cô.
“Tôi còn chưa giới thiệu gì mà.”
“Bỏ là bỏ.”
“Tại sao chứ?”
“Thừa nhận đi, cô đưa thứ của nợ đó ra chỉ vì tôi là người lai Ấn chứ gì? Cô nghĩ tôi quan tâm sao?”
Amelia tưởng tượng mình đang quăng chiếc máy tính cổ lỗ qua đầu gã. “Tôi giới thiệu vì anh nói thích truyện ngắn còn gì. Đó lại là tuyển tập duy nhất trong danh sách của tôi. Và theo tôi, dù là tác phẩm đầu tay, nó vẫn rất tuyệt vời, từ đầu chí cuối.” Điểm này thì cô đang nói dối.
“Và anh biết còn điều gì nӳa không? Tôi thích các cây bút mới, thích khám phá nhӳng điều mới mẻ; đó là một phần lý do tôi chọn công việc này.” Amelia cao giọng. Đầu óc cô quay cuồng, tim cũng đập loạn lên. Chẳng lẽ cô đã uống quá nhiều? “Để tôi cho anh mấy lời khuyên nhé?”
“Thôi xin,” gã đáp. “Cô mới bao nhiêu, 25 hả?”
“Anh Fikry, cửa tiệm này đẹp thật đấy, nhưng nếu anh cứ khư khư bảo thủ như vậy vậy vậy...” Amelia nói lắp như một đứa trẻ, điều này thi thoảng vẫn xảy ra khi cô bối rối và tức giận, “... vậy thì hiệu sách Hải Đảo sớm muộn cũng sập tiệm thôi.”
Rồi cô quăng cuốn Đóa hoa nở muộn cùng catalog mùa đông lên bàn gã và vội vã rời đi, vấp phải mấy cuốn sách ngoài hành lang. Một tiếng nӳa mới có phà nên Amelia dành thời gian dạo quanh thị trấn. Bên ngoài một Ngân hàng Mӻ có treo tấm bảng đồng kӹ niệm mùa hè ngài Herman Melville[19] đã nghỉ dưỡng tại đây khi tòa nhà vẫn còn là nhà trọ Alice. Cô lấy điện thoại chụp một kiểu ảnh cùng tấm bảng. Đảo Alice đẹp thật đấy, nhưng có lẽ trước mắt thì cô chẳng còn lý do nào để quay lại nӳa.
Cô gửi tin nhắn cho sếp ở New York: Chắc chẳng kiếm được đơn hàng nào từ Hải Đảo rồi :-(
Sếp nhắn lại: Đừng bức xúc. Hải Đảo đặt hàng ít mà, đa phần chỉ vào mùa hè, lúc đông khách du lịch thôi. Tên chủ ở đó hơi kì quặc, cậu Harvey bán danh sách xuân/hè hên hơn nên chắc cô cũng thế.
Đúng 6 giờ, A.J. kêu con bé Molly Klock đi về. “Cuốn sách mới của Munro thế nào?”
Nó rên rỉ, “Sao hôm nay ai cũng hỏi cháu câu đó thế nhỉ?” Thӵc ra chỉ có mỗi Amelia nӳa thôi nhưng Molly cứ thích nói quá lên. “Chắc tại thấy cháu đang đọc mà.”
Nó lại rên rỉ, “Thôi được. Mấy nhân vật, nói sao nhỉ, đôi khi nhân tính quá.”
“Chú nghĩ đó là phong cách của Munro rồi,” gã nói.
“Chẳng biết nӳa, cháu thích mấy cuốn cũ hơn. Cháu về đây, thứ Hai gặp lại.”
Cần phải làm gì đó với con bé Molly này mới được, A.J. thầm
nghĩ và lật tấm biển ĐÓNG CỬA lại. Ngoài việc thích đọc sách, Molly thӵc sӵ là một nhân viên bán hàng rất tồi, nhưng đằng nào con bé cũng chỉ làm bán thời gian, mà thuê người mới lại mất công đào tạo. Ít ra nó cũng không trộm cắp. Nic thuê Molly nên hẳn cô đã nhìn thấy điểm gì đó ở tiểu thư Klock hay cáu kỉnh này. Biết đâu đến mùa hè tới, A.J. sẽ bӵc mình mà đuổi việc con bé cũng nên.
Gã xua hết đám khách còn lại ra khỏi tiệm (mấy đứa trong nhóm nghiên cứu hóa học hӳu cơ cứ đứng túm tụm chỗ quầy báo từ 4 giờ đến giờ mà chẳng mua gì khiến gã bӵc mình, có đứa còn làm tắc toa lét nӳa chứ), rồi kiểm kê đống hóa đơn nhàm chán. Cuối cùng, gã cũng được trèo lên căn hộ gác mái của mình. Gã thảy cả hộp vindaloo[20] vào lò vi sóng. Trong lúc chờ chín phút như hướng dẫn, gã nhớ lại cô ả bên Dӵc Long. Cô nàng trông cứ như ở Seattle nhӳng năm 1990 mới vượt thời gian đến đây, chân đi giày cao su in hình mỏ neo, mặc váy hoa hòe của bà nội cùng áo len lông xù màu be, lại thêm quả tóc ngang vai nham nhở như mới được bạn trai xén hộ trong nhà bếp. Hay là bạn gái? À không, chắc là bạn trai. Tӵ dưng gã nhớ tới Courtney Love[21] lúc mới cưới Kurt Cobain[22]. Bờ môi đỏ xinh nói, “Không ai có thể làm tổn thương tôi,” nhưng đôi mắt lam nhạt lại thì thầm, “Phải, anh có thể làm tổn thương em, và dường như anh sẽ làm thế.” Và thế là chàng khiến nàng khóc sưng cả mắt. Được lắm, A.J.
Mùi vindaloo tỏa ra ngào ngạt, vậy mà còn nhӳng bảy phút rưỡi nӳa.
Gã phải kiếm gì làm cho đỡ buồn vậy. Vận động một chút nhưng không cần quá gắng sức.
Gã mò xuống tầng hầm, dùng con dao rọc giấy cắt mấy thùng sách. Rọc. Ép phẳng. Xếp gọn.
A.J. bắt đầu hối hận vì đã xử sӵ chẳng ra làm sao với cô nàng đại diện bên xuất bản. Đâu phải lỗi của cô ta. Sao không ai nói với gã thằng cha Harvey Rhodes qua đời rồi chứ?
Rọc. Ép phẳng. Xếp gọn.
Chắc cũng đã có ai đó thông báo với gã, nhưng gã thường chỉ đọc lướt email và không bao giờ trả lời điện thoại. Hẳn phải có đám tang chứ nhỉ? Dẫu sao thì A.J. Cũng chẳng đến. Gã chỉ mới quen Harvey Rhodes ít lâu. Rõ ràng là vậy.
Rọc. Ép phẳng. Xếp gọn.
À thì... gã cũng thường trò chuyện hàng giờ với cha đó hơn nửa thập kӹ qua. Họ chỉ bàn luận về sách vở, nhưng trên đời này, có thứ gì riêng tư hơn nhӳng cuốn sách nӳa đâu?
Rọc. Ép phẳng. Xếp gọn.
Dễ gì kiếm được một tay có gu giống mình cơ chứ? Lần duy nhất họ tranh cãi là về David Foster Wallace[23] loanh quanh thời điểm hắn tӵ sát. A.J. không thể chịu đӵng nổi mấy lời tôn kính ngợi ca hắn. Một cuốn tiểu thuyết tàm tạm (dẫu dài dòng và dễ dãi), vài ba bài luận có chiều sâu khiêm tốn, mỗi thế thôi.
“Trò đùa vô tận[24] là một kiệt tác,” Harvey nói.
“Trò đùa vô tận chỉ là cuộc đấu về khả năng chịu đӵng. Anh bán hàng nên phải nói mấy lời hay ho ấy, chứ không lẽ lại thừa nhận đã lãng phí cả cuối tuần qua chỉ vì thứ chán ngắt này.” A.J. phản đối. “Phong độ, chứ không phải đẳng cấp, bạn già ạ.”
Mặt Harvey đỏ gay khi cố vươn người qua bàn, “Cậu lúc nào cũng giở cái giọng đó với mấy tác giả sinh cùng thời với cậu!” Rọc. Ép phẳng. Xếp gọn.
Lúc gã quay lên tầng trên thì món vindaloo đã nguội ngắt. Giờ mà hâm lại trong cái khay nhӵa đó thì dễ hẳn sẽ chết ngắc vì ung thư mất.
Gã đặt nó lên bàn. Miếng thứ nhất cay xè, miếng thứ hai lạnh tê tái. Này thì vindaloo Gấu bố với Gấu con, gã ném thẳng vào tường. Gã chẳng là cái thá gì của thằng cha Harvey, còn hắn lại có ý nghĩa với gã đến nhường nào.
Sống một mình có cái dở là tӵ bày thì phải tӵ đi mà dọn. Không phải, dở nhất là chẳng có ai quan tâm lúc đau khổ. Nào có ai cần biết vì sao gã đàn ông 39 tuổi đầu lại ném thẳng khay vindaloo vào tường như đứa trẻ lên ba. A.J. rót cho mình một ly vang đỏ, trải khăn lên bàn ăn, đi vào phòng khách rồi mở tủ kính lấy quyển Tamerlane[25]. Gã quay vào bếp, đặt Tamerlane lên bàn, đối diện chiếc ghế Nic thường ngồi.
“Nâng cốc, mừng tin vui khốn nạn hôm nay.” Gã thì thầm. Gã ngửa cổ uống cạn ly rượu, rót thêm ly nӳa và lại uống cạn, tӵ nhủ sẽ kiếm quyển nào đó để đọc. Trường xưa[26] của Tobias Wolff chẳng hạn, dù đọc gì đó mới lạ chắc sẽ tốt hơn. Cuốn sách cô nàng đại diện đó giới thiệu là gì nhỉ? Đóa hoa nở muộn... Phải rồi. Mà gã đâu có nói sai. Chẳng còn gì tồi tệ hơn đống hồi kí sến sẩm của mấy tay góa vợ, nhất là khi vợ A.J. mới qua đời được hai mươi mốt tháng. Cô ta là người mới, hiển nhiên chẳng có tội tình gì nếu không biết bi kịch đau lòng của gã. Chúa ơi, gã nhớ Nic, nhớ giọng nói của
nàng, chiếc cổ và cả hai bên nách ram ráp như lưỡi mèo mà đến cuối ngày sẽ có mùi như thứ sӳa sắp đông vậy.
Gã say ngất ngư trên bàn sau ba ly rượu. Gã chỉ cao có mét bảy, nặng gần sáu mươi lăm cân và thậm chí chẳng kiếm nổi miếng vindaloo đông lạnh nào để ăn. Rõ ràng, tối nay gã chẳng cần đọc thêm chi hết.
“Ajay, đi ngủ thôi.” Nic thì thầm.
Cuối cùng, gã cũng thấy nàng. Nốc cả đống rượu vốn chỉ để được quay về chính nơi này.
Nic, hồn ma người vợ đã khuất dìu gã đứng dậy trong cơn say. “Anh thảm hại quá, mọt sách ạ. Anh có biết mình tệ đến mức nào không?”
Gã gật đầu.
“Một hộp vindaloo nguội ngắt cùng chai vang 5 đô.”
“Anh tôn trọng nhӳng di sản lâu đời em ạ.”
Gã cùng nàng vào phòng ngủ.
“Chúc mừng, ngài Fikry, ngài đạt được danh hiệu Bợm nhậu chính cống rồi nhé.”
“Anh xin lỗi, em à,” gã nói. Nàng đỡ gã xuống giường. Mái tóc nâu của nàng ngắn ngủn theo phong cách gamine. “Em cắt tóc rồi à, trông lạ quá.”
“Hôm nay anh cư xử thật thô lỗ với cô gái đó.”
“Tại thằng cha Harvey cả đấy.”
“Hiển nhiên rồi,” nàng nói.
“Nhӳng người quanh mình cứ lần lượt bỏ đi, anh buồn lắm.” “Thế nên anh mới không đuổi con bé Molly Klock phải không?” Gã gật đầu.
“Anh đâu thể cứ thế này mãi được.”
“Được chứ sao không?” A.J. nói. “Trước giờ vẫn vậy, sau này cũng vậy.”
Nàng nhẹ nhàng đặt môi lên trán gã. “Nhưng nhìn anh thế này, em buồn lắm.”
Rồi nàng biến mất.
Tai nạn đó chẳng phải lỗi của ai cả. Nàng lái xe đưa tác giả về nhà sau một sӵ kiện buổi chiều. Hẳn nàng đã cố phóng nhanh để bắt kịp chuyến phà cuối về Alice, cũng có thể nàng muốn tránh một con hươu, hoặc tại đường sá Massachusetts quá tệ hại vào mùa đông, chẳng ai biết chính xác cả. Ở bệnh viện, viên cảnh sát nghi ngờ nàng tӵ sát.
“Không,” A.J. gằn giọng. “Không bao giờ.” Nàng đang mang thai tháng thứ hai. Họ chưa nói với ai vì sợ khiến mọi người thất vọng. Đứng ngoài phòng xác, gã ước mình đã thông báo tin này, ít nhất cũng có được chút hạnh phúc ngắn ngủi trước quãng đời dai dẳng... Gã không biết phải gọi chuyện này là gì nӳa. “Không, cô ấy không tӵ sát.” A.J. ngừng lại. “Cô ấy lái xe rất tệ mà lại chủ quan.”
“Có lẽ vậy,” viên cảnh sát trả lời. “Đó không phải lỗi của ai cả.” “Người ta vẫn thường nói thế,” A.J. đáp. “Nhưng đâu phải. Đó là lỗi của cô ấy. Đúng là ngốc nghếch. Ngốc nghếch một cách quá đáng. Hệt như tình tiết chết tiệt của bà già Danielle Steel[27]. Nếu
đây là một cuốn tiểu thuyết, tôi sẽ quẳng nó vào góc phòng ngay lập tức.”
Viên cảnh sát (vốn chẳng đọc gì nhiều ngoài mấy cuốn của Jeffery Deaver[28] lúc nghỉ phép) cố gắng liên hệ nhӳng gì gã nói với thӵc tế, “Đúng vậy. Anh sở hӳu một tiệm sách mà.”
“Của vợ tôi và tôi,” A.J. liền đáp. “Chúa ơi, tôi vừa làm một điều ngớ ngẩn hệt như gã nam chính mất vợ mà cứ quen mồm lải nhải mãi ‘chúng tôi’. Sáo rỗng làm sao. Anh...” Gã ngưng lại để đọc biển tên của viên cảnh sát, “... Lambiase này, tôi với anh chỉ là nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết tệ hại. Anh có hiểu không? Thế quái nào chúng ta lại ở đây được nhỉ? Hẳn anh đang nghĩ, Tội nghiệp cha này, rồi tối nay về, anh sẽ ôm lũ trẻ chặt hơn, bởi đây là cách mà các nhân vật trong mấy tiểu thuyết đó sẽ làm. Anh biết thể loại này phải không? Dạng tiểu thuyết văn học cố gắng miêu tả một chút cuộc đời nhân vật phụ để phát triển câu chuyện ấy. Tay tác giả không thèm quan tâm đến mấy kẻ bé mọn đâu! Ôi, phụ ấy mà! Quả là phóng khoáng. Anh phân biệt chủng tộc chứ anh Lambiase? Vì kiểu nhân vật của anh phải như vậy.”
“Anh Fikry này,” viên cảnh sát đáp, “có cần tôi gọi ai hộ anh không?” Lambiase là một cảnh sát tốt, hiểu và thông cảm với nỗi đau mà người nhà nạn nhân đang phải chịu đӵng. Anh đặt một tay lên vai A.J.
“Phải rồi! Chính thế, sĩ quan Lambiase à, anh nói đúng kịch bản rồi đó! Đóng đạt lắm. Anh có biết một tay góa vợ như tôi sẽ làm gì tiếp theo không?”
“Gọi điện cho ai đó,” sĩ quan Lambiase trả lời.
“Hẳn rồi, dẫu tôi cũng đã thông báo hết cho gia đình bên vợ.” A.J. gật đầu đáp. “Nếu là truyện ngắn thì tôi với anh đóng xong rồi đó. Chút trớ trêu thế là hết. Nên thế gian này, chẳng có chi hay hơn một truyện ngắn, sĩ quan Lambiase ạ.”
“Nếu truyện này của tay Raymond Carver[29], anh sẽ an ủi tôi rồi hạ màn, mọi thứ kết thúc. Nhưng... sau tất cả, tôi lại càng thấy giống như mình đang ở trong tiểu thuyết. Ý tôi là về mặt cảm xúc ấy. Và sẽ cần có thời gian để vượt qua. Anh hiểu chứ?”
“Tôi không chắc lắm. Tôi chưa từng đọc Raymond Carver,” sĩ quan Lambiase đáp. “Tôi thích Lincoln Rhyme[30] cơ. Anh biết ông ta không?”
“Nhà tội phạm học bị liệt. Viết khá ổn. Nhưng anh từng đọc mẩu truyện ngắn nào chưa?” A.J. hỏi.
“Có lẽ là ở trường học. Mấy truyện cổ tích. À, ừm, Cái chết của chú ngựa con[31]? Phải rồi, tôi có đọc Cái chết của chú ngựa con.” “Đấy là tiểu thuyết mà,” A.J. đáp.
“Ồ, xin lỗi, tôi... à khoan, thời trung học tôi có đọc một truyện ngắn gì đó về cảnh sát! Một vụ giết người hoàn hảo, thế nên tôi mới nhớ. Ông cảnh sát bị vợ giết, hung khí là thịt bò đông lạnh, rồi bà ta nấu lên cho nhӳng người khác...”
“Cái đùi cừu,” A.J. đính chính. “Câu chuyện tên Cái đùi cừu, hung khí là chiếc đùi cừu.”
“À, phải rồi!” Viên cảnh sát gật gù. “Đúng là bán sách có khác.” “Truyện đó rất nổi tiếng mà,” A.J. nói. “Chắc gia đình bên vợ của tôi cũng sắp tới rồi. Xin lỗi vì ban nãy đã gọi anh là ‘nhân vật phụ’
nhé. Tôi thô lỗ quá. Tôi mới chính là ‘nhân vật phụ’ trong tiểu thuyết dài tập của sĩ quan Lambiase. Một anh cảnh sát thì giống nhân vật chính hơn một gã bán sách. Sĩ quan, anh chính là một thể loại truyện đấy.”
“Ừm,” sĩ quan Lambiase nói. “Có lẽ điểm này thì đúng. Quay lại chuyện lúc nãy, tôi bị mắc bệnh nghề nghiệp nên cứ băn khoăn mãi về trình tӵ thời gian. Khi bà vợ kia cho thịt bò...”
“Thịt cừu.”
“Ờ, thịt cừu. Vậy là giết chồng bằng cái đùi cừu đông lạnh xong, bà ta cứ thế nấu lên mà không thèm rã đông. Tôi không phải là Rachael Ray, nhưng...”
Nic đã bắt đầu đông cứng khi họ lôi cái xe lên. Vào nhà xác, đôi môi nàng thâm tím lại. Nó gợi A.J. nhớ tới màu son đen sì nàng từng dùng để tham gia một bӳa tiệc sách về chủ đề ma cà rồng hay gì đó[32]. Gã chẳng mấy hứng thú với ý tưởng một đám con gái ngốc nghếch trong váy áo cầu kì lượn quanh Hải Đảo, nhưng Nic lại thích cả bộ sách ma cà rồng chết tiệt đó lẫn mụ tác giả, nên nàng cứ lải nhải mãi rằng bӳa tiệc ma cà rồng là cơ hội quảng bá tiệm sách và cũng rất vui nӳa. “Anh có biết vui vẻ là gì không đấy?”
“Sơ sơ,” gã nói. “Lâu lắm rồi, hồi còn chưa bán sách ấy, anh có cả đêm và cuối tuần cho riêng mình, đọc sách để giải trí. Thế là vui. Nên là sơ sơ, sơ sơ thì anh biết.”
“Để em nhắc anh nhớ nhé. Vui vẻ là có một cô vợ xinh đẹp, thông minh, dễ tính, làm việc cùng anh mỗi ngày đấy.” Gã vẫn nhớ như in hình ảnh nàng trong bộ váy xa tanh đen sì ngớ ngẩn, tay ôm cây cột trước hiên nhà và đôi môi xinh xắn phủ
son đen. “Đau lòng thay, giờ vợ tôi đã trở thành ma cà rồng thӵc sӵ.”
“Anh chàng tội nghiệp ơi,” nàng bước qua hiên nhà và hôn gã, để lại dấu son như một vết bầm. “Anh chỉ còn cách biến thành ma cà rồng với em thôi. Đừng cố chống cӵ làm gì, nếu không anh sẽ hối hận đấy, mọt sách ạ. Mời em vào nhà đi nào.”
Viên kim cương to bằng tòa nhà Ritz[33] 1922 – F. Scott Fitzgerald[34]
Xét về tính kĩ thuật thì phải nhắc đến truyện ngắn. Nhưng rồi truyện ngắn lại mang đầy sắc màu xám xịt. Lúc này, nếu con thấy mình nằm trong số những người cố gắng tìm ra âm sắc riêng, bản thân ta cũng từng như thế, thì sự khác biệt chính là điều tuyệt vời nhất. (Nếu vào được một trường đại học thuộc Liên đoàn Ivy(*), con sẽ tình cờ gặp họ. Khi ấy, đừng trở nên tự mãn nhé. Ta lạc đề mất rồi.) E. A. Poe[35] định nghĩa truyện ngắn là truyện có thể đọc liền một lần đến hết. Ta nghĩ “liền một lần” hồi đó chắc phải lâu hơn bây giờ. Mà ta lại lạc đề nữa rồi.
Câu chuyện cường điệu kì lạ kể về những thách thức của việc sở hữu một thị trấn bằng kim cương và cách người giàu bảo vệ đường sống của họ. Ở đây, Fitzgerald hành văn khá ổn. Đại gia Gatsby[36] của ông thì khỏi cần nghi ngờ về sự nổi tiếng nữa; nhưng thi thoảng ta lại nghĩ cuốn tiểu thuyết đó được trau chuốt kĩ càng quá mức, như một khu vườn cây cảnh nghệ thuật vậy. Phong cách truyện ngắn của ông thì thoải mái hơn, phóng túng hơn. “Viên kim cương” như một chú lùn đầy mê hoặc canh giữ khu vườn.
Thêm đó, ta từng thể hiện hay tiết lộ với con rằng trước khi gặp con, ta đã mất đi một thứ vô cùng vĩ đại và giá trị chưa nhỉ? A.J.F.
(*) Ta đã nghĩ về điểm này. Hãy nhớ, khó lòng kiếm được một nền
giáo dục tốt ở những nơi thông thường.
A.J. tỉnh dậy và thấy trên người chỉ có độc bộ đồ lót. Gã chẳng nhớ nổi mình trèo lên giường rồi cởi quần áo ra sao, nhưng gã nhớ Harvey Rhodes đã mất và gã đã cư xử thô lỗ với nhân viên đại diện mới của Dӵc Long, gã nhớ đã quẳng nguyên hộp vindaloo vào tường, gã nhớ ly rượu đầu tiên, cả ly chúc mừng với cuốn Tamerlane nӳa. Không còn chút ký ức nào sau đó. Như vậy đã là một thắng lợi lớn rồi.
A.J. lảo đảo bước vào phòng chính, liếc tìm đống vindaloo vương vãi nhưng cả sàn và tường đều sạch trơn. Gã vừa lục aspirin trong ngăn kéo, vừa mừng thầm không phải dọn dẹp gì nӳa và ngồi xuống bàn ăn, nhận thấy chai rượu cũng đã được vứt đi. Say bí tỉ rồi mà gã vẫn cẩn thận đến thế, kì cục nhưng cũng không hẳn quá khó tin. Gã nhìn mặt bàn, chỗ để cuốn Tamerlane. Cuốn sách đã biến mất. Hay chuyện gã lấy nó khỏi tủ chỉ là tưởng tượng thôi nhỉ?
Gã lao qua phòng, đầu quay cuồng, tim đập thình thịch. Được nửa đường, gã đã thấy chiếc tủ kính được trang bị cả điều hòa lẫn khóa tổ hợp để giӳ cuốn Tamerlane đang mở toang và trống hơ trống hoác.
A.J. vội vàng quấn áo choàng và xỏ đại đôi giày chạy đã bị bỏ xó từ lâu.
Gã lật đật bước xuống đường Captain Wiggins với chiếc áo choàng ca rô xỉn màu bay phấp phới. Trông gã hệt như một siêu anh hùng còi cọc và tàn tạ. Gã rẽ sang Main và xông thẳng vào đồn cảnh sát đảo Alice còn đang ngái ngủ. “Tôi vừa bị trộm!” A.J. thở
hồng hộc sau quãng chạy ngắn ngủn. “Ai đó làm ơn giúp tôi với!” Gã cố để không cảm thấy giống như một bà lão khốn khổ vừa bị giật túi.
Anh chàng Lambiase đặt cốc cà phê xuống bàn và đón người đàn ông quẫn trí khoác độc chiếc áo choàng. Anh nhận ra gã chính là tay chủ tiệm sách có người vợ trẻ xinh đẹp lao xe xuống hồ chừng một năm rưỡi trước. Dẫu đã đoán trước nhưng Lambiase vẫn ngạc nhiên trước một A.J. già sọm hẳn đi.
“Bình tĩnh nào anh Fikry,” Lambiase nói. “Có chuyện gì vậy? ” “Đứa nào đó cuỗm mất Tamerlane rồi!” A.J. đáp.
“Tamerlane là gì?”
“Sách. Một cuốn sách quý hiếm.”
“Tức là tiệm sách của anh bị trộm đúng không?”
“Không. Nó nằm trong bộ sưu tập cá nhân của tôi. Tuyển tập thơ cӵc hiếm của Edgar Allan Poe.”
“Vậy, đó là cuốn sách yêu thích của anh?” Lambiase hỏi. “Không. Tôi thậm chí còn chẳng thích nó. Rác rưởi. Một đống rác rưởi tẻ nhạt. Chỉ là...” A.J. thở hồng hộc, “... Mẹ kiếp!” “Bình tĩnh nào, anh Fikry. Tôi đang cố hiểu mấy lời anh nói đây. Anh không thích cuốn sách đó, nhưng nó có giá trị tinh thần phải không?”
“Không! Tinh thần quái gì, là tiền đấy! Tamerlane như lão Honus Wagner[37] phiên bản sách hiếm ấy, anh hiểu không hả?!” “Có chứ, bố tôi thích sưu tập thẻ bóng chày lắm.” Lambiase gật đầu. “Mà nó có giá thế cơ à?”
A.J. liến thoắng đáp, “Đấy là quyển đầu tiên của Edgar Allan Poe, viết khi mới 18 tuổi, cӵc kì hiếm vì chỉ có năm mươi bản, lại còn xuất bản ẩn danh. Bìa ghi ‘Viết bởi một người Boston’ thay cho ‘Viết bởi Edgar Allan Poe’ nӳa. Tùy vào tình trạng sách và độ nóng của thị trường sách hiếm, mỗi cuốn phải có giá trên 400.000 đô la ấy. Tôi đang tính sẽ mở bán đấu giá trong một, hai năm tới, khi nền kinh tế đã phục hồi một chút. Tôi định đóng cửa tiệm sách rồi nghỉ hưu.”
“Hy vọng không phiền, nhưng sao anh lại giӳ một thứ quý giá như vậy ở nhà mà không đem gửi ngân hàng?” Lambiase nói. Gã lắc đầu, “Tôi đâu biết. Tôi thật ngu ngốc, thích giӳ khư khư bên mình. Tôi thích nhìn ngắm nó, tưởng tượng về một ngày nghỉ hưu không xa. Tôi đặt nó trong chiếc tủ khóa tổ hợp và cứ nghĩ vậy là đủ an toàn.” Thêm nӳa, Alice rất hiếm khi xảy ra trộm cấp, ngoại trừ mùa du lịch. Bây giờ mới là tháng Mười thôi.
“Vậy tức là có ai đó đã bẻ khóa hoặc ai đó biết mật mã phải không?” Lambiase hỏi.
“Không. Tối qua tôi say bí tỉ, lấy cuốn sách ra để ngắm. Chết tiệt. Ngu ngốc. Giờ có nói gì cũng vô ích.”
“Vậy anh đã mua bảo hiểm cho Tamerlane chưa?”
Nhìn gã úp mặt vào tay là Lambiase đủ biết câu trả lời. “Tôi mới kiếm được nó một năm trước, vài tháng sau cái chết của vợ tôi. Ai mà muốn bỏ thêm tiền chứ, thời gian còn chẳng có. Tôi chịu thôi. Có cả nghìn lẻ một lý do ngớ ngẩn, mà chủ yếu là do tôi ngu ngốc, sĩ quan Lambiase ạ.”
Lambiase không buồn sửa lại, rằng anh đã là cảnh sát trưởng rồi. “Giờ thế này, đầu tiên, tôi và anh sẽ cùng làm một bản tường trình. Khi điều tra viên tới, thời gian này cô ấy chỉ làm việc nửa ngày thôi, tôi sẽ cử cô ấy xuống chỗ anh để lấy dấu vân tay cùng các manh mối khác. Có lẽ sẽ tìm được gì đó. Ngoài ra, chúng ta sẽ gọi đến các đơn vị đấu giá và vài chuyên gia trong giới. Nếu đúng là sách hiếm như anh nói, chắc chắn sẽ có người để ý đến một bản lạ tӵ dưng lọt ra ngoài thị trường. Mấy thứ này không có bản thống kê nhӳng người chủ từng sở hӳu sao? Gọi là gì ấy nhỉ?”
“Lai lịch,” A.J. đáp.
“Phải rồi, chính xác! Vợ tôi trước hay xem Antiques Roadshow[38] lắm. Anh coi thử chưa?”
Gã chẳng thèm đáp.
“Một điều cuối cùng, có nhӳng ai biết về cuốn sách này vậy? Gã khụt khịt, “Tất cả mọi người. Chị vợ tôi, Ismay, là giáo viên trung học. Chị cứ lo lắng cho tôi mãi từ khi Nic... Chị luôn giục tôi ra ngoài, đi đâu đó. Năm ngoái, chị lôi tôi đến một vụ thanh lý tài sản buồn tẻ ở Milton. Cuốn sách được đặt trong thùng cùng hơn năm mươi cuốn khác; hầu hết đều vô giá trị, ngoại trừ Tamerlane. Tôi đã trả 5 đô la. Mấy người kia không hay biết gì về thứ họ sở hӳu. Thật lòng, tôi cũng thấy khá áy náy. Mà thôi, cũng chẳng quan trọng nӳa. Dẫu sao, chị Ismay nghĩ trưng bày nó sẽ giúp tăng doanh số, mang ý nghĩa giáo dục hay gì gì đó. Vậy nên tôi đặt sách trong tủ kính ở cửa hàng suốt cả hè rồi. Chắc anh chưa từng tới tiệm sách của tôi.” Lambiase bẽn lẽn nhìn xuống giày, hệt như cả ngàn lần anh không đọc nổi bài đọc đơn giản nhất trong lớp tiếng Anh hồi trung
học. “Ừm, tôi không đọc nhiều lắm.”
“Anh có đọc mấy cuốn về tội phạm mà, phải không?” “Anh nhớ giỏi thật đấy,” Lambiase nói. Thӵc tế, A.J. có biệt tài nhớ gu đọc sách của mọi người.
“Của Deaver nhỉ? Nếu anh thích thể loại đó thì có mấy cuốn mới...”
“Chắc chắn rồi. Lúc nào đó, tôi sẽ ghé qua tiệm của anh. Có cần tôi gọi cho ai không? Chị vợ anh tên là Ismay Evans Parish nhỉ?” “Chị Ismay đang...” Tӵ dưng A.J. khӵng lại như có ai vừa bấm nút Tạm dừng trên bảng điều khiển. Mắt gã vô hồn và miệng cứng đờ.
“Anh Fikry?”
Phải gần ba mươi giây sau, A.J. mới nói tiếp, như chưa từng có chuyện gì xảy ra, “Chị Ismay đang đi làm. Tôi ổn, nên không cần gọi cho chị ấy đâu.”
“Một phút trước anh vừa...” Lambiase nói.
“Sao cơ?”
“Anh vừa ngẩn người ra.”
“Lạy Chúa, chỉ là một cơn vắng ý thức[39] thôi. Hồi nhỏ tôi hay bị lắm, giờ đỡ nhiều rồi. Đột ngột căng thẳng thì mới tái phát.” “Anh nên đi khám bác sĩ đi.”
“Không, không sao đâu. Thật đó. Tôi chỉ muốn tìm lại cuốn sách của mình thôi.
“Vẫn nên đi khám thì hơn,” Lambiase khăng khăng. “Sáng nay anh vừa phải trải qua chuyện tồi tệ quá rồi, mà anh lại sống một
mình. Để tôi đưa anh tới bệnh viện và gọi cho mấy người đằng nhà vợ anh, nhân tiện cử vài nhân viên đến xem xem có tìm được manh mối gì về cuốn sách không.”
Tại bệnh viện, A.J. chờ đợi, điền vào các mẫu đơn, chờ đợi, cởi đồ, chờ đợi, khám, chờ đợi, mặc đồ vào, chờ đợi, khám tiếp, chờ đợi, lại cởi đồ và cuối cùng thì gã được gặp một bác sĩ đa khoa tuổi trung niên. Bà ấy không quan tâm đến cơn vắng ý thức kia lắm. Tuy nhiên, kết quả kiểm tra cho thấy huyết áp cùng lượng mỡ máu đang chớm mức cao với một người đàn ông mới 39 tuổi. Bà hỏi về lối sống hằng ngày và gã thành thật đáp, “Tôi không nghiện rượu, nhưng thích được uống say bí tỉ ít nhất mỗi tuần một lần. Thi thoảng tôi có hút thuốc, và chỉ sống bằng đồ đông lạnh. Tôi hiếm khi dùng chỉ nha khoa. Trước đây tôi thường xuyên chạy đường trường nhưng giờ không tập nӳa. Tôi sống một mình, ít quan hệ xã hội. Từ ngày vợ mất, tôi còn ghét cả công việc của mình.”
“Vậy thôi sao?” Bà bác sĩ hỏi. “Anh Fikry này, anh còn trẻ, nhưng cơ thể cũng có ngưỡng chịu đӵng nhất định. Nếu anh đang cố tӵ sát thì nên kiếm cách nào nhanh mà đơn giản hơn ấy. Anh có thӵc sӵ muốn chết không?”
Gã không nói nên lời.
“Vì nếu anh muốn chết thật, tôi có thể xếp anh vào đối tượng cần theo dõi sức khỏe tâm thần.”
“Tôi không muốn chết,” cuối cùng gã cũng mở lời. “Chỉ là tôi thấy ở đây khó sống quá. Bà nghĩ tôi có điên không?”
“Không, tôi hiểu vì sao anh lại nghĩ thế. Anh cần thời gian để thích ứng. Hãy bắt đầu với việc tập thể dục, anh sẽ thấy khá hơn.”
“Tôi hiểu rồi.”
“Vợ anh rất dễ mến,” bà bác sĩ nói. “Tôi từng tham gia câu lạc bộ sách Mẹ và Con gái của cô ấy. Con gái tôi cũng làm bán thời gian ở chỗ anh.”
“Molly Klock ấy ạ?”
“Klock là tên chồng tôi. Tôi là bác sĩ Rosen.” Bà chỉ vào biển tên. Tại sảnh, A.J. gặp một cảnh quen thuộc.
“Anh không phiền chứ?” Cô y tá trong trang phục màu hồng đưa cuốn sách bỏ túi nhàu nát về phía người đàn ông mặc áo jacket nhung có vài miếng vá chỗ khuӹu tay.
“Phải vui mừng mới phải,” Daniel Parish nói. “Cô tên gì?” “Jill, trong ‘Jack và Jill dắt tay nhau lên đồi[40]’. Chúa ơi, tôi đọc hết các đầu sách của anh rồi, nhưng tôi vẫn thích cuốn này nhất.” “Ai cũng nói thế, cô gái Jill trên đồi ạ.” Hắn không đùa. Chẳng cuốn nào của hắn bán chạy bằng tác phẩm đầu tiên cả. “Khó mà nói hết cuốn sách này có ý nghĩa với tôi đến nhường nào. Tôi đã đọc đi đọc lại để nghiền ngẫm nó.” Cô cúi đầu nhìn xuống, ngoan ngoãn như một geisha[41]. “Nhờ nó mà tôi muốn trở thành y tá. Tôi mới làm ở đây thôi. Khi biết anh sống ở thị trấn này, tôi đã luôn hy vọng một ngày nào đó có thể gặp anh.” “Ý cô muốn tôi bị bệnh hả?” Daniel mỉm cười, nói.
“Không, không phải đâu!” Cô thẹn đỏ mặt, đập đập vào tay hắn. “Anh này! Anh tệ thật đấy!”
“Đúng vậy,” Daniel đáp. “Tôi thật sӵ tệ lắm.”
Lần đầu tiên gặp Daniel Parish, Nic nức nở khen hắn giống một
tay dẫn chương trình của đài truyền hình địa phương. Trên đường về nhà, nàng lại đổi ý. “Mắt anh ta quá nhỏ để làm MC, chắc dӵ báo thời tiết thì hợp.”
“Giọng tay đó quả thӵc rất vang,” A.J. nói.
“Anh ấy mà dӵ báo cơn bão đã đi qua, dẫu đang đứng giӳa tâm bão, hẳn mọi người cũng tin sái cổ mất.” Nàng đáp.
A.J. chẳng cần kiêng nể, liền cắt ngang cuộc tán tỉnh kia, “Dan, tôi tưởng họ gọi cho vợ anh cơ mà.”
Daniel hắng giọng. “Cô ấy không khỏe nên kêu tôi đi thay. Kết quả khám thế nào rồi, ông bạn già?” Tay Daniel dám gọi gã là “già” trong khi hắn còn hơn gã nhӳng năm tuổi.
“Ngoại trừ việc mất một đống tiền và bác sĩ kêu tôi sắp chết thì đều ổn cả.” Thuốc an thần đã giúp gã phấn chấn hơn. “Tuyệt, đi làm vài ly nào.” Daniel nói rồi quay sang thì thầm gì đó vào tai cô y tá Jill, A.J. có thể thấy số điện thoại ghi trên quyển sách hắn trả lại cho cô nàng. “Đi thôi, không say không về![42]” Hắn vừa nói vừa đi ra cửa.
Dù yêu sách và sở hӳu cả một tiệm sách nhưng A.J. lại chẳng hề quan tâm tới mấy tay tác giả. Rặt một đám lôi thôi lếch thếch, tӵ kӹ, ngờ nghệch, tính tình khó chịu. Gã luôn tránh gặp họ vì sợ họ sẽ phá hủy hình tượng cuốn sách gã yêu thích. May mà gã chẳng ưa gì sách Daniel viết, thậm chí cả tiểu thuyết đầu tay nổi tiếng của hẳn cũng không nuốt nổi. Về bản thân hắn ấy à? Hắn khiến A.J. vui lên ở một mức độ nào đó, cũng có nghĩa, Daniel Parish nằm trong số nhӳng người bạn thân thiết nhất của A.J.
“Lỗi tại tôi cả,” gã than thở sau khi nốc gọn cốc bia thứ hai. “Đáng lẽ phải mua bảo hiểm chứ, phải cất chỗ nào an toàn chứ, ai khiến tôi lôi nó ra lúc say bí tỉ. Tại tôi sơ hở nên mới bị mất.” Hơi men cùng thuốc an thần đã giúp gã bình tĩnh lại. Daniel lấy bình, rót thêm cho gã một cốc nӳa.
“Đủ rồi, A.J. Đừng tӵ trách mình nӳa,” Daniel nói.
“Vấp phải rồi mới sáng mắt ra,” gã lẩm bẩm. “Phải dừng nhậu nhẹt thôi.”
“Uống nốt chầu bia này đã,” Daniel châm chọc, rồi chạm cốc với gã. Một cô bé học sinh trung học diện quần cộc ngắn cũn bước vào quầy bar. “Bộ cánh được đấy!” Daniel nâng cốc bia về phía cô bé và nhận lại một ngón giӳa giơ lên. “Chú phải ngừng say xỉn, tôi phải ngừng lừa dối Ismay,” Daniel lẩm bẩm. “Nhưng khi nhìn cái quần ngắn ngủn thế kia thì lời thề thốt của tôi lại bị lung lay. Hôm nay thật lố bịch. Cô nàng y tá! Cái quần cộc!”
A.J. uống một hớp bia, “Cuốn sách tiếp theo thế nào rồi?” Daniel nhún vai, “Sách vẫn là sách thôi, có bìa, có trang, có nội dung, nhân vật, thêm tí mâu thuẫn. Kết quả của bao năm học hành, rèn giũa, luyện tập. Ấy thế mà, kiểu gì nó cũng chẳng bằng cuốn đầu tiên tôi viết hồi mới hai lăm.”
“Tội nghiệp chưa,” A.J. đáp.
“Tôi lại nghĩ chú mới là người giành được giải Tội nghiệp của năm, bạn già ạ.”
“May mắn ghê.”
“Văn lão Poe chẳng ra gì. Cuốn Tamerlane lại là tệ nhất, nổi
được nhờ lão Lord Byron[43] thôi. Xuất bản lần đầu nên có tí chút giá trị. Chú phải mừng vì thoát khỏi nó ấy. Dẫu sao, tôi cũng phát tởm mấy cuốn sách chỉ để sưu tập. Mọi người cứ cuồng lên vì cái xác; trong khi ý tưởng mới là vấn đề kìa. Từng từ, từng chӳ.” Daniel Parish nói.
A.J. uống cạn cốc bia, “Ngài đúng là một thằng ngốc, thưa ngài.”
Cuộc điều tra kéo dài một tháng mà tưởng chừng như cả năm trời ở đảo Alice này. Cảnh sát trưởng Lambiase cùng đội của anh không tìm được bằng chứng nào, tay tội phạm đã chùi sạch dấu vân tay. Các điều tra viên cũng tìm hiểu mấy nhân viên của A.J., vài người bạn cùng họ hàng của gã ở Alice. Kết quả là không có ai đáng ngờ. Cũng chẳng có nhà môi giới hay đơn vị đấu giá nào thông báo về một bản Tamerlane lạc loài cả. (Đương nhiên các đơn vị đấu giá thường giấu nhẹm nhӳng việc kiểu này đi.) Vụ trộm đi vào ngõ cụt. Cuốn sách đã biến mất hoàn toàn khỏi cuộc đời gã A.J.
Chiếc tủ kính giờ bỏ không và A.J. chẳng biết nên làm gì với nó. Gã đâu còn cuốn sách quý hiếm nào khác. Cái tủ cũng khá đắt đỏ, gần 500 đô la. Chút lạc quan nhỏ nhoi còn sót lại trong gã muốn tin rằng, rồi gã sẽ có thứ gì đó giá trị hơn để đặt vào tủ. Lúc mua tủ, tay chủ bảo cũng có thể dùng để đӵng xì gà.
Kế hoạch nghỉ hưu phá sản, gã đành ngồi đọc đống bản thảo, trả lời thư, nghe điện thoại, thậm chí viết cả vài lời quảng cáo cho đống sách trong tiệm. Đến tối, sau khi đóng cửa tiệm, gã bắt đầu chạy bộ lại. Chạy đường dài có nhiều thách thức, song đau đầu nhất là
chẳng biết nhét chìa khóa vào đâu. Cuối cùng, A.J. quyết định để cửa mở. Giờ nhà gã đâu còn gì đáng giá mà trộm nӳa.
Vận may của một trại náo nhiệt[44]
1868 – Bret Harte[45]
Câu chuyện cực kì xúc động về một trại khai thác mỏ nhận nuôi cậu bé mang tên May Mắn. Ta đọc nó lần đầu tại Princeton[46] trong buổi hội thảo Nền văn học Tây Mỹ và chẳng có cảm xúc gì. Trong bài thu hoạch (ngày 14 tháng Mười một, 1992), thứ duy nhất ta khen ngợi là tên nhân vật đa màu sắc: Stumpy, Kentuck, French Pete, Cherokee Sal, vân vân. Vài năm sau, ta đọc lại lần nữa và khóc nhiều đến mức khiến bản in rẻ tiền nhòe nhoẹt nước mắt. Có lẽ càng già càng dễ mủi lòng. Nhưng ta cũng nghĩ, điều đó nói lên tầm quan trọng của việc đọc sách đúng thời điểm. Maya à, con hãy nhớ: Cảm xúc khi 20 tuổi chẳng nhất thiết phải giống lúc 40 tuổi hoặc hơn. Điều này đúng với những cuốn sách và với cả cuộc đời.
A.J.F.
Vài tuần sau vụ trộm, việc kinh doanh của tiệm Hải Đảo dần khởi sắc nhưng khó mà xác định chính xác nguyên nhân. A.J. đoán do chỉ số kinh tế ít được biết đến mang tên “Dân phố Tò mò”.
Một dân phố có ý tốt (DPYT) rụt rè đến bên quầy thanh toán và hỏi, “Có tin gì mới về cuốn Tamerlane chưa?” [Dịch: Liệu tôi có thể cười vào mặt anh vì đã làm mất tài sản quý giá đó không?]
Gã sẽ nhã nhặn đáp, “Chưa ạ.” [Dịch: Đời vẫn đen.] DPYT: “Chắc chắn sẽ có manh mối sớm thôi.” [Dịch: Dẫu sao
cũng chẳng ảnh hưởng đến tôi nên lạc quan một chút thì đâu mất gì.] “Có cuốn sách mới nào không nhỉ?”
A.J.: “Có vài cuốn đấy.” [Dịch: Cả rổ kia kìa. Mấy tháng, cũng có thể là mấy năm rồi ông/bà có mò tới đây đâu.]
DPYT: “Trên Thời báo New York có giới thiệu một cuốn khá hay ho, bìa đỏ thì phải?”
A.J.: “Phải rồi, nghe quen quen”. [Dịch: Tìm được chết liền. Tên sách, tác giả, tóm tắt không có. Bìa hình như màu đỏ và được giới thiệu trên Thời báo New York, ông/bà nghĩ tôi là thiên tài chắc?] “Ông/Bà có nhớ thêm gì về quyển đó không?” [Động não tí đi.]
Rồi gã sẽ hướng dẫn vị DPYT đó qua quầy sách mới và kiểu gì cũng bán được cho ông/bà ta một cuốn.
Nghĩ cũng lạ đời, Nic mất khiến việc kinh doanh tụt dốc không phanh. Dẫu gã đã mở cửa và đóng cửa nghiêm cẩn như một tay Sĩ quan SS[47], quý đầu tiên sau cái chết của nàng, tiệm vẫn ghi nhận mức doanh thu thấp kӹ lục. Đương nhiên, mọi người chia buồn cùng gã, nhưng họ lại chia buồn quá mức. Nic là người bản địa, là một phần của cộng đồng. Ai cũng xúc động khi thấy một sinh viên tốt nghiệp đại học Princeton (và Á khoa tốt nghiệp Trung học Đảo Alice) quay về, mở tiệm sách cùng anh chồng lầm lì. Người con trẻ tuổi của đảo quay lại để xây dӵng quê hương, thật tốt biết bao. Nic ra đi rồi, mối dây liên kết duy nhất giӳa họ và A.J. là nỗi đau thương vì mất Nic. Họ có đổ lỗi cho gã không? Một chút. Sao gã không chở ả tác giả đó về nhà chứ? Họ tӵ mua vui bằng cách thì thầm to nhỏ với nhau rằng gã thật kì cục. Họ còn thề thốt, không phải do gã là người ngoài mà họ nghĩ thế đâu (gã sinh ra ở New Jersey). Khi đi
qua cửa hàng, họ dè dặt nín thở cứ như đang đi qua bãi tha ma. Giờ đây, mọi người đã dần chấp nhận gã. A.J. nhận ra, trộm cắp là vấn nạn chung của cộng đồng, còn người thân ra đi là việc riêng nhà gã. Đến tháng Mười hai, doanh số lại trở về như trước vụ mất cấp kia.
Hai tuần trước Giáng sinh, còn hai phút nӳa thì đến giờ đóng cửa, A.J. dạo một vòng để nhắc nhở nhӳng vị khách cuối cùng. Một thằng cha mặc áo phao hắng giọng, chỉ tập Alex Cross[48] mới nhất. “26 đô cơ à, anh có biết mua trên mạng còn rẻ hơn không?” Gã đáp rằng mình biết, và chỉ về phía lối ra. Hắn nói, “Anh phải giảm giá thì mới mong cạnh tranh được chứ.”
“Giảm giá? Giảm. Giá. Trước đây tôi chưa từng nghĩ đến,” gã nhẹ nhàng đáp.
“Anh đang xấc xược với khách hàng đấy hả, anh bạn trẻ?” “Không hề, tôi rất biết ơn. Trong lần họp đại hội cổ đông tới đây của tiệm Hải Đảo, chắc chắn tôi sẽ đưa kiến nghị này của anh ra. Ai mà không muốn bán được sách chứ. Giờ thời gian không còn nhiều nên đành tạm gác câu chuyện tại đây. Có thể là một sai sót nhưng Hội đồng quản trị lại quyết định rằng, cạnh tranh là việc của mấy vận động viên Olympic, lũ trẻ thi đánh vần hay doanh nghiệp ngũ cốc. Tôi vui mừng được thông báo, gần đây, tiệm sách Hải Đảo đang dần lấy lại sức cạnh tranh vốn có. Dẫu sao thì, tiệm đã đến giờ đóng cửa rồi.” A.J. chỉ thẳng ra cửa.
Tay áo phao vừa càu nhàu bước ra thì một bà già lại chen vào. Bà là khách quen nên gã cố kiềm chế cơn bӵc bội vì bà tới sau giờ làm việc. Gã nói, “À, bà Cumberbatch. Thật không may, chúng tôi
đóng cửa rồi.”
“Anh Fikry, đừng giương đôi mắt Omar Sharif[49] mà nhìn tôi như thế. Tôi đang bӵc mình đây.” Bà Cumberbatch đẩy gã ra rồi quăng quyển sách rầm một cái lên bàn. “Sống đến 82 tuổi mà tôi chưa từng đọc cuốn nào tệ hại như cuốn hôm qua anh giới thiệu. Trả lại tiền đây.”
A.J. hết nhìn quyển sách lại nhìn bà già kia. “Bà không thích ở điểm nào?”
“Nhiều điểm, anh Fikry ạ. Thứ nhất, nó được kể bởi Thần chết! Anh nghĩ một bà già 82 tuổi thích thú khi đọc cả quyển sách dày cộp 552 trang kể bởi Thần chết lắm à? Quả là một sӵ lӵa chọn ‘tinh tế’ đấy.”
A.J. vội vàng xin lỗi dẫu trong thâm tâm chẳng thấy mình có lỗi gì. Làm gì có chuyện giới thiệu sách mà chắc chắn 100% người kia sẽ thích cơ chứ? Gã đành nhận lại cuốn sách nhưng gáy đã rách và sẽ chẳng còn ai muốn mua nӳa. Gã không kiềm chế được bèn hỏi, “Bà Cumberbatch này, hẳn bà đã đọc qua, tôi băn khoăn không biết bà đọc tới đoạn nào rồi vậy?”
“Phải, tôi đã đọc,” bà ta đáp. “Tất nhiên là tôi đã đọc. Gần như thức trắng đêm qua để đọc. Đọc mà điên người. Ở tuổi này rồi, điều đó chẳng tốt đẹp gì. Tôi còn khóc như mưa như gió vì nó nӳa. Lần tới có giới thiệu sách, làm ơn tránh mấy đề tài này ra, anh Fikry ạ.”
“Tôi nhớ rồi,” gã nói. “Và tôi thành thật xin lỗi, thưa bà Cumberbatch. Phần lớn khách của chúng tôi đều thích cuốn Kẻ trộm sách[50] này đấy.”
Đóng cửa hàng xong, A.J. lên lầu để thay đồ thể thao. Gã đi vòng
ra cửa chính tiệm sách và chẳng buồn khóa cửa như đã thành thói quen.
A.J. từng tham gia đội chạy việt dã hồi trung học và đại học. Gã chọn môn thể thao này đơn giản vì không có kӻ năng đặc biệt nào khác ngoài việc cắm đầu vào mấy cuốn sách. Thӵc sӵ, gã chưa bao giờ quan tâm tới chuyện chạy việt dã cũng cần đến tài năng. Huấn luyện viên ở trường trung học còn thân thương gọi A.J. là kẻ trung bình đáng tin bởi lần nào gã cũng đứng hạng chót của tốp trên. Sau khi bỏ chạy một thời gian dài, giờ gã phải thừa nhận rằng, chạy việt dã cũng là một loại tài năng. Với thể chất hiện tại, gã chẳng chạy nổi liên tục quá 3 kilomet mà không dừng lại nghỉ. Hiếm khi gã vượt được mốc 8 kilomet, lưng, chân tay và cả người đều mệt mỏi rã rời. Cũng không tệ lắm. Ngày trước, gã thường vừa chạy vừa nghĩ ngợi vẩn vơ, giờ thì cơn đau sẽ kéo gã khỏi mớ suy nghĩ độc hại đó.
A.J. gần về đến nhà thì tuyết bắt đầu rơi. Không muốn để lại vệt bùn nên gã dừng trước cổng để cởi giày rồi cố lết nốt đoạn đường tới cửa chính. Cánh cửa mở toang. Gã không khóa cửa nhưng cũng không thể để toang hoác thế kia. Gã bật điện. Mọi thứ vẫn y nguyên. Quầy thanh toán không có vẻ gì bị xáo trộn. Có lẽ là do gió. Gã tắt điện, định lên gác thì nghe thấy một tiếng khóc ré lên, rồi lại một tiếng khóc nӳa, lần này dai dẳng hơn.
A.J. lại bật điện lên, vòng ra cửa rồi đi dọc theo nhӳng gian sách. Gã bước tới hàng cuối cùng, khu vӵc nghèo nàn dành cho sách Thiếu nhi và Độc giả trẻ, thì thấy một đứa bé đang ngồi giӳa sàn cùng cuốn Ở nơi quỷ sứ giặc non[51] đặt trên đùi (đây là một trong
nhӳng sách tranh hiếm hoi ở tiệm Hải Đảo). A.J. thầm nghĩ, đứa bé khá cứng cáp, hẳn không phải mới sinh. Gã chẳng đoán nổi tuổi của nó vì gã rất hiếm khi tiếp xúc với trẻ con. A.J. là con út, gã và Nic lại chưa có em bé. Đứa trẻ mặc áo khoác trượt tuyết màu hồng, tóc nâu nhạt xoăn tít cùng đôi mắt xanh tӵa hoa thanh cúc, làn da ngăm ngăm, sáng hơn da A.J. một chút, trông khá xinh xắn đáng yêu.
“Cháu là ai vậy?” A.J. hỏi cô bé.
Chẳng hiểu sao, nó lại nín khóc rồi cười với gã. “Maya,” cô bé đáp.
Dễ mà, A.J. thầm nghĩ. “Cháu mấy tuổi rồi?” Gã hỏi tiếp. Maya giơ hai ngón tay lên.
“Hai à?”
Cô bé mỉm cười rồi vươn tay về phía gã.
“Mẹ cháu đâu?”
Maya bắt đầu khóc, tiếp tục vươn tay ra. Chẳng còn cách nào khác, gã đành bế nó lên. Con bé phải nặng chừng hai mươi tư quyển sách bìa cứng, đủ khiến lưng gã mỏi nhừ. Nó vòng tay ôm cổ A.J., gã có thể ngửi thấy mùi phấn rôm cùng dầu thơm dìu dịu. Rõ ràng, Maya không hề bị bỏ mặc hay hành hạ. Con bé khá thân thiện, ăn mặc chỉn chu, và chờ đợi, à không, đòi hỏi được yêu thương. Chắc chắn chủ nhân của cái bọc nhỏ này sẽ nhanh chóng quay lại cùng nhӳng lý do vô cùng hợp lý, chẳng hạn như xe hỏng hay bà mẹ đột nhiên bị ngộ độc thức ăn. Gã phải suy nghĩ lại về chuyện không khóa cửa mất thôi. Gã chỉ nghĩ đến việc bị trộm chứ không tưởng tượng nổi ai đó sẽ để thứ gì lại đây.
Con bé ôm gã chặt hơn. Nhìn qua vai nó, A.J. thấy một con rối Elmo[52] lăn lóc trên sàn cùng mẩu giấy nhớ ghim chặt nơi phần ngӵc đỏ thẫm của nó. Gã đành đặt Maya xuống và nhặt con Elmo lên. Gã chẳng ưa con rối này chút nào vì trông nó quá rẻ tiền.
“Elmo!” Maya nói.
“Ờ, Elmo.” Gã đáp, gỡ mẩu giấy rồi đưa con rối cho con bé. Mẩu giấy ghi:
Gửi ông chủ tiệm sách,
Đây là Maya, 25 tháng tuổi. Bé RẤT LANH LỢI, thông minh trước tuổi, ngoan ngoãn và ngọt ngào. Tôi mong cháu có niềm đam mê đọc sách, mong cháu được lớn lên giữa sách vở, bên những người hiểu biết chúng. Tôi rất yêu Maya nhưng không thể chăm sóc cháu được nữa. Cha Maya không muốn nhận con, tôi lại chẳng có họ hàng nào đỡ đần. Tôi tuyệt vọng quá.
Thân,
Mẹ của Maya.
Mẹ kiếp, A.J. lẩm bẩm.
Maya lại khóc.
A.J. bế nó lên, phát hiện tã bị bẩn. Dẫu là tay gói quà cừ khôi bậc nhất nhưng cả đời gã chưa từng thay một cái tã nào. Hồi Nic còn sống, Hải Đảo thường có dịch vụ gói quà miễn phí vào Giáng sinh, gã nghĩ thay tã với gói quà chắc cũng từa tӵa nhau. Hy vọng túi đồ đặt cạnh con bé là bịch tã. Tạ ơn Chúa, đúng là vậy. Gã thay tã cho con bé ngay trên sàn, cố gắng không làm bẩn thảm và không nhìn nơi riêng tư của nó. Phải mất hơn hai mươi phút mới xong. Trẻ con
ngọ nguậy nhiều hơn sách, hình dáng thì chẳng thuận tiện để thay tã chút nào. Maya ngẩng nhìn gã, mím môi và nhăn nhăn cái mũi. A.J. nói, “Xin lỗi nhé, Maya, ta cũng chẳng thích thú gì đâu. Cháu mà hợp tác thì chúng ta đã xong lâu rồi.”
“Xin lỗi,” con bé đáp. A.J. liền thấy tội nghiệp nó ghê gớm. “Không không, người xin lỗi phải là ta mới đúng. Ta chẳng biết gì về thứ này cả. Ta tồi tệ quá.”
“Tồi!” Maya lặp lại rồi cười khúc khích.
A.J. xỏ giày, bế con bé lên và xách theo chiếc túi, không quên cầm tờ giấy rồi hướng thẳng đến đồn cảnh sát.
Đương nhiên, cảnh sát trưởng Lambiase sẽ trӵc vào tối đó. Dường như anh chàng này luôn có mặt vào nhӳng thời điểm quan trọng nhất đời gã. A.J. chìa con bé ra, khẽ thì thào để tránh làm Maya tỉnh giấc, “Ai đó đã để nó lại tiệm của tôi.”
Lambiase bối rối giấu chiếc bánh donut đang ăn dở bằng cách nhét cả vào mồm. Nhai xong, anh xởi lởi đáp lời A.J., “Ôi, nó thích anh kìa.”
“Không phải con tôi đâu,” gã tiếp tục thì thào.
“Vậy của ai?”
“Chắc của vị khách nào đó.” A.J. thọc tay vào túi, lấy mảnh giấy đưa cho Lambiase.
“Ố ồ, mẹ con bé nhờ cậy anh này.” Lambiase nói. Maya mở mắt rồi mỉm cười với anh. “Dễ thương nhỉ?” Anh vươn người về trước để Maya có thể túm lấy râu mình. “Ai tóm râu tôi đấy?” Anh giả giọng mấy đứa con nít. “Ai trộm râu tôi đấy?”
“Cảnh sát trưởng Lambiase, mong anh tập trung vào vấn đề chính cho.”
Lambiase hắng giọng rồi ngồi ngay ngắn lại. “Được rồi, giờ là 9 giờ tối thứ Sáu. Tôi sẽ gọi đến ủy ban Gia đình và Trẻ em, nhưng tuyết đang rơi, rồi cuối tuần và cả vấn đề lịch phà nӳa nên sớm nhất cũng phải thứ Hai người chuyên trách mới tới đây được. Chúng tôi sẽ cố gắng tìm bà mẹ và cả ông bố, phòng trường hợp ai đó đang kiếm nhóc tì này.”
“Maya,” Maya nói.
“Tên cháu đó à?” Lambiase lại nhại giọng con nít. “Tên hay quá cơ.” Rồi anh hắng giọng lần nӳa, “Phải có người chăm con bé cuối tuần này. Tôi cùng mấy tay trong đồn sẽ thay phiên nhau, hoặc là...”
“Thôi, thôi,” A.J. ngắt lời. “Giӳ một đứa bé ở đồn cảnh sát có vẻ không hay ho lắm.”
“Anh biết chăm trẻ con không đấy?” Lambiase hỏi.
“Mấy ngày cuối tuần thôi mà, có gì khó chứ? Tôi sẽ gọi cho bà chị vợ, không được nӳa thì hỏi Google.”
“Google,” con bé hô lên.
“Google! Giỏi lắm bé con! E hèm,” Lambiase nói. “Vậy thứ Hai tôi sẽ liên lạc với anh. Mà buồn cười nhỉ? Có người chôm mất quyển sách của anh, giờ lại có người mang cho anh một đứa bé.” “Ờ,” A.J. đáp.
Về đến nhà, Maya chợt òa khóc, lanh lảnh như tiếng kèn đêm Giao thừa hòa lẫn tiếng còi cứu hỏa. A.J. đoán nó đang đói nhưng
gã chẳng biết phải cho một đứa bé 25 tháng tuổi ăn gì. Gã kéo môi nó ra xem có cái răng nào chưa. Con bé mọc răng rồi và còn đang cố cắn gã. Gã tra Google, “Cho trẻ con 25 tháng tuổi ăn gì?” và nhận ngay câu trả lời là phần lớn chúng đều ăn nhӳng thứ bố mẹ chúng ăn. Nhưng Google đâu có biết, hầu hết nhӳng thứ gã ăn đều vô cùng kinh khủng. Tủ toàn đồ đông lạnh, cay xé lưỡi. Gã đành gọi cho chị vợ Ismay để xin vài lời khuyên.
“Xin lỗi vì quấy rầy chị,” gã nói, “nhưng em không biết nên cho một đứa bé 25 tháng tuổi ăn gì.”
“Chú hỏi làm gì vậy?” Ismay căng thẳng đáp.
Gã giải thích rằng có người bỏ rơi một đứa bé ở tiệm sách. Sau một thoáng suy nghĩ, Ismay nói chị sẽ tới ngay.
“Chị chắc chứ?” A.J. hỏi. Ismay đang mang bầu tháng thứ sáu và gã không muốn làm phiền chị.
“Chắc. May mà chú gọi chị. Vị tiểu thuyết gia người Mӻ Vĩ đại có việc đi khỏi thị trấn rồi, vả lại, mấy tuần gần đây chị hay bị mất ngủ nӳa.”
Chưa đầy nửa tiếng sau, Ismay đã tới cùng một túi đầy đồ ăn lấy từ gian bếp của chị, gồm nguyên liệu làm salad, lasagna chay và nửa cái bánh táo. “Chị vơ vội được mấy thứ này thôi,” chị nói.
“Thế là tốt lắm rồi,” gã nói. “Bếp nhà em còn chẳng có gì.” “Nom nó hệt như hiện trường vụ án ấy,” chị đáp.
Thấy Ismay, con bé hét váng lên. “Chắc nó nhớ mẹ,” Ismay nói. “Nhìn chị giống mẹ nó chăng?” A.J. gật gù dẫu gã nghĩ lý do thӵc sӵ là chị đã dọa con bé sợ chết khiếp. Mái tóc đỏ của Ismay được
cắt kiểu bông xù thời thượng, làn da trắng xanh và đôi mắt cũng màu xanh. Các nét trên mặt chị đều hơi to, điệu bộ thì sôi nổi thái quá. Tóm lại, trông chị hệt như Gollum[53] phiên bản xinh đẹp với cái bụng bầu kia. Đến cả chất giọng của chị cũng khiến trẻ con khó chịu, nó sang sảng, vang dội khắp cả căn phòng. Trong suốt mười lăm năm quen biết Ismay, gã nghĩ chị cũng già dần như cuộc đời một nӳ diễn viên: Đóng từ nàng Juliet đến Ophelia[54] rồi hoàng hậu Gertrude[55], cuối cùng là nӳ thần Hecate[56].
Ismay hâm lại đồ ăn rồi hỏi, “Chú muốn chị cho con bé ăn giúp không?”
Maya nhìn Ismay, ánh mắt như ngờ vӵc.
“Thôi, để em.” A.J. nói rồi quay sang hỏi Maya, “Cháu có muốn ăn bằng thìa nĩa không?”
Con bé không đáp lại.
“Chú còn chẳng có ghế cho trẻ con nӳa. Mau kiếm đại cái gì thay đi, để nó ngồi ăn khỏi ngã.” Ismay nói.
Gã liền đặt con bé xuống sàn, dӵng ba chồng bản thảo về ba phía rồi chèn gối ngủ vào trong.
Thìa lasagna đầu tiên được đút một cách dễ dàng. “Quá đơn giản,” gã lẩm bẩm.
Rồi đến thìa thứ hai, Maya ngúng nguẩy khiến nước xốt bắn tung tóe lên người gã, gối ngủ và cả mấy chồng bản thảo. Con bé quay lại nhìn gã và cười khanh khách như thể trò đùa này hay ho lắm.
“Hy vọng chú không định đọc chúng nӳa,” Ismay nói. Sau bӳa tối, họ đặt Maya ngủ trên chiếc nệm futon[57] trong
phòng ngủ phụ.
“Sao chú không để con bé lại đồn cảnh sát?” Ismay hỏi. “Em thấy không ổn lắm,” A.J. đáp.
“Chú không tính nuôi nó luôn đấy chứ?” Ismay xoa xoa bụng mình.
“Đương nhiên là không rồi, em chỉ trông nó đến thứ Hai thôi.” “Chị nghĩ rồi bà mẹ sẽ đổi ý và quay lại đón nó.”
A.J. đưa Ismay xem mảnh giấy.
“Tội nghiệp quá,” Ismay nói.
“Em biết, nhưng cá nhân em không thể hành động như vậy, bỏ rơi con mình trong một tiệm sách.”
Ismay nhún vai, “Có lẽ cô gái ấy có nỗi khổ riêng.”
“Sao chị biết là cô gái?” A.J. hỏi. “Biết đâu là một bà cô trung niên nào đó rơi vào đường cùng thì sao.”
“Giọng điệu trong thư khá trẻ con, cả nét chӳ nӳa, chị đoán vậy,” Ismay nói, luồn tay qua mớ tóc ngắn ngủn. “Mà dạo này chú thế nào rồi?”
“Em ổn,” A.J. đáp. Gã nhận thấy mình không còn nghĩ ngợi về cuốn Tamerlane hay Nic hàng giờ liền nӳa.
Ismay rửa đống bát đĩa dù A.J. đã nói chị cứ để đó. “Em sẽ không nuôi con bé đâu,” A.J. nhắc lại. “Em sống một mình, không có nhiều tiền tiết kiệm, việc kinh doanh lại chẳng thuận lợi gì.”
“Tất nhiên rồi,” Ismay đáp, “cách sống của chú không thành vấn đề.” Chị lau khô bát đĩa rồi cất lên giá. “Tuy nhiên, thi thoảng ăn chút rau quả tươi cũng chẳng chết đâu.”
Ismay thơm lên má gã. A.J. thầm nghĩ, chị thật giống Nic nhưng cũng khác xa nàng. Thi thoảng, nhìn nhӳng nét giống nhau giӳa hai người như khuôn mặt, dáng dấp, trái tim gã nhói lên. Cũng có đôi khi, nhӳng khác biệt về suy nghĩ, tình cảm lại khiến gã đau lòng. “Chừng nào cần thì cứ gọi chị nhé,” chị nói.
Dẫu là em gái, Nic vẫn thường lo lắng cho Ismay.
Nàng luôn nghĩ chị gái mình sẽ xếp nhất môn Tùy hứng. Ismay chọn một trường Đại học chỉ vì thích mấy bức hình in trên tạp chí giới thiệu trường, cưới tay nào đó bởi anh ta bảnh bao trong bộ cánh tuxedo và đi dạy sau khi xem bộ phim về một giáo viên đầy cảm hứng. Nic từng nói, “Ismay tội nghiệp. Rốt cuộc, lần nào chị cũng phải thất vọng vì lӵa chọn của mình.”
Gã thầm nghĩ, hẳn Nic sẽ muốn mình đối xử tốt hơn với Ismay. “Vở kịch thế nào rồi chị?”
Ismay mỉm cười như một nàng thiếu nӳ. “A.J., thật tình chị không nghĩ là chú biết đấy.”
“Thử thách gắt gao[58],” gã nói. “Tụi nhóc đến tiệm để mua nhiều lắm.”
“Ờ, hẳn là vậy. Nhưng thӵc ra vở đó rất tệ. Đám con gái phần lớn chỉ gào với thét nhưng có vẻ thích thú lắm. Chị thì không. Hôm nào đến tập cũng phải mang theo thuốc giảm đau Tylenol. Hy vọng trong lúc gào thét, chúng vô tình học được chút gì đó về lịch sử Mӻ. Tất nhiên, lý do chị chọn vở đó là bởi có nhiều vai nӳ, tụi nhỏ sẽ đỡ khóc lóc hơn khi chị dán danh sách phân vai. Nhưng giờ chị đang mang bầu, dường như có cả đống kịch hay đang chờ đón phía
trước.”
A.J. hơi áy náy vì khiến chị Ismay phải mang đồ ăn sang nên tỏ ý muốn giúp, “Để em qua sơn tường, in lời thoại hay làm gì đó cho chị nhé?”
Ismay muốn thốt lên “Chẳng giống chú tẹo nào” nhưng đã kìm lại được. Ngoài chồng mình ra, chị luôn tin chú em rể là kẻ ích kӹ nhất trần đời. Chỉ một chiều ở cùng đứa bé này mà A.J. đã thay đổi đến thế, thử tưởng tượng xem Daniel sẽ thay đổi đến nhường nào nếu con họ chào đời. Một hành động nhỏ của A.J. thôi đã khiến chị ngập tràn hy vọng. Chị xoa bụng. Đó là con trai, hai vợ chồng đã chọn được tên cho em bé và chọn thêm cả một cái tên dӵ phòng nӳa.
Chiều hôm sau, tuyết ngừng rơi, thậm chí bắt đầu tan chảy, một cái xác theo sóng đánh dạt lên dải cát cạnh ngọn hải đăng. Chứng minh thư trong túi có tên Marian Wallace và cảnh sát trưởng Lambiase chẳng mất nhiều thời gian để nhận ra mối liên hệ giӳa cái xác và đứa bé.
Marian Wallace không có người quen trên đảo Alice, không ai biết cô đến đây làm gì, gặp ai hay vì sao cô lại quyết định tӵ tử bằng cách nhảy xuống làn nước băng giá giӳa tháng Mười hai ở hòn đảo này. Tóm lại, chẳng ai biết nguyên nhân. Toàn bộ thông tin còn lại chỉ là Marian Wallace da đen, 21 tuổi, có một em bé mới 25 tháng tuổi. Với mẩu giấy cô viết gửi A.J., bức tranh dần sáng tỏ. Nhà chức trách chỉ đơn thuần kết luận Marian Wallace đã tӵ tử.
Đến cuối tuần thì có thêm vài thông tin về Marian Wallace. Cô đang học Harvard, vô địch bơi lội bang Massachusetts đồng thời là
một nhà văn đầy đam mê và sáng tạo. Cô đến từ Roxbury. Năm cô 13 tuổi, mẹ cô mất vì ung thư. Một năm sau, bà ngoại cũng qua đời do căn bệnh quái ác này. Cha cô là một gã nghiện ngập nên suốt quãng đời trung học, cô chuyển hết gia đình nuôi này đến gia đình nuôi khác. Một trong nhӳng bà mẹ nuôi của cô kể lại, khi còn nhỏ, lúc nào Marian cũng cắm mặt vào sách vở. Không ai biết gì về bố đứa trẻ, thậm chí còn chẳng ai biết cô đang có bạn trai. Cô bị đuổi khỏi trường vì trượt toàn bộ các môn học kỳ trước, có lẽ gánh nặng của một bà mẹ cùng lịch học dày đặc là quá sức với cô. Marian xinh xắn, thông minh khiến câu chuyện này trở thành bi kịch. Cô là người da đen, lại nghèo túng nên kết cục như vậy đến như một lẽ dĩ nhiên.
Tối Chủ nhật, Lambiase ghé qua tiệm sách để thăm Maya và cập nhật tình hình với A.J. Vị cảnh sát trưởng cũng có vài đứa em nhỏ nên anh nhiệt tình nhận trông Maya trong lúc A.J. coi sóc cửa hàng. “Được không đấy?” Gã hỏi. “Anh không phải đi đâu sao?”
Lambiase vừa ly dị. Anh đã cưới cô bạn thân thương thời trung học, nên phải mất rất nhiều thời gian mới nhận ra rằng cô ta chẳng thân với thương gì hết. Lúc cãi nhau, cô ta trìu mến gọi anh là tên béo đần độn. Anh đâu có đần, dù ít đọc sách và đi đây đi đó. Anh cũng không hề béo, dẫu cơ thể hệt như loài chó bun, cổ đầy cơ bắp, chân ngắn, mũi tẹt và rộng. Một chú bun Mӻ cường tráng chứ không phải loại bun Anh ục ịch.
Lambiase chẳng nhớ nhung gì vợ cũ, nhưng anh nhớ cảm giác có nơi nào đó để về sau giờ làm việc.
Anh ngồi xuống sàn, ôm Maya vào lòng. Cô bé ngủ rồi, Lambiase mới kể cho A.J. nghe chuyện về người mẹ.
A.J. nói, “Thật kì lạ, sao cô ấy lại nhọc công nhọc sức tới tận đảo Alice cơ chứ? Bao năm qua, mẹ tôi cũng chỉ tới thăm tôi có một lần. Anh thӵc sӵ tin rằng cô ấy không đến đây để gặp ai đó sao?”
Lambiase khẽ đu đưa bé Maya, “Tôi cũng nghĩ tới chuyện đó. Có thể cô ấy không có kế hoạch gì cụ thể, chỉ đơn giản bắt chuyến tàu đầu tiên, chuyến xe buýt đầu tiên rồi chuyến phà đầu tiên, cuối cùng thì tới đây.”
A.J. lịch sӵ gật đầu, nhưng gã không nghĩ vậy. Gã đọc sách và tin rằng mọi chuyện đều có lý do. Nếu một khẩu súng xuất hiện ở cảnh đầu thì tốt hơn nên biến mất ở cảnh ba. Gã tin vào tính logic của câu chuyện.
“Có thể cô ấy muốn ra đi ở nơi nào đó có phong cảnh đẹp.” Lambiase nói thêm. “Người bên DCF[59] sẽ đến đón bọc nhỏ đáng yêu này vào thứ Hai. Bé không có họ hàng thân thích nên họ sẽ gửi cho một gia đình nhận nuôi nào đó.”
A.J. kiểm tiền hàng ở quầy, “Thật nghiệt ngã với một đứa trẻ nhỉ?”
“Có thể,” Lambiase nói. “Nhưng con bé còn nhỏ nên chắc sẽ ổn thôi.”
A.J. kiểm lại tiền lần nӳa, “Anh bảo rằng mẹ nó cũng từng được nhận nuôi đúng không?”
Lambiase gật đầu.
“Chắc cô ấy nghĩ đứa trẻ sẽ có cơ hội tốt hơn khi lớn lên ở một tiệm sách.”
“Ai mà biết được chứ?”
“Cảnh sát trưởng Lambiase à, tôi chẳng phải người sùng đạo. Tôi không tin vào số phận. Nhưng vợ tôi, cô ấy lại tin.” Đúng lúc đó, Maya thức dậy và chìa tay về phía A.J. Gã đóng ngăn kéo đӵng tiền rồi đón lấy cô bé. Lambiase nghe thấy nó gọi, “Ba ơi.”
“Hừ, đã bảo đừng gọi thế rồi mà nó không chịu.” A.J. nói. “Lũ trẻ có nhiều ý tưởng lắm,” Lambiase đáp.
“Anh muốn uống gì không?”
“Chắc chắn rồi, sao lại không chứ?”
A.J. khóa cửa tiệm sách rồi đi lên lầu. Gã đặt Maya xuống chiếc nệm futon và bước ra phòng chính.
“Tôi không nuôi nó được,” gã khẳng định. “Hai ngày rồi tôi không ngủ nổi. Con bé đúng là khủng bố. Nó thức dậy vào nhӳng lúc, ờ, kinh khủng. 3 giờ 45 phút sáng là bắt đầu ngày mới. Tôi sống một mình, nghèo rách. Tôi không thể chỉ dӵa vào sách mà nuôi nó.”
“Đúng vậy,” Lambiase nói.
“Đến thân tôi, tôi còn chẳng lo được,” gã tiếp tục than vãn. “Con bé khó nuôi hơn cả con cún, mà người như tôi thậm chí còn chẳng nên nuôi cún nӳa. Con bé chưa được dạy cách sử dụng nhà vệ sinh, tôi thì chịu chết không biết gì về mấy thứ đó. Hơn nӳa, thӵc lòng tôi không ưa trẻ con. Tôi thích Maya, nhưng... không thể nói chuyện nổi với nó. Chúng tôi trao đổi về Elmo, nhưng tôi ghét con Elmo. Mà nguyên nhân chủ yếu là do con bé, nó toàn tӵ coi mình là trung tâm vũ trụ.”
“Đứa nhỏ nào chả thế,” Lambiase đáp. “Đến khi nó học nói được
nhiều hơn thì sẽ ổn cả thôi.”
“Nó còn thích đọc đi đọc lại một quyển sách nӳa chứ. Cái quyển dở kinh khủng. Ở nơi quỷ sứ giặc non thì phải.”
Lambiase đáp anh chưa từng nghe nói đến cuốn sách đó. “Ồ, tin tôi đi. Con bé có gu đọc sách tệ hại.” A.J. cười vang. Lambiase gật đầu và uống ly rượu của mình, “Có ai bảo anh phải nuôi nó đâu.”
“Phải, phải, tất nhiên rồi. Nhưng liệu tôi có thể can thiệp vào chuyện chọn nơi ở cho con bé không nhỉ? Maya thông minh khủng khiếp ấy. Dường như nó đã nhận được mặt chӳ rồi, biết thứ tӵ chӳ cái nӳa cơ. Cứ nghĩ đến việc nó bị quẳng cho mấy kẻ trì độn không biết trân trọng điều đó là tôi lại khó chịu. Như tôi đã nói đấy, tôi chẳng tin vào số phận, nhưng tôi thấy có trách nhiệm gì đó với con bé. Cô gái ấy đã giao nó cho tôi.”
“Cô ấy mất trí mà,” Lambiase nói. “Một tiếng trước khi tӵ tử.” “Ờ,” A.J. cau mày tư lӵ. “Anh nói cũng phải.” Có tiếng khóc từ phòng bên, gã vội vàng cáo lỗi, “Tôi phải qua xem con bé chút đây.”
Hôm nay cần phải tắm cho Maya rồi. Gã sẵn lòng nhường việc này cho nhà chức trách bang Massachusetts, nhưng lại chẳng muốn giao con bé vào tay mấy bà cô Havisham[60] thu nhỏ của bên dịch vụ xã hội kia. Gã phải tìm trên Google đủ thứ về cách tắm: Nhiệt độ nước thích hợp cho bé hai tuổi, bé hai tuổi dùng dầu gội người lớn được không, bố phải tắm cho con gái hai tuổi thế nào để không bị coi là lạm dụng, lượng nước cao đến đâu thì đủ, cách đề phòng đuối nước cho bé hai tuổi trong bồn tắm, nhӳng quy tắc cơ
bản để tắm cho bé an toàn, vân vân.
Gã gội đầu cho Maya bằng loại dầu chiết xuất từ cây gai dầu của Nic. Rất lâu sau khi đã đem hết thảy đồ đạc của nàng đi vứt bỏ hoặc quyên góp, gã vẫn không đủ can đảm để ném mấy thứ dầu gội sӳa tắm này vào thùng rác.
A.J. giội nước lên tóc Maya. Con bé bắt đầu hát.
“Cháu đang hát gì thế?”
“Bài hát,” nó đáp.
“Bài hát gì?”
“La la. Booya. La la.”
Gã cười lớn, “Cháu chỉ đang bi bô thôi, Maya à.”
Con bé té nước vào người gã.
“Mẹ?” Lúc sau, nó chợt hỏi.
“Ta không phải mẹ cháu đâu.”
“Đi rồi,” Maya nói tiếp.
“Ừ,” gã đáp, “chắc cô ấy cũng không quay về nӳa.”
Maya ngẫm nghĩ một chút rồi gật đầu, “Ba hát.”
“Ta không biết hát.”
“Hát,” nó nằn nì.
Con nhóc vừa mất mẹ. Có lẽ đây là điều tối thiểu gã có thể làm cho nó.
Gã chẳng có thời gian lên Google tìm mấy bài hát thiếu nhi nӳa. Hồi chưa quen Nic, A.J. từng là giọng nam cao cho The Footnotes, một nhóm hát chay rặt mấy tên đӵc rӵa của trường Princeton. Lúc
gã phải lòng nàng thì chỉ tội cho The Footnotes, rốt cuộc, sau một kỳ trốn tập, gã bị đá khỏi nhóm. A.J. nhớ lại buổi biểu diễn cuối cùng của gã ở The Footnotes, chủ đề âm nhạc thập niên 1980 thì phải. Dӵa theo chương trình hôm ấy, gã lại lần lượt hát từ “99 Luftballons” rồi chuyển qua “Get out of My Dreams, Get into My Car”, cuối cùng là “Love in an Elevator”. Gã thấy mình hơi hơi ngớ ngẩn.
Gã kết thúc và Maya nồng nhiệt vỗ tay, “Lại đi ạ. Lại đi ạ.” “Buổi biểu diễn hôm nay chỉ đến đây thôi.” Gã nhấc con bé ra khỏi bồn tắm rồi lau người cho nó, cẩn thận từ đầu tới chân. “Bóng bay,” Maya nói. “Biêu ba.”
“Gì cơ?”
“Yêu ba.”
“Cháu đang nhại theo lời bài hát vừa nãy à?”
Nó gật đầu, “Yêu ba.”
“Yêu ta? Cháu thậm chí còn chẳng quen ta,” A.J. đáp. “Cô gái bé nhỏ, đừng dễ dàng trao gửi tình yêu đi như thế.” Gã kéo nó lại gần. “Chúng ta đã có một khoảng thời gian thú vị bên nhau. Ít nhất với ta, đó là bảy mươi hai giờ đáng nhớ. Nhưng có nhӳng người không thể mãi mãi ở bên cháu được, cô bé ạ.”
Maya ngước đôi mắt lam to tròn băn khoăn nhìn gã. “Yêu ba,” nó lặp lại.
A.J. lau khô đầu rồi hít hà mái tóc của con bé, “Thế này không được đâu Maya à. Nếu ai cháu cũng yêu thì chỉ thiệt thân thôi. Có lẽ, 25 tháng tuổi ngắn ngủi khiến cháu có cảm giác đã quen ta từ
lâu lắm. Khái niệm thời gian của cháu đã bị bẻ cong nhiều. Nhưng ta già rồi, cháu sẽ quên ta nhanh thôi.”
Molly Klock gõ cửa căn hộ, “Người của Ủy ban đang ở dưới nhà ạ. Cháu bảo cô ấy lên được không?”
A.J. gật đầu.
Gã ôm Maya vào lòng, cả hai cùng chờ đợi từng tiếng cót két theo bước chân lên cầu thang của cô nhân viên xã hội. “Maya đừng sợ. Cô ấy sẽ tìm cho cháu một gia đình tử tế. Tốt hơn ở đây. Cháu đâu thể ngủ cả đời trên chiếc nệm futon. Một người sống như thế cũng không phải kiểu người cháu mong quen biết.”
Cô nhân viên xã hội tên Jenny. A.J. chẳng thể nhớ nổi mình đã gặp người phụ nӳ nào tên Jenny chưa. Nếu là sách, cô sẽ là một quyển bìa mềm vừa bỏ ra khỏi thùng, không quăn, không bẩn, không nếp gấp ở gáy. Gã muốn gặp một người chuyên nghiệp hơn thế. Chỉ nhìn qua thôi gã đã có thể tóm tắt cuộc đời cô: Một Jenny gan dạ chuyển từ thị trấn Fairfield, Connecticut đến thành phố lớn để trở thành nhân viên xã hội, cô nàng không hề hay biết nhӳng gì đang chờ mình phía trước.
“Ngày đầu tiên đi làm của cô à?” Gã hỏi.
“Không, tôi làm được một thời gian rồi.” Jenny đáp rồi mỉm cười với Maya. “Cháu mới xinh đẹp làm sao.”
Maya giấu mặt vào chiếc áo hoodie của gã.
“Hai người có vẻ rất thân thiết.” Cô hí hoáy viết ghi chú vào cuốn sổ tay. “Giờ thế này, tôi sẽ đưa Maya quay lại Boston, xử lý mấy thứ
giấy tờ cho cô bé, rõ ràng nó chưa tӵ làm được việc đó, ha ha. Rồi Maya sẽ được kiểm tra sức khỏe và tâm lý.”
“Tôi thấy nó hoàn toàn khỏe mạnh và thích nghi rất tốt,” A.J. nói. “Mừng là anh thấy vậy. Bác sĩ sẽ khám xem cô bé có bị chậm phát triển, mắc bệnh hiểm nghèo hay gặp vấn đề gì khác mà mắt thường không nhận ra được hay không. Sau đó, Maya sẽ được gửi tới một trong nhӳng gia đình muốn nhận con nuôi trong danh sách, và...”
Gã ngắt lời cô, “Làm sao để có tên trong danh sách nhận nuôi? Nó có dễ như là, ờ, lấy thẻ thành viên của cửa hàng bách hóa không?”
“Ha ha, tất nhiên là không rồi. Phải tiến hành nhiều bước. Nộp đơn, thăm nhà...”
A.J. lại ngắt lời cô lần nӳa, “Cô Jenny, ý tôi là, sao cô dám đảm bảo sẽ không đẩy một đứa trẻ vô tội vào tay mấy kẻ tâm thần?” “Anh Fikry, chúng tôi không nhìn nhận và đánh giá dưới góc độ nhӳng người muốn nhận con nuôi đều mắc bệnh tâm thần, nhưng gia đình nào cũng được kiểm tra vô cùng cẩn trọng.” “Tôi thấy lo lắng vì... ờ, Maya sáng dạ lắm, nhưng con bé cũng rất cả tin.”
“Sáng dạ nhưng cả tin. Một điểm tích cӵc đấy. Tôi sẽ viết vào đây.” Jenny hí hoáy ghi lại rồi cười với gã. “Sau khi gửi cô bé đến một gia đình nuôi tạm thời không mắc bệnh tâm thần, tôi lại tiếp tục xem xem họ hàng Maya có ai muốn nhận nuôi không. Nếu không, tôi sẽ tìm một nơi ổn định lâu dài cho cô bé.”
“Ý cô là việc nhận bố mẹ nuôi.”
“Vâng, chính xác là như vậy, anh Fikry ạ.” Thӵc ra, Jenny không bắt buộc phải giải thích tất cả nhӳng điều trên, nhưng cô muốn khiến một người Samari nhân hậu[61] như A.J. cảm thấy được trân trọng. “Nhân đây, tôi xin được cảm ơn anh. Chúng tôi cần nhiều hơn nӳa nhӳng tấm lòng như anh, nhiệt thành quan tâm người khác.” Cô vươn tay đón Maya. “Sẵn sàng chưa bé con?”
A.J. ôm Maya chặt hơn. Gã hít một hơi sâu. Gã thӵc sӵ sẽ làm vậy sao? Phải rồi. Lạy Chúa. “Cô nói Maya sẽ được đưa đến một gia đình nhận nuôi tạm thời phải không? Tôi không thể là gia đình đó luôn ư?”
Cô nhân viên xã hội mím môi rồi đáp, “Tất cả các gia đình đó đều phải trải qua quy trình nộp đơn xét duyệt, anh Fikry ạ.” “Vấn đề là... tôi biết việc này không theo quy trình, nhưng mẹ con bé có gửi lại một lời nhắn cho tôi.” Gã đưa mẩu giấy cho Jenny. “Nguyện vọng cuối cùng của cô ấy là muốn tôi chăm sóc Maya. Tôi nghĩ mình nên nuôi nó. Con bé có một mái ấm tuyệt vời ở ngay đây, tôi không muốn nó phải chuyển đến bất cứ gia đình xa lạ nào khác. Tôi đã Google chuyện đó tối qua.”
“Google,” Maya nói theo.
“Con bé có vẻ thích từ đó, tôi cũng chẳng hiểu sao.” ‘“Chuyện đó’ là chuyện gì vậy?” Jenny hỏi.
“Tôi không bắt buộc phải rời xa Maya nếu mẹ con bé muốn tôi nuôi nó,” A.J. giải thích.
“Ba ba,” Maya liền tiếp lời.
Jenny nhìn vào mắt A.J. rồi cả Maya. Cả hai đều vô cùng kiên định. Cô thở dài. Vốn nghĩ việc chiều nay sẽ rất đơn giản, nhưng giờ mọi thứ bắt đầu phức tạp rồi đây.
Jenny lại thở dài. Dẫu mới tốt nghiệp thạc sĩ ngành Xã hội học mười tám tháng trước nhưng đây đâu phải ngày đầu tiên cô làm việc. Hoặc quá lạc quan, hoặc quá ngây thơ thì cô mới muốn giúp họ. Người đàn ông này độc thân, lại sống trên một cửa tiệm. Giấy tờ rồi sẽ lằng nhằng lắm đây, cô thầm nghĩ. “Giờ thế này, anh Fikry. Hãy nói cho tôi vài điểm về trình độ học vấn, kinh nghiệm chăm sóc trẻ và cuộc sống của anh.”
“Ờm... tôi đang làm luận văn tiến sĩ về Văn học Mӻ thì bỏ ngang và mở hiệu sách này. Đề tài là Edgar Allan Poe. ‘Sӵ sụp đổ của dòng họ Usher[62]’ là một truyện khá hay về nhӳng điều không được làm với trẻ nhỏ.”
“Cũng hay đấy,” và hay ở đây tức là vô dụng. “Anh thӵc sӵ chắc chắn muốn nhận nuôi Maya chứ? Điều đó đồng nghĩa với việc cam kết bỏ ra rất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc đấy.”
“Không. Tôi không chắc lắm. Nhưng tôi nghĩ, Maya ở với tôi cũng sẽ tốt như bất kỳ ai khác. Tôi có thể vừa làm vừa trông con bé. Với lại, tôi nghĩ chúng tôi hợp nhau.”
“Yêu ba,” Maya nói.
“Con bé cứ nói vậy suốt. Tôi đã cảnh báo nó đừng có tùy tiện yêu thương mà không chắc được đáp lại, nhưng thật tình, tôi nghĩ Maya bị ảnh hưởng bởi tên Elmo xảo quyệt. Con rối đó yêu tất cả mọi người, cô biết chứ?”
“Vâng, biết rất rõ,” Jenny nói. Cô muốn khóc quá đi mất. Riêng
chuyện nhận nuôi tạm thời đã là cả núi giấy tờ chứ chưa nói đến nhận nuôi hẳn. Mỗi khi DCF cần tới thăm Maya và A.J. thì còn ai ngoài cô là người lết hai tiếng đồng hồ đến đảo Alice chứ? “Được rồi, hai người chờ tôi gọi cho cấp trên đã.” Hồi nhỏ, cô bé Jenny Bernstein, kết quả tình yêu dưới một mái ấm yên bình đến từ thành phố Medford, bang Massachusetts, luôn mê mẩn nhӳng câu chuyện về lũ trẻ mồ côi như Anne tóc đỏ dưới chái nhà xanh[63] và Công chúa nhỏ[64]. Gần đây, Jenny bắt đầu ngờ rằng, chính hệ quả của nhӳng lần đọc đi đọc lại mấy câu chuyện đó đã khiến cô gắn bó đời mình với công tác xã hội. Nhìn chung, thӵc tế thì phũ phàng hơn tiểu thuyết. Hôm qua, bạn học cũ của cô phát hiện ra một bà mẹ bỏ đói cậu con nuôi 16 tuổi khiến nó chỉ còn 19 cân. Hàng xóm ai cũng nghĩ thằng bé mới 6 tuổi. “Mình vẫn tin vào nhӳng cái kết có hậu, nhưng khó quá bạn ạ.” Cô bạn đó đã nói vậy. Jenny mỉm cười với Maya. Cô bé thật may mắn.
Giáng sinh năm đó cùng nhӳng tuần tiếp theo, đảo Alice xôn xao khi hay tin gã A.J.Fikry, chủ tiệm sách góa vợ nhận nuôi một đứa trẻ bị bỏ rơi. Quả là câu chuyện đáng bàn tán nhất trên đảo Alice kể từ sau vụ trộm cuốn Tamerlane. Thú vị thay, nhân vật chính vẫn là A.J.Fikry. Cả thị trấn vốn luôn nghĩ gã là kẻ hợm hĩnh lạnh lùng, sao người như vậy lại có thể nhận nuôi một đứa nhỏ chỉ vì nó bị bỏ rơi trong tiệm của mình được chứ? Người bán hoa kể lại chuyện bỏ quên cặp kính mát ở tiệm Hải Đảo, chưa đầy một ngày sau liền quay lại tìm mà thằng cha A.J. đó đã kịp quăng đi mất tiêu rồi. “Gã nói tiệm gã không có chỗ chứa đồ thất lạc. Tội nghiệp cặp kính Rayban vintage xinh đẹp của tôi!” Người bán hoa nói. “Đồ vật gã
còn làm thế, người thì gã sẽ đối xử thế nào đây?” Hơn nӳa, sau chừng đó năm, đã nhiều lần A.J. được kêu gọi tham gia các hoạt động của thị trấn như bảo trợ cho đội bóng, ủng hộ hoạt động bán bánh ngọt gây quӻ vì cộng đồng, mua trang quảng cáo trong cuốn kӹ yếu trung học... Lần nào gã cũng chối phắt với thái độ chẳng hay ho gì. Họ chỉ có thể kết luận rằng việc mất cuốn Tamerlane đã khiến gã chín chắn hơn một chút.
Nhӳng bà mẹ trên đảo Alice lo rằng đứa bé sẽ bị bỏ bê. Một tay độc thân thì biết gì về chăm bẵm trẻ con chứ? Vì lý do đó, họ thường tranh thủ ghé qua tiệm sách để cho gã vài lời khuyên và mấy món quà nhỏ như đồ dùng cho trẻ, quần áo, chăn màn và cả đồ chơi nӳa. Thấy Maya luôn sạch sẽ, vui vẻ và ngoan ngoãn, các bà mẹ rất kinh ngạc. Rời cửa tiệm xong, họ mới lại bàn tán về hoàn cảnh đáng thương của bé.
Về phần mình, A.J. chẳng ngại nhӳng cuộc viếng thăm này. Gã bỏ qua hầu hết mấy lời khuyên. Quà cáp thì gã nhận, dù không phải thứ gì cũng dùng đến và gã luôn phải tẩy trùng một lượt. Gã biết mấy chuyện họ bàn tán sau lưng, nhưng không muốn quan tâm. Gã cũng đặt một lọ Purell[65] trên bàn thanh toán, cạnh tờ chú thích XIN RỬA TAY TRƯỚC KHI BẾ BÉ. Thành thӵc mà nói, các bà mẹ cũng hiểu rõ vài thứ mà gã không hề biết, chẳng hạn như dạy đi bô (dùng đồ chơi dụ), chuyện mọc răng (xài đá là xong) và tiêm vắc xin (bỏ tiêm phòng thủy đậu cũng được). Hóa ra, Google có nhiều thông tin về cách nuôi dạy trẻ thật đấy, nhưng than ôi, lại chẳng đủ sâu.
Rất nhiều người tới thăm Maya, nhân tiện mua cả sách và tạp chí. A.J. bắt đầu đặt nhӳng cuốn sách mà gã nghĩ họ sẽ thích. Gần
đây, xu hướng là truyện đương đại về kiểu phụ nӳ thừa năng lӵc vướng vào nhӳng cuộc hôn nhân rắc rối, họ thích thú nếu cô ả ngoại tình dù bản thân sẽ không làm thế (hoặc không thừa nhận đang làm thế). Niềm vui của họ là đánh giá ả nӳ chính kia. Chủ đề mẹ bỏ con thì không bán chạy lắm, nhưng chuyện mấy ông chồng gặp tai nạn khủng khiếp thường được đón nhận nồng nhiệt (thêm điểm cộng nếu ông ta chết và người vợ tìm được tình yêu mới). Sách của Maeve Binchy[66] khá đắt hàng, cho đến khi bà Margene, vốn là giám đốc một ngân hàng đầu tư, phàn nàn rằng nhӳng tác phẩm ấy quá rập khuôn. “Một cô nàng trẻ măng lấy anh chồng điển trai nhưng tệ bạc trên hòn đảo Ireland nhỏ bé. Liệu tôi có thể đọc đi đọc lại mô tip cũ rích ấy bao nhiêu lần chứ?” A.J. cố gắng lắng nghe nốt. “Nếu tính lập nhóm đọc sách thì chúng ta phải có thêm vài thể loại nӳa,” bà Margene nói.
“Đây là một nhóm đọc sách sao?” Gã hỏi.
“Không phải hả? Anh không nghĩ mấy lời khuyên nuôi dạy trẻ là miễn phí đấy chứ?”
Tháng Tư có Người vợ Paris[67], tháng Sáu có Cô vợ đáng tin[68], tháng Tám có Cô vợ Mỹ[69], tháng Chín có Vợ người du hành thời gian[70], đến tháng Mười hai thì gã hết sạch mấy quyển có nhan đề về vợ, thế là mọi người đành đọc Bel Canto[71].
“Anh mở rộng mảng truyện tranh thì có hại gì đâu chứ,” Penelope, người phụ nӳ trông lúc nào cũng uể oải gợi ý. “Lũ trẻ cần có thứ gì đó để đọc ở đây mà.” Các bà mẹ vẫn thường dẫn con theo cùng để chơi với Maya nên điều đó khá hợp lý, chưa kể đến việc A.J. đã chán ngấy việc đọc đi đọc lại Lũ quỷ ở cuối quyển sách
này[72] rồi, nên gã quyết định phải trở thành chuyên gia thể loại sách tranh, dẫu trước đó chẳng hề có chút hứng thú nào. Gã muốn Maya đọc sách tranh văn học (nếu thứ đó có tồn tại), thể loại hiện đại càng tốt, chủ đề nӳ quyền thì càng tuyệt vời hơn. Nói không với công chúa hoàng tử. Và ngạc nhiên thay, hóa ra chúng tồn tại thật. Gã đặc biệt thích Amy Krouse Rosenthal, Emily Jenkins, Peter Sis và Lane Smith[73]. Một tối, gã nhận ra mình đang lảm nhảm với Maya, “Thật sӵ là, sách tranh cũng có nhӳng điểm tuyệt vời tương tӵ như điều ta luôn đánh giá cao ở truyện ngắn. Con hiểu ý ta chứ, Maya?”
Maya nghiêm túc gật đầu và lật giở trang sách.
“Tài năng của nhӳng người này thӵc đáng kinh ngạc,” A.J. nói. “Ta chẳng lý giải nổi.”
Maya vỗ vỗ lên cuốn sách. Họ đang đọc Hạt đậu nhỏ[74], câu chuyện về một hạt đậu phải ăn hết kẹo rồi mới được tráng miệng bằng rau.
“Đó gọi là châm biếm, Maya ạ.”
“Châm,” con bé vừa nói, vừa làm động tác chọc chọc. “Châm biếm,” gã nhắc lại.
Maya ngước mắt nhìn gã. Thôi được rồi, một ngày nào đó, gã sẽ dạy cho con bé về châm biếm.
Cảnh sát trưởng Lambiase thường lấy cớ mua sách và tới thăm cửa hàng. Để không lãng phí tiền, anh thӵc sӵ cũng đọc nhӳng cuốn sách đó. Ban đầu, anh chỉ mua sách bỏ túi của Jeffery Deaver và James Patterson (hay là ai đó viết tặng James Patterson nhỉ?),
rồi A.J. gợi ý cho anh sách bìa mềm của Jo Nesbo và Elmore Leonard. Lambiase ngay lập tức thích thú với cả hai nên A.J. tiếp tục giới thiệu Walter Mosley rồi đến Cormac McCarthy[75]. Cuốn gần đây nhất là Case Histories của Kate Atkinson.
Bước vào tiệm một cái là Lambiase lập tức hớn hở tuôn một tràng về cuốn sách. “Cứ tưởng tôi chẳng nuốt nổi sách nӳa cơ, giờ lại nghiện mất tiêu rồi.” Anh tӵa vào quầy thanh toán và nói tiếp, “Bởi vì, anh biết đấy, đó là trinh thám. Có điều tình tiết hơi chậm và phần lớn chưa có lời giải đáp. Nhưng rồi tôi nghĩ, cuộc đời là thế, bản chất công việc vốn như vậy.”
“Có tập tiếp theo rồi đấy,” A.J. thông báo.
Lambiase gật gù, “Chưa chắc tôi đã đọc ngay được. Thỉnh thoảng, tôi cũng muốn chính nghĩa sẽ chiến thắng, kẻ ác phải đền tội, người tốt được hạnh phúc, kiểu kiểu vậy. Một cuốn khác của Elmore Leonard chẳng hạn. Này A.J., tôi đang nghĩ, hay anh với tôi thành lập câu lạc bộ sách cho cán bộ thi hành pháp luật nhỉ. Mấy tay cảnh sát khác có thể cũng thích đọc thể loại này, tôi là sếp, sẽ bắt tất cả mua sách ở đây luôn. Không chỉ cảnh sát đâu, có thể lôi cả mấy tay say mê súng ống vào nӳa.” Lambiase lấy chút nước Purell ra tay rồi cúi xuống bế Maya.
“Này, bé xinh. Cháu thế nào rồi?”
“Được nhận nuôi,” con bé đáp.
“Ái chà, tin quan trọng đấy.” Lambiase quay sang A.J. “Này, có đi đường tắt không vậy? Được thật hả?”
Quá trình nhận nuôi tốn khá nhiều thời gian, mới kết thúc vào tháng Chín, ngay trước sinh nhật ba tuổi của Maya. Điểm bất lợi lớn
nhất là A.J. không có bằng lái xe (và gã sẽ chẳng bao giờ có nổi vì mấy cơn thần kinh bất chợt), đương nhiên cộng thêm việc gã độc thân lại chưa từng có con, chưa từng chăm sóc vật nuôi hay cây cảnh. May mà cuối cùng, trình độ học vấn của A.J., nhӳng đóng góp cho cộng đồng (tức mở tiệm sách) và việc mẹ Maya muốn gã nuôi bé đã giúp được gã.
“Hoan hô!” Lambiase nói, tung Maya lên, đỡ lấy con bé rồi đặt nó xuống sàn. Anh vươn người qua quầy thanh toán và bắt tay A.J. “ Này, tôi phải ôm anh mới được. Quà là một tin đáng ăn mừng đây.” Viên cảnh sát bước ra sau quầy ôm lấy gã.
“Uống một ly nhé,” A.J. nói.
Gã bế Maya lên và cùng Lambiase đi lên tầng. Gã đặt nó xuống nệm nhưng mãi mới ra được (vì phải cho con bé đi vệ sinh, đọc hết hai cuốn sách tranh nӳa). Lambiase thì đã mở sẵn rượu.
“Anh sẽ làm lễ rửa tội cho con bé chứ?” Viên cảnh sát hỏi. “Tôi chẳng theo đạo Cơ đốc hay tôn giáo nào cả nên chắc không đâu,” A.J. đáp.
Lambiase ngần ngừ rồi hớp thêm một ngụm rượu. “Chẳng sao cả, nhưng tôi nghĩ chí ít anh nên tổ chức một bӳa tiệc để giới thiệu con bé với mọi người. Giờ nó là Maya Fikry nhỉ?”
Gã gật đầu.
“Mọi người nên được biết chuyện này. Anh cũng cần đặt tên đệm cho con bé nӳa. Còn tôi sẽ là cha đỡ đầu của nó,” Lambiase nói. “Nhận anh thì được gì?”
“Xem nào, tới lúc con bé 12 tuổi và bị bắt vì ăn trộm tại CVS[76]
thì tôi có thể can thiệp giúp đỡ đấy.”
“Maya sẽ không đời nào làm thế.”
“Cha mẹ nào chẳng nghĩ vậy,” Lambiase nói. “Về cơ bản, A.J. ạ, tôi sẽ là người dӵ phòng cho anh. Ai chẳng cần dӵ phòng chứ.” Anh uống cạn ly rượu. “Tôi sẽ giúp anh tổ chức tiệc.”
“Tiệc của người không theo đạo thì làm kiểu gì đây?” Gã hỏi. “Chẳng sao đâu. Cứ tổ chức ngay ở tiệm. Sắm cho Maya bộ váy mới ở Filene’s Basement. Tôi cá là Ismay có thể giúp việc này. Qua Costco mua đồ ăn, mấy cái bánh muffin cỡ bӵ chẳng hạn? Em gái tôi nói một miếng cũng chứa cả đống calo. Thêm vài thứ đồ đông lạnh nӳa. Món gì ngon ngon ấy. Tôm chiên dừa hay phô mai Stilton. Vì không phải Công giáo...”
“Và cũng không phản Công giáo nhé.” Gã ngắt lời.
“Ờ ờ, ý tôi là anh có thể mua thêm ít rượu. Ta sẽ mời họ hàng bên vợ của anh, mấy bà anh hay nói chuyện, cả nhӳng người quan tâm đến bé Maya nӳa. Tức là tất cả mọi người quanh đây ấy. Nếu anh cho phép, tôi sẽ nhân danh cha đỡ đầu đứng lên nói đôi lời. Không phải cầu nguyện, tôi biết anh chẳng thích thú gì, chỉ là mấy lời chúc tốt lành cho con bé thôi. Sau cùng, anh cảm ơn mọi người đã đến, cùng nâng cốc vì Maya. Mọi người vui vẻ dắt tay nhau về nhà.”
“Vậy, về cơ bản là như tiệc sách.”
“Ờ, đúng vậy.” Mà Lambiase đã tham gia buổi tiệc sách nào đâu. “Tôi ghét tiệc sách,” gã cau có.
“Nhưng anh lại quản lý tiệm sách này,” Lambiase nói.
“Vậy mới khó hiểu,” A.J. thừa nhận.
Bӳa tiệc không theo đạo của Maya được tổ chức một tuần trước Halloween. Cảnh sát trưởng Lambiase đã mô tả, ngoại trừ mấy đứa trẻ tham gia mặc đồ hóa trang Halloween thì chẳng thể phân biệt nổi đây là lễ rửa tội của Cơ đốc giáo hay tiệc sách nӳa. A.J. nhìn Maya trong bộ váy hồng và cảm thấy thứ gì đó như tình thân đang dần nảy nở. Gã muốn phá lên cười hay đấm thùm thụp vào tường. Gã thấy mình say khướt hay ít nhất đầu óc cũng quay cuồng. Thật điên rồ. Đầu tiên, gã tưởng đó là hạnh phúc, nhưng rồi gã hiểu đó là tình yêu. Thứ tình yêu chết tiệt, gã nghĩ. Thật phiền phức. Nó dám chen vào kế hoạch uống say đến chết và ngăn cản dӵ định phá hủy việc kinh doanh của gã. Khốn kiếp ở chỗ, khi đã quan tâm đến một thứ gì đó, gã sẽ bắt đầu quan tâm đến mọi thứ xung quanh.
Không, bӵc mình nhất là gã thậm chí còn dần thích Elmo. Nhӳng chiếc đĩa giấy hình Elmo đӵng món tôm chiên dừa trên bàn gập. Ở khu vӵc Sách bán chạy nhất, Lambiase đang hùng hồn phát biểu mấy lời khách sáo mà thӵc ra rất chân thành về chuyện A.J. đã pha ly nước chanh từ trái chanh như thế nào[77], rồi Maya là cầu vồng sau mưa ra sao, một cánh cửa đóng lại, cánh cửa mới sẽ mở ra... Anh chàng mỉm cười với gã, gã nâng ly đáp lại. Và rồi, dẫu không tin vào Chúa, gã vẫn nhắm mắt lại, thầm cảm ơn bất cứ ai, bất cứ đấng tối cao nào đó, bằng cả trái tim mình.
Chị Ismay, mẹ đỡ đầu của bé, bấu chặt tay gã và nói, “Xin lỗi nhé, chị phải về sớm rồi, chị thấy không khỏe lắm.”
“Vì mấy lời của tay Lambiase à?” A.J. hỏi.
“Có thể là cảm lạnh, chị về trước đây.”
Gã gật đầu, “Có gì thì gọi em nhé.”
Rồi Daniel mới là người gọi tới.
“Ismay vào viện rồi,” hắn thẳng thừng nói. “Lại sẩy thai.” Hai lần vào năm ngoái, vậy cả thảy là năm lần. “Chị ấy thế nào?” Gã hỏi.
“Mất máu và mệt mỏi. Nhưng cô ấy vẫn luôn mạnh mẽ.” “Chị ấy là vậy mà.”
“Tệ thật đấy. Nhưng mà, tôi phải bắt chuyến bay sớm nhất đến Los Angeles. Mấy tay làm phim cứ réo suốt.” Họ thường xôn xao trước nhӳng câu chuyện của Daniel, dù không ai cuồng nhiệt thӵc sӵ cả. “Chú qua bệnh viện xem cô ấy thế nào nhé, chăm sóc đến lúc cô ấy xuất viện giúp tôi.”
Lambiase lái xe chở A.J. và Maya đến bệnh viện. A.J. để Maya lại trong phòng chờ với Lambiase rồi vào thăm Ismay. “Tại chị cả,” nhìn thấy gã, chị nói ngay. Mắt chị đỏ hoe, làn da tái nhợt.
“Tại gì chứ, chị Ismay?”
“Chị đáng bị thế lắm.”
“Không, chị đừng nói thế.”
“Daniel là một gã tồi, bắt chú phải tới đây.”
“Em rất vui mà.”
“Anh ta lừa dối chị. Chú biết chứ? Lừa dối chị suốt chừng đó năm.”
A.J. không đáp, nhưng gã có biết. Chuyện Daniel gái gú lăng nhăng không phải là bí mật.
“Đương nhiên chú biết rồi,” giọng Ismay khàn khàn. “Ai cũng biết hết.”
Gã chẳng nói gì.
“Chú biết mà không nói. Chị đoán là luật ngầm của cánh đàn ông.”
A.J. nhìn chị, nhìn đôi vai gầy gầy xương xương dưới lớp áo bệnh viện. Bụng chị vẫn hơi tròn.
“Chắc giờ chú đang nghĩ, nom chị thật tàn tạ.”
“Không, em thấy chị đang nuôi tóc dài. Trông hợp lắm.” “Chú thật tử tế,” Ismay ngồi dậy và cố hôn vào môi gã. A.J. vội quay đi, “Bác sĩ nói chị có thể xuất viện luôn nếu muốn.” “Chị từng nghĩ em mình thật ngốc khi cưới chú, nhưng hóa ra
không phải. Cách chú chăm Maya, rồi xuất hiện vào lúc này. Chú có mặt ở đây thôi đã là điều đáng quý, A.J. ạ.”
Chị nói và quay lưng về phía gã.
“Chị nghĩ tốt hơn nên ở lại viện qua đêm nay đã. Về nhà cũng chẳng có ai, mà chị thì không muốn ở một mình. Điều chị nói ban nãy là thật đấy. Nic là cô gái tốt. Còn chị thì tồi. Chị cũng cưới phải một kẻ tồi. Nồi nào úp vung nấy, chị biết chứ, nhưng than ôi, chị ghét đơn độc biết mấy.”
[78]
Thế giới là thế đó
1985 – Richard Bausch[79]
Một cô bé mũm mĩm sống cùng ông ngoại, chăm chỉ luyện tập cho buổi diễn thể dục dụng cụ ở trường tiểu học.
Con sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chăm chú đọc từng dòng để xem cô gái nhỏ có vượt qua được bài nhảy ngựa hay không. Bausch có tài biến những tình tiết đơn giản thành nút thắt đầy tinh tế (đương nhiên đó chính là mấu chốt của vấn đề), và điều ấy làm trái tim con thổn thức. Một buổi diễn nhảy ngựa cũng có thể gay cấn như vụ nổ máy bay.
Đến lúc làm cha, ta mới có dịp đọc cuốn sách này, nên cũng không dám chắc liệu mình có thích nó ở thời điểm T.M. (trước Maya) được không. Càng ngày, ta càng mê mẩn những câu chuyện ngắn. Một phần đời ta lại gắn liền với tuổi thơ con. Còn thời gian nào dành cho tiểu thuyết nữa đây, con gái?
A.J.F.
Maya thường thức dậy trước cả bình minh, thời điểm mà âm thanh duy nhất chỉ là tiếng ba A.J. đang ngáy từ phòng bên cạnh. Trong bộ đồ ngủ chấm bi, con bé đi qua phòng chính rồi đến bên giường ba. Đầu tiên, Maya khẽ thì thầm, “Ba, ba.” Nếu không được, nó liền gọi tên ba, không được nӳa thì bắt đầu hét lên. Nếu A.J. vẫn chưa chịu dậy, Maya sẽ nhảy loi choi trên giường, dẫu nó cũng
không khoái mấy trò tai quái ấy. Hôm nay, con bé mới chạm đến nấc thứ hai thì ba đã tỉnh giấc. “Dậy thôi,” nó nói. “Tầng dưới.” Maya thích nhất nơi đó, vì tầng dưới là tiệm sách và tiệm sách là nơi tuyệt nhất thế gian.
“Quần,” A.J. lẩm bẩm. “Cà phê.” Hơi thở A.J. Có mùi như tất ẩm vì dính tuyết.
Phải bước nhӳng mười sáu bậc thang mới xuống tới cửa tiệm. Maya trượt mông theo từng bậc vì chân nó còn quá ngắn để tӵ tin chạy xuống như bay. Con bé chập chӳng dạo quanh tiệm, đi qua nhӳng cuốn sách không có tranh, qua cả gian thiệp chúc mừng, lướt tay trên đống tạp chí, xoay vòng giá đӵng kẹp sách. Chào buổi sáng, tạp chí! Buổi sáng tốt lành nhé, kẹp sách! Sách ơi, chào cậu! Cửa hàng à, ngày mới tốt lành.
Tường tiệm sách được ốp nhӳng ván gỗ chỉ cao quá đầu Maya một tẹo, phía trên là giấy dán xanh dương. Maya không thể với tới đó trừ phi dùng ghế. Giấy dán tường có nhӳng họa tiết in nổi hình lượn sóng mà con bé rất thích cọ má vào. Rồi ngày nào đó, nó sẽ đọc được từ hoa văn trong một cuốn sách và chợt nghĩ, A, thì ra chúng được gọi như vậy. Ngược lại, từ ván lát chân tường hẳn sẽ đến cùng nỗi thất vọng tràn trề.
Hiệu sách rộng bằng mười lăm Maya và dài hai mươi Maya. Con bé biết vì nó đã dành cả một buổi chiều lăn qua lăn lại trên sàn để đo đạc. May mà tiệm không dài quá ba mươi Maya, vì con bé mới học đếm đến đó thôi.
Trong mắt Maya, mọi người đều là nhӳng đôi giày, xăng đan cho mùa hè và bốt vào mùa đông. Đôi khi, chị Molly Klock đi bốt đế
xuồng đỏ rӵc cao tới tận đầu gối. Ba A.J. mang giày thể thao đen hoặc giày chạy bộ. Ba Lambiase đi giày da màu đen. Mẹ Ismay là giày búp bê rӵc rỡ. Còn bác Daniel Parish thì mang giày lười màu nâu với một đồng xu đính phía trên.
Ngay trước khi tiệm Hải Đảo mở cửa vào lúc 10 giờ sáng, con bé đã yên vị bên hàng sách tranh thân thuộc.
Đầu tiên, Maya sẽ tới gần và ngửi mùi của sách. Nó mở truyện ra rồi úp cả lên mặt. Chúng giống mùi xà bông của ba, mùi cỏ, mùi biển, mùi bàn ăn và cả mùi phô mai nӳa.
Maya nhìn vào tranh và cố đoán nội dung câu chuyện. Việc này khá mệt mỏi, nhưng dầu mới có 3 tuổi, cô bé đã tӵ hiểu được vài ý nghĩa tượng trưng. Ví dụ, trong sách, động vật không phải lúc nào cũng chỉ là động vật. Đôi khi, chúng đại diện cho ba mẹ và con cái. Con gấu mang cà vạt có thể là ba, con gấu mang tóc giả màu vàng là mẹ. Chỉ dӵa vào tranh thôi thì có thể kể rất nhiều câu chuyện, nhưng thi thoảng sẽ lạc đề. Maya muốn hiểu được cả chӳ nӳa cơ.
Nếu không bị quấy rầy, cô bé có thể xem xong bảy quyển sách trong một buổi sáng. Tuy nhiên, ngày nào cũng có thứ cắt ngang. Maya quý khách hàng và cố gắng lịch sӵ với họ. Nó hiểu công việc hai cha con đang làm. Nếu lũ trẻ đến quầy sách tranh, con bé sẽ nhét một quyển vào tay chúng, để chúng mang ra quầy thanh toán. Cha mẹ chúng chắc chắn sẽ mua và hỏi, “Ôi con yêu, con tӵ chọn đấy à?”
Một lần, ai đó đã hỏi ba A.J. rằng Maya có phải con của ba không. “Da hai người đều đen, nhưng sắc đen không giống nhau.” Maya nhớ mãi vì ba A.J. đã đáp lại với chất giọng chưa từng nói với
khách hàng.
“Đen giống nhau là cái quái gì?” Ba cáu kỉnh.
“Không không, tôi không có ý xúc phạm gì đâu,” người ấy vội vàng quay ra cửa dù chưa kịp mua gì.
“Đen giống nhau” là gì nhỉ? Maya nhìn đôi bàn tay và băn khoăn tӵ hỏi.
Có rất nhiều thứ con bé còn chưa hiểu.
Học đọc thế nào?
Sao người lớn lại thích đọc sách không có hình?
Ba có bị chết không?
Trưa nay ăn gì?
Khoảng 1 giờ chiều, cả hai sẽ cùng ăn bӳa trưa mua ở tiệm sandwich. Maya ăn bánh kẹp phô mai nướng còn A.J. chọn vị gà tây. Con bé thích tới đây nhưng luôn nắm tay A.J. rất chặt. Nó không muốn bị bỏ lại ở tiệm sandwich chút nào.
Đến chiều, Maya sẽ ngồi vẽ bình luận cho sách. Một quả táo nghĩa là cuốn sách có mùi dễ chịu. Miếng phô mai chứng tỏ sách hay. Hình người đồng nghĩa cô bé thích tranh trong sách. Maya sẽ kí MAYA vào rồi chuyển qua cho A.J. thẩm định.
Cô bé thích viết tên mình.
MAYA.
Nó biết họ của mình là Fikry nhưng chưa biết viết thế nào. Thỉnh thoảng, sau khi khách hàng và nhân viên về hết, Maya lại nghĩ cả thế giới chỉ còn mỗi hai người. Không ai “thật” như ba. Họ đơn thuần là nhӳng đôi giày thay đổi theo mùa. A.J. có thể chạm
vào giấy dán tường mà không cần ghế, vừa tính tiền vừa trả lời điện thoại, nhấc mấy thùng sách nặng qua đầu, nói nhӳng từ rất dài, biết tất cả mọi thứ về mọi thứ. Ai có thể so sánh với A.J.Fikry được chứ?
Maya gần như không nhớ về mẹ nӳa.
Nó biết rằng mẹ đã mất. Nó cũng biết, mất nghĩa là đi ngủ và không bao giờ thức dậy. Maya thương mẹ vì một người không thức dậy thì đâu thể xuống tầng dưới, nơi có tiệm sách vào mỗi sớm mai được nӳa.
Maya biết mẹ đã bỏ nó lại tiệm sách Hải Đảo. Nhưng biết đâu đứa trẻ nào đến tuổi đó cũng bị bỏ rơi? Một số ở tiệm giày, một số ở tiệm đồ chơi, một số lại ở tiệm bánh sandwich, và cả đời chúng phụ thuộc vào nơi ấy. Cô bé chẳng muốn sống ở tiệm bánh sandwich chút nào.
Sau này lớn lên, cô bé sẽ nghĩ thêm về mẹ vậy.
Đến tối, A.J. đổi giày và đặt Maya vào xe đẩy. Xe hơi chật nhưng nó thích đi dạo nên gắng không phàn nàn. Maya thích nghe tiếng ba thở, thích nhìn cảnh vật xung quanh thay đổi thật nhanh. Đôi khi, ba sẽ hát, và đôi khi, ba kể chuyện. Ba kể đã có được cuốn Tamerlane như thế nào, và nó có giá trị bằng tất cả số sách trong cửa hàng cộng lại.
Tamerlane, cô bé nói, nghe thật bí ẩn và rất nhịp nhàng. “Và đó là tên đệm của con đấy.”
Cuối ngày, A.J. dỗ Maya đi ngủ. Dẫu có mệt đến đâu, con bé cũng không muốn ngủ chút nào. Cách tốt nhất là kể cho cô bé một câu chuyện. “Truyện gì bây giờ nhỉ?”
Ba thường cau có mỗi khi Maya muốn nghe Lũ quỷ ở cuối quyển sách này nên cô bé đành phải chiều lòng ba và nói “Bán mũ nồi[80] đi ba.”
Maya từng nghe truyện đó rồi nhưng không hiểu lắm. Chuyện kể về một người đàn ông bán nhӳng chiếc mũ đủ sắc màu. Ông ngủ quên và bị lũ khỉ lấy trộm hết số mũ. Maya hy vọng điều đó sẽ không xảy ra với A.J.
Maya nhíu mày, ôm chặt lấy cánh tay ba.
“Sao thế con gái?”
Sao lũ khỉ lại cần mũ nhỉ? Maya băn khoăn. Khỉ là động vật mà. Có thể tụi nó cũng giống như mẹ gấu mang tóc giả, đóng vai gì đó, nhưng vai gì mới được chứ...? Maya ngẫm nghĩ nhưng không nói với ba.
“Đọc ạ,” cô bé đáp.
Thi thoảng lại có một cô tới hiệu sách để đọc truyện cho Maya và lũ trẻ nghe. Cô ấy vừa kể vừa khoa chân múa tay, lên bổng xuống trầm minh họa. Maya chỉ muốn bảo cô hãy thư giãn. Nó quen với cách đọc của A.J. hơn, nhẹ nhàng và chậm rãi. Nó quen với ba rồi.
A.J. đọc tiếp, “... trên cùng là một chồng mũ đỏ.”
Trong tranh là một người đàn ông đội rất nhiều mũ đủ sắc màu. Maya đặt tay lên tay A.J., ngăn ba giở sang trang khác. Nó liếc bức tranh, nhìn dòng chӳ, rồi lại liếc bức tranh. Ngay lúc ấy, cô bé biết thế nào là màu đỏ, như thể biết tên mình là Maya, biết A.J.Fikry là ba và biết tiệm sách Hải Đảo là nơi tuyệt nhất trên đời. “Sao vậy con?” A.J. hỏi.
“Đỏ,” Maya nói và cầm tay ba, chỉ đúng vào dòng chӳ đó.
Thật khó để kiếm được một anh chàng tử tế[81] 1953 – Flannery O’Connor[82]
Chuyến du lịch của gia đình trở thành thảm họa. Cô Amy rất thích cuốn này. (Nhìn cô ấy hiền lành thế cơ mà nhỉ?) Amy và ta không thường chung sở thích, nhưng cuốn này là ngoại lệ.
Khi Amy nói đó là cuốn sách cô yêu thích, ta chợt nhận ra những điểm mới mẻ và thú vị trong tính cách của cô, một góc tối nơi sâu thẳm trái tim mà có lẽ ta rất mong được tìm hiểu.
Người ta vẫn luôn buông lời dối trá về chính trị, Chúa và tình yêu. Con có thể biết mọi điều cần biết về một người chỉ với câu hỏi nhỏ: Cuốn sách yêu thích của anh là gì?
A.J.F.
Vào tuần thứ hai của tháng Tám, ngay trước khi Maya bắt đầu đi nhà trẻ, nó được tặng một bộ cốc (tròn tròn, viền đỏ) và bị mắc thủy đậu (cũng tròn tròn, đỏ nốt). A.J. nguyền rủa bà mẹ nào đã bảo gã rằng vắc xin thủy đậu chẳng cần tiêm cũng được. Thủy đậu là thứ đậu mùa gớm ghiếc chết tiệt. Maya thật khổ sở, và gã cũng thấy khổ sở vì Maya khổ sở. Nhӳng vết đỏ quái ác mọc đầy mặt con bé, lại thêm điều hòa hỏng nên chẳng ai ngủ nổi. A.J. lấy khăn lạnh cho Maya, bóc vỏ quýt, đi tất vào tay và ngồi trông nó cả đêm.
Đến ngày thứ ba, khi Maya đã ngủ, A.J. thì mệt lử nhưng lại không ngủ nổi. Gã kêu nhân viên mang hai tập bản thảo dưới hầm
lên. Không may, cô nàng mới vào làm nên đã lấy nhầm từ chồng SÁCH LOẠI thay vì chồng CHƯA ĐỌC. A.J. không muốn rời mắt khỏi Maya nên quyết định đọc một bản thảo cũ đã bị loại. Đập vào mắt gã là một tiểu thuyết viễn tưởng dành cho độc giả trẻ mà nhân vật chính đã chết. Chậc, gã nghĩ. Đúng hai thứ gã ghét nhất (truyện về cõi âm và tiểu thuyết cho độc giả trẻ) trong một cuốn sách. Gã vứt mớ giấy lộn đó qua một bên. Quyển thứ hai là hồi kí của một ông lão 80 tuổi, viết bài cho rất nhiều tờ báo ở Trung Tây Hoa Kỳ và độc thân mãi đến năm 78 tuổi. Người vợ mất hai năm sau khi cưới ở tuổi 83. Đóa hoa nở muộn của Leon Friedman. Nhìn quen quen mà A.J. không nhớ ra nổi. Gã mở bản thảo và một danh thiếp rơi ra: AMELIA LOMAN, Nhà xuất bản Dӵc Long. À, giờ gã nhớ ra rồi.
Đương nhiên, gã vẫn giӳ liên lạc với Amelia Loman suốt nhiều năm sau buổi gặp gỡ đầu tiên tệ hại kia. Họ trao đổi cả đống email và một năm ba lần, cô lại tới đảo để giới thiệu nhӳng đầu sách nổi nhất của Dӵc Long. Sau chừng mười buổi chiều gặp gỡ, gần đây gã đã đi tới kết luận, cô nàng làm việc cũng không tồi. Cô hiểu về các đầu sách của mình và cả các xu hướng văn học lớn, luôn lạc quan nhưng không quá lố. Cô cũng đối xử tốt với Maya, thường xuyên mang sách thiếu nhi bên Dӵc Long tặng cho con bé và chưa nặng lời với nó bao giờ. Trên tất cả, Amelia Loman rất chuyên nghiệp, không hề để bụng tới thái độ thô lỗ của A.J. trong buổi gặp đầu tiên. Chúa ơi, hôm đó gã thật tệ. Gã quyết định cho Đóa hoa nở muộn một cơ hội để thay lời xin lỗi, dẫu gã chẳng hứng thú lắm với thể loại này.
“Tôi 81 tuổi, và theo thống kê thì tôi nên chết từ 4,7 năm trước rồi
"""