"
Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu - Ito Ogawa & Vũ Phương Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quán Ăn Tìm Lại Tình Yêu - Ito Ogawa & Vũ Phương Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
QUÁN ĂN TÌM LẠI TÌNH YÊU Tác giả: Ogawa Ito
Người dịch: Vũ Phương Anh Phát hành: WingsBooks
Nhà xuất bản Kim Đồng 10/2018 —★—
ebook©vctvegroup
Một ngày, tôi trở về nhà sau khi đã kết thúc ca làm ở quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ và thấy trước mắt mình cảnh tượng mà nhiều năm về sau, tôi chắc mình sẽ không thể nào quên được. Chẳng còn lại gì ngoài một căn hộ trơ trọi và trống rỗng. Không tivi, máy giặt, tủ lạnh, đèn neon, rèm cửa, thảm hành lang. Tất cả mọi thứ đều đã biến mất.
Trong một thoáng, tôi nghĩ có thể mình đã vào nhầm nhà. Nhưng dù có cố gắng nhận diện bao nhiêu lần, đây vẫn đúng là tổ ấm tình yêu mà tôi và anh người yêu Ấn Độ đã chung sống bấy lâu nay. Không có gì nhầm lẫn. Hình trái tim còn trên trần nhà là bằng chứng không thể nào chối cãi.
Mọi thứ lúc này trông giống hệt lần đầu tiên người của công ty bất động sản dẫn tôi đến xem. Thứ khác duy nhất chỉ là mùi garam masala* còn thoang thoảng khắp nơi và chiếc chìa khóa sơ cua người yêu tôi từng dùng đang sáng lên ở giữa phòng khách trống trải.
Phải khó khăn lắm tôi mới thuê được căn hộ nhỏ này, và mỗi tối, chúng tôi đã nằm bên nhau, tay nắm chặt tay. Làn da người yêu tới lúc nào cũng có mùi gia vị cay thơm phức. Bên cửa sổ có không biết bao nhiêu bưu thiếp ảnh sông Hằng được dán san sát. Dù tôi không hiểu chút nào thứ tiếng Hindi được viết trong những là thư thi thoảng được gửi từ Ấn Độ, nhưng chỉ cần đặt nương tay lên trên những con chữ ấy, tôi thấy trong mình căng tràn những xúc cảm ấm áp, tưởng như đang được nắm tay với gia đình Ấn Độ ở nơi xa.
Một lúc nào đó chắc tôi và người yêu sẽ đi Ấn Độ nhỉ.
Không biết lễ cưới của người Ấn Độ sẽ ra sao?
Tôi đã ngẩn ngơ, đắm chìm trong một giấc mơ lâng lâng ngọt địu như
vị mango lassi*. Ba năm chung sống với anh, những kỉ niệm đều chứa đựng trong mỗi món đồ quý giá nằm khắp căn hộ này. Tối nào tôi cũng nấu ăn đợi anh về. Bồn rửa tuy nhỏ nhưng là loại ốp gạch, căn nhà nằm ở góc hành lang có cửa sổ bao quanh ba hướng. Niềm vui sướng khi được bao trùm bởi thứ ánh sáng màu vàng cam của vắng thái dương sắp lặn, làm công việc bếp núc trong những ngày tan ca sớm không gì có thể sánh được. Tuy chẳng phải điều gì ghê gớm nhưng trong bếp có lò ga và cửa sổ nên thật tiện lợi, tôi có thể nướng đồ khô mà không sợ làm phòng ám mùi.
Tôi cũng có một bộ sưu tập những món đồ bếp yêu thích. Chiếc cối từ thời Minh Trị do bà ngoại để lại, chiếc hộp làm bằng gỗ thông dùng đựng cơm vừa nấu chín tới, chiếc nồi tráng men của công ty Le Creuse* tôi mua bằng những đồng tiền lương làm thêm đầu tiên, đôi đũa thuôn dài tìm được trong một cửa bàng chuyên bán đũa ở Kyoto, con dao nhỏ hiệu Italia mà ông chú nhà hàng kinh doanh thực phẩm hữu cơ đã tặng tôi làm quà sinh nhật năm hai mươi tuổi, chiếc tạp dề bằng sợi gai mặc rất dễ chịu, những viên sỏi không thể thiếu khi làm món cà muối, chiếc chảo rán bằng sắt Nanbu mà tôi phải đến tận Morioka* xa xôi để mua cho kì được.
Bát đũa, lò nướng bánh, giấy bọc đồ ăn... tất cả đều biến mất trong chớp mắt. Một căn hộ không có quá nhiều đồ gia dụng cao cấp, nhưng đồ làm bếp lại rất đủ đầy và hữu dụng. Mỗi món đồ cũng giống như một chiến hữu trong việc nấu nướng của tôi. Từ số tiền dành dụm được nhờ công việc làm thêm hàng tháng, tôi đã gom góp để sắm từng thứ một. Sau bao thời gian, đôi tay tôi đã trở nên thân quen với chúng, vậy mà.
... Tôi mở tung từng cánh cửa của tủ bếp và kiểm tra. Chỉ còn sót lại dấu vết của những đồ đạc từng được đặt tại đó, lần tìm thế nào cũng chỉ
thấy bàn tay huơ vào khoảng không. Bình mơ ngâm kỉ niệm tôi cùng bà tỉ mẩn lau sạch từng quả từ vài năm trước cũng bốc hơi. Đến cả nguyên liệu làm cream korokke* từ couscous* và đậu gà mà tôi đã rất mong đợi được ăn cùng anh người yêu ăn chay của mình tối nay cũng không còn nữa.
Như bỗng choàng tỉnh khỏi cơn mê, tôi hốt hoảng chạy về phía cửa, chân vẫn đi tất và cứ thế lao ra ngoài. Món ăn lên men của Nhật duy nhất mà người yêu tôi có thể ăn là món nukazuke* tôi làm. Nukazuke là món anh đã ăn đều đặn không sót ngày nào. Nếu không có loại tương gạo bà để lại thì tôi sẽ không thể làm ra hương vị đó nữa.
Vì khoảng không gian hẹp chỗ đồng hồ ga bên cạnh cửa ra vào có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp nên tôi luôn cất chiếc bình tương gạo ở đó. Dù là giữa hè thì chỗ đó vẫn mát mẻ, và ngược lại vào mùa đông, nhiệt độ luôn cao hơn tủ lạnh nên rất lí tưởng để bảo quản tương. Tương gạo là kỉ vật quý giá bà để lại.
Cầu trời. Dù chỉ còn mỗi bình tương gạo thôi cũng được… Tôi thầm cầu nguyện và mở cánh cửa ra, trong bóng tối, chiếc bình thân thuộc như vẫn nằm yên chờ đợi. Tôi mở nắp để kiểm tra bên trong. Nó vẫn ở trạng thái như sáng nay, khi tôi dàn phẳng bề mặt bằng lòng bàn tay của mình. Lớp lá củ cải màu lơ nhạt nổi lên trên bề mặt tương gạo. Củ cải lột vỏ, để lại một ít lá, khía hình chữ thập rồi cho vào ủ sẽ có vị ngọt và tươi.
May mà thứ này vẫn an toàn.
Tôi bất giác vòng hai tay quanh chiếc bình và ôm ghì nó trong lồng ngực. Chiếc bình mát lạnh. Ngoài hũ tương gạo này, tôi chẳng còn gì để tìm kiếm nữa.
Tôi đậy nắp, ôm hũ tương gạo nặng trịch bằng một tay rồi quay lại
phòng, nhặt chiếc khóa sơ cua bị bỏ lại, xách giỏ và rời khỏi căn hộ giờ đã trống không chẳng còn gì.
Cánh cửa khép lại với một tiếng “SẦM” rất lớn, đủ khiến người ta nghĩ nó sẽ cứ thế đóng chặt mãi về sau.
Tôi không dùng thang máy mà đi lối thang bộ, bước chậm chạp và cẩn thận để không đánh rơi bình tương. Khi ra ngoài, tôi thấy vầng trăng khuyết đã lên trên nền trời phía đông. Tôi quay đầu lại, tòa chung cư cũ kĩ tuổi đời ba mươi năm vẫn nằm sừng sững như một con quái thú trong bóng tối. Đó là nơi chúng tôi thuê được mà không cần người bảo lãnh sau khi tặng bánh con sò Madeleine tự làm cho bác chủ nhà, cũng từng là tổ ấm của riêng hai đứa. Nhưng giờ tôi chẳng thể ở lại đây.
Tôi cứ thế bước đi, bỏ tòa nhà lại phía sau, ghé vào nhà bác chủ nhà và trả lại chìa khóa căn hộ. Vì bây giờ là cuối tháng nên vài ngày trước tôi đã trả tiền thuê nhà tháng sau. Khi dọn di chỉ cần thông báo trước một tháng nên tôi cứ rời khỏi căn hộ như thế này chắc cũng không có vấn đề gì. Căn bản thì đồ đạc trong nhà cứ như đã chuyến đi vậy, không còn một thứ gì hết.
Bên ngoài trời đã tối hẳn. Tôi không có đồng hồ đeo tay lẫn điện thoại di động nên thậm chí còn chẳng biết bây giờ là mấy giờ.
Tôi thất thểu đi bộ trên quãng đường tương đương vài ga tàu điện, hướng đến một trạm xe khách lớn, đốc gần như toàn bộ số tiền còn lại trong người để mua vé xe buýt nhanh chạy trong đêm. Đó là chuyến xe đưa tôi về với quê hương, nơi tôi chưa từng đặt chân trở lại kể từ ngày quay lưng ra đi vào mùa xuân năm mười lăm tuổi.
Chuyến xe đêm tốc hành xuất phát ngay lập tức, chở theo tôi, bình tương gạo và chiếc giỏ. Ánh sáng đô thị vụt qua ở phía bên kia ô cửa kính.
“Tạm biệt.”
Tôi vẫy tay chào ở trong lòng.
Khi tôi nhắm mắt lại, những sự kiện đã xảy ra cứ xoay vòng trong đầu, tựa như những chiếc lá khô bay trong làn gió đầu đông.
Tôi chưa một lần về quê kể từ sau khi rời nhà vào năm mười lăm tuổi. Quê tôi là một ngôi làng thanh bình nằm sâu trong núi, thiên nhiên trù phú vô cùng. Tôi yêu nơi đó bằng cả trái tim. Thế nhưng, vào buổi đêm sau lễ tốt nghiệp trung học cơ sở, tôi đã một mình rời khỏi nhà, giống như bây giờ, leo lên một chuyến xe chạy trong đêm.
Từ đó trở đi, tôi chỉ liên lạc với mẹ bằng bưu thiếp chúc mừng năm mới.
Vài năm sau khi tôi rời nhà, trong bức ảnh xuất hiện thêm một con heo mặc đầm lễ phục cạnh người mẹ trông như một nghệ sĩ đường phố phong cách cổ truyền của tôi. Nó tựa sát vào mẹ ra chiều thân thiết lắm.
Tôi rời mẹ lên thành phố và ở lại nhà của bà ngoại. Mỗi lần tôi về làm cánh cửa kéo không được chắc chắn lắm kêu lên lạch xạch, tôi nói “Cháu về rồi”, bà sẽ ra đón tôi với một nụ cười hiền hậu.
Bà ngoại tôi sống trong một căn nhà cũ kĩ ở ngoại ô thành phố, dù cuộc sống không dư dật gì, bà vẫn luôn trân trọng từng khoảnh khắc bình dị cùng bốn mùa trôi qua. Bà là người rất hợp với trang phục truyền thống, lời ăn tiếng nói lịch sự, cư xử hiền hòa nhưng rắn rỏi. Tôi yêu bà nhiều lắm.
Rồi tôi chợt nhận ra, loáng cái đã mười năm trôi qua từ khi tôi lên thành thị.
Nước đọng lại thành giọt trên cửa kính ô tô. Khi lau chúng đi, tôi thấy
bóng mình phản chiếu trong màn đêm đen đặc. Chiếc xe thoát khỏi những dãy phố có các tòa nhà cao tầng nằm kề bên nhau và chạy một mạch ra đường cao tốc.
Từ khi bắt đầu hẹn hò với người yêu, trừ tóc mái ra, tôi chưa cắt tóc một lần nào, phần đuôi tóc buộc hai bên của tôi đã dài đến giữa lưng. Tôi làm thế vì người yêu tôi nói anh thích con gái tóc dài.
Vẫn đăm đăm nhìn vào đôi mắt của chính mình phản chiếu trong màn đêm, tôi mở miệng to hết cỡ. Tôi như nuốt vào những khung cảnh đơn sắc, tựa như con cá voi lưng gù ngoạm trọn một miệng đầy cá vậy. Chính lúc đó, tôi cảm giác như mình vừa chạm mắt với bản thân trong quá khứ.
Tuy chỉ là một khoảnh khác ngắn ngủi, tôi cứ ngỡ trong chiếc xe đêm tốc hành chạy chiều ngược lại, có tôi của mười năm trước, ngây ngô dí tịt mũi vào kính cửa sổ và mơ mộng về ánh sáng nơi thành phố. Tôi hấp tấp ngoái đầu, mắt đuổi theo chiếc xe buýt vừa chạy lướt qua. Nhưng khoảng cách giữa hai chiếc xe dãn ra với một tốc độ đáng gờm, “quá khứ” và “hiện tại” ngày càng cách xa nhau, kính cửa sổ lại ngay lập tức bám đầy hơi nước.
Tương lai mình sẽ trở thành đầu bếp chuyên nghiệp, tôi đã quyết tâm thực hiện điều đó từ khi nào ấy nhỉ? Đối với cuộc đời tôi, nấu ăn cũng giống như hình ảnh cầu vồng mong manh hiện lên trong bóng tối mịt mờ. Tôi phải chật vật với cuộc mưu sinh nơi thành phố lớn, đến khi đã có thể ổn định hơn một chút thì bà ngoại tôi lại lặng lẽ qua đời.
Tôi trở về nhà vào buổi tối muộn sau khi hết ca làm thêm ở quán Thổ Nhĩ Kỳ, thấy có rất nhiều bánh donut trên chiếc bàn uống trà thấp, và ở cạnh đó, bà ngoại tôi trông như đang ngủ, nhưng thực ra bà đã đến một miền trời xa.
Tôi áp tai lên bờ ngực gầy của bà nhưng không nghe được âm thanh nào cả, và dù tôi có đặt tay ở gần khóe miệng hay đầu mũi của bà cũng không cảm nhận được chút hơi thở nào. Tôi không nghĩ rằng bà sẽ sống lại được. Tôi chẳng vội vàng liên lạc với bất kì ai mà quyết định sẽ trải qua khoảng thời gian của riêng hai bà cháu, dù chỉ trong một đêm ngắn ngủi. Bà tôi dần lạnh đi, còn tôi ngồi bên cạnh, ăn donut liên tục suốt cả đêm. Chắc rằng cả đời tôi sẽ không quên được hương vị món bánh rán bọc quế và đường nâu ấy. Mỗi chiếc bánh tròn vừa vặn để đút nhủm vào miệng, được chiên phồng xốp với dầu vừng. Mỗi lần nhai chúng đến phồng má, những ngày ấm áp tôi trải qua cùng bà sống lại trong tôi mịn màng như bọt biển. Bàn tay trắng trẻo nổi gân xanh của bà khi trộn bình tương gạo. Tấm lưng nhỏ, hơi còng khi bà dồn sức giã bột. Gương mặt đáng yêu tựa hờ trên lòng bàn tay còn miệng thì nhóp nhép khi bà nếm thử mùi vị đồ ăn. Những kí ức ấy chập chờn đến và đi trong tâm trí.
Tôi đã gặp anh người yêu Ấn Độ của mình khi đang trải qua những ngày suy sụp ấy. Anh làm việc ở quán Ấn Độ nằm bên cạnh nhà hàng Thổ Nhĩ Kỳ nơi tôi làm thêm, ngày thường là nhân viên đón khách, cuối tuần thì làm nhạc công dự bị cho buổi biểu diễn múa bụng Chúng tôi hay đụng mặt nhau khi đi đổ rác ở phía sau cửa hàng và dần dần nói chuyện nhiều hơn trong giờ nghỉ của cả hai hoặc trên đường về nhà sau khi tan làm.
Anh là một người địu dàng, cao lớn với đôi mắt đẹp. Anh trẻ hơn tôi một tẹo và chỉ nói được chút ít tiếng Nhật. Nhưng chỉ cần thấy nụ cười hoặc nghe cách phát âm tiếng Nhật ngọng nghịu, kì cục của anh là trong một khoảnh khắc, tôi lại thấy như mình quên đi cảm giác mất mát, tuyệt vọng vì bà tôi đã không còn trên cõi đời này nữa.
Nhớ về những ngày đó, không biết tại sao trong tôi, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ lại hiện lên đẹp đẽ và gần gũi với nhau. Người yêu tôi có khuôn mặt người Ấn chính gốc, với nước da ngăm đen và đôi mắt sáng. Tôi luôn tưởng tượng ra hình ảnh của đại dương xanh xinh đẹp cùng nhà thờ Hồi giáo lát gạch Thổ Nhĩ Kỳ trải rộng sau lưng anh mỗi khi nhìn anh ngồi ăn món cà ri rau và đậu.
Tôi nghĩ chắc hẳn nơi chúng tôi gặp gỡ nhau đã góp phần tạo ra hình ảnh đó.
Đối với tôi, làm thêm ở quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ là công việc lâu dài nhất. Tôi đã làm việc gần như hàng ngày, ngang với nhân viên chính thức trong ngót năm năm, và một nửa thời gian đó, tôi được trổ hết tài nghệ của mình trong bếp cùng với những đầu bếp đến từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Khoảng thời gian đó, các cuộc chia tay và gặp gỡ đến dồn dập như những đợt sóng thần, cả thể lực lẫn tinh thần đếu dồn hết cho mục tiêu đơn giản là phải làm sao để tồn tại, nhưng giờ nhìn lại, đó là những tháng ngày không gì thay thế được, quý giá như một phép màu.
Nghĩ về quãng thời gian đó, tôi bất giác hít một hơi thật dài. Tôi cũng phải liên lạc với quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ nữa.
Tấm kính ô tô đầy nước đọng như một tấm gương phản chiếu hình ảnh bên trong chuyến xe đêm tốc hành. Chỉ có khoảng mười mấy hành khách, tất cả đều ngả lưng phế xuống và say ngủ. Gương mặt của tôi hiện lên mờ ảo trong bóng tối nhuốm màu xanh trong suốt.
Đêm đã sắp tàn.
Khi tôi mở hé ô cửa sổ để thay đổi không khí, tôi nhận thấy bầu trời
đang hừng lên từng chút một. Mùi của ban mai thoang thoảng lăn trong làn gió.
Tôi ưỡn lưng và nhìn thấy những chiếc cối xay gió đang quay. Rất nhiều cánh quạt trắng được dựng lên trên đồng cỏ rộng thênh thang và quay đều với vận tốc cực đại.
Hơi lạnh len lỏi vào từng lỗ chân lông làm tôi thoáng rùng mình. Vì tôi mặc váy ngắn đến đầu gối, đi tất đùi, bên trên có độc một chiếc áo thun dài tay nên cái lạnh làm các đầu ngón tay tôi tê cóng.
Có lẽ chuyến xe đêm này cũng sắp đến bến cuối rồi.
Tôi thấy mùi mưa từ xa bay tới.
Tôi xuống xe ở vòng xuyến nằm trước một nhà ga đìu hiu, vắng lặng. Khung cảnh chẳng thay đổi chút nào, tới mức tôi lầm tưởng mình chỉ vừa rời khỏi nhà ngày hôm qua. Chỉ có màu sắc, toàn bộ màu sắc nhòe đi và ngả sang màu trắng đục, tựa như khi ta dùng cục gôm để tẩy bức tranh phong cảnh vẽ bằng bút chì màu.
Còn gần một tiếng nữa chuyến xe buýt mini chuyển tiếp mới khởi hành nên tôi bước vào cửa hàng tiện lợi gần đó mua thẻ học từ vựng và bút dạ đen bằng số tiền lẻ còn sót lại. Cửa hàng tiện lợi ấy có mùi của đồ đạc mới coóng, sàn nhà được đánh bóng sáng lấp loáng,
Thế rồi, bằng nét chữ rõ ràng và dễ đọc, tôi viết những từ ngữ thông dụng thường ngày mà tôi nghĩ từ giờ sẽ cần dùng tới, nắn nót từng chữ một.
Xin chào.
Chào buổi sáng.
Thời tiết đẹp quá.
Bạn có khỏe không?
Cho tôi thứ này.
Cảm ơn rất nhiều.
Lần đầu gặp mặt.
Bảo trọng, tạm biệt.
Xin hãy giúp đỡ.
Xin lỗi. Thứ lỗi cho tôi.
Xin mời.
Bao nhiêu tiền vậy?
Tôi đã nhận ra một điều.
Khi tôi đứng ở quầy bán vé xe tối qua, không, khi tôi đi trả chìa khóa cho bác chủ nhà, cũng không phải, mà từ khoảnh khắc tôi mở cửa bước vào căn hộ trống rỗng đó.
Tôi nhận ra giọng nói của mình đã tan thành hư vô.
Như một triệu chứng rối loạn mất tự chủ gây ra do một cú sốc tinh thần. Nhưng không giống với việc không bật ra được ngôn ngữ. Chỉ có giọng nói của tôi là hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát. Như âm lượng của máy radio bị chỉnh về 0. Tuy vẫn đang phát ra giọng nói và tiếng nhạc, nhưng bên ngoài không một ai nghe thấy.
Tôi đã đánh mất giọng nói của mình.
Tuy ngạc nhiên, nhưng tôi chẳng thấy buồn, cũng không đau đớn. Tôi chỉ cảm thấy cơ thể mình bỗng nhẹ bẫng, như một điều gì đó đã mất di. Cũng vừa lúc tôi cảm thấy không muốn nói chuyện với bất kì ai. Tôi sẽ
kiên nhẫn lắng tai nghe giọng nói bên trong trái tìm mình, thứ âm thanh chỉ mình tôi nghe thấy. Chắc chắn đó là điều nên làm lúc này. Thế nhưng, như một vấn đề hết sức thực tế, tôi đã sống trên đời hai mươi lăm năm, đủ để biết rằng không thể sống mà không giao tiếp với người khác. Vì vậy, tôi viết vào tấm thẻ cuối cùng.
Hiện giờ tôi bị mất giọng, vì một số lí do.
Khác với chiếc xe đường dài chạy xuyên màn đêm sâu thẳm, chiếc xe khách mini tôi đang ngồi tiến lên chậm rãi từng chút. Đêm qua đi, bụng tôi bỗng réo lên ầm ĩ. Chợt nhớ đến nắm cơm thừa từ trưa hôm qua, tôi bèn lôi nó ra khỏi giỏ. Trong giỏ của tôi bây giờ chỉ có chiếc ví đựng một chút tiền lẻ, khăn mùi soa và khăn giấy.
Để cắt giảm sinh hoạt phí, mỗi ngày tôi đều nắm cơm và mang tới chỗ làm. Ăn cơm dành cho nhân viên ở quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ cũng tốn tiền không ít.
Tôi sống tằn tiện như vậy để tích góp chờ một lúc nào đó sẽ mở quán ăn chung với người yêu. Khi nghĩ xem mình nên sử dụng thì hiện tại tiếp diễn hay quá khứ cho câu kể vừa rồi, đầu óc tôi trở nên trắng xóa.
Tiền vốn để mở cửa hàng tôi cất trong tủ tường chứ không gửi ngân hàng. Tôi bó chúng thành từng bó một trăm ngàn yên, khi nào tích đủ một triệu yên thì cho vào phong bì và dán băng dính lại. Tôi đã giấu phong bì đựng một triệu yên trong đống chăn không dùng tới cất ở tủ tường. Hơn nữa, phong bì một triệu yên mà tôi đã tằn tiện tích cóp không ngừng nghỉ chẳng phải chỉ có một chiếc thôi đâu. Nhớ tới chuyện đó cũng làm đầu óc tôi nhuộm màu trắng xóa.
Nắm cơm bị nát một nửa lộ ra khi tôi mở lớp giấy bạc nhàu nhĩ. Tôi lấy tay bốc trái mơ cho vào miệng, hương vị chẳng như mọi khi, rất đỗi nhạt nhòa. Nó thực sự là trái mơ cuối cùng tôi và bà cùng ngâm.
Hồi đó, tôi và bà thay phiên nhau trông đêm đề phòng mơ bị mốc. Khi phơi mơ trong những ngày hè nóng nhất, phải rải mơ ra nền gỗ sao cho từng quả nằm sát vào nhau, cứ vài giờ đồng hồ lại xoay trái mơ, và mỗi lần như thế lại phải dùng ngón tay xoa làm mềm thớ quả. Khi bà ngâm, dù không dùng tía tô đỏ, trái mơ vẫn dần dần được nhuộm sắc hồng.
Vẫn ngậm nguyên trái mơ ngâm cuối cùng trong miệng, tôi mất một lúc ngồi yên không nhúc nhích. Vị chua thấm vào tận cùng của cơ thể. Đối với tôi, thứ đang ở trong miệng lúc này có giá trị ngang với một viên đá quý được cất giấu. Những ngày tháng sống cùng bà trở về ấm áp trái tìm tôi. Nước mắt đã chực trào ra nhưng nghẹn lại nơi cuống họng.
Bà là người đã dịu dàng dẫn tôi bước vào thế giới của đồ ăn và gia vị, ban đầu tôi chỉ đứng ngoài quan sát, nhưng dần dần, tôi vào bếp cùng bà và được bà chỉ dạy cách nấu nướng nhiều món khác nhau. Bà không mấy khi giải thích bằng lời mà cho tôi nếm thử mùi vị ở các công đoạn nấu nướng. Nhờ thế, lưỡi tôi cũng nhớ dần từng chút, độ dai mềm, mặn nhạt và cảm giác tiếp xúc vị nơi đầu lưỡi.
Hồi tôi còn ở nhà, nấu ăn đồng nghĩa với hầm nóng trong lò vì sóng hoặc mở đồ hộp. Nhưng đó quả là một sai lầm to lớn. Tất cả những món như miso, nước tương shoyu và củ cải phơi khô đều do bà tự tay làm. Tôi đã rất ngạc nhiên khi lần đầu biết rằng trong một bát súp miso chứa đựng nhiều sinh mệnh đến thế, có cá mòi, cá ngừ, đậu tương và cả mạch nha.
Khi bà đứng trong bếp, cơ thể bà như được bao bọc bởi một thứ ánh sáng lấp lánh thần kì, tôi thường ngẩn ngơ ngắm nhìn dáng hình đó từ xa
và bất cứ lúc nào tâm trạng cũng vụt trở nên thư thái. Không những thế, chỉ cần được đứng bên cạnh phụ giúp bà là tôi lại có cảm giác chính mình cũng được tham gia vào một nghi thức thiêng liêng nào đó.
Một đứa chưa quen nấu nướng như tôi không tài nào hiểu nổi mấy cụm từ “vừa miệng” hay “tròn vị” của bà. Nhưng dần dần tôi cũng bắt đầu nghiệm ra ý nghĩa của chúng. Bà thể hiện trạng thái tốt nhất của mùi vị “nhất định phải thế này” bằng những từ trừu tượng như thế.
Trái mơ ngâm dần tan trong miệng tôi từ lúc nào không hay, cuối cùng chỉ còn hạt mơ nhỏ xíu và hồi ức về bà lưu lại nơi đầu lưỡi. Ở thành phố đang là cuối hè, nhưng ở đây mùa thu thực sự đã tới. Ăn cơm nắm xong, tôi lại càng thấy lạnh, người run lập cập ở băng ghế cuối cũng trên chiếc xe buýt mini. Mặc dù tôi muốn một thứ đồ uống gì đó ấm ấm, nhưng giờ tôi đang ngồi trên xe rồi, vả lại cũng chẳng còn đủ tiền mà mua.
Tôi ôm chiếc bình đựng tương gạo trên đùi như ôm một đứa bé sơ sinh. Tôi có cảm giác làm vậy sẽ ấm hơn được một chút. Trán tì lên mặt kính cửa sổ, tôi ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài.
Bản đồ của mảnh đất quê hương mà tôi đã gần như quên lãng dần dần hiện lại theo thời gian, tựa như cảnh vật tuần tự nối lên trên cuộn phim chụp. Những căn nhà mới xây, những cửa tiệm mới mở được bổ sung trên tấm bản đồ ngày xưa còn tồn tại trong tâm trí.
Chiếc xe buýt mini dần rời xa phố xá và tiến vào đường núi sâu hun hút. Tim tôi đánh thình thịch trong lồng ngực, chẳng lẽ tôi đang hồi hộp sao.
Mỗi lần xe buýt bẻ lái ở một khúc cua, tôi lại nhìn thấy lấp ló “núi Bồng đảo”. Nơi này có hai ngọn núi tròn trịa và rậm rạp cây cối với tư thế
như tựa vào nhau. Chiều cao hai bên tương đương và cả hai đều có mỏm đá dựng đứng trên đỉnh giống nhau y hệt. Vì nhìn từ xa sẽ thấy chúng na ná đôi gò bồng đảo của người phụ nữ nên từ xưa dân làng đã gọi nơi đó bằng cái tên “núi Bồng đảo. Thêm nữa, một địa điểm chơi trò nhảy vách núi mạo hiểm* nổi tiếng trên đất Nhật đã được dựng lên tại hẻm núi Bồng đảo. Vài năm trước, tôi vô tình xem được một bản tin về chủ đề đó.
Băng rôn quảng cáo màu hồng nhức mắt có ghi “Chào mừng đến với tâm điểm Bungee jumping” nằm nổi bật ở hai bên đường núi hẹp chỉ vừa đủ cho một chiếc ô tô chạy qua. Có cả những biển quảng cáo to tướng không đúng chỗ chút nào. Tôi nghĩ mấy thứ này kiểu gì cũng có liên hệ với lão Neocon.
Lúc xuống xe, sau khi thoáng nhìn thấy mấy kí tự “Cảm ơn quý khách!”, tôi ra hiệu chào tạm biệt người tài xế xe buýt. Dòng chữ “Chào mừng đến với tâm điểm Bungee Jumping” nhảy múa trước mắt tôi.
Mưa bắt đầu rơi lộp độp từng giọt từ bầu trời mây mù xám xịt. Tay phải ôm bình tương gạo, tay trái nắm chặt quai giỏ, tôi cất bước hướng về căn nhà nơi mình đã sinh ra.
Giữa chừng thấy buồn đi nhẹ, tôi bèn giải quyết nhu cầu tại một bụi cỏ ven đường. Vì dân số trong làng chẳng đến năm ngàn nên chuyện gặp người khác ở đường núi thế này là hầu như không có. Tôi vừa ngồi xuống thì một chú ếch xanh không biết từ đâu thò mặt ra nhìn tôi chòng chọc. Thấy tôi giơ ngón tay ra, chú ếch bèn nhanh nhảu bám vào tay tôi bằng những cái chân mát lạnh.
Sau khi nói lời tạm biệt với chú ếch xanh, tôi lại một lần nữa bước ra con đường mòn trên núi. Trong lúc thả bộ dọc theo con đường với hai hàng tuyết tùng nối dài, tôi bắt gặp vài chú sóc vểnh cái đuôi bông to
tướng của mình lên và chạy xẹt qua trước mặt. Tôi ngày càng tới gần “núi Bồng đảo”. Cảm giác hồi hộp khiến tôi thấy nhộn nhạo.
Hai tay vẫn cầm giỏ và bình tương gạo, tôi mất một lúc đứng ngẩn ra trước cửa nhà. Người trong làng thường gọi căn nhà này là Cung điện Ruriko. Ruriko là tên mẹ tôi, trong khuôn viên rộng rãi này, ngoài gian nhà chính còn có quán Snack Amour mà mẹ kinh doanh, nhà kho, mảnh vườn. Đứng ở nơi này, những ngày tháng tôi sống cùng mẹ bỗng ùa về và xếp chồng lên nhau như chiếc bánh ngọt ngàn lớp nổi tiếng của nước Pháp xa xôi. Một cây cọ cao lớn có vẻ mới được trồng nằm trước cổng, thân cây nghiêng nghiêng như đang oằn mình chịu rét. Chẳng biết có phải vì không hợp môi trường hay không mà những chiếc lá bên dưới đã héo khô và ngả sang màu nâu đậm. Mảnh đất đã san bằng và được rừng cây bao bọc xung quanh vốn dĩ do tình nhân của mẹ tôi, tên thường gọi của ông ta là Neocon, sở hữu. Đây là một khu dinh thự nghe thì tưởng hoành tráng nhưng thực chất lại được xây dựng nửa vời với kinh phí thấp, chủ nhân chỉ rót một lượng tiền vừa phải vào những nơi dễ được chú ý mà thôi. Bây giờ nó đang nhuộm gam màu xám xịt như thể bụi tro từ trời cao rơi xuống phủ đều lên mọi ngóc ngách. Đến tận lúc này tôi vẫn nghĩ, nếu có thể phá sập tất cả bằng xe ủi hay gì đó thì tôi sẽ biến nơi này thành đống gạch vụn ngay.
Neocon là giám đốc công ty xây dựng Negishi Tsuneo Concrete hơi hơi nổi tiếng ở địa phương, hình như ông ta đã bị gọi là Neocon từ hồi học tiểu học. Tôi là đứa con ngoài giá thú của mẹ, từ lúc sinh ra đã chẳng biết cha mình là ai, nhưng riêng Neocon thì tôi tuyệt đối không mong muốn ông ta là bố mình.
Để mẹ không phát hiện ra, tôi cẩn thận đi ngang qua nhà chính và Snack
Amour sao cho không gây ra tiếng động rồi cứ thế lên thẳng vào mảnh vườn ở sau nhà.
Tôi quyết định đánh cược một lần.
Nếu tôi tìm được khoản tiết kiệm bí mật của mẹ, tôi sẽ đem số tiền đó cao chạy xa bay rồi lại một lần nữa đi tới vùng đất xa lạ nào đó. Mẹ hoàn toàn không tin tưởng ngân hàng nên thường chôn chai sâm panh đựng tiền trong vườn. Tôi biết điều này vì có một đêm tôi đã vô tình chứng kiến cảnh tượng đó. Nhưng nếu tôi không tìm ra…
Tôi bước vào vườn. Màu xám của bầu trời càng ngày càng đậm đặc, các hạt mưa như những viên đá lác đác rơi. Cơn mưa sắp sửa bước vào giai đoạn nặng hạt nhất.
Tôi biết chắc mẹ tôi chẳng thích thú gì với chuyện làm nông nhưng trong vườn vẫn có rau cỏ được trồng. Có thể một tình nhân khác của mẹ (không phải Neocon) đang chăm chút cho mảnh vườn. Trước mắt tôi, cây khoai sọ đang trổ ra những chiếc lá to bản. Ngoài ra trong vườn cũng trồng cả hành, củ cải, cà rốt nữa. Tôi bỗng muốn nấu ăn ngay bây giờ. Nhưng hiện tại không phải lúc để làm chuyện đó.
Tôi bắt đầu đào dưới chân con bù nhìn có vẻ được dựng lên một cách có chủ ý.
Hầu hết mọi người sẽ cho rằng chẳng ai đem chôn đồ quý giá ở một chỗ nổi bật như thế này cả. Và tính mẹ tôi đúng kiểu muốn người ta nghĩ như thế rồi chọn giải pháp liều lĩnh nhất.
Thế nhưng trái với kì vọng của tôi, thứ lộ ra dưới tầng đất sâu là hộp báu vật mà tôi đã chôn giấu hồi nhỏ.
Ban đầu nó dính đầy bùn đất nên tôi không nhận ra, nhưng khi dùng tay phủi đi lớp đất, tôi nhận ra mình đã từng nhìn thấy cái vỏ hộp bánh quy
ấy.
Tôi rón rén mở nắp chiếc hộp châu báu của mình. Gỉ sét đã ăn sâu vào tận bên trong. Và tôi có cuộc hội ngộ với những đồ vật chứa đầy kỉ niệm. Khẩu súng nước là thứ lúc nào tôi cũng mang theo. Tôi hay cho nước ép trái cây vào đó rồi bắn piu một cái vào trong miệng. Tôi cũng dùng nó để rửa mai cho con rùa tôi mua ở lễ hội hoặc tưới nước cho hoa. Khi buồn chán chẳng có việc gì làm, tôi hay chơi yo-yo. Gần nhà tôi có một cây sung ngọt mà tôi cực kì yêu thích. Tôi sẽ trèo lên đó, chọn một cành thoải mái nhất để ngồi, và chơi yo-yo từ chỗ ấy là sở thích của tôi. Còn có viên sỏi trắng ghi chữ “mẹ”. Đây là công cụ quan trọng mỗi khi tôi bực bội vì khi bị mẹ mắng, tôi sẽ ném nó xuống nền bê tông để giải tỏa bức xúc trong lòng. Mặt sau còn có nét vẽ bút chì mô phỏng mắt, mũi, miệng của mẹ nữa. Ngoài ra trong đó còn chứa rất nhiều thứ vốn dĩ đến bây giờ chẳng còn quan trọng, như con gấu trúc bằng bông, giấy gói màu vàng đẹp đẽ của miếng sô cô la ngoại nhập tôi được ăn lần đầu trong đời, cục tẩy có mùi ngọt ngào sảng khoái, cánh bướm rơi bên vệ đường, vỏ con tôm sau khi lột xác, vỏ nghêu và hến.
Cầm trong tay những đồ vật ấy, tôi đứng ngẩn ra giữa vườn. Hễ nhắm mắt lại thì những ngày tháng đó lại sống dậy trong tôi. Kí ức về một thời tôi ăn quà vặt, ăn cơm, xem tivi, làm bài tập, đi tắm và cả đi ngủ nữa, làm bất cứ thứ gì cũng chỉ có một mình. Mẹ lúc nào cũng bận rộn với việc tỏ ra quyến rũ và tiếp đãi khách ở Snack Amour.
Thế rồi, khi tôi cuộn tròn đây yo-yo và đứng dậy vì muốn thử chơi lại sau một thời gian dài không đụng tới thì có tiếng cạch rất to vang lên ở tiền sảnh nhà chính, rồi một cục tròn vo trắng trắng băng băng phi về phía tôi. Đó là một con heo thật sự, thứ tôi từng nhìn thấy trong bức ảnh đi kèm
thiệp mừng năm mới. Nó đâm bổ về phía tôi y chang một con bò tót. Khoảnh khắc tôi thốt lên “Á” ở trong đầu, con heo đã tiến sát tới ngày trước mật. Sau khi tôi bỏ nhà đi mẹ đã sống cùng con heo này suốt. Nó to hơn nhiều so với những gì tôi tưởng tượng dựa theo bực ảnh và nếu nhìn ở cự li gần thì nó cũng tạo ra áp lực không đùa.
Tôi vùng chạy theo phản xạ. Và con heo cũng nhanh chân hơn tôi nghĩ. Tôi khốn khổ chạy trốn loạn xạ, suýt ngã lộn cổ mấy lần vì vấp chân vào đống rau cỏ trong vườn. Trong tình thế đó, một bên giày của tôi còn bị tuột ra, nhưng tôi cứ để nguyên như thế mà chạy tiếp. Mỗi khi đầu mũi con heo chạm vào mông tôi, tôi lại rùng mình nghĩ rằng có lẽ mình sẽ bị nó ăn tươi nuốt sống. Heo là loài ăn tạp mà, nó có thể ăn cả con người ấy chứ. Áo quần tôi lấm lem bùn đất. Vì tôi vốn dĩ là một đứa không có sức, nên chẳng bao lâu tôi đã mệt rã rời, thở không ra hơi.
Nhưng sau đó mới đến màn tồi tệ nhất.
“Ăn trộm! Ăn trộm!” Nghe thấy tiếng ồn ào, mẹ tôi xông tới, vừa chạy vừa hét bằng giọng oang oang.
Mẹ tôi là hay thức muộn về đêm nên chắc vừa rồi bà vẫn còn đang ngủ. Mặc chiếc đầm ngủ mỏng tang đính đăng ten và đôi ủng đen xì, mẹ lăm lăm chiếc liềm trong tay nhằm về phía tôi mà lao tới. Bà vẫn chưa nhận ra tôi.
Mười năm trôi qua, bộ dạng không son phấn gì của mẹ chỉ toàn là những đường nét vuông thành sắc cạnh, cứ như một người đàn ông trung niên đã phẫu thuật thẩm mĩ và mặc đồ phụ nữ. Giọng tôi vẫn không bật ra được nên tôi chỉ biết chống cự trong im lặng. Mùi đất vườn và mùi nước hoa của mẹ trộn lẫn vào nhau khiến tôi khó chịu vô cùng.
Người mẹ mắt kém tèm nhèm cuối cùng cũng nhận ra tôi đúng vào
khoảnh khắc bà giơ cái liềm lên quá đầu, sẵn sàng bổ xuống phần bụng của tôi khi tôi ngã lăn ra nền đất.
Thế rồi, tôi chợt nhận ra cơn mưa đang ào ạt trút xuống hai mẹ con tôi có cường độ như ngoài tầm kiểm soát, gió mạnh dữ đội như có bão về. Cả mẹ và tôi đều ướt như chuột lột. Mẹ không mặc áo ngực nên tôi thấy rõ món một bộ ngực của bà phía bên kia lớp váy đầm làm từ chất liệu mỏng tang. Nó vẫn khủng như xưa, giống như “núi Bồng đảo” vậy.
Hoàn toàn quên mất sự tồn tại của xấp thẻ học từ, tôi ngồi bệt trên nền đất vườn, miệng há hốc và đăm đăm nhìn mẹ. Bờ vai mẹ nhô lên hạ xuống liên tục, hơi thở của bà phì phò như khói từ ngọn lửa mà quái thú phun ra vậy.
Mắt chúng tôi chạm nhau trong một khoảnh khắc. Nhưng rồi mẹ tôi quay vào nhà mà không nói một lời nào cả. Khi đi đến trước cửa ra vào, bà quay đầu lại phía tôi và hất nhẹ cằm. Con heo ngoe nguấy cái đuôi xoăn tít như mầm dương xỉ và lon ton bám theo sau lưng mẹ.
Quần áo tôi lấm lem toàn bùn là bùn. Không những không tìm được khoản tiết kiệm bí mật của mẹ như mong đợi, tôi còn bị chính mẹ tóm gọn tại hiện trường, đúng là một kết cục không thể tệ hơn. Chuyện đã thế này thì việc bắt đầu cuộc sống mới tại một vùng đất khác coi như là bất khả thi toàn tập. Bởi vì, tôi bây giờ không có cả tiền mua vé xe buýt mini mà quay lại bến xe khách nữa. Đó là nơi duy nhất để tôi có thể đến và đi tiếp.
Tôi đứng dậy và chuẩn bị tinh thần. Trước tiên, tôi chôn lại hộp châu báu mới tìm được lúc nãy xuống cái hố ban đầu của nó, đi nhặt lại một bên giày bị văng ra, một tay ôm bình tương gạo, một tay xách giỏ rồi miễn cưỡng vào nhà. Mùi vị của bùn chầm chậm lan ra trong miệng.
Căn nhà mà mười năm rồi tôi mới lại bước vào.
Con heo của mẹ sống trong một cái chuồng lớn hoành tráng được dựng bên hông nhà chính. Một tấm biển ghi chữ “Hermes” được đóng lên cửa chuồng.
Sau khi tắm rửa, vừa nhâm nhi cốc cà phê hòa tan chua chua ấm ấm mẹ pha cho, tôi vừa dùng mặt sau mấy tờ quảng cáo kẹp trong báo để “nói chuyện” với mẹ. Mẹ đưa bộ pyjama của mình cho tôi mượn làm quần áo thay. Mùi nước hoa nồng nặc thấm cả vào sợi vải của bộ quần áo đó.
Chẳng hiểu sao đến cả mẹ cũng không cất lời mà lại dùng bút bi khác màu viết lên mặt sau của tờ quảng cáo. Tôi đã hoàn toàn quên rằng chữ mẹ đẹp đến không ngờ. Còn tôi, vì căng thẳng và bối rối nên không dùng sức được như ý mình, chỉ có thể viết được những kí tự đã nhỏ lại còn xấu tệ như những con giun đất đang chờ chết.
Chúng tôi ngồi vào bàn sưởi, đối diện nhau và cùng nhau viết. Giữa tôi và mẹ tồn tại một ngọn núi tương ứng với mười năm, cao sừng sững không sao nhìn thấy đỉnh.
Tóm lại, tôi rỗng túi. Trước tiên tôi đề nghị mẹ cho vay tiền, nhưng đúng như dự đoán, mẹ thẳng thừng từ chối. Tuy vậy, có vẻ mẹ thực lòng cho rằng không thể để con gái ruột sống cuộc đời vô gia cư được. Tuy khá miễn cưỡng nhưng mẹ vẫn chấp thuận cho tôi trở về nhà.
Điều kiện của bà là tôi phải tiếp nhận vai trò chăm sóc Hermes. Đương nhiên, chi phí ăn uống, điện đóm, tiền nhà thì tôi sẽ phải trả riêng. Vì lẽ đó, tôi cần làm việc. Nhưng đối với chuyện tìm việc, phải nhìn lại thực tế đây là ngôi làng vùng sâu vùng xa đang trên đà giảm dân số. Chắc chắn đến cả vị trí nhân viên tại điểm chơi Bungee Jumping cũng đấy người xếp hàng rồi.
Trong lúc tôi đang băn khoăn suy nghĩ, một ý tưởng chợt lóe lên. Xin mượn kho của căn nhà này để mở một quán ăn nhỏ có được không nhỉ? Tuy giờ bị xem là căn lều nhỏ chứa đó, nhưng nó là thứ trước đây Neocon đã dựng lên và trưng bày với vai trò nhà mẫu, vì vậy nó vẫn có kiến trúc đàng hoàng, bên trong rộng rãi. Đó thực sự là một công trình quá xa xỉ để sử dụng làm kho chứa đồ.
Với lại, cho dù có tìm việc thì tôi cũng không làm được gì khác ngoài nấu nướng.
Tôi có thể làm ra các món ăn. Sự tự tin của tôi đối với điều đó khá là vững chắc.
Hơn nữa, nếu như mục tiêu nấu nướng ở ngôi làng bình yên trong núi này của tôi trở thành hiện thực, lần tới tôi sẽ có thể vững vàng đặt chân lên những vùng đất rộng lớn hơn để sinh sống. Dự cảm đó như dòng nham thạch trỗi dậy từ phần sâu thẳm nhất trong tôi.
Cả đồ đạc trong nhà, dụng cụ nấu nướng, tài sản, tất cả những gì tôi từng có đều đã mất. Nhưng tôi vẫn còn cơ thể này đây.
Vô số công thức nấu ăn tôi được bà truyền lại, như là kinpira* làm từ cúc hải đường với mơ ngâm, món ninh từ ngưu bàng bóp rượu, bara-zushi cho thật nhiều rau, chawanmushi* đậm đà nước dùng, bánh pudding sữa bò chỉ làm đông bằng lòng trắng trứng, màn thầu nấm, tất cả hương vị đều lưu lại trên lưỡi của tôi.
Cả những kinh nghiệm có được nhờ tu nghiệp ở vô số cửa hàng ăn uống như cửa hàng cà phê, quán rượu, quán gà nướng, nhà hàng thực phẩm hữu cơ, quán giải khát được ưa thích, quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ... đều đã khắc sâu vào máu, vào thịt, vào đầu ngón tay của cơ thể này như những vòng tuổi của thân cây gỗ.
Dù có bị cướp hết trang phục trên người thì tôi vẫn có thể nấu ăn. Tôi hạ quyết tâm đương đầu với thử thách chỉ có một lần trong đời và đưa ra đề nghị với mẹ.
“Xin mẹ đấy. Con sẽ cố gắng hết sức mình. Mẹ có thể cho con mượn nhà kho được không?”
Cuối cùng, tôi viết những lời này và kính cẩn đưa cho mẹ. Tôi chống hai lòng bàn tay xuống chiếu và cúi dập đầu làm tư thế hành lễ.
“Không được bỏ cuộc giữa chừng mà phải làm đến cùng đấy.”
Khi tôi ngẩng mặt lên, dòng chữ như tuôn chảy của mẹ đập ngay vào mắt tôi.
Mẹ nhìn tôi cho đến khi tôi đọc xong dòng chữ đó rồi vừa ngáp đài vừa quay về phòng để ngủ thêm một giấc nữa.
Vậy là tôi đã quyết định trở thành đầu bếp ở ngôi làng bình lặng nằm sâu trong núi.
Mẹ tôi cho vay tiền vốn mở cửa hàng, với lãi suất cao ngang ngửa mức lãi tài chính đánh vào người tiêu dùng cơ bản.
Đối với tôi mà nói, sở hữu cửa hàng của riêng mình luôn là một mơ ước dài lâu.
Tuy vết thương mất đi tất cả, bao gồm cả người yêu, mang lại nỗi đau không thể đong đếm được, nhưng cũng nhờ thế mà cuộc đời tôi đã tiến một bước dài về phía trước. Nếu chỉ là một ngày trước thôi, tôi hoàn toàn không ngờ được mọi thứ sẽ tiến triển theo hướng này.
Tôi thử bước vào phòng mình sau một thời gian dài vắng mặt. Tôi tưởng rằng mọi thứ đã được dọn đẹp sạch sẽ, hóa ra nơi đó vẫn y nguyên. Bộ đồ thể dục lộ ra khi tôi mở tủ quần áo của mình.
Tôi bèn mặc nó thay cho bộ pyjama mượn của mẹ. Bộ đồ dệt kim màu đỏ rượu với vạch kẻ trắng ở hai bên ngày xưa giờ vẫn có thể ôm trọn thân hình của tôi dù mười năm đã trôi qua.
Tôi khẩn trương đem bình tương gạo mình mang về cất vào nơi mát mẻ thông gió trong bếp của nhà chính.
Gian bếp do mẹ quản lí vẫn kinh khủng như trước. Bồn rửa cáu bẩn, miếng bọt biển rửa bát vẫn còn dính rác tươi. Rác cũng chẳng được phân loại đàng hoàng. Trên bàn ăn, mì cốc phiên bản giới hạn theo địa phương nằm lăn lóc bừa bãi.
Nơi đây khác biệt hoàn toàn với căn bếp bà ngoại nhất mực giữ gìn. Khi tôi ngó vào ngăn kéo, tôi thấy chỗ tảo biển để lâu ngày đã mất đi độ bóng, nằm ủ rũ trong túi ni lông. Tôi quyết định coi như không nhìn thấy và ngay lập tức đẩy ngăn kéo về chỗ cũ.
Tuy vậy, vượt lên trên cảm giác khó chịu đó, lồng ngực tôi tràn trề cảm xúc biết ơn đối với việc bình tương gạo được an toàn, tựa như một dòng nước ấm áp vô cùng dễ chịu. Nói thật lòng, cho đến lúc này, tinh thần tôi đã bị kéo căng hết mức, chẳng có lấy một kẽ hở nào để nghĩ ngợi gì.
Bình tương gạo là kỉ vật của bà. Nói vậy cũng không có gì là quá lời cả.
Khi tôi đứng bên bà nhìn vào bình tương gạo, bà luôn nói như thế này với vẻ tự hào.
“Nó đã bình an vô sự vượt qua cả chiến tranh và động đất.” Bà tôi sinh ra trong thời Taisho*, và bà kể rằng mẹ của bà đã để nó lại cho bà, nghĩa là bình tương gạo này có lẽ đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác từ thời Meiji*, thậm chí là từ thời Edo* ấy chứ. Muốn làm cũng không làm ra được, muốn mua cũng chẳng thể mua. Tựa như một chiếc giường phép thuật, chỉ cần cho rau củ nằm lên đó là đủ làm cho chúng vui mừng và sẵn lòng đãi chúng tôi một bữa ăn ngon. Thế rồi tới khi tôi thừa hưởng nó, tôi vẫn luôn tỉ mẩn trộn đều cá ngừ bào và cá mòi khô đã chắt hết nước miso sau khi bỏ thêm vỏ quýt. Thỉnh thoảng tôi cũng rót ít bia hoặc cho vụn bánh mì vào để kích hoạt vi khuẩn axit lactic. Tuy tôi không nhớ rõ là từ bao giờ, nhưng có lần bà đã dạy cho tôi với vẻ rất tự hào rằng, vi khuẩn axit lactic của mỗi người đều khác nhau, vi khuẩn axit lactic có trong lòng bàn tay nữ giới, đặc biệt là phụ nữ sau khi sinh, là tốt nhất, tốt hơn của đàn ông.
Tôi ngửi thấy mùi của bà tỏa ra khi tôi khẽ khàng mở nắp bình tương gạo.
Đợi mưa tạnh, tôi thả bộ thăm thú lại quanh vùng sau một thời gian xa cách.
Trong đầu tôi, các ý tưởng về quán ăn sắp mở hiện ra liên tiếp từng chút một, còn nhanh hơn cả những gì tôi dự tính. Giờ không phải thời điểm thích hợp để nằm trên giường và đầu óc tôi cũng hoàn toàn tỉnh táo, không thấy buồn ngủ chút nào. Với lại, có một thứ tôi muốn nhìn thấy trước hết, một cái cây.
Sau khi dò dẫm rẽ lối trên con đường thú rừng hay đi ở ngọn núi phía sau nhà, tôi leo một mạch đến địa điểm đầy kỉ niệm ấy.
Nơi đó là một ngọn đồi thoai thoải, có một cây sung to cao bề thế. Mười năm nay tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện muốn gặp mẹ nhưng lại nhớ cây sung này vô cùng, không biết bao nhiêu lần tôi đã mải miết tìm kiếm nó trong những giấc mơ.
Đối với tôi, những tạo vật của tự nhiên trên ngọn núi này mới là chỗ dựa tinh thần chứ chẳng phải mẹ hay bạn bè đồng trang lứa. Bước sang tuổi hai lăm, trọng lượng cơ thể tôi đã tăng lên so với hồi đó, thế nhưng tôi vẫn trèo cây được giống như ngày xưa. Mười năm trôi qua, thân cây đã lớn hơn một chút. Cành cây cứng cáp hơn so với trước đây. Tôi có cảm giác như thể cây sung cũng mừng rỡ vì được gặp lại tôi vậy.
Khi ghé tai lại gần thân cây, tôi cảm nhận được một làn hơi ấm dịu dàng. Trái sung màu xanh ngọc bích trĩu trịt trên cành cứ như cây thông Noel được trang hoàng lộng lãy. Khi tôi đuỗi tay ra và cảm nhận chúng bằng đầu ngón tay thì thấy quả nào quả nấy cứng như cái lưng cong cong của một đứa bé cuộn tròn người lại, vòng hai cánh tay ôm lấy hai chân.
Lớp mây mỏng nửa trong suốt trông như vỏ hành tây bị dán rịt trên bầu trời. Tất cả cây cối, hoa cỏ trong rừng vừa được tắm nước mưa sáng lên lấp lánh. Bất chấp địa điểm chơi nhảy vách núi mạo hiểm đã được dựng lên, phong cảnh nhìn từ nơi này hầu như không khác gì so với mười năm trước.
Thế rồi, tôi rút một cây kéo ra từ trong túi áo. Tôi lấy ngón tay trái kẹp tóc mái lại và dùng chiếc kéo đang cầm ở tay phải dưa một đường cắt dứt khoát trên chỗ đặt ngón tay. Một tiếng xoet đầy sảng khoái vang lên, chỗ
tóc mái đó không còn gắn liền với cơ thể tôi nữa. Không chỉ tóc mái, tôi túm cả phần tóc hai bên và đằng sau thành một bó rồi thoăn thoát cắt chúng đi. Tôi muốn làm bản thân nhẹ hơn, dù chỉ một miligam cũng được. Chỗ tóc bị cắt rời trôi khỏi tay tôi, gió thổi ào đến khiến chúng rơi xuống nền đất dưới gốc cây.
Đầu bếp không cần mái tóc dài. Tôi dùng tay thay lược, chỉnh tóc một cách đại khái và cắt. Mái tóc đài đến giữa lưng của tôi trở thành tóc ngắn chỉ trong nháy mắt. Tôi biết rằng đầu mình thực sự đã nhẹ đi.
Cắt xong quả đầu ngắn cũn cỡn, tôi ngồi đung đưa hai chân và ngắm nhìn núi Bồng đảo trồi lên ở đằng xa. Đúng lúc đó…
“Nàyyyy.”
Một giọng nam giới bỗng vang lên bên dưới.
Tôi nhìn xuống qua khe hở giữa những chiếc lá sung to bản thì thấy một người đang đứng với vẻ mặt lơ đễnh trong bộ quần áo công nhân màu be. Đó là một gương mặt thân quen đối với tôi, chú Kuma. Tuy mặt chú gân guốc, góc cạnh và có vẻ cứng nhắc nhưng bản chất chú rất hiền. Nghe đồn tên thật của chú là Kumakichi nhưng tất cả mọi người trong vùng đều gọi tắt thành “Kuma’” hết.
Hồi tôi học tiểu học, chú Kuma là nhân viên bảo vệ thời vụ và là thần tượng trong lòng lũ trẻ. Chú Kuma thường mở đường đến trường trên những lối đi đầy tuyết trong mùa đông, sắp xếp, chuẩn bị cho ngày hội thao hoặc thay thế kính cửa sổ bị vỡ.
“Ủa? Có phải là Ringo không vậy?”
Giây phút đó, tôi cảm thấy chua chát trong lòng.
Tôi ghét cay ghét đắng cái tên mẹ đặt cho mình. Vì tôi là đứa trẻ sinh ra từ mối quan hệ trái với luân thường đạo lí mà đặt tên tôi là “Rinko (Luân Tử)” thì thật quá quát rồi. Tuy nhiên, vì người vùng này phát âm nặng tiếng địa phương nên Rinko thường nghe giống Ringo, điều đó cũng cứu giúp tôi đôi chút.
Chú Kuma tiến đến bên dưới chỗ tôi, nhìn tôi không rời mắt và nói. “Cháu nhớn quá, trở thành thiếu nữ xinh đẹp rồi.”
Tôi cuống quýt lôi tập thẻ từ vựng ra từ trong giỏ, lật đến thẻ cuối cùng và đưa cho chủ Kuma xem.
“Hiện giờ cháu bị mất giọng, vì một số lí do.
Chú Kuma vội vàng rút cặp kính lão từ túi áo ngực ra nhưng có lẽ chú chẳng đọc nổi vì chữ quá nhỏ, hoặc là chú không hiểu ý nghĩa những ai được viết ở đó, nên chú lại ngẩng lên nhìn tôi. Thế rồi, như sực nhớ ra, chú lầm bẩm.
“Chuột sóc.”
Tôi nhảy xuống khỏi cây sung rồi ngồi bó gối cạnh chú Kuma trên nền đất ẩm. Ánh mặt trời mùa thu ấm áp dễ chịu rót xuống gương mặt của tôi lẫn chú Kuma như những giọt nước tuôn ra từ bình tưới. Việc ban nãy vừa có trận mưa to cứ tựa như một lời nói dối vụng về.
Chuột sóc.
Ngày hôm ấy vì sao tôi lại khóc dữ vậy nhỉ? Khi tôi đang đứng khóc một mình ở hành lang trường học, chú Kuma đi ngang qua và đã bắt
chuyện với tôi. Rồi chú cõng tôi trên lưng và cứ thế dẫn tôi tới phòng bảo vệ, nơi bình thường chúng tôi không được đặt chân vào. Trong nhà tôi vốn không có đàn ông, nên tấm lưng của chú Kuma lúc ấy đối với tôi vô cùng to lớn và ấm áp.
Trong không gian chật hẹp, mờ mờ tối, thoang thoảng thứ mùi rất đặc trưng, hàng đống vật dụng bình thường tôi không thể động vào nằm chồng chất lên nhau. Khói trắng liên tục thoát ra từ ấm đun nước đặt trên bếp lò. “Ringo có biết cái này hem?”
Trong khi tôi căng thẳng cứng hết cả người, chú Kuma lấy một chiếc nồi có hai quai từ trong tủ và lẳng lặng mang tới chỗ tôi. Sau đó, chú rón rén mở nắp để cho tôi nhìn vào. Bên trong có một sinh vật sống nhỏ bé màu hạt dẻ.
“Chuột sóc đấy.”
Chú Kuma nói.
Khi tôi ngẩng lên và nói bằng giọng mũi nghèn nghẹt “Chuột sóc?”, chú Kuma liền cười toe toét nhăn hết cả mặt. Rồi chú nhấc bổng con chuột sóc đang ngủ ngon lành bằng một tay và đặt nó vào lòng bàn tay tôi.
Chú chuột sóc chẳng hề giật mình, cứ thế ngủ say như chết. Đến lúc nhận ra thì tôi đã nín khóc tự khi nào.
Tôi đã quên hoàn toàn chuyện ấy, nhưng giờ lại vô tình nhớ ra. Cảm giác có chú chuột sóc nằm trong lòng bàn tay sống dậy.
Tôi thân thiết với chú Kuma kể từ ngày đó.
Tôi lấy tập thẻ từ vựng từ chú Kuma, mở đến trang “Chú có khỏe không?” rồi trao lại cho chú. Chú Kuma im lặng gật đầu mấy cái rồi bắt đầu kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện đã xảy ra với chú và ngôi làng này
trong quãng thời gian tôi ở nơi xa.
Trong những năm tôi ra thành phố, chủ Ruma đã lấy vợ. Đôi đồng tử tròn xoe sáng lên lấp lánh, chú kể rằng vợ chủ là người Argentina, đẹp người đẹp nét. Chú gọi vợ mình là Sinhorita. Tôi nghĩ đúng ra phải là Senhorita*, không rõ là chú nói ngọng hay nhầm lẫn từ đầu, nhưng nghe kiểu gì cùng thành Sinhorita.
Sinhonita có vẻ kém chú Kuma khá nhiều tuổi.
Hai người kết hôn xong thì bắt đầu sống chung với mẹ chú Kuma tại nhà của chú. Họ có con ngay nữa chứ. Chú Kuma cho tôi xem ảnh một bé gái hết sức đáng yêu với đôi mắt to tròn.
Nhưng cuộc sóng hôn nhân lí tưởng không kéo dài lâu. Đầu tiên, tình hình quan hệ giữa mẹ chú Kuma và Sinhorita xấu đi trông thấy. Sinhorita là người luôn mơ về cuộc sống nơi đô thị nên cuối cùng một ngày kia, cô dẫn theo con gái rời khỏi ngôi làng.
Tổ tiên nhà chú Kuma đã sống ở mảnh đất này đời này qua đời khác, và từ tận gốc rễ, chú là một người đàn ông của núi rừng. Nếu là chuyện liên quan đến núi thì cái gì chú cũng biết, nhưng ngoài núi ra thì chú gần như mù tịt. Điều đáng lo nhất là liệu chú có sống được nếu rời khỏi quê hương hay không.
Với lại, chú cũng đâu thế bỏ mặc mẹ già. Vì vậy, kết cục là chú Kuma từ bỏ việc đuổi theo Sinhorita yêu dấu và an phận tại ngôi làng bình lặng nằm sâu trong núi này. Bây giờ chú đang sống một cuộc đời buồn chán với người mẹ cao tuổi và một con dê núi cái lỡ thì.
Chú Kuma đột ngột nhỏm dậy, lấy trái bồ hòn từ túi ngực của chiếc áo lao động và đưa cho tôi. Khi tôi để hai trái bồ hòn tròn xoe, bề mặt trơn bóng, lăn trong lòng bàn tay mình, chúng đập vào nhau phát ra âm thanh
khô khốc tựa như tiếng castanet*.
“Cảm ơn rất nhiều.”
Tôi vội vàng lấy tập thẻ từ vựng ra khỏi giỏ, lật trang và chìa nó về phía chú Kuma.
Chú Kuma nở nụ cười như ngầm bảo “không có gì đâu” rồi chậm rãi xoay tấm lưng to lớn và quay về con đường mòn.
Khi đi bộ, chú hơi kéo lê chân trái. Đó xem như tấm huân chương ghi công cho lần chú quần thảo với một con gấu đen đực từ lâu lắm rồi. Đây là một trong các câu chuyện truyền kì về sự anh dũng của chú Kuma.
“Trái bồ hòn mà ngâm vô rượu còn có công dụng chữa vết thương hở đó nghe.” Đi đến giữa lối đi của thú rừng, chú Kuma quay đầu lại nói lớn. Chú Kuma đang nở nụ cười làm nhăn hết cả mặt mũi, vẻ mặt giống như hồi chú ấy cho tôi xem con chuột sóc ngày nào.
Tôi đứng dậy và di chuyển ra gần một con suối nhỏ nằm cạnh cây sung. Ban nãy tôi không nhìn gương mà cắt tóc nên giờ cũng muốn xác nhận đại khái xem mình thành ra thế nào. Khi tôi quỳ gối trên nền đất mọc đầy cỏ dại và sợ sệt nhòm xuống mặt nước, tôi thấy chính tôi với mái tóc đã cắt ngắn hoàn toàn.
Ấn tượng ngoại hình tuy có thay đổi kha khá nhưng vẫn chỉ là khuôn mặt của bản thân. Tôi khẽ lướt các ngón tay qua mái tóc mình. Trước đây những sợi tóc dài mượt sẽ luồn vào giữa các kẽ ngón tay, còn bây giờ các ngón tay của tôi lạc ra ngoài khoảng không ngay lập tức.
Tôi đoán là nhìn cũng không tệ lắm. Tâm trạng tôi giờ êm dịu và nhẹ
nhõm, tựa như lòng trắng trứng được đánh bông lên để làm meringue*. Khum tay múc nước suối đưa lên miệng, tôi cảm thấy một vị ngọt địu dàng. Tôi chỉnh lại tóc bằng đôi bàn tay ướt nước suối rồi đứng dậy. Ánh sáng trút xuống từ kẽ lá của cây sung đang nhảy múaa tung tăng dưới lòng suối.
Cảm hứng bỗng đến bất chợt, tôi quyết định thong dong thám hiểm trong làng.
Khi dấn bước trên con đường ban nãy tôi đi bộ lên từ bến xe buýt, một vài tiếng la “Á Á Á!” vang lên với âm lượng đủ to để tôi nghe được. Tôi hoảng hốt tưởng có tai nạn gì, nhưng trấn tĩnh lại thì nhận ra đó chỉ là tiếng kêu thất thanh vọng tới từ hẻm núi đã trở thành địa điểm chơi môn Bungee Jumping mạo hiểm.
Bọ ngựa, quả akebia*, cây địa du, dáng vẻ của chúng không khác trước là mấy. Cả khách sạn tư nhân cỡ nhỏ hay chỗ trọ bình dân, tuy số lượng vết bẩn và gỉ sét đã tăng lên kha khá trên tường bao phía ngoài, nhưng nhờ trông thấy cơ man là giẻ lau được phơi ở các bậu cửa sổ mà tôi biết rằng chủ nhân của chúng vẫn đang tiếp tục kinh doanh. Ngài Địa Tạng bên vệ đường được khoác cho một tấm tạp dề, trong lon rượu cạnh ngài cắm những bông hoa cúc tươi màu đầy sức sống. Chiếc bánh màn thầu được cúng dường sáng lên bóng mượt.
Nhà tắm công cộng năm dọc theo bờ suối. Những cái lán đìu hiu. Máy bán hàng tự động.
Tất cả những cảnh vật ấy đều khiến lòng tôi râm ran, bồi hồi nhớ về quá khứ, nhưng đồng thời cũng làm tôi muốn nghiền nát chúng ngay bây giờ trong lòng bàn tay.
Băng qua đường, tôi lạc vào khu phố có mái vòm nơi nhiều cửa hiệu nằm san sát bên nhau. Chỗ này chỗ kia của mái đã gỉ sét và rơi rụng lả tả, qua đó có thể nhìn thấy bầu trời trong xanh. Ngày xưa, nơi đây từng rất nhộn nhịp khi còn có nhiều nhà kinh doanh dịch vụ suối nước nóng. Khoảng mười năm trước, trong thời kì bùng nổ sự ưa chuộng đối với các suối nước nóng ở vùng xa xôi hẻo lánh, thị trấn này vụt trở nên nổi tiếng, khách du lịch trên cả nước ùn ùn kéo đến đây. Tuy vậy, giao thông nơi này vốn dĩ đã bất tiện, dù lượng người đổ về rất đông nhưng cơ sở vật chất lại chẳng nhiều nhặn gì, địa phương hoàn toàn không đáp ứng nổi nên cơn sốt hạ nhiệt vô cùng chóng vánh.
Dù đang là ban ngày nhưng già nửa các hàng quán đều đóng chặt cửa chớp. Tôi đột nhiên nhớ đến con búp bê bằng chất dẻo mà bà rất giữ gìn. Khi đặt nó nằm ngang, nó sẽ kêu lên một tiếng nho nhỏ và cụp mi mắt xuống. Chỉ có điều hai mí mắt của nó luôn luôn không thể khép hẳn vào nhau.
Giống như mắt của con búp bê ấy, phía bên dưới các cánh cửa sập trong khu phố buôn bán cũng hơi hé ra một tẹo. Dù cửa hàng đã thôi hoạt động, nhưng chắc hẳn vẫn còn người sinh sống bên trong. Tôi chậm rãi bước đi và ngó nghiêng.
Khi đi ngang qua hiệu bánh kẹo kiểu Âu duy nhất trong làng, tôi ngửi thấy hương thơm ngọt ngào, béo ngậy tỏa ra từ lỗ thông hơi. Sau tấm kính tủ trưng bày bị mờ đi vì hơi nước, từng hàng bánh dâu và bánh savarin* đẹp như bánh mẫu bằng nhựa, chẳng khác xưa tẹo nào. Món pudding à la mode của tiệm này cũng là thứ mẹ rất hay đút vào miệng tôi một cách ép buộc khi tôi đang ngủ trên giường mỗi lần bà say bí tỉ. Một người phụ nữ tôi không quen đang đứng trong cửa hàng, không rõ có phải nơi đây đã đổi
chủ không.
Cạnh hàng bánh kẹo là quán Tonkatsu*. Nhưng chỗ này đang đóng cửa. Trên cửa sập dán một tờ giấy viền đen ghi cáo phó, ở phần còn trống là một dòng chữ viết bằng bút bi dường như được ngoáy vội với nội dung “Chúng tôi sẽ nghỉ bán một thời gian. Ngày tháng viết ở đó đã là từ năm ngoái.
Tương tự quán Tonkatsu, hiệu sách và cửa hàng kính cũng chẳng còn. Nơi trước kia là hiệu sách đã biến thành hàng cho thuê băng đĩa, nhưng hầu như không có những bộ phim bình thường, ngay trên cửa sổ cạnh lối vào dán đấy áp phích in hình các cô gái mặc đồ lót. Chỉ có chiếc máy bán hàng “Kế hoạch gia đình vui vẻ” trông như hòm bưu điện đứng trơ trọi bên cạnh là vẫn không thay đổi gì so với ngày xưa.
Đi chếch về phía trước con đường sẽ đến siêu thị độc nhất trong làng, nơi tập trung mọi thứ đó dùng thường nhật, tuy thầm lặng nhưng vẫn đang còn hoạt động.
Nơi đây tựa như một thành phố cổ đại, thời gian của nó đã dừng lại còn nó thì ngủ yên dưới đáy đại dương. Đèn trang trí của cửa hàng bách hóa đang nhấp nháy nhìn như thiết bị duy trì sự sống trong bệnh viện.
Dù sao, nhìn một vòng xong, tôi có thể kết luận rằng nơi này có vẻ không gặp khó khăn nhiều lắm về thực phẩm.
Trên các thửa ruộng bậc thang, những bông lúa nặng trĩu hạt tỏa sắc vàng ươm, và vì là vùng núi nên rau tươi nhiều đến độ có thể san sẻ bớt cho động vật. Chỉ cần đi ra những con suối gần nhà thì bất cứ lúc nào trong hai mươi tư giờ của một ngày cũng có thể lấy được nước từ mạch ngầm vừa ngọt vừa mát, chẳng cần mất công đi mua máy lọc nước hay nước khoáng như ở chốn nội thành.
Trong những trang trại rộng lớn có cả bò, dê, cừu. Sữa tươi và pho mai không bao giờ thiếu. Đi thêm một chút còn có cả trại nuôi heo và trại nuôi gà, nhờ vậy tôi có thể kiếm được thịt heo tươi, thịt gà thả vườn lẫn trứng gà. Nói gì đi nữa, từ giờ sẽ vào mùa săn. Nếu nhờ vả được các bác thợ săn, chắc rằng họ sẽ chia cho tôi một phần những gì họ bắt được. Ngoài ra, ngôi làng này tuy được bao bọc bởi núi nhưng cũng gần biển, nếu đi bằng ô tô, tôi sẽ có thể kiếm được nguồn hải sản tươi ngon.
Nhớ đến cánh đồng nho trải rộng bên sườn dốc phía sau ngọn núi thì không thể không nhắc đến rượu vang đặc sản địa phương, và đương nhiên, nơi thiên nhiên trù phú cho cả nguồn gạo và nước dồi dào này thì rượu Nhật ngon tới mức không sao tả được. Chắc chắn có vườn cây ăn quả và ruộng trồng dược thảo nữa. Người dân nơi đây luôn âm thầm, cần mẫn làm ra những món ngon. Riêng những nguyên liệu đặc biệt khó kiếm ở vùng quê như dầu ô liu hảo hạng, chắc cứ đặt hàng qua mạng là được.
May mà mẹ tôi cũng xài mạng chẳng kém ai, nếu tôi xin xỏ hẳn mẹ sẽ cho tôi thuê máy tính.
Tôi nhìn một lượt và thấy biển, núi, sông, đồng ruộng.
Tất cả đều là kho báu tạo nên nguyên liệu nấu ăn. Một môi trường được ưu ái như mơ nếu so với chốn thị thành.
Trong đầu tôi hiện ra những ý tưởng về quán ăn sắp mở như hoa vẫn cầm thạch rực rỡ sắc màu. Đột ngột ngẩng lên, tôi nhận ra mặt trời sắp lặn ở góc đồi thoai thoải. Vầng thái dương màu cam sẫm bóng bẩy, tựa như lòng đỏ của quả trứng mới sinh.
Mặt trời hờ hững chìm xuống giữa những tòa nhà cao tầng nơi thành phố lớn cũng rất tuyệt vời, nhưng cảnh hoàng hôn này khiến tôi cảm thấy thiên nhiên thật vĩ đại và rộng lớn. Khi đã được ngắm cảnh tượng hùng vĩ
thế này, con người chắc sẽ từ bỏ ý định dùng sức lực nhỏ nhoi của mình để chiếm hữu thiên nhiên. Một cái bóng dài như cây gậy vươn ra từ thân hình nhỏ choắt của tôi.
Sự hiện diện điện của buổi đêm len lori vào từng ngóc ngách trong khu rừng.
Tôi vội vàng chạy về về trên con đường lát đá trước khi bị bóng tối nuốt chửng.
Giờ này chắc chắn mẹ đã ra khỏi nhà để đến Snack Amour. Chuyện đó xảy ra vào giữa khuya, khi “bóng đêm’ chi phối mọi thứ. Tính ra tôi đã thức hơn một ngày tròn, mệt mỏi rã rời và chìm vào giấc ngủ, nhưng lại thình lình tỉnh giấc bởi tiếng cú kêu.
Có vẻ tôi đã ngủ mà không kéo rèm. Trên cái nền hình chữ nhật bị cắt ra bởi khung cửa sổ nhỏ chỉ có đúng một ngôi sao đang sáng lên le lói. Ánh sáng nhỏ bé đến nỗi có lẽ sẽ biến mất chỉ với một cái hắt hơi. Ban đầu tôi chưa nhớ ra tiếng đó là tiếng “Ông Cú”.
Dẫu sao tôi bỏ nhà đi cũng mười năm rồi.
Không thể có chuyện Ông vẫn còn sống được. lôi tuyệt đối tin là Ông đã chết rồi.
Tôi hấp tấp liếc nhìn đồng hồ. Thế rồi sự chính xác ấy làm tôi nổi hết cả da gà.
Sống đến tận bây giờ, lại còn cất tiếng kêu vào đúng mười hai giờ không thay đổi. Tôi nghĩ đó quả là một kì tích. Tôi nhẩm đếm số lần kêu, quả nhiên đủ mười hai lần không hể sai lệch.
Ông Cú là một con cú sống trên gác mái của nhà chính từ ngày xưa. Từ hồi tôi còn nhỏ, đêm nào Ông cũng kêu “Hô hô hô hô...” mười hai lần vào
lúc mười hai giờ đúng, không nghỉ lấy một ngày. Đã vậy, nhịp điệu đó còn ngắt thành từng khoảng giống nhau chuẩn xác, y như máy đánh nhịp. Một sự chính xác mà ngoài gọi là siêu năng lực thì không còn từ nào diễn tả. Tôi vẫn nhớ trong suy nghĩ vụng dại ngây thơ, tôi luôn có ấn tượng mạnh về khả năng kì diệu của động vật.
Mẹ một mực tin rằng Ông Cú là thần bảo hộ của căn nhà này và tôi cũng tin như thế, không một chút nghi ngờ. Đến giờ vẫn chưa ai nhìn thấy hình dáng của Ông và điều đó càng khiến chúng tôi tôn thờ Ong Cú như một điều gì linh thiêng lắm. Thật không ngờ Ông Cú vẫn còn sống! Mười năm trước, tôi lặng lẽ rời khỏi nhà, rồi đến hôm nay, tôi lần bước trở về với một trái tim tan vỡ, vậy mà trong khoảng thời gian đó Ông Cú vẫn ở đây, hàng ngày làm cùng một công việc không ngừng nghi.
Nếu nói Ông Cú là sự tồn tại đáng kính đối với tôi cũng chẳng quá lời. Và tôi cảm thấy vững lòng khi nghĩ về những thứ được Ông bảo vệ. Nhớ lại thì khi còn bé, trong những đêm cô đơn chỉ có một mình, tôi có thể an tâm và chìm vào giấc ngủ khi nghĩ rằng Ông Cú đang ở trên gác mái.
Những cảm xúc hiền hòa ôm trọn lấy tôi. Và lần này tôi khép chặt mi mắt. Thế là một ngày dài thật dài, vừa như sự kết thúc, vừa đánh dấu sự khởi đầu, một ngày mà sau này nhớ lại sẽ thành một kỉ niệm khó phai, cuối cùng cũng lặng lẽ hạ màn.
Từ đó trở đi, mỗi ngày phăm phăm trôi qua với tốc độ của của chim ưng sải cánh ở hẻm núi Bồng đảo. Khi còn kiêm nhiệm mấy công việc một lúc ở các cửa hàng ăn uống, tôi cũng khá vất vả, nhưng sự bận rộn hiện tại là kinh khủng nhất trong cuộc đời đã qua 1/4 thế kỉ của tôi.
Dẫu trong những phút yếu lòng, không phải tôi không nhớ về người tình bội bạc xưa cũ, nhưng giờ chẳng phải lúc để lăn tăn.
Một ngày của tôi bắt đầu bằng việc chăm Hermes. Trong cuốn số ghi chú chăn nuôi mẹ đưa cho tôi có ghi chi tiết về bữa ăn của Hermes. Điểm kì quặc nhất là nội dung được viết trong phần liên quan đến lượng thức ăn: “Nếu ăn quá nhiều sẽ biến thành heo, nên phải hạn chế số lượng”. Sự tồn tại của Hermes đối với mẹ còn lớn hơn một con heo nuôi chăng?
Tôi chắc mẩm cái tên Hermes là do bà mẹ thích hàng hiệu của tôi tùy ý đặt cho nó. Thế nhưng, thực ra đó lại là từ tạo thành bằng cách ghép chữ “L” trong cụm “Landrace” chỉ giống heo với chữ “mesu” có nghĩa là con cái.*
Theo cuốn sách liên quan đến chăn nuôi heo của mẹ thì Landrace vốn là loài heo giống Đan Mạch được lai cải tiến để làm thịt muối, nguyên liệu cho món ăn sáng trứng ốp la thịt muối của Anh. Nó là loài heo trắng đầu nhỏ, mình dài và rất khôn, nếu so với loài Large White hay Middle White có bề ngoài tương tự thì đặc trưng của Landrace là mặt dài và tai rủ.
Có lẽ cái tên Hermes cũng gây ấn tượng phần nào, nhưng quả thật nó là một cô heo có gương mặt khá quý phái. Đúng như người ta vẫn bảo rằng heo thích sạch sẽ, chỗ ăn và chỗ đi vệ sinh của nó đều được phân định kĩ càng.
Theo số ghi chú chăn nuôi, mẹ tôi nhận nuôi Hermes ở tuần thứ tư sau khi nó ra đời. Heo mẹ trung bình sẽ có khoảng mười bốn bầu sữa để nuôi con. Ngay sau khi sinh, heo con sẽ tranh giành bầu vú độc quyền của mình dựa vào sức mạnh. Vú ra nhiều sữa sẽ bị chiếm hữu bởi heo con khỏe mạnh nên những chú heo con yếu sẽ ngày càng không được cung cấp đủ chất dinh dưỡng và tiếp tục yếu thêm.
Những con heo thua cuộc trong trận chiến cạnh tranh với anh chị em, không được uống đủ sữa mẹ, không được ăn đủ đồ ăn sau khi cai sữa sẽ bị gọi là những con heo còi, và Hermes hóa ra chính là một con heo còi như thế. Cân nặng lúc sinh ra của nó chỉ có một cân, lúc được nhận về cũng chỉ hơn ba cân một chút, nhỏ hơn khá nhiều so với heo con thông thường. Mẹ đã nhận nuôi nó ngay trước khi nó bị gửi tới lò mổ.
Không rõ có liên quan gì tới việc bị suy dinh dưỡng khi còn nhỏ không nhưng kể cả khi bước vào thời kì dậy thì bốn tháng sau sinh, Hermes vẫn không động dục. Từ đó trở đi, nó không giao phối cũng chẳng sinh heo con mà cứ sống bên cạnh mẹ tôi, tại Cung điện Ruriko này.
Thửa vườn sau nhà cũng là dành cho Hermes. Thứ mùi đặc trưng đó tỏa ra từ phân của nó, và nhờ trồng ở nơi có phân bón mà rau mới tươi tốt đến như vậy.
Mẹ tôi vốn chẳng bao giờ lưu tâm đến thức ăn của con người, vậy mà lại cầu kì làm nông kiểu hữu cơ chỉ vì Hermes. Rau trồng ở vườn sau nhà đương nhiên không có thuốc bảo vệ thực vật hay phân bón hóa học, và các đồ ăn khác cũng là thức ăn chăn nuôi có thành phần thực vật như đậu nành hay ngô không biến đổi gen.
Đáng chú ý nhất là món bánh mì làm thủ công sử dụng nấm men thiên nhiên thay thế cho món tráng miệng trong bữa sáng còn được mua từ một cửa hàng nổi tiếng ở Tokyo lận.
Không biết có phải do ăn toàn đồ chất lượng không mà lông của Hermes quả thực rất óng mượt, đuôi lúc nào cũng cuộn tròn, và biểu cảm trên mặt thì luôn có vẻ vui sướng khó tả.
Nhưng tôi thì không dư dả kinh tế để mua thứ bánh cao cấp như vậy nên đành phải tự làm.
Cũng vừa đến mùa nên tôi xin chú Kuma ít táo chua chua ngọt ngọt không dùng thuốc bảo vệ thực vật trồng ở vườn nhà chú để làm nấm men. Trước khi đi ngủ, tôi làm sẵn phần nhào bột, sáng sớm hôm sau, tôi thức dậy từ lúc bình minh, vừa nghe tiếng hòa ca của những chú chim nhỏ vừa nặn bánh thành hình và nướng trong lò. Một công việc khá vất vả nhưng nướng bánh mì cũng là một trong những thao tác mà tôi ưa thích nên việc lồng ghép nó trong nhịp điệu cuộc sống hàng ngày không có gì quá khó khăn.
Ban đầu, Hermes dường như nhận ra sự khác biệt trong mùi vị, hình dạng và nguyên liệu của bánh mì tôi nướng nên nó quay ngoắt đi chẳng thèm ăn. Dù “thực khách” có là một con heo đi nữa thì tôi vẫn thất vọng khi đồ ăn mình mất công làm bị bỏ lại. Vì thế, tôi cố gắng dần dần điều chỉnh từng chút để cải thiện sao cho Hermes ăn được.
Tôi thấy trong sổ ghi chú chăn nuôi của mẹ có ghi món ưa thích của Hermes là hạt và quả từ các loại cây nên tôi đoán có thể món bánh tôi nướng thử nghiệm sẽ ổn hơn nếu có trộn lần hạt sồi. Nhờ vậy, cuối cùng Hermes cũng chịu ăn món bánh tôi làm.
Từ đó, tôi thường trộn lẫn quả gì đó tôi tìm được trong rừng vào bánh mì nấm men tự nhiên và làm ra những chiếc bánh mà Hermes ưa thích. Tôi cũng dần dần thân thiết với Hermes hơn.
Hermes béo tròn với trọng lượng cơ thể có lẽ đã hơi vượt ngưỡng một trăm cân. Nhìn bộ đạng cô nàng phồng mồm ăn bánh mì tôi làm và phát ra những tiếng rồn rột, tôi lại có cảm xúc hơi kì lạ, tựa như đang nhìn cô em gái cùng chia đồ ăn với mình. Tuy tôi có chút thái độ phản kháng với mẹ, nhưng không hiểu sao trong tôi chẳng này sinh chút cảm giác ghen tị nào khi mẹ tôi yêu thương Hermes đến đắm đuối.
Và rồi, trong lúc Hermes đang ngấu nghiến xử lí thức ăn, tôi xỏ chân vào ủng và đi dọn chuồng heo.
Heo trưởng thành rất nhạy cảm với cái nóng nên phần phía trên của chuồng heo được mở ra để thông gió. Đến mùa đông thì phải lắp miếng ván nhựa trong suốt vào đó để chống lạnh, nhưng mỗi ngày đều cần tháo chúng ra để lưu thông không khí. Nền chuồng bằng bê tông trải mùn cưa và vỏ trấu, hàng sáng tôi sẽ gom chúng cùng với phân và cho vào xô, bê ra vườn bón phân.
San khi làm xong những việc đó, tôi ăn một bữa sáng qua loa rồi chú tâm vào những công việc chuẩn bị cho quán ăn sắp mở. Ngày từ đầu, tôi đã quyết định rằng đó sẽ là một quán ăn. Không phải quán cà phê, không phải bar, cũng không phải quán rượu, mà sẽ là một quán ăn.
Tôi khâu khăn trải bàn bằng vải thừa, ra thị trấn chọn mua những chiếc ghế phù hợp với sở thích, mượn máy tính của mẹ để lên mạng đặt hàng bộ dụng cụ nấu ăn. Những việc cần làm mỗi ngày đều nhiều vô kể.
Trong khoảng thời gian đó, đương nhiên tôi vẫn không thể nói với ai lời nào. Toàn bộ nội dung đều được tôi viết ra để trao đổi hoặc phải huơ chân múa tay để biểu thị suy nghĩ. Những ngày ấy tuy bận rộn nhưng trong lòng lại đầy phấn khích.
Người gần gũi với tôi và hỗ trợ những công việc ấy là chú Kuma. Chú Kuma sống ở mảnh đất này từ xưa nên quen biết rộng, lại rành về tự nhiên, đối với tôi mà nói, chú tựa như một người cố vấn ở vùng quê. Dù gặp rắc rối gì, chỉ cần nói với chú Kuma thì hầu như mọi chuyện đều có thể giải quyết.
Nội thất của quán ăn hầu hết cũng do tôi và chú Kuma chung tay hoàn thiện.
Những việc cần nhiều sức lực như cưa, vác gỗ, đóng đinh tôi nhờ chú Kuma, còn tôi tự làm những việc như quét sơn, bôi sáp, lát gạch. Cứ chuẩn bị dụng tay vào thì các ý tưởng lại tuôn ra không giới hạn, nên dù hàng ngày hai chúng tôi mải miết làm đến khi mặt trời lặn thì công việc mãi vẫn chưa thể kết thúc.
Cây cối trong khu rừng xung quanh đổi màu từng ngày, thời gian ban ngày càng lúc càng ngắn di, rõ ràng đến mức tôi tưởng rằng mình chạm tay được vào sự thay đổi ấy.
Tôi muốn biến quán ăn sắp mở của mình thành một không gian kì diệu, khiến người ta ngỡ đã từng nhìn thấy ở đâu đó, mà lại như lần đầu bước chân vào.
Địa điểm ấy sẽ như một hang động bí mật, để mọi người thấy nhẹ nhõm và tìm lại chính mình.
Dù sao đi nữa, tôi cũng muốn quán ăn có một phong cách thật nhẹ nhàng và đáng yêu.
Mất khoảng một tháng, quán ăn với bầu không khí khá gần với hình ảnh trong tưởng tượng của tôi cũng hoàn thành.
Sàn nhà phủ gỗ xốp trên nền bê tông, phía trên xếp đất nung và trải thảm đệt kilim* dễ thương có màu ấm, như một cách ứng phó với cái lạnh của mùa đông. Tôi được cho một chiếc bàn tuy cổ nhưng vẫn rất chắc chắn, vốn do người cha làm nghề thợ mộc của chú Kuma đóng bằng gỗ cây dẻ. Chiếc bàn mang đến cảm giác đặc biệt, khó để nói đó là không khí của phương Đông hay phương Tây, màu ban đầu đã phai thành màu hổ phách nên có cảm giác rất dễ chịu.
Tôi tìm thấy ghế trong cửa hàng đồ cũ ngoài thị trấn. Loại ghế gỗ cỡ nhỏ, mặt ghế được ghép bằng dây thừng mảnh, người ta bảo chúng từng được dùng trong hội trường hòa nhạc. Sau khi tôi sơn phần gỗ thành màu ngọc lam, chúng như sống lại trong đáng vẻ đầy quyến rũ.
Tường bên trong là màu vàng nhạt ngả cam nhờ chồng lớp màu của nguyên liệu tự nhiên lên trên lớp vôi tường. Đến lúc này, chú Kuma lại ra tay thương thuyết giúp tôi với một họa sĩ nước ngoài đang trú tại làng, nhờ người đó vẽ lên mảng tường bên trong một bức tranh Phật bà Quan Âm mang đôi cánh tựa thiên sứ với những nét phác nhẹ giống kiểu của Cocteaut*. Bức tranh nhìn như tranh tường đã có sẵn ở đó từ thời xa xưa lắm, nó bòa hợp hoàn hảo với không gian của căn phòng.
Chú Kuma cũng kiếm được cho tôi một chiếc lò đốt bằng củi tử ngôi trường cấp hai đã đóng cửa ở thị trấn kế bên. Và thứ tôi tng ý nhất là bộ đèn chùm dùng nến đốt, với chất liệu thủy tinh thổi thủ công được làm ra vào thời Taisho. Tôi nghe nói nó đã phá nằm đắp chiếu trong kho nhà hàng xóm của chú Kuma khá lâu rồi.
Tuy bàn có một cái là đủ rồi nhưng tôi nhất định muốn bày thêm một bộ giường sô pha. Giả sử khách hàng muốn ngủ một giấc sau bữa ăn, họ có thể dùng nó để ngả lưng, hoặc trường hợp khách hàng có uống rượu thì họ có thể nghỉ ngơi ở đó. Với lại, nghĩ đến trường hợp cãi nhau với mẹ và bị đuổi khỏi nhà, tôi vẫn có thể trọ lại quán ăn là tôi lại thấy yên tâm ghê gớm.
Tôi xếp vài hộp gỗ đựng rượu vang làm chân giường. Cơ sở bán buôn quy mô lớn được mở ở thị trấn lân cận đã tặng chúng cho tôi miễn phí, chú Kuma chất chúng lên khoang chở hàng của chiếc xe tải hạng nhẹ và chở về nhà giúp tôi. Tôi trải lên đó tấm nệm cỡ nhỏ làm từ vải hoa phong
cách đồng quê mà tôi tìm được khi mua hàng trên mạng. Sau đó, vẫn dùng loại vải ấy, tôi làm thêm gối tựa và đặt lên trên. Mền thì lấy vải len kẻ ô vuông hàng Úc.
Về phòng vệ sinh, tôi lát gạch hết cả mặt tường, chọn gạch khác màu để tạo họa tiết hình đôi chim. Tuy là thứ tôi tạo ra theo cảm hứng nhất thời, nhưng hình thù nhìn chung khá ổn, toát ra cảm giác nguyên thủy ban sơ. Cho dù thức ăn có ngon đến mấy mà nhà vệ sinh bẩn thì mọi thứ sẽ thành công cốc hết. Tôi đã quyết định sẽ chỉ đầu tư tiền vào nhà vệ sinh, dù cho có phải cắt giảm những chỗ khác và mua bộ nội thất toa-let đính kèm vòi hoa sen loại mới nhất. Tôi cũng trổ một ô cửa sổ nhỏ trên tường khiến nơi đó trở thành một không gian thoáng mát, dễ chịu.
Ở phần mặt tiền nối với đường làng, tôi dùng sỏi ở bãi sông có màu khác nhau, xếp thành chữ “Welcome, hai bên trồng vài giống cây tôi thích như mâm sôi, việt quất, dâu rừng. Với tường bên ngoài, tôi nhờ thợ quét vôi tường ở địa phương đập vỡ gạch ngói cũ, nhào trộn với xi măng để chuyển nó thành màu hồng đậm. Tôi vùi vào đó những chiếc vỏ trai, vỏ sò mà tôi nhặt được ở bãi biển gần nhất để tạo điểm nhấn.
Cánh cửa là thứ tạo ấn tượng nhiều nhất của quán ăn và tôi đã phải tranh giành trầy da tróc vẩy mới lấy được nó trong một phiên đấu giá trên mạng. Căn nhà mẫu mà Neocon mang tới đương nhiên có sẵn cửa rồi, nhưng đó là một cái cửa trượt khung nhôm, không hợp với không khí quán ăn. Tôi đã chọn một cánh cửa kiểu Pháp màu nâu sậm có hình chữ U lộn ngược, nhặt trong núi một cục sắt, nhìn qua suýt tưởng là thằn lằn, rồi cố định nó bằng đinh để làm nắm đấm cửa.
Tôi khá là hài lòng với bầu không khí của quán ăn mà tôi và chú Kuma tạo nên trong suốt những ngày qua.
Sau đây, khi quán ăn chính thức mở hàng, tôi sẽ hoàn thiện dần bên trong từng chút là được.
Nhờ có chú Kuma, gian bếp nơi tôi sẽ làm việc là một thành quả xuất sắc hơn tôi tưởng tượng. Tôi nhanh chóng di chuyển hũ tương gạo từ phòng bếp của mẹ sang gian bếp sạch sẽ, tinh tươm của bản thân.
Những đặc tính tôi đòi hỏi ở một gian bếp là sự sáng sủa, sạch sẽ và tiện dụng.
Vì tôi sẽ chỉ dùng những vật dụng nấu nướng ở mức tối thiểu nên chẳng cần máy rửa bát, lò vi sóng hay nồi cơm điện. Riêng những thứ dù thế nào cũng bắt buộc phải có như tủ lạnh, bồn rửa, bếp ga, lò nướng thì tôi mua lại được với giá rẻ từ một hàng đồ ăn Trung Hoa địa phương mới sập tiệm gần đây.
Bồn rửa vẫn còn sáng bóng như đồ mới, không biết vì sao lại hoàn toàn phù hợp với cơ thể nhỏ bé của tôi. Cả cái chụp hút mùi tái sử dụng từ chiếc xô bằng sắt tây như một giải pháp tình thế cũng mang lại cảm giác tinh nghịch hay ho ra phết. Hơn tất cả, vì đã dỡ bức tường phía tây ra và lắp kính hết cả mặt đó nên tôi có thể vừa nấu ăn vừa cảm nhận được luồng ánh sáng thiên nhiên bao bọc.
Cứ mở cửa ra là quán sẽ được nối liền với vườn dược thảo tôi trồng. Chú Kuma đã làm giúp tôi thanh xà trên trần nhà bằng gỗ trồng khai thác, nên tôi có thể tùy ý treo đồ lên đó, ví dụ như giỏ đan bằng cây leo trên núi chẳng hạn.
Trải qua các công việc làm thêm, tính đến giờ tôi đã nhìn thấy khá nhiều gian bếp, nhưng đây là lần đầu tiên có một gian bếp hoàn hảo đến vậy. Nhờ số tiền vay của mẹ, tôi đã xoay xở kiếm được bộ dao dành cho
dân chuyên, và cũng tập hợp đủ dụng cụ nấu nướng cần có ở mức tối thiểu.
Bát đũa đã chuẩn bị tuy không nhiều những vẫn chấp nhận được. Thật tốt là mẹ đã nhường lại cho tôi chỗ bát đĩa được cất sâu trong tủ tường của mẹ. Chúng chưa được dùng bao giờ, là đồ mà mẹ của mẹ, nghĩa là bà tôi, để lại cho con gái. Bên trong tập hợp những chiếc cốc nhiều màu sắc thời Taisho và Victoria, bát gốm họa tiết xanh cổ của Việt Nam, đĩa sứ Imari* cổ, đĩa súp trắng phau hiệu Richard Ginori*, thậm chí có cả ly uống rượu sâm panh Baccarat* với thiết kế cũ đã ngừng sản xuất. Mặt sau của từng món đồ đều có dán dấu niêm phong, trên đó có nội dung chú thích được ghi bằng nét chữ viết tay quen thuộc của bà.
Mẹ để lại chỗ đồ ấy cho tôi hoàn toàn miễn phí, quả là một việc hiếm khi xảy ra. Bà nói đó là quà mừng khai trương. Quan niệm sống của mẹ và tôi hoàn toàn đối nghịch. Tôi lúc nào cũng thấy bực vì điều đó, nhưng lúc này tôi lại thấy thật biết ơn. Những thứ mẹ xem là vô tích sự thì đối với tôi lại là cả một gia tài.
Tôi từng nghĩ rằng, liệu có phải bản chất của gia đình mẫu hệ là di truyền cách thế hệ chăng? Có nghĩa là, để phản kháng người mẹ ruột đoan chính quá mức, mẹ tôi đã lựa chọn một cuộc đời nổi loạn, rồi đến lượt tôi, đứa trẻ được mẹ nuôi dạy, cũng chống đối, không muốn giống mẹ. Việc này giống như chơi một ván cờ Othello* vô hạn, khi người mẹ được sơn màu trắng, con gái sẽ cố sống cố chết nhuộm màu đen, và rồi cháu gái sẽ lại nỗ lực để chuyển thành màu trắng.
Tôi quyết định cất bộ bát đĩa trong tủ bày cốc chén vốn được đặt sẵn trong kho. Sau khi tôi dùng nước cọ bên ngoài và bên trong, nó trở về hình dạng sạch sẽ lung linh như mới. Tôi xếp tủ bày cốc chén ở dưới khung
cửa sổ, nơi khách hàng có thể nhìn sang núi Bồng đảo từ bàn ăn của mình.
Quán ăn của tôi đã vào giai đoạn chỉ còn đếm bằng giây cho đến lúc khai trương.
Chuyện xảy ra vào một ngày như thế. Chú Kuma ngồi trên xe ba bánh dành cho người lớn đi đến chỗ tôi. Loại xe chạy bằng điện, không tiêu tốn sức người, có thể chở được hàng hóa nặng. Cái xe ba bánh đặc biệt này chắc cũng phải có một cái tên chính thức nào đó, nhưng tôi không biết. Bánh sau có hai cái, đuôi xe gắn một cái giỏ rất to. Thậm chí còn lắp cả gương chiếu hậu để kiểm tra tình trạng đường xá sau lưng nữa.
Tay vẫn nắm vô lăng của chiếc xe ba bánh chạy điện dùng cho người lớn đó, chú Kuma vừa cười vừa nói với vẻ vui sướng.
“Chú có quà cho Ringo này. Ngày xưa chú tặng Sinhorita nhưng giờ chẳng dùng nữa. Ringo xem có xài được không?”
Thế rồi chú bảo “Chú mượn sơn nhé” rồi bắt đầu sơn lớp sơn mới lên trên chiếc xe ba bánh chạy điện dùng cho người lớn đã rỉ sét đôi phần. Chú dùng sơn màu xanh ngọc giống với loại tôi đã sơn ghế của cửa hàng.
Tuy nhiên, tôi ngần ngại và vỗ vỗ lên lưng chú Kuma rất nhiều lần, khua hai tay thể hiện ý từ chối. Bởi vì đó là món đồ quan trọng Sinhorita, người mà chú rất yêu thương đã để lại mà. Người ngoài như tôi làm sao có thể nhận nó.
Tôi muốn truyền đạt điều đó. Thế nhưng, để mặc tôi với những suy nghĩ ấy, chiếc xe ba bánh vốn đầy gỉ sét trong nháy mắt đã biến hình thành cỗ xe màu xanh ngọc rất dễ thương.
“Nhân tiện, tên cửa hàng để là Amour có được không?” Chú Kuma
đủng đỉnh hỏi tôi.
Tôi cuống cuồng xua cả hai tay rất nhiều lần như động tác chào tạm biệt.
Việc chuẩn bị mở hàng quá bận rộn khiến tôi quên béng rằng mình phải quyết định chuyện quan trọng đó. Tuy nhiên, riêng cái tên Amour thì tuyệt đối, tuyệt đối không thể được. Nếu chọn cái tên như thế thì không gian mà tôi và chú Kuma vất vả cả tháng trời dựng nên sẽ chẳng còn giá trị.
Tối muộn, sau khi về nhà, tôi nằm trong chăn và liên tục nghĩ về chuyện đó. Thế rồi, khi đang nghe tiếng kêu của Ông Cú vào đúng mười hai giờ, trong tôi chợt lóe lên một ý tưởng.
Quán ăn Ốc sên thì sao nhỉ? Và chỉ trong vòng chưa tới vài giây, ngực tôi tràn đầy niềm tin mãnh liệt rằng, tên quán ăn sắp mở chỉ có thể là “Ốc sên” mà thôi.
Đúng vậy!
Vẫn nằm co tròn trong chăn như bánh cuộn, tôi bật ngón tay một cái. Gánh trên lưng không gian bé nhỏ tựa như ba lô đi học ấy, từ giờ tôi sẽ từ từ tiến về phía trước.
Tôi và quán ăn sẽ là nhất tâm đồng thể, tuy hai mà một.
Khi đã vào trong vỏ, nơi đó không thể là thứ gì khác ngoài “mảnh đất bình an sinh sống” đối với tôi.
Sáng hôm sau, tôi nhanh chóng gọi vào số di động của chú Kuma. Nói vậy thôi chứ tôi đâu thể phát ra tiếng nói. Chúng tôi đặt ra một quy ước là tôi sẽ phát một bài nhạc cố định và chú Kuma sẽ hiểu đó là mật hiệu để tới gặp tôi.
Giai điệu chú Kuma chọn là bài hát nổi tiếng “Ban công nơi bãi biển” của Matroda Seiko. Hình như Sinhorita, người vợ đã dẫn con gái bỏ đi của chú rất hay hát bài này ở phòng karaoke trong Snack Amour. Vậy nên tôi thường bỏ cuộn băng cát-sét mà chú Kuma tự thu đưa cho tôi cùng với máy nghe nhạc trong cái giỏ ưa dùng và lúc nào cũng mang chúng bên mình.
Tuy biện pháp giao tiếp hơi bất tiện nhưng tôi vẫn xoay xở được với số lượng cách thức hạn chế đó. Gặp cảnh này thực tế rồi tôi mới phát hiện ra, việc không nói được thành tiếng đối với tôi có lẽ chẳng đến nỗi khổ sở như những gì mọi người tưởng tượng. Vốn dĩ tôi cũng không phải người hoạt ngôn và cứ nghĩ rằng mình đang sống một mình thì đây cũng không phải tình trạng bất thường gì cho lắm.
Lần này cũng như mọi lần, sau khi nghe giọng hát ngọt lịm “Hãy đợi em ở ban công nơi bãi biển”, chú Kuma lập tức đến chỗ tôi trên chiếc xe tải hạng nhẹ của mình.
Tôi nhanh chóng dùng sỏi viết thật to trên nền đất dòng chữ “Quán ăn Ốc sên”. Thế rồi, tôi huơ tay lên, làm biểu cảm như thể đang hỏi “Chú thấy sao?” và nhìn chú Kuma chằm chằm. Gần đây, kể cả không viết mọi thứ vào sổ trao đổi thì tôi và chú Kuma vẫn có thể nắm bắt được suy nghĩ của nhau.
“Hay đấy. Chú Kuma nói.
Rồi ngay lập tức, bằng những con chữ nghiêm trang hào sảng, chú dùng sơn trắng viết bốn chữ “Quán ăn Ốc sên” lên trên tấm biển gắn ở cái giỏ sau chiếc xe ba bánh mới sơn màu xanh ngọc ngày hôm qua.
Tôi rất thích những con chữ tuy mộc mạc nhưng chất chứa yêu thương mà chú Kuma đã viết ra. Và tôi cũng quyết định từ giờ sẽ đặt tên “Ốc sên”
cho chiếc xe ba bánh ấy.
Tôi liền leo lên “Ốc sên”, tiện thể lái thử xe, tôi quyết định du ngoạn một vòng quanh ngôi làng thanh bình nằm sâu trong núi.
Vì không có bằng lái xe nên thực ra trong lòng tôi khá quan ngại. Nếu ở thành phố, không có xe ô tô vẫn sống được, nhưng ở ngôi làng nhà quê xa xôi hẻo lánh này mà không có phương tiện di chuyển thì thật chẳng còn gì để bàn. Nói gì thì nói, tôi thực sự cũng cảm thấy áy náy khi hễ cứ có chút việc lại gọi chú Kuma.
Giờ có xe “Ốc sên” rồi, tôi có thể tự mình đến trung tâm làng. Có thể dọc đường sẽ có những đoạn đường núi chưa trải nhựa nhưng chắc là tôi vẫn xoay xở được thôi. Cỗ xe “Ốc sên” là thứ chú Kuma đã từng tặng Sinhorita, tôi quyết định sẽ sử dụng nó một cách biết ơn, nâng niu và trân trọng.
Tôi lái “Ốc sên” tiến về phía trước trên đoạn đường núi lồi lõm, chậm rãi nhưng chắc chắn. Đồng thời, tôi ngước lên nhìn bầu trời xanh đậm sắc thu.
Những đám mây mỏng như những con sứa trải rộng khắp bầu trời. Từ những con sứa không tim, không khớp, không xương, xúc tu vẫn thò ra đầy đủ. Tôi hít một hơi sâu cho không khí tràn đầy khoang ngực. Một con diều hâu bay tới từ phía biển bình thản lượn vòng trên đầu tôi. Nó kêu quang quác rồi bay về hướng núi Bồng đảo. Từ sâu trong rừng, có thể cảm nhận được sự hiện diện ồn ào của sinh vật sống.
Đi được nửa đường, tôi phát hiện ra một cây nho rừng. Thử cho một trái vào miệng, lưỡi tôi tê đi với vị chua gắt rất rõ ràng. Tuy không thể ăn sống được nhưng tôi lại nảy ra một ý.
Tôi quyết định thu hoạch quả của cây nho rừng trước khi bị lũ gấu hoang hớt tay trên. Tôi nhanh chóng cho cái túi ni lông căng phồng nhét đầy nho có màu đỏ tím sẫm vào giỏ của “Ốc sên”. Dọc đường hạt sồi cũng rụng rất nhiều. Tôi nhặt chúng tới khi không thể nhặt thêm, cho vào túi rồi lại cất trong giỏ xe của mình. Tôi sẽ luộc hạt sồi một lần rồi phơi khô và bảo quản để sau này thêm vào bánh mì của Hermes.
Quán ăn Ốc sên mong ước của tôi sắp sửa cất tiếng khóc chào đời. Tôi thì vẫn chẳng khác gì, mỏi ngày một lần dẫm phải phân của Hermes. Có lúc bị hạt dẻ gai rơi thẳng vào đầu, có lúc vấp phải hòn sỏi bên vệ đường suýt ngã. Kể cả như vậy thì tôi vẫn gặp gỡ với những niềm hạnh phúc đơn sơ ấm lòng nhiều hơn so với hồi sống ở thành phố. Đối với tôi, chỉ một lần cứu chú rệp nằm lật ngửa cũng là một cuộc gặp gỡ hạnh phúc. Cảm giác ấm áp khi nắm quả trứng gà mới đẻ trong tay và áp lên má, phát hiện ra giọt nước đẹp hơn cả kim cương trên tán lá ướt đảm sương mai, tìm được nấm tre trông đẹp như miếng lót cốc đăng ten ở lối vào rừng rồi ăn chúng với tương miso, tất cả những điều bé nhỏ dịu đàng ấy đều khiến tôi muốn gửi đến thánh thần một nụ hôn cảm ơn lên má.
Trong đầu tôi, Quán ăn Ốc sên hầu như đã được định hình. Đó sẽ là một quán ăn hơi khác thường, mỗi ngày chỉ có một ca phục vụ. Ngày hôm trước tôi sẽ gặp trực tiếp khách hàng, hoặc trao đổi qua mail
hoặc fax, tìm hiểu cụ thể xem họ muốn ăn gì, thành phần gia đình, ước mơ tương lai hay khả năng chi trả. Tôi sẽ nghĩ thực đơn ngày hôm sau dựa trên kết quả thu được đó.
Khi trời tối muộn, tiếng hát karaoke và nói chuyện ở Snack Amour nằm kế bên sẽ rất ồn ào, nên nếu có thể tôi muốn bữa ăn bắt đầu từ khoảng sáu giờ chiều. Và rồi, tôi muốn thực khách của quán sẽ bỏ thời gian thong thả thưởng thức hương vị, phù hợp với cái tên Quán ăn Ốc sên mà tôi đặt cho. Vì thế, tôi sẽ không đặt đồng hồ trong quán mà chỉ dùng đồng hồ hẹn giờ trong bếp khi nào cần thiết mà thôi.
Mùi khói sẽ ảnh hưởng đến vị của món ăn nên trong quán cấm hút thuốc. Tôi cũng sẽ không bật nhạc, vì tôi muốn khách của mình cảm nhận âm thanh của thức ăn nghe được từ trong bếp và sự có mặt của các sinh vật sống hay chim chóc bên ngoài.
Mỗi khi nhầm mắt, tôi cứ ngỡ như Quán ăn Ốc sên sẽ chuyển mình cựa quậy ngay giây phút ấy.
Khi tôi trở về từ chuyến thăm thú một vòng quê hương trên cỗ xe Ốc sên thì chú Kuma đang bổ chỗ củi chú nhặt về từ trên núi để chuẩn bị nhiên liệu cho lò đốt.
Tôi lấy tập giấy ghi chép ra, viết lời nhắn, canh lúc chú Kuma ngơi tay để hỏi.
“Chú Kuma hãy yêu cầu bất cứ món gì chú muốn ăn đi ạ.”
Tôi thấy hơi ngượng ngùng, cứ như lúc tỏ tình với chàng trai mình thích. Chữ tôi nhìn hơi buồn cười, chẳng hiểu có phải tay bị run vì căng thẳng không.
Nhưng thực ra, tôi đã âm thầm quyết định việc này từ khá lâu rồi.
Đó là lời cảm ơn của tôi, vì chú đã giúp tôi chuẩn bị cho cửa hàng. Nói thật, tôi bây giờ không đủ khả năng để tặng chú tiền hay hiện vật. Nhưng tôi có thể nấu ăn. Hơn nữa, tôi tự tin rằng nếu là nấu cho chú Kuma, tôi có thể dùng toàn tâm toàn sức, phát huy 100% năng lực của mình.
Thế nhưng, có lẽ đây là câu hỏi chú hoàn toàn không dự đoán trước, nên chú có vẻ mặt như thể ăn phải một thứ gì đó tưởng ngọt ngào hóa ra lại đắng ngắt, môi chú hơi trề ra.
“Thứ muốn ăn à...”
Chú lẩm bẩm như vậy rồi im lặng. Thế rồi, với điệu bộ làm như không nhìn thấy câu hỏi đó, chú lập tức quay lại công việc bổ củi của mình. Tuy vậy, một lát sau, chú Kuma bắt đầu lí nhí kể về Sinhorita. Hình như cứ nghĩ đến chuyện ăn uống là kiểu gì chú cũng nhớ về Sinhorita và cô con gái yêu dấu.
Tôi cũng vậy. Sau khi trở về quê nhà, dù thời gian cảm nhận những niềm hạnh phúc bé nhỏ có tăng lên thì trong một vài khoảnh khác bất chợt, tôi lại nhớ đến người yêu cũ của mình. Chẳng những vết thương không lành được, ngày qua ngày nó vẫn tiếp tục loét sâu thêm.
Lần ra thị trấn, tôi thấy một người đàn ông có hình dáng nhìn từ sau lưng cật giông anh, ngỡ rằng người yêu mình đến đón, tôi đuổi theo, không thể yên lòng nếu không đón đầu để nhìn mặt cho bằng được. Chỉ cần ngửi thấy mùi nào đó tương tự với hương gia vị đượm trên da thịt anh, như một phần xạ có điều kiện, tôi lại muốn khóc.
Nỗi đau đó càng nhiều hơn khi tôi nghĩ tới việc nấu ăn. Mỗi lần tôi bước vào gian bếp, đeo tạp dề quanh hông, gương mật ngăm đen và hàm răng trắng sáng, đôi mắt kiên định và sống mũi thẳng băng, từng chi tiết nhỏ về anh lại hiện lên trước mắt tôi như hồn ma bóng quế. Ấn Độ và Thổ
Nhĩ Kỳ, tựa như trái bóng được tạo thành nhờ trộn lẫn hai màu đất sét, chúng hòa thành một khối và lao thẳng vào ngực tôi. Cảm giác bất lực khi người mình yêu tha thiết đơn phương nói lời chia tay không phải là thứ có thể bù đắp, đù có đem bất cứ thứ gì ra đánh đổi.
Vừa bồ củi, chú Kuma vừa kể cho tôi rằng món đầu tiên Sinhorita làm cho chú là cà ri.
“Nói mới nhớ, hàng ngày toàn ăn món bà cụ ở nhà nấu nên gần đây chú không ăn cà ri…”
Chú lẩm bẩm, ánh mắt trống rỗng như đang nhìn về phía đất nước Argentina xa lạ.
Khoảnh khác nghe được câu nói đó, tôi ăn mừng chiến thắng trong lòng và quyết định sẽ nấu được món cà ri khiến chú Kuma phải ngỡ ngàng. Đối với tôi, cà ri cũng là món ăn đầy áp kỉ niệm. Tôi không biết mình đã nấu bao nhiêu lần cho người yêu ăn nữa. Đối với một người sinh ra ở Ấn Độ như anh, cà ri chính là linh hồn của ẩm thực.
Chú Kuma bổ củi xong liền cũng tôi ăn trưa với kamaage udon*, sau đó, tôi cẩn thận rửa và đun kĩ chỗ nho rừng tôi gom được ban nãy, chuẩn bị ủ giấm Balvamic*.
Thời gian hoàn thành sẽ là mười hai năm sau, Tôi nhắm mắt lại tưởng tượng xem hương vị của nho sẽ biến đổi thành thứ gì.
Cũng có thể tôi sẽ thất bại giữa chừng. Nhưng mà, cho dù là mười hai năm sau đi nữa, tôi vẫn muốn đứng trong gian bếp với tâm hồn tươi mới giống thế này. Mang trong mình nguyện ước mạnh mẽ như vậy, tôi thận trọng dồn dung dịch dấm Balsamic nguyên chất vào trong chiếc bình đã được đun khử trùng từ trước.
Ngày khai trương Quán ăn Ốc sên.
Tôi ưỡn ngực khi ra khỏi nhà, sải những bước dài đi về phía Quán ăn Ốc sên. Hermes bây giờ đã hoàn toàn trở nên thân thiết với tôi, từ sau lưng tôi, cô nàng gửi một lời động viên bằng tiếng kêu ủn ỉn.
Ở ngôi làng yên bình trong núi rất phù hợp với cái tên Quán ăn Ốc sên, mưa bụi đã rơi từ sáng sớm. Tôi ngẩng mát lên và thích thú đứng dưới làn mưa như một con ốc sên thực thụ. Chiều hôm qua, tấm biển tôi mất nửa ngày để làm đã ướt nhẹp bởi cơn mưa phùn như sương muối. Đầu tiên tôi nhờ chú Kuma chẻ hộ một miếng gỗ dày khoảng mười centimét, rồi dùng cưa lưỡi mảnh cắt thành hình con ốc sên. Sau đó tôi viết mấy chữ nguệch ngoạc như trẻ con mẫu giáo “Quán ăn Ốc sên” bằng sơn vàng. Chúng tôi đã tự tay làm nên tấm biển.
Sau khi nhẹ nhàng đặt lòng bàn tay lên trên tấm biển, tôi rút ra chiếc chìa khóa chỉ mình tôi có và chậm rãi mở cánh cửa của Quán ăn Ốc sên. Cách cửa hình chữ U ngược vẫn chưa quen thuộc với tôi kêu lên những âm thanh nghe thật trầm tư, tựa như nó mang ý chí của riêng mình. “Kịt kịt kịt”.
Vì là quán ăn đặt trước với chỉ một ca phục vụ mỗi ngày nên tôi không quảng cáo gì cả, nhưng Neocon gửi đến một vòng hoa chúc mừng to tướng, không biết có phải nghe mẹ kể không. Đó là loại vòng hoa sặc sỡ được bày tràn lan ở lối ra vào khi có tiệm Pachinko mới mở. Tôi cuống quýt di chuyển nó ra phía sau Snack Amour. Nếu có cái vòng hoa như thế này trước cửa thì bầu không khí mộc mạc, ấm cúng của Quán ăn Ốc sên mà tôi cố công tạo ra sẽ đi tong hết.
Suốt thời gian vừa rồi tôi luôn nghĩ xem mình sẽ đãi chú Kuma món cà
ri như thế nào.
Đến mức có đêm tôi không ngủ được vì nghĩ quá nhiều. Cho dù tôi có hỏi bao nhiêu lần rằng cụ thể chú muốn cà ri như thế nào thì chú cũng chỉ trả lời cụt lún mỗi chữ “Cà ri” mà thôi, vì thế nên tôi mãi không hình dung được mình phải làm gì.
Ban đầu tôi đã tính đến việc tái hiện lại món cà ri mà Sinhorita từng nấu.
Tuy nhiên, kí ức của chú Kuma lờ mờ không rõ ràng, và điểm quan trọng nhất, cho dù tôi có bắt chước đến đâu thì cũng không thể vượt qua món cà ri của Sinhorita mà chú Kuma đã ăn với cảm rúc ở thời điểm đó. Vì vậy, tôi quyết định sẽ nấu cà ri theo kiểu của tôi. Sau thời gian băn khoăn chán chê, tôi quyết định sẽ làm cà ri lựu. Xét theo mùa thì cũng vừa đẹp. Nếu vào sâu trong rừng tìm sẽ thấy vẫn còn những trái lựu treo lủng lẳng trên cành.
Một đồng nghiệp người lran từng làm việc với tôi ở nhà hàng Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ cho tôi công thức nấu cà ri lựu. Vì cho rất nhiều lựu vào trong món ăn nên nó sẽ có màu đá rubi đẹp mắt cùng vị ngọt ngọt chua chua thấm tận răng.
Lúc ấy, dù chưa nhìn tận mắt cũng chưa tới lran bao giờ, nhưng tôi có cảm giác mình có thể trông thấy cánh đồng hoang vu với sắc màu nâu đen trước mắt. Và tôi cũng quyết định rằng nếu một lúc nào đó tôi cùng người yêu mở một cửa hàng, nhất định tôi sẽ đưa món này vào thực đơn và giới thiệu với thật nhiều người Nhật. Đây thực sự là một món cà ri đáng nhớ vô cùng.
Hôm qua, tôi đã một mình vào rừng, trèo lên những cây lựu còn quả trên cành và hái số lượng đủ dùng. Tiêu chí dùng những thứ có sẵn ở địa
phương để nấu nướng đã được tôi đặt ra từ khi thai nghén ý tưởng về Quán ăn Ốc sên. Vẫn ngồi trên cây, tôi bỏ vài hạt lựu vào miệng, nó còn chua hơn tôi tưởng, độ hăng cũng rất mạnh, cảm giác như toàn bộ các tế bào trong cơ thể đều thức giấc. Dĩ nhiên mùi vị đó khác hoàn toàn với những trái lựu đã mất đi hương vị dân dã của mình, được gói trong bao bì và bày bán một cách điệu đàng ở các siêu thị thành phố.
Những trái lựu dại giờ đang lặng lẽ nằm chờ đến lượt mình trên bệ bếp. Khi tôi nhóm lửa bếp lò, một thứ xúc cảm linh thiêng trỗi dậy trong tôi. Tôi thắt chặt dây của chiếc tạp dề mới tinh, quấn khăn quanh đầu ngay ngắn, sột soạt rửa tay với xà phòng. Đầu tôi bây giờ gần giống như một nhà sư vậy.
Dù ngày đầu tiên về quê tôi đã ngồi trên cây sung cắt tóc, nhưng tôi cảm thấy như thế vẫn quá dài và vướng víu nên ngày hôm sau, tôi đi tới một tiệm cắt tóc ở khá xa làng rồi nhờ họ xén ngản bằng tông đơ. Bây giờ cứ theo chu kì ba ngày một lần tôi lại tự cạo tóc mình. Như vậy tránh được nói lo tóc rơi vào đồ ăn, và trong tôi bây giờ, mong muốn cho người khác thấy mình xinh đẹp đã không còn tồn tại.
Để tránh dị vật lẫn vào thức ăn, tôi còn nghĩ rằng hay cạo nốt cả lông mày, nhưng tôi đã kịp dừng lại ngay trước khi làm thế. Cho dù tôi không bận tâm đi nữa thì tôi vẫn nghĩ mình không nên dọa khách hàng sợ hết hồn.
Trên bệ bếp đã được cọ bóng loáng, ngoài lựu còn có các nguyên liệu khác như hành tây, thịt bò, tất cả đều đang ngóng đợi khoảnh khác được biến hoá thành món ăn.
Với bàn tay vừa được rửa sạch sẽ, tôi chạm vào tất cả những nguyên liệu ấy. Và rồi, giống như khi người ta bày tỏ tình thương với một sinh
linh bé bỏng mới chào đời, tôi nhấc từng thứ từng thứ một lên bằng hai tay, đưa chúng lại gần mặt mình, mắt vẫn nhắm và thầm nói chuyện với các nguyên liệu trong vài giây.
Mặc dù tôi chẳng học việc này từ ai cả, nhưng khi ý thức được thì tôi đã luôn thực hiện nghi thức này trước lúc nấu ăn. Ghé mặt, đưa mũi lại gần và lắng tai nghe “giọng nói” của chúng. Tôi sẽ hít hà ngửi mùi hương, kiểm tra trạng thái từng thứ mệt và hỏi “Chúng mày muốn được nấu kiểu gì nào?” Sau đó, các nguyên liệu sẽ tự mình nói cho tôi cách chế biến nào là phù hợp nhất.
Đương nhiên mọi thứ có thể chỉ là tưởng tượng của tôi, nhưng tôi nghĩ tôi thực sự nghe thấy giọng nói yếu ớt phát ra từ chúng.
Thể rồi, tôi quỳ gối và cầu nguyện vị thần ẩm thực trong lòng mình. Xin ngài phù hộ cho con nấu được món cà ri thuận buồm xuôi gió. Cầu cho con sẽ không làm thất vọng, làm tổn thương, làm lãng phí
những nguyên liệu này và hoàn thành việc biến chúng thành món cà ri hảo hạng.
Khi cảm nhận chắc chắn lời cầu nguyện đã đến tai vị thần ẩm thực, tôi chậm rãi mở mắt ra và đắm chìm vào thế giới của các món ăn. Vài giây sau khi tôi đưa dao với ý định thái hành tây, nước mắt tôi đột ngột dâng trào. Tôi bất giác cắn chặt hàm răng lại.
Bản thân tôi cũng không biết nước mắt đó là do tôi bị dính hành vào mắt hay do kí ức về người thương cũ trỗi dậy xâm chiếm trái tim mình. Những giọt lệ rất to cứ lã chã chảy xuống hai gò má, tựa như trứng của loài rùa biển trên bãi cát dài. Dẫu vậy, tôi không ngừng lại mà vẫn tiếp tục băm nhỏ hành.
Kết cục, hầu như tôi đã khóc trong suốt thời gian làm cà ri lựu. Từ trong chiếc hộp kí ức của tôi, những kỉ niệm với người cũ hóa thành nước mắt và trào ra từng giọt. Giờ nghĩ lại, tôi đã rời thành phố, trở về quê, ngay sau đó cuốn mình vào công việc chuẩn bị Quán ăn Ốc sên, trong khi đầu óc vẫn ngẩn ngơ như thế. Tôi đã luôn tránh né không nghĩ về chuyện ấy. Giờ đây, cảm giác giống như mọi thứ đều nhất loạt phun trào. Những kỉ niệm xưa cũ liên tiếp hiện lên trước mắt tôi, tựa như những chiếc khăn tay ni lông rực rỡ rẻ tiền mà nhà ảo thuật thường lôi ra biểu diễn. Chúng nhuộm quang cảnh quanh tôi thành màu “thương nhớ”. Do vậy, tôi không nhìn rõ lắm độ cháy của hành tây đang xào. Dù thế, sau vài chục phút, mùi hương chua ngọt của cà ri lựu đã lan ra tràn ngập gian bép nhỏ.
Xế chiều, đúng giờ hẹn, chú Kuma đến quán trên chiếc xe tải hạng nhẹ. Mọi khi tôi chỉ toàn nhìn thấy chú trong bộ quần áo lao động nên ban đầu tôi chột dạ, tưởng rằng có kẻ từ một thế giới đáng sợ nào đó tới để khám xét chăng. Lẽ nào tôi sẽ bị hạch sách về quyền kinh doanh, hoặc đó là người nào có thù hằn với mẹ. Khi bạn ở thành phố thì những tình huống đó hoàn toàn có thể xảy ra.
Khi tôi tính tới việc vào bếp lấy cái chày để phòng thân, tôi nhận ra đó là chú Kuma, bởi chú đã lên tiếng với âm điệu thường ngày. “Cháu vất vả rồi.”
Giây phút mở cánh cửa Quán ăn Ốc sên, tôi đột ngột thay đổi tâm trạng của mình, đón chào chú Kuma, khách hàng trong ngày của quán. Tôi sẽ thực sự trở thành một đầu bếp chuyên nghiệp, bắt đầu từ hôm nay.
Chú Kuma trông cực kì nghiêm chỉnh với bộ vét đen và chiếc dã vạt đỏ bắt mắt, mái tóc đã dần ngả màu được vuốt keo tạo kiểu. Nhưng chỉ riêng phần chân thì chú quả nhiên vẫn là chú Kuma mà tôi biết. Đôi ủng cao lúc nào cũng dính bùn và lá cây, giờ được đánh bóng lộn như bụng những con cá ngừ nằm lăn lóc ngoài chợ cá.
Chú Kuma cẩn trọng kiểm tra xem có chỗ nào kì quặc ở những miếng đất nung lát dưới sàn hay trên những vật dụng cố định như chiếc đèn chùm mà chính chú đã lắp đặt không. Vừa làm vậy chú vừa di chuyển đến chỗ ngồi.
Tôi mở tấm thẻ “Làm ơn chờ một chút” cất trong túi tạp dề cho chú Kuma xem rồi nhanh chân quay về bếp để chuẩn bị phục vụ món cà ri lựu. Trong lúc đó, chú Kuma vừa hút một điếu xì gà to tướng vừa đợi. Đúng ra ở đây cấm hút thuốc, nhưng chú Kuma là một khách hàng đặc biệt, nên chỉ riêng lần này tôi sẽ nhắm mắt làm ngơ. Tôi ngay lập tức đưa gạt tàn cho chú.
Sau khi kiểm tra kĩ lưỡng lượng gia vị nêm cho món cà ri lựu vừa mới hoàn thành, tôi rưới cà ri đầy ắp lên trên phần cơm nấu với bơ và khẩn trương bưng tới chỗ chú Kuma đang ngồi đợi. Tôi đã chuẩn bị món ăn kèm là nukazuke củ cải. Thực ra nếu có món kiệu tôi ngâm từ hè năm nay thì tốt hơn nhiều, nhưng tôi chẳng biết chúng đã trôi dạt về đâu.
Đặt chiếc muỗng bằng gỗ mới toanh sang bên cạnh, tôi cúi đầu xuống thật sâu rồi lặng lẽ quay trở về gian bếp, nhẹ nhàng đóng tấm rèm ngăn cách bếp với quán ăn.
Tiếp theo, tôi chỉ còn chờ chú Kuma ăn món cà ri lựu mình nấu. Trừ người yêu ra, tôi không bao giờ có thể nhìn khuôn mặt người đang
thưởng thức món ăn mình nấu từ phía chính diện. Đối với tôi, hành động ấy còn xấu hổ hơn cả việc bị nhìn vào những chỗ nhạy cảm. Thế nhưng, tôi vẫn rất tò mò về phản ứng của chú Kuma. Chú Kuma đã nhỏ giọng nói “Xin phép dùng bữa” và bắt đầu ăn món cà ri lựu tôi làm. Tôi mở một tí xíu mép rèm rồi dùng gương cầm tay nhìn trộm góc mặt nghiêng của chú Kuma từ khe hở đó.
Tôi điều chỉnh góc độ chiếc gương, thăm dò biểu cảm của chú Kuma. Mỗi khi ánh sáng phản xạ lên chiếc gương cầm tay, dường như có một con bướm trắng bay từ chỗ này sang chỗ kia trên mặt chú Kuma vậy.
Thế nhưng chú Kuma chẳng bận tâm đến điều đó mà vẫn tiếp tục ăn cà ri lựu. Hoàn toàn không có chút cảm xúc gì. Chú không nói ngon cũng chẳng bảo dở, tóm lại là không có bất kì phản ứng nào.
Sự căng thẳng của tôi đã đạt đến cực đại.
Có khi nào tôi đã để nước mắt rơi vào trong lúc không để ý và làm cho mùi vị trở nên kì quặc hay không.
Khi ở trong tình huống này, mọi suy nghĩ của đứa chết nhát là tôi sẽ dồn hết theo chiều hướng xấu. Cả sự tự tin về việc sau này mình sẽ thành đầu bếp chuyên nghiệp cũng sắp sửa biến mất tiêu.
A quả nhiên khoảng cách giữa một người chỉ đơn thuần thích nấu ăn với đầu bếp chuyên nghiệp xa xôi như trời và đất. Một khi đã bắt đầu nghĩ ngợi linh tinh, tôi thậm chí còn muốn lao ra tước đĩa cà ri đang ăn dở khỏi tay chú Kuma rồi đem đồ quách đi.
Tại sao tôi không thể nghĩ ra thực đơn hợp khẩu vị của chú Kuma hơn chứ?
Đáng ra tôi nên đãi chú những món cà ri bình dân chính thống tạo vị
bằng bột cà ri phổ biến ngoài thị trường, như cà ri kiểu Nhật, cà ri thịt heo chiên xù, hay cà ri hamburger. Hoặc cũng có thể nukazuke củ cải mới là món dở? Biết đâu vì thay đổi môi trường nên trạng thái của tương gạo bị ảnh hưởng, phá vỡ sự cân bằng trong mùi vị mất rồi. Phải làm gì đây? Món ăn kia rốt cục chỉ để tôi tự thỏa mãn bản thân mình mà thôi.
Đúng thời điểm ấy, khi tôi đang mắc kẹt trong những suy nghĩ rối rắm, tưởng như sắp òa khóc tới nơi, chú Kuma bỗng thì thẩm. “Ringo à, lần đầu tiên chú ăn món cà ri như thế này đấy.” Cho dù biết hay không biết tôi đang náu mình sau tấm rèm, chú Kuma vẫn hướng mặt về phía bếp và nói.
Lúc đó, mắt tôi đã ầng ậc nước rồi. Ban nãy tôi còn thấy yếu lòng và muốn oà lên khóc, nhưng giờ đó lại là những giọt nước mắt mừng vui. “Ước gì cả Sinhorita và con gái chú cũng được ăn món này.” Chú Kuma thủ thi với vẻ mặt chân thành.
Tôi nhìn kĩ lại và nhận ra hình ảnh chú Kuma ngồi trước đĩa cà ri lựu với gương mặt hạnh phúc phản chiếu qua chiếc gương cầm tay. Món cà ri lựu của tôi đã thành công và khiến chú mỉm cười. Tôi hoàn toàn an tâm và bắt tay chuẩn bị món cà phê Americano phục vụ cuối cùng. Có một tuyệt kĩ mà tôi tương đối tự hào về bản thân. Chỉ cần nhìn mặt một người, tôi sẽ biết được người đó thích hồng trà hay cà phê, và loại cà phê nào. Có thể do trong vài năm đầu ra thành phố, tôi đã phục vụ ở quầy thu ngân của một chuỗi cửa hàng kinh doanh cà phê rất quy mô. Trong lúc nhìn thoáng qua mặt khách hàng và nghe họ gọi món, bằng cách nào đó tôi bắt đầu đoán được họ sẽ yêu cầu thứ gì. Dự đoán của tôi thường trúng, tỉ lệ đại khái khoảng 95%.
Chú Kuma đã uống cạn tách cà phê Americano không để lại một giọt. Chú còn nói đi nói lại câu cảm ơn không biết bao nhiêu lần, thậm chí nằng nặc nhét cây nấm tùng nhung đáp lễ vào túi tạp dềcủa tôi, mặc cho tôi một mực từ chối. Khi trên con đường núi vẫn đọng lại dư ảnh của nắng chiều chạng vạng, chú thong thả quay về.
Đó là cây nấm tùng nhung đẹp tuyệt còn chưa mở mũ mà buổi sáng chú Kuma lặn lội lên núi tìm. Mùi hương của cây nấm tùng nhung cao quý tỏa ra từ trong túi của tôi. Dù sao cũng là dịp đáng chúc mừng, tranh thủ ăn sớm lúc nào hay lúc đó, tôi quyết định ăn cơm với nấm tùng nhung và món hầm ấm đất ngay tối hôm ấy.
Khi ở trong bếp, vì hơi nóng tỏa ra làm mờ cửa sổ nên tôi không nhận ra cơn mưa hồi sáng đã tạnh, bầu trời hoàng hôn tuyệt đẹp đang mở rộng bên ngoài. Cảm tưởng như địa cầu bị chìm sâu bên trong một chai mật ong cực đại.
Trên ty tôi chỉ còn lại chiếc địa đựng cà ri lựu giờ đã trống không. Hơn mười giờ rưỡi sáng ngày hôm sau, kì tích đã xảy ra. Người vợ ngày trước dẫn theo con gái bỏ ra thành phố, Sinhorita, đã quay về nhà chú Kuma.
Chú Kuma cực kì phấn khích và chạy đến chỗ tôi. Hình như chú vội vàng lắm, đến nỗi chân trái và chân phải của chú xỏ hai chiếc ủng cao cổ khác loại nhau.
Tôi được nghe chú kẻ lại tường tận, té ra Sinhorita chỉ về để lấy món đồ quan trọng cô đã bỏ quên. Chẳng ngồi lại uống một chén trà, cô cứ thế ra đi ngay lập tức. Nhưng chú vẫn kể về cuộc hội ngộ chóng vánh ấy với vẻ chân thành và ngập tràn hạnh phúc.
“Nhưng nếu không có gì lưu luyến thì cô ấy đã chẳng về.” Tôi nghĩ rằng không ai có quyền phá hỏng giấc mơ của người khác, nên tôi chỉ ngoan ngoãn gật gù lắng nghe câu chuyện của chú Kuma. Thế rồi, chú Kuma bèn tự tiện kết luận việc này xảy ra là do chú đã ăn cà ri lựu. Thực lòng tôi nghĩ làm gì có chuyện đó, chỉ là trùng hợp thôi, nhưng chú Kuma quả quyết nhấn mạnh rằng món cà ri lựu chú đã ăn hôm qua nhất định có vị nào đó rất đặc biệt, thậm chí chú còn trào nước mắt và bày tỏ sự biết ơn với tôi hết lần này đến lần khác.
Chú bắt tay tôi rất mạnh cả chục lần, tới mức tôi tưởng xương ngón tay của mình sắp nứt, rồi chú về nhà trong cơn hưng phấn vẫn chẳng hề suy giảm.
Dù gì đi nữa, được thấy chú Kuma vui sướng hơn cả những gì tôi dự tính, đối với tôi mà nói, đó quả là một niềm vinh dự.
Vài ngày sau, chú Kuma có vẻ nảy ra một ý tưởng gì đó và xuất hiện ở Quán ăn Ốc sên, lần này chú dẫn theo bà Lê sống cạnh nhà. Dù gọi là Lê nhưng đương nhiên, bà không phải vợ lẽ của chú Kuma.
Đó là một người đàn bà nổi tiếng, không ai trong ngôi làng bình lặng nằm giữa núi rừng này không biết đến bà. Tôi cũng biết bà từ hồi còn nhỏ. Nhưng tôi sợ bà và chưa mở miệng nói chuyện lần nào. Bởi lẽ, bà luôn luôn mặc tang phục đen tuyền, bất kể mùa đông hay mùa hạ.
Bà Lê là vợ lẽ của một người có thế lực ở địa phương. Nhưng người đàn ông của bà đã chết khá lâu rồi. Trong những câu chuyện tôi nghe được, hình như ông ta đã trút hơi thở cuối cùng ở nhà bà. Vợ chính thức của ông lập tức tới đưa thi thể về, bỏ bà Lê lại một mình trong căn nhà. Người ta bảo bà đã cười như điên như dại suốt ba ngày ba đêm.
Đó là nội dung bà mẹ ưa đồn thổi thị phi của tôi buôn với khách quen ở Saack Amour trong lúc nốc rượu nên tôi chẳng biết thực hư thế nào, nhưng nghe nói giọng cười đó đã vang đi khắp cái làng này.
Lí do vì sao không phải là tiếng khóc mà lại là tiếng cười, tôi chỉ có thể mường tượng, có lẽ bà đã khóc như thể đang cười.
Từ đó trở đi, tính cách bà Lê thay đổi hoàn toàn, biến thành một bà già trầm lặng luôn mặc đồ tang. Điều đó có nghĩa là, bà Lê đã luôn chịu tang, kể từ sau cái chết của người đàn ông nọ.
Trước giờ, chú Kuma sống ở nhà bên vẫn luôn quan tâm đến bà Lê. Bà vốn dĩ có tính cách tươi vui, vì bản thân không thể sinh con nên đã thương yêu chú Kuma lúc nhỏ như con trai của mình. Vì vậy, chú Kuma đã trao đổi với tôi, xem có thể làm gì để trả ơn bà ấy. Tôi nhận được chiếc đèn chùm đang dùng ở Quán ăn Ốc sên từ bà Lê nên tôi cũng muốn làm gì đó thay lời cảm ơn.
Đến ngày, quả nhiên bà Lê xuất hiện ở Quán ăn Ốc sên vẫn trong bộ tang phục đen từ đầu đến chân. Hình như bà đi lại hơi khó khăn nên phải chống gậy. Mặt bà hơi cúi xuống nên tôi chẳng thể đọc được cảm xúc của bà. Ấn tượng của tôi về bà từ khi còn nhỏ vẫn chẳng thay đổi, dù hơi thất lễ nhưng nhìn kiếu gì tôi cũng thấy bà giống một... hồn ma. Tuy không đến mức “cực kì” nhưng vẫn “tương đối” khó tin chuyện bà cụ kiệm lời này đã từng có thời tươi vui rạng rỡ như chú Kuma kể.
Vài ngày trước, bà Lê đã theo chú Kuma đến Quán ăn Ốc sên một lần. Mục đích là để tham gia buổi phỏng vấn của tôi. Đại khái là tôi đã thử chuyện trò với bà bằng cách ghi ra giấy, nhưng bà Lê quyết tâm im lặng, chẳng khác gì tấm gương phản chiếu của chính tôi, nên cuối cùng tôi
chẳng dò la được chút nào về món bà muốn ăn cả. Nếu bà Lê đã không cho tôi ý tưởng nào thì tôi chỉ có cách tự quyết định thực đơn dựa theo phán đoán chủ quan của mình.
Ban đầu, tôi nghĩ tới một thực đơn dịu dàng cho trái tim và cơ thể, với những nguyên liệu được trù phú cho mảnh đất này.
Như kinpira* nấm hương, đậu phụ vừng, súp rau củ, hoặc chawanmushi*, đó là những công thức nấu ăn tôi được bà truyền lại. Nhưng nghi kĩ lại, tôi vẫn thấy không phù hợp nên đà vứt bỏ hoàn toàn ý tưởng đó.
Thứ tôi nghĩ ra sau bao trăn trở là một thực đơn có hương vị thật đặc biệt và có cao trào, như những nút thắt dần dần được nới lỏng ra, từ ngọt sắc đến cay xé lưỡi, thể hiện đầy đủ các cung bậc hỉ nộ ai lạc thông qua món ăn. Đó chắc chắn sẽ là bữa ăn mà bà Lê chưa từng được thưởng thức.
Tôi sẽ cố gắng nấu những món ăn đóng vai trò như tiếng chuông báo thức. Chúng sẽ đánh thức và khiến những tế bào đang ở trạng thái đóng băng trong cơ thể bà Lê hoạt động trở lại.
Thực đơn tôi nghĩ ra dành riêng cho bà Lê như sau:
- Cocktail dùng rượu dương đào
- Nukazuke táo
- Carpaccio với hàu và cá diêu hồng
- Canh gà Hinai hầm sâm với shochu
- Risotto cá đối khô dùng gạo mới
- Cừu non quay và nấm tự nhiên xào tỏi
- Sorbet trái yuzu
- Tiramisu mascarpone cùng kem vani
- Cà phê espresso pha đặc
Có lẽ thực đơn này nghe có vẻ không hợp lắm với một người đã đứng tuổi như bà Lê. Số lượng đã nhiều thị chớ, lại còn dùng rõ lắm thực phẩm làm từ bơ sữa.
Nhưng cho dù đây là một ý tưởng đầy kiêu ngạo thì tôi vẫn nhất quyết muốn dùng những món ăn này để kể cho bà Lê về một cuộc sống tươi đẹp, trù phú, trải rộng vô tận đang chờ đợi ngoài kia. Tôi cầu cho tâm hồn đã đóng khép của bà sẽ rộng mở một lần nữa để cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc đời. Tôi đã dồn tâm nguyện ấy vào ý tưởng xây dựng thực đơn này.
Hơn nữa, tôi còn ngoan cố đến mức nghĩ rằng, giả sử tất cả đồ ăn đều bị bỏ thừa thì tự mình cũng có thể xử lí. Xác định tính thần xong, tôi mất vài ngày để chuẩn bị mọi thứ. Về hàu tươi và cá diêu hồng dùng cho món khai vị, tôi nhờ chú Kuma chở tôi trên chiếc xe tải hạng nhẹ đến cảng đánh bắt cá từ tờ mờ sáng, kiểm tra bằng chính mắt mình để chọn bằng được những nguyên liệu tốt nhất.
Gà Hinai sau chế biến hoàn toàn biến đổi hình dạng, đang lắc lư cùng làn nước súp trong nồi. Tôi đã dùng sữa, kem tươi, pho mát, tất cả đều từ một con bò duy nhất để làm bánh Tiramisu. Sản phẩm đã hoàn thành và đang nằm yên trong tủ lạnh.
Bà Lê chậm rãi đi tới chỗ ngồi. Tôi đưa cho bà tấm khăn phủ và giơ ra dòng chữ nhắn.
“Tôi xin phép đi chuẩn bị, cảm phiền quý khách đợi một lát.” Sau đó, tôi rót cocktail tự chế pha lẫn rượu Dương đào với rượu trắng vào chiếc ly sâm panh Baccarat tuyệt đẹp và bưng ra phục vụ, coi đó là món rượu khai vị trước bữa ăn. Rượu Dương đào này do chú Kuma cho tôi, là rượu làm từ những quả đã bị sâu ăn rụng xuống trong khu rừng gần đây, tuổi thọ được bảy năm rồi. Những trái có sâu ăn luôn là trái ngọt nhất.
Tôi đã pha cùng vang trắng để tạo ra một chút mùi vị bí mật ẩn giấu trong hương vị rượu ban đầu. Loại vang này được sản xuất ở nhà máy rượu vang gần đây, có mùi hương trái cây dễ chịu và tương thích tốt với loại có đặc tính mạnh như rượu Dương đào. Khi trộn hai thứ đó vào nhau sẽ thu được màu hổ phách sậm như bột vàng nung chảy.
Quay đầu nhìn lại, ánh sáng từ bộ đèn chùm bà Lê cho tôi phản chiếu lên ly rượu sâm panh, trông từa tựa như thấu kính vạn hoa. Chú Kuma sau khi đưa bà Lê tới thì đứng đợi ở phía bên kia cửa sổ, khẽ giơ một tay lên và nháy mắt với tôi. Thấy tôi gật đầu, chú leo lên chiếc xe tải hạng nhẹ của mình và trở về nhà.
Liền sau đó, tôi bày nukazuke táo đã chuẩn bị sẵn trước mặt bà Lê. Tôi đã bổ táo làm đôi, để nguyên vỏ, rắc muối lên cả quả và vùi trong tương gạo khoảng hai ngày. Lấy nukazuke ra khỏi tương, để ngoài không khí một khoảng thời gian ngắn sẽ giúp mùi vị dịu đi, giống như vang đỏ. Vị mặn của muối kết hợp với vị ngọt của táo, tạo nên một món khai vị khá là độc đáo.
Tôi vừa thành kính nguyện cầu trong lòng “Bà hãy ăn đi nhé”, vừa cúi đầu thật thấp như diễn viên múa ba lê làm động tác chào trên sân khấu rồi nhanh chân lùi về gian bếp của mình. Sau đó, tôi nhóm lửa chiếc nồi đựng canh gà hầm sâm, chậm rãi và kiên nhẫn, hâm nóng đến từng thớ thịt gà. Mở nắp nồi hầm ra, tôi thấy mùi thơm hấp dẫn của thịt gà chín nhừ trong làn nước súp màu hổ phách. Thông thường, khi con gà đang loanh quanh chạy trốn, người ta sẽ dùng sức để bắt nó, bẻ cổ, đè chân xuống rồi vặt lông cổ thật nhanh, cuối cùng dùng dao cứa đứt động mạch cổ. Máu đỏ sẽ liên tiếp túa ra từ cổ con gà. Dù vậy, lúc đó nó vẫn sống, chân và cánh quẫy đạp không thôi.
Thực ra tôi đã muốn nhìn đi chỗ khác rất nhiều lần. Nhìn thấy máu là tôi sợ tới độ thấy đầu óc quay cuồng choáng váng. Nhưng tôi mạnh mẽ tự nhủ mình bắt buộc phải nhìn cảnh này và cố gắng hết mức không chớp mắt.
Được một lúc, cuối cùng con gà cũng nằm yên, tắt thở một cách vô cùng đơn giản trong khi vẫn bị ông chủ trại gà giữ chặt.
Một con gà đang sống khoẻ mạnh đã trở thành vật hi sinh để làm ra món ăn này.
Tôi nghĩ nghĩa vụ của mình là phải làm hết khả năng có thể, vì bà Lê, và cũng vì con gà Hinai đã giao mạng sống của nó cho tôi. Tôi thêm một chút muối, điều chỉnh mùi vị cho phù hợp. Hôm nay tôi dùng muối Hawaii.
Đó là loại muối mỏ thiên nhiên được tìm thấy ở gần Diamond Head trên đảo Oahu, trộn lẫn với dược thảo như gừng. Đặc trưng của nó là hạt thô, vị đậm rõ rệt. Đợt trước chú Kuma có kể rằng, chú thoáng nhìn thấy một bức ảnh chụp bà Lê cùng người đàn ông của mình đi tới biệt thự ở Hawaii chơi. Vì thế mà tôi quyết định thử dùng loại muối này.
Muối quá đậm cũng là một vấn đề, nhưng nếu quá nhạt thì món ăn sẽ thật vô vị. Tôi cẩn trọng căn chỉnh lượng muối và dừng lại khi mùi vị đạt trạng thái mà tôi cho là tốt nhất.
Tôi rón rén thăm dò tình hình bà Lê qua khe rèm.
Tôi cũng đoán được phần nào, quả nhiên bà vẫn chưa động vào rượu lẫn món khai vị đầu tiên. Nhìn thấy vậy, tôi nghĩ rằng mình nên chờ thêm một tẹo rồi mới bưng canh gà nhân sâm ra, đóng rèm lại và nhẹ nhàng lui về trong bếp.
Bên ngoài cửa sổ, trời đã tối tự lúc nào.
Ở lối vào con đường của thú rừng dẫn tới cây sung kỉ niệm, một con chim sở hữu chất giọng kì lạ đang hót với thanh âm cao vút như muốn khích lệ tôi. Giây phút tôi khẽ mở cửa sổ ra, tôi kịp nhìn thấy một chú chim màu xanh cô ban đang điệu đàng sải cánh tung bay. Có phải là chim bói cá không nhỉ?
Bên cạnh vắng trăng ngày ba mươi rất đẹp, chỉ có mình Sao Kim to lớn đang sáng lên lấp lánh. Trông thật giống quốc kì Thổ Nhĩ Kỳ. Những ngày còn làm việc ở quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ sống lại trong tôi.
Tôi đã nhìn lên bầu trời đêm bao lâu rồi nhỉ? Một lát sau, nghe tiếng bát đũa va vào nhau lạch cạch, tôi nhòm ra ngoài quán qua tấm rèm đúng lúc bà Lê đang cầm dao và đĩa trên tay, từ từ đưa nukazuke táo lên miệng. Nhìn kĩ thì thấy rượu khai vị chỉ giảm đi có tí xíu mà thôi.
Tôi lập tức chuẩn bị đĩa Carpaccio hàu và cá diêu hồng.
Tôi đeo găng tay, dùng dao chuyên dụng để tách vỏ hàu, thân hàu béo múp trắng ngần. Tôi không chế biến gì, đặt con hàu sống nguyên lên trên đĩa. Tôi cũng cho Carpaccio cá diêu hồng vào chung luôn. Tôi đã ướp cá diêu hồng với tảo bẹ kombu* trong khoảng nửa ngày, rồi thêm muối và dầu ô liu.
Sau khi phục vụ xong món này, cuối cùng cũng đến lúc chuẩn bị bày biện cho món canh gà hầm sâm kế tiếp. Tôi đặt con gà đã được làm ấm lên trên thớt rồi mổ phanh ra, khói bốc lên từ ngưu bàng và gạo nếp được nhồi bên trong, mang theo mùi hương béo ngậy của súp gà thượng hạng. Chỉ ngửi mùi thôi tôi đã thấy người ấm hẳn lên rồi.
Khi tôi múc canh gà hầm sâm nóng hổi ra bát và bưng tới chỗ bà Lê, bà đã uống gần hết rượu và ăn xong cả nukazuke táo lẫn hàu tươi. Tôi dịch
chiếc đĩa còn Carpaccio cá diêu hồng sang một bên, nhẹ nhàng đặt chiếc tô có nắp đựng canh gà nhân sâm xuống. Là một người phục vụ, tôi tâm niệm rằng miễn khách hàng chưa yêu cầu thì sẽ không dọn đĩa thức ăn đi dù phần thức ăn còn lại ít thế nào đi nữa. Tôi cúi chào một lần nữa và lại náu mình trong gian bếp.
Dù mất nhiều thời gian nhưng bà Lê vẫn ăn hết sạch món risotto cá đối muối dùng gạo mới. Trong lúc đó, tôi cũng hoàn thành món cừu non quay, là món chính của hôm nay.
Lần này, tôi dùng thịt lưng, phủ vụn bánh mì lên trên miếng thịt quết đầy mù tạt rồi quay chín bằng dầu hạnh nhân. Trong vụn bánh mì có trộn lẫn tỏi và cải lông băm nhuyễn.
Điểm tan mỡ của thịt cừu khá thấp, nên dư vị để lại sẽ rất dịu, dù có cho bao nhiêu thịt vào miệng nhai thì chỉ vài giây sau khi nuốt, chúng sẽ tan biến như bị một cơn gió cuốn đi. Kể cả khi bụng đang khó chịu thì thịt cừu vẫn mang đến một cảm giác êm nhẹ.
Về món nấm ăn kèm, vài giờ trước chú Kuma đã chỉ cho tôi chỗ hái trong khu rừng bí mật. Nơi mọc rau rừng và nấm là bí mật quý giá của chú, ngay cả với người nhà chú cũng không tiết lộ. Tôi rất vui vì chú Kuma đã mở lòng với mình. Tôi cho thật nhiều tôi xào chung với chỗ nấm vừa mới hái.
Vừa chiên thịt cừu non trên chảo rán tôi vừa nhìn về phía bàn ăn và nhận ra ly rượu đã cạn hoàn toàn. Tôi liên mở chai vang đỏ và rót một ít vào chiếc ly đặt trên bàn của bà Lê. Đây cũng là rượu tự nhiên chế biến bằng nho trồng ở địa phương, chung nơi sản xuất với vang trắng lúc trước. Nếm sẽ thấy loại này có vị đậm đà, mùi cũng thơm nức mũi, dùng khi ăn cừu non quay rất hợp.
Biết đâu bà Lê cũng sẽ uống vang đỏ thì sao.
Chút hi vọng, cũng có thể nói là tham vọng nhỏ bé ấy len lỏi trong tôi. Và rồi, đúng như tôi kì vọng, từng chút rượu vang đỏ cũng dần dần được đưa vào cơ thể của bà Lê.
Tôi thắc mắc không biết cái dạ dày dung nạp được lượng thức ăn lớn như vậy nằm ở đâu trong cơ thể gầy gò ấy. Một thực đơn đầy đủ tới mức anh người yêu Ấn Độ háu ăn của tôi có lẽ cũng phải bỏ thừa, ấy thế mà bà Lê vẫn tiếp tục ân bằng cái miệng nhỏ nhắn của mình, chậm rãi mà chắc chắn.
Kết cục, bà Lê sau khi uống cạn một ly vang đỏ, bước sang giai đoạn ăn sorbet yuzu tráng miệng chỉ vài phút trước thời điểm Ông Cú báo hiệu mười hai giờ đêm.
Tôi không biết suốt khoảng thời gian ấy, bà Lê đã nghĩ gì lúc thưởng thức những món ăn tôi dày công chuẩn bị. Dù đã uống khá nhiều rượu, sắc mặt bà hoàn toàn không thay đổi, chẳng hề có dấu hiệu bị say. Bà vẫn cứ làm một bà già trầm lặng đến cuối cùng.
Tôi mang nguyên liệu làm Tiramisu cùng với món kem ăn kèm ra bên ngoài Quán ăn Ốc sên. Tôi để một ly grappa* dùng uống sau bữa ăn trong tầm tay của bà Lê. Kế hoạch của tôi là sử dụng không khí lạnh ngoài trời để đánh kem trong thời gian đó.
Vừa bước một bước ra bên ngoài Quán ăn Ốc sên, tôi tưởng như trong thoáng chốc mình đã bị đóng băng. Luồng không khí giá lạnh bủa vây khắp chốn.
Tôi khẩn trương cho cái tô inox đựng nguyên liệu vào trong nước đá rồi ra sức đánh kem bằng phới lồng. Đủ các vì sao lớn nhỏ khác nhau đang nhấp nháy lung linh trong yên lặng khắp vòm trời rộng lớn.
Tôi thật hạnh phúc.
Tôi hạnh phúc, hạnh phúc quá nhiều, tới mức ngực nghẹn lại, khó thở, tưởng như chết tới nơi. Bản thân tôi chưa bao giờ tưởng tượng hình ảnh mình đứng dưới bầu trời bao la làm kem cho ai đó như thế này. Đã vậy, chẳng thể ngờ mơ ước bao lâu lại trở thành hiện thực nhanh như thế.
Tiếng lạch xạch của phới lồng âm vang trong bóng tối như tiếng nhạc. Giữa chừng tôi cho thêm rượu rum, mùi thơm toả ra Cay cay sống mũi. Hơi thở của tôi phả ra tan dần từng chút trong màn đêm giá lạnh. Bất chợt nhìn vào trong quán, tôi thấy bóng dáng bà Lê cầm nghiêng chiếc ly ngắn đựng grappa phản chiếu rõ rệt trên tấm rèm giống như tranh bóng. Chiếc ly đó là hàng của Edo Kiriko* thời Taisho mà bà ngoại tặng mẹ. Trong lòng bàn tay giả cả nhăn nheo của bà Lê, nó đang sáng lấp lánh như một món trang sức đắt tiền.
Tôi căn thời gian, trang trí Tiramisu và kem vani cho thật bắt mắt rồi bưng chúng ra cùng với cà phê espresso pha đặc. Hạt cà phê nhất quyết phải là sản phẩm của Okinawa. Tôi phục vụ kèm cả đường nâu được làm ở một hòn đảo xa cũng thuộc Okinawa nữa. Trước những món ăn đó, bà Lê đan hai bàn tay vào nhau và nhắm mắt, biểu cảm như một bà sơ đang khẩn thiết cầu nguyện với Chúa trời.
Giống như lần nấu cho chú Kuma, tôi nhìn bộ dạng đó của bà qua chiếc gương cầm tay từ khe hở của rèm. Do tay tôi run rẩy nên hình ảnh phản chiếu trong gương cũng rung rung.
Bà Lê đã sống trên đời bảy mươi năm có lẻ. Cảm giác cứ như tôi đang xem một bộ phim đen trắng của nước ngoài. Sao bà có thể thương nhớ hoài người đã khuất, không nở nụ cười hàng chục năm và một lòng chịu tang cơ chứ. Chỉ tưởng tượng cuộc sống đó diễn ra như thế nào đã đủ
khiến tôi cảm thấy tâm trí mình trở nên bất ổn. Không biết cảm giác tuyệt vọng khi không bao giờ có thể gặp lại người mà mình dành nhiều tình cảm đến vậy như chìm trong thứ bóng tối sâu thẳm đến nhường nào.
Sau khi nhấp một ngụm cà phê espresso, bà Lê dùng chiếc thìa bạc đã qua nhiều lần sử dụng đến mức ngả màu nâu để xúc kem vani mới làm xong và đưa lên miệng.
Bà Lê trong gương ngồi yên không nhúc nhích, mắt vẫn nhắm nghiền. Kem lạnh quá nên bà bị buốt răng chăng? Tôi vừa mới lo ngại điều đó thì bà đã lại mở mắt ra rồi nhìn lên bộ đèn chùm đang rủ xuống từ trần nhà với ánh mắt xa xăm.
Có lẽ những tia sáng nhỏ bé trú ngụ trong chiếc đèn này đã luôn nhẹ nhàng soi sáng cuộc sống tình yêu thầm kín của bà với người đàn ông đó. Bà lại nhấp tiếp một ngụm espresso, và lần này bà lấy thìa múc một miếng Tiramisu cho vào miệng. Sau đó bà nhắm mắt, rồi lại ngước nhìn lên bộ đèn chùm.
Cuối cùng, bà Lê đã ăn hết sạch sành sanh những món ăn tôi chuẩn bị. Sau khi uống cạn tách cà phê espresso cuối cùng, bà Lê quay mặt về phía chiếc gương cầm tay của tôi, thì thầm nói. Một giọng nói rất đổi dịu dàng, tựa như ánh nắng của mùa xuân.
“Cảm ơn đã thết đãi. Bữa ăn ngon lắm. Tôi rất biết ơn.”
Thế rồi, bà cúi đầu thật thấp.
Đây là lần đầu tôi được nghe giọng nói của bà Lê, nó thật êm ái và thanh thoát, tựa như mọi thứ xù xì, gồ ghề đều đã được mài nhẵn bằng giấy nhám. Giọng nói của bà hớp hồn tôi. Dù chỉ trong một khoảnh khác ngắn ngủi, tôi cảm thấy như mình có thể chạm vào hình ảnh của bà Lê trong những ngày còn trẻ trung được bao bọc bởi sắc cầu vồng.
Sau khi đứng dậy, bà Lê bảo rằng muốn nằm nghỉ một lát. Như thể đã luôn chờ đợi câu nói này, tôi dọn chiếc giường sô pha làm từ thùng gỗ đựng rượu vang và dẫn bà qua đó.
Chắc hẳn đây là tác dụng của canh gà hầm sâm.
Đầu ngón tay bà Lê chạm nhẹ vào tôi trở nên ấm nóng. Điều đó nghĩa là máu đang lưu thông tốt, có thể ngủ một giấc thật sâu.
Bà Lê đã ngủ một mạch ở Quán ăn Ốc sên cho đến sáng hôm sau.
Vài ngày sau, tiếp nối chú Kuma, kì tích cũng xảy ra với bà Lê. Bà Lê vốn gắn mình với bộ đồ tang giờ đây đã mặc một trang phục khác khi ra ngoài, lại còn có thể đi bộ mà không cần chống gậy. Đó là lúc tôi đang mua đồ dùng hàng ngày ở siêu thị Yorozuya. Không biết làm thế nào mà tôi cảm thấy có hình bóng ai rắt rực rỡ ở sau lưng nên quay đầu lại. Một người phụ nữ mặc chiếc áo khoác đỏ rực đang bước đi. Chưa kể trên đầu bà còn đội một chiếc mũ lộng lẫy gắn lông bồng bềnh mà người Nga thường bay đội.
Lúc đầu tôi không phận ra bà Lê. Tôi nghĩ đó là một bà cụ ngoại quốc lắm tiền nào đó đến ngôi làng này do hiếu kì. Nhưng khi nhìn kĩ lại thì không thể nhẩm được, chính là bà Lê mà vài ngày trước đã dùng bữa ở Quán ăn Ốc sên. Trên làn môi mỏng còn phết son màu hồng đào phơn phớt.
Chuyện này đối với ngôi làng bình lặng trong hẻm núi quả là một tin chấn động, truyền từ miệng người này tới người kia và lan rộng ra chỉ trong nháy mắt.
Hôm sau, theo lời chú Kuma kể lại thì đêm đó, khi bữa ăn ở Quán ăn
Ốc sên kết thúc và bà Lê ngủ lại trên chiếc giường đơn sơ ghép từ thùng gỗ đựng rượu vang, bà có một giấc mơ. Hình như người đàn ông đã mất của bà đã hiện lên rõ mồn một trong giấc mơ ấy.
Bà đã sống và đêm nào cũng chỉ nguyện ước một điều, ấy là được gặp ông trong giấc ngủ. Thế nhưng, từ bấy đến giờ, mong ước đó chưa một lần thành sự thực. Nhưng đêm hôm đó, cuối cùng bà đã được tái ngộ với người mình rất đỗi yêu thương.
Người dàn ông xuất hiện trong giấc mơ của bà, như thể có thần giao cách cảm, nói với bà rằng hai người sẽ sớm được gặp nhau trên thiên đàng, vì vậy ông ấy muốn bà hãy vui vẻ tận hưởng quãng đời còn lại.
Chú Kuma thông báo với tôi rằng bà Lê đang vô cùng hạnh phúc. Và chú lại một lần nữa nhanh nhảu kết luận rằng tất cả chuyện này là do bà ăn món ăn tôi nấu ở Quán ăn Ốc sên.
Cứ như thế, lời đồn nghe như thật rằng hễ ăn một bữa ở Quán ăn Ốc sên thì tình yêu và ước nguyện sẽ trở thành sự thực, lan ra từng chút từng chút một, truyền đến tai những người sống trong làng và thị trấn kế bên.
“Chị có thể giúp em với Satoru có tình cảm đến từ hai phía được không?”
Vừa nghe lời đồn về bà Lê xong, Momo lập tức gửi thư cho tôi thông qua chú Kuma. Những đứa trẻ khác hay liên lạc bằng tin nhắn hoặc gọi điện thoại di động nên lá thư của cô bé gây cho tôi ấn tượng mạnh nhất.
Vào một ngày cuối thu đầu đông dễ chịu, Momo đến Quán ăn Ốc sên bằng xe đạp, kéo theo cậu bé Satoru. Momo là người làng này lên học cấp
ba trên thị trấn, trên gương mặt cô gái nhỏ vẫn còn đọng lại những nét hồn nhiên.
Vài ngày trước, Momo một mình tới gặp tôi, em rạng rỡ, thẳng thắn, kể cho tôi nghe đủ thứ về gia đình và bạn bè ở trường. Thế nhưng, Momo ở trước mặt Satoru lại e thẹn ngoan ngoãn, y hệt một chú mèo con. Chẳng rõ có phải vì căng thẳng hay không mà kể cả khi tôi dẫn hai đứa đến bàn ăn, cả hai đều không nói với nhau một lời nào cả. Nhìn cảnh ấy khiến tôi muốn mỉm cười.
Để hai đứa nhỏ đang bồn chồn không yên ở lại đó, tôi quay về gian bếp của mình để chuẩn bị món súp sẽ đãi chúng hôm nay. Ánh sáng xuyên vào từ cửa sổ lặng lẽ đung đưa trên mặt bàn, đến cả những hạt bụi bay trong không khí cũng lấp la lấp lánh. Không biết vì sao mà tôi có tâm trạng như thể mình đang ngắm nhìn một bức hoạ vô cùng xinh đẹp.
Đề giúp cho tình yêu của Momo đơm hoa kết trái, tôi vận dụng hết vốn kinh nghiệm tình ái ít ỏi của mình, suốt từ mấy ngày trước đã luôn nghiêm túc suy nghĩ xem nên làm món gì cho cô bé. Ban đầu tôi nghĩ đồ ngọt cũng hay và thử làm bánh táo, baumkuchen* hay bánh kếp. Nhưng trong lúc tự ăn món tráng miệng mình làm thử và tưởng tượng người yêu đang ở trước mặt, tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực nên chẳng ăn nổi nữa.
Quả thật hồi đó, giai đoạn mới bắt đầu yêu, khi còn đang ngụp lặn trong những cảm giác có khi cô đơn lúc cay đắng, những tình cảm yêu thương đành cho bạn trai cũng đủ làm tôi no bụng. Hơn nữa, tôi rút ra kết luận, trong lần đầu tiên dùng bữa trước mặt người mình cảm mến, ta nên tránh những món phải xài dao và dĩa thành thạo nhiều.
Vì vậy để cho thức ăn vẫn sẽ trôi tuột vào đạ dày bất chấp cơ thể có cứng đờ ra vì căng thẳng hay lồng ngực có cồn cảo trong dư vị chua chát
ngọt ngào, tôi chọn món súp. Về nguyên liệu sẽ đưa vào nấu, tôi không nghĩ trước nhiều mà tự nhủ sẽ quyết định dựa theo cảm hứng của mình sau khi nhìn thấy hai nhân vật chính trong thực tế.
Tôi lần lượt chọn các loại rau có trong bếp, thái nhỏ rồi xào với bơ theo trình tự bắt đầu từ những loại lâu chín. Lí do tôi chọn bí đỏ là vì chiếc khăn quàng của Satoru có màu vàng mù tạt tươi tắn rất đẹp. Tôi chọn cà rốt vì muốn biểu thị màu hoàng hôn đang lan rộng ở bên ngoài khung cửa sổ căn phòng. Nguyên liệu tôi thêm vào cuối cùng là táo, vì đôi má dễ thương của Momo làm tôi liên tưởng đến trái táo đỏ hồng.
Trong nồi có rất nhiều hình ảnh chồng lên nhau rồi dần dần hoà vào làm một. Cứ như thể người hoa sĩ đang phó mặc để bản năng lựa chọn dụng cụ vẽ cho mình. Tôi chỉ dựa vào trực giác của bản thân để nấu ăn một cách ngẫu hứng.
Tôi ninh thật kĩ nước súp có thả chút quế, cuối cùng xay nhẹ bằng máy xay Bamix để tạo thành món súp sánh quyện có màu sắc nhẹ nhàng. Tôi nghĩ trong tình yêu không cần thứ đạo cụ thừa thãi nào cả, nên chỉ dùng muối làm gia vị duy nhất. Tôi không tăng mùi vị bằng sữa hay kem tươi, cũng không dùng bột nêm hay loại phụ gia gì đặc biệt để tạo hương vị.
Tôi trút phần súp vừa mới nấu xong vào chiếc nồi đỏ hình trái tim rồi nhanh chóng bưng ra bàn. Việc bày biện bàn ăn đã hoàn thành trong lúc tôi ninh súp. Tôi hối hả xúc tiến công tác chuẩn bị vì muốn hai đứa nhỏ ăn ngay khi súp còn chưa kịp nguội.
Khi mở nắp vung ra, một làn khói dễ chịu bốc lên, trông như một tinh linh được phái đến để tác thành cho tình yêu đôi lứa. Trong lúc tôi thận trọng trút súp vào trong tô dựng bằng gỗ sao cho không bị sánh ra ngoài, tôi biết rằng hai đứa nhỏ đang nhìn tay tôi chằm chặp. Đặt chiếc muôi gỗ
dọc theo tấm lót trải bàn ăn làm từ nỉ, tôi bày tất cả mọi thứ trước mặt hai đứa. Bên trong chiếc nồi màu đỏ vẫn dư nhiều súp.
“Xin mời dùng bữa.”
Tôi cúi thấp đầu, cười thật tươi và quay về bếp.
Giữa chừng, khi không gian bắt đầu lờ mờ tối, tôi mang nến sáp ong ra bàn thì thấy Satoru đã di chuyển ghế, cậu đang ngồi bên cạnh Momo. Tôi hồi hộp nhấc vung nồi lên, súp bên trong đã hết sạch.
“Cảm ơn vì bữa ăn.”
Momo thì thầm nói. Dường như trong giọng nói ấy hàm chứa ước nguyện mạnh mẽ rằng ngay lúc này, dù chỉ trong chốc lát, em cũng không muốn làm lay động bầu không khí tại đây. Hai cơ thể nương tựa vào nhau, chia sẻ hơi ấm cứ như một đôi chim câu vậy.
Cố gắng không gây cản trở bầu không khí của hai người, tôi viết vội một câu trên giấy rồi trao cho Momo.
“Em không lạnh à?”
Khi đó, lần đầu tiên tôi nhận ra hai đứa đang nắm tay nhau ở dưới gầm bàn. Sự giúp đỡ của tôi cho hai em tuy thật bé nhỏ nhưng lại đầy hạnh phúc, ngỡ như cũng có một ngọn nến sáp ong lan toả ánh sáng trong trái tim tôi.
Tôi không dọn bát gỗ, muôi, lẫn cái nồi hình trái tim đã hết sạch thức ăn mà cứ để nguyên lại đó rồi trở về gian bếp. Để hai đứa trẻ được thể hiện tình cảm với nhau thoải mái như chúng muốn, tôi tạo ra những tiếng động thật to, xối nước, cọ sạch những dụng cụ đã dùng. Tôi rất mừng vì mình có thể thực hiện điều ước của Momo, những giai điệu vui tươi nhảy múa trong lòng tôi.
"""