" Quê Người - Tô Hoài full mobi pdf epub azw3 [Thiền] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quê Người - Tô Hoài full mobi pdf epub azw3 [Thiền] Ebooks Nhóm Zalo Thông tin sách Tên sách: QUÊ NGƯỜI Tác giả: Tô Hoài Nhà phát hành: Phương Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Khối lượng: 220g Kích thước: 13 x 21 cm Ngày phát hành: 03/2007 Số trang: 228 Giá bìa : 28.000đ Thể loại: Tiểu thuyết Hiện thực Thông tin ebook Nguồn: http://tve-4u.org Type+Làm ebook: thanhbt Ngày hoàn thành: 31/08/2016 Dự án ebook #229 thuộc Tủ sách BOOKBT Giới thiệu Quê Nhà: Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm: tiểu thuyết “Quê người”, tiểu thuyết “Mười năm”, tiểu thuyết “Quê nhà.” Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất định.Câu chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng tây bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 (1996). Tiểu thuyết Quê người (viết 1941) cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền. Trong cảnh khốn đốn, phải đi “đất khách quê người”. Tiểu thuyết Quê người đã được tác giả viết trước nhất, cách đây nửa thế kỷ, từ khi nhà văn Tô Hoài mới bắt đầu cầm bút. Điều đó chứng tỏ đề tài của vấn đề đã nung nấu lâu dài trong tâm tư và tình cảm tác giả theo bước với sự phát triển của số phận cuộc sống và lịch sử. LỜI GIỚI THIỆU Nhà văn Tô Hoài đã viết một bộ tiểu thuyết gồm ba tác phẩm: Quê người, Mười năm, Quê nhà. Mỗi tiểu thuyết, câu chuyện, hoàn cảnh và nhân vật đều khác nhau, nhưng tất cả được nối tiếp có hệ thống về các sự kiện lịch sử và xã hội của một vùng nhất định. Câu chuyện về một địa phương, đấy là các làng mạc ở Hà Đông và Sơn Tây, vùng Tây Bắc thành phố Hà Nội xưa kia, nơi nhà văn Tô Hoài sinh ra và lớn lên. Ở cả ba tiểu thuyết trên đều in dấu vết những nhân vật trong đó có tác giả và gia đình, bè bạn ở sự việc, ở hoàn cảnh, ở những kỷ niệm hồi thơ ấu và đương thời. Bộ ba tiểu thuyết này đã được liệt kê trong danh sách các tác phẩm của Tô Hoài vinh dự được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học đợt 1 (1996). Tiểu thuyết Quê nhà (viết 1978) nói về sự việc hai lần quân Pháp tấn công chiếm Hà Nội cách nay đã hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, những nhân vật lịch sử của các trận đánh: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc, các tướng tá Pháp như Phơ răng xi Gácniê, Hăng ri Rivie không phải là các nhân vật chủ yếu. Mà ở đây tác giả đã miêu tả tình hình các phường xóm và làng quê trong thành ngoại nội mà nhân dân - các anh hùng vô danh đã dũng cảm nổi lên chống quân xâm lược như thế nào. Tiểu thuyết Quê người (viết 1941) cũng một khung cảnh ấy, những vùng Hà Nội đã bị chiếm đóng. Cảnh điêu linh và khốn cùng diễn ra, biết bao nhiêu người đã phải tha hương. Đi phu, đi làm đường, vào Nam, sang Tân Đảo và các thuộc địa Pháp ở ngoài châu Đại Dương, làm cu li đồn điền. Trong cảnh khốn đốn, phải đi “đất khách quê người”. Tiểu thuyết Quê người đã được tác giả viết trước nhất, cách đây nửa thế kỷ, từ khi nhà văn Tô Hoài mới bắt đầu cầm bút. Điều đó chứng tỏ đề tài của vấn đề đã nung nấu lâu dài trong tâm tư và tình cảm tác giả theo bước với sự phát triển của số phận cuộc sống và lịch sử. Tiểu thuyết Mười năm (viết 1957) cũng vẫn quang cảnh và tình hình ở vùng ấy, nhưng bước sang một giai đoạn quyết liệt nhất, mười năm 1935 - 1945. Nước Pháp đã bại trận ngay khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Phát xít Nhật can thiệp vào Đông Dương. Đất nước ta bị hai tròng áp bức và bóc lột, nạn đói vô cùng thảm khốc đã xảy ra mà mỗi con người chỉ còn có con đường một sống một chết. Trong khốn cùng ấy, lá cờ nghĩa đánh Pháp đuổi Nhật cứu nước do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo giương cao đã tung bay khắp nước, từ rừng núi xuống đồng bằng. Tiểu thuyết Mười năm ấy là thời gian mười năm toàn dân chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đến nay, hơn năm mươi năm đã qua, để thấy được nguyên nhân sâu xa những điều tâm huyết của Tô Hoài với một vùng đất ông từng gắn bó. Trải ba mươi năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ngày nay đương bước vào giai đoạn xây dựng đất nước hùng vĩ chưa bao giờ từng có, xin được in lại trọn bộ cả ba tiểu thuyết: Quê nhà, Quê người và Mười năm. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. PHẦN THỨ NHẤT I BẤY GIỜ CẢ BỌN CÓ BỐN NĂM ANH, đều là con trai xóm Duối, ngồi bên một mảnh chiếu rải ở giữa căn nhà Hời, bên gốc cau, chỗ khoáng đãng nhất, để trăng sáng chiếu xuống đầy đủ cho tất cả mọi người. Ai cũng chỉ muốn ngồi chỗ nào mà nhòm được lên mặt trăng. Và cũng bởi có trăng sáng, những anh con trai xóm Duối sau khi dệt đoạn hai cuốn cửi, tuy trời đã khuya, mà vẫn chưa ai buồn đi ngủ. Họ kéo đến sân nhà Hời, ngồi chơi vui, nói chuyện gẫu. Ở đây rộng rãi và thoáng mát. Nhà lại vắng vẻ, chỉ có một mình Hời ở với bà mẹ già; bởi kém mắt, bà cụ có cái lệ bao giờ cũng đi ngủ từ chập tối. Bọn con trai tha hồ ngồi hát xướng và nói những chuyện sở thích nhảm nhí. Ngoài đầu ngõ, mặt trăng mười sáu đã lên tới lưng cây đề. Nó to lừng lững bằng cái mẹt và rực một màu vàng ối. Gió phe phẩy, những lá đề tròn mà dài cuống nhuộm ánh trăng lấp lánh, óng ánh trên nền trời trong. Bầu trời quang, không vương một ngọn mây, trở nên to rộng và bao la vô cùng. Chỉ có một vừng trăng làm chủ. Những ngôi sao long lanh nhất của mọi đêm tối trời, giờ là những vệt sáng mờ. Thoại nằm ngửa trên chiếu, hai bàn tay lót xuống gáy. Chẳng biết tại hứng gì, anh cất giọng, hát mấy câu lý giao duyên: - Lý... ý... lý giao duyên, không tiền... ừ... không lý. Anh quẳng... anh quẳng xu vào... vào em lý... lý anh nghe... Giọng anh ông ổng, khàn khàn. Không cảm nổi tai mọi người. Có tiếng phản đối: - Thôi im đi, ông cả. Để Hời nó gảy đàn cho mà nghe. Và anh bình phẩm tiếp: - Cái giọng gà tồ của thằng này thì cứ để đến tháng tám cho sang làng Thượng hát đối với cô Ế. Cả bọn cười ồ... Thoại không chịu im, và cũng không trả lời bọn anh em chế mình. Chàng lại cao giọng chèo ngâm sầu một câu rằng: - Ối thương ôi!... Buồng vàng lạnh ngắt, trận gió từ heo hắt mành tương, khéo sương ấy tuyết tưởng một tường, song phiền não nghĩ càng thêm sắc mắc. Duyên nguyệt lão tơ hường nào đã chắc, bệnh tương tư như dao cắt ruột tằm... ừ ruột tằm. Rồi anh gật gù ra lối hiểu biết: - Cu cậu hát cái chỗ Tất Chính tương tư nàng Kiều Liên. - Đây hẳn là cu Thoại tương tư cô Ế? Một nhịp cười nổi lên. Thoại cũng cười, vui vẻ. Chàng lại định hát nữa. Nhưng khi nghe tiếng dạo đàn của Hời, Thoại ta bèn nằm im nhìn lên mặt trăng, lắng tai nghe. Hời đến ngồi bên gốc cau, trên một tảng đá trắng, để được rộng chỗ kê đàn, không vướng ai. Chàng ngồi thẳng, đặt chớm một bàn chân lên mặt đàn và một vế đùi ngả xuôi theo thành đàn. Dây vặn lên ken két. Một tay rút cái que tre cật ở dưới lòng đàn, một tay bắt vào chiếc cần uốn cong xuyên qua một nửa quả bầu lọ, như hình nậm rượu. Chàng dạo thử mấy tiếng lên sợi thép. Tang... tang... tang... tàng... tang... tình... Tay Hời đưa nhẹ thanh thảnh. Chàng vốn là một tay đàn giỏi ở làng Nha. Sở trường nhất của Hời là chơi đàn bầu. Chàng hỏi các anh em: - Gì nào? Hành vân chứ? - Ừ, ừ... Hành vân. Theo với bàn tay lướt trên dây và theo với ngón tay buông bắt chiếc vòi đàn, những tiếng thanh, tiếng trầm rồn rập bay ra, Hời tay đàn, miệng hát: - Dặm băng ngàn, dặm băng ngàn, nhớ bạn phòng loan, đường non nước, trở bước quan san, lánh mình đưa tiễn bạn, chừ nên quyết, vinh nhành hoa chiếm bảng khôi khoa, họp một nhà giao hòa trâm quạt... Lòng tôi ước... Nằm đằng kia, Thoại cũng lẩm bẩm đánh nhịp: - Sự sang hồ, sự sang hồ, xế sang hồ xừ sang, sàng xê cống, xế lưu cống xề, cống xề sang hồ sự... Tiếng đàn và tiếng hát quyện nhau, tỏa ra, vang đi, trong cái thời khắc rất tĩnh mạc của làng xóm. Làng xóm bây giờ ngủ yên cả rồi. Những cung hồ, cung líu trong vắt, bay lửng lơ vào ánh trăng. Những tiếng ú ngắn và rít, những tiếng sang như rền rĩ, phiêu diêu, tản mác trên các mảnh lá mướp, lá đề vàng rượi những trăng. Cái không khí âm nhạc đó bao trùm lấy tất cả, khiến cho người nghe phải ngẩn ngơ. Hời không còn là Hời nữa. Anh ta đã tan ra với tiếng đàn của mình. Chỉ còn có một bàn tay nắn, uốn rất nhẹ chiếc cần tre và một bàn tay chúm lại, chạy thoăn thoắt trên làn dây. Ấy thế là những âm thanh kỳ ảo nẩy ra, chới với, yếu đuối. Giữa bàn tay với một sợi dây thép căng, ngân lên những tiếng vang xưa của linh hồn đất nước cổ sơ. Những tiếng tự nhiên của đất nước rất ẻo lả và não nùng. Bao nhiêu là tiếng sắt, tiếng đồng chen nhau... Mặt trăng đã vượt khỏi ngọn cây đề. Tiếng đàn của Hời như oán, như than, càng vang dài vào trong đêm sâu. Những anh bạn nằm dưới chiếu đều im lặng. Có anh mở thao láo đôi mắt mà nhìn lên vòm trời sáng. Có anh thiu thiu ngủ gà. Có anh đã ngáy o o. Chỉ còn nguyên những tiếng đàn bầu vờn lên. Hời ngừng tay. Thời gian như bị ngắt quãng. Sự tịch mịch đã sẵn có lại càng thêm sâu xuống thăm thẳm. Chàng thở một hơi dài. Chừng như trong khi gẩy đàn chàng đã thở rất ít để cầm lấy hơi, phổ lên những tiếng đồng diễm ảo. Thoại ngóc đầu hỏi: - Thôi hả? - Thôi. Khuya rồi. Cả bọn lục tục uể oải trở dậy. Họ vươn vai và ngáp ồn ồn. - Giờ độ mười một giờ chứ mấy? - Độ thế. Trăng mới cao hai ngọn tre. - Các cậu về thôi. Cho tớ đóng cửa đi ngủ. Thoại nhìn Hời, hóm hỉnh: - Sang xóm Giếng mà ngủ chứ? - Nhảm. Họ đi ra ngõ và phá ra cười. Tiếng guốc lóc cóc ra đến phía gốc đề mà Hời còn nghe tiếng khúc khích dội lại. Chàng đứng ngẩn một lát, miệng tủm tỉm bâng quơ. Cất chiếu, cất ghế và treo đàn vào trong nhà, rồi chàng vào mặc áo, lấy cái thắt lưng có đựng thẻ thuế thân giắt vào người cẩn thận. Chàng rút trong kẽ ngạch ra một cái gậy tre lớn và chàng ấn thật chặt chốt cánh cửa lại, chứ không khóa. Chàng nghĩ: “Nhà rỗng tuếch, việc cóc gì mà phải khóa mấy khiếc. Đứa nào có giỏi ăn trộm, vào khiêng biến ngay bà cụ đi mới là tài”. Trong nhà lẫn với tiếng muỗi vo ve, có tiếng ngáy khò khò của mẹ Hời. Hời yên trí, xách gậy đi ra ngõ. Vừa đi, Hời vừa ngước mắt nhìn trăng. Hời nhếch mép cười với mặt trăng. Cái vừng trăng tròn vành vạnh đó như cũng mủm mỉm với Hời. Dáng hẳn ông trăng cười anh chàng mê gái, đã khuya khoắt như thế, mà còn lầm lũi đi đến nơi hò hẹn. Ô, cái ông trăng phải gió mới hóm hỉnh làm sao. Phía trước mặt, nước sông Lịch óng ánh sáng. Ra đến đầu xóm, tự dưng Hời nghĩ: “Giá bây giờ thằng Thoại đi theo, hắn tóm trúng được mình”. Hời bước xuống con đường mòn nhỏ, dọc theo bờ sông. Từ đây sang xóm Giếng hết một chặng đường đi ven sông, tạt vào một ngõ ngoắt, rẽ qua cửa đền Tam Thánh. Hời rảo cẳng. Gậy vác lên vai, chàng đi như người chạy. Nước ở con sông nhỏ sáng ngời những ánh trăng chảy róc rách như thầm thì nói chuyện với ai. Hời dừng lại trước cửa đền Tam Thánh rồi tạt vào trong sân. Bóng chàng lặn vào bóng một cây ngọc lan. Cây ngọc lan già, không biết mọc từ đời nào, mang từng ôm cành lớn và hai ba tán lá rộng như những tán lá bàng. Một mùi hoa thơm ngọt và dịu tản mạn trong không khí. Hời cúi xuống gốc cây, nhặt một gói lá, đem soi ra ngoài ánh trăng. Gói lá trong có đựng hai đóa hoa ngọc lan mà Hời đã ngắt ở trên cây xuống, từ lúc chiều. Hời vứt lá, bỏ hai đóa hoa trắng nõn vào túi. Chàng đi thẳng vào trong xóm. Mọi nhà đã ngủ yên. Qua các rặng cây vườn không có một đốm sáng đèn. Giờ này, những khung cửi đã hết tiếng thoi chạy. Nhưng khung cửi nhà ai thì tắt tiếng thoi đưa, chắc khung cửi nhà cô Ngây hẳn là vẫn hoạt động. Cô Ngây rất chăm chỉ. Thợ cửi nhà cô dệt đoạn được một cuốn thì nghỉ, cô lại vào khêu đèn, dệt nối thêm một cuốn nữa. Đêm nào cũng thế, suốt cả tháng và suốt cả năm. Chỉ nghỉ những đêm phiên là những buổi ngày cô phải đem lĩnh vào chợ tỉnh bán. Đi chợ cả ngày, đêm đến cô không dám dệt cửi khuya, sợ hôm sau sinh ra mệt mỏi. Tuy những đêm ấy không mó vào chiếc thoi, song cô cũng ngồi quay tơ đến tận chín mười giờ mới đi ngủ. Cô tiếc công tiếc việc. Con nhà làm ăn, ngồi chơi không một mảy, cũng đã xót xa thì giờ. Trăng vằng vặc. Thấp thoáng qua những bóng cây xao động. Hời đã nhìn thấy đầu hồi nhà Ngây. Ở cái nhà ấy, trên hai lỗ cửa sổ vuông chỉ bằng hình một viên gạch bát, có ánh sáng đèn hắt ra để cho chàng biết Ngây còn thức dệt cửi. Chàng Hời thấy nao nao trong lòng. Chắc cô ả cũng khá sốt ruột. Rủa mình có hàng tá là ít. Nào ai muốn đến chậm. Nếu có tiện, mình đã tới ngồi bên cửa sổ ngay từ sâm sẩm tối, chứ chẳng dám để ai phải đợi ai. Hời và Ngây yêu nhau đã lâu. Đôi bên thường có những buổi hẹn hò ban đêm. Vì Hời cũng như Ngây, cũng rất sợ tai mắt những người cùng làng. Lỡ đứng nói chuyện tay đôi ban ngày, người ta trông thấy thì xấu hổ quá. Nhưng vốn dứng thì có mạch, vách thì có tai, một việc đã xảy ra, không thể bịt ỉm hẳn đi được. Nên tất cả làng Nha, không hẳn là ai cũng đều không biết. Câu chuyện Hời và Ngây yêu nhau đã lưu thông lắm trong cửa miệng bọn trai gái cùng trạc tuổi của hai người. Hời rón rén bước kiễng gót chân, men đến cửa sổ. Chàng đi rất khéo. Lũ chó ở những nhà xung quanh đấy không con nào biết. Nếu biết, chúng cắn nhâu nhâu thì hỏng to. Hời nhìn lên cửa sổ. Ánh đèn chập chờn ở hai cái lỗ vuông, cao hơn Hời một đầu và một với. Cửa sổ nào cũng cao sát lên gần tới mái. Ở ngoài, ở trong không ai ngó vào, ngó ra được. Người ta bảo: “Nhà cửa phải cho kín đáo. Giá nhà mình có ăn bát cháo ngô cũng không ai biết được!” Bởi thế cửa sổ nhà ai cũng ở cao tít tận đầu nhà và mỗi bề chỉ vuông vắn được chừng hơn một gang tay. Hời lắng nghe. Tiếng chân đòn lạch cạch dưới lỗ đạp. Cái vỏ khổ đưa lên đưa xuống sát vào những thanh go và tơ hồ kêu sột soạt. Tiếng thoi trao qua mặt cửi đều đều. Tất cả những tiếng ấy hòa thành những thanh âm hỗn độn nhưng phát ra đều đặn. Lạch cạch... lạch cạch... tách. Lạch cạch... lạch cạch... tách. Ngoài tiếng động khung cửi trong nhà im lặng. Hẳn ông Nhiêu Thục, bà Ba và thằng Toản, mọi người đều đã ngủ yên. Móc túi, Hời lấy hai bông ngọc lan. Hai bông lan trắng muốt, thon và nhỏ như ngón tay út của người con gái có bàn tay búp măng. Chàng nghiêng mình, giơ tay ném cả hai bông hoa cho lọt vào trong cửa sổ. Rồi Hời đứng yên đợi. Muốn gặp, hai người vẫn báo tin cho nhau bằng cách ấy. Chàng ném hoa ngọc lan vào cửa sổ nhà người yêu. Bao giờ Hời cũng ném hai đóa. Ý để cho khỏi sái. Những đóa hoa ngọc lan ném vào, dù Ngây trông hay không trông thấy, dù chúng rơi xuống lỗ đạp, hay rơi trên mặt cửi, chỉ một chốc đã gây lên một mùi thơm là lạ. Hương lan thoang thoảng khiến cho Ngây biết rằng có chàng tới, đã đứng đợi mình ngoài cửa sổ. Nàng bèn dừng đưa thoi, lấy tay nắm một mũi văng, kêu độp một cái và khe khẽ hát lên một câu. Thế là, cách bức vách dầy, Hời biết được người yêu đã nhận được tin của mình rồi. Hời chỉ việc đi xuôi xuống phía bờ ao. Để một lát sau, Ngây cũng khêu nhỏ ngọn đèn đi men xuống đấy. Đã nhiều lần bắt đầu của những cuộc hẹn hò là như thế. Hời thấy im tiếng thoi. Một cánh văng nẩy độp trên mặt hàng. Hời mỉm cười một mình: “Cô ả đã ngửi thấy mùi hoa”. Thế rồi trong cơn tĩnh mịch êm ả, bỗng nổi lên - nói rằng gợn lên mới đúng - mấy câu kể chuyện bằng một giọng rất nhỏ, rất thanh, rất sắc: Nàng rằng khoảng vắng đêm trường Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa Cái tiếng “hoa” cuối cùng vẳng ra và rồi vút đi, sự im lặng trở lại với một không khí thanh nhẹ quá. Ngây hát xong lại tay đưa thoi, chân đạp chân đòn, đều đều dệt cửi. Ngoài cửa sổ, Hời lẳng lặng đi lần xuống nơi hẹn. Bởi vì như thế là Ngây đủ biết hiệu và Ngây đã trả lời. Nàng chỉ dệt nốt cho hết cái suốt rồi nàng cũng đi ra nơi hẹn mà hai bên đã ước định với nhau từ lâu. Đó là cái dải bờ ao phía trước cửa nhà Ngây. Từ nhà Ngây qua một mảnh sân đất nhỏ đến bụi chuối. Chỗ ấy, một bên là ao, một bên là bãi cỏ giáp ngay lề đường xóm. Có một hàng rào tre cật vững chãi chắn ngang. Hời men ra ngoài bãi cỏ và đứng sát vào hàng rào. Lát nữa Ngây cũng ra đấy. Nàng sẽ đứng đối diện với chàng, qua một bờ rào. Hai người nói chuyện cách bức như vậy, lần nào cũng thế. Trên nhà đã im tiếng dệt từ nãy. Sao Ngây vẫn chưa xuống? Hời buồn buồn nhìn ra ngoài mặt ao. Mặt ao đầy bèo, chỗ đặc chỗ loãng. Ánh trăng in xuống từng khoảng trăng trắng. Mỗi một vết cá đớp, một đợt sóng nhỏ lại cuộn lên và làm cho ánh nước lung lay. Nhìn nước chán, Hời lại nhìn trời. Trời chỉ có trăng và có sao. Ánh trăng đẩy bóng chàng in xiêu trên thảm cỏ. Những cái ấy Hời không nhìn thấy. Đầu óc Hời chỉ nghĩ ngợi về mỗi một người những lúc chờ đợi, sao mà thời giờ dài lâu đến thế! Ngây đã ra, từ trong bụi chuối. Nàng mặc áo trắng. Ngây vịn tay vào bờ rào nhòm ra. Tuy thường vẫn đứng nói chuyện với Ngây, nhưng bao giờ chàng cũng hồi hộp và ngây ngất. Không biết sửa soạn thế nào được một lời đứng đắn, chàng buông vội một câu, một câu cộc lốc và không tình tứ. - Sao lâu thế? - Em còn xích con vện. Việc gì thế? Sao hôm nay anh sang khuya? - Bọn Thoại nó giữ lại chơi đàn, thành thử... - Những anh ấy gặp em họ cứ cười cười. Mình ngượng quá. - Chả ngại. Họ cũng tốt. Im lặng. Chừng như anh chị đã cạn chuyện. Có mỗi một câu định nói thì Hời hãy còn ngần ngừ không dám nói. Bởi thế cuộc nói chuyện yêu đương của đôi trai gái này gồm những câu ngắn ngủi, trúc trắc, gần như buông xõng, gần như nói trống không. Mãi, Hời mới thốt: - Này... - Gì? - Này mấy hôm nữa đi xem nhé? - Xem gì hả? - Xem cúng cầu mát ở chạ Thượng. Có cả hát chèo. Ngây nói chủng chẳng: - Để liệu. Tối phải dệt cửi mà. - Cầu mát những ba ngày ba đêm cơ. Đi xem vào tối hăm mốt. Tối ấy là tối ngày phiên, chắc đi được đấy. - Đi thì đi được nhưng ai biết, ngượng chết. - Ngượng chó gì. Có đi với tôi đâu mà sợ. Rủ cái Bướm, cái Lụa hay cái Mơ đi một thể cho vui. Lúc nào về, tôi đưa về tận ngõ. - Ứ ừ... Ai biết... - Chẳng có ai biết đâu. - Còn phải xin phép thày. - Tối ngày phiên thong thả, thế nào thày chẳng cho đi. Cứ “ừ” một tiếng chắc chắn cho tôi liệu trước. Ừ, đi nào. - Ừ. Thì ừ. - Chắc chứ? - Chắc. - Tối hăm mốt. - Ừ, tối hăm mốt. - Có thế chứ. Tối nào cũng chuyện thì thầm cách rào thế này thì chán ngắt. Mấy lị hôm nào đi xem đám tôi sẽ nói rõ to một câu chuyện vui lắm. Ngây lườm yêu người bạn tình: - Chỉ được cái thế là nhanh. Thôi khuya rồi, về đi. Bầm anh ở nhà thức giấc không thấy thì chửi cho vỡ xóm. - Ừ thì về. - Về ngay đi. Hời vác gậy lên vai, ngoái cổ lại nói: - Tối hăm mốt. Nhớ đấy nhé. - Không nhớ. Hời lại đứng dừng. - Ừ thì nhớ. Dưới ánh trăng khuya, Hời rảo bước về xóm Duối, nét mặt hí hửng, tươi như hoa nở. II ĐÊM HAI MƯƠI MỐT. Đêm nay đám hội làng Thượng mới thực là đông. Bởi là đêm nghỉ ngơi của tất cả những làng theo về công nghệ làm lĩnh, làm lụa trong vùng Bưởi như làng Thượng, làng Nha, làng Sài, làng Bái. Từ buổi chiều, đi chợ lĩnh về qua làng Thượng, nghe trống đánh thòm thòm trong sân đình, Ngây đã thấy lòng hớn hở khấp khởi mừng. Không biết nàng mừng gì. Được gặp người yêu hay được đi xem hát chèo? Nàng chẳng rõ. Là con nhà làm ăn chân chỉ, Ngây không hề đàng điếm đi xem hội ban ngày. Vả lại, đám làng Thượng ban ngày chỉ có cúng suông, không rước xách gì, nên chẳng đợi để bố phải cấm, tự ý Ngây cũng không đi xem. Phần ấy để cho trẻ con. Như thằng Toản thì phải biết. Nó chạy nhông suốt ngày trong đám. Xem leo cột mỡ, đi cầu noi, xem hát xẩm, đánh súc sắc và xem tất cả mọi người ta. Nó sướng mê lên, không tưởng đến sự về nhà, ông Nhiêu cũng không đánh mắng gì nó. Cả năm, nhiều lắm được vài ngày vui ồn, cho trẻ nó thả cửa vui chơi. Cơm nước xong trời vừa chập choạng tối. Ngây bắt đầu trang điểm. Thấy chị thắp đèn để soi gương, Toản hỏi: - Chị Ngây đi xem chèo đấy chứ? - Ai bảo mày thế? - Em biết. Cho em đi với. Ngây mắng: - Ranh con! Đi mà đi với chúng nó. Lẵng nhẵng không ai chịu được. Nói thế rồi, Ngây móc túi lấy cho Toản hai xu. Thằng bé cầm tiền, nhe răng cười, chạy biến ra ngõ. Hẳn nó sang rủ thằng Bò, thằng Ếch, thằng Tâm bên hàng xóm cùng đi xem cho khỏi sợ trẻ làng Thượng cậy gần nhà mà bắt nạt. Ngây mặc áo the thâm. Nàng không thắt quả găng hai vạt áo nâu non đằng trước như những khi đi chợ mà nàng buông thõng xuống cho hai vạt bao lõa tỏa. Lấy một mảnh giấy đỏ bao hương, Ngây nhấm nước bọt rồi bôi nhẹ lên hai má, đôi vành môi. Cái thói bôi môi bằng giấy hương, Ngây học lỏm được của một chị bán thông phong, bấc đèn trong chợ Đơ. Nàng thấy thế là đẹp mà lại không tốn tiền kem phấn thì nàng vội bắt chước ngay. Nàng bắt chước mà dạy cho Mơ, cho Bướm, cho Lụa cũng biết cách làm đẹp má, đẹp môi như mình. Chẳng bao lâu, cả xóm Giếng, các cô gái đều theo lối làm đỏm của Ngây. Ngây cũng lấy sự đó làm hãnh diện đôi chút. Mặc áo, bôi môi xong, Ngây cúi xuống gậm phản lấy đôi guốc. Nhưng Ngây nghĩ: “Lịch kịch đôi guốc, đám hội đông người ta chen, dễ mất như chơi. Chân đất mà lại thảnh mãnh hơn”. Ngây cất đôi guốc vào gậm. Bỗng có tiếng gọi nheo nhéo ngoài cổng. Ngây nhận ra tiếng Bướm. Nàng nói một mình: “Gớm, con bé chăm đi xem tệ”. Ngây chạy ra ngõ: - Chị đợi em lấy mấy miếng giầu cái đã. - Nhanh lên bà. Còn phải rủ mấy cô nữa đấy. Ông Nhiêu Thục đã đi ngủ. Chiều nào uống rượu xong ông cũng đi ngủ khềnh. Ông ngáy khò khò như người kéo gỗ, rầm cả nhà. Ngây xin phép bà Ba: - Cô đóng ngõ, cho cháu sang làng Thượng xem chèo. Cô cứ tra chốt cẩn thận, lúc nào về cháu gọi. Đương quay tơ, bà Ba ngẩng đầu: - Thằng Toản đâu? - Thằng ranh đã bước đi từ nãy rồi đấy. Ra đóng cửa, bà Ba bảo cháu: - Lúc về rủ thằng Toản về một thể. À mày nhớ mang cái gậy đi đánh chó; vào trong ngõ này tối lắm, phải có gậy mới đi được. Bà lão tưởng như cháu mình còn là trẻ con. Mà nó chẳng trẻ con thì đã người lớn với ai. Bà nhớ như, mới ở một năm rất gần đây, hồi còn mồ ma mẹ nó, thỉnh thoảng ẵm nó, bà vẫn vạch yếm ra để nó tưởng vú mẹ, cứ ngoặp lấy ngoặp để. Bà tặc lưỡi: “Ê tẽn tẽn phải lừa...” Phải, chỉ mới như hôm qua thôi. Bà lại hỏi: “Mang gậy đi chưa?” Ngây cười khúc khích: “Con gái đi xem hội, ai lại cầm gậy bao giờ. Người ta cười”. Bà lão lẩm bẩm: - Cha con đẻ mẹ mày, giữ giá giữ nộm vừa vừa chứ. Bà vừa nói thế vừa cười. Đứng ngoài ngõ, Bướm nói: - Bà Ba đi xem với chúng cháu nha? - Chịu thôi. Các bạc tôi cũng chả đi. Đứng mỏi gẫy cả lưng. Ở nhà ngủ cho béo mắt. - Ai cũng như bà thì hội chả có ai xem. Hai cô bé dắt nhau đi và chuyện ríu rít như chim hót. Bà Ba vừa cài then ngõ vừa nghĩ bụng: “Con gái bây giờ chúng lém lỉnh tợn. Chả bù với ngày xưa”. Bà lừ đừ quay vào. Dưới ánh ngọn đèn Hoa Kỳ, bà lại ngồi gật gù quay tơ. Tiếng cái vầy tơ kêu lóc cóc giòn giã. Ngây, Bướm đi rủ Mơ và Lụa. Bốn cô họp làm một bọn. Con đường sang làng Thượng dọc theo bờ sông, qua trước cổng xóm dưới, qua tam quan, qua cầu Phượng bắc ngang sông Lịch. *** Khỏi cầu Phượng đã nghe tiếng trống văng vẳng phía trước mặt. Lụa bảo: - Trống giáo đầu đấy. Bướm cãi: - Bây giờ còn sớm, làm gì đã giáo đầu. Có họa tiếng trống dạo trò. Mơ đoán: - Có nhẽ bây giờ phường còn đang ăn cơm. - Chị này rõ lẩn thẩn. Bây giờ ăn cơm thì bao giờ mới phấn sáp. Cả bọn cười rúc rích. Bốn cô cùng đi khoác cánh tay nhau. Chưa vào tới đám mà đường cái cũng đã khá đông. Người ta từ các xóm ở làng Nha đổ sang, từ bên làng Sài, làng Bái kéo xuống, ồn ào như vỡ chợ. Trong bóng tối, tiếng cười, tiếng nói vang vang. Ngây nhìn lên trời: - Chưa có trăng, các chị nhỉ? - Hai mươi giấc tốt, hăm mốt nửa đêm. Đã làm gì có trăng. Họa lúc chúng mình về thì trăng mới tới ngọn tre. Bướm hát ti tỉ: - Này chứ chị em ơi! Sáng giăng suông sáng cả đêm hôm rằm; nửa đêm về sáng, giăng bằng ngọn tre. - Hát hay thế sao không đem cái chậu đi đựng tiền thướng. - Nói bậy. Thích thì hát chơi. - Thích thì hát chơi. Con này hôm nay động cỡn hay làm sao. Các cô phát vào lưng nhau đồm độp. - Không có giăng, trời tối gớm nhỉ? Trời mờ mờ. Hai bên đường, cây cối và nhà cửa đứng lù lù. Trên không, vô vàn những sao. Ngôi sao Hôm mọc chếch về phía trước mặt như một giọt ánh sáng, trong vắt và lấp láy. Trước cửa đình làng Thượng, ánh sáng của nhiều những đèn dầu, đèn đất, những cái đuốc hồng rực lên, từ tam quan trở vào. Tiếng trống, tiếng mõ, tiếng thanh la não bạt, tiếng người xôn xao, ồn ồn, không thể phân biệt được tiếng gì với tiếng gì. Rõ ra đám hội đương lúc cực đông. Ngây nhớn nhác nhìn ngược, nhìn xuôi. Nàng nghĩ thầm: “Quái, sao không thấy Hời đâu?” Dọc đường, nàng cũng chú ý. Nhưng tuyệt nhiên không bóng. Chả nhẽ cu cậu lại không đi? - Đông quá. - Chúng mình xem gì trước bây giờ đây? - Vào lễ thánh. Đến đây mà không lễ, phải tội chết. Bốn cô vào tới cửa tam quan. Ánh đèn ở hai bên hàng nước chiếu lên, soi bốn cái bóng thướt tha. Những anh trai ngồi uống nước chè tươi bấm, véo, nháy nhau. Có anh xuýt xoa khen ngầm rằng bốn cô cùng đẹp. Có anh bạo dạn nói bô bô: “Chào bốn chị sang xem chèo ạ! Mời bốn chị xơi nước”, khiến cho các cô đỏ mặt, đi ríu lấy nhau và nghếch mắt nhìn tít mãi vào tận trong đình, không dám trông ngang. Bọn trai cười hê hê. Tuy các cô tỏ ý thẹn nhưng trong bụng cũng thinh thích. Đương chen để lấy lối đi vào cửa đình, bỗng nhao nhao những tiếng “chào các chị”, Ngây ngẩng đầu: Hời, Thoại, Lục, Thìn và mấy anh nữa đều là người làng, đã đứng trước mặt. Họ ở trong đình, vừa ra đến đấy. Tính nghịch, Thoại to tiếng đếm từng cô một: - Chị Bướm này... chị Mơ này... chị Lụa này... chị Ngây này... Ái chà chà! Con gái chạ Nha cả đấy, anh em ơi! Lụa không chịu kém: - Phải gió cái anh nỡm! Anh đọc sổ việc làng đấy hả? - Liền bà con gái, đâu có được việc làng việc liếc gì! - Anh vô ý vô tứ quá, đi xem hội thiên hạ mà cứ đọc vanh vách tên người làng ra. Thoại toan cãi thì trong bọn con trai có anh nói: “Chị Lụa nói phải đấy. Thối cái thằng Thoại”. Mọi người quay lại xem ai, thì ra Lục, cái anh chàng có tiếng là lù đù xưa nay. Cả hai bọn cùng cười ầm. Rồi cánh con gái đi vào, cánh con trai lần ra. Từ đấy, thỉnh thoảng họ vẫn gặp nhau. Tuy không dám đi họp làm một bọn, nhưng Hời vẫn cố ý kéo bạn đi lảng vảng gần gần. Trước cửa đình, trên một khoảng sân gạch, bầy các thứ đồ mã. Một con voi lớn, đen và to lù lù như con voi thật. Nó có cái vòi cử động được. Lũ trẻ tinh nghịch thỉnh thoảng đến đưa lắc lư cái vòi chơi. Một con ngựa, đầy mình dán các thứ giấy trang kim óng ánh đứng giơ khuỳnh khuỳnh chiếc cẳng chân. Có hai anh lính bồng súng, mặt gõ trắng bóng và trơ khấc. Suốt năm gian đình, đèn nến sáng trưng. Mũ mã, cờ quạt bầy thành đàn tràng, một đầu cao, một đầu thấp, ngang từ hồi đình nọ sang hồi đình kia. Từ trên xuống đồ cúng Ngọc hoàng Thượng đế và các chư Phật; cấp thứ hai cúng Thần linh: quan ôn, quan tướng mùa hè; cấp thứ ba cúng chúng sinh: những bà cô, ông mãnh, ma đói, ma khát. Vì đêm nay cúng chúng sinh nên ở cấp thứ ba bầy la liệt mọi thứ quà và hoa quả như bánh đa, bỏng trắng, khoai sọ, chuối tây, kẹo bột. Và một nồi ba mươi đầy cháo hoa, khói bốc nghi ngút. Sư ông chùa Vạn, cái đầu trọc trắng hếu, khoác áo cà sa mảnh đỏ, mảnh vàng, ngồi cao ngất nghểu ở giữa cấp thứ hai, chỗ cúng quan ôn, vừa ê a đọc kinh vừa cầm dùi gõ vào một cái mõ lớn, to cũng đúng bằng đầu nhà sư. Dưới chiếu, một lũ sư trẻ con các chú tiểu cũng gõ mõ, đánh trống và ê a đọc theo. Một đàn họa vần với nhau, trông đến hay. Giọng tụng niệm chập chờn qua những ánh đèn nến lung linh sáng. Một toán trẻ con đông nghịt đứng vòng trong, vòng ngoài vây chặt mấy nong quà bánh và nồi cháo. Có vài đứa, mắt nhớn nhác, ôm khư khư một cái liễn mầu da lươn. Chúng đứng rình để lúc sư ông cúng xong là xô tới cướp quà và múc cháo. Coi bộ đứa nào cũng lăm le. Chúng hích vai nhau, đưa dần chân vào. Thỉnh thoảng có một bà già len lỏi qua đám trẻ, đến đứng trước đàn, chắp tay vái lia vái lịa và xuýt xoa khấn ầm ĩ. Nhìn đám trẻ mà cái không khí so sánh, tranh cướp đã hiện lên tận trán bởi có nong quà cúng cháo để trước mặt, Ngây nói đùa với các bạn: - Hình như có cả thằng Toản nhà mình trong đám kia. Mỗi cô đến trước đàn vái mấy vái. Lũ con trai làng Thượng đứng ngấp nghé ngoài bậc cửa, cười ồm ồm, làm cho các cô ngượng cuống quít, chỉ dám chắp tay vái lễ gật vội mấy cái rồi chạy rúm lại với nhau. Bướm bảo: - Đi ra, các chị. Đứng ở đây chết ngạt được vì nóng. - Ra xem chèo đò. Khắp nơi từ sân gạch tới bãi cỏ, đầy ứ những người và ngốt những mùi mồ hôi với mùi hôi nách nồng nặc. Nhưng rồi mũi các cô cũng ngửi quen. Hoặc là mê mải xem, các cô quên khuấy đi. Ở đám chèo đò, một lũ các bà vãi đứng xúm quanh một cái nia, trên để vài trăm vàng và mươi nén hương đen đương cuồn cuộn tuôn khói. Trước mặt các vãi có một chiếc thuyền giấy: cái hình nhân mang bộ râu bạc phếch, vai vắt mảnh khăn mặt, tay cầm bơi chèo là ông sãi. Ông sãi thì chở đò qua suối Vàng, đưa các vong hồn xuống âm ti. Một bà vãi đứng xế một bên, tay cầm gậy, giả làm ông sãi đương chèo đò. Mỗi khi bà này kể kệ đoạn một câu thì cả bọn những bà vãi đứng phía kia, tay lần tràng hạt, miệng niệm nam mô dẻo quèo quẹo. Bà lão đóng vai ông sãi rún rẩy đẩy cái sào trên cạn, vênh mặt lên ra dáng hãnh diện rằng ta đây thuộc nhiều câu kệ hơn các bạn. Bà quai dài mồm lấy giọng: - A a... Sãi tôi chở khách đêm ngày... Ba bốn bữa rày, sãi chửa được ăn. Khoan lới hồ khoan... Bà rún một cái: - Khoan lới hồ khoan... Các bà khác đồng thanh: - Nam mô a chi là à... Cứ thế thay đổi câu kệ, các bà run rẩy mãi. Vô khối những đàn bà nạ dòng đứng ngẩn mặt ra xem. Cũng vô khối đồng xu đồng chinh ném vào trong nia, y như thướng xẩm. Bướm bảo Ngây: - Già không trót đời, rún với rẩy, trông dơ cả mắt! - Sang đám hát chèo, các chị ạ. Họ dạo qua vài đám xẩm. Những anh xẩm ngồi ngây, bởi có đám chèo ầm ĩ, ai còn thiết gì đến họ. Có anh vắng khách quá, cuốn chiếu lại rồi cũng đi nghe chèo cùng với mọi người. Khắp các xó, chỗ nào cũng lập lòe ánh đèn của những đám súc sắc, đám cua cá với mấy anh cò mồi và một lũ con bạc trẻ ranh, cãi nhau chí chóe. Năm nay có thêm một trò mới. Trò đi đáo chai. Người ta để chụm mấy chai bia và nước chanh vào một đám. Cách chừng hơn một sải chân vẽ một cái vạch, như vạch đánh đáo. Họ bán một xu một cái vòng nan. Hễ đứng ở dưới vạch, cứ thả chiếc vòng nan vào lọt cổ chai bia hoặc chai nước chanh thì được lấy chai ấy. Mọi người xúm đen, xúm đỏ vào đám chơi. Ở một góc sân dựa vào bức tường hoa, bên ngọn đèn Hoa Kỳ tù mù, một ông lão bó gối ngồi nhìn bàn cờ thế rải trước mặt. Lão ngồi đợi khách đến chơi cờ. Chốc chốc lão lại đưa tay lên vuốt râu và gật gù nhìn mọi người đi qua, đi lại trước mặt. Nhưng chỉ có người đi không có người đứng. Và chẳng có ai vào chơi cờ thế ăn tiền với lão. Dường buổi hội đông người ta còn ồn ào đi xem các trò vui khác. Chốc nữa, khuya lắm, họa chăng mới có một anh thợ cửi nào lân la tới đánh. Bây giờ lão chỉ ngáp vặt. Ngáp đến sái cả quai hàm, nhưng không hề buồn ngủ. Lão thức đêm đã quen mắt rồi. Từ lúc vào qua cửa tam quan, vẫn có một bọn con trai làng Thượng đi theo bốn cô gái thôn Nha. Bọn đó đã nói pha với các cô từ lúc họ ngồi ngoài hàng nước. Các cô vào, họ theo chân luôn. Và lúc đi xa, lúc sát lại gần, họ không rời các cô. Gớm, cậy là trai làng vào đám có khác, họ đùa nghịch, họ trêu chọc, họ táy máy như quỷ sứ. Họ nói pha đủ giọng: - Các chị lễ Phật dẻo quá. - Các chị niệm nam mô đi nào! - Mời các chị đi đáo vòng. Ăn chai bia ngon ơ. - À có chị nào vào chơi cờ thế? Các cô ngơ đi, tảng như không ai nghe tiếng. Họ càng trêu già. Ngây lo nhất. Chẳng biết Hời có để ý đến bọn con trai nghịch ngợm ấy không. Xung quanh, người chen đi, kẻ đẩy lại, đông quá khiến nàng không thể ngó được Hời đứng ở chỗ nào. Có một lúc, ở đám chèo đò ra, Ngây thoáng trông thấy Hời đứng ở bên kia cột trụ. Tay chàng cầm lăm lăm chiếc gậy tre lớn. Đôi mắt chàng quắc rất dữ tợn. Và thoáng trên môi nở một nụ cười thoảng, hơi gằn, Ngây rùng mình. Nàng băn khoăn nghĩ đến những điều rắc rối không đâu. Chị em đi vòng ra đám chèo. Bọn trai vẫn lẵng nhẵng theo. Sao mà Ngây ghét chúng thế! Những đứa đâu dơ dáng mặt trơ ra như mặt gõ. Chúng ăn mặc lối đá tỉnh đá quê. Quần trắng dài. Áo tấc trắng, bẻ vành hai cái cổ mốt tây như hai cái tai chó. Có thằng, tối mà cũng đeo kính rợp như thầy bói. Có thằng cầm vung vẩy cái đèn bin. Đầu đứa nào cũng bóng nhẫy và sặc mùi bờ-li-ăng-tin. Tinh nghịch, mỗi đứa ghép nhau với một cô. Nó làm như của nhà nó vậy. Một thằng đi sát vào Ngây. Ngây phải lẩn và giữa đám chị em. Nó nhe răng ra cười và nói: “Mợ ghét tôi đấy hả?” Ngây vừa tức lại vừa sợ. Hời đứng ở đâu? Hời mà nghe tiếng thì ra sao bây giờ. Ngây hỏi Bướm? - Cái thằng đi sau lưng em là con trai làng Thượng? - Thằng Khói con lão lý So. - Lý lẽo gì mà đểu thế! Tất cả đám hội, chỉ có đám chèo là quyến rũ được nhiều người đến xem nhất. Chèo diễn ở trong một cái cầu ngói, ngay trước cửa đình. Ngày thường cầu này vẫn dùng làm điếm tuần. Trong ngày đám, những giáo, những mác, những côn, những thùng lùng, đinh ba, những cái cờ ba góc bằng nan tre và tất cả một cái giá cắm những dụng cụ và việc tuần phòng của các ông trương phiên, khán thủ đều được người ta bê lên bày trước sân đình, cùng một dẫy với năm lá cờ giấy phấp phới, cho thêm oai. Cầu chỉ có ba gian hẹp. Gian giữa là cả một cái thềm gạch cao có giải chiếu dùng làm sân khấu. Hai bên để chỗ cho mọi người xem. Buồng trò ở ngoài sân, giữa trời. Lúc mấy cô gái làng Nha tới thì đám chèo đã đông lắm. Đông lắm. Tưởng tượng như người ta xô nhau chui vào một cái vò. Vì có thể nói rằng những người bị ép trong cùng tường kia, đến bị mùi mồ hôi nách, mùi mồ hôi dầu, mùi người làm cho họ bị chết ngạt mất. Hàng trăm con người nêm nhau, nhét nhau vào trong một cái quán. Đã thế, lại còn thêm bao nhiêu người đứng ngoài. Tiếng beng beng, tiếng trống cơm bập bùng rối rít. Tiếng trẻ con khóc, reo và kêu to hơn cả tiếng hát. Bây giờ mà đứa nào ngã xuống đất, đành hẳn bị người ta xéo chết. Làng Thượng thiếu gì đất rộng để cất một cái rạp chèo mà lại phải cho hát chui rúc vào đây như vậy. Nguyên bởi thế này: năm xưa, làng vẫn dựng rạp bên tường đình. Một đêm, không biết có đứa nào khoảnh hay tại tụt lạt buộc mà đương hát, đương bao nhiêu là người xem vòng trong vòng ngoài, vòng cả dưới gậm, bỗng sàn sạp bị đổ sập xuống như một cái bẫy chuột. Tai nạn ghê gớm xảy ra. Một thằng bé lên mười bị vỡ đầu, chết. Một đứa suýt gẫy cẳng. Hai đứa nữa hộc cả máu mồm, máu mũi. Từ đấy người ta không dám cất rạp giữa trời để hát chèo nữa. Họ hát trong cầu. Trời tháng Tư thì nóng. Mà người thì nhiều vô kể. Mặc! Chả ai cần. Quanh năm đầu tắt mặt tối vào cái khung cửi, cái lồng tơ, mấy khi có được trò vè mà xem. Bốn cô gái cũng chịu khó len vào xem một mảy. Hơi người xông lên nhức cả mũi. Phường chèo đương diễn tích Tô Thị vọng phu. Nàng Tô Thị tiễn chồng đi thú lên xứ Lạng. Nàng Tô đây là một đào nạ dòng chít khăn mỏ quạ, mặc áo the thâm và thắt lưng xanh. Miệng nàng đã rộng, lại bôi son đỏ, thành thử nó loe loét ra. Đôi hàm răng đen há ra, tối ngòm như nom vào hang. Một tay cầm quạt, một tay uốn éo, nàng rún rún mấy cái mà hát lên những câu não nùng rằng: “Ối a! Ối a! Mà là tình bằng... tình bằng con chim xanh ứ hự... ứ hự con chim xanh...” Nàng hát một hơi, rồi im. Tự nhiên, một anh đương ngồi gõ trống, dọn giọng hỏi réo thực to: “Ới cô mình, cô mình đi đâââu?...” Tô Thị che quạt lên miệng trả lời: “Em nên xứ Nạng!”. Thế là cái gánh hát có được bao nhiêu người, cả ngoài sân khấu, cả trong buồng trò, từ anh quảy hòm trở lên tới ông trùm, đều thưỡn quai hàm ra mà ồn ã láy lại một nửa câu nói của nàng Tô “... em nên xứ Nạạạng...” Rồi lại bung nhoóc... bung nhoóc... tiếng mõ và tiếng beng beng, tiếng trống con với trống cơm bung bập bùng... bung bập bùng... Người ta xem, thích mê, quên cả nóng. Bên sân khấu, dưới ánh ngọn đèn đất, một ông lão cầm dùi trống thỉnh thoảng lại điểm tom tom đôi ba tiếng chầu. Trong đám trai trẻ, có người xì xào: - Dơ quá. Hát chèo mà cầm chầu! - Cái thằng Khán Mè dở hơi, đương say rượu bí tỉ đấy! - Làng này không ai biết bảo lão à? Thiên hạ đến xem người ta chửi cho. - Ai bảo! Ai cũng rúc vào đánh bạc! Lý Cò xóc cái, chánh hội Đàm hồ ly, tuần để gác. Chức dịch đương thứ cả đấy. Còn có đứa chó nào ngồi chỗ cầm chầu mà bảo! - Tệ thật. Dột từ nóc dột xuống, nát cha nó làng ra. - Ông mà đi báo thì chết bỏ mẹ cả. - Ấy, mới ai hoài hơi. Rồi lại đâm thù đâm oán. Này con bé nào mà trông kháu thế kia? - Con Ngây nhà lão Nhiêu Thục bên Nha. - Thằng Khói cảm tít, theo mải miết từ chập tối đấy. - Liệu chả kẻo thằng nào bên Nha nó đánh cho ốm cơm không? - Con trai lạ đi xem hội người lại dám đánh con trai làng người ta. - Nó đương sợ! - Kia kìa thằng Khói đi đến sát tận đít con Ngây. Khói đến tận nơi thật. Đám hát đông. Khói cứ chen bừa vào. Ngây ngoảnh lại, trông thấy Khói, nàng hoảng hốt nắm chặt áo Bướm. Nàng cố đưa mắt tìm Hời, tuy nàng luống cuống không biết tìm Hời để làm gì. Cầu cứu hay sợ hãi? Trong sân khấu diễn đoạn Tô Thị lên tới xứ Lạng, đến chỗ thấy chồng có vợ lẽ thì đánh ghen. Anh chồng, mõm bôi nhọ trắng, đứng ê mặt, mặc cho vợ túm ngực áo. Thằng Khói véo ngầm Ngây một cái, nói bâng quơ: - Gớm liền bà ghê quá! Ngây vội vã lôi Bướm ra khỏi đám đông. Bướm quay lại gọi Lụa và Mơ. Nhưng chèo đương đến chỗ hay, hai cô ả còn dùng dằng. Ngây gắt: “Mặc kệ các chị ấy!”. Ra đến ngoài mới có gió mát thoang thoảng. Ngây bảo: - Ta về đi, chị Bướm ạ! Hóm hỉnh, Bướm hỏi Ngây: - Về hả? Nó làm gì chị thế? Ngây ấp úng: - Không. Trăng đã lên rồi, em phải về, mai còn dậy dệt cửi sớm. - Ừ về. Mình xem cũng chán cả mắt. Không rủ Lụa, Mơ về à? - Mặc họ. Hai đứa mê con trai làng Thượng ra phết. Những thằng mất dạy ghét cái mặt. Hai chị em bỏ đám hội, tong tả ra về. Càng đi ra, người càng loãng dần và càng có nhiều gió. Gió hây hẩy. Gió quạt mát cho mọi người. Hai cô vừa ra khỏi tam quan nghe có tiếng ai gọi đằng sau. Tưởng ai, hóa ra lại cái thằng Khói khốn nạn vừa cấu Ngây ban nãy. Nó đi với một thằng nữa. Hai người con gái nhìn sang hai bên đường cái vắng vẻ, chỉ có bóng cây và ánh trăng. Trăng vừa lên, khuyết vẹt một góc, lừng lững ở chân trời. Hai cô sợ, cứ cắm cúi đi. Thấy thế hai gã càng theo miết. Giữa lúc ấy cũng từ đằng sau, tiến lên hai người đàn ông. Họ đi nhanh gần như chạy. Trong nháy mắt, họ đã kịp bọn Ngây. Ngây nhận ra đó là Hời đi cùng với Thoại. Nàng giật mình giục Bướm: “Khuya lắm đấy!” Khói đã đi sát bên Ngây, nói: - Mợ... Nó vừa thốt được ra có thế, Hời đã xô đến trước mặt: - Mày định làm trò gì nào? Đấy đến đầu cầu Phượng. Là hết địa phận làng Thượng. Khói nhớn nhác xử nhũn: - Không, tôi có... - Không? Thế mày đi theo người ta làm gì? Bận sau thì ông dần cho... Thoại nóng mắt, giơ gậy lên phang luôn. Khói chúi người đi, tránh được. Gã vội cùng thằng bạn cắm cổ chạy miết trở lại, vừa chạy vừa kêu rầm rĩ với nhau. Đường vắng, chẳng ai biết. Bấy giờ Bướm và Ngây mới hoàn hồn. Nhưng hai cô vẫn bíu vào nhau. Ngây run run hỏi: - Các anh đấy à? Chúng nó gớm quá. Thoại đáp: - Thằng Khói lại còn phải kể! - Từ giờ thì em kệch đến già, không đi xem hội làng này nữa. Thoại cười: - Sợ gì. Có chúng tôi. Đêm đã khuya. Trăng lên cao, mờ một góc nên có dáng buồn buồn. Đi trên cầu Phượng, thấy mặt trăng nằm rung rinh dưới đáy sông. Bướm ở ngõ ngoài, Ngây ở ngõ trong. Hai cô sắp chia tay nhau. Hời nói: - Anh Thoại đưa chị Bướm nhé! Bướm cười, từ chối: - Em đi một mình cũng được. Có đây vào kia thôi mà. Chị Ngây về nhà. Chào anh. Tuy Bướm nói ra lời thế, nhưng Thoại cũng cứ tự nhiên cùng Bướm đi vào trong ngõ tối. Ngây bảo Hời: - Hai cậu mợ còn vờ vịt mãi. - Cái Bướm ra phết đấy! - Lúc nãy sợ quá. Mà sao suốt đám không thấy anh đâu? - Tôi nấp một chỗ. Thằng Khói làm gì đằng ấy, tôi cũng biết. Ngây chạnh lòng, đấm vào lưng Hời một cái. Nếu ban ngày, chắc đã nhìn thấy nàng đỏ mặt. Nàng nói khẽ: - Thằng tồi quá! - Thế mới định giã cho nó một trận. - Nó biết mặt anh không? - Biết. - Nó thù thì chết. Hời vung gậy lên: - Ngữ ấy làm gì nổi ai! - Em sợ lắm. Hời cười: - Sợ đếch gì! Ngây đập khẽ vào vai Hời, nói: “Giỏi nhỉ”. Anh chàng đưa được câu chuyện đến chỗ đằm thắm. Nhưng đã vừa tới đầu ngõ. - Chúng mình đứng lại một tý. - Không biết thằng Toản nhà em về chưa? Khuya quá. Hời cầm tay Ngây. Do dự từ lâu, bây giờ anh chàng mới dám mó nhè nhẹ thôi. - Hẹn đi chơi nói chuyện. Thành thử cũng chả nói được chuyện gì. Ngây cười. Dưới ánh trăng nhạt, hai hàm răng đen lóng lánh. Đôi mắt Ngây cũng lóng lánh. Còn đôi má thì phúng phính. Bàn tay người con gái nóng hôi hổi. Hời nghĩ bụng: “Nóng đúng như da gà”. Và ngây ngất, chàng thở phào ra đằng mũi một hơi. Thanh vắng quá. III BUỔI SÁNG, có mấy đứa trẻ trong xóm Giếng đi học chữ nho ở nhà thầy đồ Miên về. Chúng đi từ lúc tờ mờ sáng, sớm bằng những người thợ đi dệt cửi. Học nhốn nháo một lúc đứa nào thuộc bài thì thầy đồ cho về trước. Nên chỉ lúc mặt trời tới lưng bụi tre, chúng đã chạy ùa cả ra đường. Sớm hôm ấy, lũ trẻ về qua cửa đình trông thấy một mảnh giấy dán ở một cột trụ bên phải. Tò mò, chúng rủ nhau đứng lại xem. Trong mảnh giấy có chữ quốc ngữ viết bằng bút chì. Nhưng vì dán hơi cao, nên chúng phải côông kêêng nhau lên mới đánh vần được những chữ ấy. Lúc một đứa đã đọc xong, chúng cười và reo ầm ĩ, rồi chạy tất cả vào trong làng. Đứa nào về nhà đứa ấy và mỗi đứa lại bảo cho nhiều người trong làng biết rằng có cái giấy gì hay lắm, dán ở ngoài cửa đình. Bấy giờ là sau bữa cơm sáng. Mọi người chưa phải vào khung cửi, đều đứng ở các cửa ngõ, cái tăm ngậm trên miệng. Nghe lũ trẻ nói bi bô, họ kéo ra cửa đình xem, đi lũ lượt như đi xem hội. Những người đàn bà thập thò trong các cổng tán. Ở bờ rào này hỏi qua bờ rào khác. Nhưng chưa ai biết gì cả. Trên cột trụ có dán một tờ giấy thực. Một anh trai nhanh nhảu chen vào tận nơi, nói: “Xem giấy má gì nào...” Rồi anh cất giọng y a đọc to và thong thả cho mọi người xung quanh nghe: Cáo bạch Làng ta lắm chuyện nực cười Có ông Nhiêu Thục mặt thời đỏ gay Được cô con gái, gớm thay Mười chín tuổi rày, tính đã trăng hoa. Làng Thượng cho chí làng Nha ... Tấm thân bán rẻ đồng tiền, Huýt còi một tiếng thời liền ra ngay. Con đi mua rượu bố say, Con hỡi, tiền này con lấy ở đâu. Ai ơi, đứng lại đầu cầu ... Đứa nào mà bóc của ông cái giấy này thì chết một đời cha ba đời con đấy. Người ta cười rầm lên. Ra đấy là một tờ giấy kể vè nói xấu. Rồi họ lại hò anh con trai giỏi giang chữ nghĩa kia đọc lại một lượt thực rành rọt thực ngân nga. Lần này họ cười, vỗ tay đôm đốp. Ai cũng lấy làm khoái chí. Cái gì chứ cái điều được nghe bới xấu nhau thì ai cũng có tính ấy. Câu chuyện lan trong đám đông. - Nhiêu Thục xóm Giếng phỏng? - Cái đĩ Ngây ư? - Con bé thế mà đốn. Hừm, thời buổi này, ai biết đâu được. Mới nứt mắt ra. - Con gái không có mẹ là chúa đoảng. Nhưng có người nghĩ kỹ hơn, nói: - Thôi, ắt lại chuyện bôi xấu nhau, con gái nhớn mang tiếng thế khó mà lấy được chồng. Đời thâm thực... Người ta còn lào xào dò đoán và phẩm bình nhiều câu nữa rồi mới giải tán. Nhưng không ai sờ tay vào tờ giấy. Có bận chi đến họ mà họ phải bóc! Thế là cái tin “có giấy nói lão Nhiêu Thục” bay khắp bốn xóm làng Nha. Những người đàn bà ở trong nhà cũng đều biết. Một lúc sau ông Nhiêu Thục cũng biết. Đầu tiên ông nghe mang máng như có một chuyện gì ở ngoài cửa đình mà con trai họ kéo nhông nhốc ra xem. Rồi họ về trong xóm, vừa đi vừa cười hô hố. Ông Ba Cấn tạt vào nhà ông chơi. Ông Ba Cấn với ông Nhiêu Thục là hai anh em con nhà cậu về đằng ngoại. Ông Ba hốt hoảng ghé tai ông Nhiêu, nói nho nhỏ. Vậy là mặt ông Nhiêu cũng hốt hoảng chẳng khác gì ông Ba. Hai ông chạy đùng đùng ra ngõ. Ngây đương ngồi quay tơ, chẳng hiểu việc gì, ngẩn ngơ nhìn theo. Hai ông nối nhau chạy ra ngoài cửa đình trông lên tờ giấy dán ở cột trụ, rồi lại vội vàng chạy về trong xóm. Hai ông chạy về tìm thằng Tuế, con ông Ba Cấn. Bởi vì nó biết đọc chữ quốc ngữ. Thằng Tuế lóc cóc theo bố và ông Nhiêu ra cửa đình. Người xem không còn ai nữa. Ông Nhiêu xốc nách nâng Tuế lên cho nó đọc. Nó mới đọc đến câu “có ông Nhiêu Thục...” thì ông buông nó xuống. Trán ông mồ hôi đọng thành từng giọt. Ông bóc tờ giấy ở tường ra, rồi nói: “Mời ông với cháu về nhà tôi”. Cả ba người tất tưởi về nhà ông Nhiêu. Ông sai thằng Toản ra đóng ngõ lại. Rồi ông cùng với ông Ba Cấn, thằng Tuế vào tận trong buồng. Tuế cầm tờ giấy mà đọc. Bà Ba và Ngây đứng nghe ngoài cửa. Thằng Tuế đọc xong giấy “cáo bạch” đó thì bà Ba xô vào buồng. Ngây chạy ra đằng sau nhà đứng khóc rưng rức. Ông Nhiêu buông hai tay xuống, đờ đẫn đôi con mắt và thở dài một tiếng não nuột. Bà Ba mím môi, phát một câu chửi rít trong hai hàm răng: - Đứa nào ăn dáy ngứa miệng! Nó lại muốn bà bới cha đào ông nhà nó lên đấy. Ông Ba Cấn bàn: - Ta đem giấy này lên tường phủ. Nên làm cho ra nhẽ. Ông Nhiêu mơ màng xua tay: - Thôi ông ạ. *** Nhưng chỉ thôi cái việc lên tường phủ, bởi vì vốn nhà lành hiền, chẳng ai thông thạo việc quan tư kiện cáo. Nhưng cái việc của bà Ba thì bà làm ngay. Tuy ông Nhiêu Thục, ông Ba Cấn chẳng tỏ ý hoan nghênh, nhưng cũng không ra vẻ phản đối. Buổi trưa hôm ấy, văng vẳng có tiếng mõ cốc cốc. Người ta thấy bà Ba đi giữa đường, một tay cầm cái ống tre, một tay cầm cái dùi. Đằng sau, một đứa trẻ đi theo. Áo bà thắt lưng bó que. Hai bên thành váy xắn cao, gọn gàng. Mỗi khi đi đến một ngã ba, bà đứng dừng lại. Bà gõ một hồi mõ, rồi chắp hai tay ra sau lưng, bà cất cao tiếng réo một bài vừa chửi vừa rủa: - Ới thằng liền ông! Ới con liền bà! Ới đứa già! Ới đứa trẻ! Ới đứa nào đêm hôm qua xỏ xiên gì nhà tao thì nó dỏng mái tai, gài mái tóc, gọi ông bà ông vải cụ kỵ nhà nó lên để nghe bà chửi, để nghe bà ỉa vào đầu lâu hoa cái nhà nó...ó...ó. Nó đi đằng xuôi, chết đằng xuôi; nó đi đằng ngược, chết đằng ngược; đi tầu, đắm tầu, đi ô-tô, chẹt ô-tô. Nhà nó đương đông đàn dài lũ thì chết lăn đùng thổ tả cả ra... Và còn nhiều nữa, dài nữa. Mỗi một lần gõ mõ để dọn một câu, bà lại có thể đổi ra đủ các thứ bài chửi khác nhau. Mặt bà bình thản, tự nhiên y như khi bà ngồi quay tơ ở trong nhà. Bởi đó cũng là một việc quen thuộc vậy. Về sự lắm điều, ở làng Nha, bà Ba đã nổi tiếng. Ngày trước, đến năm hai mươi tám bà mới có chồng. Chỉ vì, tuy là con gái, mà bà đã chua ngoa quá lắm. Cả làng, không ông bà nào dám rước cái của “đứt dây trên trời rơi xuống” về cho con cái nhà mình. Ở với bà Nhiêu Thục - hồi ấy còn mồ ma bà Nhiêu - một tháng có ba mươi ngày thì đôi chị dâu em chồng cãi nhau đủ hăm chín ngày rưỡi. Về sau, có một người đàn ông góa ở bên Phú Gia nhờ người sang mai mối, lấy bà. Tất nhiên là cái tiếng lắm điều của bà, người ta không hay biết chi. Cứ đàn ông góa mà dòm được gái tân, đã là may mắn lắm rồi. Cái báo chướng được rước đi... Bà Nhiêu mừng. Chắc hôm cưới bà cũng có ném gạo muối theo. Nhưng cái sở trường cả tiếng của bà Ba, sang bên Phú Gia, chẳng may lại không hợp đất. Chồng bà là một anh có tính hay cục. Mỗi khi bà quang quác mồm, anh ra rút ngay rõi cửa phang liền. Lắm điều nhưng nhát đòn, bà phải câm miệng hến ngay. Lâu dần, sự sợ hãi biến thành thói quen, bà cũng bớt mồm bớt miệng đi được nhiều. Cái tiếng ấy bay về bên làng Nha, người ta nói rằng thế là ông bốn tai gặp bà hai đầu. Bà ở với chồng ngoài mười năm, cũng không đẻ đái gì. Một hôm, chồng bà cãi nhau với một người làng. Đôi bên cùng tức khí, liền nện nhau. Người kia cầm cái giáo quạt đại choảng vu vơ thế nào lại trúng vào tinh mũi ông ta. Ông ngã bổ chửng và nằm nhuôi ra... chết. Việc lên đến quan, người kia bị kêu án năm năm tù. Người ta không có một chút của nả nào mà bồi thường. Thế là bà Ba mất chồng rất tự nhiên. Bà đến ở chung với gia đình nhà em chồng, nhưng không có ai kiềm chế, cái thói xưa lăng loàn của bà lại bùng dậy. Tuy ở nhà người ta mà không mấy ngày bà không cãi nhau với em dâu. Bác với thím chửi nhau ơi ới. Song về bên cánh của họ đông quá: chồng, vợ, bốn đứa con và cả tứ bề hàng xóm nữa. Bà Ba có mỗi một mồm đành chịu thua. Chẳng bao lâu, bà dọn về ở bên Nha. Khi ấy bà Nhiêu ốm bệnh tê, đã qua đời từ mấy năm trước. Bà Ba ở với anh, ăn giúp làm đỡ vào đấy. Đầu đã ngả hai thứ tóc - đã năm mươi dư rồi! - Bà Ba không còn quang quác mồm miệng như xưa. Vả, bây giờ ăn nhờ ở đậu, anh là đàn ông, các cháu thì bé, xung quanh không thể có người đàn bà tương đương nào để bà cãi nhau. Ông Nhiêu Thục lại nghiện rượu. Mỗi khi ông say mà nghe tiếng bà Ba cãi nhau léo xéo thì dù có chân bà là sắt, chắc ông cũng phang cho đến gẫy. Đã lâu lắm bây giờ mới được nghe bà Ba chửi rủa con cà con kê, có ngành có ngọn. Bởi vì bà tức quá. Đứa nào vô phúc đã dán cái giấy kia. Nó quên tài chửi của bà rồi hay sao? Bà có thể trồng cây chuối ngược lên mà chửi suốt tháng. Bà có thể chửi cho đứa nào đứa ấy và cơm vào miệng rồi mà phải miệng nôn trôn tháo cả ra. Bà đi chửi từ đầu làng đến cuối làng, từ xóm Giếng sang xóm Đình, ra xóm Mới, vào xóm Lẻ, khắp các ngã ba ngã tư. Lũ trẻ đi theo rều rễu, họp thành một cái đuôi dài đáo để. Có đứa bỏ cả đánh suốt để đi theo, xem bà Ba chửi. Bố nó phải chạy ra đánh đuổi nó về, thành thử khắp làng cứ nhộn lên thôi. Đến tận chiều sẩm, khan cả tiếng, bà mới chịu vác ống tre và cái dùi trở về nhà. Bà đe rằng ngày mai bà còn chửi nữa. Bà còn chửi mãi tới khi động đến mồ mả nhà đứa nào ấy, làm cho nó ăn uống, ngồi đứng không yên, phải đến tận cửa nhà bà mà lạy, bà mới chịu thôi. Kể bà chửi cũng hay thực. Hôm nay, chắc có nhiều bà và nhiều cô con gái cố lắng nghe học lỏm lấy những câu hóc hiểm để nhỡ ra có bận nào chửi nhau với ai chăng. *** Bà Ba về nhà, trời vừa chạng vạng tối. Ông Nhiêu đã bảo thợ nghỉ dệt. Ông ngồi uống rượu ở bên cái chõng tre, kê ngoài đầu hiên. Một cút rượu trắng để bên một đĩa đậu nướng với một chút muối. Ông nhắm có vậy. Mà thế còn có hơi đồ nhắm, nhiều khi, ông chỉ uống rượu suông với rau muống. Ông Nhiêu vào hạng cừ rượu trong làng. Trước ông cũng được tiếng là uống rượu đứng đắn, không nát lắm như nhiều người khác. Lúc thường, chọc mồm ông cũng chẳng nói một câu, lúc rượu vào ông cũng chỉ ba hoa ít nhiều, rồi ông đi ngủ khì. Nhưng bây giờ ông không còn giữ hẳn được nết ít nói như xưa nữa. Bởi ông uống rượu đã thành lệ mà hóa ra nghiện. Cũng chỉ vì ông buồn về chuyện gia đình. Thằng trưởng Khiếu là con trai lớn của ông. Nó đã có vợ con rồi. Trước nó vẫn làm ăn với ông, về sau, không biết nó đã nghe ai xui xiểm cứ một mực nằng nặc đòi cho vợ chồng nó ra ở riêng. Bấy giờ bà Nhiêu cũng đã về với ông vải rồi. Ông thì nghĩ rằng nhà neo người, có mỗi mình nó là nhớn, mấy bố con hãy dùm dúm lại với nhau, đợi bao giờ chúng nó nhớn nhao cả, ông sẽ liệu lo cho đứa nào có phần nấy. Nhưng phải thằng trưởng Khiếu là đứa mất dạy. Nó cứ nói với mọi người rằng ông tham, cái gì cũng chỉ muốn vơ vào mình, không muốn cho con cái khá. Nó lại mượn giọng rượu để nói láo. Tức mình ông Nhiêu đánh nó. Ông già rồi, đánh vào lưng nó như giũ bụi, không thấm thía. Nó lại càng nói bậy hơn. Nó giả say, say trong lúc tỉnh, để nói hỗn với bố. Rồi một hôm, hai bố con cãi nhau. Trưởng Khiếu đang cơn cáu, thấy bố chửi và sỉ mắng thì tức lắm, cũng chửi và sỉ lại bố đủ điều. Ông Nhiêu hầm hầm vác cái đòn ống đuổi đánh nó. Khiếu lại tức mình, giằng lấy đòn ống, phết ông Nhiêu một trận ngã bổ chửng. Phải có hàng xóm đổ sang lôi nó ra, nó mới chịu thôi. Hôm sau, nó lẻn về ăn cắp của ông ba cái mâm đồng, một cái nồi đồng, một cái chậu thau, mười con tơ mái đem bán, rồi nó ra làm nhà ở một miếng đất công phía đầu xóm, không ở với bố nữa. Bố con gặp nhau cũng chẳng chào hỏi. Ngày rằm tháng ấy, ông Nhiêu mang một cơi trầu, một chai rượu ra đình, tường với hội đồng làng rằng ông từ thằng trưởng Khiếu, chẳng bố con gì với nó từ giờ. Nghe tin ấy, trưởng Khiếu cười mà nói với mọi người: “Ông ấy từ tôi để khỏi phải chia của cho tôi đấy. Nhưng hương hỏa mả dài nhà ông ấy thì có đếch gì. Đời cái thằng tôi, tôi có cần đâu!” Ông Nhiêu căm lắm, và càng chán mà uống rượu tợn. Bắt nghiện từ đấy. Ngữ của ông là mỗi buổi chiều uống một cút năm xu. Nhưng hôm nay, ông uống hơn năm xu. Ngây đã lên đèn dệt cửi mà ông vẫn còn ngồi uống tì tì. Bà Ba đoán chắc có sự khác thường. Ngây im lặng, rầu rĩ đưa thoi. Từ sáng, nàng ủ dột âu sầu khóc thầm mấy bận. Thằng Tuế đã đọc lại cho nàng nghe cái tờ giấy gớm ghê nọ. Chao ôi! Bao nhiêu người đã xem cái vè cái giấy này. Mọi người đều biết cả. Cả anh Hời cũng biết nữa. Nàng chẳng dám đi ra ngõ; cả đến ở trong nhà, nàng cũng cúi mặt xuống đất, không muốn ngửng lên nhìn ai. Đứa khốn nạn nào đã vu cho nàng. Chẳng biết có ai cho là nàng oan uổng không. Ở cái đời bới bèo ra bọ này, người ta chỉ đợi cho nhau có điều không phải để mà cười thôi. Ông Nhiêu vẫn uống rượu. Ông uống cạn già nửa chai hai cút rồi. Ánh đèn ở trong khung cửi chiếu ra, hắt bóng ông và bóng chai rượu gật gù trên vách. Bỗng ông đứng dậy, chệnh choạng đi vào trong nhà. - Ra tao bảo, Ngây! Nghe bố gọi, Ngây cắm mũi văng xuống mặt lĩnh, rồi đi ra ngoài hiên. Bà Ba ngồi dưới nhà quay tơ. Trong nhà, về ban đêm, mỗi người có một việc, không mấy khi ai ngồi nói chuyện gì với ai. Thằng Toản chỉ có cái việc chập tối thì ra ngõ đóng cửa, vào trèo lên giường, xát hai chân vào nhau cho sạch đất rồi nằm lăn ra ngủ. Chỉ về mùa rét, hôm nào chị Ngây có nhắc, nó mới nhớ đến rửa chân. Bây giờ nó đã đương đánh một giấc ngon. Ông thu thu sau lưng cái gậy. Ngây nhớn nhác nhìn bố. Ông Nhiêu thở ra phè phè, nói bằng một giọng rền rĩ khác hẳn cái tiếng hàng ngày ông vẫn nói: - Con ơi! Con làm hại bố! Ới con ơi! Con làm hại bố! Ừ, con ông nó hại ông thực. Nó là con gái. Nó làm cái trò gì mà để đến nỗi người ta đàm tiếu, người ta dán giấy ở cửa đình mà chửi cho như thế. Ối trời ơi! Bảo rằng có đứa nào thù cho nên nó mới xỏ nhà mình. Thì không chọc, không trêu tức, làm sao nó lại thù! Cho là con ông có chính chuyên lắm, đứng đắn lắm, nhưng mà để cho chúng nó nói đến cả nhà ông là cái thằng đẻ ra nó ấy cũng là đứa hư rồi. - Con mẹ mày chết rồi, không ai dạy mày cho nên mày mới làm cho nó chửi ông. Ối con ôi là con ôi! Ông nghĩ ông căm lắm. Tao phải cho mày một trận, nghe chưa. Nằm xuống đây... Nằm xuống đây... Ngây vẫn đứng yên. Ông Nhiêu giơ gậy lên, vụt một gậy ngang lưng. Ngây kêu rú, chạy vào khung cửi. Ở dưới nhà, bà Ba nghe tiếng, nhào lên thì thấy hai bố con đang đuổi nhau quanh cái phản giữa. Bà xô vào. - À con mụ này lại muốn lôi thôi cái gì? Ông phang hụt một gậy... - Con bà cô! Ông quật chết tươi đong đỏng bây giờ! - Làm cái gì thế! Hàng xóm người ta nghe tiếng. - Mặc cha bố con ông! Rồi ông Nhiêu lại hầm hè đuổi con gái. Ngây chạy thoát ra sân. Ông lập cập theo, vấp phải bậc cửa, ngã rụi xuống. Rượu đã ngấm đến cực độ, khiến ông không thể cất nổi đầu nữa. Ông chúi xuống, bò đi kềnh càng như một con cua. Ông khua hai tay, rồi khuỵu hẳn xuống. Thế là ông kêu lên rền rền: “Gậy của tôi đâu?... Đánh bỏ mẹ nó đi!... Tôi có say đâu!...” Tự nhiên, ông cong cổ lên, hoác miệng ra mà nôn thốc một hồi. Cơm rượu phòi từng đống. Như cũng đã từng quen những cuộc say sưa như thế, bà Ba để yên ông Nhiêu mửa một lúc thực lâu rồi ông gục hẳn xuống, như một con gà đã cắt tiết, bị ngoẹo oặt cái cổ, bấy giờ bà mới vào lấy một chiếc chiếu, bà rải chiếu xuống cạnh chỗ ông Nhiêu nằm. Bà lấy tro dưới bếp đổ lên những đống cơm mửa. Rồi bà lăn ông Nhiêu vào giữa chiếu, kéo một nửa lên đắp. Ông nằm dang chân, dang tay. Mồm lảm nhảm nói những câu đầu Ngô mình Sở, chắp chắp nối nối chẳng ra nghĩa lý gì cả. Bà Ba vào tắt đèn khung cửi. Ngây nằm gục trên phản. Chẳng nói gì, bà Ba lò dò xuống nhà ngang, ngủ. Một lúc sau thì những câu nói bơ vơ của ông Nhiêu đổi ra một điệu ngáy bổng trầm. Đến sáng ông vẫn nằm tùm hum trong chiếu, hai cẳng chân đen và khô khẳng thò ra ngoài nom rờn rợn và lạnh lẽo như chân người chết. *** Ngây không được đi chợ bán lĩnh một mình như trước nữa. Đêm ấy, ông Nhiêu có say đánh Ngây thực, nhưng không phải là ông say đến lú lấp trí khôn. Ông cũng biết có đứa xấu bụng đã đặt điều ra vu oan cho nhà ông, cho con gái ông, nhưng ông cũng phải giữ cho nó hết nhẽ. Bởi vậy, những ngày phiên tơ ông cùng đi chợ bán lĩnh với con gái. Ngây thì như dại đắng dại cay cả người. Cứ một cái việc bà Ba đi khắp làng xóm mà rêu rao chửi bới người ta cũng đủ ê chề cho nàng rồi. Đêm trước Ngây đương cắm cúi dệt, thấy một đóa hoa ngọc lan ném qua cửa sổ rơi xuống khung cửi. Nhưng nàng không ngừng thoi dệt, mà cũng không dám tắt đèn để đi ra vườn. Nàng cắm cúi đưa thoi liền liền, trong lòng nao nao, nước mắt rỏ cả xuống mặt cửi. Cho đến khi văng vẳng ở ngoài tiếng chó sủa gần gần rồi lan ra xa xa. Biết là Hời đã về rồi, Ngây mới im thoi. Nàng vào giường nằm, không thể nhắm mắt ngủ được. Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần... Nàng phải nói cho Hời biết những sự lo lắng, những nỗi khó khăn nguy hiểm, nếu hai người còn gặp nhau. Nàng nhớ đến Bướm. Chiều hôm sau, Ngây sai thằng Toản đi vào nhà ông Hội ở đầu xóm gọi chị Bướm ra chơi. Từ bữa xảy ra sự lôi thôi. Ngây ít đi ra đến ngõ. Bướm tới. Hai cô ngồi ngoài đầu hè rủ rỉ. Loanh quanh những chuyện làm ăn, chuyện chợ búa, Bướm muốn hỏi thăm để an ủi bạn một câu mà chưa biết nói thế nào cho tiện. Còn Ngây thì cũng chưa biết mở đầu câu chuyện mình định ngả ra sao. Tiếng là hai người chơi với nhau cũng thân, nhưng chưa bao giờ nói chung một tâm sự tỉ mỉ gì. Sau Ngây nói nhỏ: - Em muốn nói với chị một chuyện này... Và Ngây nắm tay Bướm, nói tiếp: - Chắc chị đã biết câu chuyện có đứa khốn nạn nào nói xấu em? - Vâng. Từ nãy em vẫn định hỏi chị. Hai cô cùng nhũn, đều xưng mình là em. - Lòng em như cái bánh, giá có thể bóc được em cũng bóc cho chị xem. Chắc chị chẳng nỡ nghi ngờ em. - Ấy chết! Chị đừng lẩn thẩn thế! Em nào dám nghi chị. Chẳng qua là đứa xấu bụng, đặt điều cho người. Thế chị có biết được đứa nào đấy không? - Em không biết được đứa nào. Vì em chẳng có thù hằn gì với ai bao giờ. - Tức thật. Em cũng nghĩ mãi. Ngây nhìn vào mặt Bướm, cúi mặt nói khe khẽ: - Em muốn nhờ chị... một việc... Bướm nhoẻn cười, hai mắt lóng lánh: - Vâng, chị cứ nói. Mặt trời đã lặn. Ngoài thành tre, có tiếng những con liếu điếu cãi nhau lao xao. Ngây nhìn ra, nói mơ màng: - Em nhờ chị bảo cho Hời biết rằng từ giờ em không thể gặp anh ấy được nữa. Bây giờ mà gặp nhau, đứa nào biết thì thật chết. Bướm mủm mỉm: - Nhưng em làm thế nào mà nói được? - Lại còn làm thế nào? Chị đừng giấu em... Bướm cười tít hai mắt: - Em giấu chị cái gì mới được chứ? - Anh Thoại với chị... - Chị này tinh như mẹ ranh! - Chính em là mẹ ranh đây. Mẹ ranh nên các người vụng trộm cái gì với nhau mẹ ranh này cũng biết cả. - Còn cậu mợ thì dễ không đấy. Có muốn người ta kể xấu cho nghe không? Lạy em đi, chóng em giúp chị. - Vâng, em lạy chị cả hai tay. Chị nói với anh Thoại bảo Hời hộ rằng đừng gặp em nữa. Những lời em đã nói với anh ấy, thì anh cứ để ý mà lo liệu việc sau này. Lúc nào em cũng đinh ninh một lòng... Bướm đứng dậy: - Chị đừng ngại, em sẽ bảo cho. Tới phiên tơ mồng một này, em bảo Thoại nói với anh Hời. Kìa, Toản nó đã dọn cơm. Chị vào ăn đi, rồi còn dệt đầu hôm chứ. IV THOẠI VÀ BƯỚM không đến nỗi nhút nhát với nhau lắm. Chỉ sang khỏi cầu Phượng, hai người đã sát cánh nhau, đi song song. Họ men theo thành tre, ngược về phía ấp Hồ. Bấy giờ vào khoảng tám chín giờ tối. Một bên là lũy tre tối om, một bên dòng sông Lịch đen kịt. Bên kia sông là đường cái, có tiếng guốc lóc cóc của những người đi vào trong làng. Bướm bảo tình nhân: - Ta đứng lại thôi. Sang kia là địa phận làng Thượng, cậu à. - Ấy chớ. Lối này đi lên chợ, ai trông thấy thì rầy rà to. Quá sang gốc đa kia, trời cũng chẳng biết được. Bướm nắm cánh tay Thoại: - Tối quá. Đi ghê cả chân. - Ai bảo không đi guốc. Hay mợ để tôi cõng? - Phải gió! À cái việc lúc nãy tôi nói, cậu nhớ bảo ngay Hời. Ngây nó dặn đi dặn lại mãi đấy. - Nhớ rồi. Tối mai tôi đến Hời chơi thì nói. Anh cu Hời cáu lắm. - Cáu gì? - Cáu vì tờ giấy dán chửi cái Ngây ở cửa đình. - Cậu có biết đứa nào dán không? - Còn lạ gì nữa. Thằng Khói bên Thượng chứ ai? - Thế mà em với cái Ngây đoán mãi không ra. Chắc nó thù hôm hội cầu mát đấy nhỉ? Sao cậu lại biết? - Tôi với Hời đi nghe thì thấy người bên Thượng mách rằng nó dán. Chính nó lại đi khoe với người ta. Chúng tớ đương bàn nhau hôm nào giã cho thằng Khói một mẻ cật lực. - Thằng đểu nhỉ? Hai người đi tới gốc đa. Xung quanh tối như mực. Trông sang sông, những đốm lửa trong xóm Giếng, leo lét qua bờ tre như những con đom đóm chập chờn. Hai anh chị cùng ngồi xuống bệ gạch, trước cửa quán Cây. Họ ngồi khít vào nhau và nói lan man đủ thứ chuyện. Thỉnh thoảng Bướm cười rúc rích. Và thỉnh thoảng Thoại lại véo cô nàng một cái khá đau. Họ gọi nhau bằng “cậu” và “mợ”. Ít lâu nay, những tiếng nói ngây ngô và mới mẻ như thế, thường thấy ở miệng bọn trai gái trong làng. Cái đó lại do những anh chị nào được ra Kẻ Chợ tải về, truyền cho các bạn, kiểu như kiểu bôi giấy bao hương vào môi của cô Ngây. Bướm không phải là con gái làng Nha. Bướm là người trong vùng Giá. Đi ngược lên đường Sơn Tây, cách làng Nha chừng hơn ba mươi cây số thì đến làng nhà Bướm. Nhưng Bướm ra Hạ Nha từ thủa mắt còn toét đỏ hoe, mặc cái áo tấc hở cả lưng và cái váy bạc phếch chỉ ngắn cũn cỡn đến cẳng khoeo. Bướm ở quay tơ liền cho nhà ông Hội và được coi như người nhà. Bởi vì vợ ông Hội ngày xưa có bệnh sưng vú, vào mua thuốc cao Giá của bà nội Bướm về dán mà khỏi. Do cái quen biết ơn huệ ấy nên Bướm ở lưu cữu nhà ông Hội. Vả lại, bởi ông Hội không có con, nên Bướm cũng được mến. Bướm chỉ về quê vào những ngày có giỗ ông và mấy ngày Tết Nguyên Đán. Đến vụ mùa, u Bướm ra chơi, thể nào cũng đeo ra một tay nải khoai lang để biếu ông bà Hội. Bướm lớn lên ở đất Hạ Nha. Đối với nàng, đây cũng là một chốn quê. Có phần nơi này lại đáng luyến hơn quê thực. Hai người yêu nhau đã lâu. Nàng định đến sang Giêng, ngày rộng tháng dài, sẽ dẫn Thoại về Giá chơi cho biết nhà cửa. Và nếu có tiện, sẽ ướm cho thày u rõ chuyện của nàng nữa. Bướm chắc thày u mình bằng lòng ngay. Bởi vì Thoại bảnh bao bằng vạn các anh trai làng. Thoại lại ở đất có nghề làm lĩnh nhàn nhã; được một chàng rể như Thoại, cũng đã sang, dù Thoại, ở trong làng chỉ là một anh đi dệt cửi mướn. Thày u Thoại mất từ lâu. Thoại có đông anh em, nhưng anh em ai phận nấy, không ai lo giùm cho ai được. Thoại đi dệt cửi và ở nhờ nhà anh cả. Nếu Bướm lấy Thoại, nàng sẽ tránh được cái nạn mẹ chồng nàng dâu. Nàng ở riêng với chồng, vợ chồng làm ăn cố kỉnh thì chẳng mấy lúc mà khá. Bướm vẫn mơ thầm như thế. Cái mơ ước loàng xoàng thôi. Một đôi khi, những tối ngày phiên tơ, hai người thường hẹn nhau đi chơi như đêm nay. Thoại bước gần, ngồi cạnh Bướm ngửi thoáng cái mùi bồ kếp gây gây lạ lạ ở tóc Bướm tiết ra, sung sướng tưởng như được đi, đứng bên cô vợ mới cưới. Ngồi nói vẩn vơ hết cả chuyện, Bướm bảo Thoại: - Tối nay em phải về sớm. Ở nhà nghỉ dệt, đóng cổng từ chập tối. Thoại không nói gì, chàng chỉ cười hừ hự. Chàng đương say sưa. Bởi vì trong bóng đêm mung lung bao la, hai người ngồi với nhau ở một nơi thực là hẻo lánh và thực là tối. Thoại đụng má vào mái tóc người yêu. Thoang thoảng có mùi lá hương nhu giắt trong vành khăn của nàng. Đến lúc Bướm đòi về một lần nữa thì Thoại chiều lòng, đứng dậy. Hai người men bờ tre, đi về cầu Phượng. Nhưng thực là chẳng may. Ban nãy, lúc cặp tình nhân này qua cầu Phượng, có mấy anh trai làng Thượng đi chơi tối, ngó thấy. Họ bảo nhau: - Có trai gái vào quán Cây. Một anh bàn xõng: - Bắt đi! Một anh bàn thêm: - Ta vào trong xóm rủ mấy thằng nữa. - Đánh bỏ bố những thằng làng Nha đi. Chúng nó đấy. Bắng nhắng lắm. Ấy thế là họ chạy vào trong làng, báo cho mấy đứa nữa biết cái tin có bổng ngoại lạc đến. Thằng Khói cũng được anh em cho hay. Nó reo lên, hưởng ứng ngay. Ba thằng vác gậy chạy rầm rập đi. Cái lối bắt bò lạc khốn nạn thế xảy ra thường liền. Chúng rõ có hai người trong quán Cây, nhưng không ai dám men vào. Bởi vì chỉ có mỗi một con đường đi tới, đi thẳng lỡ họ biết mà họ phòng bị thì không ăn thua. Vả lại tiếng chó sủa nhiều quá, ầm ĩ lên. Họ bàn nhau nên đứng nấp ngoài thành tre, đợi chúng ra rồi đánh cho thằng đàn ông một chập tối mắt lại và cướp lấy con đàn bà... Tay đôi Thoại, Bướm đi ra, dò dẫm trong bóng tối. Khói nấp ngay bên vệ đường. Nhưng bởi hai người đi sát nhau, và bởi trời tối quá. Thằng Khói sợ lạc tay không dám đánh. Nó chạy ra giữa đường quát: - Ai? Thoại dừng chân, hoảng hốt: - Tôi. Nhưng Thoại định thần được. Chàng móc túi lấy ra bao diêm và đánh lửa. Que diêm vừa bừng, Thoại trông lên thấy lố nhố ba bóng người sừng sững trước mặt. Nhờ ánh lửa, thế là Khói nhận được mặt Thoại, nó vội vàng choảng một gậy xuống đầu Thoại. - Thằng Thoại! Thằng Thoại làng Nha!... Đánh chết nó đi! Tội vạ đâu tao chịu. Những đầu gậy vụt liên tiếp vào Thoại. Bướm rú lên. Trong lúc cuống cuồng, Bướm lánh thoát ra ngoài đám quần thảo vù chạy được về cầu Phượng. Thoại giơ gậy lên đỡ rối rít. Gậy vụt chan chát bốn phía. Một gậy trúng vào trán Thoại. Chàng thấy nẩy tia đom đóm mắt. Một gậy nữa vào cánh tay, lại một gậy nữa ngang hông. Rồi lại một gậy nữa vào sườn. Thoại như cái thân chuối cho người ta tập võ. Nhưng chàng cũng đã tỉnh trí mà chui người xuống, luồn được qua mấy đứa. Trời tối quá. Bọn Khói cũng quáng quàng, Thoại thoát được vòng vây, chạy tuốt về cầu Phượng. Ba thằng rượt theo, song chỉ đến chân cầu thì dừng lại. Thoại vượt qua cầu Phượng, gặp Bướm ngang đấy. Nàng hớt hải hỏi: - Có việc gì không? - Chẳng sao cả. Chúng nó cắn trộm. Mợ có nhận được mặt những thằng nào không? - Không. - Hình như trán tôi ươn ướt. Bướm rờ lên trán Thoại, thấy ươn ướt tay thực. Nàng móc túi chàng, lấy diêm đánh soi. Một dòng máu đỏ hoe chảy từ trán Thoại đến cằm rồi nhỏ giọt xuống. - Chết chửa, chảy nhiều máu quá. Bướm lấy khăn tay lau máu cho Thoại. Nhưng máu vẫn tuôn ròng ròng. Nàng cúi xuống vệ cỏ, rứt bừa một nắm cỏ ấu đưa lên mồm nhai bét ra dịt vào chỗ đau của Thoại. Thoại đứng yên cho Bướm loay hoay làm, như một đứa trẻ dễ bảo. Lòng chàng rung động nhè nhẹ, man mác. Tuy lúc bấy giờ Thoại thấy trán mình xót và chân tay đau lắm, nhưng chàng lại mỉm cười, cho là may mắn mình mới bị đánh để bây giờ được nâng niu như thế này. - Đừng động đậy mà máu lại chảy. Mai lấy lá mảnh bát đắp vào là khỏi ngay. Thoại nói khẽ bên tai Bướm “Cảm ơn mợ” rồi chàng ôm Bướm. Lần đầu tiên, Thoại chúm miệng hôn chụt một cái vào má Bướm... Bướm không nguẩy như mọi lần. Ấy là vừa qua một tai nạn, họ đương yêu và chiều nhau. Trời tối đậm. Đôi tình nhân nghe thấy cả hai hơi thở không được đều lắm. Bướm bỗng bảo Thoại: - Cậu đánh rơi mất cái gậy rồi à? - Mất. V RỒI CÁI CHUYỆN THOẠI VỚI BƯỚM sang bên quán Cây làng Thượng, bị người ta đánh cho vỡ đầu lại ầm khắp làng Nha. Con trai và con gái trong nhà từng ngõ kháo nhau, cười với nhau. Nhất là người ta lại thấy rõ ràng, ngày hôm sau, ở trán Thoại có một vết đau phải buộc lá nhọ nồi và Thoại kêu nhức tay, không dệt được cửi. Khi cái câu chuyện kín kia hở ra, Bướm tức lộn ruột. Dù là chuyện thực, nhưng Bướm vẫn muốn lấp liếm đi. Đó là thói thường của các cô con gái, nàng không dám đi chửi rong ngoài đường. Nếu nàng có một bà cô, bà dì như kiểu bà Ba của Ngây, thì hẳn bà ta đã đi khắp bốn xóm chửi tan hoang lên rồi. Ở nhà ông Hội, bọn thợ trước còn nói xa nói xôi để chế giễu, sau chúng sát sạt tận nơi. Tức mình, Bướm chửi um lên mấy bận. Chúng cũng chẳng chịu im. Đằng kia, Thoại cũng bị như Bướm. Nhưng khác Bướm, hễ Thoại nghe thấy đứa nào bảo mình bị đánh vỡ đầu thì Thoại ục liền. Đã xẩy ra mấy vụ thụi nhau rồi. Thoại đi dệt cửi kiếm ăn, không lụy đến ai. Thoại chỉ ở nhờ ông anh Cả - ông trưởng Phao - một gian nhỏ ở cạnh bếp. Tuy ông trưởng Phao có một vợ và ba con nhưng suốt ngày, nhà vắng như nhà hoang. Bởi vì, từ đứa bé nhất trong nhà là thằng bé lên bảy tuổi cũng đã đi đánh suốt mướn. Cả nhà đi làm trọn ngày, cửa ngõ phải khép lại bằng một cành dong. Thoại đi dệt cửi, cũng có dành dụm được năm mười đồng. Bấy lâu nay Thoại và Bướm một lời giao kết rằng hai đứa sẽ lấy nhau. Bướm vẫn định sang năm thì dẫn Thoại về quê nhà mình, nói chuyện cho thày mẹ hay. Thoại sẽ đưa ra đồng bạc nộp lệ cheo làng nhà vợ. Cùng nghèo, lấy nhau giản tiện như vậy cũng được. Bây giờ chúng nó nói ra nói vào, Thoại rất bực mình. Chắc Bướm cũng thẹn lắm. Để cho Bướm thẹn thì không nên. Hay là, nếu có thể, hai đứa lấy quách nhau. Chỉ có thế mới rửa được tiếng cho Thoại và Bướm. Người ta yêu nhau thì người ta lấy nhau, đứa nào nói gì đụng chạm đến là nó thối mồm lắm. Thoại đem chuyện của mình bàn với Hời, anh bạn tri âm hơn hết, nhất là từ sau khi có cái vè dán nói xấu người yêu của Hời, hai người lại càng thân hơn. Hời rất tán thành lời bạn. Chàng lại khuyên bạn nên thực hành ngay ý kiến ấy đi. Thoại gật gù ra vẻ tư lự. Một đêm, Thoại dệt xong hai cuốn cửi đầu hôm thì đã quá mười giờ. Thoại đến nhà Hời chơi. Hời đã đi ngủ. Nghe tiếng gọi, Hời trở dậy ra mở cửa và thắp đèn lên. Thoại lấy ở trong túi ra một tờ giấy trắng và một mẩu bút chì. Anh để giấy xuống phản, kề bên ánh đèn, rồi nằm bò ra, vừa hí hoáy viết, vừa nhấm đầu bút chì, ngẫm nghĩ. Hời hỏi: - Làm gì vậy? - Viết thư cho Bướm. - À. Rồi Hời cũng ngồi cúi xuống, hai bàn tay chống lên má, tròn mắt nhìn những chữ loăng quăng, như hình vẽ những sợi thuốc lào rơi trên mặt giấy, mà ra ý khâm phục cái tài hoa của bạn. Bởi vì Hời dốt đặc cán mai. Mãi đến quá một giờ đêm, gà đã te te gáy, Thoại mới hì hục nghĩ, viết và chấm bút chì viết xong được bức thư cho người bạn tình. Thư rằng: Mợ ơi! Nỗi niềm ngậm đắng nuốt cay. Bây giờ mới tỏ lòng này cho nhau. Đôi ta chung một chữ tình, bấy nay thực là khăng khít. Chẳng hay trẻ mỏ đành hanh, trêu ngươi chi mấy tá, nên đêm hôm nọ mới xảy ra cái chuyện giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha. Mợ ơi, tôi nghĩ lấy làm tức lắm. Cho nên tôi định rằng thôi thời trước sau cũng là một lần thời hôm nào hết cửi, mợ đưa tôi về quê nói chuyện với các cụ để cho đôi trẻ được sum vầy thời tôi lấy làm mãn nguyện lắm. Để cho thiên hạ chúng nó trông vào, biết cho ta là chung thủy hữu tình. Mợ ơi! Tôi thời nghĩ thế, mợ nghĩ ra sao thời trả lời ngay cho tôi được rõ. Tối mai đoạn cửi đầu hôm thời tôi đợi mợ ở ngõ xóm Duối, mợ ra cho tôi nói chuyện. Giấy ngắn tình dài, bút cùn mực cạn, kể sao cho xiết, nay tạm có mấy lời. Thoại nay thư. Viết xong, Thoại đọc cho Hời nghe. Hời thấy chữ nghĩa lý thú quá. Và Bướm cũng bằng lòng về quê. Thế là, một buổi sáng, Bướm cắp thúng - tuy trong thúng chẳng đựng gì, nhưng cũng cắp cho ra vẻ - đội chiếc nón Chuông vành to bằng cái mẹt, về làng Giá. Nàng đi tắt đường đồng vào đến cầu Diễn thì đứng lại để đợi Thoại. Hai người đi chung một chiếc xe tay bánh sắt. Chiếc xe lọc cọc trên con đường đá trắng, ruổi giữa đôi bờ ruộng mạ. Những người đi bên đường, nhìn họ, đoán chắc là một đôi vợ chồng mới cưới. Nghĩ thế, Bướm mủm mỉm cười liếc Thoại và đôi má nàng tự dưng hây hây đỏ. Mà hai người có vẻ vợ chồng mới cưới thực. Thoại diện choáng lắm. Đầu chàng chít khăn nhiễu tây, nổi cát óng ánh. Tấm áo the La Cả phủ ngoài áo trắng nổi rõ từng sợi dọc sợi ngang, nom tựa như mặc áo sa bóng. Nhưng diện nhất là cái thắt lưng lụa hoa rút dế nhuộm điều mà anh chàng thắt bỏ lửng xuống đến gần đầu gối. Mỗi lần gió thổi bay hai tà áo, lại phơ phất đôi dải lụa đỏ tươi. Quần của chàng cũng là quần lụa hoa, thứ lụa hoa vân sa trơn nuỗn. Đôi chân mốc đen và to bè bè của chàng được xỏ vào đôi giầy Gia Định. Tuy đôi giầy này mua đã ba năm nay, nhưng chỉ trong những ngày hội hè và Tết nhất, Thoại mới lấy ra đi. Nó lịch sự thật, song Thoại ít ưa diện giầy. Bởi vì chân chàng thô kệch thò vào giầy tựa như chân trâu thò vào guốc, và mỗi khi đi, cứ phải lấy gân bấm năm ngón xuống thì hơi khó chịu một chút. Tay Thoại cầm một cái ô trắng. Ô trắng xanh xanh có cái cán bằng song hun đen, khum khum choãi ra. Người ta gọi ô ấy là ô Tây Cống - chẳng biết vì lẽ gì. Thoại ăn vận ngất ghê. Đủ cả bộ cánh Tết đấy. Mà cũng chưa đủ hẳn: trong túi chàng còn một cái kính gọng đen, hai mắt xanh mầu lơ và cái mùi xoa lụa trắng xung quanh viền chỉ đỏ, một bên góc thêu cành hoa hồng với con bướm. Của này là của Bướm tặng chàng. Bướm cũng mặc toàn những quần áo xưa nay vẫn cất kỹ trong thúng. Áo the đổi vai Đồng Lầm. Giữa cái thắt lưng lụa bạch dài sum sê lại xen vào một dải lụa mầu hoa đào tươi tắn. Quần lĩnh Bưởi bóng nhoáng. Trong túi nàng có cả một lọ bi-ăng-tin thơm phưng phức mua bốn xu rưỡi ở chợ. Bướm đem Thoại về quê, lòng chứa chan hy vọng. Chuyến xe ấy là chuyến xe xuân. Và có lẽ là nàng đã nghĩ nhiều đến cuộc đời mới sắp đến. Nàng không bận tâm lo lắm về sự nếu cha mẹ chẳng bằng lòng Thoại. Làng nhà Bướm là một làng quê mùa, hủ lậu. Cả làng không có ai mặc quần áo trắng. Cả làng toét mắt, và nếu không toét nhèm hẳn thì có lông quặm, nhìn hó háy. Các cụ bảo rằng làng vốn có cái đất toét mắt như thế. Con gái thì cô nào cũng váy màu da bò, mặt mũi ngẩn ngơ. Mười bảy, mười tám tuổi đầu mà còn đeo vòng đồng ở cổ và mặc áo có đóng dấu nhà chùa đằng sau lưng. Nếu Bướm không được ra ngoài Bưởi làm ăn có lẽ nàng cũng đến toét mắt và mặc váy da bò như các nàng ấy. Thoại mà về làng, ắt được tôn trọng và nổi đình đám lắm. Chắc ai cũng tấm tắc khen ngợi. Người ở tỉnh, chứ có phải thường đâu. Mặc dầu bề trong không có gì, bề trong cũng nghèo kiết như mọi người cả, nhưng Bướm nghĩ rằng cái đó chẳng đáng ngại. Vợ chồng ở với nhau, chơi tên phường tên họ, dành dụm bóp chắt ít lâu lấy một cái vốn nho nhỏ rồi dênh lên một khung cửi. Người ta ở đâu lạ nghề, lạ nghiệp còn làm ăn được, huống chi đằng này cả hai vợ chồng cùng thạo và khéo chân khéo tay. Tính trước con đường đi, lòng Bướm nhẹ nhõm, vui vui. Nhưng cái mộng ấy sụp đổ. Thoại về nhà Bướm một hôm. Bướm nói dối rằng đấy là cháu ông Hội, chỗ Bướm quay tơ, về chơi. Quê mùa, người ta thường dễ tính và quý người, bố mẹ Bướm coi như thường và vồn vã thân mật với Thoại. Thoại ở đấy một ngày, một đêm thì trở về làng Nha. Khi Thoại đã về khỏi, Bướm thưa thật chuyện mình cùng bố mẹ. Đã nói thật thì Bướm cũng phải nói nốt rằng đất nước nhà người ta quen ăn trắng mặt trơn như thế nhưng cũng tiếng cả nhà thanh, không có gì. Xin cho nộp đủ tiền treo cưới lệ dân, còn cái việc cỗ bàn mời làng xóm thì sau này hẵng hay. Ông bố sinh ra Bướm vuốt râu, bảo con: - Không được. Tao đã nhận lời một đám rồi. Nơi này danh giá lắm, con ông phó Nguyên ở xóm dưới. Thôi từ mai ở nhà không được lên Nha nữa, sang Giêng người ta đã xin cưới đấy. Bà mẹ thì dẽ dàng hơn: - Trông cái cậu Nha ấy cũng được mẽ người. Con mà lấy người ta thì cũng phải đôi. Nhưng ở nhà đã trót nhận lời rồi. Vợ chồng là cái duyên số, con phải nghe thày mẹ. Vả lại lấy chồng gần thì được năng đi năng lại... Bướm khóc. Có một điều cay cực bên trong mà thày mẹ Bướm giấu, không để Bướm biết. Nhà Bướm đã chạy mượn nhiều quá của ông phó Nguyên. Mấy năm nay, mùa màng cấy cày chẳng ra sao cả, công nợ cứ đẻ dần mãi, bám vào cái gia đình nghèo này nhiều như ốc bám vào cọc rêu. Đuối quá, không còn có thể trả được nợ của ông phó Nguyên, bố mẹ Bướm đã nghĩ đến Bướm và nghĩ đến anh trai út nhà lão ta. Mắt có lông quặm, mở chẳng ra nhưng là con nhà danh giá, giàu có. No ấm là được rồi. Bị thúc nợ nhiều, mẹ Bướm thú thực ý định của mình với lão phó. May mà lão bằng lòng. Và con lão thì thích mê, bởi vì Bướm đẹp nhất hàng xã, lấy nó, như lấy được tiên trên trời. Thày mẹ Bướm mừng hí hửng, đợi Tết thì Bướm về. Hai ông bà cùng chắc công việc xong xuôi mười mươi. Đùng một cái, xảy ra sự chẳng ai đợi. Bướm ngoay ngoảy khóc rưng rức. Giá như mọi khi, bố Bướm đã đánh cho con gái một trận. Nhưng lần này ông im lặng và mặc hai mẹ con nói năng với nhau. Bướm khóc suốt đêm thì mẹ Bướm cũng khóc suốt đêm. Sau mỗi một câu nói, bà lại rủ rỉ: “Con thương mẹ, thương bố, thương anh, thương cả nhà là hết...”. Lắm lúc Bướm cũng thấy cảm động. Nhưng thực bởi Bướm đi từ thuở bé nên cái tình cha mẹ cũng có phần phai mờ. Hình ảnh đất Hạ Nha, những người con trai con gái ở đấy - nhất là Thoại - làm cho Bướm háo hức, bồn chồn. Chao ôi! Đất làng Nha mới thực là quê hương của nàng. Bởi vì ở cái tuổi hai mươi, ái tình vừa nảy nở thì quê hương của ái tình mới thực đáng là quê. Một đêm, Bướm bỏ nhà trốn đi. Nàng quên cả. Mặc mẹ. Mặc bố. Mặc anh. Nàng lên Hạ Nha với ái tình. Nàng nói dối Thoại rằng thày mẹ đã bằng lòng. Thế là hai người về ở với nhau, một buổi chiều dễ dàng như hai người bạn trai rủ nhau ngủ chung một giường. Nàng đâm liều lĩnh không nghĩ ngợi gì nữa. Thoại mua hai con vịt về giết thịt. Thoại mời ông trưởng Phao xuống chén. Và bạn thì Thoại rủ cái anh tri kỷ nhất là cu Hời. Được mươi hôm, có ba người từ trong làng Giá đi bộ ra đầu làng Hạ Nha. Một ông già, một bà già và một người con trai. Đó là bố, mẹ và anh của Bướm. Khi vào đến nhà ông Hội thì Bướm đã lẩn mất. Họ chia nhau đi lùng nháo cả lên. Nhưng không thấy. Bướm và Thoại đã chạy qua cánh đồng, trốn sang tận ấp Hồ. Hôm sau, bà lão ngồi khóc bù lu bù loa ở ngoài đầu làng. Ông lão đứng cạnh, ai hỏi chuyện thì vừa nói vừa thở dài, mặt ỉu xìu. Mọi người xúm lại xem, ai cũng ái ngại. Nhưng Bướm vẫn không chịu dàn mặt. Nàng đã liều rồi. Được ba hôm, thế không ở lại được nữa, ba người đành trở về Giá. Và cái gia đình ấy còn khổ cực đến bao nhiêu vì món nợ tiền không trả được, định trả bằng người thì lại hụt, thì cũng không ai biết rõ. Bởi vì sau này Bướm không còn dám về nhà một lần nào. Câu chuyện của Thoại và Bướm lại được tỏa rộng trên những ghế hàng nước, trong những khung cửi và khung hồ... Người ta reo cười. Và lũ trẻ con, mấy hôm bố mẹ Bướm ra lùng bắt con gái, được một bữa chạy đi xem, vui như xem hội. Thoại và Bướm không cần. Nhờ hàng đương chạy tay, họ sống với nhau cũng phong lưu. Rằm tháng Bẩy năm ấy, hai vợ chồng đưa nhau ra tận ngoài Hà Nội chụp một cái ảnh. Cái ảnh ấy khổ to bằng một quân ích xì, xung quanh có vẽ hình cành hoa, cành lá. Họ chụp ở một hiệu khách. Đem ảnh về mà con trai, con gái làng Nha phải trầm trồ khen ngợi là đẹp quá, tài quá. Nước ảnh bóng loáng, màu nâu nâu, trong ảnh Bướm ngồi bên một cái bàn, trên để bốn cái chén và một cái đồng hồ. Bướm mặc quần trắng áo tân thời có lốm đốm hoa trắng. Tay Bướm đeo vòng vàng. Cổ chằng vô khối hạt vàng, nom thấy óng ánh vàng hoe. Đầu vấn khăn nhung có gài con bướm và chân thì đi giầy cườm. Nàng ngồi một tay ghếch lên bàn, một tay để trong lòng, cầm cái khăn mặt. Còn Thoại cũng đặc biệt ra phết. Anh mặc quần áo tây và cái áo bành tô tây. Cổ anh thắt cà-vạt lòng thòng loăn xoăn xuống khỏi thắt lưng. Anh đội mũ dạ lệch về một bên. Mắt đeo kính trắng. Tay đeo đồng hồ, và cái nhẫn ma-dê. Một bên tay cắp quyển sách thực dầy và thực to vừa bằng cái gối xếp. Một tay anh cầm điếu thuốc lá. Anh đứng một bên góc bàn ngang với vợ. Đằng sau hai người là cảnh sơn thuỷ, có chậu hoa, có hình sông, hình núi và mấy con chim đang bay lượn. Ai cũng tấm tắc khen và hỏi chụp đâu. Thoại bảo: - Ở hiệu chú khách chỗ gần bờ hồ “Hàng Gươm”, đến đấy hỏi ai cũng biết. - Quần áo kia thì làm thế nào? - Ở đấy người ta khối. Đủ thứ. Cả mũ áo phường tuồng nữa cơ. Muốn chụp thế nào cũng được. Thích lắm. Thích thật. Bướm, Thoại vui lắm. Tuổi tàn nhẫn, bồng bột và dễ quên. VI NHƯNG TÌNH BÈ BẠN CỦA CÔ BƯỚM VÀ CÔ Ngây bị một cơn gió bấc trái tiết. Bởi vì sau khi đã lấy Thoại, sau cả cái hôm mà bố mẹ Bướm từ Giá ra Hạ Nha tìm Bướm, một ngày phiên, Bướm đến chơi nhà Ngây. Ông Nhiêu đương ngồi quay cửi thừa ở trước cổng tán. Bướm đon đả chào, nhưng ông Nhiêu lầm lầm nét mặt. Bướm vào nhà ngang, thì ông Nhiêu cũng lừ lừ đi vào và ông chửi ngay Ngây. Ông cứ chửi vung lên rất tự nhiên. Coi như không biết có Bướm ngồi đấy. Bướm hiểu ngay là ông Nhiêu mượn cớ chửi con để đuổi mình. Người ta chẳng muốn con gái người ta ngồi nói chuyện với một đứa con gái hư hỏng, đi theo không một thằng con trai. Bướm bùi ngùi về. Ông Nhiêu bảo Ngây: - Ông cấm mày từ giờ không được chơi bời trò chuyện gì với con đĩ Bướm. Rồi mà bắt chước nó nhé! Bố mẹ nuôi con bằng ngần ấy tuổi đầu, để cho con vác xác đi theo trai. Ông cấm chỉ đấy! Bà Ba cũng chép chép miệng: - Con gái bây giờ tân thời hư quá. Bướm lại biết rằng chẳng những một mình lão Nhiêu Thục không ưa nàng mà tất cả mọi đứa ở làng Hạ Nha đều đem lòng ghét guổng và xa lánh nàng. Từ đấy, nàng không đến nhà Ngây nữa. Kể cũng chẳng ích lợi gì cho Bướm cái sự đến chơi nhà Ngây. Nhưng thực là thiệt hại lớn cho anh Hời. Hời ta bị cắt mất đường chim xanh. Bướm không đến nhà Ngây thì Hời không tin tức đi lại được với tình nhân. Bởi vì từ cái ngày có cái “cáo bạch” ác hại kia, và từ sau những trận phải đòn, Hời không được gặp Ngây trong những đêm dệt cửi khuya nữa. Song hôm nào Hời cũng vác gậy lần mò lên xóm Giếng, đi qua sau nhà Ngây để được nghe tiếng nàng dệt cửi lạch cạch. Trời! Còn gì bứt rứt và băn khoăn bằng yêu nhau mà không thể gặp nhau. Dù là Hời ít hay nghĩ ngợi, cũng thấy lòng mình sầu não vô cùng. Ngày dệt cửi, cứ nhắm mắt lại mà đưa thoi. Để cho khỏi phải tư lự bơ vơ. Nhưng chân tay anh cứ mỏi rời ra thôi. Đêm đến, anh lấy cây đàn bầu xuống, gẩy chơi mấy khúc tiêu khiển. Tự nhiên, tiếng đàn càng não nùng thêm. Chán đàn, anh lại đến nhà Thoại. Bởi vì chỉ có thể đến chơi đấy, Hời mới nói ra được những tâm sự u buồn của mình. Rặt những chuyện Ngây. Và có lẽ anh cũng chỉ muốn người ta gẫu lại với mình độc một mặt chuyện ấy. Một chiều tối, Hời đến nhà Thoại. Thoại đi dệt cửi về, đương ăn cơm. Bướm ngồi phản bên quay tơ. Ban ngày nàng đi làm hồ, tối đến lại lấy tơ về quay cho thêm việc. Vừa thấy Hời vào, Bướm đã nhoẻn cười: - Anh đến chơi. Tôi đương mong. Hời hấp tấp: - Có chuyện gì thế chị? Lạ không? - Cũng lạ vừa vừa thôi. Anh ngồi xuống đây. Bướm buông vầy tơ, với tay lấy ấm nước. Nàng dịch cái khay, trong đựng bốn chiếc chén hoa xanh, về phía Hời rồi nghiêng ấm - cái ấm bình tích mới, cũng có loăng quăng những đường vẽ hoa xanh - rót một chén đầy. Toàn những đồ mới sắm. Từ ngày có vợ, Thoại ăn ở ra lối có nền nếp. Những thứ đồ lặt vặt, Thoại cũng để ý mua sắm. Mọi khi có bao giờ Thoại biết đến. Muốn uống nước, Thoại chỉ việc chạy ra sân, lấy cái gáo dừa vỡ vục vào cái vại đựng nước giếng lẩn vẩn rêu xanh lẫn những con nòng nọc đen. Lại có khi thằng Họa nhà ông Cả Phao thả mấy con săn sắt vào vại nuôi. Thoại vẫn ngửa cổ ra uống ừng ực cái thứ nước có đựng săn sắt, đựng nòng nọc và đựng rêu xanh đó. - Mời anh xơi nước. Nụ vối nấu ban chiều, ngon lắm. Thoại cũng đã ăn cơm xong. Chàng vào ngồi một bên góc phản, xỉa tăm quèn quẹt lên răng. Bướm bảo Hời: - Hôm nay tôi gặp chị Ngây ngoài cổng xóm. Chị ấy rủ tôi ra đồng. - Thế hả? - Chị ấy bảo rằng cũng định gặp anh để nói cho hết chuyện. Cái việc tối đến anh chị vẫn ra đứng với nhau ở góc vườn, cũng có người biết. Hời giật mình - và có lẽ anh đã đỏ mặt: - Quái nhỉ? - Thằng trưởng Khiếu gọi chị ấy ra ngõ, bảo vào tận mặt thế rồi đánh cho chị một trận, kịch liệt. Ông Nhiêu cũng choảng luôn một trận nữa đau quá. Hai cánh tay chị ấy hãy còn lằn vết gậy thâm tím lại. Ông xé của chị ấy cái áo cánh, lại chặt mất cả đôi guốc mới. Chị ấy nhắn tôi rằng những điều gì chị ấy đã nói với anh từ trước thì anh liệu đi. Hời ra vẻ nghĩ ngợi. Thoại chiêu một ngụm nước, nói mủm mỉm: - Thế là chị ấy muốn giục anh phải lo việc mối lái đi đấy. - Ra cái ý thế! Hời buồn buồn ngước nhìn ngọn đèn Hoa Kỳ, ánh đèn lung lay theo làn gió thoảng từ ngoài hiên vào. Trên nhà trên, nhà ông Cả Phao đã ngủ yên tờ. Lồng tơ của Bướm lóc cóc chạy. Tiếng vang lên lanh lảnh. Hời khe khẽ thở dài: - Lo. Tiền đâu mà lo! - Như thế là cả nhà chị Ngây đã biết chuyện kia rồi. Phải liệu trước đi, kẻo có ai dòm thì ông Nhiêu ông ấy gả phăng đấy. Ông ấy đang bực mình mà. Hời buồn. Rồi Hời lại còn buồn hơn nữa. Cách mấy hôm, Hời đến chơi, Bướm bảo: - Có người đồn là nhà lý So bên làng Thượng cho người sang hỏi chị Ngây cho thằng Khói. Thoại nói: - Thôi chết! Nó trả thù cánh mình. - Ừ, cũng có lẽ. Nhưng chị Đôi (Hời gọi cho ra vai vế của Bướm) có biết đích xác không? Ai bảo thế? - Đích. Mấy đứa bên Thượng nói. Thế đủ cho Hời choáng người. *** Ông thân sinh ra Hời mất từ ngày chàng còn nhỏ lắm, độ lên ba. Cái Nghiên thì mới đương ẵm ngửa. Hời có ba anh em: anh Từ, Hời rồi đến cái Nghiên. Bà Vạng góa chồng từ năm hai mươi tám tuổi. Bà ở vậy, nuôi ba con. Cái gia đình gái góa ấy nghèo. Nhưng bà chỉ vất vả nhiều trong những năm mà các con còn bé. Chúng lớn dần dần và dần dần làm đỡ bà, nuôi bà nữa. Cách đây năm năm, tháng Giêng ấy hàng ế gạo kém quá. Thằng Cả Từ đua anh đua em nô nức nhau đi Sài Gòòng làm ăn. Bà Vạng cản ngăn thế nào cũng không được. Từ vào Sài Gòòng làm được hai năm thì có về chơi nhà một lần. Người ta thấy hắn khác, lạ hẳn cái thằng Cả Từ ngày trước. Da hắn đen sạm, nhưng khỏe. Hắn mặc một bộ quần áo lụa đen nhánh. Và có một sự mới mẻ nữa, là khi hắn nhếch mép cười, nhìn thấy trong miệng hắn có hai chiếc răng vàng chóe. Hắn rất hay cười, để cho người ta trông thấy răng vàng luôn luôn. Hắn đi với một người đàn bà cũng mặc quần áo đen như hắn, mặt dài ngoẵng, cái búi tóc chon chỏn, thê lễ xuống gáy, mà tiếng nói thì líu ríu như tiếng chim chích chòe hót kể chuyện. Đấy là vợ hắn. Và hắn bảo vợ hắn gọi bà Vạng bằng má. Khi mọi người làng đã biết những công việc của hắn làm ở Sài Gòòng thì người ta gọi hắn là bác sếp Từ. Hời và Nghiên thấy anh về mừng quýnh. Từ mang về khối quà, hai anh em đi chia cho bà con hàng xóm. Bà Vạng cũng mừng, nhưng lại cũng buồn. Bà thấy con bà bây giờ bướng bỉnh và văn minh quá. Có lẽ nó chỉ về chơi nhà. Mà nó chỉ về chơi nhà thực. Chưa được nửa tháng sếp Từ đã mang vợ đi. Hẹn sang năm thong thả lại về. Nhưng từ ngày ấy không thấy về nữa. Chỉ thỉnh thoảng nhận được thư và tiền - hoặc để đóng sưu, hoặc cho mẹ. Ai hỏi thăm, bà cũng nói chưa chắc con bà về được. Bởi đi vào tận Sài Gòòng mà lấy người nước ấy, khó lòng mà trở lại quê. Cũng như nhiều người lên mạn ngược lấy Thổ, lấy Mán làm vợ, chúng giữ ngay lại, chúng bỏ thuốc bỏ bả làm cho đầu óc u mê chằng chịt không còn nhớ ông bà ông vải ở đâu nữa! Song bà chỉ ôm một mình cái điều đau khổ ấy, không dám đem nói với ai. Từ vào lại Sài Gòòng được một năm thì cái Nghiên lấy chồng. Nó lấy chồng làm chân thư ký hội đồng ở một làng bên tỉnh Bắc. Cái tiền của người ta dẫn cưới Nghiên ấy, bà Vạng định để cưới vợ cho Hời. Chẳng may, bà Vạng lại bị một trận đau mắt nặng. Thuốc thang hết mấy chục bạc mà vẫn chưa khỏi hẳn. Hôm mùng mười tháng Bẩy, cái Nghiên về thăm mẹ. Dạo đó nước sông Hồng đương cữ lớn. Chuyến đò ngang ấy chở tham khách quá, đắm lỉm ngay ở giữa sông. Chết tất cả hai chục người sang đò, chỉ thoát có mỗi một anh lái. Cái tin Nghiên chết đắm đò ở bến Hối đưa về đến Hạ Nha thì bà Vạng khóc ngất đi. Bà thương con gái, khóc đến nỗi sưng húp cả hai mắt. Nó lấy chồng chưa được một năm. Tội nghiệp, đôi mắt của bà Vạng, từ ngày ấy díp hẳn lại không khỏi được. Cho đến bây giờ thì lòa hẳn. Ở hai bên con ngươi, nổi lên một cái màng trắng. Trông cái gì cũng tối ngòm ngòm. Hời là một đứa ngoan. Anh đi dệt cửi mướn nuôi mẹ. Hai mẹ con sống như thế, với thỉnh thoảng có một món tiền của sếp Từ gửi về, cũng có thể gọi là tạm đủ. Và Hời lại chí thú chơi được một bát họ tám chục. Mỗi tháng góp hơn hai đồng, ba mươi tháng thì dốc ống. Hời đã đóng được gần hai mươi tháng rồi. Nếu nói đường ngay, rồi tất Hời cũng lấy được Ngây. Tháng Chạp sang năm đóng hết họ, là chàng đã đủ tiền để cưới một con vợ hẳn hoi. Nhưng chàng yêu Ngây mà Ngây lại đương có người hỏi. Chàng tin Ngây sẽ chẳng bằng lòng lấy thằng Khói. Song chàng lại ngài ngại mường tượng như sẽ có một sự gì rẽ duyên của chàng, nếu chàng không hỏi Ngây ngay bây giờ. Ấy là cái tâm lý của một gã có người yêu nhất đời đương bị có kẻ dòm ngó. Anh lo. Anh sợ. Anh tính toán. Anh băn khoăn. Và cuối cùng những nỗi lo sợ bối rối ấy đưa đến cho anh sự mạnh dạn, khiến anh dám ngỏ nỗi niềm tâm sự của mình cho mẹ rõ. Nghe con nói, bà Vạng mỉm cười như mếu: - Việc nhân duyên của mày, bầm đã nghĩ đến từ lâu. Chẳng may, vận hạn trong nhà mấy năm nay đấy thôi. Nhà ta thì nghèo; anh mày thì đi làm xa đồng đất nước người; con em mày ăn cướp công mẹ, bầm không muốn nói đến nữa. Bây giờ có mỗi mình mày ở với bầm. Cửa nhà vắng vẻ. Không phải là kén, nhưng bầm phải suy kỹ. Chỉ sợ lấy phải chỗ cành cao cành thấp, nó về nó lại ỏe họe nhà mình. - Nhưng nhà ông Nhiêu Thục cũng... Bà Vạng ngắt lời con: - Nhà ông Nhiêu Thục với nhà ta thì cũng được. Cùng chỗ sàn sàn cả. Mắt mũi bầm bây giờ kém cỏi, nhưng ngày trước bầm trông cái Ngây cũng đầy đặn phúc hậu đấy. Chỉ hiềm nỗi thằng trưởng Khiếu nhà nó hư hỏng. - Ông Nhiêu đã đem trầu cau ra đình từ nó rồi. - Phải, con cái gì ngữ ấy. - Bầm đừng ngại... Bà Vạng cười: - Là bầm nói thế thôi. Việc của nhà ta lại đi một nhẽ khác. Hôm nào, mày qua nhà ông Nhượng bảo mời ông lại chơi xơi nước. Mỗi khi có việc gì cần, bà Vạng thường cho con đi mời ông Nhượng đến chơi “xơi nước”. Nói thế ông Nhượng đủ hiểu. Ông Nhượng là em ruột ông Vạng. Khi ông Vạng mất thì ông Nhượng hãy còn trẻ tuổi và nhàn vi lắm. Nhờ cái tính thật thà cẩn thận, chắt bóp của ông, bây giờ ông cũng khá. Trong nhà cũng có được mấy chục bạc vốn, một khung cửi và nuôi được đôi lợn. Ông hàn gắn đến nỗi, mỗi khi ông ra ngõ, thấy có sợi tơ vương ở bụi cúc tần, ông cũng vội chạy ngay về nhà, lấy cái lồng ra quay sợi tơ vào ống. Làm việc gì, ông cũng mở lịch. Ra cửa đi đâu, ông dừng bước lại, trông ngược trông xuôi, xem có phải là gặp đàn ông thì mới đi. Tháng tháng, cứ sáng ngày mồng một, ông lại gọi thằng bé con bên nhà hàng xóm sang “xông” nhà. Mỗi lần thế, ông cho thằng bé một trinh. Có cái bổng ấy, sáng mồng một tháng nào nó cũng hí hởn sang. Đó mới chỉ là những cẩn thận rất thông thường. Một lần kia, chẳng biết có việc đi đâu ra đồng, ông trông thấy một toán lính tập đội mũ vàng, đi giầy kệt kệt, có dắt cả ngựa, cả xe đạp, sắp trảy qua làng Nha. Ông nhớn nhác đi rất nhanh - đi nhanh chứ không dám chạy - về nhà, đóng sập cửa lại, ngồi hút thuốc lào, nghe ngóng. Khi tiếng giầy cộp cộp, tiếng nói bi bô đi đã xa, ông mới mở cửa. Bà Vạng tin ông Nhượng lắm. Hời bảo, ông đến ngay. Hôm ấy, Hời đi dệt cửi vắng. Bà Vạng đem chuyện bà định hỏi cái Ngây cho thằng Hời ra nói. - Nó đã nhớn. Xem ý ra con trai nhớn có vợ con thì mới đứng đắn, chăm chỉ làm ăn được. Mà nhà neo người, mắt tôi kém, chẳng nói tất ông cũng rõ. Tôi muốn lo cho nó đám ấy, ông nghĩ sao? Ông Nhượng rít một hơi thuốc lào, đờ đẫn nhìn khói thuốc, rồi chiêu một ngụm nước. Đoạn ông nói: - Cũng được đấy. Món ấy kháu. Làng ta, không phải mấy cô con gái nhà giàu đỏng đa đỏng đảnh, thì món ấy vào bậc khớ rồi. Nhưng chỉ hiềm nỗi thằng trưởng Khiếu hư. - Ấy, tôi cũng đã nghĩ đến chỗ ấy. Nhưng nó cũng đã có vợ con, ở riêng ra rồi. Vả lại, nó còn ít tuổi, ngông ngáo. - Cái ấy cũng được. Cái giấy “cáo bạch” dạo nọ cũng của nó dán. - Giấy gì? - Cái vè nói xấu ông Nhiêu Thục. - Chết chửa! Tôi chẳng biết gì. - Ông Ba Cấn bảo với tôi rằng chính thằng trưởng Khiếu dán cái giấy ấy. - Con nhà trời đánh nhỉ! - Tôi nghĩ nên hỏi cái Ngây cho nó là phải. Những điều kia khác thì cũng nên bỏ đi. Nếu có kể thì phải kể cả rằng ngày xưa, ông cụ hai đời nhà ông Nhiêu đi ăn trộm bị đâm chết ngay trên nóc nhà. Thời buổi Tây Tầu bây giờ cái gì cũ là nhàm rồi. Bà thì già, mắt mũi không có. Việc này tôi vẫn định bảo bà từ lâu. Thế chẳng biết thằng Hời có bằng lòng không? Bà Vạng tủm tỉm: - Xem ý cu cậu thích mê. - Phải, đời bây giờ có thỏa thích đôi bên mới hay. Thời các cụ ta ngày xưa khác. Bà cứ lo đi, tôi chả có nhưng cũng xin đỡ cháu ít nhiều. - Được thế thì còn gì bằng. Nhưng tôi lo nhất cái chuyện tiền. Định mới nói qua loa với ông là chỗ người trong nhà đấy thôi. - Định gì nữa? Có ai lấy vợ cho con lại để dành tiền sẵn bao giờ. Cứ lo đi. Rồi mai mốt vợ chồng chúng nó bảo nhau làm ăn. Bây giờ tôi hãy làm cái việc đánh tiếng trước, xem sao đã. Rồi mới đến hỏi han so đôi tuổi tác, việc nọ việc kia chứ. Bà Vạng sung sướng bùi ngùi: - Trăm sự nhờ ông. Tôi mặc ông đấy. Chú cứ lo thế nào cho cháu đẹp nhà đẹp cửa thì lo. Ông Nhượng vừa khẽ gõ điếu, vừa nói: - Tôi bạn với ông Ba Cấn. Ông Ba Cấn lại là người thân nhất của ông Nhiêu Thục. Nhờ trời, có nhẽ được. Ông Nhượng hút một điếu thuốc nữa, rồi mới đứng dậy ra về. Giá Hời mà ở nhà, nghe lỏm được câu chuyện của chú với mẹ mình hẳn sướng phổng mũi. Dù nhà không có tiền sẵn, nhưng cũng cứ lo. Nhà nghèo lo được việc gì thì lo dần, chứ ngần ngại trù trừ thì chẳng bao giờ xong được. Ông Nhượng nghĩ thế tất nhiên là Hời đồng tình ngay, và đến cả bầm Hời cũng nghĩ như vậy. Ông Nhượng đến chơi nhà ông Ba Cấn nói ướm câu chuyện trăm năm của cháu mình thì được ông này hoan nghênh ngay. Ông bằng lòng giúp ông Nhượng, nói hộ với ông Nhiêu Thục. Và ông bảo rằng chẳng cần mối lái gì nữa. Vì đổi địa vị, ông cũng có thể ví là một ông Nhượng đáng tin cẩn của bà Vạng, đối với ông Nhiêu Thục. Ông Ba Cấn nói với ông bạn: - Cháu Hời hử? Được, được. Tôi nói vào một câu là được. Chỗ ông với tôi, với bà Vạng, với ông Nhiêu Thục, cùng như anh em chị em cả. Rồi ông ngửa cổ lên cười ha hả: - Chúng mình cứ được đánh ngã vài chai bố là đủ thích rồi! Ông Nhượng dặn: - Ông nhớ hỏi rón trước hộ cái tuổi của cháu Ngây đằng ấy để tôi về so xem. - Cái ấy là cần nhất, tôi nhớ rồi. Mươi hôm sau, ông Ba Cấn đến chơi nhà ông Nhiêu Thục. Ông Nhiêu đánh đụng được một đùi thịt chó bên hàng xóm. Hai ông ngồi nhắm rượu với nhau. Rượu đã ngà ngà, ông Ba Cấn khơi mào: - Cái Ngây năm nay nhớn rồi... - Còn gì nữa! Hai mươi đấy. Ông xem có đám nào, tôi tống khứ. - Được rồi. Tôi đương định nối đuôi thằn lằn đây. Rồi ông nói chuyện về ông Nhượng, về bà Vạng, về Hời. Ông Nhiêu ngồi xoe quần lên tận bẹn, vừa tợp rượu, vừa nhai thịt chó luộc chấm muối... Ông cứ gật lia gật lịa: - Xong! Xong! Tôi tống khứ ngay! Tống khứ ngay! Bữa ấy, ông Nhiêu say rượu. Hôm sau, lúc ông Ba Cấn đến để nói lại câu chuyện hôm qua cho chắc chắn, thì ông Nhiêu đã tỉnh, và ông ngần ngừ: - Thằng Khiếu nó nói bô bô với làng nước rằng con Ngây tằng tịu... Ông Ba Cấn gạt đi: - Tôi đã bảo ông là nó muốn ông giết cái Ngây để ông mất làm ăn nên nó mới đặt điều ra thế. Cái “giấy” cũng ở nó. Mà cái câu xấu xa kia cũng ở nó. Con ông chí tình hại ông. Tôi biết rõ thế. Thực tình, ông Nhiêu cũng khôn chán. Từ khi có cái “cáo bạch” dán ở cổng đình, và từ hôm thằng trưởng Khiếu nói loạn lên rằng con Ngây hư hỏng thế nọ, con Ngây hư hỏng thế kia, thì ông sợ lắm. Ông chỉ sợ con gái ông ế chồng. Rồi ông đâm ra ngại cả sự có một đứa con gái lớn ở trong nhà. Miệng tiếng của thiên hạ bây giờ ghê gớm lắm. Ông đã phải một đứa không ra gì rồi. Bởi vậy, nghe ông Ba Cấn nói, ông cũng xuôi xuôi lòng. Nhưng ông còn băn khoăn: - Có mỗi mình nó là đầu sai chợ búa, cơm nước. - Thì khó đâu. Ông lấy vợ cho thằng Toản đi. Cao tầy cột đình rồi đấy, còn bé bỏng gì nữa! Ông Nhiêu ngẫm nghĩ và phục lời ấy là phải. Ông nói: - Thôi được. Hôm nào ông mời ông Nhượng lại tôi chơi. Ông Ba Cấn về rồi, ông Nhiêu xuống nhà ngang, nói chuyện với bà Ba. Bà Ba nói: - Nên, ông ạ. Thằng ấy hiền lành mà ngoan đáo để. Gặp tôi đâu cũng chào. Nghe nói nó cũng chịu khó làm ăn. Con trai cứ hay làm là biết thương vợ thương con. Bà Vạng, chỉ phải nỗi mắt mũi trời bắt tội, chứ bà ta cũng là người khá. Thế là ông Nhiêu bằng lòng trọn cả mười phần. Lúc ấy, Ngây cũng ngồi quay tơ gần đó. Nhưng tuyệt nhiên, ông không nói một lời nào với con gái. Như là ông nói câu chuyện với bà Ba không bận gì đến Ngây vậy. Ông cho rằng cái bổn phận của nàng là bổn phận phải vâng lời. Mai kia, chốc nữa lúc nào ông muốn nói thì ông nói, không lúc nào là muộn. Song nàng Ngây đã nghe lỏm được tất cả. Và tất cả những việc quan trọng giữa những người lớn của hai nhà, nàng cũng đã biết hết. Do Hời nói chuyện với Bướm, và Bướm thuật lại cho nàng nghe. Nhưng chẳng lần nào Bướm nói lại chuyện trưởng Khiếu đánh Ngây và lời đồn bên Thượng nhà lý So có đánh tiếng sang hỏi con gái ông Nhiêu, chẳng biết là thực hay là Bướm đã nói dựng đứng lên thế. *** Một hôm, có một đám ăn hỏi đi vào xóm Giếng. Một thằng bé con mặc áo chùng thâm, bưng cái khay, trên để hai chai rượu trắng. Sau lưng thằng bé ấy có một thằng bé lớn hơn, cũng mặc áo dài đội một cái mâm gỗ sơn đỏ, trên đặt một buồng cau to và hai lọ chè. Một mảnh vải điều phủ lên trên các lễ vật đó. Có hai người đàn bà ăn vận tề chỉnh và một ông đứng tuổi che ô đen đi theo. Những người trong xóm thì thào với nhau: - Đám hỏi cái Ngây đấy. - Lão Nhượng đi dẫn hỏi cho cháu. Có người độc miệng: - Ăn nằm với nhau rồi, việc quái gì phải vẽ vời hỏi hiếc che mắt thế gian! Chiều hôm ấy, Ngây và Toản đã chia cau cho các nhà bà con quen thuộc trong xóm. Toản cắp thúng, cầm cái gậy đánh chó, tung tăng đi trước chị. Ngây bước nhẹ nhàng. Trời không nắng, trời cũng không hanh, mà đôi má nàng hồng hồng. VII HỜI NÉM ĐÔI GUỐC TRE BÊ BẾT BÙN vào một xó nhà. Mới mưa xong, con đường sang bên lão lý Chi lội quá, bùn ngập đến mắt cá chân. Bà Vạng ngồi ở đầu hiên nghe tiếng con về, hỏi: - Thế nào? Ông Nhượng đâu? - Ông Nhượng đi ăn cỗ hàng tròm. Không xong, bầm ạ. - Giá cứ như một mình lão lý thì ông Nhượng nói cũng xuôi. Nhưng vợ lão nhất định bắt bầm hay con phải ký giấy gán đất làm tin thì nó mới cho vay năm chục. Hời nhìn mẹ, cắn môi. Việc chạm ngõ, việc hỏi thế là xong. Bây giờ đến lo cưới. Bởi vì ông Nhiêu ngỏ ý muốn cho cưới ngay. Ông thách một thúng gạo nếp, một thúng gạo tẻ, một con lợn và hai mươi đồng bạc mặt. Phần nhà trai thì phải lo sắm sửa cho cô dâu. Ông Nhượng cũng bảo nên cưới năm nay. Ông đã so đôi tuổi, và mở sách ra xem, Ngây lấy Hời hợp lắm. Nhưng chỉ hợp tuổi cưới năm nay, nếu không, để hai năm nữa mới lấy nhau được. Chẳng ai muốn hỏi vợ rồi để lâu như thế mới cưới. Các cụ nói chẳng câu nào bỏ đi. Cưới vợ thì cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha. Đáng lẽ cứ theo ý ông Nhiêu thì ông cho cưới vào tháng Mười một. Bởi tháng Mười thì ông cưới vợ cho thằng Toản. Ông giữ ý như thế, khỏi để người ta nói rằng nhờ tiền cưới con gái mới lấy được vợ cho con trai. Song ông Nhượng lại bảo cưới tháng Mười một không được, tháng Mười một là tháng tuổi của Hời. Phải cưới vào tháng Mười. Bởi vậy, ông Nhiêu Thục định lại rằng cưới thằng Toản đầu tháng, cho cưới cái Ngây cuối tháng. Hời lo tiền cưới. Cứ kể ra anh có cái món tiền họ tám chục ấy nhưng anh không muốn mua non. Anh là người hay lo xa. Anh định cái món tiền đóng đó để làm vốn về sau của hai vợ chồng. Tiền của anh dành dụm, cóp nhặt cũng được một chục bạc. Tiền của bà Vạng giữ lại, mỗi khi anh sếp Từ gửi về cho, bây giờ cũng được ngót một chục bạc. Ông Nhượng lại hứa cho cháu đúng một chục. Nhưng ông kiêng, không cho trước khi cưới, mà sẽ đưa lúc hai vợ chồng cần tiền làm vốn. Bởi vẫn có cái hèm rằng đưa tiền cho đám cưới thì sái. Có như thế, chỉ cần độ vài ba chục nữa là vừa. Và ông Nhượng định bầu chủ cho cháu vay tiền nhà lý Chi. Song cứ như cái tình hình lúc nãy, thì không xong. Lý Chi thuộc vào hạng những mặt khá trong làng. Làng Nha không có ai giàu, chỉ có ít người khá giả thôi. Lý Chi mới độ năm mươi. Nhưng cứ thích người ta gọi mình bằng cụ, cụ lý hào. Vợ lão là người đàn bà tài đảm, chỉ ra đời bằng cách đi quay tơ mướn, như cô Bướm. Mụ quay tơ. Chồng mụ dệt cửi. Để dành được ít vốn, hai vợ chồng làm một khung lĩnh. Gặp năm đắt hàng, vợ chồng phất to. Mụ làm nhà, cưới vợ cho con, mua lý hào cho chồng. Mụ cho vay lãi, nhưng ai vay, mụ cũng bắt người ta viết gá là cầm nhà, cầm đất cho mụ. Những món tiền nhỏ, nếu chậm trả, lãi nẩy ra chóng như sen Nhật nở. Lãi lại đập vào gốc. Chẳng bao lâu, cái gốc to lên lù lù. Nặng quá, không thể trả được. Do đấy, mụ có nhiều nhà, nhiều đất trong làng. Lão lý Chi vốn là người hiền lành và cổ quái. Cái đức sợ vợ với cái đức ở bẩn của lão ngang nhau. Lão sợ vợ là vì thói quen, là vì cái tước “lý hào” của lão do vợ mua. Thường vợ lão vẫn túm râu lão, nhốt vào buồng cầm phất trần đánh chơi. Cả làng ai cũng biết. Bởi sự đã nhàm, nên khi nghe ông lý Chi, ở trong buồng tối, rên ấm ứ và khóc hu hu, cũng chẳng ai ngạc nhiên. Ông khóc rồi ông lại nín, có làm sao và có hề gì ai đâu. Cho nên ông có một tên nữa là ông lý Quặp. Còn cái đức ở bẩn của lão thì có lẽ do tính trời phú cho. Lão thường kể rằng từ năm vua Khải Định ra Hà Nội chơi đến giờ, lão chỉ mới tắm có vài bận. Không hiểu vì lẽ gì mà cứ mỗi lần tắm, lão lại ốm một trận tưởng chết. Mười mấy năm nay thì lão chừa hẳn tắm. Những ngày mùa hè có nắng to, lão chỉ rấp cái khăn mặt ướt lau mình. Có một điều kỳ là trông người lão cũng trăng trắng, chứ không vân ám lên những đất. Nhưng một đôi khi, ngồi nói chuyện với người ta, buồn tay lão gãi gãi thường xoe được những viên đất to bằng hạt ngô nếp. Lão co móng tay, gẩy tách đi một cái. Còn lão có hôi nách không thì ít ai rõ. Vợ lão cũng chỉ chửi và đánh lão những tội lỗi đâu đâu, chứ không hề hạch đến tội ở bẩn. Bà lão cũng cho là cái việc trời sinh ra thế. Bởi bà vẫn nói: “Lão nhà tôi mà giở chứng ra tắm là giở chứng chết đấy!”. Ông Nhượng có quen thuộc buôn bán với bà lý Chi. Ông đã hỏi vay hộ Hời từ hôm nọ. Nhưng bà lão nhắn ông bảo Hời đến. Hôm nay Hời đến thì bà lão nói: - Tôi cho bác vay năm chục. Nhưng bác phải làm giấy đoạn mại cho tôi chỗ đất nhà bác. Gọi là làm giấy cho phải phép với nhà nước thôi, chứ đến cuối năm bác tính toán trả tôi cả gốc lẫn lãi, hay là bác trả góp tháng cho đến hết, thì tôi lại viết sang trả bác. Ai đi vay cũng biết rằng đấy là một cái bẫy. Anh Hời và ông Nhượng đành cáo thoái. Hẹn rồi sẽ đến trả lời sau. Nói cho có cớ thế chứ, Hời còn đến cửa nhà ấy làm gì nữa, khi Hời không muốn mất nhà. Từ lúc con về nói như vậy, bà Vạng không bàn thêm một câu nào. Ăn cơm chiều xong, bà mới bảo Hời: - Bầm nghĩ thế này, có nhẽ tiện hơn. - Bầm nghĩ sao? - Mai mày thử sang bên anh thơ Bảy. - Sang Bắc hử? - Có nhẽ được đấy. Mà lại nhẹ mình, chẳng phải nói khó với ai. Bà Vạng đã nghĩ đến nhà chồng người con gái xấu số của bà ở bên kia sông. Nó làm thư ký trong làng, nhà nó có hai trâu cày. Nó lại tử tế, thỉnh thoảng vẫn sang chơi với bà. Vả, tiện hơn nữa là, nó vẫn chưa tục huyền. Vì hết trở vợ, thơ Bảy lại phải chịu ngay tang ông bố. - Hôm nay đã là hai mươi bảy tháng Chín. Phải liệu viện phiên phiến đi thì vừa. Mày sang bên ấy, có thế nào, sáng ngày kia về sớm, đừng có ở nấn ná như mọi khi mà nhỡ cả công việc đấy. Hời cũng thấy rằng công việc của mình sắp đến nơi rồi, nếu không mau mau tay thì nhỡ bét. Đến cuối cùng mới đi chạy tiền thì làng nước người ta cười cho. Mùng năm này là cưới thằng Toản. Thằng Toản lấy cái Lụa. Toản mười bốn, cái Lụa hơn Toản đúng năm tuổi. Nếu Ngây về nhà chồng thì ở nhà cần người làm lắm. Cưới là cưới người về làm đấy chứ. Vả lại, Lụa là bạn Ngây, Ngây biết tính nết nó. Song Ngây chẳng biết Lụa đã yêu anh Thìn, người bên xóm Lẻ. Cái chuyện tình ấy vừa chớm lên, chưa mấy ai rõ. Thìn mới chỉ rủ được Lụa ra đồng nói chuyện có một buổi trưa. Đồng vắng mà lúa tháng Chín thì cao ngập đầu người. Hai người ngồi ở vệ ruộng tay tẩn mẩn bứt cỏ nói chuyện bâng quơ. Mới có thế, và Lụa mới chỉ cười tít hai mắt lại. Thế rồi bỗng nhiên làng nước người ta nói rằng ông Nhiêu Thục sắp lấy cái Lụa cho thằng Toản. Đến đầu tháng Mười này thì cưới. Thìn choáng người, cơ hồ như có ai giội cả một chậu nước lạnh vào cổ. Thìn đón Lụa để hỏi. Nàng bùi ngùi mà rằng: - Thày u em bắt buộc. - Thằng Toản bé bằng cái nhép ranh mà em cũng bằng lòng à? - Thưa anh, chỉ vì thày u em bắt buộc. Thìn im, không hỏi nữa. Hai người bạn yêu chia tay nhau lần cuối. Anh chàng biết ngay thôi thế là mình thất vọng vì tình rồi. Giá có gặng nữa, chắc nàng cũng chỉ nói độc một câu buông lửng ấy. Mảnh tình nhỏ bé của anh Thìn bay nhẹ lên trời. Thìn buồn lắm. Mấy bữa sau, nhân có giấy sức về làng gọi lính khố xanh, Thìn liền vào phủ đi tuyển và được trúng cách ngay. Người ta đem chàng lên tỉnh tập vác súng và đi ắc ê. Chàng cũng đương muốn được đi đâu khỏi làng Nha cho khuất mắt. Thìn cũng là bạn của Hời. Nhưng khi Thìn đi vào lính, Hời vội, chẳng chạy lại hỏi thăm được. Chàng còn vội bao nhiêu việc nóng. Đại khái như cái việc mẹ bảo anh sang nhà anh thơ Bảy bên Bắc để hỏi vay tiền. Sáng hôm đi sang Bắc, Hời tạt lại đằng nhà ông Nhượng, để nói chuyện cho ông rõ. Và để bảo con bé nhà ông Nhượng lại ngủ và thổi cơm cho bà Vạng. *** Bác trạm tráng lò khò dắt cái xe đạp đi vào làng Nha. Ấy là người đưa thư của hàng tổng. Bác mặc áo vải vàng, quần nâu, đầu đội chiếc nón chóp đã rách tơi, như đính những lông gà, lông vịt. Đôi guốc gỗ mộc ở chân, có hai cái quai đen bằng lốp xe đạp cao tới gần một gang tay. Những xỏ vào chân cũng đã nặng. Mặt, và hai mu bàn tay bác đen sạm. Ở tất cả người bác tiết ra một cái màu gì mốc trăng trắng. Đó là màu bụi đóng, màu nắng dãi và màu mồ hôi kinh niên. Bác dắt cái xe đạp và đeo trên lưng chiếc bì khố tải, trong đựng các thư từ giấy má. Chiếc xe đạp ấy cũng như bác, đen đủi và ngẩn ngơ. Có nhiều thứ đồ máy móc ở trên xe đã được thay cẩn thận. Ví như hai miếng cao su ở phanh thì là hai mảnh lõi rễ. Cái ghi đông ngòng ngoèo không còn là cái ghi đông bằng sắt ngòng ngoèo, mà là một cành duối rất cằn được đẽo, gọt, hun bóng lên rồi cắm thực chặt vào cái nõ xe. Có sao đâu! Ngồi lên xe, bác vẫn có thể dễ dàng lái sang bên phải, lái sang bên trái như chơi. Cũng vì cái xe đạp ấy mà bác đưa thư đã làm cho một cô con gái ấp Đông tương tư lăn lóc. Hồi bấy giờ, xe đạp còn hiếm lắm, ở vùng này. Có ông chánh tổng lý trưởng, bác trạm tráng, ngoài ra chẳng một ai có xe đạp. Mỗi khi nghe tiếng chuông kính coong lanh lảnh ở ngoài vệ đê, hàng đàn trẻ con chạy theo xem. Bác trạm ghếch cái xe ở đâu, cũng có người đứng ngắm nghía. Lũ trẻ thì quay cái bê đan trở lại để được nghe những tiếng kêu tạch tạch. Ai cũng tấm tắc khen ngợi và phục bác trạm, ngồi trên cái xe có hai bánh dựng đứng một chiều, chỉ đạp đạp có mấy đạp mà đã chạy ve ve biến bóng đi rất xa. Thuở ấy, bác trạm còn trẻ. Bác làm việc đưa thư cho nhà nước hơn mười năm rồi. Mỗi hôm, bác ra trạm phủ lĩnh thư rồi đi phát khắp hàng tổng. Bác làm việc từ khi những người trong làng còn ngơ ngác về sự làm ăn của bác. Bây giờ thì đã thường. Bác chỉ là anh phu trạm đi đưa thư cho những người đi xa, nhờ nhà nước mang hộ. Thế thôi. Ngày trước mỗi lần bác phu trạm đi vào trong ấp Đông qua một ngõ xóm có nhiều rặng cúc tần, nghe véo von có tiếng con gái hát: Thương nhớ ai ra ngẩn, vào ngơ Đêm quên giấc ngủ, ngày mơ trận cười. Đêm năm canh, ngày sáu khắc, chàng ơi! Chàng cười nửa miệng, thiếp tôi vui nửa lòng. Đầu tiên, bác cũng không để tâm. Sau, thấy câu hát buổi nào cũng láy lại một cách mải mê như thế, bác mới để ý. Và một hôm, bác nhìn qua lũy cúc tần xanh rờn giăng mắc những sợi tơ hồng vàng óng thì thấy có đôi mắt đen lay láy nhìn ra. Từ ấy hai đôi mắt thường gặp nhau. Cũng từ ấy, người ta thấy bác trạm tráng hay chải đầu mượt và mỉm cười. Năm sau, bác cưới người con gái ấp Đông. Vợ chồng ở với nhau được ba năm, đẻ hai lần nhưng đều bỏ cả. Rồi bác trạm gái theo người nhà ngược lên Chũ buôn củ nâu. Và bác trạm gái lấy chồng khác trên ấy, không về với bác trạm tráng nữa. Bác trạm trai biết vậy, do những người quen về kể chuyện, nhưng bác cũng chẳng có dịp nào lên tìm tận Chũ, bác bận việc quan luôn luôn. Rồi bác cũng lấy vợ khác. Người đàn bà này sinh với bác một thằng con trai. Hiện bác gái đang ốm tê liệt giường liệt chiếu từ tháng Hai tới giờ. Ấy là những đoạn tình buồn của bác phu trạm làng Nha. Hôm nay, bác dắt xe đạp vào làng Nha và rẽ về xóm Duối. Chó ở trong xóm nghe tiếng xe ranh rách tạch tạch, cắn inh lên. Bác đi ngoặt vào một cái ngõ trồng dừa, lá xanh lủa tủa, qua gốc cây đề, qua lạch nước trên bắc một hòn đá tảng xanh lớn. Bác vượt cái cổng tán, vào trong sân nhà anh Hời. Con chó đen thấy người lạ, xổ ra cắn ăng ẳng. Nhưng người ta tiến thì con chó lùi. Sau cùng nó thụt và lỗ gạch tối om, chỉ thò cái mồm có hai hàm răng trắng tởn nhe ra chửi mắng người ta. Như đã quen lệ, bác trạm tráng bóp chuông. Cái chuông xe đạp kêu lọc cọc. Bởi cái chuông ốm bệnh rỉ và cái lá mía gẫy. - Có ai trong nhà không? Cái Nhi - con ông Nhượng - thò đầu ra nhòm. Bà Vạng nghe thấy tiếng chuông xe đạp, run run hỏi Nhi: - Ai thế hử cháu? - Bác trạm tráng. Bà Vạng chớp chớp mắt, thở mạnh ra. Chắc bà cảm động lắm. Bà chào vọng ra: - Chào bác trạm. Mời bác vào chơi trong này. Bác trạm cúi đầu khom khom qua cửa. Bác ngồi xuống phản, cởi cái bao vải ở lưng xuống. Bác nhìn quanh, hỏi: - Bác cả có nhà không, cụ? - Cháu nó đi vắng. - Có lơ-com-măng-đê Sài Gòòng. - Thư của cháu cả nhà tôi? - Phải. Nhưng lơ-com-măng-đê cơ. Và bác cắt nghĩa: - Lơ-com-măng-đê là măng-đa, măng đa là tiền. Măng-đa năm kia cũng có đấy mà. Nghe tiếng măng-đa, bà Vạng choáng người, chớp mắt liền liền: - Thế hử? Cháu lại đi chơi sang nhà em nó ở bên Bắc. - Chốc nữa có về không? - Chắc là mai mới về được. Cháu vừa đi ban sáng. - Thôi thì mai tôi đến. Com-măng-đê phải lên phủ lĩnh thư, rồi lên tỉnh lĩnh tiền đấy. Trong khi bà Vạng và bác trạm nói chuyện, cái Nhi đã chạy tót về gọi bố. Ông Nhượng lật đật đến thì bác trạm đã dắt xe đạp ra đến đầu ngõ. Ông hỏi: - Gì thế, bác trạm? - Lơ-com-măng-đê Sài Gòòng. Rồi bác lại cắm cúi đi, cái nón lông gà ngật ra đằng sau. Bác lên nhà ông lý để giao thư. Phàm những thư từ gởi cho người làng đều do bác trạm đưa ông lý, rồi ông lý phát chuyển cho mọi người. Hôm nay bác đến nhà Hời trước, vì đấy là cái thư có măng-đa. Tiền của người ta, bác cũng hy vọng được chấm mút chút đỉnh. Cả đêm ấy, bà Vạng trằn trọc ngủ không yên. Bà mong Hời và nghĩ đến hai chữ măng-đa. Măng-đa là những đồng bạc trắng tròn tròn, những chiếc giấy bạc thơm thơm của sếp Từ gửi nhà nước đem về cho bà. Hôm sau, Hời về. Anh đi bộ từ lúc gà gáy tan canh đến lúc mặt trời lên khỏi ngọn tre thì tới nhà. Chú thơ Bảy đã hứa cho Hời vay mười đồng. Nhưng nửa tháng nữa thì hắn mới sắp được tiền thóc và bấy giờ sẽ mang sang tận nơi. Hời vừa về đến nhà, bà Vạng đã thì thầm khoe: - Có măng-đa Sài Gòòng, mày ạ! Chắc Hời cũng sung sướng ngang như mẹ... Bởi vì mắt anh sáng lên: - Thế ạ? - Hôm nay, bác trạm lại đến. Thế thì có tiền nhỉ? Hời giảng cho mẹ: - Bác trạm mang tờ giấy đến thôi. Ta phải đem giấy lên trạm phủ cùng với một người có giấy căn cước và ông lý. Bấy giờ mới lấy được măng-đa ra, lại phải đem măng-đa đi lên tỉnh với ông lý. Ông lý đóng triện, tôi điểm chỉ. Rồi sở Kho Bạc mới phát tiền, bầm ạ. - Việc nhà nước, quái nhỉ? Cũng may, đương lúc nhà ta lo tiền. Nói lạy trời, thày mày thiêng lắm. Thày mày giục thằng cả gửi tiền về cho đấy. Hời mỉm cười. Trưa hôm ấy, bác trạm lại dắt xe đạp, đeo bì thư, lò dò đến. Bác đưa cho Hời một tờ giấy chi chít chữ nho và quốc ngữ. Hời lại nhờ ngay bác trạm đọc. Hời nói pha: - Biết chữ sướng thật. Đọc thoắt một cái xong. - Dễ lắm. Bác học đi. Chỉ có một tháng chịu khó là đã đọc được Truyện Kiều vanh vách rồi. Bác trạm đọc rằng anh Hời phải lên trạm phủ lĩnh thư cùng với lý trưởng, cùng với hai người có giấy căn cước. Đại khái cũng như Hời đã biết và đã giảng nghĩa cho mẹ nghe. Ngay hôm ấy, Hời cùng với ông lý Kha và bác bếp Trạch - một ông binh mãn khóa - ngồi xe tay lên phủ Hoài. Mấy lần lĩnh thư, Hời đều nhờ hai người ấy nên đã quen. Ông lý Kha đi xe đạp trước. Hời ngồi cùng một xe tay với bếp Trạch. Đường xa chừng mấy cây số. Giá đi một mình tất Hời lẽo đẽo đi đất. Vào trạm phủ, ông lý Kha áp triện, bác bếp Trạch đưa căn cước ra cho ông cai trạm xem. Ông này xem thực cẩn thận, biên lại rồi đưa ra một cái thư cho Hời sau khi Hời đã điểm chỉ vân ngón tay rất rõ ràng vào hai quyển sổ. Ông cai trạm bảo Hời: - Bác lấy một cái căn cước có phải nhẹm việc không? Hời khúm núm, lúng túng: - Bẩm... Trở về đến làng, Hời biếu bác bếp Trạch năm hào. Bác bếp nhăn nhở cười, nói: “Vẽ chuyện!”, nhưng cũng cầm tiền, bỏ tõm vào cái túi áo bành tô vàng. Tối hôm ấy, Hời mời Thoại đến chơi. Anh đi mua chè mạn, pha một ấm đầy. Hời đưa phong thư ra cho Thoại. Cái phong thư, ngoài bì đề là tên ông Bùi-Văn-Từ, surveillant N.217, plantation Lộc-ninh, Thủ-dầu-một, gửi cho ông Bùi-Văn-Hời, xóm Duối, Hạ-nha thôn, tổng Vọng, phủ Hoài, tỉnh Hà-đông. Thoại kề thư vào ánh đèn trịnh trọng đọc cho Hời và bà Vạng nghe. Thơ rằng: Lộc-ninh le 3 tháng Chín năm 193... Thưa bầm, Nay vợ chồng con cái nhà con là Từ có vài lời về thăm bầm với chú Hời được bình yên mạnh khỏe, làm ăn buôn bán phát tài thì vợ chồng nhà con lấy làm mừng lắm. Còn chúng con ở trong này nhờ ơn thánh tổ cũng được như thường. Sau con lại có nhời hỏi thăm ông Nhượng, bà Nhượng, các em con, vợ chồng chú Ba Ty, ngoài nhà bà Hiệt, đồng nội ngoại gia quyến trong họ ngoài làng đều được mạnh giỏi, vợ chồng chúng con mừng lắm. Sau con xin thưa chuyện tái bút để bầm biết rằng con gửi măng-đa này hai mươi nhăm đồng bạc về thì năm đồng để biếu bầm ăn quà, năm đồng cho chú Hời để dành làm vốn lấy vợ, năm đồng để mua thuốc đau mắt. Còn mười đồng thì bầm bảo chú Hời xem có cái lĩnh thực tốt, mua cho vợ chồng tôi một tấm đằng dầy để nhà tôi mấy hai cháu may quần áo Tết. Trong này không có cái lĩnh tốt như ở làng ta. Bắt được thư này chú Hời đi lĩnh tiền rồi mua lĩnh gửi ngay vào cho vợ chồng tôi. Cứ gửi com-măng-đê đề tên tôi vào sở tôi thì thế nào tôi cũng nhận được. Thư bất tận ngôn Kính thư Kèm với lá thư, là tờ măng-đa vẽ hoa vàng và chữ đỏ. Thoại về rồi, bà Vạng bảo con: - Ban chiều, ông Nhượng đến bảo rằng con mẹ lý Chi nó lại bằng lòng cho vay. Nhưng chỉ có mười đồng thôi. Lãi mười phân. - Thế là bao nhiêu? - Mười đồng thì mỗi tháng lãi một đồng. - Chịu thôi, bầm ạ. Lãi thế thì bằng cứa cổ người ta. - Mày rõ không biết liệu. Bầm thử tính cho mày xem nhé! Mười đồng của anh thơ Bảy, của nhà hai chục, hơn hai chục của anh cả mày gửi về đấy, hãy cứ mượn tạm, rồi ít nữa mua lĩnh sau, hay là gửi thư vào cho anh ấy biết mày cưới vợ để có tiền gởi thêm ra càng hay. Thế là vị chi đi hơn năm mươi đồng. Với mười đồng của ông Nhượng cho là hơn sáu mươi đồng. Rồi nào tiền dẫn cưới, tiền lợn gà, dễ cưới một mình, không mời ai nữa phỏng? Chỉ biết đi ăn của người ta thôi ư? Lại tiền may mặc cho cô dâu chú rể. Trăm thứ tiền đều tiêu vào đấy. Bầm đã bàn để nhờ ông bà Nhượng sang mua bán, khách khứa giúp tất cả. Thế thì cứ cầm mười đồng của nhà lý Chi. Bằng mà không phải tiêu đến, ta trả lại cũng được cơ mà. Thôi mày đi ngủ để mai còn dậy sớm lên tỉnh. Tờ mờ sáng hôm sau, Hời đã lên đến tỉnh lỵ Hà Đông. Cố nhiên là đi đất. Ông lý Kha thì đi xe đạp thong thả đằng trước. Ông lý, đợi giờ hầu, dẫn Hời vào sở Kho Bạc. Hời đưa măng-đa, ông lý Kha đóng đồng triện nhận thực. Hời lĩnh đủ hai mươi nhăm đồng bạc giấy mới tinh tươm. Ông lý Kha và Hời ra chợ Đơ, chén một bữa rượu thịt chó. Hai người cùng say chếnh choáng. Hời đưa biếu ông hai đồng. Ông không lấy, chê ít quá. Vì ông phải đóng những hai lần triện và phải lên phủ, lại lên tỉnh. Hời đưa thêm một đồng, ông mới bằng lòng. Trở về, ông lý phóng xe đạp về trước. Hời đi đất lững thững. Bữa ấy, cao hứng, anh đi xe ghép với một tay lái bò, hết hai hào rưỡi, về tận cầu Phượng. Hai hôm sau, bác trạm tráng lại đến. Vừa trông thấy Hời, bác nhoẻn miệng cười: - Thế nào? Người anh em... Hời đã hiểu. Anh vào mở chìa khóa cái hòm phản lấy ba hào, đưa biếu bác trạm tráng. VIII ĐÃ TOAN QUAY VỀ, Ngây chợt nhớ còn nhà cô Khuyên, nàng chưa vào. Nàng bảo cô em dâu mới: - Vào nhà chị Khuyên nữa, thím Ba ạ! “Thím Ba” tức là vợ thằng Toản. Và tức là cô Lụa, xóm Đình, bạn “cũ” của Ngây. Toản vừa được cưới vợ hôm mùng năm vừa rồi. Nó cũng hơi thích. Nhưng thực tình nó thích ăn cỗ nhiều hơn. Còn ông Nhiêu Thục thì cưới vợ cho con trai bé là để lấy người làm, Ngây cũng sắp về nhà chồng. Chiều hôm nay, Ngây và em dâu đi mời trầu các cô bạn. Nhà trai vừa cho dẫn cưới ban nãy. Tuy ông Nhiêu thách khác, nhưng “đằng ấy” chỉ mang đến một thúng gạo, một con lợn và đồng bạc, thì ông cũng nhận. Thách chỉ để lấy tiếng với thiên hạ, chứ ai ăn thua gì sự cưới con gái. Ngày mai đã là ngày cưới Ngây. Ngày mai, hăm bốn tháng Mười. Hai chị em đã đi mời khắp lượt. Chị Mơ xóm Lẻ. Chị Quý, chị Hợi xóm Đình, và còn quên chị Khuyên. Hai cô tong tả đi. Lụa bưng cái tráp trầu trên để mấy bông hoa hồng đỏ. Đến nhà Khuyên, Khuyên đương quay tơ. Ngây lấy trầu cau ở trong tráp ra, đưa cho Khuyên và nói: - Thưa chị, ngày mai thày em cho em ra ở riêng, em có miếng trầu mời chị tối hôm nay lại xơi nước với thày em, với em. Khuyên cười. Hàm răng đen nhánh và đôi má đồng tiền lúm xuống. - Chỗ chị em mình, chị lại vẽ. Nhưng tối nay thì quả em bận. - Chị bận gì tối nay? - Thực tình là em phải quay tơ vội để mai mắc cửi. Em đã bảo chị em mình thì em nói thật. Mai em sẽ xin đến làm giúp chị. - “Đi” nữa cơ đấy! - Vâng, đi. - Thôi thế em về, chị cứ nhớ cho như thế. Ngây lại tạt lên nhà để mời thày Khuyên. Khuyên tiễn bạn ra tận cửa, các cô đứng nói chuyện ríu rít một lúc nữa, rồi Khuyên mới lại quay vào. Ngây và Lụa về đến nhà thì trời đã tối sâm sẩm. Cả năm gian nhà, đèn thắp sáng trưng. Chốc nữa, sẽ có thêm một ngọn đèn treo ở ngõ. Cho sáng, để người đi lại khỏi vấp ngã. Người đến làm giúp đã nhiều. Đàn bà, con gái thì ngồi dưới nhà ngang têm trầu. Vợ những anh nhừng nhừng nhỡ nhỡ như vợ cu Toản, phải lúi húi vào bếp. Trên nhà, các cụ, các ông họp thành những bàn chắn, bàn tổ tôm. Ông Nhiêu Thục đứng ngoài hè, hò hét người nhà lấy nước, đun nước, và mời mọc, đưa đón tíu tít. Bà Ba và Ngây ở dưới nhà ngang tiếp các bà, các cô. Trưởng Khiếu không đến. Chỉ có vợ và con hắn. Những cô bạn của Ngây cũng có cô không tới. Nhưng ai cũng gửi đồ mừng. Ngây nhận được một đôi khăn mùi xoa lụa hồng viền xanh, thêu cánh hoa lan. Một hộp sáp đỏ và thơm để bôi môi. Hai lọ nước hoa “con voi”, đáng hai hào rưỡi. Ngây hớn hở, cùng với Lụa xem xét tỉ mỉ từng thứ rồi cất vào hòm. Mới bảnh mắt, đã rộn lên những tiếng lợn bị chọc tiết, kêu eng éc ở dưới bờ ao. Lũ trẻ đương ngủ cũng vùng dậy, chạy xuống xem và rình lấy bong bóng. Người ta làm sớm, ăn cỗ vào buổi trưa. Vì nhà trai đã hẹn mười một giờ trưa thì rước dâu. Nghe tiếng lợn kêu, bà con hàng xóm đến mỗi lúc một đông. Trong nhà, ngoài vườn, dưới ao ồn ã, rộn rịp, tấp nập lên. Cỗ bàn vừa ăn xong thì sắp tới giờ nhà trai sang đón dâu. Trong nhà gái, dần dần có một không khí trang nghiêm. Ai nấy đều ăn vận tề chỉnh. Trẻ con cũng được chít khăn. Ngây và Lụa còn tíu tít đi lôi kéo, đón mời các cô bạn phù dâu. Người ta chờ đợi. Các cụ, các ông ngồi lên phản trên. Nói chuyện bông phèng vui vẻ. Bỗng có tin trẻ con chạy vào báo: - Nhà trai đã đến gốc đa! Và liên tiếp: - Nhà trai đã đến cổng xóm. - Nhà trai đã đến ngõ ngoài. - Đông quá. - Sắp đốt pháo đấy. Mọi người rộn rực, hồi hộp, nghe ngóng. Đột nhiên tiếng pháo lạch tạch giòn giã vang vang ở phía ngoài đầu nhà. Khói xanh bốc um lên. Lũ trẻ chạy thực nhanh ra ngõ, đóng sập luôn hai cánh cổng lại. Thằng Toản đứng đầu bọn trẻ. Nó nói to vọng ra ngoài: - Xin quan viên họ nhà trai năm dê. Có tiếng đáp: - Cứ mở cổng ra. Mười dê cũng sẵn. Toản không mở. Một đồng hào đôi trắng xóa đưa vào qua khe cửa. Toản chưa bằng lòng. Lại ba đồng hào một nữa đưa thêm. Toản đương ngần ngừ thì những đứa trẻ đằng sau lưng xô vào cướp, rồi chạy ra vườn. Toản tức quá chửi loạn rồi đuổi ra vườn đánh nhau í ới, linh tinh cả lên. Thế là đôi cánh cổng từ từ mở. Khói pháo và khói hương bay vào trước. Rồi đến một ông cụ khòng lưng, râu tóc bạc phơ, mặc tấm áo thụng xanh cũng bạc phếch, hai tay ôm một bó hương đen, quấn giấy đỏ, khói lên nghi ngút. Cụ cầm hương đi cùng với mấy ông bà thuộc về những tay ăn nói sắc sảo bên nhà trai. Sau mới đến chú rể, các bạn phù rể và mấy cô đi đón dâu. Chú rể Hời ăn mặc rất chững, nhưng nền. Đầu chít khăn lượt, đội nón chóp có quai lụa. Áo the cặp áo trắng. Cổ cồn là cứng đuỗn ra. Chắc hơi đau, nên thỉnh thoảng cứ thấy ngọ ngoạy cổ. Trong lần áo, thấp thoáng dải lưng điều bỏ giọt. Quần chú cũng là cứng. Những quần áo phải gửi là từ mươi hôm trước tận trong phố Phủ. Chân mang bít-tất nâu non vào đôi giày Gia-định mới, bóng ngời. Bởi chân chú nẻ miếng, khía ra xung quanh gót, nên phải trang sức kiểu cách mà có ý giấu giếm khéo như vậy. Các bạn, phần nhiều như anh Thoại, anh Lục, thì ăn mặc một lối như chú rể. Nhưng cũng có anh ra kiểu mốt mới. Ấy là anh Mẫn làm bồi ở ngoài tỉnh. Anh mặc áo sơ-mi trắng bốp vạt trước ngắn, vạt sau dài, so le nhau. Chân đi đôi giầy tây có cổ màu gan gà, đầu đội cái mũ nồi. Mắt đeo kính rợp. Điếu thuốc lá ngậm lệch về một bên mép. Và răng anh trắng bóng. Người ta nói: “Anh Mẫn làng ta mặc mốt công tử Hà Nội!”. Lại có anh Thìn, mặc quần áo lính, cũng đi phù rể. Thìn xin nghỉ phép về ăn cưới Hời. Tất cả người anh, từ cái áo vàng, khuy tết đóng giữa ngực, cái quần quấn xà cạp xanh, cái thắt lưng da ngang sườn, cái chân đi đất, đều theo kiểu nhà binh. Nhưng anh không đội nón, mà lại chít khăn nhiễu tây. Người ta có hỏi cái chân đi đất của anh thì anh trả lời rằng: “Đi đất khỏe người lắm. Nhà binh ai cũng đi đất”. Và ai cũng tin ngay như thế. Trong nhà, tiếng mời vang vang: - Xin rước các cụ giải tọa. - Xin rước các cụ xơi thuốc lá. - Mời quan viên hai họ... Chú rể cùng các bạn ngồi vào một chỗ. Gia nhân nhà gái bày ra hai bao thuốc lá Mê-li-a. Họ uống nước chè mạn, hút thuốc phập phèo và ăn trầu múm mím. Ở phản giữa, các cụ hai họ cãi nhau choang choang. Nhưng cãi nhau văn vẻ vui vẻ. Ở đây, người ta thi nhau trổ tài ăn nói. Ông Nhiêu Thục đứng bên phản, chắp tay trước bụng áo, ai nói cái gì, ông cũng: “Dạ”, “vâng”. Chốc chốc, ông lại chạy vào cửa buồng: - Mau mau lên chứ, các cô. Sắp đến giờ rồi. Bà Ba cũng tíu lên, chạy ra lại chạy vào. Ở trong buồng, các cô bạn đang sắm sửa cho cô dâu. Khi họ nhà trai giục đến lần thứ ba thì các cô đã sắm sửa xong. Các cô bước khỏi buồng. Cô dâu ra lễ gia tiên. Người ta thấy đôi mắt Ngây đỏ hoe, nàng khóc. Các cô con gái, khi bước chân về nhà chồng phần nhiều có những giọt nước mắt làm vị ấy. Không, đấy Ngây khóc thật. Bởi, lúc các chị em đương sắm sửa cho mình, thấy bố chạy ra chạy vào, nàng chợt chạnh lòng thương mẹ. Nàng nhớ đến hôm cưới thằng Toản, mẹ cái Lụa săn sóc cho Lụa từng ly, từng tý. Chao ôi! Mẹ nàng không còn được sống đến bây giờ để mà lo cho nàng về nhà chồng. Sau khi ông Nhượng nói mấy câu xin rước dâu về, thì ông Nhiêu Thục tiếp lời: - Thưa các quan viên hai họ, bây giờ cháu còn là người nhà tôi, mà chốc nữa là con cháu các cụ bên ấy. Cháu còn bé dại, bầm cháu chẳng may về sớm, tôi gà trống nuôi con; cháu mà về bên ấy, có điều gì chưa biết, cũng xin các cụ thể tất đi cho... - Nhịa! Ông cứ dạy vậy. Bà Ba móc thắt lưng bao, lấy ra một phong giấy đỏ, đưa cho cô dâu mà nói: - Cháu về nhà chồng, cô chẳng có gì cho cháu. Đây cô có cái yếm rãi gọi là của thơm của cô. Đó là một xâu tiền năm hào, bà Ba để dành đã lâu. Ngây cảm động, bùi ngùi, man mác. Đám cưới khởi hành. Lại vẫn cụ cầm hương đi trước. Bây giờ thêm vào đằng sau cùng một bọn đông những quan viên nhà gái. Ông Nhiêu Thục ở lại nhà. Ông Ba Cấn và bà Ba, cùng mấy người nữa đưa cháu đi sang nhà trai. Cả Toản cũng theo. Vì nó lắt nhắt, nên ít ai chú ý. Đám rước dâu đi thành hàng dài. Trong xóm Giếng, ở hai ven đường, chật ních người xem. Người ta chú ý nhìn cô dâu. Nhìn lừng li, từng tí, dù đấy vẫn là cô Ngây thường ngày. Ngây đi giữa đám những cô Mơ, cô Khuyên, cô Bướm, cô Hợi, cô Quý và cả cô Lụa. Ai cũng ăn mặc từa tựa như nhau. Khăn sa tanh vấn lẳn, vắt vẻo cái đuôi gà. Yếm lụa thì cổ xẻ. Áo the, không đóng khuy, trong cặp áo trắng, áo màu hoa đào. Cô dâu thắt ra ngoài cái thắt lưng nhiễu Tam Giang. Chiếc dây xà tích bạc lủng lẳng, lách cách. Ở trong thêm cái thắt lưng hoa hiên. Ở trong nữa, lại còn đôi dải yếm lụa bạch. Đôi guốc nàng đi là đôi guốc mới, sơn then. Tuy hôm ấy dịu trời nhưng cũng nhiều cô đội nón. Cô dâu mang nghiêng chiếc nón Chuông to bằng cái mẹt. Để ít ai nhìn thấy, đỡ thẹn. Nhưng sặc sỡ trong bọn nhất là cô Hiền, bạn cô Khuyên mà không quen Ngây. Cô này không phải người làng Nha. Cô ở trong phố phủ Hoài, con ông ký rượu Phông-ten. Cô mặc áo nhiễu tây nâu dài lướt mướt, đi dép Nhật Bản, chít khăn nhung. Mặt cô bôi phấn trắng bệch, tay cô cầm cái ô nhỏ màu hoa đào, giương lên thì khum khum. Đó là cô tân thời, ăn mặc diêm dúa như nhà trò. Cả đám cưới đẹp đẽ, nhiều màu tưng bừng đi ra cổng xóm Giếng rồi dọc theo bờ sông Lịch. Bóng người in xuống mặt nước rung rinh vỡ ra những mảnh hoa sặc sỡ. Lúc qua nhà trưởng Khiếu, những người đứng xem đám cưới nghe hắn lè nhè giọng rượu, cứ dóng một trong nhà chửi đổng ra: - Bố chúng nó chứ! Ông thèm nhờ vả gì đứa nào! Mẹ chúng nó chứ! Về đến nhà trai, cỗ bàn đã dọn sẵn. Mâm gỗ la liệt trên các phản, ở dưới đất và cả ở ngoài sân. Mỗi mâm hai đĩa xôi lá diễn đỏ hây, hai đĩa thịt lợn luộc, một bát sáo cần, một đĩa lòng, một bát bung chuối, một đĩa dưa cải xanh, một liễn nước xuýt trắng nhờ nhờ. Rượu mỗi mâm một chai. Lại cũng còn nhiều rượu để xếp dẫy ở gậm giường thờ. Đấy là rượu của bà con đem mừng. Bà con đem mừng hai chai rượu hay là năm hào bạc. Có người cẩn thận, sợ mừng tiền thì nhà chủ không bằng lòng. Họ khăn áo chỉnh tề, đến cửa, nháy một người quen ra, đưa năm hào. Người kia đã biết hiệu, vào mang ngay hai chai rượu ra cho ông ấy. Ông ấy ung dung xách hai chai rượu vào. Để đánh tiếng, làm như ta cũng mua rượu mừng đây. Cô dâu và chú rể lễ tơ hồng xong, rồi phải chèo kéo mãi quan viên họ nhà gái mới chịu ở lại ăn cỗ. Nhưng cô dâu chui vào trong buồng, ai gọi cũng không ra. Mọi người khởi sự ăn. Thực là một cuộc xô xát dữ dội. Ba gian nhà trên, các cụ, các ông ngồi chật ních. Chái bên phải, anh em phù rể và chú rể. Bọn các cô phù dâu phải bưng mâm vào buồng cô dâu. Bà Vạng cũng ngồi trong ấy. Mắt bà kém, không muốn ra nhà ngoài. Nhưng cô dâu cũng nhất định không ăn. Ngoài hiên suốt dọc, các bác đến làm giúp lúc nãy bây giờ ăn đỡ. Giữa sân một dãy những đàn bà và trẻ bé. Có mụ ngồi xềm xệp, đứa con ngủ lắc lư trong lòng, mà cũng và lấy và để. Đàn bà, trẻ con cả xóm kéo đến, ăn như trống đánh. Ăn xong, chúng chia nhau xôi thịt còn lại, lấy phần đem về. Ngoài cổng ngõ, lũ hành khất cũng được ăn. Từ thằng ăn mày, từ đứa trẻ con nứt mắt đến cụ cầm hương có bộ râu ba chòm, ai cũng uống rượu thả cửa. Khắp mọi chỗ, om lên những tiếng soàn soạt, sùn sụt, cười, nói, văng tục văng rác ba hoa, lăng nhăng. Không khí rượu thịt sực bên. Những người nhà như ông bà Nhượng, anh thơ Bảy, chạy rối rít tiếp rượu, tiếp cơm, tiếp nước xuýt, tiếp dưa, tiếp nước mắm. Nét mặt ai cũng hớn hở. Vì có tốt, mới được làng nước chiếu cố đến ăn đông như thế. Ăn uống xong, các chị em phù dâu đưa Ngây trở về nhà. Đến sâm sẩm tối, chị Bướm và bà Nhượng lại sang xóm Giếng đón cô dâu về. Cho tới bây giờ mới thật tan cuộc chén của các cụ. Mọi người lại chong đèn lên và bày ra trò đánh xóc đĩa. Người ta sát phạt ăn thua tận tình tiền bạc của nhau, mãi tới nửa đêm mới tàn. Ai còn thích chơi thì nằm vạ vật đâu đấy mà ngủ. Anh Thìn, cứ đóng nguyên cả bộ quần áo lính khố xanh, cái khăn trật ra, lồng vào cánh tay, lừng khừng ra về, mặt và tai đỏ gay. Anh ngửng nhìn trời, thở dài. Rượu vào, anh buồn thấm thía. Vì anh xem ý cái Lụa chẳng còn tơ tưởng gì đến anh nữa. Nó không liếc anh cái nào. Nó vui như đứa trẻ bắt được của. Ồ, anh Thìn khéo nghĩ vẩn vơ. Nó đã có chồng rồi mà! Anh nghĩ: “Thằng chồng nhãi. Ông chỉ đá một cái thì chết”. Tự nhiên, anh sầu ủ ê. Và anh cảm thấy rằng cái tình của đàn bà thì nhẹ, mà người đàn bà thì tệ bạc lắm. Bấy giờ đã quá nửa đêm, mọi người đều ra về hết. Có mấy người ở lại nhà ngoài thì đã ngủ ngáy khò khò. Hời ra đóng cửa ngõ. Trông vào trong buồng, thấy ánh đèn le lói qua khe vách, anh mỉm cười một mình. Từ chập tối, các bạn và mọi người chế báng anh đủ điều: - Đêm tháng Mười tha hồ dài nhé! """