"Pho Tượng Thần Kâli - Henri Vernes full prc pdf epub azw3 [Phiêu Lưu] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Pho Tượng Thần Kâli - Henri Vernes full prc pdf epub azw3 [Phiêu Lưu] Ebooks Nhóm Zalo Pho Tượng Thần Kâli Henri Vernes vietmessenger.com Dịch giả: Nguyễn Đức Lân Một Mặt trời ngả bóng trên thành phố Calcutta, biến đổi dòng sông Hoogly, một trong hàng trăm phụ lưu của sông Hằng linh thiêng, thành một dòng thác khổng lồ của chất lưu huỳnh nóng chảy, điểm xuyết đây đó vài chiếc buồm đen của những ghe thuyền chở nông dân từ những cánh đồng xa trở về. Chỉ mặc quần soóc, áo may-ô, nằm dài trên bao lơn trước cửa phòng mình ở khách sạn Thanh Xà, Bob Morane lặng ngắm thành phố. Thành phố Calcutta này, chữ Ấn Độ gọi là Kâli Ghât - thành phố Kâli - lấy tên của nữ thần Kâli, chủ sự Phá hoại và Chết chóc, có năm triệu dân, bày ra cảnh nghèo khổ nheo nhóc với hàng ngàn con bò thần gieo rắc bệnh dịch. Ở thành phố lớn này bệnh dịch tả hoành hành, là nơi mà Đông phương và Tây phương chung góp những điều xấu; một bên là dịch tễ và đói khát, bên kia là thất nghiệp và sa đọa tinh thần. Từ chỗ nằm, không cần đứng lên khỏi chiếc ghế dài, Morane nhìn những đốm lửa thắp lên trong những khu phố đông dân cư. Và rộng ra tất cả miền đồng bằng sông Hằng rực sáng dưới mặt trời sắp lặn... Một cảnh tượng khó quên, vượt cả óc tưởng tượng của con người, có hình dáng như một tấm vải khổng lồ sẵn sàng chìm vào bóng tối bất cứ lúc nào. Bob đã tới Calcutta được bốn ngày. Tờ tuần báo "Phản Ánh", một tờ tuần báo lớn của Pháp đang đăng một loạt phóng sự về các con sông lớn trên thế giới, đã giao cho Bob thiên phóng sự về sông Hằng. Morane, trước nay chỉ ghé Ấn Độ trong những khoảng thời gian ngắn ngủi, đã sốt sắng nhận ngay sự ủy thác đó. Trong bốn ngày vừa qua, chàng đã thăm viếng Calcutta, sau đó sẽ đi khắp miền đồng bằng, rồi sẽ tới Bénarès, Thành phố Thánh, để lên tận vùng xa xôi thượng lưu sông Hằng, sát ranh giới dãy núi Hy Ma. Tối hôm đó, Bob quyết định phải nghỉ ngơi, cả buổi sáng và gần hết buổi chiều, chàng đi qua những khu đông dân, chụp từng bức ảnh và bị những nhóm hành khất gầy trơ xương liên lục nhào đến xin bố thí, chàng phải len lỏi giữa hàng trăm con bò gầy gò vô chù đi ngúng nga ngúng nguẩy, ruồi bám quanh mình. Những con bò này là những vật tổ thần, không ai được giết hoặc hành hạ, đã là gánh nặng cho Ấn Độ nói chung, và Calcutta nói riêng. Morane ngả người trên ghế dài, ưỡn mình, hít không khí nóng bức của buổi hoàng hôn, chàng lùa những ngón tay mặt vào trong mớ tóc cứng. Sau một ngày vất vả, chàng cảm thấy khoan khoái được nằm dài; không suy nghĩ, không lo toan công việc, hưởng những lạc thú trong tầm tay. Việc đó cho chàng ý niệm về Niết Bàn, cõi hư vô cao cả và thánh thiện mà những người sùng bái đức Phật ao ước. Đột nhiên, một giọng nói cất lên bên cạnh làm chàng người Pháp giật mình : - Có thư cho ông Morane. Bob quay đầu lại. Một người hầu Ấn Độ, quần áo trắng toát, trên trán vẽ thêm con mắt thứ ba của thần Siva, đứng ngay bên chiếc ghế dài, tay bưng chiếc khay đựng một lá thư. Bob nghĩ thầm: "Những người Ấn này di chuyển như những bóng ma. Anh chàng này dám cắt cổ mình mà mình cũng chưa kịp nhận ra nữa..." Bob cầm lấy lá thư, người hầu rút lui, chàng vội xé phong bì, trong đó có một tờ giấy gấp tư. Chàng mở ra, và đọc: "Thiếu tá Morane, Cần gặp ông gấp. Nhận được thư này, hãy đến ngay nhà tôi, số 115 phố Baghavapur. Việc sinh tử. Cecil Mainright" Morane nhảy dựng. Chàng biết Cecil Mainright, tuy chưa hề gặp mặt ông ta. Ở Paris, giáo sư Aristide Clairembart, nhà khảo cổ học già bạn của Bob, biết chàng sang Ấn, có dặn rằng : - Ông qua Calcutta thì hãy thay mặt tôi, lại thăm ông bạn đồng nghiệp của tôi là Cecil Mainright. Ông ta là người nhiệt tình theo Ấn Độ giáo, đã ở bên đó bốn chục năm, thuộc nằm lòng xử sở ấy, sẽ giúp đỡ ông được nhiều việc. Vừa tới thủ đô của miền Bengale phương Đông, Bob đã bắt đầu liên lạc ngay với nhà bác học kia nhưng ông ta bận nhiều công việc, hẹn chàng mấy hôm nữa mới cho gặp. Theo hẹn thì ngày mai chàng mới phải tới nhà ông Mainright. Vậy tại sao lại có lá thư kỳ quái này, nhất là câu: "Việc sinh tử". Mainright gặp nguy chăng? Nếu gặp nguy, sao ông ta không gọi đến cảnh sát, mà lại cầu cứu chàng, người mà ông ta chưa hề biết mặt? Bob nhún vai. Tìm làm quái gì câu giải đáp cho những sự bí ẩn loại này? Cứ biết là chỉ lát nữa đây, chính miệng giáo sư Mainright sẽ nói cho hay là được rồi. Xưa nay có bao giờ Morane từ chối lời kêu gọi giúp đỡ của ai đâu? Bạn của ông Aristide Clairembart gặp nguy thì chàng phải tìm cách cứu thôi. Bởi thế chàng quyết định tới nhà ông Mainright ngay tối hôm đó. Vì biết số điện thoại của giáo sư Mainright chàng nhấc ống nói trong phòng mình, xin số bên kia. Đợi hơn một phút, chàng mới nghe tiếng nói của cô phụ trách điện thoại trong khách sạn : - Rất tiếc, ông ạ. Số mà ông gọi đang kẹt. Morane nhăn mặt, gác máy. Không thể liên lạc với giáo sư Mainright, chàng đành tới nhà ông ta. Mặc vội chiếc sơ-mi thể thao hở cổ, và chiếc quần len màu vàng mang đôi giày nhẹ, chàng định bước ra thì chợt nghĩ lại, đến lôi ở dưới gầm giường ra cái túi du lịch lớn, có dây kéo. Chàng rút trong một ngăn túi lấy ra một khẩu colt 38, ngắn nòng, dắt vào thắt lưng. Chiếc áo vét-tông che khuất khẩu súng. Chàng không có thói quen đi đâu cũng mang sùng kè kè, nhưng nhớ đến câu "Việc sinh tử" mà giáo sư Mainright viết trong thư, nên chàng nghĩ chẳng nên phó mặc cho sự may rủi trong một cuộc đụng độ. Vài phút sau chàng rời khách sạn, vẫy một chiếc taxi. Chiếc xe ghé sát lề đường, và người tài xế, một anh chàng người Sikh to con có bộ râu đen, xuống xe mở cửa cho khách. Bob nhận ra anh kia mang ở thắt lưng một con dao quắm rất dài. Chỉ vào vũ khí đó, chàng người Pháp hỏi : - Anh dùng thứ đó làm gì vây? Cắt cổ khách đi xe hả? Toét miệng ra cười, để lộ hàm răng trắng, đẹp hơn những phím đàn dương cầm, người tài xế lắc đầu. - Thưa ông, không. Munghal này không cắt cổ khách đi xe bao giờ... nếu khách trả tiền đàng hoàng. Dao này chỉ để cứa cổ Hồi hồi. Nói rồi anh ta nhổ nước bọt, tỏ lòng khinh ghét. Morane mỉm cười : - Rất may tôi không phải là người Hồi giáo. Munghal lại cười : - Thưa ông, vâng. Rất may... ông đi đâu, để tôi chở? Bob Morane ngồi trong xe, nói : - Số 115, đường Baghavapur! Chiếc taxi chuyển bánh lao đi, qua những đường phố đông nghẹt giữa một rừng xe cam nhông, xe điện, xe tay xe đạp và những con bò đi lang thang. Những con bò này gây trở ngại cho cho sự lưu thông, bởi chúng chỉ nhích từng chút cho chiếc taxi lọt qua. Chúng sợ tiếng còi xe hơn là bản thân chiếc xe. Đường Baghavapur là một con đường hoang vắng, nằm sát chân cầu Howrah, hai bên là những ngôi nhà cổ, kiểu xây cất thời nữ hoàng Victoria, bao bọc chung quanh là những khu vườn rộng, có rào sắt rất cao. Chiếc taxi ngừng trước nhà số 115, Morane xuống xe. Chàng người Sikh hỏi : - Tôi phải đợi ngài chăng? Bob lắc đầu : - Không, chắc tôi phải ở lại đây khá lâu. Chàng trả tiền cuốc xe, còn biếu thêm tiền thưởng hậu hĩnh. Chiếc taxi rồ máy. Bob còn lại một mình trên vỉa hè. Đêm đã xuống được một lúc, đường Bagharapur hoàn toàn chìm trong bóng tối. Đôi chỗ, vài bóng đèn điện tù mù soi xuống hàng cây phượng vĩ hoa đỏ thắm trong khung cảnh đen tối của ban đêm. Bob nhủ thầm: "Cái chỗ này chẳng có gì vui!" Thử lại cho chắc dạ khẩu súng lục dắt ở thắt tưng có thể rút ra dễ đàng, chàng tiến lại chỗ hàng rào sắt. Cánh cửa sắt hé mở làm chàng ngần ngừ. Chàng có cảm tưởng là đang rơi vào một ổ phục kích. Tuy nhiên chàng vẫn lách mình qua khoáng hẹp giữa hai cánh cửa, và tiến vào một lối đi rộng dẫn tới ngôi nhà mà một cửa sổ ở tầng trệt có ánh đèn rất sáng. Nhanh nhẹn, bằng bước chân đi đôi giày nhẹ, đế crếp, Morane lặng lẽ tiến lại gần ngôi nhà. Chàng tới bậc thềm thì có một bóng người từ phía trong hấp tấp bước ra. Đáng lẽ phải tránh sang một bên, Bob lại đứng chắn ngang đường, và hai người xô vào nhau rất mạnh, đồng thời có một vật trăng trắng lăn xuống lối đi. Người lạ mặt, hẳn là một người Ấn, vì bộ mặt đen của hắn không nổi lên trong bóng tối, cúi xuống để nhặt vật đánh rơi. Morane liền ngăn lại, chàng nói bằng tiếng Anh : - Ê! Một phút đi, anh bạn! Chạy ẩu chạy tả như thế mà không xin lỗi, đâu có được. Chàng vừa nói thế, người kia lầu bầu giận dữ, nhào lại bên chàng. Bob nhìn thấy một lưỡi dao găm lóe lên, vội lùi lại một bước. Lưỡi dao chệch qua cổ họng chàng vài phân, chàng vội dùng cườm tay chặt vào cánh tay đối thủ. Nhát chặt rất chính xác, người Ấn đành để mất vũ khí. Ngay lúc đó có tiếng chân tháo chạy, Bob nghĩ đối thủ tính bỏ trốn. Nhanh như chớp, chàng rút súng khỏi thắt lưng, hô to: "Ngừng lại, không ta bắn!", nhưng người kia đã biến mất trong bóng tối. Morane đứng lại một lúc, súng vẫn cầm tay, sẵn sàng nhả đạn nếu nghe có tiếng động nhỏ, nhưng kẻ gây hấn đã biến hẳn và vật rơi xuống từ đầu trận đấu vẫn nằm yên trên mặt đất. Bob nhặt lên, mới đầu chàng chưa nhận ra được đó là cái gì, vì nó được bọc kín trong một mảnh vải. Có thể là một chiếc khăn được buộc dầy chặt chẽ. Qua lần vải, Bob nắn bóp thấy một vật cứng, hình thù không đều đặn. Toàn bộ, dù vật ấy không lớn, nhưng rất nặng, Bob đoán chừng vật ấy bằng đá hay kim loại. Chàng nhún vai: "Đây hẳn là một báu vật mà thằng kia đánh cắp của ông giáo sư. Ta đem trả lại cho ông ta tất biết ngay đó là cái gì..." Leo lên những bậc thềm, Morane tới cửa thì thấy cảnh cửa mở toang dẫn vào một căn phòng vuông vắn bên trong sáng trưng. Cánh cửa thứ hai cũng mở, để lọt ra ngoài một vệt sáng dài. Bob đứng im, tay vẫn lăm lăm khẩu súng, tai lắng nghe nhưng cả gian nhà im ắng, hình như người nhà đã đi đâu cả. - Giáo sư Mainright! Giáo sư Mainright! Gọi liên tiếp hai lần, chàng chờ đợi, nhưng không có ai trả lời. - Trong nhà có ai không? Lại vẫn im lặng. Lần này, Morane cảm thấy lo lắng. Cái người cầm dao găm chạy trốn như một tên trộm, cùng ngôi nhà bỏ hoang mà phòng nào cũng sáng trưng đèn đối với chàng có vẻ bí ẩn. Các giác quan chàng đều hoạt động. Bob tiến vào căn phòng lớn, thăm dò để tìm xem có người nào chăng. Sau đó, hăng hái lên, Bob bước mau tới cánh cửa thứ hai đang hắt ra một luồng ánh sáng. Căn phòng hiện ra trước mắt Morane là một phòng làm việc rất rộng, chứa đầy những mẫu khảo cổ. Những hình chạm nổi gỡ ở những thạch động thiêng liêng, những bức tượng Phật cổ xưa qua thời gian đã nhẵn bóng những mớ ngọc thạch màu xanh hoặc những mẫu phún thạch, những mảnh đồng quý cắt ra từng miếng. Trên trần nhà, một chiếc quạt máy quay chầm chậm, làm chuyển đi luồng không khí nặng nề và nóng bức của đêm miền nhiệt đới. Tuy nhiên, tất cả những thứ đó chẳng khiến Bob chú tâm. Trái lại, chàng để ý ngay đến một người tóc hoa râm, một người Âu cúi gục trên chiếc bàn gỗ, đầu bất động quay về phía cửa. Không còn nghi ngờ gì nữa, Bob biết người đó là giáo sư Mainright, nhưng ông đã chết rồi. Chàng người Pháp đứng lặng hồi lâu ở chỗ bậc thềm. Nghề nghiệp phiêu lưu của chàng đã nhiều lần đưa chàng tới những cảnh ngộ tương tự, nhưng sự hiện hữu của tử thi gây cho chàng nhiều ấn tượng. Ông Mainright, mới một thời gian ngắn trước đây kêu cứu với chàng mà bây giờ không còn sống nữa. Bob có cảm tưởng mình chịu phần nào trách nhiệm về cái chết này. Nếu chàng đến sớm hơn, hẳn là mọi chuyện êm xuôi. Nhưng làm sao chàng đến sớm hơn được. Vừa nhận lá thư của nhà bác học bất hạnh chàng đã chẳng rời khách sạn ngay đấy ư? Dần dần, Morane cũng lấy lại được bình tĩnh. Đi tới cuối căn phòng chàng đem cái vật chưa biết rõ vẫn bọc trong chiếc khăn đặt vào một góc bàn giấy. Sau đó chàng lại gần người chết, thấy dấu vết bị siết còn rành rành trên cổ nạn nhân, và gần ghế bành, chàng thấy một dải lụa rất dày thắt một nút thòng lọng. Hẳn là hung thù đã sử dụng nó để giết nạn nhân. Chàng đưa mắt nhìn khắp phòng: Không một cửa tủ nào bị nạy. Hình như trong nhà không bị mất mát thứ gì. Hoàn toàn không... trừ ra... Morane lấy lại cái gói chàng vừa đặt ở góc bàn, mở vội chiếc khăn và vật bí ẩn hiện ra, đó là một pho tượng nhỏ tráng men, cao cỡ chừng không hơn mười phân, mang hình dáng một người đàn bà đang đứng, bốn cánh tay đều duỗi ra một cánh tay cầm thanh gươm, một xách một thủ cấp, còn hai cánh tay khác thì xòe ra như ban phép, lòng bàn tay đỏ lòm. Dễ sợ nhất là khuôn mặt với đôi mắt cú vọ có những tia máu, cái miệng toác hoác, lưỡi thè lè giữa hàm răng nhọn hoắt. Hai mảnh xương nhỏ dùng làm hoa tai cho người đàn bà kỳ quái và một chuỗi sọ người vấy máu, lủng lẳng trước ngực. Ở hai cổ chân và bốn cổ tay, người đàn bà ấy mang những chiếc vòng ngọc thạch sáng rực, và quanh cổ đeo một đạo bùa. Morane nghĩ thầm: "Nếu ta không lầm thì đây là bức tượng nữ thần Kâli, vị Hắc thần, vợ của thần Siva, và vì muốn cướp đoạt pho tượng mà kẻ kia đã giết vị giáo sư tội nghiệp này. Nhưng những vòng ngọc thạch và lá bùa thì ta thấy dường như là của già, và có thể cả bức tượng nữa..." Lấy một con dao rọc giấy ở trên bàn, chàng cậy một mảnh men tráng ở gót chân pho tượng thì thấy hiện ra một thứ kim loại màu xam xám. Bob thì thầm : - Chì! Thế mà kẻ gây hấn với ta hoài công đánh cắp pho tượng. Như vậy có thể không phải hắn đã giết ông Mainright đâu. Đột nhiên, chàng giật mình, đôi mắt chàng, chăm chú nhìn dải lụa ở gần chỗ bàn giấy. Dải lụa gợi cho chàng một ý nghĩ. Chàng thì thầm : - Vật này dùng để siết cổ ông Mainright. Nó với pho tượng thần Kâli phải có một liên hệ nào đó. Cá nhân ta, ta không thấy một liên hệ nào. Chuyện này, ta thấy có vẻ quái đản, không thể nào tưởng tượng được. Chàng không khỏi rùng mình, đưa mắt nhìn quanh, tưởng như một quái vật khát máu khủng khiếp thình lình hiện ra. Nhưng không, chẳng có gì, chỉ có một mình chàng ở trong phòng với xác chết. Chẳng bao lâu sau, chàng làm chủ lại thần kinh của mình. "Nếu ta không lầm thì đây chỉ là một vu giết người bình thường. Hung thủ đã vào đây, trong ngôi nhà có nhiều tiền bạc và bảo vật quý giá này, nhưng sau khi thắt cổ ông giáo sư bất hạnh Mainright, hắn đã lấy đi thứ gì? Một pho tượng tầm thường bằng chì tráng men..." Morane lại quan sát pho tượng Hắc thần, một lúc lâu sau khi xem xét kỹ lưỡng, mới nghĩ tiếp: "Phải. Đây là pho tượng của mụ già uống máu Kâli, có thể mở ra nhiều bất ngờ cho chúng ta. Tốt nhất là ta báo cảnh sát cái đã". Chàng nhấc ống điện thoại đặt trên bàn giấy. Nhưng khi chàng đặt ống nghe vào tai thì không có tiếng gì cả. Chàng lẩm bẩm: "Ta quên đi mất! Máy kẹt mà! Dây điện bị cắt rồi! À, không có điện thoại, vẫn có cách kêu cảnh sát rất kiến hiệu: cách này đây..." Chàng lại gần một cửa sổ, mở ra, dang thẳng tay chĩa khẩu súng lên trời, bốp cò liền ba phát. Trong đêm tĩnh mịch, tiếng súng vang dội như sấm và chàng không thắc mắc gì về kết quả. Trong khu phố toàn những biệt thự, xưa nay thường lặng lẽ êm ả, chắc chắn một loạt đạn nổ sẽ mau chóng đánh động hàng xóm. Hai Sheela Khan, cảnh sát trưởng thành phố Calcutta, lật lên lật xuống dải băng lụa đã thắt cổ giáo sư Mainright. Xác Mainright được đặt nằm giữa phòng, phủ lên một tấm vải trắng. Lát sau, cảnh sát trưởng nói : - Vái trời đây không phải là sợi "dây thiêng!" Ông cảnh sát trưởng chừng bốn mươi lăm tuổi, cao lớn, vai rộng, tóc xoắn. Khuôn mặt rộng, mắt sáng, cái mũi hơi khoằm cho ta cảm tưởng về một con người mạnh mẽ, bình thản và thẳng thắn. Bob hỏi : - "Dây thiêng"? Có phải là loại dây thừng mà ngày xưa bọn Thug sử dụng để thắt cổ các nạn nhân của chúng không? Sheela Khan gật đầu : - Phải đấy, ông Morane ạ. Nhưng bọn Thug đó từ lâu không ai nói đến nữa. Trong thế kỷ trước, người Anh đã càn quèt chúng không thương tiếc, họ bắt cầm tù hoặc xử tử các thủ lãnh. Không, không thể được, đây không thể là họn Thug... Một tên trộm tầm thường, thế thôi... Khan nói những lời cuối bằng một giọng trầm xuống, hình như ông cố tìm cách để tự trấn an mình. Rồi ông lại nói tiếp : - Tuy nhiên có một điều làm tôi áy náy là sự hiện diện của pho tượng thần Kâli này. Không một thứ gì bị lấy mất. Người ta đã tìm thấy tiền bạc và các đồ quý giá ở trong nhà. Không một cánh cửa nào bị cạy phá, trừ một cửa sổ ở tầng lầu qua đó kẻ kia đã xâm nhập. Hắn chỉ lấy đi có mỗi một thứ là pho tượng bằng chì này. Ông thấy đó: kẻ trộm vào nhà của nhà bác học giàu có và hiền lành, mặc sức giết ông ta trong khi bọn tôi tớ đi đâu mất biệt... lại chỉ lấy có một pho tượng bằng chì... Ông tin chắc không có điều gì để cho tôi biết thêm chứ, thiếu tá Morane? Bob tỏ vẻ hờ hững, chẳng nói có, cũng chẳng nói không : - Thưa ông, như tôi đã nói, ngày mai tôi có hẹn với giáo sư Mainright, thì ngay lúc tối tôi nhận được một lá thư của ông ta cầu cứu tôi. Tôi thử gọi điện thoại cho ông ta để xem có chuyện gì thì người ta trả lời là đường dây mắc kẹt. Vì thế tôi mới đến đây. Vừa bước vào nhà thì một người đàn ông lao lại phía tôi định đâm tôi. Tôi chống trả và hắn trốn mất, bỏ lại pho tượng này, quấn trong một chiếc khăn. Tôi vào đây thì thấy xác ông Mainright. Đoạn sau thì như ông đã biết. Sheela Khan nhăn nhíu mặt mày, làm mất đi những đường nét kiêu hãnh : - Vâng, đoạn sau thì tôi biết, nghĩa là chẳng biết được bao nhiêu. Chắc chắn là dây điện thoại đã bị cắt trước khi ông đến, vì thế ông giáo sư mới báo động cho ông bằng cách gởi thư. Morane không nén được nụ cười mỉm. Sheela Khan có vẻ thông minh, chàng người Pháp ngạc nhiên thấy ông ta làm bộ thơ ngây. Dầu sao đi nữa thì địa vị cảnh sát trưởng Calcutta đòi hỏi phải có năng lực nào đó. Hình như Sheela Khan đang cố gắng thu hẹp sự việc chơi cái trò tung bụi vào mắt kẻ đối thoại. Bob nêu nhận xét : - Một kẻ trộm tầm thường chẳng làm rắc rối sự việc đến độ này đâu. Hắn chẳng cắt dây điện thoại từ lâu trước khi ra tay trộm cắp. Hơn nữa, ông giáo sư không kịp có thì giờ báo động cho tôi. Chắc chắn là ông ấy cũng chẳng nghĩ tới chuyện báo động nữa đấy. Nếu gặp một kẻ ác độc thì người ta làm gì để tự vệ? Kêu "Cứu tôi!" hoặc gọi cảnh sát, hoặc cầm lấy một khẩu súng lục chứ... Ông Mainright chắc hẳn phải có một khẩu súng để ở chỗ nào đó. Viên cảnh sát trưởng giải thích : - Chúng tôi tìm thấy những viên đạn và cái băng đạn trong một ngăn kéo bàn giấy, nhưng khẩu súng thì không thấy. - Nhưng viên đạn và băng bạn trong ngăn kéo chứng tỏ rằng phải có một khẩu súng lục cùng trong ngăn kéo đó. Một kẻ nào đã lấy đi mà ông giáo sư không biết. Chắc kẻ đó là một người đầy tớ, bị kẻ thù của chủ mua chuộc. Sheela Khan phản đối : - Kẻ thù! Ông kết luận mau quá đấy, thiếu tá ạ. Một nhà bác học hiền lành như giáo sư Mainright chẳng có nhiều kẻ thù đâu. Morane cắt ngang : - Ai cũng có thể có kẻ thù. Bằng chứng ông Mainright có kẻ thù là đây: Ông ấy đang nằm đó. - Chỉ là một tên trộm bình thường. - Thưa ông, không! Không phải một tên trộm bình thường. Vụ này đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Khi ông giáo sư viết cho tôi, ông ấy đã cảm thấy bị đe dọa. Ông ấy gọi đến tôi vì ông ấy biết tiếng tăm của tôi qua người bạn chung của hai chúng tôi là ông Clairembart ở Paris. Ông Mainright biết tính tôi thích chuyên phiêu lưu, lại ưa nhúng tay vào chuyện đời. Có thể là ông không biết tôi, chứ một số ngươi vẫn gọi tôi là Bob Morane - Don Quichotte. Tôi xin nhắc lại, nếu chỉ là chuyện trộm cướp bình thường thì ông giáo sư đáng thương Mainright chẳng gọi đến tôi đâu. Mà ông ấy cũng chẳng có thì giờ mà gọi nữa. Trộm cướp có báo trước cho nạn nhân cảá giờ đồng hồ đâu! Sheela Khan lặng ngắm anh chàng người Pháp, nụ cười tinh quái trên môi. Đợi Bob nói xong, ông ta mới đáp : - Thiếu tá Moraue! Ông còn tiếng tăm hơn là ông tưởng nữa đấy! Tôi có đọc truyện nói về một số những hoạt động của ông, đăng trên các báo Âu châu và tôi biết tài năng ông ra sao rồi. Tôi biết ông là người thành thật lương thiện, không thể nào phạm pháp, nhưng tôi cũng biết ông thường nổi hứng xía vào những chuyện chẳng liên quan gì đến ông. Vì thế tôi yêu cầu ông đứng ngoài chuyện này, để tôi được tự tay gỡ rối. Nếu như ông nghĩ đây là một vụ án mạng có tầm quan trọng thì cuối cùng tôi cũng khám phá ra. Tuy nhiên, tôi vẫn giữ giả thuyết của tôi: đây là một vụ trộm cắp bình thường. Bob nhún vai, cố giữ cho ra vẻ hờ hững, nhưng chỉ là giả tạo : - Một kẻ trộm sử dụng "dây thiêng" của những người Thug thời xưa, lại đặc biệt chỉ ưa thích có pho tượng thần Kâli, dù bằng chì hay không đi nữa...? Thưa ông cảnh sát trưởng, nếu ông thích những giải đáp dễ dãi thì tùy ý. Ông là cảnh sát, tự nhiên ông biết công việc phải làm của mình. Ông cho phép tôi trở về khách sạn chứ? Sheela Khan gật đầu : - Thiếu tá có thể về nghỉ. Tôi biết ông chẳng dính dáng gì trong vụ án mạng này. Tuy nhiên tôi cũng yêu cầu ông trong vài hôm đừng có rời thành phố, có thể tôi cần đến ông. Biết đâu chừng? Dầu sao thì ông cũng phải ký vào một bản khai báo, lúc đó tôi sẽ cho đòi. - Thưa ông cảnh sát trưởng, đồng ý! Tôi tự đặt mình dưới sự sai phái của ông! Hai người bắt tay nhau, và Bob tiến về phía cửa căn phòng. Nhưng chưa tới nơi thì đột nhiên chàng đổi ý quay lại, hỏi : - Thưa ông cảnh sát trưởng, hình như ông biết nhiều về tôi, nhưng có một điều mà ông vẫn chưa biết. - Chi vậy, thiếu tá? - Tôi là một nhà sưu tầm ham mê những đồ ngoại quốc. - Tôi không biết đấy. Morane đưa tay chỉ pho tượng nhỏ vẫn đặt ở một góc bàn : - Pho tượng này sẽ rất xinh trong bộ sưu tập của tôi. Tôi có thể lấy đi chứ? Viên cảnh sát trưởng khẽ rùng mình : - Đó là một tang vật, thiếu tá ạ! Ông không nghĩ đến chuyện đó hay sao? Bob khẽ nháy mắt : - Trái lại, tôi biết chứ! Một tang vật trong một vụ trộm cắp nhỏ nhoi, chẳng có gì quan trọng, dù nó có biến thành rắc rối ra một vu giết người đi nữa. Người của ông đã lấy dấu tay trên pho tượng rồi, ông còn khám phá thêm các dấu khác được sao? Khan cười nhẹ. Một tiếng cười nhỏ, hoàn toàn đúng lúc mà một nghệ sĩ sân khấu hay một tài tử màn bạc cũng phải ghen. Ở Sheela Khan, cái gì cũng đúng mức: từ quần áo đến điệu bộ cử chỉ, giọng nói và ngay cả giọng tiếng Anh của ông ta nữa. Tất cả những thứ đó chứng tỏ rằng con người này cả đời chưa hề trượt chân trên vỉa hè, chưa hề nhảy bậc thang, hoặc đánh rơi cái nĩa của mình trong một bữa tiệc. Ông ta như được đúc khuôn trong sự hoàn hảo. - Vài ngày nữa, vụ này chắc chắn được sáng tỏ. Khi đó, thiếu tá ạ, tôi sẽ hân hạnh đưa biếu ông pho tượng. Bob trề môi : - Vài ngày nữa. Câu nói đó thiên hạ thừa biết rồi. Tôi biết tất cả các cảnh sát trên thế giới họ giống nhau như những hạt cát. Trật tự ở đó thì phải biết! Để một tang vật giả dụ như pho tượng thần Kâli trong một cái tủ, hai ngày sau muốn tìm lại thì sẽ thấy thay vào đó là một chai rượu ngâm những của quái gì đâu không à. Lần này Sheela Khan đành cất tiếng cười thẳng thắn : - Thua ông rồi, thiếu tá ạ. Lấy pho tượng của ông đi và đừng nói đến nó nữa. Tạm thời, hãy thế đã... khi nào cần, tôi sẽ đòi lại. Bob lấy khăn bọc pho tượng, cũng chiếc khăn lúc trước đã sử dụng trong cùng một công việc. Sheela Khan búng ngón tay, một cảnh sát viên hiện ra ở nơi ngưỡng cửa. - Burham, anh đưa thiếu tá Morane về khách sạn của ông ấy và phải bảo toàn tính mạng của thiếu tá cho tới khi đến đó. Bob rùng mình : - Tính mạng bảo toàn? Ông muốn nói gì vậy? Sheela Khan đưa tay chỉ cái bọc gói pho tượng mà Morane kẹp dưới nách trái : - Pho tượng này, thiếu tá ạ! Chính ông nói nó là nguyên nhân của mọi tai họa. Cẩn thận đừng để lại thấy có sợi dây thiêng quanh cổ chính mình. Bob không đáp. Chàng có cảm tưởng rằng câu nói đùa của Sheela Khan rất có thể sẽ có chuyện, chứ chẳng phải chỉ là câu nói đùa. ° ° ° Trong căn phòng của mình tại khách sạn Thanh Xà, Bob Morane ngắm nghía pho tượng nhỏ màu đen trước mặt, đặt trên giường. Càng lúc chàng càng tin chắc rằng pho tượng này là nguyên nhân gây ra vu án mạng, và vì lý do đó chứ không phải lý do ham thích sưu tầm mà chàng đã xin Sheela Khan cho phép chàng mang nó đi. Chàng không biểu lộ ra ngoài, nhưng chàng thật lòng xúc động trước cái chết của giáo sư Mainright và quyết định, khi có dịp, sẽ báo thù cho ông. Chàng nói với pho tượng : - Nữ thần Phá Hoại và Chết Chốc hả? Ước sao ta biết được chuyện gì trong cái đầu nhỏ bé bằng chì của ngươi... Kâli câm lặng, thè cái lưỡi nhìn Morane chăm chú bằng đôi mắt đỏ. Bob lại nói : - Yên chí, chẳng bao lâu ta sẽ biết được sự bí mật của ngươi thôi. Thế nào ngươi cũng có một sự bí mật, còn ông bạn Sheela Khan của chúng ta, miệng nói sao thì nói, chứ ông ta cũng tin như vậy. Nhớ đến thái độ của viên cảnh sát trưởng, Morane thấy thật lạ lùng. Tại sao Sheela Khan lại kết luận mau mắn như vậy? Tại sao chỉ tranh luận cho có hình thức, ông ta lại đồng ý cho chàng mang bức tượng đi? Dầu gì đi nữa, trong một vu án mạng thì tang vật dù chỉ là một miếng kim loại tầm thường được trang sức ít nhiều vẫn là một tang vật cần phải gìn giữ chứ? Morane nhún vai. Chàng đang ở Ấn Độ, cảnh sát ở đây chắc chắn không có nổi sự lanh lẹ của các chuyên gia trong Sở Cảnh sát Anh quốc. Mặc dù có vẻ chững chạc, cử chỉ đàng hoàng, vốn tiếng Anh đáng mặt một sinh viên đại học Oxford, có thể Sheela Khan chỉ có một cái đầu rỗng tuếch, một người máy hoàn toàn chẳng có tim óc. Bob tự nhủ: "Tất cả những điều này chẳng chỉ dẫn cho ta bắt đầu cuộc điều tra của ta tự chỗ nào. Muốn trả thù cho giáo sư Mainright theo đúng nguyên tắc ‘Bạn của bạn ta chính là bạn ta’, được lắm! Nhưng làm cách nào để bắt tay vào việc? Việc thứ nhất là phải tìm lại hung thủ. Ở bãi sa mạc thì dễ, nhưng trong một thành phố năm triệu người, mà người Ấn nào cũng giống người Ấn nào thì gay go đấy. Trừ phi kẻ thắt cổ người tự ý tìm đến ta với một sợi dây thiêng dành cho ta thì không kể". Quay về phía pho tượng đen, Morane chắp tay như cầu nguyện, nói: "Hỡi nữ thần Kâli nhỏ bé của ta, kẻ bảo trợ cho những vụ khủng bố thiêng liêng, những cái chết đột ngột, và chôn cất miễn phí1! Hãy đưa kẻ thắt cổ người lại đây cho ta... để ta xử với hắn một vố tuyệt đẹp!" Morane đứng dậy, cầm lấy pho tượng, dùng hai miếng băng keo gắn chặt nó vào đáy ngăn kéo dưới của chiếc tủ gỗ. Chàng nhăn mặt: Chỗ giấu chưa được chắc ăn lắm, nhưng ta cũng chẳng tìm được chỗ nào tốt hơn. Tạm thời, hãy vậy đã. Chàng quay lại bên giường có để khẩu súng luc, kiểm soát coi vũ khí có hoạt động hoàn hảo chăng, và xem kỹ lại hộp cơ bẩm. Thông thường, Morane tin tưởng ở tài khéo léo, lanh lẹ của mình trong các cuộc vật lộn tay đôi, nhưng chàng hiểu rằng nếu quả thật có chuyện với bọn Thug thì phải chơi chặt chẽ hơn. Những kẻ cuồng tín nữ thần Kâli này là những chuyên gia về siết cổ người. Nếu Bob biết Hiệp khí đạo thì chàng chẳng phải thắc mắc mà đem cân nhắc giữa hai phương pháp: vật lộn và dùng súng. Một khẩu súng lục vẫn chắc ăn hơn trước mặt một kẻ giết người có kinh nghiệm và cuồng tín. Ngón tay trỏ khẽ động, kẻ yếu lại chiến thắng. Nữ thần Kâli ngày xưa có thể đánh bại những ma quỷ đáng gờm nhất, nhưng bà ta cũng chẳng làm được gì trước một họng súng. Trước họng súng thì sợi dây thiêng cũng trở thành vô hiệu, khác nào khẩu thần công bắn đá trước khẩu đại bác tầm xa. Tuy đã chắc dạ như vậy, Morane vẫn quyết định không để mặc cho may rủi. Chàng cẩn thận cài chốt cửa buồng, tấn thêm một chiếc ghế, đặt cho lưng ghế chặn ngay bên dưới chỗ ổ khóa phô ro. Rồi chàng lấy hết các thứ có thể thấy như chai lọ; hy sinh một lít nước suối, chai nước hoa Cologne và những dược liệu để đổi lấy sự an toàn cho mình. Chàng đập vỡ những chai lọ đó ở chỗ bao lơn và trải ra ngoài đó những miểng chai sắc như lưỡi dao cạo. Được bảo vệ như thế rồi, Bob mới tắt đèn, lên giường nằm dài ra. Năm phút sau, bàn tay phải đặt trên chuôi súng, chàng ngủ bình yên như một đứa trẻ lúc đi ngủ vẫn tiếc mãi đồ chơi ham thích chẳng nỡ rời. -------------------------------- 1Người Thug, sau khi thắt cổ nạn nhân, đem chôn, không để lộ dấu mộ. Ba Lúc thức dậy, vật đầu tiên mà Bob Morane nhìn ra là một tờ báo nhét bên dưới cánh cửa. Trời đã sáng bạch và bên ngoài những tiếng ồn ào trong thành phố đưa lên tận chỗ buồng của Bob. Chàng đứng dậy, ra lấy tờ "Ấn Độ Thời Báo", ở ngay trang đầu, một dòng chữ lớn nổi bật: ÁN MẠNG TẠI ĐƯỜNG BAGHAVAPUR Cecil Mainright, nhà khảo cổ lừng danh, bị ám sát chết trong phòng làm việc của ông. Bên dưới thuật lại việc Morane khám phá ra xác chết trong trường hợp nào. Nhưng không có chỗ nào đả động đến pho tượng thần Kâli. Người ta có nói đến việc ông giáo sư bị thắt cổ, nhưng không hề nói đến "dây thiêng" hoặc bọn Thug. Bob suy nghĩ: "Chắc chắn đó là những đề tài linh thiêng mà ở Ấn người ta không muốn đề cập tới. Chính thức thì hơn nửa thế kỷ nay bọn Thug đã thôi hoạt động để người ta phải nói đến, và không còn ai thắc mắc muốn khơi dậy những bóng ma. Tuy nhiên, nữ thần Kâli thì vẫn tiẽp tục được sùng bái, và hàng ngày ở ngay tại thành phố Calcutta này, bà vẫn là chủ nhân và người ta vẫn hiến tế bằng máu. Những con vật hy sinh chỉ là những con dê nhỏ màu đen, nhưng từ chỗ đó đến chỗ hiến tế bằng nhân mạng thì cũng chỉ một bước dễ vượt qua..." Phần dưới của bài báo thuật lại sự nghiệp của giáo sư Mainright. Cái ông người Anh này quý đất Ấn đến mức đồng bào của ông đã rời khỏi mà ông vẫn ở lại. Ấn Độ không còn là thuộc địa của Anh nữa nhưng đối với ông thì không có chuyện gì thay đổi. Ông vẫn tiếp tục sống tại căn nhà của ông ở đường Baghavapur như trước, giữa những viên đá cổ và những tượng thần, khác một điều là ông chỉ còn lại vài người đầy tớ, tất cả dường như vẫn trung thành với ông. Từ chiều tối không hiểu sao tất cả đầy tớ của ông đều vắng mặt và khi đó thảm kịch xảy ra. Bài bảo cũng nói đến Morane, nhắc lại cuộc sống phiêu lưu của chàng và hành vi anh dũng của chàng trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Người ta nêu cả lý do mà chàng tới Ấn, nêu cả tên khách sạn chàng đang ở. Bob lại suy nghĩ: "Người ta muốn chỉ cho kẻ giết ông giáo sư chỗ ta đang ở mà cứ làm ra vẻ không thể viết khác được..." Tác giả bài phóng sự kết thúc bằng cách nêu ý kiến của Sheela Khan, vị cảnh sát trưởng, theo đó thì ông giáo sư bị giết là bởi một người đầy tớ cũ bị cho nghỉ việc hoặc là bởi một tên trộm bị bắt quả tang phải làm liều. Morane nhún vai, lẩm bẩm: "Hoặc giả cái ông Sheela Khan này là kẻ giả dối nhất đời - cũng dễ để tin làm vậy - hoặc giả ông ta là người ngu nhất thế giới. Nhưng ta phải thừa nhận là kẻ ngu này có nhiều kiểu cách. Một kẻ ngu ăn người!" Bài tường thuật của tờ "Ấn Độ Thời Báo" hình như dược Sheela Khan đọc cho chép, người ta tự hỏi tại sao cái ông này che giấu sự thật về vấn đề sợi dây thiêng, pho tượng thần Kâli, và bọn Thug. Có phải là vì không muốn đánh động quần chúng một cách vô ích, hay vì một mục đích nào khác? Morane thừa biết rằng các nước Á châu, ít nhiều đều đắm chìm trong tình thế sôi động, tranh chấp chính trị và tôn giáo luôn luôn rối beng, các phe phái tôn giáo không ngừng giành quyền lãnh đạo của thời xa xưa, Sheela Khan có thể thuộc về một trong những phe phái đó, và việc ấy giải thích lý do hành động của ông ta, Bob không tiếp tục đi vào con đường ngờ vực đó nữa. Tạm thời, chàng không muốn kết tội Sheela Khan nến không có những bằng chứng hiển nhiên; và trong lúc đợi những sự việc mới, chàng muốn dành cho ông ta trường hợp giảm khinh và nghi vấn. Sau những suy luận nhanh chóng như thế, Bob khoác lên mình một chiếc áo ngủ, đi đôi dép nhẹ và dùng ngay tờ nhật báo để quét dọn chỗ bao lơn, thu vén các miểng chai vào một góc, để đêm sau lại rải chúng ra một cách dễ dàng. Làm xong công việc đó, Bob mặc quần áo. Vừa quăng cái áo ngủ ra một góc thì đột nhiên chàng nghe có tiếng gõ cửa dồn dập. Chàng đứng yên một lúc thật lâu. Cuộc thăm viếng buổi sống này làm chàng ngạc nhiên. Chẳng những là chàng không có ý đợi một người nào, mà chàng đã dặn kỹ người hầu khách sạn phụ trách tầng lầu là chàng có gọi thì mới được tới. Lẹ làng, Morane khoác lại chiếc áo ngủ lên mình, nhét khẩu súng lục vào túi bên trái, tay không rời chuôi súng. Sau đó chàng lại gần bên cửa cất tiếng hỏi: "Có chuyện gì thế?". - Thưa ông Morane, có người muốn đến thăm ông. Tiếng người hầu ở tầng lầu vang lên. Trong tư thế sẵn sàng sử dụng súng nếu có báo động, Bob rời cái ghế chặn cửa, quay chìa khóa, và mở hé cánh cửa. Trong khoảng không gian trống trải, bóng người hầu Ấn hiện ra, và tiếng nói lại vang lên : - Thưa ông Morane, có người muốn đến thăm ông. Đằng sau người hầu, Bob nhận thấy trong bóng sáng của hành lang có một thân hình đồ sộ khiến người ta phải nghĩ đến một con gấu hay con đười ươi đứng thẳng. Đột nhiên cái bóng đó di động, cánh cửa như bị đẩy bởi một chiếc xe tăng bốn chục tấn, mở toang ra, và một người tiến vào phòng. Quả thật là một tên khổng lồ, hắn cao hơn Morane một cái đầu, hai vai rộng đến độ chắn ngang cả bề rộng cánh cửa. Một khối lượng khổng lồ những xương cùng bắp thịt, mà theo Morane đoán nhận, có khả năng phản ứng nhanh chóng, đáng gờm. Cái đầu to, tóc hớt ngắn, gắn trên cái cổ như cổ bò rừng. Tuy có hình thể bất lợi như thế, người này không có vẻ gì là một con thú ngu đần. Cái trán cao vồ thẳng chứng tỏ sự thông minh, đôi mắt xếch của người Mông Cổ lấp lánh sáng với vẻ nhanh nhẹn. Hơn nữa, người mới tới này lại ăn mặc nếu không nói là lịch sự (điều này cũng khó đối với thân hình bồ tượng của hắn) thì cũng thuộc loại xa hoa. Bộ quần áo Tàu của hắn chắc hẳn phải đắt giá lắm, cũng như chiếc áo sơ-mi bằng nylon mịn rất hợp thời trang, và đôi giày da hươu màu vàng xám. Hắn cằm ở tay một cái nón rơm trắng có thắt dải lụa màu đỏ rực. Người mới tới thẩy cho người hầu một món tiền thưởng, nói với anh ta vài câu bằng tiếng Bengali, rồi khép cửa lại. Hắn quay lại nhìn Morane mỉm cười. Trên khuôn mặt rộng màu vàng, lưỡng quyền cao, hàm răng hắn trắng muốt, những chiếc răng trắng mạnh mẽ, răng của loài thú ăn thịt, nhai xương. Người mới tới cất tiếng hỏi bằng một giọng Anh khá chỉnh : - Phải tôi đang đứng trước thiếu tá Morane đây chăng? Nụ cười vẫn giữ nhưng trong đôi mắt ti hí lúc này chỉ còn là hai khe hẹp, tỏa ra một tia nhìn nghiêm khắc, lừ lừ. Hai người còn giữ im lặng, đứng nhìn nhau một hồi, sau cùng người lạ mặt mới nhắc lại câu nói : - Phải tôi đang đứng trước thiếu tá Morane đây chăng? Bob gật đầu : - Đúng tôi là thiếu tá Morane đây. Nhưng tôi không hiểu... Người kia lại mỉm cười, có cái vẻ như một con cọp sắp vô mồi : - Ông sẽ biết ngay đây thôi. Nhưng trước hết tôi xin được tự giới thiệu cái đã. Tôi là Kao Maimaitcheng, nhưng các bạn tôi và kẻ thù của tôi đều gọi tắt là Kao, thế thôi... Nếu ông lại muốn biết chức tước của tôi, thì xin nói ngay: tôi là... đặc phái viên của chính phủ nước tôi, tại Ấn Độ. Morane không vội trả lời. Chàng cũng không hy vọng có thể tống khứ tay này ngay. Bob không phải người chết nhát, chuyện đụng độ chắc là khó tránh, mà anh chàng Mông Cổ này chắc chắn là có thể tay không bóp vỡ một bao diêm quẹt. Chàng cũng không thể khi không hạ sát người khách bằng súng, và chàng cũng đoán rằng có đem súng ra dọa nạt cũng chẳng ăn thua gì. Tốt hơn hết là cứ thảo luận với nhau xem sao. Anh chàng Mông Cổ lại mỉm cười lần nữa, tự nhấc một chiếc ghế bành, kéo lại phía mình, ngồi xuống không đợi mời. - Ông có thể gọi tôi là Kao. Các bạn tôi và kẻ thù của tôi đều gọi tôi như thế, tôi đã nói rồi. - Cá nhân tôi, tôi chỉ gọi các bạn tôi bằng họ của họ mà thôi... Nào, tôi đợi nghe ông nói đây, ông Maimaitcheng. Anh chàng khổng lồ ngả người trên ghế, chẳng cần giữ gìn, cứ gác đôi chân lên nhau, đôi chân to như những cột đền và nhìn ngay mặt chàng người Pháp : - Thiếu tá Morane, tôi vào ngay vấn đề. Ông đang giữ bên mình một vật mà tôi lưu lâm, và muốn hỏi mua. Morane không nhíu mày. Chàng biết rõ vật đó là vật gì, nhưng vẫn làm ra vẻ không biết, nói : - Tôi không hiểu ý ông. - Ông sẽ hiểu ngay đây, tối hôm qua, ông có dính líu ít nhiều đến vụ ám sát ông giáo sư đáng thương Mainright. Trong vụ này, có một pho tượng nhỏ của nữ thần Kâli bằng kim loại tráng men cao chừng nhiêu đây... Báo chí không nói tới, nhưng pho tượng đó quả thật là có, và đang thuộc quyền sở hữu của ông. Morane suy nghĩ một lát. Tay Mông Cổ này có vẻ rất am tường thì chơi trò giả ngây giả điếc là vô ích, ít nhất cũng là trong lúc này. - Đồng ý có chuyện cái pho tượng đó, nhưng nếu ông tưởng rằng tôi đã chiếm giữ nó thì ông lầm đấy. Chính ông Sheela Khan cất giữ nó. Đó là một tang vật, lại dính dáng đến một án mạng, ông đừng quên điều ấy. Kao Maimaitcheng lắc đầu : - Không, thiếu tá ạ. Sheela Khan không giữ pho tượng. Tôi có tay chân ở trong giới cảnh sát Calcutta và ở nhiều nơi khác. Nghề của tôi là phải am tường... Đêm qua ông ở nhà giáo sư Mainright ra, ông có cắp dưới nách một vật gói trong một cái khăn trắng. Vật đó chính là pho tượng. Bob không trả lời. Chàng cũng không có thời giờ để trả lời, vì Kao đã nói liền : - Tôi đi nói rồi, tôi muốn pho tượng đó, và sẵn sàng chi rất cao giá. Đêm đó ông ở nhà ông Mainright ra thì ngươi của tôi đã rình sẵn để cướp lại, nhưng vì có cảnh sát đặc biệt của Sheela Khan bảo vệ ông, nên người của tôi không muốn liều mạng. Vả chăng, việc gì phải dùng đến bạo lực khi mà tiền bạc có thể dàn xếp? Ông đưa pho tượng cho tôi, và tôi xỉa ngay trước mặt ông một ngàn đô-la, tiên giấy đàng hoàng. Morane lại giữ im lặng. Maimaitcheng tưởng là chàng chê ít, lại tự tăng giá : - Hai ngàn đô-la, ông vừa ý chứ? - ... - Ba ngàn! - ... - Bốn ngàn! Chàng người Pháp ngồi nghe cuộc trả giá mà không nhíu mày. Một món tiền lớn như thế để đổi lấy một pho tượng nhỏ bằng chì tầm thường đủ làm động lòng một anh mù - câm - điếc mà thể chất tinh thần lại yếu đuối. Pho tượng này chỉ đáng giá năm đô-la là cùng, thế mà người ta chịu trả cả mấy ngàn. Chắc chắn là Maimaitcheng có dính líu đến vụ giết giáo sư Mainright, có thể chính hắn là kẻ chủ mưu nữa. Bob cảm thấy chàng chẳng sẵn sàng giao thiệp với hắn, hay với bất cứ một tên lưu manh nào đại loại như hắn. Nếu tay Mông Cổ này mà có trách nhiệm về cái chết của nhà bác học thì sớm muộn gì chàng cũng tìm cách nắm cổ hắn, giao cho cảnh sát. Maimaitcheng có sức mạnh bằng mười con đười ươi thật đấy, nhưng mặc hắn chứ. Tay Mông Cổ khổng lồ lại nói : - Năm ngàn đô la, lời nói cuối cùng của tôi đấy! Hắn rút ở túi áo trong của bộ quần áo Tàu ra một xấp giấy tiền màu xanh lá cây búng cho kêu tanh tách giữa những ngón tay chuối mắn của hắn. Morane nhăn mặt làm bộ như tiếc rẻ : - Tiền của ông tôi cũng ham lắm, ông Maimaitcheng ạ. Nhưng tôi không có pho tượng đó, đành chịu thôi. Tay Mông Cổ rướn mình trên chiếc ghế bành, lại đập xấp tiền sành sạch vào lòng bàn tay trái. - Ông nói hết rồi chứ, thiếu tá Morane? Bob nhún vai : - Không có vấn đề nói hết hay không nói hết. Ông trả tôi số tiền rất lớn cho pho tượng kia, nhưng tôi xin nhắc lại là tôi không chiếm giữ nó thì biết nói sao bây giờ. Tên Mông Cổ nhét xấp tiền vào túi áo trong : - Thiếu tá Morane! Rất tiếc là thấy ông cứng cổ như vậy. Mềm dịu không chiếm được thì tôi cũng đoạt được bằng sức mạnh thôi. Báo để ông biết! Hùng hổ, Kao tiến lại gần cái tủ, đúng cái tủ mà Bob đã gắn chặt pho tượng ở bên dưới, dùng sống bàn tay trái hắn chặt vào góc tủ một tiếng "chát". Có tiếng kêu "cách" ngắn ngủi. Một miếng gỗ nhỏ hình tam giác tách ra, như bị chặt bằng rìu lăn trên mặt đất. Tay Mông Cổ quay lại phía Morane nhe răng cười có vẻ huênh hoang : - Nếu tôi chặt như thế một cái vào cổ ông là ông chết tức thì, thiếu tá ạ! Chàng người Pháp vẫn lạnh tanh. Trong thâm tâm chàng có ý khâm phuc sức mạnh của Maimaitcheng, nhưng chàng cẩn thận rút khẩu súng lục từ túi trái áo ngủ, chĩa vào ngực anh khổng lồ nói với giọng thật bình thản : - Ông Maimaitcheng! Tôi mà đẩy một viên đạn vào tim ông thì ông cũng chết vậy. Chúng ta chẳng đứa nào thua đứa nào. Tay Mông Cổ cứng người. Hắn đưa mắt thăm dò đôi mắt của người đối diện, chỉ thấy một vẻ cương quyết lạnh tanh. Hắn rít lên : - Được lắm, thiếu tá! Ông nói cái giọng đó thì chúng ta chẳng còn gì để bàn cãi... ít ra là trong lúc này. Tuy nhiên nếu ông đổi ý thì ông vẫn có thể tìm tôi theo địa chỉ này. Hắn rút từ túi áo trên, bên phải, ra một tấm danh thiếp thẩy lên mặt tủ, nói với anh chàng người Pháp : - Thiếu tá Morane! Đừng quên điều này: Hễ tôi thích là tôi lấy cho bằng được! Tôi thích pho tượng này, tôi sẽ chiếm được nó. Bằng bất cứ cách nào... Bốn Morane lật đi lật lại tấm danh thiếp của tay Mông Cổ chỉ ghi có mấy chữ: "Maimaitcheng - Buôn bán đồ cổ - 64 phố Mizrhapur - Calcutta" Chàng lẩm bẩm: "Buôn bán đồ cổ? Có họa là mù... Ta chẳng thấy nổi cái thứ đười ươi quần áo sang trọng đi lại giữa những đồ sứ Trung Quốc. Cái mớ hàng lộn xộn này cũng đẹp đấy chứ nhỉ? Chắc chắn nghề nghiệp này chỉ bày ra để che đậy những hoạt động mờ ám. Nó được ông bạn Kao của ta dùng như chiếc mặt nạ trong một cuộc vũ trá hình mà thôi". Chế nhạo cho vui vậy thôi, chứ Bob cũng không giấu nổi sự lo lắng. Chàng đoán những lời hăm dọa của Maimaitcheng chẳng bao lâu sẽ được đem thực hiện. Chàng biết rằng lần này chàng đụng độ với một phe mạnh. Để đạt mục đích, tay Mông Cổ chẳng chùn tay trước bất cứ một việc hung ác nào, và có lúc Morane mất hẳn niềm tự tin. Chuyện sẽ đơn giản khi chàng từ bỏ pho tượng, trao lại cho Maimaitcheng, và đừng để tâm đến vụ án là xong ngay! Nhưng trong thâm tâm Bob không đời nào chấp nhận một giải pháp như thế. Nhất là vì tình bằng hữu với ông bạn già Aristide Clairembart, và cũng còn vì công lý, chàng chẳng muốn để thằng sát nhân giết giáo sư Mainright không phải đền tội. Hơn nữa, chàng muốn biết vì sao một pho tượng nhỏ bé lại có giá trị lớn lao đến thế. Chẳng vì nó mà người ta đã giết người, và vì muốn có nó mà Kao Maimaitcheng đã trả tới giá là năm ngàn đô-la hay sao? Mặt khác, Bob không tin rằng có thể nhờ cậy ở Sở cảnh sát và Sheela Khan! Phải nhận rằng trong suốt câu chuyện này ông ta không tỏ vẻ gì là có tính nhậy bén. Anh chàng người Pháp càu nhàu : - Sheela Khan! Những câu nói vô tình của hắn có giá trị là làm cho ta được quen biết với ông Maimaitcheng! Cái dây liên lạc này lẽ ra đâu có tròng vào ta. Ta rất muốn tới để làm cho cái giọng oang oang của tay cảnh sát hay nói này giảm bớt xuống. Hắn mà đuổi ta ra thì khổ cho hắn thôi. Mà dễ gì đuổi được thằng Bob Morane này, đằng sau nó còn tờ tạp chí "Phản Ánh" nữa cơ mà! Thúc đẩy bởi ý nghĩ báo thù, Bob vội vã mặc quần áo. Nhưng lúc sắp rời phòng chàng nhớ tới pho tượng thần Kâli. Nếu Maimaitcheng nảy ý tới "viếng" trong lúc chàng vắng mặt thì hắn chẳng khó khăn gÌ mà không khám phá ra pho tượng. Gỡ pho tượng ở bên dưới tủ ra, Bob lại bọc nó trong chiếc khăn đã dùng đêm qua, rồi bước ra khoá cửa phòng lại cẩn thận, sau đó xuống tầng dưới của khách sạn. Tại đây chàng tới phòng tiếp nhận giữ đồ, đưa cái gói đựng pho tượng cho nhân viên phụ trách : - Ông có thể cất cái này vào tủ sắt được không? Nhân viên phụ trách là một người Ấn, vẻ mặt nghiêm nghị, cử chỉ kiểu cách, liền gật đầu - Được ngay, thưa ông! Ông ta mở tủ sắt ở phía sau, đặt cái gói vào, rồi đóng cửa tủ và gài then an toàn. Yên tâm là pho tượng đã được cất kỹ, Bob vừa định quay đi thì người phụ trách gọi chàng : - Thưa ông, tôi quên. Có lá thư gời cho ông. Người hầu phụ trách tầng lầu mẳc bận, không đem lên cho ông được. Thư cũng vừa mới tới cách đây có vài phút thôi. Ông ta lăy trong ngăn kéo ra một bao thư màu trắng đưa cho Bob. Chàng coi lại xem có phải lá thư gửi cho mình không, quả nhiên là đúng. Bên ngoài ghi rõ: "Gửi thiếu tá Morane - Khách sạn Thanh Xà" Bob tự hỏi: "Lại chuyện gì nữa đây? Hôm qua ta nhận lá thư đầu, và rồi bao phiền nhiễu đã xảy ra". Chàng ngắm nghía phong bì với vẻ e dè: địa chỉ ghi ngoài được đánh máy nên chàng không đoán được điều gì. Nóng nảy, chàng xé mép phong bì rút ra một lá thư, nội dung thế này : "Thưa ông Morane, Khi nào tiện dịp, xin ông lại ngay văn phòng của tôi ở đường Chowringhee, để tôi có thể trao cho ông một thông điệp gửi ông, do ông giáo sư bất hạnh Mainright để lại. Tôi không rõ nội dung thông điệp, nhưng có thể nó nêu lên một vấn đề hết sức quan trọng. Thân ái, Graham Lowbridge". Bob ngẩng đầu lên. Ông Graham Lowbridge là người thế nào, làm sao ông ta lại giữ một thông điệp cảa giáo sư Mainright? Có phải đây là một cạm bẫy do Maimaitcheng giăng ra hay không? Tuy nhiên khó mà tin phục kích ở giữa phố Chowringhee, một phố đông đúc tại Calcutta. Morane quay tại, hỏi nhân viên phụ trách : - Ông có biết một người nào tên là Graham Lowbridge không? Người Ấn cho biết : - Ở Calcutta ai cũng biết ông Graham Lowbridge. - Thật ra ông ấy là người thế nào? - Một luật sư. Ông ấy trông coi tài sản cho những người Anh giàu có nhất ở thành phố này, và ở cả khắp xứ Bengale nữa. - Có thể tin cậy ở ông ấy không? - Thưa ông, đáng tin cậy. Uy tín của ông Graham Lowbridge thì không có gì phải ngờ. Morane cảm ơn người nhân viên và vội vã tiến ra cửa. Chàng bỏ hẳn ý định tới viếng Sheela Khan,chàng chỉ nghĩ đến cái thông điệp của giáo sư Mainright để lại cho chàng, có thể qua đó chàng sẽ tìm được sự giải thích những điều bí ẩn đặt ra cho chàng từ hôm qua. Chàng cũng quên luôn những lời đe dọa của Maimaitcheng, bây giở chỉ còn một điều mà chàng lưu ý tìm hiểu là sự bí mật của pho tượng thần Kâli. Chàng bước ra ngoài phố, và vì đầu óc bận rộn những chuyện khác, chàng không nhận ra một người Ấn Độ mặc bộ com-plet bằng dạ màu đen đang ngồi sẵn ở phòng lớn khách sạn. Người này thấy chàng ra, vội vã theo gót. Sir Graham Lowbridge có một văn phòng dịch vụ để tiếp khách rất rộng ở lầu ba của một tòa nhà lớn tại đường Chowringhee. Ông ta đón Morane rất lịch sự, và sau khi bắt tay, ông ta hỏi chàng, có vẻ bối rối một chút. - Ông có thể chứng minh lý lịch của ông chăng, thiếu tá Morane? Morane không đáp, trình ra tờ thông hành. Nhà luật sư mở cuổn sổ nhỏ đó ra coi đi coi lại mãi rồi mới trả lại cho ông khách. - Tôi tin rồi, thiếu tá ạ. Thông điệp để lại cho ông có một nội dụng rất quan trọng, tôi phải biết chắc để trao đúng vào tay người nhận, vậy ông cũng thứ lỗi cho thái độ vừa rồi của tôi, có chút... ờ, ờ... không được lịch sự. Bob không để ý đến câu nói của ông ta, đáp : - Chẳng cần xin lỗi, ông ạ. Ta đi vào việc ngay thôi. - Tôi không dài dòng đâu, thiếu tá ạ. Tối hôm qua có việc ở lại văn phòng lâu hơn thường lệ đôi chút, tôi vừa tính về nhà thì một người đầy tớ của giáo sư Mainright tới gặp tôi, đưa cho tôi một bao thư lớn, bên trong tôi lại thấy một bao thư nhỏ hơn, niêm phong kỹ lưỡng, lá thư này đây. Lowbridge đưa cho Morane một tờ giấy, và Bob nhận ngay được nét chữ của giáo sư Mainright. Chàng đọc lướt : "Bạn Graham thân mến, Lá thu đựng trong bao thư kia là dành cho ông thiếu tá Morane, phải được trao tận tay ông ta sau khi tôi chết, nếu cái chết xảy ra trong vài giờ nữa. Hiện thời thiếu tá Morane ở tại khách sạn Thanh Xà, anh có thể liên lạc qua địa chỉ đó. Lá thư này có tầm quan trọng cơ mật, bởi vì mạng sống của hàng ngàn người lệ thuộc vào đó. Anh đừng tìm hiểu nội dung của nó. Không phải là tôi không hoàn toàn tin tưởng ở anh đâu, nhưng càng ít người biết chuyện này thì càng hay hơn. Anh không thể hoàn thành sứ mạng mò tôi muốn trao cho thiếu tá Morane được đâu. Hãy tin tưởng ông ta. Bạn anh Cecil Mainright". Tái bút: Để hoàn thành sứ mạng này, nếu thiếu tá Morane có cần tiền thì anh cứ đưa lén cho ông ta. Gia tài của tôi cũng còn khá dồi dào để dành cho những thằng cháu vô tích sự của tôi. Đọc xong, Bob đặt lá thư lên bàn, trước mặt Sir Graham. Chàng nói : - Đoạn sau thì dễ hiểu. Sáng nay đọc báo hay tin ông giáo sư đáng tội nghiệp Mainright đã chết, tức thời ông gọi cho tôi? Nhà luật sư gật đầu : - Đúng thế, thiếu tá ạ. Tôi rất thương yêu Cecil, chúng tôi cùng học ở đại học Cambridge. Rồi chúng tôi lại gặp nhau ở đây, anh ấy giao phó tài sản cho tôi trông coi. Theo tôi cái chết của anh ấy có nhiều mờ ám. Hãy trả thù cho anh ấy ông sẽ chiếm được tình bạn của tôi. Bob Morane nhận thấy giọng nói của ông Graham Lowbridge có chút run run, nhưng ngay sau đó ông ta lấy lại được cái tính phớt lờ, mang cái vỏ bên ngoài lạnh lùng và vô tư. Ông ta rút trong ngăn kéo bàn giấy lấy ra một bao thư có đóng dấu đưa cho anh chàng người Pháp, nói : - Thư này để trao cho ông. Thấy Bob có vẻ muốn phá niêm khằn, Lowbridge vội ngăn lạị : - Không, thiếu tá ạ! Ông đọc một mình ông thôi. Đọc trước mạt tôi rồi nhỡ vì lịch sự ông lại muốn cho tôi biết nội dung thì sao? Tôi chẳng muốn biết chuyện đó một chút nào. Phải tôn trọng ước nguyện cuối cùng của ông Mainright, ông ạ. Chỉ một mình ông được biết nội dung lá thư, đừng quên điều đó. Không ngần ngừ, Morane nhét lá thư vào túi áo trong rồi đứng dậy. Hai người bắt tay nhau. Sir Graham lại nói : - Nếu cần tiền thì ông đừng ngại. Cecil Mainright rất giàu, và đã dặn tôi chi tiền cho ông bao nhiêu cũng được. Đừng quên điều ấy. Nhưng Bob lắc đầu : - Không, tôi không cần gì, Sir Graham ạ. Trong vụ này tiền bạc chẳng làm được gì. Tôi tin chắc rằng điều cần cho tôi là nhiều can đảm... và may mắn. Nói rồi, Morane rời văn phòng luật sư, ra đường. Chàng kêu một chiếc taxi, và mười phút sau đã về đến phòng lớn của khách sạn Thanh Xà. Nơi đây đang ồn ào, một nhóm đông người xúm lại quanh bàn tiếp khách. Bob lại gần. Vừa thấy chàng, nhân viên phụ trách nhảy nhỏm lên : - Thưa ông, tôi phải trình với ông một tin rất xấu: mới cách đây mấy phút một nhóm chừng năm sáu người đeo mặt nạ đột nhập vào đây, đưa súng hăm dọa bắt tôi phải mở tủ sắt, tôi đành nghe lời và bọn cuớp mang đi cái gói mà ông vừa giao cho tôi lúc nãy. Bob nhảy đựng. Chàng nghĩ: Cái tên Maimaitcheng này lẹ chân lẹ tay quá. Và quay qua người nhân viên, chàng hỏi : - Những người mang mặt nạ có lấy cái gì khác nữa không? Người Ấn lắc đầu : - Không lấy gì khác, thưa ông! Chúng lấy cái gói của ông và chuồn lẹ. Có chiếc xe lớn đợi bên ngoài. Cần báo cảnh sát không? - Tùy ông. Tôi nghĩ thủ tục phải vậy, nhưng theo tôi thì cũng vô ích thôi. Gói hàng đó cũng chẳng đựng thứ gì quý giá. Một thánh tích thôi ấy mà! Không muốn giai thích thêm, Bob về phòng. Đóng các cửa sổ, súng đặt ở tầm tay, chàng vội vã mở lá thư của giáo sư Mainright. Năm "Thiếu tá Morane Khi ông đọc lá thư này thì tôi đã phải chết. Tôi tính trao thư cho người bạn đồng thời là người tin cậy của tôi là ông Graham Lowbridge. Tôi cũng gửi ngay lúc đó một lá thư về chỗ khách sạn ông ở, yêu cầu ông tức thì đến gặp tôi. Nếu ông tới trễ thì Lowbridge sẽ liên lạc với ông để trao cho ông lá thư này. Ông nên biết, thiếu tá ạ, tôi chẳng muốn ép ông phải liều mạng trong một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, và có thể là không có lối thoát. Tôi để ông tự suy nghĩ xem có nên hay không. Tôi nhờ đến ông là vì trong thư từ trao đổi, người bạn chung của chúng ta là ông Clairembart thường nói với tôi về sự can đảm và tận tụy của ông. Theo ông ấy thì khi có lý do chính đáng bao giờ ông cũng sẵn sàng nhập cuộc. Thế mà trong câu chuyện dưới đây, liệu có lý do nào chính đáng hơn, hay ít nhất cũng nhân đạo hơn nữa chăng? Cách đây nhiều ngày, ngay sau khi ông vừa tới Ấn, tôi có thể để ông liên lạc với tôi, để tôi nói cho ông biết rành rẽ sự việc. Nhưng rồi tôi cứ ngần ngại mãi, là vì không biết sự việc còn đưa tới thảm trạng nào trong những ngày sắp tới. Chắc chắn ông đã nghe nói tới Kâli, Hắc thần của sự Phá hoại và Chết chóc. Theo tín ngưỡng của người Ấn thì vị thần ấy là hậu thân của Pârvatê, vợ của thần Siva, là Ma vương Ấn Độ, thần của các sức mạnh ma thuật. Chuyện khá vô lý, vì thần Siva là vị thần của sự khôn ngoan, và chỉ nhờ ngài mà tín đồ mới có thể tri thức sự vật. Chuyện huyền thoại kể rằng - tôi đi vào phần chính của câu chuyện đây - khi Kâli đánh thắng Ma vương Raktivaji, kẻ thù hăm dọa các vị thần, thì chồng bà đưa biếu bà một pho tượng nhỏ bằng vàng tráng men, tạc theo hình bà. Vẫn theo huyền thoại, các tín đồ thờ thần Kâli đã đem đặt pho tượng nhỏ đó để thờ trong một ngôi đền bí mật mà chỉ những tăng sĩ chân truyền mới được biết. Vào thế kỷ trước, khi người Anh quyết định tận diệt hội đoàn khủng bố của người Thug - những kẻ siết cổ người gieo kinh hãi khắp xứ với mục đích duy nhất là để lảm hài lòng thần Kâli - thì quả nhiên họ khám phá ra tại một ngôi đền trên núi có một pho tượng nhỏ của vị Hắc thần. Pho tượng đó nghe đâu bằng vàng nguyên chất, được tráng men rất đẹp. Trong một thời gian lâu dài nó nằm trong tay của chính quyền Anh. Đại tướng Sleeman, người chiến thắng bọn Thug đi cho đúc một pho tượng giống hệt, nhưng bằng chì dành cho bộ sưu tập riêng của ông ta. Pho tượng nguyên bản thì ra sao? Không có ai biết rõ được. Vào cuối thế kỷ trước nó đã biến mất, và người ta huyên truyền là các tín đồ của Kâli đã lấy lại được pho tượng, đem đặt trong một ngôi đền bí mật khác, cũng ở trên núi, đâu đó trong địa phận Javhalpur. Khi tôi đến Ấn cách đây gần ba mươi năm, tôi đã tìm cách mua lại được một phần bộ sưu tập của tướng Sleeman, trong đó có pho tượng bằng chì. Tôi giữ gìn cẩn thận không phải vì giá trị riêng của pho tượng mà vì tính cách sử liệu của nó. Nhiều năm đã trôi qua, cách đây sáu tháng một nhà thám hiểm người Anh tên là Osborne có đến tìm tôi. Ông ta từ vùng đất Javhalpur trở về. Ở đó, tại một vùng sâu của một dãy núi, ông ta đã khám phá ra một ngôi đền cổ đúc vào trong núi mà vô tình ông ta lọt tới. Tại chính giữa ngôi đền, trên đỉnh của một thứ như kim tự tháp có đặt pho tượng nhỏ của thần Kâli. Vì ngôi đền vắng người, Osborne đã lấy pho tượng, cậy thử một miếng men tráng, nhận ra rằng pho tượng đúc bằng vàng. Osborne biết rành về việc thờ cúng thần Kâli, tin chắc rằng mình đã tìm thấy pho tượng của truyều thuyết và là vật đã bị đánh cắp khỏi tay chính quyền Anh. Khoái chí trước vật tìm thấy, Osborne giấu nó vào trong túi xách của mình và đã ra thoát ngôi đền mà không ai biết. Vừa trở về Calcutta, ông ta tới tìm tôi đề nghị bán cho tôi với giá gấp năm lần giá vàng theo trọng lượng của pho tượng. Nghiên cứu kỹ chẳng bao lâu tôi xác nhận được rằng quả đúng là pho tượng chính nên tôi đồng ý mua ngay. Pho tượng truyền thuyết thế là thuộc quyền sở hữu của tôi, và tôi không để hở với ai một câu nào về chuyện đó. Bốn tháng trời qua đi, cách đây vài tuần, vào một buổi sáng, người ta tìm thấy tử thi của Osborne tại một bãi đất hoang, không xa bờ sông Hoogly bao nhiêu. Trên cổ Osborne rành rành dấu vết bị thắt cổ bằng một chiếc khăn quàng hay một vật gì gần như vậy. Tôi hiểu liền: đây là dấu vết của bọn Thug, dấu vết của Kâli... Phải chăng Osborne đã nói ra sự khám phá của mình và kẻ nào đó trong các tín đồ của Hắc thần đã khám phá ra dấu tích ông ta? Từ hôm ấy, tôi thường nghe những nguồn tin theo đó thì đã rải rác tìm ra có đến mấy chục người, tất cả đều là người Hồi giáo bị thắt cổ ở nhiều nơi, hầu như khắp cả miền Bengale. Tại sao lại là người Hồi? Tôi nhớ tới những biến động quan trọng xảy ra cách đây nhiều năm. Khi quân đội Anh ra đi, Ấn Độ chia làm hai khối Liên bang Ấn và Hồi quốc. Hai bên Ấn, Hồi đã xung đột và theo sự ước tính thật khiêm tốn thì đã có tới trăm ngàn nạn nhân bỏ mình. Việc đánh cắp pho tượng nhỏ thần Kâli liệu có gây lại một cuộc chiến tranh tôn giáo nữa hay không? Tại sao các tín đồ của Kâli lại thanh toán người Hồi giáo, trong khi chính Osborne đã đánh cắp pho tượng? Hành động đó của bọn Thug không khỏi khiến tôi phải lo lắng. Từ hơn nửa thế kỷ nay họ đã không có hoạt động gì để người ta phải nói đến. Từ khi người Anh ra đi họ có lợi dung những sơ hở để hoạt động trở lại hay không? Tất nhiên là tôi cũng khó trả lời. Nhưng khi cảm thấy gặp nguy, tôi đã đem pho tượng thiêng giấu vào một nơi an toàn, chỉ giữ lại trong nhà bản sao bằng chì thôi. Bọn Thug có tìm cách đụng đến tôi chăng? Cách đây hai ngày có một người khách lạ đến thăm, hắn xưng tên là Kao Maimaitcheng, tự nói là nhà buôn đồ cổ. Hắn nói rằng qua một nguồn tin chắc chắn, hắn được biết pho tượng thiêng đang thuộc quyền sở hữu của tôi và hắn trả giá cho tôi tới mười ngàn đô-la. Lẽ tất nhiên là tôi từ chối, quả quyết rằng tôi chưa từng nghe nói đến pho tượng đó. Maimaitcheng ra về, quả quyết bằng một giọng hăm dọa; dù sớm hay muộn, dù tự ý hay bị ép buộc, tôi cũng phải chấp nhận việc trả giá của hắn. Từ lúc Maimaitcheng tới thăm, tôi cảm thấy gặp nguy. Có những kẻ lạ mặt rảo quanh ngôi nhà tôi, và tối nay tôi hãi hùng nhận ra rằng tất cả đầy tớ đã bỏ tôi mà đi, chỉ còn có một người. Dây điện thoại nhà tôi bị cắt từ bên ngoài, khẩu súng lục trong ngăn kéo bàn giấy biến mất. Tôi biết rằng mình bị bọn Thug đe dọa và chúng muốn lấy pho tượng thiêng của tôi. Tôi có nên báo cảnh sát không? Không, chẳng ai tin chuyện tôi nói đâu. Chính thức thì bọn Thug đã biến hẳn ở Ấn từ nhiều năm, chẳng còn ai muốn khơi lại chuyện cũ. Vì thế, tôi đã cầu cứu đến ông, thiếu tá Morane ạ. Người hầu duy nhất còn trung thành với tôi là Bhopal sẽ tìm cách ra khỏi nhà, mang một bức thư cho người bạn tin cẩn của tôi là ông Graham Lowbridge, và một lá thư gửi tới địa chỉ của ông, thiếu tá ạ. Nếu ông tới quá trễ không thể nghe chính miệng tôi kể chuyện trên kia thì lá thư này cũng cho ông biết tường tận. Tôi đã dặn kỹ Graham Lowbridge chỉ trao lá thư này cho ông sau khi tôi chết. Bây giờ, còn một việc nữa, thiếu tá ạ, là tôi sẽ trao cho ông một sứ mạng. Tôi có những lý do đáng tin cậy để nghĩ rằng các tín đồ Kâli đang tìm cách khơi dậy một cuộc thánh chiến giữa người Ấn và người Hồi. Hiện nay chỉ có vài người bị thắt cổ ở vài chỗ, nhưng mai kia có thể sẽ là một cuộc tàn sát. Làm sao để ngăn chặn? Tôi thấy chỉ có một giải pháp: đem pho tượng thiêng trả lại ở chỗ nó bị lấy đi, trong ngôi đền bí mật trên ngọn núi vùng Javhalpur. Khi đó hận thù sẽ tự dập tắt. Biết tôi chú tâm đến ngôi đền đó, Osborne đã để lại cho tôi một bản đồ nhỏ có thể tìm lại đường đi, tôi vẽ lại ở cuối lá thư này. Pho tượng thiêng hiện nằm trong tay một người bạn tôi là John Singar, một người Ấn theo đạo Thiên Chúa, ông ta là một người thẳng thắn và lương thiện, ông có thể tin cậy òng la. Ông hãy tới gặp ông ta, chỉ cần nói một câu vắn tắt "Trafalar và tháp Luân Đôn", đó là ám hiệu để nhận nhau mà chúng tôi đã thỏa thuận. Ông ta sẽ trao lại ngay pho tượng nhỏ. Còn một lời dặn thêm: chắc chắn khi thi hành sứ mạng ông sẽ gặp nhiều khó khăn, vậy ông nên tìm gặp Shedar Sing. Sẽ có lợi cho ông nhiều đấy. Có lẽ ông cũng đã nghe nói nhiều về ông này ở Ấn Độ, người ta coi ông ta là người kế nghiệp tinh thần của thánh Gandhi, là người chống đối bạo lực rất mạnh mẽ, có thể khuyên nhủ và giúp ích nhiều cho ông. Bây giờ tôi xin ngừng bút, vì thời giờ cấp bách lắm rồi. Tôi xin nhắc lại, thiếu tá ạ, hãy vì tình bạn chung của chúng ta đối với Clairembart, vì công lý và hòa bình mà đem pho tượng thần Kâli đặt trở lại trên bệ thờ bằng đá trong ngôi đền bí mật ở Javhalpur. Cecil Mainright" Tái bút: "John Sjngar ngụ tại số 85 đường Gopal, lầu một". Bob nhìn chăm chú lá thư: chữ viết nguệch ngoạc chứng tỏ người viết đã rối trí lắm rồi. Bây giờ thì mọi việc sáng tỏ: sau khi Bhopal, người đầy tớ được ủy thác mang hai bức thư vừa đi khỏi, một tên đã đột nhập vào nhà giáo sư Mainright, lựa dịp thắt cổ ông, rồi tưởng rằng đã chiếm được bức tượng thiêng, bèn quấn vào trong một cái khăn buộc chặt chã đem đi, nhưng lại chỉ đem đi được có phó bản bằng chì. Lúc ra khỏi nhà hắn đụng phải Morane, dùng dao định đâm Morane. Nhưng thấy mình dưới cơ, đành chuồn mất, để lại pho tượng giả trên mặt đất. Đột nhiên một chi tiết xoáy vào đầu Morane: tên Thug đã dùng đến dao. Bob nhớ lại đã đọc ở đâu đó nói rằng người Thug không được làm đổ máu, vì làm vậy thần Kâli sẽ giận. Vì lý do đó mà họ chỉ dùng "dây thiêng" để thắt cổ nạn nhân. Bob mỉm cười, nói thầm: "Hề! Hề! Vái trời tên Thug kia quả thật không phải là người Thug nhỉ!" Ngay khi đó có tiếng chuông điện thoại reo. Bob nhấc ống nghe. Điện thoại viên của khách sạn lên tiếng : - Thưa ông, có người muốn gọi dây nói cho ông. Để tôi mắc đường dây liên lạc nhé! Bob đợi vài giây đồng hồ thì có tiếng người hỏi : - Phải đúng thiếu tá Morane đấy không? Bob nhận ngay được giọng nói. Chàng hỏi : - Ông muốn gì ở tôi nữa đây, ông Maimaitcheng? - Tôi chỉ muốn nói chuyện trở lại với ông về pho tượng thôi. Morane không trả lời ngay. Chàng biết là tay Mông Cổ kia muốn đi đến đâu rồi, nhưng chàng giả bộ như không biết. - Dẹp đi, không có tượng tiếc gì hết! Bọh thủ hạ của ông vừa tới lấy từ trong tủ sắt của khách sạn đem về cho ông rồi, còn gì nữa? À này, có sòng phẳng thì ông gửi trả cho tôi năm ngàn đô-la đi nhé! Thật ra Bob chẳng muốn mó tay vào món tiền của nợ này, nhưng chàng vừa đặt ra một chương trình nho nhỏ nên tiếp tục đóng trò vậy thôi. Trong ống nghe có tiếng cười nhạo rộ lên : - Năm ngàn đô la! Ông muốn riễu đấy chứ, thiếu tá? Cái giá đó chỉ thực hiện nếu ông thuận lòng trao cho tôi pho tượng kia. Pho tượng thật. Tiếp tục trò đùa, Bob giả bộ ngạc nhiên : - Pho tượng thật? Tôi không hiểu. - Đừng giả bộ ngây thơ, ông thiếu tá! Pho tượng trong tủ sắt đúc bằng chì, ông biết rõ quá mà! - Tất nhiên là tôi biết... Thế ông tưởng là nó bằng thứ gì. Bằng bạc, bằng vàng, bạch kim hay kim cương? Giọng của tay Mông Cổ khô khốc, hình như hắn rất giận mà cố nén : - Coi chừng, ông thiếu tá! Cái gì cũng có giới hạn, dù là lòng kiên nhẫn đi nữa! Đến lượt Morane vẫn tiếp tục trò khôi hài, cười rộ lên : - Ái chà! Ông Maimaitcheng, ông bắt đầu dựng chuyện đấy! Tôi chỉ biết có một pho tượng mà ông vừa lấy cắp của tôi. Tôi tới Ấn là để viết một thiên phóng sự về sông Hằng. Một trong những người bạn Pháp của tôi là giáo sư Clairembart đã giới thiệu tôi với một người bạn của ông ta ở Calcutta. Nhà bác học, giáo sư Mainright biết tường tận về Ấn Độ và người Ấn. Vừa tới nơi tôi gọi điện thoại liên lạc ngay với ông ta. Tối hôm qua ông Mainright gửi cho tôi một lá thư cầu cứu, tôi đến nhà ông ngay và đã đụng độ với tên sát nhân. Chúng tôi đã đánh lộn và tên kia bỏ trốn, để lại trên mặt đất pho tượng nhỏ thần Kâli mà ông đã biết... Đó là tất cả những gì tôi biết, còn ông thì chẳng cho tôi biết chuyện gì khác. Dầu sao, tôi cũng chẳng nhúng tay vào những mưu mô mờ ám của ông. Kao Maimaitcheng lặng yên một lát, rồi dịu giọng hỏi lại : - Thì ra ông không biết rằng pho tượng chỉ là phó bản của phó tượng chính, quý hơn nhiều, cũng thuộc quyền sở hữu của giáo sư Mainright hay sao? - Làm sao tôi biết được? Tôi mới nhìn thấy giáo sư Mainright lần đầu tiên trong đời, là tối hôm qua, lại đã chết. - Thế mà ngay sáng nay ông đã tới chỗ ông Graham Lowbridge là người được giáo sư Mainright tin cẩn ủy thác các áp-phe của ông ấy. Bob thừa nhận đòn hiểm nhưng chàng trấn tĩnh lại ngay. Vô ích khi chối cãi chuyện mình đã tới chỗ ông Lowbridge, phải tìm ra một cớ gì để che giấu và chàng tìm được ngay. - Cảm ơn ông đã săn sóc tới bản thân tôi, ông Maimaitcheng ạ! Nhưng cuộc thăm viếng của tôi ở văn phòng ông Graham Lowbridge chẳng có gì là bí ẩn. Giáo sư Mainright không muốn thấy bộ sưu tầm khảo cổ của ông bị bọn cháu phân tán, đã đem ủy thác cho giáo sư Clairembart ở Paris, là người bạn chung của chúng tôi. Qua báo chí, ông Lowbridge biết tôi có mặt ở Calcutta đã gọi tôi lại ngay để hỏi tôi có chịu nhận lãnh đặng làm thủ tục chuyển nhượng tại chỗ hay không. Trong các thủ tục đó có một việc là phải lấy cho được sự xác nhận của ông Clairembart. Ở đầu dây bên kia có tiếng cười nhỏ, tỏ ý không tin : - Ông có óc tưởng tượng phong phú lắm, thiếu tá ạ. Nhưng tôi chẳng dễ bị bịp đâu. Tôi biết chắc ông biết chỗ cất giấu pho tượng thần Kâli thứ thật đấy nhé, và chẳng lâu đâu, ông sẽ cho tôi biết chỗ cất giấu. Ông nghe chứ: chẳng lâu đâu. Bob nghe một tiếng "cách" khô khan. Kao Maimaitcheng đã cúp máy, chàng cũng bỏ ống nghe xuống. Sau đó chàng đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng, mặt đanh lại: "Thằng cha Kao Maimaitcheng này, bắt đầu làm ta sợ thật sự đây. Ta đoán hắn đủ sức nhai nát xác ta ra". Một hồi lâu, chàng cứ tiếp tục lượn đi lượn lại như con cọp trong chuồng. Sau cùng chàng ngừng lại, cất cao giọng : - Dẫu sao thì cũng không vì anh bạn Kao nhe nanh mà ta lại từ bỏ một cách dễ dàng cho được. Trong đời, ta đã gặp bao kẻ khác khó nhẳn mà có hề hắn gì đâu? Chàng lấy lá thư của giáo sư Mainright mà chàng để trên giường, xé rời cái phần có vẽ bản đồ chỉ đường đi tới ngôi chùa bí mật ở Javhalpur. Phần còn lại chàng xé nát ra từng mảnh nhó, vất vào trong lavabô, mở vòi nước. Rồi chàng gấp tấm bản đô thành một hình chữ nhật nhỏ, mỗi chiều chừng hai phân rưỡi, nhét vào một bao đựng lưỡi lam, bỏ vào trong một cái túi, bỏ túi này vào trong ngăn đựng khăn lược. "Bây giờ theo lời khuyên nhủ của giáo sư Mainright, ta sẽ tới thăm Shedar Sing để hỏi ý kiến, qua đó ta mới quyết định được phải hành động theo hướng nào. Hiện thời, đừng có quyết định lấy lại pho tượng thiêng vội. Nếu nó ở nhà ông John Singar thì nó vẫn ở đó, thêm một vài giờ hay một vài ngày thì cũng chẳng sao". Có tiếng gõ cửa, và giọng người hầu phụ trách tầng lầu kêu qua khe cửa : - Có kiện hàng gởi cho ngài Morane đấy! Kiện hàng đó được gói cẩn thận bằng giấy màu nâu và buộc dây đàng hoàng, đựng pho tượng bằng chì. Một tấm thiệp mang tên Kao Maimaitcheng được đính kèm. Một vài chữ viết tay bên dưới dòng chữ in như sau: "Đồ chơi này chẳng dùng được việc gì cho tôi, xin hoàn trả lại ông. Nhưng thiếu tá Morane ạ, chớ quên rằng nữ thần Kali chủ về sự Chết". Bob lẩm bẩm: "Quả thật anh chàng Kao này là người bạn vui tính. Hắn có ý đồ rõ rệt... vì qua việc này hắn lại có tính riễu cợt". Chàng nhìn đồng hồ đeo tay, thấy đã quá 12 giờ mới giật mình, cảm thấy đói bụng, và đã tới giờ xuống phòng ăn. Chàng thầm nghĩ: "Đói hả? Chuyện này cũng nguy hiểm vì có tay Maimaitcheng ở bên. Nhất là hắn lại có vẻ rất muốn hại ta. Dám có một loại độc dược của rừng núi ở trong món xốt cà hoặc có những rầm nứa trong món cháo của ta". Bob chẳng ưa thuốc độc lấy trong rừng cùng là rầm nứa. Tuy nhiên chàng vẫn ăn bữa trưa rất ngon lành. Sáu Mọi người ở Calcutta đều biết nhà ông Shedar Sing. Đó là một ngồi nhà lớn bằng đá của một ông Thống sứ giàu có người Anh bỏ tiền ra xây cất ở thế kỷ trước. Vì mặt trời và gió chướng liên tục ào đến nên mặt tiền có đôi chỗ bị hư hại nhưng nhìn chung thì ngôi nhà vẫn còn bề thế. Bấy giờ là khoảng ba giờ chiều, lúc mà Morane rung chuông ở cái cửa lớn có hai cánh theo kiểu từ thời nữ hoàng Victoria. Tức thì, một cánh cửa mở rộng và một ông già nhỏ con, mặc chiếc áo dài trắng hiện ra. Bob nói : - Tôi muốn nói chuyện với ông Shedar Sing. - Ông có hẹn trước? Morane lắc đầu : - Không. Tôi định gọi dây nói, nhưng ông Shedar Sing không gắn điện thoại ở nhà nên mới phải đến đây, qua sự tiến cử của giáo sư Mainright. Người hầu tránh chỗ cho chàng người Pháp bước vào một cái sân rộng có lát gạch. Vài con rồng bằng đồng trên mình đã có từng vùng han rất lớn, màu xanh, như đang nhe nanh canh nhà cho chủ. Đi qua hết cái sân người hầu với Morane theo sau leo lên một cầu thang đồ sộ mà những bậc thềm đá hoa qua thời gian và vì mưa trút liên tục nhiều mùa đã bị xói mòn nhiều chỗ. Người Ấn đẩy một cánh cửa, đi dọc theo hành lang dẫn Morane vào một phòng lớn ngổn ngang những đồ mỹ thuật. Trong các góc nhà, trên những bệ bằng đá cẩm thạch hoặc vân mẫu, những tượng ma vương nhăn mặt hăm dọa, đưa ra nhiều cánh tay. Khắp nơi trên những ghế thấp đặt những cái bình quý giá của Ấn Độ, Ba Tư hay Trung Hoa. Trong một chiếc lư nhỏ bằng đồng chạm trổ khéo léo, mùi trầm thơm tỏa ra, bốc khối màu xanh. Người hầu chỉ một cái ghế mời khách : - Mời ông ngồi chơi. Tôi xin thỉnh thị ý kiến chủ nhân có vui lòng tiếp ông chăng. Bob ngồi xuống. Người lão bộc đi ra bằng một cánh cửa khác đối điện với cánh cửa mà hai người vừa vào. Một hồi lâu, người lão bộc trở lại, khẽ nghiêng mình trước Morane : - Chủ nhân đang đợi ông. Morane lại đi theo người lão bộc, qua một hành lang khác, hẹp hơn hành lang trước rất nhiều, quét vôi trắng. Tới cuối hành lang, người đầy tớ đẩy một cánh cửa nữa, đừng tránh cho chỗ khách tiến vào một căn phòng vuông vắn, tường vách trơ trụi, cũng quét vôi trắng. Đồ đạc trong phòng chỉ có một cái bàn bằng gỗ mộc, một cái kệ chứa mấy quyển sách, một cái ghế đẩu và một cái giường thấp. Không một bức tranh hay tấm biển nào treo tường. Chỉ có một khung cửa sổ mở ra một cái sân trồng nhiều cây miền nhiệt đới là thêm thắt màu sắc - màu xanh của thiên nhiên - cho bầu không khí trang nghiêm của nơi thiền viện. Giữa phòng có một người đàn ông đang đứng, mặc một cái áo trắng, buộc thắt ở một bên vai, còn vai kia thì để hờ. Ông ta cao lớn mà gầy, không định được tuổi tác. Nhìn thì là người già, nhưng da dẻ màu xẫm mịn màng như đàn bà hay thiếu niên. Hai má lõm, cằm nhọn, mũi khoằm, sống mũi nhọn như mũi dao khiến con người ấy có vẻ mặt của nhà tu hành với đôi mắt xanh nhạt lấp lánh, thông minh và trẻ trung. Dưới cặp mắt đeo kính trắng gọng sắt thì lại tố cáo ngược lại. Vừa nhìn, Morane đoán ra người trước mặt là Shedar Sing, cái người mà thiên hạ coi là người kế nghiệp xứng đáng của thánh Gandhi. Shedar Sing chào khách theo tập tục Ấn Độ, khẽ nghiêng mình và chắp tay trước ngực : - Kính chào thiếu tá Morane! Bob giật nẩy mình. Ban nãy chàng chưa xưng tên với người lão bộc, làm sao Shedar Sing biết được danh tính của chàng. Người Ấn nhận biết vẻ ngạc nhiên của ông khách, một nụ cười hiện ra trên đôi môi mỏng dính, cái miệng không thấy, chỉ thấy một vạch đen thẳng băng như kẻ bằng thước. Shedar Sing nói : - Ông đừng lấy làm lạ, tôi chẳng phải phù thủy. Dù sống ẩn dật đi nữa, tôi vẫn đọc báo. Đó chẳng là phương tiện tốt nhất để có cái nhìn tổng quát về các biến cố của thời đại hay sao? Sáng nay tôi đã đọc lướt tờ "Ấn Độ Thời Báo", thấy có kể đến cái chết của ông lão bất hạnh Cecil Mainright, tôi lấy làm buồn lắm. Mainright rất yêu quý đất Ấn, và hiểu người Ấn, biết người Ấn ai cũng để tâm vào một quá khứ xa xôi mà trí nhớ con người không tới được. Trong bài báo tôi đọc thấy một ông thiếu tá Morane nào đó, người Pháp, đã dính líu nhiều đến thảm kịch. Người lão bộc của tôi báo cho tôi biết có một người ngoại quốc tới gặp, nhân danh giáo sư Mainright và ông vừa vào đây, tôi biết ngay ông là người Pháp. Mỗi người đều mang dấu quốc tịch ở nét mặt, ở dáng đi, ở cử chỉ của mình... Hơn nữa ông còn có thêm dáng dấp của một quân nhân. Ồ! Cứ yên tầm, ông không giống chút nào với một thượng sĩ tại chức đâu. Chỉ có đều là mớ tóc hớt cao của ông... Đấy, tôi suy đoán ông là thiếu tá Morane như thế đấy. Đến lượt Bob mỉm cười : - Ông đoán đúng lắm! Chàng ngừng giây lát rồi mới nói tiếp : - Xin ông tha lỗi đã làm rộn đến cuộc sống tịch mịch của ông, nhưng vì những biến cố nghiêm trọng tôi đành phải làm vậy. Shedar Sing chỉ chiếc giường thấp cho người đối thoại, còn ông ta thì ngồi xuống chiếc ghế đẩu : - Mời thiếu tá ngồi đi. Tôi xin được nghe lời chỉ bảo. Bob ngồi xuống mép giường và mau mắn kể hết mọi biến cố xảy ra từ tối hôm qua mà không đả động đến ông Cecil Manright, Shedar ngồi nghe chăm chú đợi chàng kể xong, mới nói : - Một số những biến cố đó tôi có được biết. Tôi biết rằng những thế lực ngoại lai ở gần với Ấn Độ nhòm ngó nước này bằng mọi phương tiện, đang tìm cách đưa nước này vào tình trạng rối loạn và vô chính phủ để dễ dàng xâm chiếm hoặc đưa nó vào quỹ đạo chi phối của họ. Tôi cũng biết rằng bọn Thug đã hoạt động trở lại để người ta phải nói đến chúng. Phải chăng đó là hậu quả của việc pho tượng thần Kâli bị biến mất? Tôi cũng không hiểu nữa. Người hiền giả phải đặt mình ở ngoài thế lực của cái ác, của hận thù và bạo lực. Bob nói : - Trong thư giáo sư Mainright có gợi ý cho tôi đến xin ông lời khuyên. Theo ý ông quả thật có nguy cơ xung đột giữa người Ấn và người Hồi chăng, và như vị giáo sư đáng thương kia ao ước tôi có phải mang pho tượng thần Kâli đặt trả lại vào ngôi đền bí mật Javhalpur hay không? Shedar Sing có cử chỉ như nhà tiên tri nhập thần, đưa cao bàn tay phải : - Tôi nhắc lại, thiếu tá ạ, người hiền giả phải ở xa thế lực của cái ác. Kâli có thật bởi vì bà là hiện thân của hận thù và bạo lực nằm sâu trong tâm hồn con người. Nếu bạo lực đó cần bùng nổ, nó sẽ bùng nổ và trong bất cứ trường hợp nào cũng không thể tìm cách ngăn chặn nó bằng một bạo lực khác. Nếu ông muốn hoàn thành sứ mạng do giáo sư Mainright giao phó thì chính ông, ông lại cần đến bạo lực. Không nên đối địch với sự thịnh nộ của nhân loại mà phải để nó tự tắt dần, như ngọn lửa rơm tự nó tắt ngấm vì thiếu chất đốt. Sự thịnh nộ của Kâli nằm trong biến chuyển lớn của thế giới, đến giờ của nó, nó sẽ bùng nổ; ngăn cản sẽ rất nguy hiểm. Shedar Sing đứng dậy, Morane biết rằng cuộc hội kiến đã chấm dứt. Chàng đứng lên, có đôi chút bất mãn khi giã từ chủ nhân. Chàng sắp tới chỗ cánh cửa thì giọng Shedar Sing lại vang lên : - Thiếu tá Morane, ông tin tôi đi. Nếu phải đặt trả pho tượng vào trong ngôi đền thì một người khác cũng làm được, cứ gì phải là ông? Đã có một lần những tín đồ của Hắc thần lấy lại pho tượng từ tay người Anh thì bây giờ họ cũng làm theo cách đó. Tuy nhiên, mặc những lời khuyên của tôi mà ông cứ giữ quyết định mang pho tượng đi thì ông cần có người giúp đỡ đấy. Sứ mạng này chỉ có một người duy nhất thì không kham nổi, điều đó tự ông cũng đã nhận ra. Tất cả những thế lực bí mật của Á châu xưa và nay sẽ liên minh chống lại ông. Khi qua Javhalpur ông hãy nhân danh tôi mà tới thăm ông Lal Bhawannee là Đại vương ở địa phương đó. Đó là một nhân vật có thế lực, giàu có và được giáo dục theo Tây phương. Ông ấy có thể giúp đỡ ông rất nhiều. Bob cảm ơn Shedar Sing, lui ra. Chàng ra tới ngoài phố mà không thấy người lão bộc. Tới chỗ vỉa hè, Bob đứng lại, không biết làm gì. Cuộc hội kiến với Shedar Sing làm chàng bất mãn. Điều chàng mong đợi là nhận được sự khuyến khích, giúp đỡ nào đó thì chàng chỉ nhận được những lời khuyên mơ hồ vế bất bạo động. Cuối cùng cũng có sự gởi gấm với ông Đại vương ở Javhalpur nhưng chuyện đó cũng lại rất mơ hồ. Tuy vậy trong thâm tâm Bob tự hỏi không hiểu có phải Shedar Sing có lý hay không khi chủ trương rằng cứ để sự thịnh nộ tự nó giảm đi, hơn là làm những việc mà người đời thường nói là đổ đầu vào lửa. Giáo sư Mainright có thể đã sai lầm khi tiên đoán những cuộc tàn sát mới vì tôn giáo, lại muốn nhúng tay vào các biến cố theo kiểu lạc quan của ông ta. Chàng suy nghĩ: "Tốt nhất có lẽ là nên kể hết mọi chuyện cho Sheela Khan, vị cảnh sát trưởng Calcutta, trao lại cho ông ta pho tượng thiêng thứ thiệt, và để ông ta xử trí nội vụ theo ý ông ta... Tuy nhiên, rõ ràng là cho đến lúc này Sheela Khan chưa hề tỏ ra là hiểu biết và nắm vững các biến cố". Muốn quyết định gì đành để lại sau. Morane đưa mắt tìm taxi nhưng không thấy cái nào. Nhà của Shedar Sing nằm ở một đường phố ít người qua lại. Có lẽ vì lý do yên tĩnh đó mà chủ nhân đã chọn nơi này. Bob chậm rãi bước về một đường phố náo động hơn thỉnh thoảng vẫn đưa mắt nhìn quanh. Trời nóng, chàng mở áo ngoài, nhưng vẫn cẩn thận, không để ló ra cái chuôi súng dắt ở thắt lưng, giữa áo sơmi và quần dài. Khẩu súng làm chàng khó chịu. Xưa nay chàng không thích đi dạo mà phải mang súng. Tuy vậy chàng không quên những lời hăm dọa của Maimaitcheng và vẫn nhớ câu cách ngôn "Cẩn tắc vô ưu". Trước tay khổng lồ người Mông Cổ chàng cảm thấy mình phải cẩn thận. Hắn có thể giết chàng như ngóe. Bob lại ngừng chân để kiếm taxi thì thấy một chiếc xe hòm màu đen từ phố kế cận vụt ra, ghé lại chỗ vỉa hè và người tài xế, một người Ấn đội một chiếc khăn màu trắng hỏi chàng bằng tiếng Pháp : - Ông kiếm xe? Bob gật đầu : - Một chiếc taxi. Người Ấn mỉm cười : - Chỗ này xe cộ không qua lại nhiều đâu. Ông về đâu? Câu hỏi bất ngờ làm Bob ngạc nhiên, chàng trả lời : - Tôi về khách sạn Thanh Xà. Nhưng tại sao, ông lại...? - Tôi cũng đi tới đó. Giúp được ông thì tôi giúp, chứ sao đâu? Bob chỉ hai bóng người lấp ló phía sau xe, nói : - Ông có khách, tôi chẳng muốn.. Người tài xế liền nói ngay : - Hề chị, thiếu tá Morane? Lên đi! Morane hiểu ngay rằng mình đã rơi vào bẫy. Chàng định rút súng thì không kịp nữa. Cửa sau của chiếc xe mở ra, một khẩu súng tự động chĩa vào chàng, một trong hai người ngồi ở băng sau lên tiếng : - Lên đi, thiếu tá Morane! Bob đành nghe theo, chiếc xe rồ máy chạy. Bob nhìn hai người ngồi bên, một người vẫn tiếp tục chĩa súng vào chàng. Đây là hai người Ấn mặc Âu phục nhưng quần áo xuềnh xoàng. Bob hỏi : - Các ông dẫn tôi đi đâu? Người cầm súng mỉm cười, nói : - Chúng ta tới thăm một người bạn thân của ông, thiếu tá ạ. Bảy Chiếc xe màu đen ngừng lại ở một phố đông dân cư, du khách đi lẫn trong đám người Ấn đủ mọi thành phần. Chiếc xe đậu lại trước một cửa hiệu. Tủ kính mặt tiền rất rộng, mang bảng hiệu bằng chữ trên cao: KAO MAIMAITCHENG Mua bán đồ cổ Bob hiểu là mình sắp thăm viếng "ông bạn" nào. Nói cho ngay, từ lúc đầu chàng đã nghĩ đến rồi. Kao không ngừng cho người theo dõi chàng và ra lệnh cho nhân viên hễ gặp dịp là bắt cóc chàng tức khắc. Một vật cưng cứng - nòng súng tự động - dí vào sườn Morane và một giọng nói thì thầm vào tai chàng : - Không kêu, không cử động, kẻo tôi sẵn sàng hạ sát ngay đấy. Ngay lúc đó, cửa xe mở ra, Bob bị đẩy ra ngoài không đến nỗi hung bạo, nhưng quả quyết. Giây lát chàng bước vào một cửa hàng rộng lớn, ngổn ngang những đồ cổ: đồ sứ Trung Hoa hoặc Ba Tư, những đồ đồng cổ xưa, những pho tượng bằng đá, những ngà voi, nanh cọp, những đống phún thạch mài nhẵn bóng, tất cả đều tương đối cổ xưa. Đằng sau quầy hàng, giữa một cái vại bằng sứ to lớn của Trung Hoa và pho tượng Phật bằng đồng ngồi trên một con rắn, tay khổng lồ Maimatcheng ngồi bệ vệ, mặt hầm hầm như quỷ sứ sắp cắn xé người ta. Vừa thấy Bob, hắn đứng dậy, nụ cười nham hiểm hiện trên đôi môi mỏng dính, đôi mắt sáng rực lộ vẻ hung dữ. Hắn kêu lên : - Thì ra là ông thiếu tá Morane! Tôi biết trước thế nào chúng ta cũng gặp lại nhau mà! Bob nói : - Chính ông xếp đặt vụ này, còn nói gì nữa? Một vụ bắt cóc thì trong bất cứ nước nào trên thế giới cũng phải trả giá đắt, ông Maimaitcheng ạ. Có lẽ chỉ trừ có nước ông, nơi mà chữ "tự do" bị gạch khỏi tự điển. Kao có vẻ không để ý đến lời nhận xét khiếm nhã đó. Chắc hẳn cái nghề của hắn đã từ lâu luyện cho hắn cái thái độ không cần biết đến liêm sỉ là gì, tạo cho hắn cái mặt thớt, mặc kệ những lời xỉ vả của thiên hạ. Tay Mông Cổ quay lại phía ngtrởi tài xế lái chiếc xe hòm đen vừa bước vào, sau mọi người : - Đóng cửa lại, Rakmah! Hôm nay không khách khứa gì hết. Tôi và thiếu tá Morane cần nói chuyện, không muốn ai làm rộn nhé. Bob bị đẩy vào một căn phòng phía sau cửa hiệu, tường vách trống trơn và ở một góc chất đống chừng chục cái thùng lớn. Căn phòng đó không có một cửa sổ nào, phải thắp sáng bằng điện. Cửa cái được chèn kín chung quanh không để lọt tiếng động ra ngoài. Cánh cửa ngăn chia căn phòng với quầy hàng được khép lại, Bob thấy mình đứng trước bốn người đàn ông. Chàng làm bộ cứng cỏi chứ trong thâm tâm thì nản rồi. Chỉ thấy mặt Maimaitcheng cũng đủ làm chàng khó chịu. Đứng tựa lưng vào đống thùng, tay khổng lồ nhìn Morane với vẻ thương hại giả dối, riễu cợt : - Tôi chắc ông hiểu vì sao ông có mặt ở nơi đây rồi chứ, thiếu tá? Bob thấy tinh thần bớt căng thẳng, mỉm cười : - Tôi nhớ rõ lắm, ông Maimaitcheng ạ. Ngay sau cuộc đối thoại lần cuối của chúng ta, tôi biết chuyện này liên quan đến một bức tượng nhỏ, mà... - Một pho tượng mà tôi ăn cắp của ông, sau đó tôi nhận ra rằng nó chỉ là một phó bản bằng chì. Morane khẽ nhún vai, nói : - Ông muốn một vật mà tôi không có. Chẳng lẽ ông lại ép buộc tôi vô lý như thế? - Nếu ông đừng lừa dối tôi thì tôi cũng chẳng muốn đâu, thiếu tá ạ. - Nói dối ông? Tôi không hiểu ông muốn nói gì đấy. Tay khổng lồ im lặng một hồi lâu. Hắn nghiên cứu đối phương, muốn biết tư tưởng của người này. Về phần mình, Morane cũng cố gắng giữ sao cho đối phương không dò xét được mình, dù chàng không tin là mình làm nổi. Sau cùng, Kao lại lên tiếng. - Thiếu tá Morane, trước khi tiếp tục cuộc đối thoại hấp dẫn này, tôi muốn kể ông nghe một câu chuyện nhỏ. Từ nhiều năm rồi, chính quyền mà tôi là đặc phái viên ở đây đã tìm cách cai trị Ấn Độ hay ít ra thì cũng đưa đất Ấn vào quỹ đạo chính trị của mình. Một trong những biện pháp hay nhất để đạt mục tiêu đó là luôn luôn khích động những cuộc rối loạn ở khắp xứ này, tạo ra những sự bất mãn để chính quyền của tôi có thể lợi dụng nhiều nhất. Chính vì mục đích ấy mà tôi được gửi sang đây. Sang đến đây chừng vài tuần tôi được biết một tên Osborne nào đó, một thằng phiêu lưu coi trời bằng vung, chỉ khoái có rượu Whisky, khoe khoang rằng đã trộm được tại một ngôi đền bí mật ở vùng Javhalpur một pho tượng mà các tín đồ của nữ thần Kâli rất trọng pho tượng ấy, Osborne đã đem bán lại với giá rất cao, theo hắn kể lại thì gấp năm lần giá trị bằng vàng. Lúc đầu tôi không để ý lắm đến nguồn tin đó. Đến một ngày nọ, nghe tin xác Osborne được tìm thấy gần bên bờ sông Hoogly, chết vì bị thắt cổ thì tôi mới đổi ý. Thủ phạm giết người đã dùng một băng vải hay một thứ gì tương tự như thế. Lập tức tôi nghĩ đến người Thug. Chắc chắn các tín đồ của Kâli cũng biết tin Osborne ăn trộm pho tượng nên đã bắt hắn đền lội. Tôi nảy ra một ý tưởng và tôi bắt đầu cho phao tin rằng Osborne hoạt động cho Hồi quốc. Tôi tính xúi giục cho người Ấn chống người Hồi, khơi dậy những cuộc tàn sát, giống như đã xảy ra ngay sau khi chính quyền Anh ra đi. Nếu xếp đặt sự việc cho khéo, tất nhiên là theo cách của tôi thì chiến tranh có thể xảy ra giữa Liên bang Ấn Độ và Hồi quốc, và chính quyền của tôi lấy danh nghĩa bình định có thể thủ lợi nhiều nhất. Chẳng bao lâu cái chương trình nhỏ của tôi đã có kết quả: hầu như khắp nơi trong xứ Bengale đã có những cuộc giết người vì tôn giáo. Hiện nay tôi chỉ cần tìm lại cho được pho tượng thiêng đem giấu nó vào một nơi chắc chắn mà thôi. Quả vậy, chừng nào mà các tín đồ của Kâli chưa lấy lại được pho tượng thì chừng ấy họ vẫn gây chiến, tàn sát nhiều người. Tôi vội vã dò xem những ai là người có khả năng mua pho tượng với giá gấp năm lần giá trị thật bằng vàng. Giáo sư Mainright nằm trong số những người này. Tôi gài người của tôi vào làm cho ông ta, chẳng bao lâu tôi được biết trong bộ sưu tập của ông ta qua có pho tượng thần Kâli bằng kim loại tráng men mà ông ta rất quý. Tôi tin chắc đó là pho tượng thiêng và tôi quyết định phải chiếm ngay cho bằng được. Mặt khác, ông Mainright biết rõ Osborne đã lấy cắp pho tượng bằng cách nào, và chính ông cũng gặp nguy hiểm, có thể bị kết án tử hình. Tối hôm qua, sau khi đã tách những đầy tớ của ông ta rời đi, anh bạn Rakmah của tôi hiện có mặt ở đây (Kao đưa tay chỉ người tài xế) đã đột nhập vào nhà ông giáo sư. Tôi phải nói để ông hiểu, thiếu tá Morane ạ, rằng Rakmah, tuy không phải dân Thug, cũng là tay chuyên nghiệp sử dụng khăn quàng đấy. Để dùng trong trường họp này, anh ta đã chế tạo một "dây thiêng" và thắt cổ ông Mainright. Thi hành xong thủ đoạn, anh ta đã cố tình bỏ lại sợi "dây thiêng". Làm vậy thì những nhân viên xét nghiệm ai cũng tin là một vụ án mạng có tính cách tôn giáo do người Thug thi hành, càng khiến cho mọi người rối trí và khiếp sợ thêm lên. Lấy được pho tượng rồi, Rakmsh vội lỉnh đi, nhưng vừa ra khỏi nhà nạn nhân thì đụng phải ông. Đoạn sau thì ông biết rồi, thiếu tá ạ. Biết rằng pho tượng đó do ông chiếm giữ, tôi cố tìm cách xin mua lại, nhưng ông đã nhất định không chịu. Vì thế, tôi mới sai người của tôi đến khách sạn Thanh Xà, lấy pho tượng từ trong tủ sắt, té ra nó lại bằng chì. Bob cắt ngang : - Ngay từ đầu, ông đã sai lầm rồi. Sao không chịu nhận đi? Pho tượng của giáo sư Mainright chỉ là phó bản của pho tượng thật, thế thôi. Nhưng Maimaitcheng chẳng sẵn sàng chấp nhận sự thất bại như thế, hắn nói : - Thiếu tá Morane! Đừng tìm cách má mắt tôi lần nữa. Ông Mainright có pho tượng thiêng. Tôi biết chắc và tin rằng ông biết chỗ cất pho tượng đó. - Ông lấy gì mà dám quả quyết như thế? - Việc ông tới thăm Graham Lowbridge và chiều nay lại tới thăm ông lão ưa hòa bình Shedar Sing. - Tôi tưởng tôi đã giải thích lý do tôi đến thăm viếng ông Lowbridge rồi mà. - Phải, quả thật ông có nêu được một cớ, một cớ bịa đặt rất là khéo. Tuy nhiên, ông nói với tôi rằng ông Mainright để lại bộ sưu tập cho người bạn ông là ông nói láo. Morane cứng người. Maimaitcheng có vẻ tự tin ở mình, quá tự tin, chứ không phải là hắn rành rẽ sự việc. Tên khổng lồ lại nói tiếp : - Ông đã nói láo. Muốn nắm vững chuyện đó đối với tôi cũng chẳng khó khăn gì: vài cú điện thoại, hỏi chỗ này chỗ kia là tôi biết chắc rằng không thể nào Mainright lại để bộ sưu tập của ông ta cho người bạn ông được. Đã từ lâu ông ấy làm giấy chính thức để lại bộ sưu tập cho Bảo tàng viện Anh quốc. Bob nghĩ thầm: "À, lần này thì đổ bể tùm lum rồi..." Tất nhiên có thể là Kao bắt non để tìm biết sự thật. Nhưng Morane không nghĩ như vậy, và chàng quyết định cắt đứt câu chuyện : - Maimaitcheng, ông bày vẽ lắm chuyện để chẳng đi đến đâu. Tôi đã nói với ông là tôi không có pho tượng thiêng mà ông đang nói đến. Tôi chỉ có pho tượng chì thôi. Ông không tin thì kệ ông. Tay Mông Cổ gật gù cái đầu bự, có vẻ quả quyết lắm : - Có, thiếu tá ạ. Ông có pho tượng đó. Tôi tin chắc. Hay ít ra thì ông cũng biết nó nằm chỗ nào và ông sẽ phải nói cho tôi hay. Bob cười gằn : - Giả sử tôi có biết đi nữa thì ông làm cách nào để bắt tôi phải nói? Cho uống thuốc nói-sự-thật chăng? Tên khổng lồ tuôn ra một chuỗi cười nham hiểm : - Tôi có một cách khác, thiếu tá ạ. Một phương tiện nguyên thủy, nhưng rãt hữu hiệu. Kao đứng thẳng người, nhứ nhứ hai quả đấm to tướng trước mặt, trong tư thế của một võ sĩ quyền Anh đang thủ thế, từ từ tiến lại phía Morane. Morane tỉnh trí đề phòng, lùi dần phía cửa, nói : - Maimaitcheng! Báo cho ông biết: tôi cũng biết quyền Anh. Nếu ông không cản trở để tôi được quyền tự bảo vệ, thì... Tên khổng lồ chỉ còn cách Morane có hai bước. Hắn rít trong kẽ răng : - Đấy, tự bảo vệ đi. Càng hấp dẫn chứ sao? Tức thì hắn đánh mạnh quả đấm bên phải. Bob tránh được, đánh trả lại, trúng ngay giữa mặt tên khổng lồ mà hắn vẫn tỉnh queo như không nhận thấy gì. Morane có cảm tưởng như vừa đấm vào một khối đá hoa cương. Chàng lùi lại thì Maimaitcheng đã tiến tới. Lần này chàng liên tiếp hai cú về trái, trúng mí mắt trên địch thủ. Đầu của Kao ngả ra đằng sau Morane thừa cơ đấm móc vào ngay bụng hắn. Quả đấm này là một đòn chí tử, dồn tới bằng tất cả sức nặng của thân sau, hiếm khi nào lại không đánh gục địch thủ. Thế mà Morane có cảm tưởng như mình vừa đập vào một bánh xe bơm căng của một chiếc xe tải hạng nặng và tên Mông Cổ lại đứng ngay dậy, không hề nhăn mặt hay thở hổn hển. Nắm đấm bên phải của tên khổng lồ lại lao tới. Morane cảm thấy cánh tay trái mình dường như bị gãy. Một cú nữa đập vào vai phải, chàng nghe một cảm giác vô cùng đau đớn. Từ đây trở đi đối với Bob là một cuộc hành xác kéo dài. Hai cánh tay tê liệt, không thể nào chống đỡ được nữa, chàng chỉ còn là một đồ chơi cho đối thủ. Hắn ta đấm đều đặn như máy, nhưng không đánh đòn chí mạng để nạn nhân của mình phải lăn cổ ra chết. Khi Morane ngã xuống, hắn mới hỏi : - Thế nào, pho tượng ấy ở đâu? Morane cắn răng đứng dậy và cuộc nhảy múa lại tiếp diễn. Sau cùng không còn chịu đựng nổi, Bob ngã lăn ra, không tài nào đứng dậy được nữa. Tuy nhiên Maimaitcheng chưa đánh những đòn độc để chàng phải ngất đi, hắn tránh đụng đến những điểm nhược như cho dưới cằm hoặc thái dương. Điều hắn muốn là hắn đánh cho đau, nhưng vẫn để cho đối phương còn tỉnh táo để nhận thấy sự đau đớn. Như nhìn qua đám sương mù hồng hồng, Bob lại thấy Kao cúi xuống bên chàng, hỏi nữa : - Bây giờ thì anh nói cho tôi biết pho tượng ở chỗ nào chứ? Không thấy trả lời, tên khổng lồ lại đưa ra quả đấm to tướng, Bob hiểu là phải nói, hoặc là... Tuy nhiên chàng lại nhất quyết không thể nào chỉ cho Maimaitcheng biết. Đành phải chết vì đòn đánh hay sao? Trong hiện trạng, cách khôn nhất là giả bộ hèn, đóng trò một người chịu đựng hết nổi rồi, đã sẵn sàng khai ra điều mình biết. Quả đấm của Kao sắp hạ xuống thì Bob rú lên, làm bộ như quá khiếp sợ. - Không, không! Đừng đánh. Đừng đánh nữa! - Vậy thì nói đi: pho tượng ở đâàu? Morane lắc đầu một cách tuyệt vọng : - Tôi không biết, tôi không biết! Nếu biết thì tôi nói ngay... nhưng tôi không biết! Không, đừng đánh nữa! Đừng đánh nữa! Trò hề hèn nhát làm chàng kinh tởm, nhưng chàng biết ngay rằng đây là cách duy nhất nuôi chút hy vọng Maimaitcheng bỏ ý định giết thẳng tay mà hắn đang lăm le từ mấy phút rồi. - Thiếu tá Morane! Tôi bắt đầu tin quả thật ông không biết gì cả. Chiều nay lúc ông vắng nhà tôi đã lục tung căn phòng của ông ở khách sạn Thanh Xà, nhưng chỉ vô ích. Morane cố nén để không buông một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Nếu tay chân của Maimaitcheng khám phá ra tấm bản đồ chỉ dẫn con đường tới ngôi đền bí mật ở Javhalpur, chắc chắn vấn đề lại được đặt ra. Rất may cái hộp lưỡi lam là chỗ cất giấu tuyệt diệu, còn cái mà tên khổng lồ này muốn tìm là pho tượng, nó có nghĩ đâu đến chuyện kia? Maimaitcheng lặng ngắm Morane. Trong đôi mắt xếch của hắn, chàng người Pháp tưởng như đọc được lòng thương hại xen lẫn với tính hung ác. Tên khổng lồ lại nói : - Chấp nhận rằng ông không biết pho tượng ở đâu, tôi đang suy nghĩ nên xử trí với ông như thế nào đây. Tôi không thể nào trả tự do cho ông, là vì ông biết quá nhiều về tôi, có thể trở thành mối nguy hiểm thật sự... Tôi đành phải giết ông thôi. Lát nữa đây đêm xuống, Rakmah sẽ dẫn ông ra bờ sông Hoogly chỗ ngoài thành phố, đến bờ sông trên mỏm đá cao hơn mặt sông chừng trăm thước. Ở đó Rakmah sẽ cho ông nếm mùi "dây thiêng" rồi đẩy ông từ mỏm đá xuống, thi thể ông sẽ va chạm vào vách đá. Chỗ đó nước sổng cũng không sâu lắm, dòng nước sẽ cuốn ông đi. Vài ngày sau người ta sẽ tìm ra xác của ông, có sợi "dây thiêng" quanh cổ, người ta lại tin là một án máng mới do người Thug gây ra và việc đó chỉ làm cho đầu óc thiên hạ vốn đã rối mù tại càng rối mù thêm lên. Vậy thì ông phải chết và cái chết của ông phục vụ cho tôi. Qua mí mắt sưng phồng lên vì đòn đánh, Morane nhìn về phía Rakmah. Thằng này mỉm cười. Phải nói nó như một con sói háu đói, sắp sửa vồ mồi. Rakmah đã giết giáo sư Mainright và chắc chắn là còn giết nhiều người khác. Với hắn thì đừng trông mong lòng thương hại. Còn về Kao Maimaitcheng thì chắc chắn, là từ lâu rồi, hắn không biết đến tiếng "xót thương" là gì. ° ° ° Chân tay bị trói chặt, nằm dài trên sàn xe phía sau, Morane tìm cách nhận định về một điều gì đó ở bên ngoài, nhưng qua tấm kính ở cửa xe chàng chỉ thấy một mảnh hình vuông của bầu trời đêm màu xanh xanh. Chàng chỉ biết được có mỗi một điều là xe đã chạy qua cầu Howrah, quẹo sang phải, xe đang chạy dọc bờ sông Hoogly. Morane không tự hỏi là Rakmah chở chàng đi đâu là vì ngay từ lúc chiều Maimaitcheng đã giải thích cặn kẽ, quá cặn kẽ. Tuy toàn thân đau rần, nhất là ở mặt, Morane cũng lấy lại được chút nghị lực. Bây giờ đầu óc chàng đã tỉnh táo, chàng đang suy nghĩ tìm phương thoát hiểm. Khẽ nhổm dậy, chàng thấy cái bóng của Rakmab ngồi ở chỗ tay lái. Nếu hai tay không bị trói quặt ra sau, chàng có thể tìm cách đứng dậy, dùng hai tay bị trói mà đập vào gáy tên tài xế, thế mà giờ đây cái hành động tuy là hú họa đó chàng cũng không làm nổi. Tìm cách mở cửa xe mà lao ra ngoài ư? Rakmah sẽ nhận ra ngay và thộp cổ chàng liền. Xe đột nhiên quặt mạnh, tiếp theo xe lắc nhẹ một hồi chứng tỏ cho Morane biết rằng xe vừa vào một con đường ngang, rồi lên một cái dốc khá cao, bởi tiếng máy xe cứ rồ lên. Vài phút sau xe lại giữ thăng bằng, chạy tiếp chừng trăm thước nữa mới ngừng hẳn. Qua cử động của Rakmah, Bob hiểu rằng hắn vừa bước xuống xe. Một cửa sau xe mở ra, có tiếng người tài xế vang lên : - Chúng ta tới nơi rồi, thiếu tá Morane! Bob ngửng đầu, thấy một khoảng đất trồng cây, nhô ra phía trên con sông. Rakmah nắm cổ áo người tù lôi ra khỏi xe. Hắn kéo chàng sền sệt trên mặt đất chừng vài thước rồi ngừng lại ở chỗ bờ dốc. Đến đây hắn bắt Morane ngồi dậy rồi nói : - Chỗ này là chỗ mà ông sẽ nhảy xuống nước. Tôi sẽ sửa soạn cho cái cổ ông một sợi dây rồi mới đẩy ông ra ngoài khoảng không. Thế là ông được chết tới hai lần, cho chắc ăn. Bob lặng yên không đáp. Đầu óc chàng hoạt động khẩn trương để tìm cách tránh cái chết gần kề. Tuy vậy, chàng có cố tưởng tượng cũng không tìm ra một phương kế nào. Sau lưng chàng Rakmah sửa soạn sợi dây thòng lọng. Trong bóng tối mờ mờ, tên tài xế cười riễu : - Này, can đảm lên. Chỉ trong giây phút là xong ngay ấy mà! Rakmah làm vài động tác, rồi một vật gì mềm mềm rơi ngay ngực Morane, đưa dần dần lên cần cổ. Sợi dây thòng lọng! Theo bản năng, Bob rụt cổ cho cằm dính sát lấy ngực, và bằng một cử động hầu như khó nhận biết, chàng đã cắn được sợi dây lụa cho nó dính váo hàm dưới, chứ không siết vào cổ. Tức thì Bob biết là phải đóng trò khôi hài, biện pháp duy nhất để thoát hiểm. Rakmah dùng hết sức để kéo nút thòng lọng. Morane liền cứng người để cho hắn có cảm tưởng là chàng đang chống cự, chàng thở đứt đoạn, mỗi lúc một ngắn, rồi một loạt hơi thở dồn dập ngắn hơn, rồi từ từ ngừng hẳn không còn vùng vẫy nữa. Sau cùng chàng ruỗi hết các bắp thịt, rũ xuống. Rakmah còn tiếp tục siết một hồi nữa, sau đó sợi dây mới nới ra và Bob ngã vật ra đằng sau, nặng nề như một bao xi măng đổ xuống. Lại một lúc lâu Rakmah mới nắm hai chân Morane, kéo chàng ra chỗ bờ vực. Đột nhiên, Bob gập hai đầu gối làm lên người Ấn phải buông tay, và lập tức tung mình một cái, chàng phóng hai chân ra phía trước. Rakmah lãnh đủ một cú ngay hàm, dội lại... và đột nhiên, hắn ngã lăn ra phía sau, rơi tỏm xuống vực. Kề bên bờ vực, Morane vẫn nằm yên, thở hổn hển, mồ hôi vã ra khắp người. Chàng nhớ lại những lời của Kao Maimaitcheng: "... Rakmah sẽ dẫn ông ra chỗ bờ sông Hoogly, ở ngoài thành phố, bờ sông trên mỏm đá, cao hơn mặt Ở sông chừng trăm thước. Ở đó, Rakmah sẽ cho ông nếm mùi ‘dây thiêng’, rồi đẩy ông từ trên mỏm đá xuống, thi thể ông sẽ chạm vào vách đá. Chỗ đó nước sông cũng không sâu lắm, dòng nước sẽ cuốn ông đi". Bob cất tiếng cười, một tiếng cười gằn nho nhỏ, thần kinh chàng bị khích động: - Trăm thước... vách đá... Rồi đời thằng Rakmah! Giọng nói của chàng mà chàng nghe như từ một thế giới nào vọng lại. Quả thật, hiếm khi mà chàng lại có cảm tưởng gần kề cái chết như thế. Chàng lại cất tiếng tự nói với mình : - "Phải rời ngay chỗ này mới được!" Vặn mình như con rắn, chàng lại gần chiếc xe hơi. Đến đây chàng ngồi ghé vai vào một bánh xe. Và đột nhiên chàng cảm thấy một mối kinh sợ không tưởng tượng nổi xâm nhập vào mình, Maimaitcheng quá mạnh mẽ và quá tàn ác. Hắn không phải là một con người mà là một con dã thú. Lúc đó Morane chỉ có một ý tưởng: Nhảy lên xe tìm về Calcutta, tới khách sạn Thanh Xà và trốn khỏi cái xứ khủng khiếp này, trốn đến một nơi mà Maimaitcheng không thể tìm ra dấu vết. Nhưng vì chân bị trói, tay trói quặt ra sau chàng chẳng thể nào thực hiện nổi chương trình chạy trốn của mình. Cắt dây trói? Phải có thời giờ... Có thể là mất nhiều giờ... Morane bèn cất tiếng kêu, càng lúc càng lớn : - Cứu tôi! Cứu tôi! Cứu tôi! Nhiều phút đồng hồ trôi qua. Bob lại kêu nữa. Nhiều bóng người xuất hiện giữa đám cây cối. Mặt trăng đã lên cao, Morane nhận ra những người Ấn, những kẻ nghèo khổ không nhà không cửa bạ đâu ngủ đấy, thường lang thang khắp hang cùng ngõ hẽm ở Calcutta. Họ vây lấy chàng người Pháp và lên tiếng bàn tán với nhau rất náo động bằng tiếng Bengali. Bob vội kêu : - Mở trói cho tôi đã! Mở trói cho tôi đã! Một người trong bọn chắc là biết tiếng Anh, rút dao gài dưới cái quần rách cúi xuống cắt dây trói cho Morane. Vừa được tự do chàng liền đứng dậy lục túi, vét hết tiền bạc chia cho đám người kia. Sau đó chàng lên xe, rồ máy, lao trên con đường dốc dẫn lới đường cái. Tới đây chàng mở hết tốc lực cho xe chạy về hướng thành phố. Tám Khi Bob bước vào phòng lớn của khách sạn Thanh Xà thì nơi đây vắng tanh. Nhân viên phụ trách nhận khách đứng sau quầy hàng. Vừa thấy Bob ông ta nhảy dựng lên, hỏi : - Ông gặp chuyện gì thế? Quần áo rách bươm, mặt sưng húp. Bob không còn ra hồn người. Nhưng chàng tìm ngay được một cớ để nói tránh : - Tai nạn xe hơi ông ạ. - Ông phải băng bó chứ? Morane nhún vai : - Yên tâm tôi chẳng chết được đâu. Vài giờ nữa là khỏi ấy mà... Mà này, ông có thể tính tiền trọ cho tôi được chứ? - Ông đi ngay ư? - Đi ngay. Mười phút nữa là tôi phải rời khách sạn rồi! Không để ý nghe những lời thương hại của người nhân viên, Bob leo thang gác, lên pbòng của mình. Đóng cửa lại rồi, chàng tựa vào cánh cửa, đứng thở một lúc. Đầu chàng nhức như búa bổ. Phải một lúc sau chàng mới đứng thẳng được và đi tìm cái bọc thuốc cấp cứu, uống liền hai viên aspirin. Đến lúc đó, chàng mới quan sát lại quanh phòng. Căn phòng bị lục lọi tung tóe, rõ ràng là người của Maimaitcheng đã lục lọi và chúng không cần xếp dọn lại cho gọn ghẽ. Tấm bản đồ chỉ đường tới ngôi đền bí mật ở Javhalpur vẫn nằm nguyên trong hộp lưỡi lam. Bob không có thì giờ để nhìn ngó lại nữa, chàng chỉ có ý nghĩ là rời Calcutta cho mau để Kao tin là chàng đã chết và tránh cho xa cái tên Mông Cổ khủng khiếp đó. Mặc kệ pho tượng vàng, mặc kệ giáo sư Mainrlght, bỏ hết là bỏ hết. Chàng chỉ muốn cứu lấy mạng sống, chỉ điều đó là chàng quan tâm thôi. Vội vã, chàng rửa mặt, thay quần áo. Sau đó chàng nhét hành trang vào trong hai túi du lịch và đi ra cửa. Tuy nhiên lúc sắp bỏ đi có một điều gì cầm chân chàng lại. Điều đó là ý nghĩ về Maimaitcheng. Chàng tiếc là mình đã muốn để mặc tên Mông Cổ với những âm mưu đen tối, là không tìm cách báo thù những nỗi đau đớn hắn đã bắt chàng phải chịu đựng trong những giờ vừa qua. Đột nhiên chàng nhớ lại những lời của tên khổng lồ nói ở trong phòng, phía sau quầy hàng tại phố Mizrhapur: "... Tôi dự tính xúi giục cho người Ấn chống người Hồi, khơi dậy những cuộc tàn sát giống như đã xảy ra ngay sau khi chính quyền Anh ra đi. Nếu xếp đặt sự việc cho khéo, tất nhiên là theo cách của tôi thì chiến tranh có thể xảy ra giữa liên bang Ấn Độ và Hồi quốc, và chính quyền nước tôi lấy danh nghĩa binh định có thể thủ lợi nhiều nhất..." Nhớ đến những lời nói đó, Bob cảm thấy giận sôi lên. Thế mà lại tính chạy trốn như một thằng hèn để Maimaitcheng tự do gây tội ác, gây nên cái chết cho hàng ngàn người, có thể hàng triệu người nữa? Cái mạng của chàng, của Bob Morane này lại có giá trị trước một tội ác như vậy được sao? Tuyệt đối phải ngăn chặn. Nhưng làm cách nào? Chảng đơn độc trước bọn của Kao, chưa kể đến những người Thug, sớm muộn gì cũng xông ra ngăn chặn. Bob lẩm bẩm: "Phải làm một chuyện gì! Phải làm một chuyện gì!". Bây giờ an ninh của bản thân chàng không kể đến nữa. Chàng chỉ nghĩ đến những người Ấn, đàn ông, đàn bà và trẻ con mà hành động của chàng có thể cứu được mạng sống của họ, những người nghèo khổ, luôn luôn đói khát và bệnh dịch đe dọa, thế mà bây giờ người ta nỡ đem họ làm vật hy sinh cho mưu đồ bá quyền. Morane nghĩ: "Lowbridge! Có lẽ ông ấy có thể giúp ta". Chàng nghĩ có thể tin cậy ở người luật sư đó và chàng quyết định liên lạc với ông ta ngay. Đặt hành lý xuống, chàng tiến lại cái bàn đêm và nhấc ống điện thoại. Vài giây sau, có tiếng người tiếp nhận vang lên : - Ông muốn điều chi? - Tôi muốn nhờ ông kiếm ngay cho tôi số điện thoại của Sir Graham Lowbridge và gọi ngay cho tôi theo số đó. - Ông gác máy lại đi. Tôi sẽ làm những việc cần thiết và gọi lại cho ông. Morane gác máy trên giá và đợi. Cơn sợ lúc nãy đã đi qua rồi, thay vào đó là một sự quả quyết lạnh lùng. Kao Maimaitcheng là một con thú dữ không biết sợ mà cũng không có lòng thương. Bob quyết định phải thắng được hắn, không kể đến mạng sống của mình nữa. Chuông điện thoại reo, Bob nhấc máy, tiếng người phụ trách vang lên : - Có Sir Graham Lowbridge ở đầu dây rồi đó, thưa ông. Có tiếng"clic" và ông Graham Lowbridge hỏi với giọng khô khan : - A lô! Ai làm rộn tôi vào giờ này thế? - Sir Graham! Thiếu tá Morane đây! Tôi có chuyện khẩn cấp cần nói với ông... - Không thể để đến mai được hay sao? - Không. Số phận của xứ Ấn Độ tùy thuộc vào sự hành động mau lẹ của chúng ta. - Nghiêm trọng đến thế cơ à? - Còn hơn là ông tưởng nữa. Ở đầu dây bên kia ông Lowbridge im lặng một lát, sau cùng mới nói : - Được rồi. Nếu vậy ông lại tôi ngay! - Không. Nhà ông không được. Chúng có thể canh gác. Cách đó không chắc chắn, mà tôi thì không muốn để sơ sẩy. Ông hãy lấy một chiếc xe và mười lăm phút nữa ông có mặt ở cửa nhà thờ thánh Phao lồ. Tơi sẽ tới bằng một chiếc xe hòm màu đen. Coi chừng có người theo dõi. - Đồng ý, thiếu tá. Tôi sẽ thu xếp để đến chỗ hẹn đúng giờ. Lỡ ra tôi có tới trễ một chút thì ông cứ yên tâm. - Yên tâm, ông Lowbridge! Ông là người duy nhất cứu được tôi. À này, mang cho tôi khẩu súng nhé. - Người tài xế của tôi có một khẩu tự động, hiệu colt, nòng 45. Tôi sẽ mang khẩu đó lại cho ông. - Được quá đi! Nhưng ông lái xe, đừng cho tài xế đi theo. Cuộc hội kiến của chúng ta phải giữ bí mật đấy.. Cho hỏi thêm một câu: ông có thể cho biết màu chiếc xe của ông? - Một chiếc xe hiệu Jaguar hai chỗ ngồi, màu xám nhạt. - Được rồi! Đừng quên nhé: Trước cửa nhà thờ thánh Phao lồ. Lowbridge gác máy. Bob cũng làm theo. Chàng vội cầm lấy hành lý, bước ra khỏi phòng. Chàng phải rời khách sạn cho sớm để Maimaỉtcheng chưa kịp nhận ra chuyện Rakmah mất tích. Năm phút sau, chàng lái xe về hướng nhà thờ thánh Phao lồ. ° ° ° Chiếc xe Jaguar màu xám mình dài chạy tới, đậu sát lề, ngay cạnh chiếc xe của Morane - đúng ra là của Maimaitcheng - đã đậu sẵn trước nhà thờ thánh Phao lồ. Bob nhận ra bên trong xe hai chỗ ngồi bóng dáng của ông luật sư. Tức thì chàng xuống xe, đi đến chỗ ông ta. Thật nhanh chàng kể lại câu chuyện cho ông ta nghe, chàng tóm tắt nội dung bức thư của giáo sư Mainright và chuyện đụng độ của chàng với Maimaitcheng. Bob kể xong câu chuyện, ông Lowbridge nhăn mặt. Ông ta chỉ những vết thương trên mặt Bob : - Cái thằng Maimaitcheng đó đã chơi trò đẹp đẽ với ông thế này đây? Bob kêu lên : - Trời! Đợi gì mà hắn chẳng làm. Hai người lặng in một lúc rồi Lowbridge hỏi : - Bây giờ ông tính làm gì? - Chỉ có một việc phải làm là đem pho tượng thần Kâli trả lại vào ngôi đền bí mật ở Javhalpur. Ông luật sư nhảy nhổm : - Mang pho tượng đi?... Có họa là điên, thiếu tá ạ! Lại sau ngay những chuyện ông vừa trải qua!... Chẳng bao lâu nữa Maimaitcheng biết được là ông không chết, vẫn ở lại đây. Hắn sẽ tìm được ông trước khi ông rời ngôi đền và lúc đó thì tôi chằng đảm bảo đảm tính mạng của ông. - Tôi biết chứ... Vì lý do đó mà tôi yêu cầu ông mang lại cho tôi một khẩu súng. Khẩu súng lục của tôi nằm trong tay Maimaitcheng rồi. Sir Grahani mở cái két trong xe lấy ra một khẩu colt tự động kèm theo một cái túi đựng nhiều băng đạn. Bob kiểm soát xem khẩu súng có hoạt động tốt hay không rồi dắt vào thắt lưng, các băng đạn thì bỏ vào túi. Chàng nói : - Bây giờ tôi phải tìm một chỗ tạm trú để ẩn mình. Khi ông bạn Kao biết là tôi vẫn còn sống, điều này thì chẳng lâu đâu, ông ta sẽ quậy nát Calcutta để tìm ra tôi, mà ông ta lại có tay chân trong mọi giới, thì... Graham Lowbridge suy nghĩ một lúc, sau cùng, ông ngẩng đầu, nói : - Có chỗ cần cho ông rồi. Tôi có một biệt xá nho nhỏ, có vườn rộng bao bọc, ngoài thành phố. Không ai biết chỗ đó vì tôi tính lui về nghỉ ngơi sau những giờ mệt nhọc vì công việc. Tôi chưa hề báo cho bất cứ người nào biết. Ở đó thì ông được an toàn và lâu mau là tùy ở ông. - Tôi chỉ ở chừng một, hai ngày thôi. Đủ thời giờ để lấy pho tượng thiêng và đặt chương trình hành động. Sau đó tôi đi Javhalpur ngay. - Ông không nghĩ rằng cuộc phiêu lưu này vượt quá sức của một người duy nhất hay sao? Không những là ông phải đụng độ với băng Maimaitcheng mà còn đụng với các tín đồ Kâli nữa. - Tôi biết. Nhưng ai là người có thể giúp đỡ tôi trong sứ mạng này? Sir Graham nói, không chút hổ thẹn giả dối : - Nếu tôi có tính khí như ông, tôi chẳng ngần ngại mà đi theo ông ngay. Nhưng tôi là người bàn giấy, chẳng phải là mộl người hùng. Môn thể thao duy nhất mà tôi chơi trội là bài bridge. Morane không đáp. Chàng chẳng hy vọng gì ở ông Lowbridge, nhưng khâm phục tính thẳng thắn của ông... sự can đảm của ông nữa, vì dám thừa nhận mình không can đảm thì cũng là can đảm vậy. Đột nhiên Morane kêu lên : - Bill... Người bạn đồng hành mà ta cần, đây rồi! - Ai vậy? - William Ballantine. Một tay rất cừ... ít ra thì cũng mạnh bằng Maimaitcheng, trừ sự hung hãn thì thua thôi. Lúc nào Bill cũng sẵn sàng lao mình vào để cứu mẹ góa, con côi... Mới cách đây ít lâu, Bili và tôi đi theo giáo sư Clairembart, đã khám phá ra một đô thị cổ của người Maya, ở giữa rừng sâu của xứ Tobago1, tìm được kho tàng châu báu. Lủc đó có một trận động đất, chúng tôi buộc lòng phải nhanh chóng chạy trốn. Trong khi tôi tới một phương trời khác thì Ballantine và Clairembart quay lại đô thị chết mang về được những di tích lịch sử cùng rất nhiều ngọc thạch, khiến hai người đó có được một gia tài rất khá. Bây giờ Ballantine đang sống cuộc sống của một nông gia trưởng giả tại một đồn điền rất đẹp ở xứ Tô Cách Lan. Tôi chắc chắn rằng anh ta ở đấy cũng buồn, nghe tôi gọi là sẽ đến ngay. Bob rút ở túi áo dưới ra một cuốn sổ, chàng nguệch ngoạc vài chữ rồi xé tờ giấy đưa cho Graham Lowbridge : - Tôi nhờ ông gửi khẩn cấp bức điện tín này, không biết có được không? Dưới ánh sáng mờ mờ chỗ tay lái, ông người Anh đọc nho nhỏ: "Đợi anh ở Calcutta; đến gấp. Stop. Chuyến máy bay đầu tiên. Stop. Xuống khách sạn Assura. Stop. Có thư từ chỉ dẫn cho anh ở đó. Stop. Ký tên: Tamini". Lowbridge hỏi : - Tamini? Thế là nghĩa làm sao? Morane giải thích : - Đó là một hoang địa ở Tân Ghi Nê. Ở đó tôi và Ballantine đã nhiều lần lái những máy bay cũ kỹ, chơi trò nhào lộn trên đỉnh núi. Đọc đến tên "Tamini", Bill sẽ hiểu tôi là người gửi bức điện tín này, còn như Maimaitcheng có chân tay trong đám nhân viên bưu diện đi nữa, cũng không tài nào dò ra được tôi. Lowbridge công nhận : - Cẩn thận như vậy là rất hay. Nhưng chỉ có ông và ông Ballantine thì có đủ sức vượt qua những cạm bẫy giăng ra ở dọc đường không? - Sir Grabam. Nếu ông biết Bill thì ông đã không.. hỏi câu ấy đâu. Anh ấy có khả năng đánh cả hai tay, một tay gạt ngã Maimaitcheng, tay kia gạt ngã một con đười ươi dang độ lớn. Có anh ấy ở bên, tôi cảm thấy an toàn như ngồi trong chiếc xe tăng sáu chục tấn. Lần này thì Graham Lowbridge lộ vẻ tin tưởng. Ông ta tính đốt ngón tay : - Hôm nay thứ năm, ngày mai bạn anh nhận được điện tín. Vì là công dân Anh, muốn sang Ấn Độ cũng không cần xin chiếu khán, đỡ lo về mặt đó. Chủ nhật có chuyến bay Luân Đôn - Calcutta, ghé qua Ba Lê, La Mã, Beyrouth và Karachi, sẽ đáp xuống đây vào tối thứ hai. Vậy thì năm ngày nữa, Ballantine có thể gặp ông, nếu ông ta chiếm được một chỗ trên máy bay. - Ông nên vững tin ở Ballantine. Nếu anh ta nhất quyết phải lên được chiếc máy bay đó thì anh ta sẽ lên được, cho dù có phải cải trang thành nữ chiêu đãi viên đi nữa. Nghĩ đến hình ảnh đó, Bob không ngăn được tiếng cười ròn rã. Lowbridge không hiểu, cứ chăm chú nhìn chàng, tưởng chàng hóa điên. Bob vội giải thích cho ông ta yên lòng : - Xin lỗi Sir Graham. Nhưng nếu ông biết bộ tịch Bill Ballantine thế nào thì ông sẽ biết ngay rằng không thể nào tưởng tượng cái chuyện anh ta lại khoác bộ đồng phục nữ chiêu đãi viên cho được... Nhưng thôi, dẹp chuyện đùa rỡn đó đi. Ta trở lại câu chuyện đứng đắn. Bây giờ là lúc phải tới biệt xá của ông. Tôi không muốn bỏ lại ở đây chiếc xe của ông bạn Kao thân mến, tơi xin lái đi, theo sau xe ông mà đi. Đến đó rồi chúng ta sẽ tìm được chỗ kín đáo để cất giấu chiếc xe này. Bob lại trở về trên chiếc xe đen và vài phút sau hai chiếc xe bám theo nhau tìm đường ra khỏi thành phố lớn của Ấn Độ. -------------------------------- 1Tobago thuộc quần đảo Anltilles của người Anh, Maya là dân tộc cổ xưa ở Mỹ châu. Chín Thời giờ trôi quá chậm đối với Morane. Bây giờ đang là đêm của ngày thứ hai sang ngày thứ ba, nghĩa là đã năm ngày trôi qua kể từ hôm gửi điện tín cho William Ballantine. Nếu mọi việc trôi chảy thì giờ này anh ta đã tới Calcutta rồi. Nhưng liệu Bill có nhận được điện tín không? Có thể anh ấy vắng nhà, đi nghỉ mát chẳng hạn và mọi việc sẽ lỡ hết. Morane nhún vai. Chàng lẩm bẩm : - "Nếu đêm nay mà Bili không xuất hiện, ta đành phải một mình dấn thân mạo hiểm. Ngày mai ta sẽ đi tìm pho tượng thiêng rồi lên đường đi Javhalpur". Morane đang ngồi ở phòng chính trong biệt xá của Graham Lowbridge, ở đây sự tiện nghi của người Anh và tính ngông nghênh của người Ấn hòa hợp với nhau rất là khéo. Trên chiếc bàn thấp gần bên mình, Bob đặt khẩu súng tự động của Sir Graham để sẵn sàng sử dụng hễ có báo động. Hiện giờ Kao Maimaitcheng đã biết là Morane không chết, không thấy Rakmah về, chỉ cần cho người lét lút điều tra ở khách sạn Thanh Xà, hỏi người phụ trách tiếp nhận ban đêm là biết rằng Morane, đã trở về, mình mẩy bầm dập và rời khách sạn ngay sau đó. Chắc chắn lên Mông Cổ khổng lồ đã huy động nhân viên để tìm dấu vết của đối thủ. Nhưng vì Bob và Lowbridge đã trù tính mọi biện pháp đề phòng nên hắn mới không tìm ra. Năm ngày nay, Lowbridge không tới biệt xá một ngày nào. Ở biệt sá, Morane có đủ lương thực, không thiếu thứ gì. Ông luật sư này thích ăn uống, đã tích trữ đầy một tủ đồ hộp. Trái thơm thì kiếm ngoài vườn, rượu thì đầy ấp trong hầm. Tuy ăn uống thoải mải như thế, nhưng Morane thấy thời gian trôi qua thật chậm và càng ngày chàng càng thấy sốt ruột. Đêm nay chàng mong đợi bạn, càng nóng ruột thêm. Để giải bớt sầu muộn trong lúc chờ đợi, chàng thử tìm cách vạch một chương trình hành động cho những ngày sắp tới. Nếu Bill Ballantine để chàng lỡ bộ, chàng phải một thân một mình chống chọi với cả Maimaitcheng lẫn tín đồ Kâli. Đã đi khỏi Calcutta rồi chàng không thể trông cậy vào Sir Graham nữa. Cũng có cái ông Lal Bhawannee, là ông Đại vương xứ Javhalpur mà Shedar Sing đã khuyên chàng nên tiếp xúc, nhưng sự giúp đỡ của ông ta xem ra cũng mong manh lắm. Một lần nữa, Bob lại tự hỏi chẳng biết có nên tín nhiệm Sheela Khan, vị cảnh sát trưởng Calcutta hay không. Thái độ của ông này chàng thấy không được chân chính. Tại sao Sheela Khan lại tỏ vẻ cố tình mù quáng như thế. Tại sao ông la không đòi Morane tới rồi ký vào bản khai báo như ông ta đã nói trước, vào cái đêm xảy ra án mạng? Trong vu ám sát giáo sư Mainright, Sheela Khan có lợi lộc gì mà phải chấp nhận giả thuyết rằng hung thủ là một tên trộm, vì bị bắt quả tang, đã buộc lòng phải giẽt nạn nhân để ông này không thể tri hô lên. Bob biết rằng chàng đang phải đối địch với hai lực lượng đáng gờm: một bên là những tín đồ Kâli, ở Ấn Độ phải tính đến số triệu, bên kia là chính quyền hùng mạnh mà Maimaitcheng là đặc phái viên tại Calcutta. Sheela Khan có thể thuộc về một trong hai tổ chức đó, và tạm thời Morane phải coi ông là một kẻ thù. Bên ngoài chợt có tiếng lốp xe nghiến trên lối đi có trải sỏi. Bob liếc nhanh vào chiếc đồng hồ đeo tay. Gần một giờ sáng. Chiếc máy bay Luân Đôn phải đáp xuống Calcutta vào lúc 22 giờ tối qua. Có thể là Bob đi với ông Lowbridge, nhưng cũng có thể là Maimaitcheng đi cùng với băng của hắn, bọn chúng đã tìm ra dấu vết của chàng. Sẵn sàng liều mình để chống cự nếu cần, Bob cầm lấy khẩu súng tự động, mở khóa an toàn. Trong sân vang lên ba tiếng còi xe hơi, một tiếng ngắn, hai tiếng dài. Morane nhẹ người, vì đó là ám hiệu mà chàng và Sir Graham đã giao ước. Chỉ vài giây sau, ông luật sư bước vào phòng, theo sau có một chàng khổng lồ, cao gần hai thước, vai rộng cỡ Hercule Fernèse. Mặc chiếc áo len, người mới tới có vẻ mặt cởi mở, thực thà, đầu đội bộ tóc giả đỏ chói. Morane nhào ngay lại : - Cái lão Bill này! - Mừng được gặp anh, anh thiếu tá. Mừng quá trời quá đất! - Đừng có gọi tôi là thiếu tá nữa, Bill. Tôi không chỉ huy ai nữa... Hai người cùng cười rộ lên. Đó là một trò đùa cũ giữa hai người: Ballanline gọi Morane theo cách khoa trương là "thiếu tá", và Bob trả lời ngay: "Đừng gọi tôi là thiếu tá nữa..." Nhưng Bill vẫn cứ gọi : - Anh thấy đó, thiếu tá: vừa nhận được điện tín của anh là tôi tới ngay. Chữ ký tên thì là "Tamini" đấy, nhưng đúng như anh nghĩ, tôi hiểu liền. Tôi tự nhủ như thế này: "Anh thiếu tá lại gặp chuyện bối rối đây, phải đỡ anh ấy một tay". Thế là tôi chạy đi giữ chỗ máy bay. Rất may là còn chỗ. Thế là xong một việc. Vừa đến Calcutta, tôi lại ngay khách sạn Assura, thấy thư của anh để lại đó. Theo lời khuyên trong thư, tôi liên lạc ngay bằng điện thoại với Sir Graham, và chúng tôi đến đây... Morane quay lại hỏi ông luật sư : - Ông biết chắc là không có ai đi theo chứ? - Hoàn toàn chắc chắn. Chúng tôi đã đề phòng cẩn thận. - Tuyệt! Bây giờ chỉ cần kể lại cho Bill nghe mọi biến cố nữa thôi. ° ° ° Morane nói thật lâu, không bỏ qua chi tiết nào để Ballantine biết tường tận những trường hợp sẽ lôi kéo anh ta vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm bên cạnh bạn anh. Bob kể hết rồi, Bill mới ngẩng đầu, nhăn mặt : - Câu chuyện tệ hại! Thoát được hay gục luôn trong đó thì cơ hội cũng ngang nhau. Morane chỉnh lại : - Có thể gục luôn lại nhiều hơn! Ballantine lắc đầu : - Tôi cũng định nói thế đấy... nhưng tránh không muốn tỏ ra bi quan quá đáng. Một bên là Maimaitcheng, một bên là người Thug, chúng ta ở giữa, chẳng tốt lành đâu. Morane đập tay lên thành ghế cái "chát", cất cao giọng : - Mới đầu đã chán nản, chẳng lợi lộc gì. Nguy hiểm hay không chúng ta vẫn phải liều mình mạo hiểm. Nếu mọi việc xảy ra đúng theo ý muốn của thằng Maimaitcheng thì mạng sống của hàng ngàn người, có thể hàng triệu người phải bị thử thách. Một cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Hồi quốc sẽ mau chóng biến thành một cuộc tương tàn thảm khốc vì hận thù tôn giáo. Kao Maimaitcheng phao tin đồn rằng pho tượng thiêng bị đánh cắp là do người Hồi giáo chủ trương. Khi mà hàng triệu tín đồ của Kâli nổi dậy - sự thật là tất cả những người Ấn trong nước đều thờ vị Hắc thần này - thì quả thật là tệ hại. Tôi đã suy nghĩ nhiều rồi. Dù cho có phải vì thế mà chết, tôi cũng cố tìm cách ngăn chận cuộc tàn sát này. Bill nói : - Tất nhiên, anh thiếu tá! Còn tôi thì tôi phải giữ cho anh sống. Thế bao giờ thì chúng ta đi Javhalpur? Morane nói : - Khi nào chúng ta có được pho tượng. Ngày mai chúng ta sẽ đi tìm. Trong thời gian đó thì Sir Graham lo kiếm cho chúng tôi hai chiếc xe: một chiếc cũ và một theo kiểu mới nhất. Bill và tôi sẽ lên đường đi riêng tới Javhalpur. Tôi đi trước, cải trang làm người Ấn, bằng cái xe cổ lỗ sĩ. Bôi mặt kỹ lưỡng bằng chất dầu của vỏ hạt dẻ, đầu đội khăn, mình mặc quần áo của dân bản xứ, tôi có thể làm cho người ta tưởng thật. Anh Bill thì đóng vai một du khách du hành quanh xứ. Kẻ thù của chúng ta không đứa nào biết anh ấy, nên anh ấy mang pho tượng. Tới Javhalpur, tôi sẽ cố gắng tìm cách nhờ ông Đại vương giúp đỡ. Không thành công đi nữa thì tôi cùng Bill cũng tìm cách tới ngôi đền bí mật. Trong xe Bill cũng phải mang theo đồ đạc để lúc cần chính anh cũng cải trang làm người Ấn. Tất nhiên là chúng tôi ai cũng phải có vũ khí. Ông Lowbridge đưa nhận xét : - Một cuộc thử thách nhiều may rủi! Hiện giở chắc chắn là Maimaitcheng biết ông còn sống, tất cả những con đường dẫn tới Javhalpur đều có người canh chừng. Hơn nữa cả hai ông không ông nào nói được tiếng địa phương. Ballantine ngắt lời : - Ông lầm rồi, Sir Grabam. Trong đại chiến tôi có làm việc vài tháng ở xứ này để thiết lập một cầu không vận với Trung Quốc và tôi nói tiếng Bengali như gió. Morane nói : - Tôi thì không nói được như vậy, nhưng tôi đã có cách. Tôi sẽ tính sao để trước khi đến Javhalpur không phải nói chuyện với một người nào... Sir Graham, ông có thể kiếm được cho chúng tôi hai chiếc xe hơi mà chúng tôi cần đến không? Ông luật sư gật đầu : - Trưa mai hai chiếc xe đó sẽ có ở đây. Các ông cần gì nữa không? - Chúng tôi cần mỗi người hai khẩu súng tự động, có băng đạn thay thế và cũng cần thêm những con dao săn thật tốt. Thêm nữa, ông có thể giới thiệu cho chúng tôi, Bill và tôi, một chỗ quen biết ở Javhalpur để chúng tôi liên lạc chăng? Graham Lowbridge suy nghĩ một lúc, sau cùng mới nói : - Tôi có ở đó một người đồng hương mà tài sản và bất động sản tôi còn quản lý ở Calcutta này. Ông ta tên là Herbert Ronaldson, rất có tiếng tăm ở Javhalpur. Tôi sẽ đánh điện cho ông ấy là có hai người bạn của tôi sẽ tới thăm, ông ấy nên tin hai bạn tôi. Morane từ từ ngả người trên chiếc ghế bành, cầm lên ly whisky soda đặt trên cái bàn thấp gần bên, rồi chàng đứng dậy, mỉm cười : - Chiều mai, Bill và tôi sẽ đi kiếm ông John Singar, yêu cầu ông ấy đưa cho pho tượng thiêng.Trong lúc chờ đợi, hãy uống mừng trước sự thành công của chúng ta. Mười Mặt trời ngả bóng trên đồng bằng, chiếu những vạch màu đo đỏ trên các mái nhà thành phố Calcutta. Tại đường phố Gopal bóng tối đã tràn ngập, chiếc Ford V8 cổ xưa do một người Ấn có gương mặt cương nghị và đôi mắt tinh anh lái đã đậu lại trước một vòm cửa mở ra một hành lang tăm tối. Người Ấn quay lại phía một người Âu có mớ tóc hung đỏ ngồi ở băng sau, nói : - Tôi lên nhà ông John Singar đây, Bill ạ. Về phần anh thì canh chừng xung quanh nhé. Hễ thấy động thì bốp kèn xe ba tiếng: một tiếng ngắn, hai tiếng dài. Cứ để máy nổ, sẵn sàng ra đi. Ballantine nói : - Cứ tin nơi tôi, anh thiếu tá! Về phần anh, hễ thấy dấu hiệu nguy hiểm, cứ nổ súng ngay, đừng ngần ngại gì. Với một thứ địch thủ như Maimaitcheng thì tốt nhất là bắn trước... - Tin tôi đi, Bill. Tôi chẳng tính chuyện chết sớm đâu. Morane lôi trong người ra khẩu súng tự động rất lớn của chàng, nạp đạn, mờ khóa an toàn và bước xuống xe. Bước hai bước chàng đã tới vòm cửa, chui vào trong hành lang. Trong bóng tối mờ mờ, chàng nhận ra một cầu thang gỗ, nghĩ thầm: "John Singar ở lầu một. Đúng lúc thì cửa phòng của ông ta phải ở trên kia...". Bước nhẹ nhàng, chàng leo lên những bậc thang, chẳng bao lâu tới một mặt bằng tối om. Dùng tay trái Bob bấm đèn pin mà chàng đã cẩn thận mang theo, rọi một luồng sáng quanh mình. Chỉ có một cánh cửa sơn màu nâu mở ra ở chỗ mặt bằng, nhưng Bob không thấy biển đề, cũng chẳng thấy chuông. Tắt đèn, chàng lại gần cánh cửa đưa tay gõ. Đến vài giây, Bob nắm chặt báng súng tự động trong bàn tay phải. Có thể là Maimaitcheng đã tìm ra dấu vết của John Singar, đã chiếm đoạt pho tượng và đợi chàng để bắt sống. Bên kia cánh cửa có tiếng chân bước lẹp xẹp, rồi cánh cửa mở, một bóng người mảnh mai hiện ra trên nền sáng mờ mờ. Bob lại bật đèn pin, nhận ra một người Ấn chừng ba mươi tuổi, vẻ mặt thật thà và thông minh, mặc cái áo dài gài nút tận cổ và một cái quần ống túm. Bị lóa mát vì ánh đèn, người kia đưa tay che và tính khép cửa trở lại, nhưng Morane đã đưa chân chặn lấy cửa. Người kia hỏi bằng tiếng Anh : - Ông muốn gì? Morane không để mất thì giờ giới thiệu lòng vòng, lên tiếng : - Trafalar và tháp Luân Đôn, chịu chưa? Không giữ dịt lấy cửa nữa, người kia mở toang ra, nói : - Vào đi! Bob nghe theo, đi theo người đó qua một hành lang tường vách trơ trụi, dẫn tới một căn buồng mà đồ đạc giản dị quá mức: một chiếc chiếu thay cho giường nằm, một cái bàn, hai cái ghế và một cái tủ. Trên một cái kệ bằng gỗ có vài quyển sách và một cây thánh giá. Bob nhớ lại trong thư giáo sư Mainright đã xác nhận rằng John Singar theo đạo Thiên Chúa, cây thánh giá nằm đây xác nhận với Bob là chàng đã gõ đúng cửa. Chàng lên tiếng, hỏi: - Ông có đúng là John Singar không? Người kia đáp : - Vâng. Tôi là John Singar đây. Anh ta ngắm nhìn Morane thật chăm chú, lát sau mới nói : - Ông không phải người Ấn mà! Bob mỉm cười : - Không. Tôi không phải người Ấn. Nhưng anh đừng để ý chuyện cải dạng đó. Chuyện bắt buộc thôi, tin tôi đi! Tôi tới đây một phần là để bảo thù cho ông giáo sư Mainright đáng thương. Singar không trả lời ngay, ông đứng mơ màng một lát, rồi sau cùng lắc đầu, như vừa tỉnh cơn mơ : - Tôi đưa vật đó cho ông đây! Anh ta mở tủ, lấy ra cái gói niêm phong rất kỹ đưa cho Morane. Morane phá khằn, cắt dây buộc, mở bao giấy ra. Tức thì thấy một pho tượng nhỏ của thần Kâli, giống hệt pho tượng ở nhà giáo sư Mainright. Tuy nhiên Bob nhận ra ngay những vòng cẩm thạch ở cổ tay, cổ chân pho tượng và ở lá bùa là thứ thật: những viên kim cương nhỏ chiếu ánh sáng xanh xanh. Rút con dao díp trong túi ra, Morane ấn ngón tay cái khựi ra một mảnh men ở phía dưới chân pho tượng. Lớp kim loại hiện ra, lần này thì lấp lánh màu vàng. Bob không còn nghi ngờ gì nữa, chàng đã nắm trong tay pho tượng thật mà nếu tin theo huyền thoại là của thần Siva tặng cho vợ là thần Kâli, để tưởng thưởng bà nhân cuộc chiến thắng ma vương Rahtavija. Morane quay lại nói với John Singar : - Tôi phải cảm ơn ông. Giao cho ông vật này là giáo sư Mainright biết chọn mặt gửi vàng. John Singar nghiêm nét mặt : - Đừng cám ơn tôi. Giáo sư Mainright là ân nhân của tôi. Tôi đã coi ông gần như một người cha thứ hai. Rồi chỉ pho tượng, anh ta nói : - Ông đi và mang cái này đặt trả vào ngôi đền bí mật ở Javhalpur. Kâli tượng trưng cho mọi sức mạnh đen tối của thế giới, nhưng phải tin cậy nơi bà. Bob nói : - Tôi sẽ làm hết khả năng để thành công! Chàng bắt tay John Singar, bước ra. Vài phút sau chiếc xe V8 lướt đi, nhắm hướng ngôi biệt xá của ông Graham Lowbridge. ° ° ° Ngồi quanh một cái bàn, Bob Morane, Bill Ballantine và Sir Grabam cùng ngắm hai pho tượng đặt kề nhau. Bill nói : - Không phải nói gì nữa, chúng giống hệt nhau. Bob đáp lại : - Tất nhiên chúng giống nhau. Chỉ khác một điều là một pho tượng thì bằng chì, vô giá trị còn pho kia thì bằng vàng có khả năng đưa toàn thể nước Ấn Độ cùng với Hồi quốc chìm vào máu lửa. Lowbridge thuật lại : - Mới rồi tôi được biết ở một nơi không xa biên giới xứ Bengale phương Đông1, người ta vừa tìm ra hai xác chết người Hồi, cả hai đều mang dấu vết bị thắt cổ bằng một dải lụa. Bob nhăn mặt : - Dấu vết của Kâli. Ông luật sư gật đầu : - Phải. Dấu vết của Kâli. Tới giờ hành động rồi. Vài ngày nữa là đúng rằm. Chính trong những đêm rằm như thế các tín đồ của Hắc thần sẽ hội họp để hiến tế. Ai biết được khi đó chuyện gì sẽ xảy ra ở ngồi đền Javhalpur. Mặt Morane đanh lại, tỏ rõ nghị lực hung tợn : - Trước đêm rằm, hoặc pho tượng sẽ ở đúng chỗ của nó trong ngôi đền thiêng, hoặc anh và tôi phải chết, phải vậy không Bill? Ballantine nói : - Tôi đồng ý với anh ở vế đầu của câu nói. Bi quan quá là có hại đấy. Chỉ nên nói: Vào đêm rằm pho tượng đã ở chỗ của nó mà thôi. Ba người yên lặng một hồi. Sau cùng Graham Lowbridge mới hỏi : - Còn ông, ông Bob, tôi đã bị Maimaitcheng và tay chân của hắn biết rõ, nên dễ gặp nguy hơn cả, lỡ ông không đến được Javhalpur thì làm sao? Morane trả lời : - Trong trường hợp đó thì tôi tuyên bố thẳng ra đây: Bill tiếp tục mang pho tượng đi một mình. Nếu trưa mai tôi không tới nơi hẹn ở nhà ông Herbert Ronaldson thi Bill cứ một mình đi thẳng tới ngôi đền bí mật. Anh ấy đã có bản sao tấm bản đồ chỉ dẫn tới nơi đó rồi. Anh ấy lại thừa sức lực và can đảm để thành công. Chàng Bill khổng lồ tỏ vẻ nóng nảy : - Tại sao lại nói đến rủi ro, anh thiếu tá. Chúng ta đi Javhalpur không cùng lúc với nhau, nhưng để đến ngôi đền thì chúng ta đi chung với nhau. Dầu sao đi nữa thì chúng ta đã từng đương đầu với những tình thế đáng tuyệt vọng hơn thế này ấy chứ. Lần này chúng ta cũng ra thoát mà thôi... Cái thằng Maimaitcheng kia đâu có phải là quỷ sứ? - Gần như thế đấy, Bill ạ. Gần như thế! Sau nữa anh biết đấy, không phải chúng ta chỉ cần đương đầu với một mình hắn, mà còn cả bọn Thug nữa. Bọn này giống như tiền bối của chúng, là những kẻ cuồng tín ranh mãnh như ma, lại chỉ thích giết để mà giết. Một lần nữa Ballantine tìm cách gây chút lạc quan tin tưởng trong nhóm ba người : - Bọn Thug chẳng đụng đến chúng ta đâu, tin tôi đi. Cá nhân tôi thì tôi có cái cổ cứng lẳm, chúng khó lòng mà tìm được một sợi dây thòng lọng vừa với thân bình của tôi. Mà tôi cũng chẳng để cho chúng có đủ thời giờ để đo đạc thân hình tôi đâu. Morane cất tiếng cười : - Cái anh Bill láu lỉnh này luôn luôn là gặp hên thôi! Đã có cái cổ không tìm đâu ra một sợi dây thòng lọng cho vừa, lại có cú đấm móc bằng tay phải có khả năng đưa một đám người Thug về thiên đàng của Kâli, và lại có một nhân vật khả ái đi cùng suốt cuộc hành trình tới Javhalpur. - Một nhân vật khả ái? Anh muốn nói gì vậy, anh thiếu tá? Bob chỉ pho tượng thiêng : - Chính anh mang nó đó, đừng có quên. À Bill, tôi quên kể cho anh nghe một chi tiết trong huyền thoại: truyện kể rằng ở một vài thời kỳ, ngay trước đêm trăng rằm pho tượng tự lớn bổng lên, biến hình thành bà nữ thần. Biết đầu ngày mai anh lại chẳng thấy Kâli ngồi bên anh, ngay chỗ tay lái? Kâli lớn bằng người thật, có bốn cánh tay, bàn tay đẫm máu, bà sẽ nhìn anh bằng đôi mắt đỏ ngầu và bảo "Này thằng bé Ballantine! Màu tóc của mày chẳng vừa ý ta đâu nhé..." Anh chàng khổng lồ hơi tái mặt : - Đừng nói thế chứ, thiếu tá! Tuy là truyện thần thoại thì cũng phải dựa vào sự thật. Hơn nữa tôi là người Tô Cách Lan, mà người Tô Cách Lan thì hay tin dị đoan. Kể những chuyện như thế với một người Tô Cách Lan đang cần một đêm yên lành là chuyện không nên. -------------------------------- 1 Bengale phương Đông thuộc Hồi quốc; phương Tây thuộc Ấn. Mười một Javhalpur là một thành phố nhỏ của Ấn, rất giống với các thành phố nhỏ khác của Ẩn, có những ngôi nhà bằng đá trát vữa, một ngôi chợ lúc nhúc đám đông vội vã. Và cũng cùng có những người đàn bà mặc áo sari sặc sỡ, những hàng quán dưới bóng những cây dù lớn, một cây đa cổ thụ ở bãi đất trung tâm thành phố, những con khỉ thiêng ở trên cây và những con bò thiêng, những ngôi đền mái lấp lánh như lợp bằng kim loại cùng những tòa lâu đài mà tầng lầu nhô ra. Calcutta là một hải cảng lớn mà xưa kia người Anh dùng làm thủ phù, ở nhiều chỗ rất giống với một đô thị Âu châu. Trái lại Javhalpur, lúc mà Morane đến nơi lại có một bộ mặt khác hẳn: bộ mặt của Ấn Độ thời trung cổ, không bao giờ bỏ mất thời quá khứ. Suốt ngày hôm trước, Bob đã lái xe chạy thật chậm trên một con đường khó đi, đông đúc những khách bộ hành tưởng như bước đi không có chú đích. Đến đêm, Morane tìm vào một khu rừng nhỏ, ngủ trên xe hơi gài cửa cẩn thận và súng lục cầm tay. Tuy vậy đã không có chuyện gì xảy ra. Cả người của Maimaitcheng lẫn người Thug không người nào tới quấy rầy giấc ngủ cùa chàng. Sáng sớm chàng xuống cái ao gần đó, kỳ cọ bằng xà bông thật kỹ để xóa bỏ lớp dầu hạt dẻ trát từ đầu tới chân chàng, rồi chàng thay bộ Âu phục. Quả thật tới Javhalpur chàng phải xuống đi bộ, không hy vọng gì gây ảo tưởng lầm lẫn với cái mã giả hiệu người Ấn. Một người Âu mà cải trang thì còn bị thiên hạ chú mục nhiều hơn là cứ để nguyên hình của mình cho thiên hạ thấy. Khi chiếc V8 vào thành phố, Morane nhìn tương lai với nhiều tin tưởng, ở Calcutta chàng đã thắng được keo đầu là tìm cách lấy được pho tượng thiêng trước khi Maimaitcheng khám phá ra chỗ cất giấu. Hơn nữa vượt qua chặng đường Calcutta - Javhalpur chàng không gặp phiền lụy gì. Morane suy nghĩ: "Nếu ta dám hy vọng yên ổn như vậy thì ta và Bill có thể đi chung với nhau, và ta cũng chẳng phải hóa trang như người đi dự dạ vũ trá hình". Chàng nhún vai, không suy nghĩ nữa, và nhủ thầm: "Kệ! Cứ cẩn thận, dù dư thừa đi nữa cũng chẳng chết ai. Chiều nay Bill sẽ tới đây với pho tượng và cùng với ta có thể lên đường tới ngôi đền thiêng. Trong lúc chờ đợi, ta hãy tìm ngôi nhà của ông Herbert Ronaldson cái đã. Sau đó sẽ cùng Bill tới xin hội kiến với Đại vương". Đúng như Sir Graham đã xác nhận, Herbert Ronaldson rất có tiếng tăm ở Javhalpur. Chỉ cẫn hỏi vài người dân địa phương là Bob biết ngay được đường tới nhà ông ta. Ronaldson là một trong những tay thực dân kỳ cựu không để mất gốc, ham rượu và thích kể chuyện chiến tranh, đúng như đại văn hào Kipling đã tả. Tới Ấn từ hồi rất trẻ, ông ta gắn bó với đất Ấn và không ra đi. Vì lời giới thiệu của Graham Lowbridge, ông ta đã tiếp đón Morane rất tử tế : - Này chàng trai trẻ, tôi không biết anh tới Javhalpur để làm gì, nhưng tôi cũng đoán được qua cái vẻ bí mật chung quanh anh.. Cái xe cổ lỗ sĩ giống cái lồng gà chẳng ai ham, cái người lạ mặt bí ẩn sắp phải tới gặp anh ở đây - Ronaldson ám chỉ Ballantine - và khẩu súng cồm cộm dưới áo veston của anh, tất cả những cái đó tôi thấy có vẻ ám muội đấy. Hơn nữa, anh lại đòi xin hội kiến với Đại vương... Tất cả những cái đó phải che giấu một điều gì chứ. Điều đó thì tôi không biết, và cũng chẳng dính dáng đến tôi, nhưng tôi cũng mạn phép khuyên nhủ vài điều: nên tránh xa những chuyện riêng tư ở Ấn. Tôi sống ở đây hàng chục năm mà còn không biết nữa là. Có quá nhiều lực lượng bí mật xung đột nhau. Vì thế anh thử ngó lại coi: Cách đây mấy năm, sau khi quân đội của chúng tôi ra đi, một cuộc đấu tranh mù quáng đã xảy ra giữa người Ấn và Hồi. Thế mà chỉ cần cái chết của một người là ông Ganhi, cũng đủ chấm dứt ngay cuộc tàn sát đó. Bob mỉm cười : - Chính cũng vì lý do đó phần nào mà tôi có mặt nơi đây, ông Ronaldson ạ! Không phải để chấm dứt một cuộc tàn sát, mà để ngăn chặn nó đừng xảy ra. Ông lão người Anh đưa mắt nhìn người đối thoại với vẻ tò mò : - Tôi biết! Hiện nay đang xảy những chuyện kỳ cục. Chưa bao giờ mà các tín đồ của Kâli lại hiến tế cho vị nữ thần của họ nhiều đến thể. Người ta cắt cổ những con dê nhỏ màu đen đến là tội nghiệp. Người ta tìm thấy một vài người dân Ấn, tất cả đều là người Hồi giáo, bị thắt cổ bằng băng lụa. Một số người nói đến sự tái xuất của người Thug, nhưng tôi thấy là không thể có được. Cái tổ chức bí mật ấy đã bị triệt hạ từ lâu rồi... Tuy nhiên cũng phải công nhận rằng những cuộc sát hại đó có mang dấu vết của Kâli. Mặt khác, các tín đồ của bà lão khát máu đó có một ngôi đền bí mật ở địa phương này, ở một chỗ nào đó trên núi, phía bên kia thành phố. Và nếu cứ tin những lời đồn đãi thì... Morane không trả lời. Tốt hơn hết là không nên thêm thắt vào những lời lẽ ba hoa của Ronaldson, để không ai chú ý đến sử mạng đã dẫn dắt chàng và Bill tới Javhalpur. Dù vậy lời nói của ông lão người Anh đã xác minh những điều chàng biết: lòng người đã xao xuyến, những tín đồ Kâli quả thật đã bạt đầu thắt cổ người để thực hiện những cuộc giết người theo nghi lễ tôn giáo và ngôi đền bí mật là có thật chứ không phải chỉ hiện hữu trong trí tưởng tượng của Osborne. Phải hành động gấp rút. Nhưng dầu sao thì cũng nên nghe lời khuyên của Shedar Sing mà xin hội kiến với Đại vương. Bob tin chắc rằng chỉ một cái tên của "đức Thầy" Shedar Sing cũng đủ là một sự giới thiệu chắc chắn. Chàng hỏi ông Ronaldson : - Cái ông Lal Bhawannee đó là người như thế nào? - Lal Bhawannee, cái ông Đại vương ấy à? Có chút kiêu hãnh, nhưng là người tốt, Tôi biết ông từ hồi còn niên thiếu. Đó là một trong những bậc vương giả hùng mạnh nhất ở Ấn. Nhưng những biện pháp cuối cùng của chính phủ Delhi đã chơi ông ta một vố xiểng niểng. Phần lớn lãnh địa của ông ta đã bị quốc hữu hóa, và trong số hai trăm con voi mà ông ta có trước đây chỉ còn có đầy hai chục. Bob cất tiếng cười : - Một tiểu quỷ đáng thương! Tôi nghĩ vậy. - Phải, một tiểu quỷ đáng thương, nhưng cuộc sống còn vượt xa cuộc sống của một triệu phú trong xã hội chúng ta. Lâu đài của ông ta giống như một tòa lâu đài trong truyện "Nghìn lẻ một đêm". Bhawannee vẫn còn người bảo vệ, còn cả tiểu đoàn nô bộc, còn một sở thú riêng và mười hai chiếc xe hơi hạng sang. Morane nhắc lại : - Quả là một tiểu quỷ đáng thương! Nhưng làm cách nào để gặp ông ta đây? - Thật đơn giản! Anh đi dọc đường phố trước mặt anh đây, qua bãi đất trống tới chỗ hàng rào sắt. Ở đó, gặp người canh gác nào thì anh cứ hỏi hắn và tùy theo tính khí lúc đó của hắn, có thể là hắn đuổi anh, có thể hắn dẫn anh vào giao cho người gác thứ hai, người này sẽ thông báo với Đại vương. Khi đó, anh chỉ còn phải cầu Trời khấn Phật ban phép lạ cho anh nữa thôi. Bob nói : - Yên chí, ông Ronaldson! Phép lạ sẽ có thôi! Đúng như Herbert Ronaldson đã nhìn nhận, tòa lâu đài của Đại vương Javhalpur xứng đáng là một tòa lâu đài trong truyện "Nghìn lẻ một đêm". Ở giữa một khu đất rộng mênh mông, trải dài những hồ ao và những dòng nước bao quanh một khu nhà đồ sộ, những mái, những vòm bán cầu và tháp san sát như rừng. Mái thì uốn cong như mái chùa, vòm bán cầu thì láp lảnh như vàng, tháp thì cao như tháp của những ngôi thánh đường Hồi giáo. Người gác đang làm nhiệm vụ ở chỗ hàng rào sắt dẫn Morane qua những lối đi hai bên có những tảng đá khổng lồ, rồi phải leo qua nhiều chiếc cầu bắc trên những kênh đào rất sâu. Ở cửa tòa lâu đài, hay đúng ra phải nói là một trong những tòa lâu đài, người đội trưởng lính gác đã tiếp đón Morane. Quần áo bằng lụa, chiếc khăn đội đầu rất cao có gắn một viên ngọc to tướng, ông ta có vẻ của một vương hầu phường tuồng. Rõ ràng ông ta muốn từ chối Morane. Nhưng rồi đúng như chàng mong ước, tiếng tăm của Shedar Sing đã có tác động như một câu thần chú: "Hạt vừng! Ngươi hãy mở ra!" Nghe nêu danh của người mà cả Ấn Độ đều biết tiếng, người đội trưởng nghiêng mình trước Morane, nói : - Tôi xin thỉnh thị ý kiến chúa công tôi xem ngài có vui lòng tiếp ông chăng? Mười lăm phút đã trôi qua, Morane bắt đầu thấy nóng ruột thì người đội trưởng trở lại, nghiêng mình lượt nữa : - Chúa công đang đợi, mời ngài theo tôi... Bob theo chân người dẫn lối đi qua những hành lang dài vô tận, lát đá hoa rất sang trọng, hai bên tường có những hình chạm nổi kể sự tích tôn giáo hoặc săn bắn, rồi tới một phòng khách rất rộng trang trí theo kiểu Âu châu tân tiến, hòa hợp với kiều Ấn Độ cổ xưa. Những bức tranh của Renoir, Van Gogh, Dufy và Picasso được treo trèn tường, bên cạnh những bức tranh Ba Tư hay những bức họa Trung Hoa. Người đội trưởng rút lui, khép lại sau lưng mình cả hai cánh cửa rộng lớn, để Morane ở lại một mình trong phòng khách. Chàng không phải đợi lâu. Chàng chưa kịp đánh giá hết những báu vật trang hoàng căn phòng khách thì cửa lại mở ra. Một người Ấn bước vào, chừng bốn mươi tuổi, mặc Âu phục: giày ống màu nâu vàng, quần kiểu kỵ sĩ, áo sơ-mi cổ bẻ. Ông ta cao lớn, tóc xoăn, có bộ ria mép tuyệt đẹp rủ xuống theo kiểu Mông Cổ, phù hợp với khuôn mặt có những nét hung dữ và tàn bạo, nổi bật lên vì đôi mắt xanh lè, màu xanh của những đồ sứ Trung Hoa. Morane khẽ nghiêng mình trước người mới tới mà chàng biết chắc rằng chẳng phải ai khác Lal Bhawannee, Đại vương của Javhalpur. Ông này tiến lại đưa tay chỉ ghế ngồi cho khách : - Ngồi đi, thiếu tá Morane! Có phải ông đã xưng tên như vậy với người đội trưởng canh gác của tôi chăng? Thật ra thì tôi đã nghe danh ông từ trước. Tôi mua hàng năm những tờ bảo chính ở châu Âu và châu Mỹ và đã đọc những bài viết về các cuộc phiêu lưu của ông. Ông là một nhân vật... rất náo động, thiếu tá ạ. Tôi tiếp ông một phần cũng bởi tò mò, nhưng phần khác cũng do ông cho biết là ngài Shedar Sing giới thiệu ông đến đây. Ở Ấn, danh tiếng của đức Thầy được nhiều người mở của đón tiếp đấy. Bob ngồi trên một chiếc ghế bành bọc lụa Ba Tư, ông Đại vương ngồi ngay trước mặt, nói : - Ông hãy mở đầu trình bày lý do cuộc thăm viếng của ông đi đã, ông thiếu tá! Tôi nghĩ rằng ông không đến đây chỉ để thăm tôi và lâu đài của tôi. Morane mỉm cười, lắc đầu : - Thưa Đức Ông không... Tuy là tôi rất vinh hạnh được thấy mặt ngài, nhưng tôi đến đây vì những nguyên cớ trọng đại hơn nhiều. Mạng sống của hàng ngàn người, có thể của hàng triệu người phụ thuộc vào cuộc hội kiến của chúng ta đấy! Lal Bhawannee nhảy nhổm : - Hàng triệu người? Ông nói quá chăng thiếu tá? Nhưng hãy nói cho chính xác là chuyện gì đi đã. Chàng người Pháp ngần ngại. Dầu sao thì ông Đại vương này đối với chàng cũng là người chưa quen biết, gửi thác chuyện mình cho ông ta thì đã khôn ngoan chưa? Nhưng dù sao chính Shedar Sing, người tin thành của thuyết bất bạo động đã khuyên chàng gặp bậc vương giả này thì chàng đành quyết định tin cậy. Chàng kể lại cho Đại vương nghe câu chuyện ở những điểm chính, bỏ bởt không nói gì dính líu tới các người bạn của mình là Lowbridge và Ballantine, để lỡ có xảy ra chuyện gì thì họ vẫn có thể tự do hoạt động. Chàng kể thật nhanh, tóm tắt mọi biến cố xảy ra từ sau cái chết của giáo sư Mainright: chuyện pho tượng thiêng, chuyện Osborne sau khi đánh cắp từ trong ngôi đền thiêng đã đem bán pho tượng cho nhà bác học, chuyện người Thug tái xuất, chuyện nước đại cường quốc châu Á nhờ âm mưu của Maimaitcheng và đồng bọn hy vọng sớm muộn gì cũng nhúng tay được vào nội tình Ấn Độ. Bob kể xong thì Đại vương đứng dậy, đi tới đi lui trong phòng. Sau cùng ông ta mới nhìn ngay mặt người khách : - Thiếu tá Morane! Nếu tôi không lầm thì chính ông mang pho tượng đặt trả vào ngôi đền thiêng, và ông tính nhờ tôi giúp đỡ phải không? Bob xác nhận : - Tâu Đại vương, chính thế. Ngài giàu có, hùng mạnh, có quân đội. Nếu ngài bảo trợ, tôi có nhiều may mắn tới được ngôi đền. Lal Bhawannee làm như không nghe những lời nói sau cùng của Morane. Ông ta tiến lại một khung cưa sổ ở cuối phòng, mở toang ra : - Lại đây, thiếu tá Morane. Tôi muôn chỉ cho ông thấy đôi điều. """