" Sa Mạc - J. M. G. Le Clézio full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sa Mạc - J. M. G. Le Clézio full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Sa Mạc (Jean-Marie Gustave Le Clézio) Tiểu Thuyết Huỳnh Phan Anh dịch Nhã Nam & Nhà xuất bản văn học Mục lục Bìa ngoài Bìa trong Bản quyền Bìa cuối Lời người làm sách (ebook) Saguiet el Hamra, mùa đông 1909 - 1910 Hạnh phúc Cuộc sống của những người nô lệ Tặng Tristesse. Bìa ngoài Tác giả của những khởi hành mới, những chuyến phiêu lưu đày thi vị và sự ngất ngây nhục cảm, người đã khám phá ra tính nhân văn vượt ngoài và ẩn sâu dưới nền văn minh đang ngự trị. (Tuyên dương của Viện Hàn Lâm Thụy Điển) Bìa trong Jean-Marie Gustave Le Clézio sinh ngày 13 tháng 4 năm 1940 tại Nice; ông xuất thân trong một gia đình gốc Bretagne đã di cư đến đảo Maurice từ thế kỷ XVIII. Được mệnh danh là Nhà văn du mục, J.M.G. Le Clézio chưa bao giờ ngừng viết từ tuổi lên bảy lên tám, nhưng không tác phẩm nào trong số đó được công bố trước Le procès verbal (tạm dịch: Biên bản), cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông xuất bản vào tháng chín năm 1963 và đoạt giải Renaudot. Đến nay, ông đã cho ra mắt khoảng ba mươi tác phẩm. Năm 1980, ông vinh dự nhận Giải thưởng lớn Paul Morand do Viện hàn lâm Pháp trao tặng cho tác phẩm Sa Mạc. Jean-Marie Gustave Le Clézio cũng là cái tên được vinh danh tại giải Nobel Văn Chương 2008. Bản quyền Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: DÉSERT của J.M.G. Le Clézio © Editions Gallimard, 1980 Xuất bản theo hợp đồng nhượng quyền giữa NXB Gallimard và Nhã Nam, 2009. Bản quyền bản tiếng Việt © Công ty văn hóa & Truyền thông Nhã Nam, 2009. Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ. Mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phân phối dưới dạng in ấn hoặc văn bản điện tử, đặc biệt là phát tán trên mạng internet mà không có sự cho phép bằng văn bản của Nhà xuất bản là vi phạm pháp luật và làm tổn hại đến quyền lợi của Nhà xuất bản và tác giả. Không ủng hộ, khuyến khích những hành vi vi phạm bản quyền. Chỉ mua bán bản in hợp pháp. Bìa cuối Sa mạc Sahara, quê hương của những “đàn ông xanh”, những năm đầu thế kỷ XX: hoang sơ, kỳ bí, đầy hiểm nguy với những con người sinh ra trong cát. Cậu bé Nour đã chứng kiến cơn khốn khó của bộ lạc mình trên mảnh đất khô cằn và trưởng thành từ đó. Cô bé Lalla trải qua bao thăng trầm trong cuộc đời cũng không thể nguôi được niềm đam mê hướng về sa mạc cội rễ và những truyền thuyết về các vị tổ tiên chiến binh sa mạc. Hai mảnh đời tượng trưng cho hai thế hệ của sa mạc. Tồn tại song song rồi gặp gỡ, hòa quyện trong một hình ảnh sa mạc hoang dại, huyền bí và mê đắm. Lời người làm sách (ebook) Sử dụng bút pháp Hiện tượng luận (Phénomenologique) điển hình, khiến người đọc được “nhìn” thấy hiện tượng dưới nhiều góc độ khác nhau, bắt buộc người đọc phải nhìn một cảnh dưới những ống kính khác nhau, và mỗi khi đổi vị trí, người đọc lại khám phá ra một khía cạnh mới của hiện tượng, của sự vật. Trường phái Cái nhìn (L’école du regard - Hội họa) trong tiểu thuyết mới thoát thai từ Hiện tượng luận; do vậy đối với các nhà văn cổ điển, cái bàn là cái bàn, cái ghế là cái ghế, chúng chỉ có bốn chân, và tả thêm nữa thì nó làm bằng gỗ lim, gỗ gụ, nó đã cũ hay nó còn mới... nhưng nếu ở dưới mắt một nhà văn chịu ảnh hưởng Hiện tượng luận thì sẽ thấy cái bàn ấy có bao nhiêu vết nứt, mỗi vết nứt có hình thù gì và mỗi vết nẻ là dấu ấn của một cuộc ẩm thực nào, của cả một chiều dài thời gian, không gian nào v.v… Trong “Sa Mạc” của Le Clézio cũng vậy, nhà văn đặt đối tượng, tức vật thể ở trước mắt để tra khảo trí nhớ, kỷ niệm của mình, tra khảo giác quan của mình mà mô tả…lối viết của ông mô tả hiện tượng, sự vật theo kiểu hiện sinh. Khiến cho độc giả phải có cái nhìn trắc diện, đo, đạc và phải có nhiều cái nhìn trắc diện khác nhau, nhìn trước, nhìn sau, nhìn từ phía trên, nhìn từ phía dưới, tóm lại là luôn luôn đổi cái nhìn thì mới mong đi sâu vào sự hiểu biết sự vật, tìm thấy những sắc thái mới mẻ của nó, và cho đến mãi mãi, sự vật vẫn dành cho ta những bỡ ngỡ nếu ta biết thay cái nhìn để tìm hiểu nó hơn… Wanderman. Saguiet el Hamra, mùa đông 1909 - 1910 Họ xuất hiện như trong một giấc mơ nơi chóp cồn cát, lẩn khuất chập chờn trong làn sương cát từ dưới chân họ bay lên. Họ chậm chạp bước xuống thung lũng theo một lối mòn gần như không trông thấy được. Dẫn đầu đoàn người là cánh đàn ông mặc áo khoác bằng len, mặt che mạng màu lam. Cùng bước với họ có hai hay ba con lạc đà một bướu, tiếp theo là những con dê và những con cừu do lũ con trai thúc đi. Những người đàn bà khép lại đoàn người. Đó là những bóng người uể oải, cồng kềnh trong chiếc áo khoác nặng nề, và làn da nơi đôi cánh tay và trán họ trông như càng âm u hơn trong những tâm mạng màu lam sẫm. Họ chậm chạp bước trong cát, không gây tiếng động, không nhìn hướng họ đang đi tới. Gió thổi liên hồi, gió sa mạc nóng ban ngày, lạnh ban đêm. Cát lẩn trốn quanh họ, giữa những chân lạc đà, quất vào mặt những người đàn bà đang kéo thấp tấm mạng che mặt màu lam trên mắt. Mấy đứa trẻ chạy lúp xúp trong khi những em bé cuộn tròn trong lớp vải chàm trên lưng mẹ đang khóc. Lũ lạc đà lầm bầm, hắt hơi. Không ai biết mình đang đi đâu. Mặt trời hãy còn ở trên cao trong bầu trời trần trụi, gió cuốn đi những tiếng động và những mùi vị. Mồ hôi chảy chậm rãi trên khuôn mặt khách bộ hành, và làn da sẫm của họ đón nhận ánh phản chiếu của màu chàm trên má, trên cánh tay, dọc theo chân. Các hình xăm màu xanh lơ trên trán phụ nữ sáng lấp lánh như món đồ trang sức khắc hình bọ hung. Những con mắt đen, trông giống như giọt kim loại hờ hững nhìn vào khoảng cát mênh mông, tìm kiếm dấu vết con đường mòn giữa những lớp sóng của cồn cát. Không có gì khác trên mặt đất, không có gì, cũng không một ai. Họ sinh ra từ sa mạc, không một con đường nào khác có thể dẫn dắt họ. Họ không nói gì. Họ không muốn gì. Gió thổi qua người họ, xuyên qua họ, như chẳng có ai trên các cồn cát. Họ bước đi từ buổi bình minh đầu tiên, không ngừng nghỉ, cơn mệt và cơn khát vây bọc lây họ như một lớp vỏ. Môi và lưỡi cứng lại vì khô hạn. Cái đói giày vò họ. Họ nói không ra lời. Từ lâu lắm rồi họ đã trở nên câm nín như sa mạc, họ chan hòa ánh sáng khi mặt trời thiêu đốt giữa bầu trời trống hoác, và lạnh cóng về đêm với những vì sao im lìm. Họ tiếp tục chậm chạp bước xuống triền dốc tiến về vùng sâu của thung lũng, họ phải đi quanh quẹo vì cát sụt lở dưới chân họ. Không cần nhìn, cánh đàn ông vẫn chọn được nơi sẽ đặt chân tới. Như thể họ đang bước đi trên những dấu vết vô hình dẫn họ về phía đầu bên kia sự cô đơn, về phía bóng đêm. Chỉ có một người trong bọn họ mang súng, một khẩu cạc bin có bộ phận bật đá lửa, nòng dài bằng đồng đã đen sạm. Ông mang nó trên ngực, ghì chặt giữa hai cánh tay, nòng súng chĩa lên cao như cán cờ. Những người anh em của ông đi bên cạnh, phủ áo khoác, lưng hơi còng xuống về phía trước vì các bọc nặng. Dưới lớp áo khoác, y phục màu lam của họ đã tả tơi rách bươm vì gai, sờn mòn vì cát. Sau đàn thú mệt lử, Nour, con trai của người đàn ông mang súng, đang bước trước mẹ và các em gái cậu. Mặt cậu âm u, đen sạm vì nắng, nhưng đôi mắt cậu sáng rực, và cái nhìn của cậu toát ra một thứ ánh sáng gần như phi thường. Họ là những người đàn ông và những người đàn bà của cát, gió, ánh sáng và đêm. Họ xuất hiện như trong một giấc mơ trên chóp cao một cồn cát như thể họ sinh ra từ bầu trời không mây, và trong chân tay của họ có nét khắc khổ của không gian. Họ mang trong người họ cái đói, cái khát làm môi họ chảy máu, niềm im lặng khắc nghiệt lấp lánh ánh mặt trời, những đêm lạnh buốt, ánh sáng của dải ngân hà, mặt trăng; trước mặt họ vẫn là những cái bóng khổng lồ của chính họ vào buổi mặt trời lặn, những sóng cát trinh nguyên mà ngón chân họ choãi ra đang chạm phải, cùng chân trời không thể tới. Nhất là ánh sáng trong cái nhìn của họ, nó chói lọi trong màng cứng của mắt họ. Đàn dê xám nâu và cừu bước đi phía trước bọn trẻ. Lũ súc vật cũng đi mà không biết về đâu khi đặt bộ móng guôc của chúng trên những dấu cũ. Cát xoáy giữa chân chúng, bám vào lớp lông bẩn thỉu. Một người đàn ông vừa dẫn đám lạc đà một bướu, chỉ bằng giọng nói của mình, vừa càu nhàu và khạc nhổ hệt như chúng. Tiếng khàn khàn của những hơi thở trộn lẫn trong gió rồi tan biến ngay trong những chỗ lõm của cồn cát, về hướng Nam. Nhưng gió, sự khô hạn, cái đói cũng không còn quan trọng nữa. Người và vật đang từ từ lẩn khuất, bước về phía vùng sâu của thung lũng không có nước, không có bóng mát. Họ đã lên đường từ nhiều tuần, từ nhiều tháng, đi từ cái giếng này tới cái giêng khác, băng qua những con suối khô cằn mất hút trong cát, vượt qua những đồi đá, những cao nguyên. Đàn thú ăn những loài cỏ gầy rạc, những cây cúc gai, những cây xương khô mà chúng chia sẻ với người. Buổi chiều, khi mặt trời xuống thấp gần chân trời và khi bóng những bụi rậm trải thật dài, người và vật dừng bước. Những người đàn ông trút vật nặng khỏi lũ lạc đà, dựng căn lều to bằng len màu nâu trên một cái cột độc nhất bằng gỗ thông bá hương. Những người đàn bà lo nhóm lửa, chuẩn bị món bột nhão bo bo, món sữa đông, bơ, chà là. Đêm tới thật nhanh, bầu trời bao la và buốt giá mở ra trên mặt đất đã tắt ngấm. Bấy giờ những ngôi sao hiện ra, nghìn nghìn ngôi sao đã dừng lại trong không gian. Người đàn ông mang súng, người dẫn đường cả đoàn, lên tiếng gọi Nour và chỉ cho cậu cái đỉnh của chòm sao Tiểu hùng, ngôi sao đơn độc mà người ta vẫn gọi là Dê con, rồi ở đầu kia của chòm sao, ngôi sao Kochab màu xanh. Ông chỉ cho Nour thấy, chếch về hướng Đông, một chiếc cầu lấp lánh năm ngôi sao Alkaid, Mizar, Alioth, Megrez, Fecda. Hoàn toàn ở phía Đông, trên chân trời màu tro, chòm sao Lạp hộ vừa xuất hiện với sao Alnilam nghiêng nghiêng một bên như cột buồm một con tàu. Ông biết rõ tất cả những vì sao, đôi khi ông gán cho chúng những cái tên lạ lùng giống như cách bắt đầu của các câu chuyện. Bấy giờ ông chỉ cho Nour con đường mà họ sẽ theo ban ngày, như thể ánh sáng nhóm lên trong bầu trời luôn vạch ra những con đường mà loài người phải đi trên trái đất này. Nhiều sao quá! Đêm sa mạc lúc nào cũng tràn đầy những ánh lửa bập bùng một cách êm dịu kia trong khi gió dạt dào từng cơn như hơi thở. Đó là một xứ sở nằm ngoài thời gian, xa cách với lịch sử loài người, có lẽ vậy, một xứ sở nơi không gì còn có thể xuất hiện hay chết đi, như thể nó tách biệt hẳn với các xứ sở khác, nó nằm trên chóp cao của sự sinh tồn trên mặt đất này. Những người đàn ông thường ngắm nhìn những vì sao, cái vệt trắng lớn giống như một cây cầu cát bên trên mặt đất. Họ vừa lai rai nói chuyện vừa hút những điếu thuốc quấn trộn cần sa, họ kể cho nhau nghe chuyện về các chuyến đi, những tiếng gào thét của cuộc chiến chống lại bọn lính Cơ đốc, những trận phục thù. Sau đó họ lắng nghe màn đêm. Những ngọn lửa từ các cành nhỏ nhảy múa dưới cái ấm trà bằng đồng với âm thanh của nước đang sôi sùng sục. Bên kia lò lửa, cánh đàn bà đang trò chuyện, và một người trong bọn họ lầm rầm hát ru đứa bé đang ngủ trên ngực mình. Lũ chó rừng kêu lên ăng ẳng và chính âm vang trong chỗ trũng của các cồn cát đã đáp lại chúng như phát ra từ những con chó rừng khác. Mùi lũ súc vật xông lên, trộn lẫn với mùi ẩm ướt của cát xám, mùi hăng hắc của khói từ các lò lửa. Tiếp theo, phụ nữ và trẻ nhỏ ngủ trong lều, còn đàn ông thì nằm trong lớp áo khoác của họ quanh đám tro than đã tắt ngấm. Họ biến mất trên khoảng cát và đá, họ trở nên vô hình, trong khi bầu trời đen càng rạng rỡ hơn. Họ đã đi như thế trong nhiều tháng, có lẽ là nhiều năm. Họ đi theo con đường trời giữa lớp sóng của các cồn cát, những con đường bắt nguồn từ Draa, từ Tamgrout, từ Erg Iguidi, hoặc thêm con đường phía Bắc của những người Ait Atta, những người Gheris, bắt nguồn từ Tafilelt, tất cả dẫn về những làng phòng thủ lớn trên các dải hoành sơn thuộc vùng núi Atlas, hoặc con đường vô tận đi sâu vào trung tâm sa mạc ở bên kia vùng Hank, về phía thành phố lớn Tombouctou. Một số người đã chết dọc đường, những người khác thì ra đời, cưới nhau. Những con vật cũng đã chết, cuống họng mở toang để làm màu mỡ cho các tầng sâu của đất, hoặc dính dịch bệnh, bị bỏ cho thối rữa trên nền đất cứng. Nơi đây dường như không có tên, không có lời. Sa mạc lau sạch tất cả trong gió của nó, bôi xóa tất cả. Trong cái nhìn của những người đàn ông có cái tự do của không gian, còn làn da họ thì giống như kim loại. Ánh mặt trời bùng vỡ khắp nơi. Cát nâu, vàng, xám, trắng, cát nhẹ cứ lướt đi chỉ ra hướng gió. Nó bao trùm lên tất cả mọi dấu vết, mọi xương cốt. Nó đẩy lùi ánh sáng, nó đánh bật nước, cuộc sống ra khỏi vòng trung tâm không một ai nhận ra được. Những người đàn ông biết rõ rằng sa mạc không chịu nhận họ: thế là họ đi không ngừng nghỉ trên con đường mà những bước chân khác đã từng đi qua, để tìm gặp cái gì khác. Nước, nó ở trong các aiun, những con mắt, có màu trời, hoặc trong những lòng suối bùn cũ kỹ, ẩm ướt. Nhưng đó không phải là thứ nước dành cho khoái lạc và sự nghỉ ngơi. Nó đúng là dấu vết của những giọt mồ hôi trên bề mặt sa mạc, cái cho dè sẻn của một Thượng đế khô khan, hoạt động cuối cùng của cuộc sống. Thứ nước nặng tách ra từ cát, thứ nước chết của những kẽ nứt, thứ nước kiềm làm ta đau bụng, làm ta nôn mửa. Người ta còn phải đi xa hơn nữa, người nghiêng nghiêng về phía trước, theo hướng mà những vì sao đã vạch sẵn. Nhưng đây có thể là xứ sở tự do cuối cùng và duy nhất, nơi luật lệ loài người không còn quan trọng nữa. Một đất nước dành cho đá và gió, cho cả bọ cạp và chuột nhảy nữa, những con vật biết giấu mình và lẩn trốn khi mặt trời thiêu đốt và khi đêm làm rét cóng. Giờ đây, họ đã xuất hiện trên thung lũng Saguiet el Hamra, họ bước chầm chậm xuống những triền dốc cát. Ở cuối thung lũng, bắt đầu có dấu vết của cuộc sống loài người: Những cánh đồng đất có tường đá khô rang xếp bao quanh, những vuông đất rào kín dành cho lạc đà, những lán trại lợp bằng lá cọ lùn, những túp lều to bằng len trông giống con tàu bị lật úp. Những người đàn ông vừa bước chầm chậm vừa ấn gót sâu vào cát đang sụt lở. Những người đàn bà bước chậm lại và giữ khoảng cách xa sau đàn thú chợt hốt hoảng vì mùi của những cái giếng. Rồi thung lũng bao la hiện ra, rộng mở dưới cao nguyên đá. Nour tìm những cây cọ cao màu lục sẫm vươn lên từ mặt đất thành hàng sít vào nhau quanh hồ nước trong, cậu tìm các dinh thự màu trắng, những ngọn tháp giáo đường, tất cả những gì mà người ta đã nói với cậu từ thời còn bé khi nhắc tới thành phố Smara. Từ lâu lắm rồi cậu không trông thấy cây cối. Hai tay buông lỏng, cậu đi về vùng thấp của thung lũng, đôi mắt hơi nhắm lại vì ánh sáng và cát. Khi những người đàn ông bước xuống sâu hơn trong thung lũng, thành phố mà họ đã thoáng thấy trong khoảnh khắc chợt biến mất, họ chỉ bắt gặp vùng đất khô ran và trần trụi. Trời nóng nực, mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt Nour, dán lớp quần áo màu xanh lam của cậu vào hông cậu, vào vai cậu. Giờ đây, những người đàn ông khác, những người đàn bà khác cũng xuất hiện như được sinh ra từ thung lũng. Đàn bà lo nhóm lửa chuẩn bị bữa ăn chiều, trẻ con cùng đàn ông thì im lìm bất động trước những căn lều đầy bụi. Họ đã đến từ mọi miền sa mạc, phía bên kia vùng Hamada sỏi đá, phía bên kia các ngọn núi của vùng Cheheiba và Ouarkziz, vùng Siroua, những ngọn núi Oum Chakourt, cả phía bên kia các ốc đảo lớn của miền Nam, của hồ nước ngầm vùng Gourara. Họ đã vượt qua những ngọn núi qua hẻm núi Maider, đi về Tarhamant hoặc xuống nữa nơi con sông Draa gặp con sông Tingut, ngang qua Regbat. Họ đã tới đây, tất cả các dân tộc miền Nam, những dân du mục, những thương gia, những người chăn cừu, những tên cướp, những kẻ ăn mày. Có thể một số người đã rời bỏ vương quốc Biru hoặc ốc đảo lớn vùng Oualata. Khuôn mặt họ mang dấu ấn của cái nắng khủng khiếp, của cái lạnh chết người về đêm tại những vùng cùng kiệt của sa mạc. Một số người trong bọn họ có nước da đen muốn ngả sang màu đỏ, cao lớn và dài chi, họ nói bằng một ngôn ngữ xa lạ: đó là những người Tubbu đến từ bên kia sa mạc, từ Borku và Tibesti, họ ăn những trái côla, họ đi về phía biển. Người và vật càng đến gần, những cái bóng đen đàn ông càng nhân lên gấp bội. Đằng sau đám cây keo cong queo, những túp lều bằng cành lá và bùn hiện ra trông giống những tổ mối. Những ngôi nhà bằng đất nện, những cái hầm bằng ván và bùn, và nhất là các bức tường đá xếp, thậm chí chưa cao tới đầu gối, chia cắt nền đất đỏ thành những ô nhỏ. Trên các khoảng ruộng không to bằng một tấm thảm yên ngựa, những người nô lệ harratin đã thử ươm vài thứ hạt, ớt, bo bo. Những đường rãnh khô cằn luồn sâu qua thung lũng hy vọng bắt gặp chút ẩm ướt. Chính là nơi giờ đây họ đã tới, trên đường tiến về thành phố Smara rộng lớn. Người và vật, tất cả cùng tiến bước trên mặt đất khô cằn ở tận cùng vết thương rộng lớn kia của thung lũng Saguiet. Đã bao nhiêu ngày, cứng rắn và sắc nhọn như đá lửa, đã bao nhiêu giờ qua họ nóng lòng chờ đợi để trông thấy điều đó. Biết bao đau đớn trong thân thể bầm giập của họ, trong đôi môi chảy máu của họ, trong cái nhìn bỏng cháy của họ. Họ hối hả đi về phía những cái giếng, không màng đến tiếng kêu của đàn thú lẫn tiếng xì xào của những người đàn ông khác. Khi tới trước những cái giếng, trước bức tường đá chắn giữ lớp đất mềm, họ dừng lại. Bọn trẻ đã đuổi lũ súc vật đi xa bằng những hòn đá trong lúc tất cả đàn ông đều quỳ xuống cầu nguyện. Rồi từng người đã ngâm mặt mình trong nước và đã uống thật lâu. Những con mắt của nước giữa sa mạc là vậy. Nhưng nước ấm còn chứa đựng cả sức mạnh của gió, của cát và của bầu trời bao la giá buốt ban đêm. Trong khi uống nước, Nour nghe khoảng trống nhập vào người cậu, cái khoảng trống đã truy đuổi cậu từ cái giếng này tới cái giếng khác. Nước đục lờ và nhạt nhẽo khiến Nour muốn lộn mửa và không giúp cậu qua cơn khát. Như thể nó truyền vào tận cùng thân thể cậu niềm im lặng cùng sự cô đơn của những cồn cát và những cao nguyên đá mênh mông. Nước im lìm trong những cái giếng, nó trơn như kim loại, mặt nước nổi lều bều xác lá và lông thú. Nơi cái giếng khác, những người đàn bà đang rửa ráy và làm cho tóc họ trơn mượt. Gần bên họ, bầy dê và lạc đà một bướu đều bất động như bị giữ chặt bằng những cái cọc trong lớp bùn của giếng nước. Những người đàn ông khác thì đi đi lại lại giữa những căn lều. Đó là các chiến binh áo xanh của sa mạc, đeo mặt nạ, trang bị bằng dao găm và súng trường, luôn đi những bước dài, không ngó tới ai. Những người nô lệ Soudan mặc quần áo rách bươm, mang những bọc bo bo hoặc chà là, những túi da đựng dầu. Những đứa con trai trong cái lều lớn mặc quần áo trắng và lam sẫm, những người Berbère với nước da ngăm đen, những đứa trẻ miền biển với mái tóc đỏ hoe và làn da đầy nốt tàn nhang, những người đàn ông không nòi giống, không tên tuổi, những kẻ ăn mày bị bệnh p hơn g không đến gần nước. Tất cả, họ bước đi trên mặt đất đầy sỏi đá và bụi đỏ, họ đi về phía những bức tường của thành phố thánh Smara. Họ đã lẩn trốn sa mạc trong vài giờ, vài ngày. Họ giăng tấm vải nặng nề của những căn lều của họ, họ cuộn mình trong những cái áo khoác len, họ đợi đêm về. Giờ đây họ đang ăn bột nhão bo bo trộn sữa đông, bánh mì, chà là khô có hương vị của mật và tiêu. Lũ ruồi muỗi lởn vởn quanh mái tóc của lũ trẻ trong không khí buổi chiều, những con ong vò vẽ đậu trên đôi bàn tay của chúng, trên đôi má lem luốc bụi của chúng. Bây giờ thì họ đang trò chuyện thật lớn tiếng, và trong bóng râm ngột ngạt của các căn lều, những người đàn bà đang cười và ném những hòn sỏi nhỏ vào lũ trẻ đang nô đùa. Lời nói thoát ra từ cửa miệng những người đàn ông như trong cơn say, những từ vang lên thành tiếng hát, tiếng kêu, tiếng vọng từ trong cổ họng. Đằng sau đám lều, gần các bức tường của thành phố Smara, gió rít trong đám cành keo, trong tán cọ lùn. Thế mà họ vẫn lặng thinh, những người đàn ông và những người đàn bà với khuôn mặt và thân thể đã chuyển sang màu xanh bợt vì chất chàm và mồ hôi: tuy nhiên họ vẫn không rời bỏ sa mạc. Họ không quên. Chính trong tận cùng thân thể họ, phủ tạng họ là niềm im lặng vĩ đại kia đã liên tục đi qua trên những cồn cát. Đó là điều bí mật đích thực. Thi thoảng, người đàn ông mang súng ngừng nói với Nour, ông nhìn ra sau, về phía chóp thung lũng, nơi xuất phát của gió. Đôi khi một người đàn ông của bộ lạc khác đến gần căn lều vừa chào hỏi vừa dang hai bàn tay xòe ra. Họ trao đổi vài lời, vài cái tên. Nhưng những lời, những cái tên này tan biến tức thì, đó chỉ là các dấu vết mờ nhạt mà gió cát sẽ chôn vùi. Khi đêm về tại đây, trên mặt nước những cái giếng, thì đó lại là sự thống trị của bầu trời sa mạc lốm đốm sao. Trên thung lũng Saguiet el Hamra, đêm dịu dàng hơn, và vầng trăng non thường lên cao trong bầu trời tối thẫm. Lũ dơi bắt đầu cuộc khiêu vũ quanh các căn lều, chúng bay xập xòe sát mặt nước giếng. Anh sáng của các lò lửa chập chờn tỏa mùi dầu nóng và khói. Vài đứa trẻ vừa chạy giữa những căn lều vừa buông những tiếng kêu rúc trong cổ họng như loài chó. Những con vật đã ngủ, những con lạc đà một bướu chân bị xích, bầy cừu và dê trong những vòng tròn có tường đá xếp chắn ngang. Những người đàn ông không còn cảnh giác nữa. Người dẫn đường đã đặt khẩu súng của mình nơi cửa vào lều, và ông vừa hút thuốc vừa nhìn thẳng về phía trước mặt. Ông nghe loáng thoáng tiếng động êm dịu từ những giọng nói và những tiếng cười của đám đàn bà ngồi bên các lò lửa. Có thể ông đang mơ về những buổi tối khác, những con đường khác, như thể vết bỏng nắng trên làn da và cơn đau khát trong cổ họng của ông chỉ là khởi đầu của một ước muốn khác. Giấc ngủ đến chậm trên thành phố Smara. Nơi khác, ở miền Nam, trên cao nguyên đá Hamada rộng lớn, không có giấc ngủ về đêm. Có một cái lạnh tê cóng khi gió thổi trên cát và lột trần nền đất núi. Người ta không thể ngủ trên các nẻo đường sa mạc. Người ta sống hoặc chết, lúc nào cũng đang nhìn với cặp mắt đăm đăm cháy bỏng vì cơn mệt và nắng. Thỉnh thoảng những người đàn ông màu chàm vẫn gặp một người trong bọn họ đang ngồi thẳng người trên cát, đôi chân duỗi ra trước mặt, thân thể bất động trong lớp quần áo rách tươm. Trên khuôn mặt xám, đôi mắt đen sạm nhìn chòng chọc vào chân trời chập chờn di động của các cồn cát, bởi cái chết đến với hắn bất thình lình như thế. Giấc ngủ giống như nước, không ai xa nguồn mà thật sự ngủ được. Gió vừa thổi vừa lột sạch mọi hơi âm của trái đất, giống thứ gió của tầng bình lưu. Nhưng nơi này, trong vùng thung lũng đỏ, đoàn lữ hành vẫn có thể ngủ được. Người dẫn đường thức giấc trước mọi người, ông ngồi bất động trước căn lều. Ông nhìn sương mù chầm chậm đùn lên dọc thung lũng, về phía Hamada. Sương mù đi qua, xóa sạch bóng đêm. Hai tay khoanh trước ngực, ông thở thật nhẹ mí mắt không hề nhúc nhích. Ông vẫn chờ đợi tia sáng đầu tiên của buổi bình minh, fijar, cái đốm bạc hiện ra ở phương Đông, phía trên những ngọn đồi như thế đó. Khi ánh sáng xuất hiện, ông cúi xuống Nour, rồi đặt bàn tay lên vai cậu, nhẹ nhàng đánh thức cậu. Họ lặng lẽ rời bước bên nhau, đi trên lối mòn cát dẫn về những cái giếng. Bầy chó sủa từ xa. Trong ánh sáng xám xịt của buổi bình minh, người đàn ông và Nour lau rửa thân thể theo đúng tập tục, phần này tiếp phần kia, lại bắt đầu ba lượt nữa. Nước giếng lạnh và trong, nước sinh ra từ cát và đêm. Người đàn ông và đứa trẻ lại rửa mặt và rửa tay, đoạn quay về phương Đông để đọc bài kinh cầu nguyện đầu tiên của họ. Bầu trời bắt đầu soi sáng chân trời. Trong các khu lều trại, lò lửa ánh lên màu đỏ nhạt trong bóng tối cuối cùng. Những người đàn bà đi lấy nước, những em bé gái vừa chạy ra giếng vừa reo, rồi họ trở về, bước đi loạng choạng, chum nước đặt thăng bằng trên chiếc cổ gầy gò của họ. Những tiếng động của cuộc sống con người bắt đầu vang lên từ khu lều trại và những căn nhà bằng đất bùn: những tiếng động của kim loại, của đá, của nước. Những con chó vàng tụ tập trên khoảng đất trống, chúng vừa chạy lòng vòng vừa sủa ăng ẳng. Đàn lạc đà và những con vật khác thì giậm chân khiến bụi đỏ bay mù mịt. Chính vào lúc này ánh sáng trở nên lộng lẫy trên thành phố Saguiet el Hamra. Nó đến cùng lúc từ bầu trời và mặt đất, thứ ánh sáng màu vàng ối và màu đồng, nó rung vang trong bầu trời trần trụi, không thiêu đốt không gây choáng váng. Vén một vạt lều, các cô gái chải gỡ mái tóc nặng nề của họ, bắt chí, kết thành búi, nơi họ cài tấm mạng màu xanh lam. Ánh sáng lộng lẫy chiếu trên sắc đồng của khuôn mặt và đôi cánh tay của họ. Ngồi chồm hổm và bất động trên cát, Nour cũng đang nhìn ngày đong đầy bầu trời trên các lều trại. Những con chim đa đa chầm chậm bay xuyên qua không gian, bay ngược lên thung lũng đỏ. Chúng bay đi đâu? Có thể chúng sẽ bay tới tận chóp thành phố Saguiet, tới tận các thung lũng đất đỏ chật hẹp giữa những ngọn núi vùng Agmar. Sau đó, khi mặt trời xuống thấp, chúng sẽ trở lại, bay về phía thung lũng mở rộng, phía trên những cánh đồng, nơi những ngôi nhà của con nguời trông giống như tổ mối Có thể chúng biết rõ Aaiun, thành phố của bùn và những tấm ván, nơi mái nhà có khi được làm bằng kim loại đỏ, cũng có thể chúng biết rõ biển màu đồng thanh và ngọc lục bảo, biển tự do? Đoàn lữ hành bắt đầu tới Saguiet el Hamra, đoàn người và vật đang bước xuống cồn cát, làm tung đám bụi màu đỏ. Họ đi qua trước đám lều trại, thậm chí không quay đầu lại, họ hãy còn xa lắc và đơn độc như đang giữa sa mạc. Họ chầm chậm bước về phía những cái giếng để vốc nước vào cái miệng chảy máu của họ. Gió bắt đầu thổi ở trên kia, trên vùng Hamada. Vào thung lũng, nó thổi yếu đi trong đám cọ lùn, trong các bụi gai, trong những đường lối quanh co của đá xếp. Nhưng xa khỏi Saguiet, thế giới trở nên lấp lánh dưới con mắt của đoàn người; những đồng bằng với những tảng đá sắc nhọn, những ngọn núi thê lương, những kẽ nứt, những lớp cát phản chiếu ánh mặt trời. Bầu trời không giới hạn, rực một màu lam khắc nghiệt đến độ thiêu đốt mặt mày. Xa hơn nữa, những người đàn ông vẫn bước đi trong mạng lưới của các cồn cát, trong một thế giới xa lạ. Nhưng đó lại là thế gian thích hợp với họ. Cùng cát, đá, bầu trời, mặt trời, niềm im lặng cùng nỗi đau đớn này, chứ không phải những thành phố bằng kim loại và xi măng, nơi người ta nghe ra tiếng của những máy nước và những giọng nói con người. Chính nơi đây, trật tự trống trải của sa mạc, là nơi mọi điều đều khả hữu, nơi người ta bước đi không bóng bên bờ cái chết của chính mình. Những người đàn ông xanh tiến bước trên con đường mòn vô hình hướng về Smara, tự do như không có ai trên đời này được tự do như vậy. Quanh họ, xa hút tầm mắt, là những cái chóp di động của các cồn cát, những làn sóng của không gian mà người ta không thể biết được. Những bàn chân trần của phụ nữ và trẻ em đặt trên cát, để lại một dấu vết mờ nhạt mà gió sẽ xóa đi tức thì. Xa xa, những ảo ảnh bềnh bồng giữa đất và trời, những thành phố màu trắng, những lễ hội, những đàn lạc đà và lừa chở nặng lương thực thực phẩm, những giấc mơ chộn rộn. Và chính con người cũng giống như những ảo ảnh mà cái đói, cái khát và cái mệt đã làm nảy sinh trên đất sa mạc. Những con đường thì vòng quanh, chúng luôn đưa về điểm khởi hành, bằng cách vạch ra các vòng tròn càng lúc càng hẹp lại quanh Saguiet el Hamra. Nhưng đó lại là con đường không cùng tận, bởi chúng dài hơn đời người. Những người đàn ông đến từ phương Đông, bên kia những ngọn núi của vùng Aadme Rieh, bên kia vùng Yetti, vùng Tabelbala. Những người khác thì đến từ phương Nam, từ ốc đảo vùng el Haricha, từ giếng nước vùng Abd el Malek. Họ đã đi về hướng Tây, về hướng Bắc, đến tận các bờ biển, hoặc đi xuyên qua các mỏ muối lớn vùng Teghaza. Họ đã trở về, trĩu nặng lương thực thực phẩm và đạn dược, về tận đất thánh, thung lũng lớn của Saguiet el Hamra, mà không biết rồi sẽ lại lên đường đi về đâu. Họ đã vừa đi vừa nhìn những con đường của các vì sao vừa lẩn tránh những trận gió cát khi bầu trời chuyển sang màu đỏ và khi các cồn cát bắt đầu dịch chuyển. Đàn ông, đàn bà sống như thế đó trong khi vẫn đi không nghỉ. Một ngày nào đó họ sẽ chết vì nắng cháy, vì đạn thù, hoặc vì sốt cao. Những người đàn bà sinh con, đơn giản là ngồi xổm trong bóng mát của căn lều, được hai người phụ nữ giúp đỡ, bụng được quấn bằng dây thắt lưng to bằng vải. Ngay phút đầu tiên của đời mình, những người đàn ông đã thuộc về khoảng bao la không giới hạn, thuộc về cát, cúc gai, rắn, chuột, nhất là gió, bởi đó là gia đình đích thực của họ. Lũ con gái với mái tóc nhuốm màu đồng lớn lên, học tập những cử chỉ không cùng của cuộc sống. Chúng không có tấm gương soi nào khác ngoài khoảng rộng mê hồn của những đồng thạch cao dưới bầu trời trơn trụi. Lũ con trai tập đi, tập nói, tập săn bắn và tập chiến đấu, đơn giản là để học cách chết trên cát. Đứng trước căn lều, bên những người đàn ông, người dẫn đường lặng nhìn hồi lâu những đoàn người đang di chuyển về phía những cồn cát, về phía những cái giếng. Mặt trời chiếu sáng khuôn mặt sạm nâu, cái mũi hình mỏ chim đại bàng cùng mái tóc dài, xoăn màu đồng của ông. Nour đã nói điều gì đó với ông nhưng ông không nghe. Sau đó khi lều trại thật yên tĩnh, ông ra dấu cho Nour, và họ cùng nhau lên đường đi dọc theo lối mòn, ngược lên phía Bắc, hướng về trung tâm Saguiet el Hamra. Thỉnh thoảng họ gặp một người đi về phía Smara, và họ trao đổi với nhau vài lời: - Anh là ai? - Bou Sba. Còn anh? - Yuemaia. - Anh từ đâu tới? - Aain Rag. - Tôi thì từ phương Nam tới, từ Iguetti. Rồi họ tách nhau ra, không nói lời từ biệt. Xa hơn, con đường mòn gần như không trông thấy được băng qua những vùng đất lổn nhổn đá, những lùm keo cằn cỗi. Thật khó mà bước đi bởi sỏi đá sắc nhọn nhô lên từ đất đỏ, và Nour phải chật vật lắm mới theo kịp cha. Ánh sáng chiếu mãnh liệt hơn, gió sa mạc thổi tung bụi dưới chân họ. Nơi đây, thung lũng chật hẹp, trông giống như một kẽ nứt màu xám và đỏ, đôi chỗ chói lọi như kim loại, sỏi đá phủ đầy lòng suối khô, những viên đá trắng, đỏ, những hòn đá lửa đen trên đó mặt trời làm nảy những tia sáng. Người dẫn đường đi ngược về phía mặt trời, người chúi về phía trước, đầu được trùm trong chiếc áo khoác len. Gai nhọn của các loài cây nhỏ cào rách quần áo của Nour, vạch ngoằn ngoèo trên đôi chân và bàn chân trần của cậu, nhưng cậu cũng không để ý tới. Ánh mắt cậu đóng đinh vào phía trước mặt, vào bóng cha cậu đang rảo bước. Bất chợt, họ cùng dừng bước: ngôi mộ trắng xuất hiện giữa những ngọn đồi đá lấp lánh trong ánh sáng của bầu trời. Người đàn ông vẫn đứng bất động, hơi nghiêng mình như để chào ngôi mộ. Sau đó, họ tiếp tục bước đi trên lớp sỏi sụt lở. Mắt không nhìn xuống, người dẫn đường chầm chậm đi lên phía ngôi mộ. Họ càng tới gần thì cái mái tròn chừng như nhô ra khỏi lớp đá đỏ và lớn lên về phía bầu trời. Ánh sáng thật lộng lẫy và trong trẻo soi sáng ngôi mộ, làm cho nó phồng lên trong không khí nóng bức. Nơi đây không có bóng mát, chỉ có những hòn đá sắc nhọn của ngọn đồi, và bên dưới, lòng suối đã khô cạn. Họ tới trước ngôi mộ. Nó gồm đúng bốn bức tường bằng bùn quét vôi dựng trên một cái bệ đá đỏ. Chỉ có một cửa, giống như lối vào một cái lò, bị tắc nghẽn vì một tảng đá lớn. Trên các bức tường là mái vòm trắng có hình thù vỏ trứng và phía trên cùng là một mũi giáo. Nour chỉ còn nhìn cửa vào ngôi mộ và cánh cửa lớn ra trong đôi mắt cậu, nó trở thành cánh cửa của một tòa nhà bát ngát với những bức thành giống như những vách đá phấn, với cái vòm to như một ngọn núi. Đây là nơi dừng lại của gió và hơi nóng sa mạc, của nỗi cô quạnh ngày dài; đây là nơi tận cùng của những con đường mòn mờ nhạt, cả những con đường mòn trên đó những kẻ lạc đường, những người điên, những kẻ bại trận vẫn đi. Đây có thể là trung tâm của sa mạc, nơi tất cả đã bắt đầu, xưa kia khi loài người lần đầu tiên đến. Ngôi mộ lấp lánh trên triền ngọn đồi đỏ. Ánh nắng phản chiếu trên đất nện, thiêu đốt cái vòm trắng, thỉnh thoảng làm chảy xuống những dòng bụi đỏ dọc theo vệt nứt của các bức tường. Chỉ có Nour và cha cậu ở gần ngôi mộ. Niềm im lặng đặc sánh bao trùm lên thung lũng của Saguiet el Hamra. Qua khung cửa tròn, khi đã xô tảng đá dịch ra người dẫn đường trông thấy bóng tối mãnh liệt và lạnh ngắt, và ông cảm nhận nó trên mặt mình như một hơi thở. Quanh ngôi mộ, có một khoảng đất đỏ nện bằng chân những người khách đến thăm. Đó là nơi mà người dẫn đường và Nour đến trước tiên, để cầu nguyện. Nơi đây trên đỉnh đồi cao, bên ngôi mộ thánh nhân, với thung lũng Saguiet el Hamra trải dài đến ngút mắt cái đáy khô cằn của nó, và chân trời bao la, nơi xuất hiện những ngọn đồi khác, những núi đá khác vươn lên bầu trời xanh, niềm im lặng còn não lòng hơn nữa. Như thể thế giới này đã ngừng động đậy và nói năng, đã hóa đá. Thỉnh thoảng, Nour còn nghe thấy cả tiếng rắc của những bức tường bằng đất bùn. Tiếng vo ve của một loài côn trùng, tiếng rên rỉ của gió. "Con đã tới", người đàn ông đang quỳ trên đất nện nói. "Hãy giúp con hỡi vong linh của cha con, vong linh của ông nội con. Con đã băng qua sa mạc, con đã tới để xin người ban phép lành trước khi chết. Hãy giúp con, hãy ban cho con phúc lành trước khi chết bởi con là máu thịt của người. Con đã tới." Ông nói như vậy, và Nour lắng nghe những lời của cha cậu mà không hiểu gì. Ông nói, khi bằng giọng chan chứa, khi bằng giọng thì thầm và lâm râm hát, đầu ông lắc lư; và ông luôn lặp lại những tiếng đơn giản này: "Con đã tới, con đã tới." Ông cúi về phía trước, vốc bụi đỏ vào lòng hai bàn tay và để nó chảy trên mặt, trán, mí mắt, môi ông. Sau đó ông đứng dậy và đi về phía cửa. Trước cửa vào, ông quỳ xuống và lại cầu nguyện, trán áp lên phiến đá nơi ngưỡng cửa. Bóng tối tan loãng thật chậm bên trong ngôi mộ như một lớp sương mù ban đêm. Những bức tường của ngôi mộ đều trần trụi và trắng bệch như ở bên ngoài, và cái trần thấp cho thấy cái khung bằng cành lá trộn với bùn khô của nó. Giờ đây, Nour cũng đã bước vào, cậu bò trên bốn chi. Cậu cảm nhận dưới gan bàn tay mình tấm lát cứng còng và lạnh ngắt bằng đất trộn với máu cừu. Ở cuối ngôi mộ, trên nền đất nện, người dẫn đường đang nằm sấp. Hai bàn tay ông chạm vào đất, hai cánh tay ông duỗi dài tới trước, ông nhập làm một với mặt đất. Giờ đây ông không cầu nguyện nữa, ông không hát nữa. Ông vừa thở chậm, miệng áp sát mặt đất vừa lắng nghe máu đập trong cổ họng và trong hai tai mình. Như thể một cái gì xa lạ đang nhập vào ông, qua miệng ông, qua trán ông, qua lòng hai bàn tay và qua bụng ông, một cái gì đang len vào tận vùng sâu thẳm nhất của ông và biến đổi ông một cách không nhận ra được. Có thể đó là niềm im lặng đến từ sa mạc, từ biển cát, từ những ngọn núi đá dưới ánh sáng trăng, hoặc từ những đồng bằng mênh mông cát đỏ, nơi ánh sáng mặt trời nhảy múa và chệnh choạng như một bức màn mưa; niềm im lặng của những hố nước màu lục đang nhìn lên bầu trời như những con mắt, niềm im lặng của bầu trời không mây, không chim chóc, nơi mưa gió tự do tung hoành. Người đàn ông nằm dài trên mặt đất thấy tay chân mình tê cóng. Bóng tối đong đầy mắt ông như trước khi ngủ. Thế mà cùng lúc, một năng lượng mới nhập vào qua bụng ông, qua hai bàn tay ông, tỏa sáng trong từng bắp thịt của ông. Nơi ông, tất cả đều thấy đổi, tất cả đều được thực hiện. Không còn đau khổ, không còn ước muốn, không còn phục hận. Ông quên đi những điều đó, như thể nước của sự cầu nguyện đã lau sạch tâm trí ông. Cũng không còn ngôn từ nữa, bóng tối lạnh ngắt của ngôi mộ đã biến chúng thành vô ích. thấy vào đó có một cái luồng xa lạ đang rung vang trong đất trộn với máu, luồng sóng đó, hơi ấm đó. Nó không giống với bất cứ thứ gì đã từng tồn tại trên trái đất này. Đó là một quyền năng trực tiếp không có tư tưởng, đến từ vùng sâu thẳm của trái đất và đi về phía tận cùng của không gian, như thể có một sợi dây vô hình hợp nhất thân thể người đàn ông đang nằm kia và phần còn lại của thế giới. Nour hầu như không thở, cậu nhìn cha cậu trong bóng tối của ngôi mộ. Các ngón tay cậu xòe ra chạm vào đất lạnh, và nó kéo cậu băng qua không gian trong một chuyến đi quay cuồng. Họ giữ nguyên tư thế đó một hồi lâu, người dẫn đường nằm dài trên mặt đất và Nour ngồi xổm, mắt mở, bất động. Tiếp đến, khi mọi việc đã xong, người đàn ông chậm rãi đứng dậy và bảo đứa con ra ngoài. Ông đến ngồi dựa lưng vào bức tường của ngôi mộ gần cửa, và ông lại lăn tảng đá để đóng kín lối vào ngôi mộ. Ông có vẻ kiệt sức như đã bước đi trong nhiều tiếng đồng hồ không uống, không ăn. Nhưng trong sâu thẳm của ông có một sức mạnh mới, một niềm hạnh phúc soi sáng cái nhìn của ông. Chính vào lúc này đây ông như biết mình phải làm gì, ông như biết trước con đường mà ông phải đi qua. Ông kéo vạt áo khoác len xuống trên mặt mình; và ông cảm tạ con người hiển thánh mà không thốt lên lời nào, ông chỉ hơi động đậy cái đầu và hát lâm râm trong cổ họng của mình. Đôi bàn tay dài màu lam của ông vuốt ve mặt đất nện, nắm lấy lớp bụi mịn. Trước mắt họ, mặt trời lần theo đường cong của nó trong bầu trời, chầm chậm xuống thấp ở bên kia Saguiet el Hamra. Bóng của những ngọn đồi và núi đá trải dài ra nơi cuối thung lũng. Nhưng người dẫn đường chừng như không thấy gì. Bất động, lưng tựa vào bức tường của ngôi mộ, ông không cảm nhận được ngày đang đi qua, lẫn cái đói và cái khát. Trong ông tràn đầy một sức mạnh khác, một thời gian khác biến ông thành xa lạ với trật tự con người. Có thể ông không còn đợi gì nữa, không còn biết gì nữa, và ông trở thành một cái gì đó giống như sa mạc, niềm im lặng, sự bất động, sự vắng bóng. Khi đêm bắt đầu xuống, Nour sợ và cậu chạm vào vai cha. Người đàn ông nhìn cậu không nói gì, chỉ hơi mỉm cười một chút. Họ cùng bước trở xuống thung lũng hướng về lòng suối khô cằn. Dù đêm đang tới, mắt họ vẫn thấy khó chịu, và gió nóng vẫn thiêu đốt mặt và đôi bàn tay của họ. Người đàn ông hơi loạng choạng lúc bước trên con đường, và ông phải tựa vào vai Nour. Phía dưới, ở đáy thung lũng, nước trong những cái giếng có màu đen. Đàn muỗi múa may trong không khí, tìm cách chích vào mí mắt lũ trẻ. Xa hơn, gần những bức tường đỏ của thành phố Smara, lũ dơi bay sát những căn lều, bay vòng quanh các lò lửa. Khi đến trước những cái giếng đầu tiên, Nour và cha cậu dừng lại lần nữa để lau rửa thật kỹ từng phần thân thể họ. Tiếp đó họ đọc bài kinh cuối cùng, mặt quay về phía xuất phát của đêm. Thế rồi càng ngày họ càng kéo tới thung lũng Saguiet el Hamra đông hơn. Họ từ miền Nam tới, một số với lạc đà và ngựa, nhưng hầu hết đều đi bộ bởi những con vật hẳn đã chết vì khát hay vì bệnh dọc đường. Ngày ngày, quanh thành lũy bằng đất bùn của Smara, cậu bé vẫn trông thấy những lều trại mới được dựng lên. Những túp lều len màu nâu tạo thành vòng tròn mới quanh những bức tường của thành phố. Mỗi buổi chiều, vào lúc chạng vạng, Nour nhìn khách bộ hành tới trong màn bụi. Cậu chưa bao giờ trông thấy nhiều người đến vậy. Đó là một cảnh tượng huyên náo không dứt với những giọng nói đàn ông và đàn bà, những tiếng kêu ầm ĩ của trẻ con, những tiếng khóc hòa với những tiếng gọi dê và cừu, những tiếng đóng cỗ xe, những tiếng lầm bầm của lạc đà. Một mùi lạ mà Nour không biết rõ xông lên từ cát và bay tới từng luồng trong gió chiều; đó là một cái mùi mãnh liệt, vừa hăng vừa dịu, mùi của da thịt con người, của hơi thở, của mồ hôi. Những ngọn lửa than củi, cành nhỏ và phân bò được nhóm lên trong bóng tối lờ mờ. Khói từ lò lừa bay lên trên những căn lều. Nour nghe những câu ca đơn điệu dịu dàng của đám đàn bà đang dỗ trẻ ngủ. Giờ đây hầu hết những người đi tới là người già, phụ nữ và trẻ con, tất cả mệt nhoài vì phải đi quá sức qua sa mạc, quần áo rách bươm, chân trần hoặc quấn giẻ rách. Những khuôn mặt sạm đen, cháy nắng, những con mắt giống như những cục than. Những đứa trẻ trần truồng, chân đầy vết thương, bụng nhão ra vì đói và khát. Nour đi khắp khu trại, len lỏi giữa các căn lều. Cậu ngạc nhiên khi thấy quá nhiều người, và đồng thời cậu cảm thấy lo sợ bởi cậu nghĩ, mà không hiểu rõ tại sao, rằng nhiều người trong số những người đàn ông, đàn bà và trẻ nít kia không lâu nữa sẽ chết. Cậu không ngừng gặp gỡ những người mới tới đang bước rất chậm trên các lối đi, giữa những căn lều. Một số người trong bọn họ đi về phương Nam, họ đen như người Soudan và nói thứ tiếng mà Nour ế ầ không biết. Những người đàn ông phần đông che mặt, mặc áo khoác len và y phục màu xanh lam, chân mang dép da dê. Họ mang súng trường nòng bằng đồng, giáo, dao găm. Nour bước tránh cho họ đi qua, và cậu nhìn họ đi về phía cửa ngõ thành phố Smara. Họ đến ra mắt tù trưởng vĩ đại Moulay Ahmed ben Mohammed el Fadel, người vẫn được gọi là Ma el Aĩnine, Nước Mắt. Tất cả bọn họ đều ngồi trên những chiếc ghế dài bằng bùn khô quanh sân nhà tù trưởng. Sau đó họ đọc kinh cầu nguyện vào lúc mặt trời lặn, ở phía Đông của cái giếng, quỳ trên cát, thân thể hướng về sa mạc. Đêm đến, Nour quay về lều cha cậu, và cậu ngồi bên cạnh người anh cả của mình. Ở phần bên phải của căn lều, mẹ cậu và các em gái cậu đang nói chuyện, nằm dài trên thảm giữa mớ lương thực thực phẩm và cái yên lạc đà. Dần dà niềm im lặng trở về trên Smara và trong thung lũng, tiếng ồn từ những giọng nói của con người và những tiếng kêu của loài vật tuần tự tắt ngấm, vầng trăng tròn vành vạnh xuất hiện trên bầu trời đen, cái đĩa trắng nở ra một cách diệu kỳ. Đêm lạnh buốt dù tất cả sức nóng của ban ngày vẫn còn vương trong cát. Vài con dơi bay trước mặt trăng rồi bay chúi về phía mặt đất. Nour nằm nghiêng, đầu tựa vào cánh tay, đưa mắt theo dõi chúng mà chờ đợi giấc ngủ. Rồi bất chợt cậu ngủ lúc nào không hay, hai mắt vẫn mở. Khi thức dậy, cậu có cảm giác lạ thường là thời gian đã không trôi qua. Cậu đưa mắt tìm kiếm cái đĩa mặt trăng, và khi thấy nó xuống thấp về phía Tây, cậu mới hiểu ra rằng mình đã ngủ khá lâu. Sự im lặng trở nên ngột ngạt trên các lều trại. Người ta chỉ nghe tiếng sủa từ xa của loài chó hoang dã, ở một nơi nào đó trong sa mạc. ấ ề Nour đứng dậy và thấy cha cùng anh cậu không còn trong lều nữa. Trong bóng tối, ở bên trái của căn lều chỉ còn lại những hình thù của đàn bà và trẻ con, cuộn tròn trong những tấm thảm, đang hiện ra một cách mơ hồ. Nour bắt đầu bước đi trong lối cát, giữa các khu trại, hướng về những thành lũy của Smara. Dưới ánh trăng, cát trở nên thật trắng, với cái bóng màu lam của những hòn sỏi và những bụi cây nhỏ. Không có một tiếng động, chừng như những người đàn ông đều ngủ cả, nhưng Nour biết rằng họ không có mặt trong lều. Chỉ có bọn trẻ nít đang ngủ, những người đàn bà đang nhìn ra ngoài trong tư thế bất động, cuộn mình trong chiếc áo khoác và những tấm thảm. Không khí của đêm khiến cậu trai rùng mình, và cát thì lạnh và cứng dưới đôi bàn chân trần của cậu. Khi tới gần những bức tường của thành phố, Nour nghe tiếng đàn ông xầm xì. Xa hơn một chút, cậu trông thấy cái bóng bất động của một lính canh đang ngồi xổm trước cửa vào thành, khẩu cạc bin dài tựa vào đầu gối. Nhưng Nour biết một nơi thành lũy bằng bùn bị sụp đổ, và cậu có thể vào Smara mà không phải đi qua trước người lính canh. Ngay tức khắc cậu nhận ra toàn bộ những người đàn ông đang tập hợp trong sân nhà tù trưởng. Họ ngồi dưới đất thành từng nhóm năm hay sáu người quanh các lò lửa, nơi có những cái ấm đồng to đựng nước dùng để pha trà xanh, Nour lướt đi trong đám người. Không ai nhìn cậu. Một nhóm chiến binh đứng trước cửa ngôi nhà lo canh giữ mọi người. Có vài chiến binh sa mạc mặc quần áo xanh lam bất động tuyệt đối nhìn một người đàn ông lớn tuổi mặc áo khoác len trắng trùm đầu, và hai thanh niên vũ trang đang luân phiên nói một cách hăng hái. Từ chỗ ngồi của mình, do những tiếng xì xào của những người đàn ông luôn lặp lại hoặc bình luận những điều đã được nói, Nour không thể nào hiểu được lời nói của những người kia. Khi mắt cậu đã quen với sự tương phản giữa bóng tối và những ánh đỏ của lò lửa, Nour nhận ra bóng dáng của lão già. Đó là tù trưởng vi đại Ma el Aĩnine, người mà cậu đã trông thấy khi cha và anh cả của cậu đến chào lão lúc họ mới tới cái giếng ở Smara. Nour hỏi người bên cạnh về hai người thanh niên đứng bên người tù trưởng cao tuổi. Người ta cho cậu biết tên của họ: "Saadbou và Larhdaí, hai người em của Ahmed ed Dehiba, người được mệnh danh là Mảnh Vàng, người sẽ sớm là đức vua đích thực của chúng ta" Nour không tìm cách nghe ra những lời nói của hai chiến binh trẻ. Cậu cố hết sức để nhìn khuôn mặt yếu gầy của lão già đang bất động giữa họ, trong chiếc áo khoác được ánh trăng chiếu vào tạo thành một cái đốm trắng toát. Mọi người cũng đang nhìn lão như bằng một cái nhìn độc nhất, như chính lão đang thật sự nói, như chính lão sẽ phác một cử chỉ, và sau đó tất cả sẽ thấy đổi, bởi chính lão là người đưa ra mệnh lệnh của sa mạc. Ma el Aĩnine không cử động. Lão như không nghe những lời lẽ của các người con trai của lão, cũng không nghe tiếng xầm xì bất tận đến từ mấy trăm con người đang ngồi trong sân, trước mặt lão. Đôi khi, lão hơi quay đầu và nhìn ra nơi khác, bên kia những con người và những bức tường bằng bùn của thành phố của lão, về phía bầu trời tăm tối theo hướng những ngọn đồi đá. Nour nghĩ có thể lão chỉ đơn giản muốn mọi người quay trở về sa mạc, nơi từ đó họ đã ra đi, và tim cậu thắt lại. Cậu không hiểu lời lẽ của những người quanh lão. Trên thành phố Smara, bầu trời vô tận, giá băng và những vì sao, chìm khuất trong quầng sáng trắng bệch ầ ề ầ ố ấ ế của vầng trăng. Điều đó phần nào giống như một dấu hiệu chết chóc hoặc buông thả, một dấu hiệu của sự thiếu vắng hãi hùng đang tạo thành khoảng trống trong các căn lều im lìm và trong những bức tường thành phố. Nour cảm nhận điều đó, nhất là khi cậu nhìn bóng dáng mong manh của lão tù trưởng vĩ đại như chính cậu đang đi vào tận trái tim của lão, vào tận niềm im lặng của lão. Các tù trưởng khác, những thủ lĩnh trong các căn lều to và những chiến binh xanh lần lượt tới. Tất cả đều nói cùng một lời, giọng rạn vỡ vì mệt mỏi và khô héo. Họ nói về bọn lính Cơ Đốc đang tiến vào những ốc đảo phương Nam và đang mang chiến tranh đến với dân du mục ; họ nói về những thành phố kiên cố mà người Cơ Đốc giáo đang xây dựng trong sa mạc, khép kín lối vào những cái giếng đến tận bờ biển. Họ nói về những cuộc bại trận, những người chết đông đến nỗi người ta không còn nhớ cả tên tuổi họ, những toán đàn bà và trẻ nhỏ chạy trốn về miền Bắc xuyên qua sa mạc, những bộ xương của những con vật đã chết mà người ta gặp khắp nơi trên đường. Họ nói về những đoàn lữ hành bị đứt đoạn khi bọn lính Cơ Đốc tới giải phóng nô lệ và gửi trả họ về miền Nam, khi bọn lính Touareg nhận tiền của người Cơ Đốc giáo cho từng tên nô lệ mà chúng bắt được trong các đoàn người. Họ nói về hàng hóa và gia súc bị bắt giữ, về những toán cướp đã đi vào sa mạc cùng lúc với người Cơ Đốc giáo. Họ cũng nói về những đội quân Cơ Đốc giáo do người da đen miền Nam hướng dẫn, chúng đông đến nỗi phủ đầy những cồn cát chạy dài nơi chân trời. Rồi họ nói về bọn kỵ binh, chúng bao vây các trại và giết tại chỗ tất cả những ai chống cự rồi sau đó mang những đứa trẻ đi để đưa vào các trường Cơ Đốc trong những đồn lũy trên bờ biển. Thế rồi, khi nghe điều đó, những người khác nói rằng đúng như vậy, do Thượng đế mà ra, và những tiếng rầm rì nổi lên, nhốn nháo như tiếng gió thổi về. Nour nghe những từng rầm rì to dần rồi lắng dịu như làn gió thổi qua sa mạc, trên những cồn cát và cổ họng cậu se thắt, bởi có một mối ế ố ấ ố đe dọa khủng khiếp bao trùm thành phố và tất cả mọi người, một mối đe dọa mà cậu không sao hiểu nổi. Gần như không nháy mắt, giờ đây cậu đang nhìn cái bóng trắng bất động của lão già giữa đám con trai của lão dù cậu đang mệt và đêm thì quá lạnh. Nour nghĩ chỉ có lão, Ma el Aĩnine, mới có thể xoay chuyển được đêm thâu, làm dịu cơn thịnh nộ của đám đông bằng một cử chỉ của bàn tay, hoặc trái lại, kích động nó, chỉ với một vài câu nói sẽ được lặp lại từ cửa miệng này sang cửa miệng khác, và làm lớn dậy một đợt sóng cuồng nhiệt và gay gắt. Giống như Nour, mọi người đều nhìn về phía lão với đôi mắt nóng bỏng vì mệt và sốt, tâm trí họ căng thẳng vì đau đớn. Mọi người đều cảm thấy làn da họ cứng lại vì mặt trời thiêu đốt và môi họ khô ran vì gió sa mạc. Gần như bất động, họ vừa chờ đợi, mắt đăm đăm, vừa rình rập một dấu hiệu. Nhưng Ma el Aĩnine dường như không thấy điều đó. Đôi mắt lão đăm đăm, và cái nhìn của lão hướng ra xa, vượt lên trên những đầu người, vươn tới bên kia các bức tường bằng bùn khô khốc của Smara. Có thể lão tìm câu trả lời cho nỗi lo lắng của con người trong cái sâu thẳm nhất của bầu trời đêm, trong vùng ánh sáng lạ kỳ đang bập bềnh quanh đĩa mặt trăng. Nour nhìn trên đầu mình, nơi mọi khi cậu vẫn trông thấy chòm sao Tiểu Hùng, nhưng cậu không thấy gì. Chỉ có sao Mộc xuất hiện, im lìm trong bầu trời buốt giá. Ánh trăng đã phủ kín tất cả bằng lớp sương mù của nó. Nour yêu các vì sao bởi cha cậu đã dạy cậu biết tên của chúng từ khi cậu còn bé, nhưng đêm đó chừng như cậu không thể nào nhận ra được bầu trời. Tất cả đều bao la và giá lạnh, tất cả đều đắm chìm trong lớp ánh sáng trắng bệch của mặt trăng, mù quáng. Trên mặt đất ánh lửa từ các bếp lửa tạo thành cái lỗ đỏ rực soi sáng những khuôn mặt người một cách thật dị thường. Có thể là nỗi sợ đã làm thấy đổi tất cả, đã làm cho những khuôn mặt và những bàn tay trở nên hốc hác, và làm các hốc mắt trống hoác tối sầm ; chính đêm làm đông ánh sáng trong cái nhìn của con người, nó đào nên cái lỗ mênh mông kia trong tận cùng bầu trời. ầ ề ầ Khi mọi người đứng quây quần bên tù trưởng Ma el Aĩnine đều lần lượt dứt lời - tất cả những người mà Nour đã từng nghe cha cậu nêu tên xưa kia, các thủ lĩnh của những bộ lạc hiếu chiến, những con người của truyền thuyết, những người Maqil, Arib, Oulad Yahia, Oulad Delim, Aroussiyine, Icherguiguine, những người Reguibat với khuôn mặt che mạng đen, và những người nói bằng ngôn ngữ Berbère, những người Idaou Belal, Idaou Meribat, Alt ba Amrane, và cả những người có những cái tên xa lạ, đến từ những nơi cùng kiệt của xứ Mauritanie, của thành phố Tombouctou, những người không thích ngồi bên lò lửa mà chỉ đứng gần ngõ vào quảng trường, phủ áo khoác, dáng vẻ vừa sợ sệt vừa khinh khỉnh, những con người không muốn nói chuyện. Nour nhìn tất cả bọn họ, hết đám người này tới đám người kia, và cậu cảm thấy một khoảng trống được đào sâu trên khuôn mặt của họ như thể họ sắp chết tới nơi rồi. Ma el Aĩnine không thấy họ. Lão không nhìn ai cả, trừ một lần, có thể, khi cái nhìn của lão dừng lại giây lát trên khuôn mặt của Nour, như ngạc nhiên vì gặp cậu giữa chỗ đông người thế này. Chính từ khoảnh khắc đó, nhanh như một tia phản chiếu hầu như không thể nhận ra được, nhưng tim Nour bắt đầu đập nhanh hơn và mạnh hơn, chính từ khoảnh khắc đó Nour đã chờ đợi một dấu hiệu mà lão tù trưởng chắc hẳn sẽ ban cho những người đang tập hợp trước mặt lão. Lão già vẫn bất động như đang nghĩ tới điều gì khác, trong khi hai người con trai của lão nghiêng người về phía lão, nói nhỏ. Sau cùng lão lấy từ trong áo xâu tràng hạt bằng gỗ mun của mình và lão ngồi xổm trong bụi, thật chậm rãi, đầu chúi về phía trước. Đoạn lão bắt đầu cầu nguyện bằng cách đọc lên những công thức mà lão đã viết cho chính mình trong khi các người con của lão ngồi xuống bên cạnh. Sau đó, như thể cử chỉ kia đã quá đủ, tiếng rầm rì của những giọng nói chấm dứt, và sự im lặng đến với quảng trường, mãnh liệt và buốt giá trong ánh sáng trắng ngần của vầng trăng đầy đặn. Những tiếng động xa xôi, hầu như không thể nhận ra được, đến từ sa mạc, từ gió, từ đá khô trên các cao nguyên và, và những tiếng sủa ngắt quãng của lũ chó hoang lại bắt đầu lấp đầy không gian. Không chào nhau, không nói một tiếng nào, không gây một tiếng động nào, ầ những người đàn ông lần lượt đứng dậy và rời quảng trường. Họ bước đi trên con đường đầy bụi, từng người một, bởi họ không còn muốn nói chuyện với nhau nữa. Khi cha cậu chạm vào vai cậu, Nour đứng dậy và cũng cất bước. Trước khi rời quảng trường, cậu quay lại nhìn bóng dáng mong manh kỳ lạ của lão già, giờ đây một mình trong ánh trăng, đang vừa ê a tụng kinh vừa lắc lư phần trên của thân thể như một kẻ đang cưỡi ngựa. Những ngày tiếp theo, nỗi lo âu còn nặng nề hơn nữa trong khu lều trại của thành phố Smara. Thật không thể hiểu nổi nhưng mọi người đều cảm nhận nó như một nỗi đau trong lòng, như một mối đe dọa. Mặt trời thiêu đốt dữ dội vào ban ngày, ánh sáng mãnh liệt của nó phản xạ trên những góc cạnh của sỏi đá và trên những lòng suối khô cằn. Những dãy hoành sơn của vùng Hamada lởm chởm đá rung vang từ xa, và người ta không ngừng trông thấy ảo ảnh trên thung lũng của Saguiet. Từng giờ trong ngày đều có những toán dân du mục mới tới, đờ đẫn vì mệt và khát, họ đến từ miền Nam qua những cuộc đi quá sức, và bóng dáng của họ lẫn lộn với các ảo ảnh lúc nhúc nơi chân trời. Họ đi chậm rì, đôi bàn chân được băng bó trong lớp da dê, vai mang những cái bọc ốm o của họ. Có khi họ dẫn theo những con lạc đà ốm đói, những con ngựa què, những con dê, những con cừu. Họ vội vã dựng lều ờ rìa khu trại. Không ai đến chào họ hay hỏi họ từ đâu tới. Một vài người mang dấu vết thương tích mà họ đã nhận được trong các cuộc chiến đấu chống bọn lính Cơ Đốc hoặc bọn cướp sa mạc; hầu hết đều kiệt sức bởi những chứng sốt và những chứng bệnh tiêu hóa. Thỉnh thoảng một đám tàn quân của một đội quân bị tàn sát hàng loạt tới đây, không người chỉ huy, không đàn bà, những người da đen gần như trần truồng Trong lớp quần áo rách tơi tả, cái nhìn trống hoác và sáng rực vì chứng sốt và cơn điên loạn. Họ đến uống nước nơi mạch nước trước cửa vào Smara, rồi nằm lăn ra dưới bóng các bức tượng của thành phố như để ngủ, nhưng mắt họ vẫn mở trừng. ẫ Từ đêm các bộ lạc tập họp, Nour không gặp lại Ma el Aĩnine lẫn những người con trai của lão. Nhưng cậu có cảm giác rằng những tiếng rầm rì đã lắng dịu khi lão tù trưởng bắt đầu đọc kinh cầu nguyện thật ra chưa dứt hẳn. Giờ thì những tiếng rì rầm không còn nằm trong lời nói. Cha cậu, người anh cả của cậu, mẹ cậu đều không nói gì, và họ quay mặt đi như không muốn người ta hỏi gì họ hết. Nhưng nỗi lo lắng cứ lớn dần lên trong những tiếng động của khu trại, trong những tiếng kêu của loài vật đang nôn nóng, trong tiếng bước chân của những người lữ hành mới đến từ miền Nam, trong các lời lẽ gay gắt khó chịu mà đám đàn ông ném ra cho nhau hoặc tạt vào con cái của họ. Nỗi lo lắng cũng hiển hiện trong những cái mùi dữ dội, mồ hôi, nước tiểu, cái đói, toàn bộ cái vị hăng này đến từ đất và những ngóc ngách của khu trại. Nó lớn lên trong sự khan hiếm của thực phẩm, vài trái chà là có hạt tiêu, sữa đông và bột nhão đại mạch mà người ta ăn vội vàng vào giờ khắc đầu tiên của ban ngày, khi mặt trời chưa nhô khỏi các cồn cát. Nỗi lo lắng hiển hiện trong nước giếng bẩn thỉu mà những bước chân của người và vật đã khuấy đục, và trà xanh không sao cải thiện được. Từ lâu rồi người ta không còn đường cũng không còn mật, và những trái chà là thì khô như đá, còn thịt là thứ thịt hăng hắc và cứng còng của những con lạc đà chết vì kiệt sức. Nỗi lo lắng tăng dần trong những cái miệng khô khốc và trong những ngón tay ứa máu, trong sức nặng đè lên đầu và vai con người, trong hơi nóng của ban ngày, rồi trong cái lạnh của ban đêm khiến trẻ con phải run lập cập trong những nếp thảm cũ. Mỗi ngày, khi đi qua trước khu trại, Nour nghe tiếng những người đàn bà khóc than bởi một ai đó vừa mới chết trong đêm. Mỗi ngày, người ta đi xa hơn một chút trong tuyệt vọng và phẫn nộ, và tim Nour càng se thắt hơn. Cậu nghĩ tới cái nhìn của lão tù trưởng đang bềnh bồng nơi nào xa lắc trên các ngọn đồi vô hình của đêm tối, rồi hướng về cậu trong phút giây ngắn ngủi, như một ánh phản chiếu, và soi sáng cậu ở phần bên trong của chính cậu. ấ ấ ề ể ế Tất cả, họ từ những nơi rất xa tìm về Smara, như thể đó là đích đến trong chuyến đi của họ. Như thể không còn gì để mất nữa. Họ đã đến bởi đất sụt lở dưới chân họ, như thể nó sụp đổ sau lưng họ và từ đây họ không thể nào trở lại phía sau. Và bây giờ họ đang ở đó, hàng trăm con người, hàng nghìn con người, trên một vùng đất không thể tiếp nhận họ, một vùng đất không nước, không cây cối, không thực phẩm. Cái nhìn của họ không ngớt hướng về tất cả mọi điểm của vòng chân trời, về những ngọn núi não lòng của miền Nam, về sa mạc miền Đông, về những lòng suối khô cằn của Saguiet, về những cao nguyên miền Bắc. Cái nhìn của họ cũng mất hút trong bầu trời trống rỗng, không một gợn mây, nơi mặt trời đổ lửa làm lóa mắt. Thế là nỗi lo lắng trở thành nỗi sợ hãi, và nỗi sợ hãi trở thành sự giận dữ, và Nour nghe một luồng sóng kỳ lạ chạy qua trên khu trại, có thể là một cái mùi, nó dâng lên từ những tấm vải lều và lượn quanh thành phố Smara. Đó cũng là một cơn say, cơn say của khoảng trống và cái đói đang biến đổi hình thể và màu sắc của trái đất, đang biến đổi màu xanh của bầu trời, đang làm nảy sinh các hồ nước trong vĩ đại trên những bề sâu nóng bỏng của các ruộng muối, đang đem lại mây, chim chóc và ruồi cho không trung. Nour đến ngồi trong bóng mát của bức thành bằng bùn khi mặt trời đã ngả bóng, và cậu nhìn nơi Ma el Aĩnine đã xuất hiện vào đêm kia, trên quảng trường, cái nơi vô hình mà lão đã ngồi xổm để cầu nguyện. Đôi khi nhiều người đàn ông khác cũng đến ngồi như cậu, bất động nơi ngõ vào quảng trường, nhìn lên bức thành bằng đất đỏ với những khung cửa sổ hẹp. Họ không nói gì, họ chỉ nhìn. Rồi họ quay về trại của họ. Tiếp đến, sau bao ngày sợ hãi và giận dữ trên mặt đất và dưới bầu trời, sau tất cả những đêm lạnh cóng trong đó người ta chỉ ngủ chút ít, người ta thức giấc bất chợt, không hiểu vì sao, hai mắt dáo dác, thân thể ướt đẫm một thứ mồ hôi tệ hại, sau trọn khoảng thời gian dằng dặc làm người già và trẻ em chết dần, bất chợt người ta biết, mà không hiểu cơ sự ra làm sao, rằng phút lên đường đã tới. Nour nghe thấy điều đó, thậm chí là trước khi mẹ cậu nhắc tới nó, trước khi anh cả của cậu vừa nói vừa cười với cậu như thể mọi sự đều đã đổi thay: "Chúng ta sắp lên đường, ngày mai hoặc mốt, em hãy nghe cho kỹ, chúng ta sẽ lên đường về miền Bắc, chính tù trưởng Ma el Aĩnine nói thế, chúng ta sẽ đi thật xa khỏi nơi này!" Có thể tin đó truyền đi trong không khí, hoặc trong bụi, cũng có thể Nour đã nghe nó khi nhìn xuống mặt đất nện trên quảng trường Smara. Tin truyền ra khắp trại thật nhanh, và không khí vang âm như một điệu nhạc. Những giọng nói đàn ông, những tiếng kêu trẻ nhỏ, những âm thanh của đồng, những tiếng làu nhàu của lạc đà, những tiếng giậm chân và những tràng rắm của ngựa, tất cả giống như tiếng cơn mưa ào tới, trút xuống thung lũng và cuốn theo nó dòng nước đỏ của các con suối. Đàn ông và đàn bà vừa đi vừa chạy dọc các lối đi, những con ngựa giậm chân, những con lạc đà bị buộc thì cắn dây, bởi tất cả đều quá nôn nóng. Dù bầu trời nóng cháy, những người đàn bà vẫn đứng trước các căn lều, hết nói lại la inh ỏi. Không ai nói được là tin được truyền đạt trước tiên ra sao, nhưng mọi người đều lặp lại cái câu khiến họ say sưa, ngây ngất: "Chúng ta sắp lên đường, chúng ta sắp lên đường về miền Bắc." Đôi mắt của cha Nour ánh lên trong niềm vui náo động. "Chúng ta sắp lên đường ngay, tù trưởng của chúng ta bảo thế, chúng ta sắp lên đường ngay." "Đi đâu ạ?" Nour hỏi "Về miền Bắc, bên kia những ngọn núi vùng Draa, về hướng Souss, Tiznit. Ở đó có nước và có đất cho tất cả chúng ta, chúng đang đợi chúng ta, chính Moulay Hiba, đức vua đích thực của chúng ta, con trai của Ma el Aĩnine đã nói thế và Ahmed Ech Chems cũng nói thế." ề ố Từng nhóm đàn ông đi trên các con đường hướng về thành phố Smara, và Nour bị cuốn vào những con lốc của họ. bụi đỏ tung bay dưới những bước chân đàn ông và dưới sự giẫm đạp của loài vật, tạo thành một đám mây trên khu trại. Những phát đạn súng trường đầu tiên đã vang lên, và mùi hăng của thuốc súng đã xua đuổi mùi sợ hãi bao trùm lên khu trại. Nour bước tới mà không trông thấy được gì, cậu bị xô đẩy theo dòng người, cậu va vấp vào các vách lều. Bụi làm khô cổ họng cậu và đốt nóng mắt cậu. Sức nóng mặt trời thì kinh khiếp, nó ném những ánh chớp trắng xuyên qua lớp bụi dày. Nour bước đi như vậy hồi lâu, hai cánh tay dang ra phía trước. Rồi cậu ngã xuống đất và bò nép vào một căn lều. Trong bóng mờ, cậu có thể hoàn hồn, tỉnh trí. Một bà lão đang ngồi sát tấm vải lều, một chiếc áo khoác màu xanh lam phù trên người bà. Khi thấy Nour, ban đầu bà tưởng cậu là một tên trộm và bà vừa nguyền rủa vừa ném những hòn sỏi vào mặt cậu. Rồi bà đến gần, và bà trông thấy hai má cậu lấm lem bụi với những vệt đỏ do nước mắt chảy dài. "Cháu làm sao vậy? Cháu có bệnh không?" bà dịu dàng nói. Cậu lắc đầu. Bà bò về phía cậu "Cháu bệnh rồi đó", bà nói: "Bà sẽ cho cháu uống trà nhé." Bà rót nước trà vào một cái cốc bằng đồng "Cháu uống đi." Nước trà nóng không đường làm cậu khỏe lại "Chúng ta sắp sửa đi khỏi chỗ này", cậu ngập ngừng nói Bà lão nhìn cậu. Bà nhún vai. “Đúng, họ nói như vậy." "Đây là một ngày trọng đại của chúng ta", Nour nói Nhưng bà lão không có vẻ tin rằng điều đó quan trọng đến vậy, có thể vì điều đơn giản là bà đã già. "Cháu thì có thể đi tới đó, theo họ nói là miền Bắc. Còn bà thì sẽ chết trước khi tới nơi." Bà lặp lại: "Còn bà thì sẽ chết trước khi tới miền Bắc." Sau đó, Nour bước ra khỏi căn lều. Những lối đi trong khu trại lại vắng tanh, như thể mọi người đều đã bỏ đi. Nhưng trong các căn lều, Nour còn thấy bóng người: những người già, những người bệnh đang run lên vì sốt dù có lò lửa, những người thiếu phụ đang ôm con nhỏ và đang nhìn về phía trước với đôi mắt trống hoác và buồn thiu. Một lần nữa, Nour nghe thấy tim mình thắt lại bởi dưới những căn lều là bóng của thần chết. Khi tới gần bức tường bao quanh thành phố, Nour nghe tiếng nhạc nhịp nhàng mỗi lúc một to. Đàn ông và đàn bà đang tập hợp trước cửa vào Smara, tạo thành một hình vòng cung lớn quanh các nhạc công. Người ta nghe tiếng sáo dìu dặt, khi bổng khi trầm rồi im bặt, trong khi tiếng trống và tiếng đàn tam chơi đi chơi lại cùng một tiết nhạc. Một giọng đàn ông, trịnh trọng và đơn điệu, hát một bài hát Andalousie, nhưng Nour không nhận ra được lời. Trên thành phố màu đỏ, bầu trời trơn nhẵn, xanh ngắt, cứng đờ. Lễ hội của các đoàn lữ hành sắp bắt đầu, nó sẽ kéo dài tới hừng đông ngày mai, và có thể ấ tới tận ngày hôm sau nữa. Những lá cờ sẽ phấp phới tung bay, và kỵ binh sẽ vừa đi vòng quanh các thành lũy vừa bắn những phát súng trường trong khi cánh phụ nữ trẻ thì vừa hò reo vừa rung giọng nghe như tiếng lục lạc. Nour say sưa với âm nhạc và vũ điệu, và cậu quên đi bóng tối chết chóc vẫn còn lảng vảng trong các căn lều. Như thể cậu đã lên đường đi về phía những vách đá cao phía Bắc, nơi bắt đầu của những cao nguyên, nơi phát sinh của những thác nước trong, thứ nước chưa ai trông thấy bao giờ. Tuy nhiên, nỗi lo sợ đã xâm nhập vào cậu khi cậu trông thấy những toán người du mục tới, vẫn còn phảng phất ở một nơi nào đó trong cậu Cậu muốn được thấy Ma el Aĩnine. Cậu đi vòng qua đám đông, tìm cách nhìn thấy lão ở phía những người đàn ông đang hát. Nhưng lão tù trưởng không có mặt trong đám đông. Thế rồi cậu lại đi về phía cửa vào những thành lũy. Cậu vào thành phố cũng qua cái khe hở mà cậu đã từng đi qua vào đêm tập họp. Quảng trường lớn bằng đất nện giờ đây trống trơn. Các bức tường nhà tù trưởng ánh lên trong ánh mặt trời. Quanh cửa nhà, nhiều hình vẽ lạ trên lớp đất sét của bức tường trắng. Nour đứng một hồi lâu ngắm các hình vẽ, và ngắm các bức tường đã cũ kỹ vì gió. Rồi cậu đi về phía trung tâm quảng trường. Mặt đất cứng và nóng dưới đôi bàn chân trần của cậu như những tấm lát bằng đá của sa mạc. Những tiếng sáo ngừng bặt nơi đây, trong cái sân trống trải này, như thể Nour đang ở đầu bên kia của thế giới. Tất cả trở nên bao la quá khi người con trai bước về phía trung tâm quảng trường. Cậu nghe rõ nhịp đập của máu trong động mạch cổ và thái dương, và nhịp đập của trái tim cậu như vang vọng tới tận nền đất dưới gan bàn chân. Khi tới gần bức tường đất sét, nơi lão già đã ngồi xổm để đọc kinh cầu nguyên, Nour nhào xuống nền đất, mặt áp sát đất, không cử động, và cũng không nghĩ tới điều gì nữa. Hai bàn tay của cậu bám ấ ấ vào đất như đang bấu víu vào một vách đá cheo leo, và mùi vị của tro trong bụi bặm xông đầy trong miệng và trong mũi cậu. Sau một hồi lâu, cậu mới dám ngẩng mặt lên và cậu trông thấy cái áo khoác trắng của lão tù trưởng. "Con làm gì đó?", Ma el Aĩnine hỏi. Giọng của lão thật dịu dàng và xa vắng, như thể lão đang ở cuối quảng trường. Nour ngập ngừng. Cậu nhổm dậy trên hai gối nhưng đầu cậu vẫn chúi về phía trước bởi cậu không có can đảm nhìn vào lão tù trưởng. "Con làm gì đó?" lão già lặp lại "Con... con đang cầu nguyện", Nour nói; và cậu tiếp lời: "Con muốn cầu nguyện." Lão tù trưởng mỉm cười "Và con không thể cầu nguyện chứ gì?" "Dạ, không", Nour nói gọn. Cậu nắm lấy hai bàn tay của lão già "Con van ngài, hãy ban cho con phép lành của Thượng đế." Ma el Aĩnine đưa hai bàn tay của lão lướt qua trên đầu Nour, xoa nhẹ gáy cậu. Đoạn lão kéo người con trai đứng dậy và lão hôn cậu. ấ "Con tên gì?" lão hỏi. "Có phải con là người mà ta đã trông thấy trong đêm tập họp đó không?" Nour nói tên cậu, tên cha cậu và tên mẹ cậu. Nghe cái tên cuối cùng này, khuôn mặt của Ma el Aĩnine sáng lên. "Vậy là mẹ con thuộc dòi dõi của Sidi Mohammed, người mà người ta vẫn gọi là AI Azraq, Người Đàn Ông Xanh, phải không?" "Ông ấy là cậu của bà con", Nour nói. "Vậy con đúng là con trai của một vị nữ quý tộc", Ma el Aĩnine nói. Lão đứng lặng hồi lâu, cái nhìn màu tro đăm đăm hướng vào đôi mắt của Nour như thể lão đang tìm kiếm một ký ức. Đoạn lão nói về Người Đàn Ông Xanh mà lão đã từng gặp trong các ốc đảo miền Bắc, bên kia những núi đá vùng Hamada, vào thời kỳ chưa có gì hiện diện nơi đây, ngay cả thành phố Smara. Người Đàn Ông Xanh sống trong túp lều bằng đá và cành cây ở rìa sa mạc, không chút sợ sệt trước con người lẫn dã thú. Mỗi ngày, vào buổi sáng, Người đều bắt gặp trước cửa lều của mình những trái chà là và một tô sữa đông cùng một hũ nước mát, bởi chính Thượng đế đã canh giữ và nuôi sống Người. Khi Ma el Aĩnine đến gặp Người để xin Người rao giảng, Người Đàn Ông Xanh đã không muốn tiếp lão. Suốt một tháng trời, Người cho lão ngủ trước cửa lều mà không nói với lão lời nào cũng không nhìn đến lão. Đơn giản Người chỉ để lại phân nửa những trái chà là và sữa, và Ma el Aĩnine chưa bao giờ được ăn những thức ngon lành hơn; còn nước trong hũ thì giải được cơn khát tức thì và khiến lão chan hòa niềm vui, bởi nó được làm ra từ những giọt sương thuần khiết nhất. Tuy nhiên trong một tháng ròng, lão tù trưởng rất buồn lòng vì Al Azraq vẫn không nhìn tới lão. Sau đó lão quyết định trở về với gia đình bởi lão nghĩ Người Đàn Ông Xanh không thấy lão là người xứng đáng được phục vụ Thượng đế. Lão đi trên con đường của ấ ấ làng quê lão, không hy vọng gì, bất chợt trông thấy một người đang đợi lão. Người đó là AI Azraq, Người hỏi tại sao lão rời xa Người. Đoạn Người mời lão ở lại với Người, ở ngay nơi mà Người đã dừng chân. Ma el Aĩnine còn ở lại bên Người nhiều tháng, và một ngày nọ, Người Đàn Ông Xanh bảo Người không còn gì để dạy lão nữa. "Nhưng Người vẫn chưa cho con lời dạy của Người", Ma el Aĩnine nói. Thế là Al Azraq chỉ cho lão đĩa chà là, tô sữa đồng và hũ nước. "Ta đã không chia sẻ với con tất cả các thứ này mỗi ngày từ lúc con tới hay sao?" Tiếp theo, Người chỉ cho lão chân trời ở hướng Bắc, về phía Saguiet el Hamra, và bảo lão hãy xây dựng một thành phố thánh cho những người con trai của lão, và Người còn báo trước rằng một người trong số họ sẽ trở thành vua. Thế là Ma el Aĩnine đã rời khỏi làng quê cùng với người thân, và lão đã xây dựng thành phố Smara. Khi kể xong câu chuyện trên, lão tù trưởng lại hôn Nour và quay trở vào trong bóng tối ngôi nhà của lão. Hôm sau, vào buổi mặt trời lặn, Ma el Aĩnine rời khỏi nhà để đọc bài kinh cầu nguyện cuối cùng. Đàn ông và đàn bà trong trại gần như không ngủ, bởi họ không ngừng hát và giậm chân xuống mặt đất. Nhưng chuyến đi lớn về phía bên kia sa mạc đã bắt đầu, và cơn say của cuộc đi dọc con đường cát đã có trong thân thể họ, nó làm cho họ chan hòa trong hơi thở nóng bỏng, nó làm lấp lánh những ảo ảnh trước mắt họ. Không ai quên được cái đau, cái khát, cái nóng ghê hồn của mặt trời trên cát và đá không cùng không tận, cũng không quên được chân trời đang lùi xa mãi. Không ai quên được cái đói gặm mòn con người, không riêng gì cái đói thực phẩm, mà tất cả cái đói, đói hy vọng và giải phóng, đói tất cả những gì còn thiếu thốn và đang đào sâu cơn choáng váng trên mặt đất, cái đói xô đẩy người ta về phía trước trong những lớp bụi mù mịt giữa đàn thú ngây dại, cái đói bắt người ta phải leo tới tận đỉnh các ngọn đồi nơi người ta phải trở xuống với hàng chục, hàng trăm ngọn đồi khác giống hệt ở trước mặt. Ma el Aĩnine lại ngồi xổm trên đất nện giữa quảng trường, cạnh những ngôi nhà quét vôi. Nhưng lần này các thủ lĩnh bộ lạc đã ngồi bên lão. Lão chỉ cho Nour và cha cậu ngồi sát bên lão trong lúc người anh cả và mẹ cậu còn trong đám đông. Tất cả đàn ông và đàn bà trong trại đều tụ tập thành hình vòng cung trên quảng trường, một số người ngồi xổm, với áo khoác len phủ lên người để chống cái lạnh về đêm, những người khác thì đứng hoặc đi lại dọc theo các bức tường của quảng trường. Đám nhạc công chơi nhạc buồn bằng cách gảy vào sợi dây đàn ghi ta và dùng đầu ngón trỏ gõ lên lớp da của những cái trống đất nhỏ. Giờ đây gió sa mạc thổi từng chập, nó ném vào mặt người những hạt cát làm cháy da. Trên quảng trường, bầu trời màu lam tối đã muốn chuyển sang màu đen. Khắp nơi, quanh thành phố Samra, là niềm im lặng vô tận, niềm im lặng của những ngọn đồi đá đỏ, niềm im lặng của màu lam sâu hun hút của đêm. Như thể không hề có ai khác ngoài những con người này, bị cầm tù trong cái miệng núi lửa cỏn con bằng bùn khô của họ, bám chặt vào vùng đất đỏ quanh vũng nước xám ngắt. Ở chỗ khác là đá và gió, những đợt sóng của cồn cát, muối, rồi biển, hoặc sa mạc. Khi Ma el Aĩnine bắt đầu đọc bài kinh cầu dzikz của mình, giọng lão vang âm một cách kỳ lạ trong không khí im lặng của quảng trường, giống như tiếng gọi xa xôi của một con dê cái. Lão hát, giọng như thấp xuống, đồng thời lắc lư phần trên thân thể lão từ trước ra sau, nhưng niềm im lặng trên quảng trường, trong thành phố và trên toàn thung lũng Saguiet el Hamra bắt nguồn từ khoảng trống của gió sa mạc, và giọng của lão già trong sáng và chắc khỏe như giọng một con vật đầy sức sống. Nour vừa lắng nghe tiếng gọi dài vừa rùng mình. Mỗi người đàn ông và mỗi người đàn bà trên quảng trường đều im lìm bất động, cái nhìn ầ ể như dội ngược vào phần bên trong của thân thể. Phía Tây, trên những ngọn núi đá lởm chởm của vùng Hamada, mặt trời trông giống như cái đốm to tướng đỏ rực. Những cái bóng kéo ra dài ngoằng trên mặt đất rồi nhập vào nhau, như nước đang dâng lên. "Vinh quang thuộc về Thượng đế, hỡi Thượng đế đời đời hiện hữu, hỡi Thượng đế không chết bao giờ, vinh quang thuộc về Thượng đế không có cha lẫn con, không có chỗ tựa, một mình và do chính mình mà có, vinh quang thuộc về Thượng đế là người dìu dắt chúng con, bởi các sứ giả của Thượng đế đã mang chân lý tới..." Giọng Ma el Aĩnine run run sau mỗi lời cầu, hụt hơi, mong manh như một ngọn lửa, tuy nhiên từng âm tiết dài, nổi bật và thuần phác vang lên nơi trung tâm của sự im lặng. "Vinh quang thuộc về Thượng đế người ban cho độc nhất, người thấy độc nhất, người biết, thấy, hiểu và sai khiến, vinh quang thuộc về người mang đến cái tốt và cái xấu, bởi lời nói của Người là nơi ẩn náu duy nhất, bởi ý chí của Người là ước vọng duy nhất, chống lại cái xấu mà con người đã gây ra, chống lại cái chết, chống lại bệnh tật, chống lại sự đau khổ đã được tạo ra cùng thế giới..." Đêm dần dần lấp đầy tất cả, trước tiên là mặt đất và những chỗ trũng của cát, dưới chân những bức tường bằng đất bùn, trước những con người bất động, dưới những tấm vải lều, trong những cái lỗ nơi chó nằm ngủ, trong chiều sâu có màu lục của nước giếng. "Đó là tên của người chở che, tên của Người đã đến với con và cho con sức mạnh, bởi tên Người là vĩ đại nhất, tên Người giúp con bất chấp kẻ thù, và con thầm đọc tên Người khi con bước vào cuộc chiến bởi tên Người là cái tên ngự trị trên mặt đât và trong bầu trời..." Trong bầu trời, nơi ánh sáng mặt trời đang lẩn trốn về phương Tây trong khi cái lạnh thoát khỏi những chiều sâu của mặt đất, dâng lên qua cát cứng và len vào chân con người "Vinh quang thuộc về Thượng đế bao la, chỉ có sức mạnh và quyền uy nơi Thượng đế, đấng tối cao, nơi Thượng đế, đấng bao la, Thượng đế, đấng tối cao, Thượng đế, đấng bao la, Người không đến từ mặt đất lẫn bầu trời, người sống ở ngoài cái nhìn của con, ở ngoài sự hiểu biết của con, Người hiểu con nhưng lại là người mà con không thể hiểu nổi, Thượng đế đấng tối thượng, Thượng đế đấng bao la..." Giọng nói của Ma el Aĩnine vang vọng rất xa trong sa mạc, như thể nó bay tới tận những nơi cùng kiệt của trái đất sầu não, xa khỏi các cồn cát và khe núi, ở bên kia những ngọn đồi trần trụi và những thung lũng khô Cứng, như thể nó đã tới tận các vùng đất mới, ở bên kia những ngọn núi vùng Draa, trên những cánh đồng lúa mì và kê nơi cuối cùng con người sẽ tìm được thực phẩm. "Thượng đế đấng quyền uy, Thượng đế đấng toàn bích, bởi không có thiên tính nào khác ngoài Thượng đế đấng thánh hiền đầy quyền uy, đấng tối cao đầy lòng nhân, đấng gần gũi đầy thông tuệ, đấng ban tặng khôn cùng, đấng bao dung độc nhất, đấng nghĩa ân, đấng chỉ huy các đạo quân của bầu trời và mặt đất, đấng toàn bích, đấng dịu hiền..." Giọng yếu ớt và xa vắng làm động lòng từng người đàn ông, từng người đàn bà, như chạm tới phần bên trong của thân thể họ, và như thể nó thốt ra từ cổ họng họ, như thể nó hòa lẫn với những tư tưởng và những lời nói của họ, để làm nên nhạc điệu của nó. ố ấ ề ấ ằ "Vinh quang cùng những gì tốt đẹp nhất thuộc về đấng vĩnh hằng, vinh quang cùng những gì tốt đẹp nhất thuộc về đấng bất diệt, đấng có cuộc hiện sinh là tối thượng, bởi Người là đấng hằng nghe và hằng biết...". Không khí ập vào ngực Ma el Aĩnine, sau đó lão thở hắt ra gần như không động đậy đôi môi, mắt lão nhắm nghiền, phần trên của thân thể lão lắc lư như một cái cây. "Thượng đế của chúng con, vị chúa tể, Thượng đế của chúng con, người tốt nhất, ánh sáng của ánh sáng, thiên thể của đêm, bóng tối của bóng tối, Thượng đế của chúng con, chân lý độc nhất, ngôn từ độc nhất, vinh quang và suy tôn dành cho người đang chiến đấu trong cuộc chiến của chúng con, vinh quang cùng những gì tốt đẹp nhất thuộc về người mà cái tên đã đủ lật nhào những kẻ thù của chúng con, vị chúa tể trên đất Thượng đế..." Sau đó đàn ông và đàn bà cùng thốt lên những lời của bài kinh cầu mà chính họ cũng không hay biết, chính giọng nói của họ cất lên mỗi lần giọng nói của lão già ngừng lại trong run rẩy. "Người thật vĩ đại, đấng quyền uy, đấng toàn bích, người là chúa tể của chúng con và là Thượng đế của chúng con, người mà tên được viết trên da thịt chúng con, đấng chí tôn, đấng hiển thánh, đấng thiên khải, người không có ai là thầy, người đã từng nói: ta là một kho tàng ẩn giấu, ta muốn được mọi người biết tới, và để được điều đó ta đã sáng tạo ra con người..." "Người thật vĩ đại, người không có đối thủ cũng không có kẻ đồng đẳng, người là đấng có trước mọi cuộc sinh tồn, đấng đã sáng tạo ra sự sinh tồn, đấng trường tồn, đấng chiếm hữu, đấng trông thấy, nghe thấy và thấu hiểu tất cả, đấng toàn bích, đấng vô song..." "Người thật vĩ đại, thật đẹp đẽ trong trái tim những con người trung thành với Người, Người thuần khiết trong trái tim kẻ đã nhận ra Người, Người vô song trong tâm hồn kẻ đã vươn tới Người, Người là chúa tể của chúng con, vị chúa tể cao vời nhất..." "Người không có đối thủ cũng không có kẻ đồng đẳng, Người là đấng sống trên đỉnh của ngọn núi cao nhất, là đấng sống trong cát sa mạc, là đấng sống trong biển, trong bầu trời, trong nước, là đấng mệnh danh là con đường, là đấng thuộc về đêm và những vì sao..." Bây giờ các nhạc công thốt nhiên tấu nhạc nhưng chính họ cũng không nhận ra điều đó, và thứ âm nhạc êm dịu của họ phụ họa với giọng nói của Ma el Aĩnine với tiếng măng đô lin the thé và trầm đục, với tiếng trống nhỏ rì rầm, rồi bất chợt đứt đoạn như tiếng chim kêu, với giai điệu thuần khiết của những cây sáo bằng ống sậy. Giờ đây, giọng nói của lão già và âm điệu của những ống sậy tương hợp như thể chúng nói cùng điều giống nhau, vượt lên trên tiếng nói của con người và tiếng chân bước thình thịch trên nền đất cứng. "Người không có đối thủ cũng không có kẻ đồng đẳng, bởi Người là đấng quyền uy, là đấng hiện hữu không do ai sáng tạo, là ánh sáng mang lại sự sống cho những ngọn nến, là ngọn lửa nhóm lên những ngọn lửa khác, là mặt trời đầu tiên, là vì sao đầu tiên của đêm tối, là đấng sinh ra trước mọi sự sinh thành, là đấng khai sinh và hủy diệt mọi sự sống trên trái đất, là đang tác tạo và tháo dỡ mọi hình thù của muôn loài...". Thế rồi đám đông nhảy múa và hét hò vang dậy: ắ ầ ề ầ "Houvva! Ngài đó!" vừa lắc lư đầu vừa giơ lòng bàn tay về phía bầu trời đen. "Người là đấng đã mang chân lý tới mọi thánh thần, dâng đã ban phép lành cho đức Mohammed, đấng đã ban quyền uy và ngôn từ cho nhà tiên tri, chúa tể của chúng con, sứ giả của Thượng đế trên trái đất...". "A! Ngài đó!" "Vinh quang thuộc về Thượng đế, những gì tốt đẹp nhất thuộc về Thượng đế, đấng bao la, đấng toàn bích, trái tim của sự bí ẩn, Người được khắc ghi trong lòng mọi người, đấng tối thượng, đấng bao la...". "Houvva! Ngài đó!" "Vinh quang thuộc về Thượng đế bởi chúng con là những sinh linh của Người, chúng con nghèo hèn, chúng con dốt nát, chúng con mù, điếc, chúng con bất toàn...". "A! Houvva!" "Ôi Đấng của mọi điều sáng tỏ, hãy ban cho chúng con chân lý! Ôi Người là đấng hiền dịu, đấng nhân từ, đấng nhẫn nại, đấng độ lượng, Người không cần một ai để hiện hữu!" "A! Houwa!" "Vinh quang thuộc về Thượng đế vốn là vua, là thánh, là đấng quyền uy, là người chiến thắng, là người vinh quang, là người hiện hữu ố ầ ấ ấ trước mọi cuộc sống, là thần linh, là đấng bao la, là đấng chí tôn, là người chiến thắng trước mọi kẻ thù, là người biết tất cả, thấy tất cả, nghe tất cả, là thần linh, nhà thông thái, đấng bao la, người sáng tạo, đấng độc tôn, đấng bao la, người thấy tất cả, nghe tất cả, là đấng toàn mỹ, đấng độ lượng, đấng dũng liệt, đấng toàn bích, đấng tối thượng, đấng bao la..." Giờ đây Ma el Aĩnine đã hét to. Rồi bất chợt ngừng bặt như tiếng gáy của loài dế trong đêm. Rồi thì tiếng rì rầm của những giọng nói và những tiếng trống cũng lặng im, tiếng đàn ghi ta và sáo cũng lặng tắt, và một lần nữa chỉ còn lại niềm im lặng ghê rợn kéo dài siết chặt hai thái dương và khiến cho tim phải phập phồng. Đôi mắt nhòa lệ, Nour nhìn lão già đang nghiêng về phía mặt đất, hai bàn tay ôm lấy mặt, và cậu nghe trong tận cùng của chính cậu, nhanh như một lưỡi dao, một cảm giác hãi hùng cực độ mà cậu chưa từng biết tới. Thế rồi đến lượt Larhdaf, người con trai thứ ba của Ma el Aĩnine, cất tiếng hát. Tiếng hát hùng tráng của anh bùng vỡ trên quảng trường, không phải với cái sắc nét thuần túy trong giọng Ma el Aĩnine, mà giống như một âm thanh cuồng nộ, và ngay lúc đó, các nhạc công lại bắt đầu tấu nhạc. "Ôi Thượng đế, Thượng đế của chúng con! Người hãy đón nhận những chứng nhân của lòng tin và chân lý, những bạn đường của Moulay bou Azza, của Bekkaĩa, những bạn đường của những người Goudfia, người hãy lắng nghe những lời nói của kỷ niệm đúng như chúa tể của chúng con tù trưởng Ma el Aĩnine, đã thốt lên!" Những tiếng rì rầm chợt biến thành những tiếng hò reo. "Vinh quang thuộc về tù trưởng Ma el Aĩnine của chúng con, vinh quang thuộc về sứ giả của Thượng đế!". ề ề "Vinh quang thuộc về tù trưởng Ma el Aĩnine! Vinh quang thuộc về bạn đường của những người Goudfia!". "Ôi Thượng đế, Người hãy nghe kỷ niệm của con trai người, tù trưởng Ahmed mà mọi người vẫn gọi là ech Chems, Mặt Trời, người hãy nghe kỷ niệm về Ahmed ed Dehiba, con trai của người mệnh danh là Mảnh Vàng, Moulay Hiba, đức vua đích thực của chúng con!" "Vinh quang thuộc về họ! Vinh quang thuộc về Moulay Hiba, đức vua của chúng con!" Giờ đây những người đàn ông lại trở về với cơn ngây ngất của họ, và cái giọng khàn khàn của người thanh niên như làm thức dậy cơn thịnh nộ và xua đuổi cái mệt. "Ôi Thượng đế, Thượng đế của chúng con, Người hãy bằng lòng với những kẻ cùng đi với Người và những kẻ tiếp bước theo Người! Những con người vinh quang và cao cả, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những con người của tình yêu và chân lý, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những con người chung thủy và thuần phác, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những đấng chúa tể, những con người thanh cao, những chiến binh, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những vị thánh, những người được ban phúc lành, những người phục vụ đức tin, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Những kẻ nghèo khó, những kẻ lang thang, những kẻ khốn khổ, xin Thượng đế hãy bằng lòng với họ! Mong Thượng đế chấp thuận cho chúng con được hưởng đại phúc của người!" Tiếng rì rầm lớn lên, và dội vào những bức tường nhà, trong khi những giọng nói hét lên những cái tên, khắc ghi chúng mãi mãi vào trí nhớ, trên nền đất lạnh lẽo và trần trụi, và trong bầu trời đầy sao. "Đại phúc của vị chúa tể, sứ giả của Thượng đế, hãy ban xuống chúng con, ôi Thượng đế, và đại phúc của thiên sứ Ilias, đại phúc của El Khadir, người đã uống nơi suối nguồn của cuộc sống. Ôi Thượng đế và phúc lành của Ouways Qami, ôi Thượng đế, và phúc lành của Abd el Qâdir al Jilani vĩ đại, vị thánh của thành phố Bagdad, sứ giả của Thượng đế trên mặt đất này, ôi Thượng đế..." Những cái tên vang dậy trong niềm im lặng của đêm, vượt lên trên những điệu nhạc đang thì thầm và lay động, không nghe ra được, như một hơi thở. "Chúng con gồm tất cả những con người trên mặt đất, và những con người của biển cả, ôi Thượng đế, những con người của miền Bắc, những con người của miền Nam, ôi Thượng đế. Những con người của miền Đông. Những con người của miền Tây, ôi Thượng đế. Những con người của bầu trời những con người của mặt đất, ôi Thượng đế..." Những lời lẽ của kỷ niệm bao giờ cũng đẹp nhất, chúng đến từ vùng xa xôi nhất của sa mạc để gặp lại trái tim của từng người đàn ông, từng người đàn bà, như một giấc mơ xưa cũ lại bắt đầu. "Ôi Thượng đế xin hãy ban cho chúng con đại phúc của những vị chúa tể, Abou Yaza, Yalannour Abou Madian, Maarouí, AI Jounaid, Al Hallaj, Al Chibli, những vị chúa tể vĩ đại thần thánh của thành phố Bagdad..." Ánh trăng từ từ xuất hiện phía trên những ngọn đồi đá, về hướng Đông Saguiet, và Nour vừa nhìn nó vừa lắc lư thân mình, đôi mắt bất động trước cái sâu thẳm của bầu trời tối đen. Ở giữa quảng trường, lão tù trưởng Ma el Aĩnine vẫn trong tư thế nghiêng nghiêng, lão ắ ầ ầ trắng bệch, gần như ma quái. Chỉ có những ngón tay gầy gò của lão là động đậy, chúng đang lần tràng hạt bằng gỗ mun. "Ôi Thượng đế, Người hãy ban cho chúng con phúc lành của các vị chúa tể, AI Halwi, người nhảy múa cho trẻ nhỏ, Ibn Haouari, Tsaouri, Younous ibn Obaĩd, Baẹri, Abou Yazrd, Mohammed as Saghir as Souhaili, người giảng những ngôn từ của Thượng đế, Abdesselaam, Glazali, Abou Chouhaỉb, Abou Mahdi, Malik, Abou Mohammed Abdelazziz ath Thobba, vị thánh của thành phố Marrakech, ôi Thượng đế!" Những cái tên chính là cơn say của kỷ niệm, chúng giống như con mắt của các chòm sao và cái nhìn lạc lõng của chúng tạo ra sức mạnh, nơi đây, trên quảng trường giá lạnh, nơi mọi người đang tập hợp. "Thượng đế, ôi Thượng đế, Người hãy ban cho chúng con phúc lành của tất cả những vị chúa tể, những bạn đường, những người tùy tùng, đội quân chiến thắng của người, Abou Ibrahim Tounsi, Sidi bel Abbas Sebtí, Sidi Ahmed el Haritsi, Sidi Jakir, Abou Zakri Yahia an Navvâni, Sidi Mohammed ben Issa, Sidi Ahmed er Riíaĩ, Mohammed bel Sliman al Jazouli, vị chúa tể vĩ đại, sứ giả của Thượng đế trên mặt đất này, vị thánh của thành phố Marrakech, ôi Thượng đế!" Những cái tên trở đi trở lại trên tất cả những đôi môi, tên người, tên sao, tên của những hạt cát trong gió sa mạc, tên của những ngày và những đêm vô tận, ở bên kia cái chết. "Thượng đế, ôi Thượng đế, hãy ban cho chúng con phúc lành của tất cả những vị chúa tể trên trái đất, những người đã tỏ điều bí mật, những người hiểu cuộc sống và sự tha thứ, những vị chúa tể đích thực của mặt đất, của biển cả và của bầu trời. Sidi Abderrhaman, mệnh danh là Cahabi, bạn đường của bậc tiên tri, Sidi Abdelqâdir, Sidi Embarek, Sidi Belkheừ, người vắt sữa từ một con dê đực, Lalla Mancoura, Lalla Fathima, Sidi Ahmed ai Haroussi, người ráp lại một cái hũ vỡ, Sidi Mohammed, người mệnh danh là Al Azraq, Người Đàn Ông Xanh, người chỉ đường cho tù trưởng vĩ đại Ma el Aĩnine, Sidi Mohammed ech Cheikh el Kaamel, người toàn bích, và tất cả những vị chúa tể của mặt đất, của biển cả và của bầu trời..." Im lặng lại trở về, cuồng nhiệt và lấp lánh. Giai điệu của các ống sáo thi thoảng lại vang lên, thoảng qua rồi im bặt. Những người đàn ông đứng dậy và bước về phía cổng vào thành phố. Một mình, Ma el Aĩnine không động đậy người nghiêng về phía mặt đất, mắt vẫn nhìn vào điểm vô hình trên mặt đất được soi sáng bởi thứ ánh sáng trắng bệch của vầng trăng. Khi điệu múa bắt đầu, Nour đứng dậy và nhập vào đám đông. Những người đàn ông giậm lên nền đất cứng dưới bàn chân trần, không tiến cũng không lùi, siết chặt lấy nhau thành một hình trăng lưỡi liềm chắn ngang quảng trường. Tên của Thượng đế được thốt lên vang dậy, như thể mọi người cùng lúc đang đau đớn và xâu xé nhau. Trống đất điểm từng tiếng hét: “Houwa! Ngài đó!...”, và những người đàn bà thì vừa reo to vừa rung họng. Đó là một thứ âm nhạc luồn sâu vào đất lạnh, bay cao tới tận cùng bầu trời tối đen, hòa trộn vào quầng sáng của vầng trăng. Hiện không còn thời gian nữa, không còn khổ đau nữa. Những người đàn ông và những người đàn bà vừa gõ lên mặt đất bằng mũi bàn chân và bằng gót chân vừa lặp lại tiếng hét không cưỡng lại được: “Houwa! Ngài đó!... Hayy!... Sông mãi...” Đầu họ hết quay sang phải lại quay sang trái, và âm nhạc từ trong thân thể họ vượt qua cuống họng bay tới tận vùng xa xôi nhất của chân trời. Hơi thở khàn khàn và đứt quãng như chắp cánh cho họ bay bổng trên sa mạc bao la, dài theo đêm tối, hướng về những cái đốm nhàn nhạt của buổi bình minh, ở bên kia những ngọn núi, trên vùng đất Souss, hướng về Tiznit, về đồng bằng Fès. “Houwa! Ngài đó!... Thượng đế đó!” Giọng khàn của đàn ông hét lên trong cơn ngây ngất với âm thanh trầm đục của những cái trống đất và với những điệu sáo bằng ống sậy trong khi những người đàn bà ngồi xổm vừa lắc lư nửa mình trên, vừa dùng gan bàn tay vỗ vào những vòng kiềng nặng nề bằng bạc và đồng. Giọng họ run lên từng hồi như những tiếng sáo, trong giới hạn mà tri giác con người có thể nhận ra được, rồi ngừng bặt. Bây giờ những người đàn ông lại giậm chân và âm thanh xé ruột của hơi thở họ dội lên quảng trường. “Houwa! Ngài đó!... Hayy! Sông mãi!... Houwa! Hayy! Houwa! Hayy!” Mắt họ lim dim, đầu họ ngửa ra sau. Đó là thứ âm thanh vượt khỏi những thế lực tự nhiên, một thứ âm thanh xé toạc hiện thực và đồng thời xoa dịu như động tác qua lại của một lưỡi cưa khổng lồ đang cắt nghiến một thân cây. Mỗi cái thở ra đau đớn và sâu thẳm làm lớn dần vết thương của bầu trời, vết thương hợp nhất con người với không gian, trộn lẫn máu và bạch huyết của họ. Mỗi người hát đều hét to tên của Thượng đế, mỗi lúc một nhanh hơn, cổ vươn ra như một con bò đang rống, trong sự cố gắng, các động mạch cổ của họ trông như những sợi dây. Ánh sáng các lò lửa và ánh trăng sáng trắng soi rõ những thân thể lắc lư, như thể những tia sáng không ngừng nhảy nhót trong đám bụi mờ. Hơi thở hổn hển càng lúc càng dồn dập, nó ném ra những tiếng gọi gần như câm nín, đôi môi bất ổ ố động, cổ họng hé mở, và trên quảng trường, trong cái trống trải của đêm sa mạc, người ta, chỉ còn nghe tiếng khò khè của những cổ họng đang thở. "Hh! Hh! Hh! Hh!" Giờ đây không còn lời nói nữa. Như thể tất cả đều trực tiếp với trung tâm bầu trời và mặt đất, hợp nhất trong hơi thở mãnh liệt của con người, như thể trong sự dồn dập của nó, nhịp thở xóa bỏ ngày đêm, năm tháng, mùa, xóa bỏ cả không gian vắng bóng hy vọng, và kéo lại gần sự kết thúc của mọi chuyến đi, sự kết thúc của mọi thời kỳ. Nỗi thống khổ lớn quá, và cái chuếnh choáng của hơi thở làm tay chân rung động, làm cổ họng giãn nở. Giữa những người đàn ông xếp thành hình vòng cung, những người đàn bà chỉ nhảy múa bằng đôi bàn chân trần, thân thể bất động, hai cánh tay hơi tách khỏi thân thể và run thật nhẹ. Nhịp điệu trầm đục của gót chân họ len vào đất tạo thành những tiếng thình thịch liên hồi như một đạo quân đang đi qua. Bên các nhạc công, những chiến binh miền Nam, mặt che mạng đen, nhảy bật đầu gối lên thật cao như những con chim khổng lồ đang tìm cách bay lên. Rồi dần dần, trong đêm, họ ngừng động đậy. Đàn ông và đàn bà lần lượt ngồi xổm trên mặt đất, hai cánh tay dang ra phía trước, gan bàn tay hướng về phía bầu trời; chỉ có hơi thở khàn khàn của họ tiếp tục hắt ra, ném vào cõi thinh lặng cùng những âm tiết không mệt mỏi: "Hh! Hh! Houva! Hayy!... Hh! Hh!" Âm thanh xé ruột của những hơi thở nghe vang dậy và mãnh liệt đến nổi người ta tưởng chừng tất cả đều đã lên đường thật xa khỏi Smara, xuyên qua bầu trời, trong gió lộng, hòa lẫn vào ánh trăng và bụi mỏng sa mạc. Im lặng là điều bất khả, sự cô đơn cũng vậy. Âm thanh của những hơi thở đã lấp đầy cả đêm tối, đã phủ trọn không gian. Ngồi giữa quảng trường, Ma el Aĩnine không nhìn một ai. Hai bàn tay lão siết chặt xâu tràng hạt đen nhánh, làm rơi từng hạt theo từng hơi thở hắt ra của đám đông. Chính lão là trung tâm của hơi thở, người đã chỉ ra cho mọi người con đường của sa mạc, người đã dẫn từng nhịp thở. Giờ đây lão không còn chờ đợi điều chi nữa. Lão không còn tra hỏi ai nữa. Lão thở, chính lão cũng thở theo hơi gió của bài kinh cầu nguyện, như thể lão và mọi người khác đều có chung một cổ họng, một lồng ngực. Và hơi thở của họ đã mở ra con đường về hướng Bắc, về những vùng đất mới. Lão già không còn cảm nhận tuổi già, cơn mệt, sự lo âu. Hơi thở lưu hành trong lão, nó đến từ tất cả những cái miệng kia, hơi thở vừa dữ dội vừa dịu dàng tăng cường phần sống của lão. Những người đàn ông không nhìn Ma el Aĩnine nữa. Mắt nhắm lại, tay dang rộng, mặt hướng về đêm tối, họ đang bay lượn, họ đang lướt đi trên con đường dẫn về miền Bắc. Khi ánh sáng ban ngày xuất hiện, ở phương Đông, trên những ngọn đồi đá, đàn ông và đàn bà bắt đầu đi về phía các căn lều. Dù đã qua những ngày và những đêm ngây ngất đó, không người nào cảm thấy mệt. Họ thắng yên ngựa, cuốn những tấm vải lều lớn bằng len, chất đồ đạc lên lưng lạc đà. Mặt trời chưa lên thật cao trong bầu trời khi Nour và anh cậu cất bước trên con đường đầy bụi hướng về miền Bắc. Họ mang trên vai một cái ba lô đựng quần áo và lương thực thực phẩm. Phía trước họ, trên đường, nhiều người đàn ông khác và trẻ em khác cũng đang bước, và bụi màu xám đỏ bắt đầu bay lên về phía bầu trời xanh. Đâu đây tại những cửa vào thành phố Smara, với những chiến binh xanh trên lưng ngựa và những người con trai của mình vây quanh, Ma el Aĩnine nhìn đoàn lữ hành dài đang kéo giãn ra xuyên qua đồng bằng hoang mạc. Thế rồi lão khép lại chiếc áo khoác trắng của mình, và lão dùng bàn chân thúc vào cổ con lạc đà. Chầm chậm, không quay đầu lại, lão rời xa thành phố Smara, lão đi về phía sự cùng tận của mình. Hạnh phúc Mặt trời lên cao, những cái bóng ngả dài trên cát xám, trên lớp bụi của con đường. Các cồn cát dừng lại trước biển. Những cây con mập bự run rẩy trong gió. Trong bầu trời xanh ngắt, lạnh lẽo, không một bóng chim, không một gợn mây. Mặt trời vẫn có đây. Nhưng ánh sáng buổi ban mai hơi lay động một chút như không lấy gì làm chắc chắn lắm. Dọc theo con đường, men những cồn cát xám, Lalla bước chậm rãi. Thỉnh thoảng cô dừng lại, nhìn một vật gì đó dưới đất. Hoặc cô ngắt một chiếc lá, vò nó trong các ngón tay để nghe cái mùi dìu dịu, cay cay của nhựa cây. Cây có màu lục sẫm, chúng lấp lánh, chúng giống như những loài tảo. Đôi khi có một con ong đất lớn màu vàng ánh trên một lùm cây độc cần, và Lalla chạy đuổi theo nó. Nhưng cô vẫn không đến gần quá bởi phần nào cô vẫn sợ. Khi con côn trùng bay lên, cô chạy theo nó, hai bàn tay giơ thẳng ra như thật sự muốn bắt nó. Nhưng đúng là cô chỉ đùa thôi. Quanh quẩn nơi đây chỉ có điều này: ánh sáng tít tắp của bầu trời. Những cồn cát lung linh trong cơn gầm gào của biển mà người ta không trông thấy được, nhưng vẫn nghe ra. Những cây con mập bự lấp lánh chất muối trông như một thứ mồ hôi. Đây đó có những con côn trùng, một con bọ rùa xanh xao, một loài ong vò vẽ với thân hình thắt lại như bị cắt làm đôi, một con rết để lại những dấu vết mỏng mảnh của nó trong bụi; và những con ruồi dẹp, màu kim loại, đang bay vo ve tìm kiếm chân và mặt của cô bé để hút chất muối. Lalla biết rõ tất cả những con đường, tất cả những chỗ trũng của các cồn cát. Cô có thể nhắm mắt mà đi khắp mọi nơi, và cô biết ngay tức khắc mình đang ở đâu, chỉ cần đôi bàn chân trần của cô chạm vào đất. Gió lượn từng hồi qua các cồn cát, ném những nắm lá kim vào da thịt cô bé, làm rối tung mái tóc đen của cô. Lớp áo dài của Lalla dán chặt vào làn da ướt đẫm của cô, cô phải kéo lần vải mới tách nó ra được. Lalla biết rõ tất cả những con đường, chúng chạy tới những nơi xa tít mù dài theo những cồn cát xám, giữa các bụi rậm, chúng tạo thành một đường cong và vòng lại phía sau, chúng không hề dẫn dắt về đâu. Thế mà mỗi lần đi ở đây, cô lại thấy có cái gì mới mẻ. Hôm nay chính con ong đất vàng đã dẫn cô đi thật xa, khỏi những ngôi nhà của dân chài và khỏi đầm nước mặn. Một hồi sau, giữa các bụi rậm, bỗng hiện ra một khung kim loại han gỉ đang giơ cao móng vuốt và cặp sừng đầy dọa nạt của nó. Tiếp theo, trong Lớp cát của con đường, cô trông thấy một cái vỏ đồ hộp bằng kim loại trắng, không nhãn hiệu, với hai cái lỗ ở hai bên nắp. Lalla tiếp tục vừa bước thật chậm vừa chăm chú nhìn cát xám khiến hai mắt cô hơi khó chịu. Cô rình rập mọi thứ trên mặt đất, không nghĩ tới điều gì khác, không nhìn trời. Cô dừng bước dưới một cây thông tán lọng, tránh khỏi ánh nắng, và cô nhắm mắt một lúc. Cô chập hai bàn tay quanh gối, cô vừa lắc lư từ trước ra sau rồi hai bên, vừa hát nho nhỏ một bài hát bằng tiếng Pháp, một bài hát chỉ vỏn vẹn như thế này: "Địa Trung H-a-a-ả-i..." Lalla không biết điều đó có nghĩa gì. Đó là một bài hát mà hôm nọ cô nghe qua máy thu thanh, và cô chỉ còn nhớ cái từ đó, mà cô rất thích. Thế rồi thỉnh thoảng, khi cô cảm thấy thoải mái, khi không phải làm gì, hoặc trái lại khi thấy hơi buồn mà không hiểu tại sao, cô hát cái từ đó lên, đôi lúc là hát nho nhỏ đủ cho cô nghe, cô hát êm đềm đến nỗi hầu như chính cô cũng không nghe ra, hoặc cô hát thật lớn giọng, gần như đinh tai nhức óc, để đánh thức những âm vang hoặc xua đuổi cái sợ. Bây giờ thì cô đang hát cái từ đó, giọng nhỏ nhẹ, bởi cô đang hạnh phúc. Những con kiến đỏ đầu đen to tướng đang bò trên tán lá thông, ngập ngừng, rồi bò lên các cành nhỏ. Lalla xua chúng bằng một cành cây khô. Cô nghe ra mùi của cây theo gió bay đến, hòa lẫn với mùi hăng của biển. Cát tung lên từng hồi trong bầu trời, tạo thành vòi rồng lắc lư qua lại, giữ thế quân bình trên chóp những cồn cát, sau đó cùng lúc vỡ tan đồng thời ném ra hàng nghìn lá kim vào chân và vào mặt cô bé. Lalla vẫn đứng dưới bóng cây thông lớn cho tới khi mặt trời đã lên cao trong bầu trời. Sau đó cô quay bước trở lại: đi về phía thành phố, không vội vàng gì. Cô nhận ra những dấu chân của chính cô trên cát. Những dấu chân dường như nhỏ và hẹp hơn đôi bàn chân của cô, nhưng khi quay bước trở lại, cô xác nhận đúng đó là những dấu chân của mình. Cô nhún vai và bắt đầu chạy. Gai nhọn của mây cây cúc gai đâm vào ngón chân của cô. Thỉnh thoảng cô phải dừng lại, sau khi đi khập khiễng vài bước, để rút gai ra khỏi ngón chân cái Luôn luôn có những con kiến bất luận người ta dừng bước ở đâu. Dường như chúng bò ra từ những hòn sỏi và chạy trên cát xám nóng bỏng dưới ánh mặt trời, như thể chúng là điệp viên không bằng. Nhưng Lalla vẫn rất thích chúng. Cô cũng thích những con rết chậm chạp, những con bọ da nâu ánh vàng, những con bọ hung, những con bọ hươu, những con bọ mật sọc đen, những con bọ rùa, những con cào cào trông giống như mẩu củi cháy. Những con bọ ngựa to trông dễ sợ, và Lalla vẫn đợi cho chúng bay đi, hoặc cô vừa tránh chúng vừa nhìn chúng không rời mắt, trong khi chúng vừa xoay quanh thân mình vừa quờ quờ những cái càng. Có cả những con thằn lằn màu xám và màu lục. Chúng vẫy đuôi để chạy nhanh hơn, lẩn trốn về phía các cồn cát. Thỉnh thoảng Lalla bắt được một con, và cô đùa nghịch bằng cách nắm nó bằng đuôi cho đến khi cái đuôi đứt ra. Cô nhìn khúc đuôi đó vặn vẹo một mình trong bụi. Hôm nọ, một đứa con trai đã nói với cô rằng nếu chờ đợi thì người ta sẽ thấy chân và đầu mọc lại nơi cái đuôi của con thằn lằn, nhưng Lalla không tin vào điều đó lắm. Nhất là có những con ruồi. Lalla thích chúng lắm, mặc dù chúng hay vo ve và hay chích. Cô không hiểu rõ tại sao cô lại thích chúng, nhưng mà cô thì như vậy đó. Có thể do những cái chân thật thanh mảnh của chúng, đôi cánh trong suốt của chúng, hoặc bởi vì chúng biết bay nhanh, tới trước, ra sau, hay bay ngoằn ngoèo, và Lalla nghĩ chúng phải cừ lắm mới bay được như thế. Cô ngả lưng lên cát, và những con ruồi dẹp lần lượt đậu trên mặt cô, trên hai bàn tay của cô, trên đôi chân trần của cô. Chúng không đến cùng lúc bởi lúc đầu chúng hơi sợ Lalla. Nhưng chúng thích hút mồ hôi mặn trên da, và chẳng bao lâu sau chúng trở nên dạn dĩ. Khi chúng di chuyển trên những cái chân nhẹ bẫng, Lalla bắt đầu cười, nhưng không lớn tiếng lắm, để khỏi làm chúng sợ. Đôi khi một con ruồi dẹp chích vào má Lalla, và cô khẽ kêu lên giận dữ. Lalla đùa khá lâu với những con ruồi. Đó là những con ruồi dẹp sống trong đám tảo giạt vào bờ biển. Nhưng cũng có những con ruồi đen trong các ngôi nhà trong thành phố, trên những tấm vải đánh xi, trên những bức vách bằng các tông, trên những mặt kính. Có những tòa nhà ở hãng nước đá với đàn ruồi xanh to tướng, bay trên thùng rác gây nên những âm thanh rền rĩ. Lalla chợt đứng dậy. Cô chạy thật nhanh về phía cồn cát. Cô leo lên dọc cát đang sụt lở dưới đôi bàn chân trần. Mấy cây cúc gai đâm vào các ngón chân nhưng cô mặc kệ. Cô muốn leo lên cao trên các cồn cát để nhìn biển, leo càng nhanh càng tốt. Trên cao, gió thổi lồng lộng vào mặt cô, và Lalla suýt ngã ngửa ra sau. Gió biển lạnh, làm hai cánh mũi cô sít lại và làm rát mắt cô, biển thì bao la, màu xanh xám, lốm đốm bọt, nó gầm gào trong âm thầm, những đợt sóng ngắn của nó tràn vào bãi cát nơi phản chiếu màu xanh sẫm của bầu trời rộng lớn. Lalla nghiêng người về phía trước, ngược chiều gió. Cái áo dài (thật ra là một cái áo sơ mi con trai bằng vải trúc bâu mà cô của Lalla đã cắt tay) dán sát vào bụng và hai bắp đùi của cô, như thể cô mới vừa ở dưới nước lên. Tiếng gió và tiếng sóng biển rít trong tai cô, khi thì ở bên trái, khi thì ở bên phải, hòa lẫn với tiếng phần phật nho nhỏ do lọn tóc quất vào hai bên thái dương. Thỉnh thoảng gió ném một nắm cát vào mặt Lalla. Cô phải nhắm mắt lại để khỏi dặm. Nhưng gió vẫn làm cô chảy nước mắt, và trong miệng cô những hạt cát lạo xạo giữa hai hàm răng. Sau đó, khi đã đủ say với gió và biển, Lalla bước trở xuống bức thành của những cồn cát. Cô ngồi xổm một hồi dưới chân cồn cát để lấy lại hơi thở. Gió không đến từ bên kia những cồn cát. Nó thổi ở bên trên, nó thổi về phía nội địa, tới tận các ngọn đồi màu lam lãng đãng sương mù. Gió không chờ không đợi. Nó làm điều nó thích và Lalla sung sướng khi gió ở đó, ngay cả khi nó làm cho mắt và tai cô cay xè, ngay cả khi nó ném những nắm cát vào mặt cô. Cô thường nghĩ tới nó, và biển nữa, khi cô đang ở trong căn nhà tối tăm ở cư xá, và khi không khí trở nên ngột ngạt khó chịu; cô nghĩ tới gió, nó lớn lao, trong suốt, không ngớt chồm lên trên mặt biển, trong khoảnh khắc đã vượt qua sa mạc, tới tận những rừng thông bá hương, và nó nhảy múa ở đó, dưới chân những ngọn núi giữa chim và hoa. Gió không chờ không đợi. Nó vượt qua các ngọn núi, nó quét cát, bụi, tro, nó lật nhào những tấm các tông, đôi khi nó vào tận thành phố của những tấm ván và các tông quét hắc ín, nó đùa nghịch bằng cách tháo tung mấy mái nhà và mấy bức vách. Nhưng điều đó cũng không hề hấn gì. Lalla nghĩ nó đẹp đẽ, trong như nước, nhanh như sấm sét và mạnh mẽ đến độ có thể phá hủy mọi thành phó trên thế giới nếu nó muốn, ngay cả những thành phố có những tòa nhà cao ngất và trắng toát với cửa sổ to bằng kính. Lalla biết đọc tên nó, cô tự học được điều đó, khi cô còn nhỏ và khi cô nghe nó đến giữa những tấm ván của căn nhà vào ban đêm. Nó tên là uôôôôô, thế đấy, vừa đọc vừa rít lên. Xa hơn một chút trong các bụi rậm, Lalla gặp lại nó. Nó vạch đám cỏ vàng như một bàn tay lướt qua. Một con chim bồ cắt gần như bất động ở phía trên đồng cỏ, hai cánh màu đồng sải trong gió. Lalla nhìn, cô thán phục nó bởi nó biết bay trong gió. Con chim bồ cắt chỉ hơi chuyển động ở đầu các lông cánh, hơi xòe đuôi theo hình cánh quạt, và nó bay lượn không cần cố gắng với cái bóng có hình chữ thập rung rinh trên đám cỏ vàng. Thỉnh thoảng nó cất lên những tiếng rên rỉ, nó chỉ nói cắt! cắt! và Lalla đáp lại nó. Rồi thoắt một cái nó nhào xuống về phía mặt đất, đôi cánh nó khép lại, lướt trên cỏ một hồi lâu, giống như một con cá lướt dưới đáy biển, nơi các loài tảo đang lay động. Cứ thế mà nó mất hút ngoài xa giữa những lá cỏ ngả nghiêng. Lalla rên rỉ và than thở cũng vô ích, cắt! cắt! con chim không trở lại nữa. Nhưng nó vẫn còn rất lâu trong đôi mắt cô, cái bóng hình mũi tên lướt sát đám cỏ vàng như một cái vạch, không gây tiếng động, trong sự hồi hộp của cô. Lalla vẫn nằm bất động, đầu ngửa ra sau, hai mắt mở to hướng về bầu trời trắng, nhìn những vòng tròn di động tại chỗ, cắt nhau, như khi người ta ném hòn sỏi vào bể nước. Không có côn trùng, không có chim chóc, hay một con vật gì thuộc giống loài này, và tuy thế, người ta lại trông thấy hàng nghìn cái chấm đang động đậy trong bầu trời, như thể trên cao kia có vô số giống kiến, bọ đầu dài và ruồi. Chúng không bay trong không khí trắng lóa; chúng đang hối hả đi về khắp mọi ngả, vội vã bồn chồn, như thể chúng không biết thoát về đâu. Có thể đó là những khuôn mặt của tất cả những con người kia đang sống trong các thành phố, những thành phố lớn đến độ người ta không bao giờ rời khỏi được, những nơi có lắm xe, lắm người, những nơi người ta không thể nào gặp hai lần cùng một khuôn mặt. Đâu đó, chính ông lão Naman đã kể khi ông đồng thời nhắc tới những cái tên kỳ lạ. Algésừas, Madrid (ông nói: Madris), Marseille, Lyon, Paris, Genève. Không phải lúc nào Lalla cũng trông thấy những khuôn mặt đó. Chỉ có một số ngày, khi gió nổi lên xua mây về phía những ngọn núi, và khi không khí trắng lóa rung vang trong ánh nắng mặt trời; lúc đó người ta có thể trông thấy họ, những con người-côn trùng, họ nhúc nhích, đi đứng, chạy nhảy, khiêu vũ, ở trên cao kia, khó mà trông thấy được, giống như những con muỗi li ti. Sau đó, biển lại gọi cô. Lalla chạy băng qua các bụi rậm tới tận những cồn cát xám. Những cồn cát trông giống con bò cái đang nằm, trán cúi thấp xuống, xương sống vồng lên. Lalla thích leo lên lưng chúng, bằng cách vạch một lối đi cho riêng mình, với hai bàn tay và hai bàn chân, rồi lăn tròn sang phía bên kia hướng về lớp cát của bãi biển. Sóng vỗ vào bãi biển cứng nhắc, tạo nên những âm thanh vang dậy, rồi nước rút đi và bọt nước vỡ tan trong ánh nắng. Nơi đây đầy ắp ánh sáng và tiếng động đến độ cô buộc lòng phải nhắm mắt và ngậm miệng lại. Chất muối của biển nóng bỏng trên mí mắt và môi cô, gió ập đến hàng loạt đã chặn hơi thở trong cổ họng cô. Nhưng Lalla vẫn thích được gần biển. Cô bước xuống nước, sóng vỗ vào chân, vào bụng cô, dán chặt lớp áo sơ mi màu lam vào da cô. Cô cảm thấy đôi chân lún sâu trong cát như hai cái cọc. Nhưng cô không dám ra xa hơn bởi thỉnh thoảng biển vẫn vô tình chụp lũ trẻ để rồi hai hôm sau đưa chúng lên Lớp cát cứng của bãi biển, bụng và mặt căng nước, mũi, môi, các đầu ngón tay và bộ phận sinh dục đều bị cua ăn. Lalla đi trên cát, dọc theo mé nước. Áo cô ướt tới tận ngực đang khô đi trong gió. Mái tóc đen nhánh của cô bị gió tạt lại, hất về một bên và dưới ánh mặt trời, khuôn mặt cô rực lên một màu đồng. Cách quãng lại có những con sứa bị mắc cạn trên cát với những sợi tua quăn lõa xõa quanh như một mái tóc. Lalla nhìn những cái lỗ hình thành trong cát mỗi khi sóng rút đi. Cô cũng chạy sau những con cua xám bé xíu đang lủi ngang chạy trốn, thân thể nhẹ hều, giống như những con nhền nhện, càng chúng giơ lên, và điều này khiến cô bật cười khoái trá. Nhưng cô không tìm cách bắt chúng như những đứa trẻ khác vẫn làm; cô để chúng thoát thân trong biển, biến mất trong bọt nước lấp lánh. Lalla vẫn đi dọc theo bờ biển, miệng luôn hát nho nhỏ bài hát chỉ có một từ duy nhất: "Địa Trung H-a-a-ả-i... " Sau đó, cô đến ngồi dưới chân những cồn cát, trước bờ biển, hai cánh tay vòng quanh đầu gối và khuôn mặt giấu trong nếp áo sơ mi, để khỏi hít phải cát theo gió bay vào cô. Cô vẫn luôn đến ngồi cùng một chỗ, nơi có cái trụ gỗ đã mục nhô lên khỏi nước, nơi trũng của sóng biển, và một cây sung to mọc trong đám sỏi giữa các cồn cát. Cô đợi Naman ông lão đánh cá. Naman ông lão đánh cá không giống mọi người. Đó là một người đàn ông khá cao lớn, gầy guộc, với đôi vai rộng và một khuôn mặt xương xẩu với nước da màu gạch. Ông luôn đi chân trần, mặc quần dài bằng vải màu xanh lam, áo sơ mi trắng quá rộng đối với ông luôn phất phơ trong gió. Nhưng ngay cả trong bộ dạng như vậy, Lalla vẫn thấy ông thật đẹp, thật có duyên, và tim cô luôn đập hơi mạnh một chút khi biết ông sắp tới. Ông có khuôn mặt sắc nét, dạn dày với gió biển, còn làn da nơi trán và hai má của ông thì căng ra, sạm đen vì nắng biển. Tóc ông dày, cùng màu với da ông. Nhưng nhất là mắt ông nổi bật với cái màu khác thường, màu xanh lục pha với màu xám, sáng quắc và trong suốt trên khuôn mặt sạm nâu như thể chúng lưu giữ đầy đủ ánh sáng và sự trong suốt của biển cả. Chính vì để ngắm nhìn đôi mắt của ông mà Lalla thích đợi người đánh cá trên bãi biển, gần cây sung to, cũng là để nhìn ngắm nụ cười của ông khi ông trông thấy cô. Cô đợi ông khá lâu, cô ngồi trong cát nhẹ của cồn cát, dưới bóng cây sung to. Cô hát lầm rầm, hai cánh tay che đầu để khỏi nuốt phải quá nhiều cát. Cô hát lên cái từ mà cô rất thích, nó dài và đẹp, chỉ vỏn vẹn thế này: "Địa Trung H-a-a-ả-i...". Cô vừa đợi vừa nhìn biển đang xấu đi với màu lam xám như ánh thép, và một thứ mây nhợt nhạt che phủ đường chân trời. Đôi khi cô tưởng mình trông thấy một cái chấm đen đang nhảy múa trong những ánh phản chiếu, giữa những ngọn sóng, và cô hơi nhổm dậy bởi cô tưởng đó là con thuyền của Naman đang tới. Nhưng cái chấm đen biến mất. Đó là một ảo ảnh trên biển, cũng có thể là lung một con cá heo. Chính Naman đã nói với cô về những con cá heo. Ông đã kể về đàn cá heo lưng đen chồm lên trong sóng biển trước mũi tàu một cách vui vẻ như để chào những người đánh cá rồi kéo nhau đi một loạt, biến mất về phía chân trời. Naman thích kể cho Lalla những câu chuyện về cá heo. Khi ông nói, ánh sáng của biển rực lên trong đôi mắt ông, và Lalla tưởng chừng thấy thấp thoáng những con vật đen nhánh qua màu sắc của đôi mống mắt. Nhưng dù cô hết sức căng mắt nhìn biển, cô cũng không thể trông thấy những con cá heo. Chắc chắn là chúng không thích đến gần bờ. Naman kể chuyện một con cá heo đã dẫn dắt một con tàu đánh cá vào tận bờ biển vào cái ngày nó bị lạc trong giông tố. Mây kéo xuống mặt biển và phủ kín nó như một tấm màn, giông gió dữ dội đã làm gãy cột buồm con tàu. Trận bão đã cuốn con tàu của người đánh cá đi thật xa, xa đến nỗi hắn không còn biết đâu là bờ nữa. Con tàu trôi dạt trong hai ngày giữa những đợt sóng dữ đe dọa lật nhào nó. Người đánh cá nghĩ mình đã tuyệt vọng và đang lo đọc kinh cầu nguyện thì một con cá heo to xuất hiện giữa những đợt sóng biển. Nó nhảy lên quanh con tàu, nó đùa giỡn với sóng biển như loài cá heo vẫn thường làm. Rồi bỗng đâu, nó bắt đầu hướng dẫn con tàu đi. Thật khó hiểu, nhưng đó là điều mà nó đã làm, nó bơi sau con tàu, và nó đẩy con tàu về phía trước. Đôi lúc nó bỏ đi, biến mất trong sóng biển, và người đánh cá tưởng nó đã bỏ rơi mình. Nhưng rồi nó trở lại, và nó lại bắt đầu đẩy con tàu bằng cái trán của nó, và đập nước bằng cái đuôi khỏe mạnh của nó. Cứ thế mà họ đi suốt một ngày, và đến tối, khi mây tan trên bầu trời, cuối cùng người đánh cá thoáng thấy ánh sáng bờ biển. Hắn hét to và bật khóc vì vui mừng bởi hắn biết mình đã thoát nạn. Khi con tàu đó đến gần cảng, con cá heo quay đầu lại và lại lên đường hướng về biển cả, và người đánh đã nhìn nó rời xa, với cái lưng đen to mập lấp lánh trong ánh sáng buổi hoàng hôn. Lalla rất thích câu chuyện ấy. Cô thường đưa mắt tìm kiếm trên mặt biển, hy vọng trông thấy con cá heo đen vĩ đại, nhưng Naman bảo rằng chuyện đó đã xảy ra từ lâu lắm và giờ đây con cá heo hẳn đã già. Như mọi buổi sáng, Lalla vẫn ngồi đợi dưới bóng cây sung to. Cô nhìn ra biển màu xanh xám, nơi những ngọn sóng đang lao tới. Những đợt sóng đổ vào bờ theo một con đường xiên xiên, trước tiên chúng vỗ vào phía Đông hướng về mũi đá, rồi vào phía Tây, phía con sông. Cuối cùng chúng vỗ vào giữa. Gió lồng lên, hốt bọt nước ném ra xa, về phía những cồn cát; bọt nước trộn lẫn vào cát và bụi. Khi mặt trời lên khá cao trên bầu trời không mây, Lalla quay bước trở về Cư xá, không chút vội vàng, bởi cô biết khi về tới nơi cô sẽ có công việc để làm. Phải đi lấy nước nơi máng nước, với cái bi đông cũ kỹ gỉ sét giữ thăng bằng trên đầu, sau đó phải ra sông giặt quần áo, nhưng mà chuyện này thì được hơn bởi cô có thể nói chuyện với mọi người và nghe họ kể đủ mọi thứ chuyện khó tin trên đời, nhất là chuyện cô gái nọ tên Ikikr, có nghĩa là hạt đậu còi, theo ngôn ngữ Berbère, do cô ta có một cái mụn cóc trên má. Nhưng có hai việc mà Lalla chẳng thích chút nào, là đi tìm cành cây con để nhóm lửa và xay lúa mì để làm bột. Thế là cô trở về thật chậm rãi, bước chân hơi kéo lê trên đường mòn. Bây giờ cô không hát nữa, bởi đó là giờ mà cô có thể gặp mọi người trên những cồn cát, các cậu trai đi thăm bẫy chim, hoặc những người đàn ông đi làm việc. Thỉnh thoảng các cậu trai vẫn chế giễu cô, bởi cô không rành đi chân trần lắm và bởi cô không biết những tiếng thô tục. Trông thấy họ từ xa, cô liền núp sau bụi gai gần một cồn cát, đợi họ đi qua. Còn có người đàn bà dễ sợ kia nữa. Bà ta không già nhưng rất bẩn thỉu, với mái tóc có màu đen, đỏ lẫn lộn, với quần áo bị gai cào rách. Khi bà ta tới con đường của những cồn cát, cô phải chú ý cẩn thận bởi bà ta rất hung dữ lại không thích trẻ con. Mọi người gọi bà ta là Aĩcha Kondicha, nhưng đó không phải là tên thật của bà ta. Không ai biết tên thật bà ta là gì. Người ta nói bà ta bắt cóc con nít để làm chúng đau đớn. Khi Lalla nghe tiếng bà ta bước tới trên con đường, cô trốn sau một bụi cây, và cô nín thở. Aĩcha Kondicha vừa đi qua vừa lầm bầm những câu khó hiểu. Bà ta dừng lại một hồi, ngẩng đầu lên bởi bà ta cảm thấy có ai đó. Nhưng vì bà ta gần như mù nên không thể thấy Lalla. Rồi bà ta lại đi vừa bước khập khiễng vừa hét lên những câu nguyền rủa với cái giọng gớm ghiếc. Vài buổi sáng, trong bầu trời có một cái gì đó mà Lalla rất thích; đó là một áng mây trắng to, thon, dài bay ngang bầu trời đúng vào nơi có nhiều màu xanh nhất. Ở đầu sợi chỉ trắng người ta trông thấy một hình chữ thập nhỏ lấp lánh bạc chầm chậm lướt tới, cao đến nỗi khó lòng nhìn rõ được. Lalla ngắm nhìn hồi lâu hình chữ thập đang lướt tới trong bầu trời, đầu ngửa ra sau. Cô thích nhìn cái cách nó lướt tới trong bầu trời xanh bao la, không gây tiếng động, để lại phía sau vệt mây trắng dài kia làm nên từ những hình cầu nhỏ, trắng như bông hòa trộn vào nhau và rộng ra như một con đường, rồi gió thổi qua trên vệt mây đó và lau sạch bầu trời. Lalla nghĩ mình rất thích được ở trên cao ấy, trong cái hình chữ thập bạc đó, bay trên biển, trên các hòn đảo, cứ như vậy, tới tận những vùng đất xa xôi nhất. Cô tiếp tục nhìn bầu trời rất lâu sau khi chiếc phi cơ đã biến mất. Cư xá xuất hiện nơi khúc quanh của con đường khi cô đã rời bước khỏi biển và cuốc bộ nửa tiếng đồng hồ hướng về dòng sông. Lalla không hiểu tại sao nơi này lại gọi là Cư xá, bởi lúc đầu chỉ có mươi túp lều bằng ván và giấy quét hắc ín ở bên kia dòng sông, và những khoảng đất trống tách biệt với thành phố. Có thể người ta nghĩ ra cái tên này để giúp mọi người quên rằng họ sống với chó và chuột, giữa bụi bặm bao quanh. Chính đây là nơi Lalla đã tới ở khi mẹ cô chết, chuyện xảy ra lâu đến độ cô không còn nhớ rõ mình đã tới vào lúc nào nữa. Trời thật nóng bức, bởi đang là mùa hè, và gió thổi tung bụi lên những cái chòi bằng ván. Cô đã nhắm mắt theo sau người cô của mình tới tận căn lều không cửa sổ, nơi mấy người con trai của người cô đó đang sống. Lúc bấy giờ, cô muốn chạy xa khỏi nơi này, đi vào con đường dẫn về phía những ngọn núi cao, để không bao giờ trở lại nữa. Mỗi lần từ các cồn cát trở về và trông thấy những mái nhà lợp bằng tôn múi và bằng giấy quét hắc ín, Lalla nghe tim mình thắt lại và nhớ tới ngày cô tới cư xá lần đầu. Nhưng điều đó đã xa lắm rồi, như thể tất cả những gì xảy ra trước đây đã không thực sự đến với cô, như thể đó chỉ là một câu chuyện mà cô đã nghe kể lại. Chuyện đó cũng giống như ngày cô chào đời, trong vùng núi ở miền Nam, nơi khởi đầu của sa mạc. Thỉnh thoảng, vào mùa đông, khi không có việc gì làm ở bên ngoài, và khi gió thổi mạnh trên đồng bằng đầy bụi và muối, và rít lên qua những khe hở giữa các tấm ván trong nhà Aamma, Lalla ngồi trên nền đất, cô lắng nghe câu chuyện về sự chào đời của cô. Câu chuyện thật dài và kỳ lạ, và Aamma không bao giờ kể cho cô nghe cùng một cách. Bằng giọng nói có phần nào như hát, và vừa lắc lư đầu như sắp ngủ, Aamma kể: "Ngày cháu được dự kiến ra đời là lúc sắp vào hạ, trước mùa khô hạn. Hawa cảm thấy con mình sắp sửa chào đời, và vì lúc đó mọi người còn ngủ, mẹ cháu đã ra khỏi căn lều không gây tiếng động. Mẹ cháu chỉ ôm chặt bụng với một mớ khăn vải, và mẹ cháu cố hết sức bước ra ngoài, đến nơi có cây to và suối bởi mẹ cháu biết khi mặt trời ló dạng, mẹ cháu sẽ cần tới bóng mát và nước. Tập tục ở đó là như vậy, người ta luôn phải sinh nở bên một dòng suối. Thế rồi mẹ cháu bước ra tận đó, mẹ cháu nằm xuống gần một gốc cây và mẹ cháu đợi cho qua đêm. Không ai biết mẹ cháu ở bên ngoài. Mẹ cháu biết cách đi không gây tiếng động, không làm cho chó sủa. Thê nhưng ngay đến cô nằm ngủ bên mẹ cháu, cô cũng không nghe tiếng mẹ cháu rên rỉ hay ngồi dậy bước ra khỏi lều..." "Sau đó xảy ra chuyện gì, hở cô Aamma?" "Sau đó, trời sáng, bấy giờ những người đàn bà đã thức giấc, và người ta thấy mẹ cháu không có trong lều và người ta biết tại sao mẹ cháu bước ra ngoài. Thế là cô đi tìm mẹ cháu, về phía dòng suối, và khi cô tới nơi thì mẹ cháu đang đứng sát vào thân cây, hai tay bám chặt vào một cành cây, và mẹ cháu rên rỉ rất khẽ để khỏi đánh thức đàn ông và trẻ con..." "Rồi chuyện gì xảy ra, hở cô Aamma?" "Thế rồi cháu chào đời, ngay tức khắc, như vậy đó, dưới đất, giữa đám rễ cây, và cô đã lau rửa cháu trong nước suối, rồi quấn cháu trong cái áo khoác bởi cái lạnh của đêm vẫn còn. Mặt trời lên và mẹ cháu đã trở về lều để ngủ. Cô nhớ lúc đó không có vải để quấn cháu, và cháu đã ngủ trong cái áo khoác xanh của mẹ cháu. Mẹ cháu rất hài lòng vì cháu ra đời thật nhanh, nhưng mẹ cháu cũng buồn vì cha cháu đã chết, mẹ cháu nghĩ mình không đủ tiền để nuôi cháu, và mẹ cháu sợ phải buộc lòng mang con đi cho một ai khác." Thỉnh thoảng Aamma vẫn kể câu chuyện khác đi, như thể chị không còn nhớ rõ nữa. Chẳng hạn chị nói Hawa đã không níu lấy cành cây mà bám vào sợi thừng gàu múc nước của một cái giếng, và mẹ cô đã dùng hết sức để kéo nó, hòng chống lại những cơn đau. Hoặc chị nói rằng một người chăn cừu đi ngang qua đã đỡ đẻ cho đứa bé, và đã bọc nó trong cái áo khoác len của mình. Nhưng tất cả chuyện đó thật ra có vẻ mù mờ khó hiểu, như thể nó thuộc một thế giới nào khác, ở bên kia sa mạc, nơi có một bầu trời khác, một mặt trời khác. "Vài ngày sau mẹ cháu đã có thể một mình bước ra giếng để rửa ráy, chải tóc. Mẹ cháu địu cháu trong cùng cái áo khoác xanh đó và quấn nó quanh người. Mẹ cháu đi từng bước ngắn bởi chưa được khỏe như trước nhưng mẹ cháu rất hạnh phúc vì cháu đã ra đời, và khi người ta hỏi tên cháu thì mẹ cháu bảo rằng cháu cùng tên với mẹ, Lalla Hawa, bởi cháu là con của một nữ quý tộc." "Cô làm ơn nói cho cháu biết về người mà người ta gọi là Al Azraq, Người Đàn Ông Xanh đi." Nhưng Aamma lắc đầu: "Bây giờ không được cháu à, để hôm khác." "Làm ơn đi, cháu van cô, hãy nói về người ấy." Nhưng Aamma lắc đầu không đáp. Chị đứng dậy và đi nhồi bánh trong cái đĩa to bằng đất ở gần cửa. Aamma như vậy đó; chị không bao giờ muốn nói nhiều quá, và chị cũng không bao giờ nói nhiều lời về Người Đàn Ông Xanh hay Moulay Ahmed ben Mohammed el Fadel, người vẫn được gọi là Ma el Aĩnine, Nước Mắt. Điều kỳ lạ, ở đây, trong Cư xá, là mọi người đều rất nghèo, nhưng không một ai than vãn bao giờ. Cư xá chủ yếu là những túp lều bằng ván và kẽm, với mái lợp bằng những tờ giấy lớn quét hắc ín được dằn chặt bằng những hòn đá. Khi gió thổi thật mạnh trên thung lũng, người ta nghe tiếng cồm cộp của những tấm ván, tiếng leng keng của những mẩu kẽm cùng tiếng lốp đốp của tờ giấy quét hắc ín đang rách hàng loạt. Tất cả tạo thành một thứ nhạc điệu kỳ dị, nó đu đưa, nó kêu răng rắc, như thể người ta đang trong một chiếc xe buýt cà tàng trên con đường đất, hoặc như thể có hàng đống con vật và chuột đang chạy trên các mái nhà, dọc theo các khe tường Đôi khi bão tố thật khốc liệt, nó càn quét tất cả. Hôm sau người ta phải xây dựng lại Cư xá. Nhưng mọi người vừa làm việc này vừa cười đùa, vì họ quá nghèo đến độ không sợ mất những gì đang có. Cũng có thể là họ lấy làm hài lòng vì sau trận bão, bầu trời trên đầu họ sẽ rộng hơn, xanh hơn và ánh sáng còn rực rỡ hơn. Dù sao, quanh Cư xá không có gì khác hơn ngoài mặt đất phẳng bẹt, với gió thổi tung bụi, và biển bao la đến mức người ta không thể nhìn trọn vẹn. Lalla rất thích nhìn bầu trời. Cô thường đi về phía các cồn cát, nơi con đường cát chạy thẳng về phía trước, và cô ngả lưng ngay trên cát và trên những cây cúc gai, hai cánh tay bắt chéo. Thế rồi bầu trời rộng mở trên khuôn mặt láng mịn của cô, nó tỏa sáng như một tấm gương, yên ả, thật yên ả, không gợn mây, không bóng chim, không bóng phi cơ. Lalla mở mắt thật to, cô để cho bầu trời nhập vào người cô. Tạo thành một cảm giác chao đưa như thể cô đang trên một con tàu, hoặc như thể cô hút quá nhiều thuốc lá khiến cô xây xẩm mặt mày. Đó là do mặt trời. Nó thiêu đốt dữ dội, dù gió biển lạnh ngắt; nó thiêu đốt dữ dội đến độ hơi nóng của nó len vào thân thể cô, lấp đầy bụng cô, phổi cô và tay chân cô. Nó gây khó chịu, khó chịu cho đôi mắt, cho cái đầu, nhưng Lalla vẫn bất động bởi cô rất thích mặt trời và bầu trời. Khi cô nằm đó, duỗi dài trên cát, xa những đứa trẻ khác, xa khu Cư xá đầy ắp tiếng ồn và mùi, và khi bầu trời thật xanh như hôm nay, Lalla có thể nghĩ tới những gì cô yêu thích. Cô nghĩ tới người mà cô gọi là Es Ser, Bí Mật, người có cái nhìn như ánh sáng mặt trời luôn bao bọc và chở che. Nơi đây, Cư xá, không ai biết chú, nhưng thỉnh thoảng, khi bầu trời thật đẹp và khi ánh sáng rực rỡ trên mặt biển và trên những cồn cát, thì cái tên Es Ser như xuất hiện khắp nơi, vang âm khắp nơi, tới tận vùng sâu thẳm của cô. Lalla tưởng chừng đang nghe giọng nói của chú, nghe tiếng bước nhẹ tênh của chú, cô cảm thấy trên da mặt của mình thứ lừa nóng phát ra từ cái nhìn của chú vốn trông thấy tất cả, xuyên thấu tất cả. Đó là cái nhìn đến từ bên kia những ngọn núi, bên kia vùng Draa, nơi tận cùng sa mạc, và ánh lên một thứ ánh sáng không thể tan biến được. Không ai biết gì về chú. Khi Lalla nói về Es Ser, Naman ông lão đánh cá lắc đầu, bởi ông chưa từng nghe tên chú và không hề nhắc tới chú trong những câu chuyện của ông. Tuy nhiên đó đúng là tên thật của chú. Lalla nghĩ, bởi đó là cái tên mà cô đã nghe. Ngay cả Aamma chắc cũng không biết gì về chú. Nhưng đó là một cái tên đẹp, Lalla nghĩ, một cái tên khiến người ta dễ chịu mỗi khi nghe thấy. Chính vì để được nghe cái tên đó, để được nhìn thấy ánh sáng trong cái nhìn của chú, mà Lalla luôn đi xa, giữa những cồn cát, nơi không còn gì khác ngoài biển, cát và bầu trời. Bởi Es Ser không thể làm cho người ta nghe ra tên chú, cũng không thể trao tặng ánh sáng trong cái nhìn của chú khi Lalla ở trong khu Cư xá bằng ván và giấy quét hắc ín. Chú là một kẻ không thích tiếng động và mùi. Chú phải một thân một mình trong gió, cô đơn như một cánh chim lơ lửng trong bầu trời. Những người ở đây không biết tại sao cô lên đường. Có thể họ nghĩ rằng cô đi tới tận những ngôi nhà của đám người chăn cừu ờ bên kia những ngọn đồi đá. Họ không nói gì. Mọi người đang chờ đợi. Nơi đây, Cư xá, thực ra họ không biết làm gì hơn. Họ đã dừng chân, không xa bờ biển lắm, trong những túp lều bằng ván và kẽm, họ im lìm bất động, họ nằm trong bóng tối dày kịt. Khi trời rực sáng trên sỏi và bụi, họ bước ra ngoài trong khoảnh khắc, như thể sắp có một điều gì xảy ra. Họ nói năng chút ít, các cô gái tới máy nước, các cậu con trai đi làm việc ngoài đồng, hoặc đi thơ thẩn trên các con đường của thành phố đúng nghĩa, bên kia sông, hoặc đến ngồi trên lề đường để nhìn xe hàng chạy qua. Mỗi sáng, Lalla băng qua Cư xá. Cô đi xách mấy xô nước tại máy nước. Khi bước đi, cô nghe âm nhạc phát ra từ tất cả các máy thu thanh nối tiếp nhau từ nhà này sang nhà khác, vẫn luôn là bài hát Ai Cập bất tận ra rả qua các con hẻm của khu Cư xá. Lalla thích nghe thứ âm nhạc đó, nó rên rỉ và cò cưa một cách nhịp nhàng, nó hòa lẫn với tiếng bước của các cô gái, tiếng nước chảy từ vòi. Khi tới máy nước, cô đợi tới phiên mình, cái xô kẽm đu đưa trong tay. Cô nhìn các cô gái; một số đen như phụ nữ da đen, như Ikikr, số khác thì thật trắng với đôi mắt màu xanh, như Mariem. Có những bà lão che mạng đến lấy nước trong một cái nồi đen, rồi lặng lẽ bước đi vội vàng. Máy nước, đó là một cái vòi bằng đồng thau gắn trên một ống chì dài, nó lắc lư và gầm gừ mỗi lần người ta mở hay khóa nó. Các cô gái rửa chân và mặt dưới vòi nước lạnh. Đôi khi họ vừa té nước trong xô vào nhau vừa hò hét inh ỏi. Luôn luôn có những con ong vò vẽ bay quanh đầu họ, vướng vào mái tóc rối của họ. Lalla lại đặt cái xô lên đầu, rồi thận trọng bước đi thật thẳng đường để khỏi làm rơi giọt nước nào. Buổi sáng, bầu trời trong và đẹp, như thể tất cả còn mới tinh khôi. Nhưng khi mặt trời đến gần thiên đỉnh thì sương mù đùn lên gần chân trời như một vùng bụi, và bầu trời trở nên nặng nề hơn trên mặt đất. """