"Phía Sau Tội Ác - David Baldacci full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phía Sau Tội Ác - David Baldacci full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Phía Sau Tội Ác David Baldacci Từ khóa: Novels, Trinh Thám DAVID BALDACCI PHÍA SAU TỘI ÁC (Tiểu thuyết) NGUYỄN LAN HƯƠNG dịch Thực hiện ebook: Fanpage Duyên sách NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG Nguyên tác: Sunple Truth, NXB Wamer Books, New York, 1999 Sự thật thường ít khi rõ ràng và không bao giờ đơn giản. Oscar Wilde Chương một Ở nhà tù này, cửa sắt thường dày tới hàng insơ (Đơn vị đo chiều dài Anh, bằng 2,54 cm - N.D). Khi mới ra lò ở nhà máy, chúng càng nhẵn nhụi bao nhiêu thì bây giờ càng mang trên mình nhiều những vết lõm ngang dọc bấy nhiêu. Dấu vết va đập của mặt người, của đầu gối, cùi tay, răng cùng những vệt máu khô in hằn khắp trên những bề mặt màu xám. Chúng giống như một hệ thống chữ tượng hình riêng của nhà tù, thể hiện nỗi đau đớn, sự sợ hãi và cái chết, tồn tại vĩnh cửu nơi đây, ít nhất cho tới khi những tấm sắt mới được mang tới thay thế. Mỗi cánh cửa đều có một ô vuông mở ra ngang tầm mắt. Trong những ca trực của mình, lính canh tù thường ghé mắt qua cái khoảng trống bé xíu đó rồi rọi đèn sáng chói vào những con vật hình người bên trong. Chẳng hề báo trước, những thanh dùi cui bất cứ lúc nào cũng có thể thình lình nện mạnh, kèm theo không bao giờ thiếu tiếng lách cách của súng lục. Giỏi chịu đựng là những tù nhân già đời, những kẻ dù có chú ý lắng nghe nhưng vẫn tiếp tục giả tảng nhìn xuống nền nhà, trông như đang trầm tư suy ngẫm chẳng về bất cứ điều gì bằng một thái độ bất chấp đầy tế nhị. Lũ "lính mới" vẫn luôn căng thẳng mỗi khi tiếng động hoặc ánh sáng đột ngột ập tới, một số kẻ còn són nước tiểu xuống chiếc quần cotton và đứng đó nhìn dòng nước chầm chậm thấm tới đôi giày bè bè màu đen bên dưới. Nhưng rồi tất cả đều sẽ qua, tất cả đều phải dần quen với tiếng sập mạnh của những ô cửa đáng nguyền rủa, tất cả đều học được cách kìm nén những giọt nước mắt trẻ con cùng những cơn đau quặn ở bụng. Nếu như còn muốn sống sót. Khi đêm xuống, bóng tối bao trùm khắp các xà lim, không quên tạo nên những hình thù kỳ quặc nhảy nhót trên các bức tường. Đêm nay đang có một cơn bão với sấm sét kèm theo mưa lớn trong vùng. Qua những ô cửa sổ nhỏ làm bằng kính plêxi, mỗi tia chớp chói sáng nhào xuống từ bầu trời lại rạch vỡ màn đêm trong xà lim thành muôn vàn mảnh sáng. Đi cùng với mỗi tiếng sấm, trên những bức tường đối diện lại loé lên hình ảnh phản chiếu của mạng dây kim loại nhằng nhịt hình tổ ong giăng kín phía ngoài tất cả các ô cửa sổ. Trong cái ánh sáng chập chờn ấy, khuôn mặt một người đàn ông nổi lên trên nền tối như một mũi thuyền đột ngột rẽ đôi bề mặt nước. Không giống tù nhân trong các xà lim khác, anh luôn ngồi một mình, suy ngẫm một mình và không nhìn đến một ai. Các tù nhân khác khiếp sợ anh. Cả lính gác ngục cũng vậy, cho dù họ được trang bị vũ khí tận răng, vì anh là một con người có vẻ ngoài đầy hăm doạ. Khi anh đi qua những tù nhân hung đữ và chai cứng lì lợm nhất, tất cả đều phải nhanh chóng cụp mắt nhìn đi nơi khác. Tên anh là Rufus Harms, nổi danh ở nhà tù quân đội Fort Jackson này như một kẻ huỷ diệt, sẵn sàng nghiền nát bất cứ kẻ nào tấn công mình. Harms không bao giờ tấn công trước, nhưng luôn luôn là người kết thúc. Hai mươi lăm năm giam cầm trong tù để lại nhiều dấu ấn trên cơ thể anh. Giống như những vòng tuổi trên thân cây, những vết cào rách trên da, những chỗ gãy xương còn chưa lành hẳn như một cuốn niên giám minh chứng cho thời gian bị cầm tù của Harms nơi đây. Nhưng những tổn thương tồi tệ hơn thế lại chính là những ký ức, suy nghĩ, tình yêu, lòng hận thù, nỗi sợ hãi nằm sâu trong tâm trí. Tất cả đều nhơ nhuốc và thù địch với anh. Mạnh hơn tất cả, ký ức chính là khối u nhọt đau đớn nhất ngày đêm thúc vào từng thớ thịt trong Harms. Mặc dù vậy, đôi cánh tay dài đầy sẹo cùng đôi vai đồ sộ trong cái thân hình to lớn của Harms vẫn chứng tỏ sự tồn tại thực sự của một sức mạnh vững chắc. Ngay chỗ thắt lưng to lớn cũng đã đủ hứa hẹn một năng lượng khác thường trong anh. Harms vẫn như một cây sồi đứng nghiêng một phía, vươn lên mạnh mẽ với những rễ cây mọc chồi lên khỏi mặt đất, bất chấp nhiều cành lá bên trên đã hoặc đang chết. Con người anh là tổng hợp của những đặc tính trái nghịch nhau: một người đàn ông lịch thiệp, biết tôn trọng người khác, biết trung thành với Chúa và một kẻ giết người nhẫn tâm. Cũng vì thế mà lính gác ngục cùng đám tù nhân không dám dính vào Harms và anh vẫn từng bằng lòng với điều đó. Cho tới ngày hôm nay ! Anh trai anh đã mang tới một điều gì đó cho anh. Một gói vàng, một làn sóng hy vọng. Một con đường thoát khỏi nơi này. Một luồng ánh sáng loé lên làm lộ ra cặp mắt đỏ ngầu như đang chảy máu nhưng cũng không che giấu nổi những giọt nước mắt đang chảy dài trên khuôn mặt nặng trĩu và u ám của anh. Harms vuốt phẳng mảnh giấy khi bóng tối bao trùm trở lại, cố gắng không gây ra tiếng động nào vì những tiếng sột soạt sẽ chẳng khác gì lời mời chào lính gác ngục tới dò la tìm kiếm. Trời đã tối được vài giờ. Harms không thể đảo ngược được điều đó nhưng anh cũng đã kịp vừa đọc hết bức thư vừa nuốt lấy từng âm tiết. Mỗi từ ngữ như một cơn ớn lạnh cắt vào da thịt khiến anh phải rùng mình. Huy hiệu của Quân đội Hoa Kỳ in đậm nét ngay góc trên của tờ giấy. Harms quá quen với biểu tượng này vì đó là người chủ, người cai quản trại tù đối với anh đã gần ba mươi năm nay. Quân đội Hoa Kỳ đề nghị Rufus Harms, một binh nhì bại trận và bị quên lãng, cung cấp thông tin về thời kỳ ở Việt Nam. Thông tin chi tiết. Những thông tin Harms chẳng có cách nào cung cấp được. Không cần ánh sáng, ngón tay anh vẫn định vị chính xác và khẽ chạm vào phần của lá thư đã lập tức gợi lại những mẩu ký ức trôi nổi trong Harms suốt những năm ấy. Chúng chính là nguyên nhân gây nên những cơn ác mộng không bao giờ dứt trong anh. Ngay lần đầu tiên đọc lá thư, Harms đã phải cúi thật sát xuống, như thể cố gắng tìm kiếm những ẩn ý nằm sau những dòng chữ đánh máy, như thể cố gắng tìm cách giải quyết nỗi thống khổ lớn nhất trong cuộc sống đạo đức của mình. Đêm nay, đột nhiên hai đoạn ký ức bỗng hợp nhất lại với nhau, bện xoắn với nhau, kết nối với nhau để lộ ra sự thật. Sau cùng thì cũng đã đến lúc. Cho tới trước khi Harms đọc được lá thư của Quân đội Hoa Kỳ này, anh chỉ nhớ có hai điều tách biệt về cái đêm cách đây đã hai mươi lăm năm: bé gái và mưa. Trận bão ấy cũng quyết liệt chẳng khác gì trận bão đêm nay. Đó là một bé gái mảnh dẻ, mũi thanh thoát, làn da còn chưa hề gợn chút nếp nhăn nào của nắng gió, tuổi tác hoặc lo âu. Đôi mắt mở to của cô bé xanh biếc và vô tội, chứa đựng trong chiều sâu của chúng là tất cả những hoài bão về một cuộc sống còn đang rất dài phía trước. Làn da trắng không một tì vết, ngoại trừ những vết lằn màu đỏ in hằn trên chiếc cổ mảnh khảnh như cuống một bông hoa. Những vết lằn do bàn tay của binh nhì Rufus Harms gây nên, chính là bàn tay lúc này đang nắm chặt lá thư trong lúc tâm trí anh một lần nữa choáng váng hình dung tới những hình ảnh ấy. Hễ khi nào nghĩ tới cô bé, Harms đều không thể cầm được nước mắt. Nhưng anh chỉ khóc trong im lặng, vì lý do an toàn. Lính gác ngục và tù nhân, giống những con chim diều mốc và cá mập, tất cả đều đánh hơi được mùi của máu, mùi của sự yếu đuối và từ xa hàng triệu dặm vẫn có thể phát hiện được những lỗ hổng, những khe hở hớ hênh. Bọn họ nhận biết những điều này qua sự co giật ở khoé mắt, qua sự nở rộng của lỗ chân lông trên da, thậm chí qua cả mùi khó chịu của mồ hôi. Trong nhà tù này, tất cả các giác quan đều trở nên thính nhạy. Ở đây phải sống thật mạnh bạo, gấp gáp, không khoan nhượng, lanh lẹ và ganh đua. Không thì chết. Khi quân cảnh tới thì anh đang quỳ bên cạnh cô bé. Chiếc váy mỏng bó sát vào thân hình nhỏ xíu lúc đó đang nằm lún trong lớp đất sũng nước, như thể cô bé vừa bị ném từ rất cao xuống tạo thành một trong những nấm mồ nông nhất. Harms có ngẩng lên nhìn quân cảnh một lần, nhưng anh không nhận biết được điều gì khác hơn ngoài mớ hỗn loạn của những hình bóng mập mờ tối sẫm. Chưa bao giờ trong đời, Harms lại cảm thấy một nỗi giận mãnh liệt đến thế. Sự ghê tởm dâng lên trong anh, mắt anh nhìn mờ ảo, mạch đập, nhịp thở và huyết áp - tất cả đều xuống tới mức thấp nhất. Harms ôm chặt lấy đầu như muốn giữ cho bộ óc đang muốn nổ tung khỏi chẻ vỡ đầu rồi bật ra ngoài không khí ướt nước. Khi anh một lần nữa nhìn xuống cô bé đã chết, rồi sau đó tới đôi tay đang co rúm đã cướp đi cuộc sống của cô, cơn giận giữ liền tan biến như thể có một ai đó đột nhiên giật tung cái ổ cắm nối liền anh với nó. Cơ thể anh trở nên tê liệt. Harms không còn làm được gì khác ngoài việc cứ quỳ gối ở đó, ướt nhoét và run rẩy với hai đầu gối lún sâu trong lớp bùn nhão. Bất kỳ một nhân chứng nào, dù sửng sốt đến đâu cũng có thể mô tả Harms giống như một thủ lĩnh da đen trong bộ quần áo chiến trận màu xanh đang quỳ cạnh vật hiến tế bé nhỏ có làn da tái nhợt của mình. Phải đến hôm sau, Harms mới biết cô bé tên là Ruth Ann Mosley, mười tuổi, cùng gia đình từ Columbia, Nam Carolina tới thăm người anh trai đang đóng quân trong doanh trại. Còn trong đêm mưa ấy, anh mới chỉ biết Ruth Ann Mosley như một xác chết, bé bỏng, nhỏ xíu và đối lập hoàn toàn với khổ người cao tới sáu fút năm insơ và nặng tới ba trăm pao của anh. Cũng từ cái đêm hôm ấy, hình dáng lờ mờ của báng súng trường một trong các quân cảnh đánh mạnh vào đầu anh chính là vật kim loại cuối cùng Harms được chạm tới. Một cú đấm khiến anh ngã sõng xoài xuống đất ngay bên cạnh cô bé. Khuôn mặt không còn chút sinh khí và bất động của cô bé hướng lên trên và hứng từng giọt nhỏ nước mưa rơi xuống. Mặt Harms ngập sâu trong bùn, anh không còn trông thấy gì nữa. Không còn nhớ thêm được điều gì nữa. Cho tới đêm nay. Harms hít căng phổi lớp không khí tràn đầy hơi nước và nhìn ra ngoài cửa sổ. Bỗng chốc anh trở thành một sinh vật quý hiếm nơi đây: một người vô tội trong tù. Suốt nhiều năm qua anh đã tự nhận thức được rằng điều tội lỗi đó vẫn luôn là một ung nhọt ngấm ngầm tồn tại trong anh. Thậm chí anh đã từng nghĩ tới tự tử, coi đó như một cách tự trừng phạt mình vì đã cướp đi cuộc sống của người khác mà, đáng buồn hơn nữa lại là của một đứa trẻ. Nhưng Harms là một người sùng đạo và vì thế, anh không thể phạm vào tội ác tự kết thúc cuộc đời của mình quá sớm. Anh cũng biết rằng việc giết hại cô bé đồng nghĩa với việc anh sẽ phải sống một kiếp sau hàng ngàn lần tồi tệ hơn cuộc sống anh đang phải chịu đựng lúc này. Anh không hề muốn tự dấn thân vào vòng hút của nó. Nơi này, nhà tù của con người vẫn tốt hơn. Và giờ đây anh hiểu ra rằng cái quyết định tiếp tục sống ấy là hoàn toàn đúng. Chúa biết điều đó và Chúa đã giúp anh chờ đợi được tới giây phút này. Đầu óc vô cùng sáng láng, Harms nhớ lại những người đàn ông đã tới chỗ anh trong trại giam đó. Tâm trí anh một lần nữa hình dung lại từng khuôn mặt méo mó, những bộ quân phục có kẻ sọc vài người trong số họ khi đó đang mặc, những người từng là đồng đội sát cánh với anh. Anh nhớ lại họ đã vây vòng tròn quanh anh như những con sói vây lấy con mồi ra sao. Rồi những lời nói đầy căm thù của họ. Những gì đêm đó họ làm chính là nguyên nhân khiến Ruth Ann Mosley phải chết. Và thực tế thì cả Harms cũng đã chết. Đối với họ, Harms chỉ là một anh lính thực hiện nghĩa vụ quân sự mà chưa bao giờ thực sự chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Họ không mảy may tin tưởng bất cứ thứ gì anh làm được, bất cứ thứ gì anh xứng đáng. Bây giờ anh đã là người đàn ông ở độ tuổi trung niên và đang chết dần chết mòn trong nhà tù để trả giá cho một tội ác xảy ra đã từ lâu lắm. Anh không hề có cách nào để biết xem liệu công lý có từng được thực hiện vì anh hay không. Nhưng dù vậy, khi Rufus Harms nhìn sâu vào cái bóng tối quen thuộc trong hầm mộ này của mình, một cảm xúc giản dị vẫn dâng lên xâm chiếm lòng anh: sau hai mươi lăm năm bị giày vò không ngơi nghỉ bởi cảm giác tội lỗi đáng ghê tởm bị xuyên tạc ấy, giờ đây anh biết rằng đã đến lượt họ phải chịu đựng cuộc sống bị đày đọa này. Harms nắm chặt cuốn Kinh thánh sờn cũ do mẹ anh tặng và hứa điều đó với Chúa, người đã không bỏ rơi đứa con của mình. Chương hai Những bậc thang dẫn lên toà nhà của Tòa án tối cao Hoa Kỳ rất rộng và dường như kéo dài vô tận. Bước trên đó chẳng khác nào nặng nhọc trèo lên đỉnh Olympia để thỉnh cầu tiếp kiến thần Dớt. Thực tế thì cũng đúng như thế. Mặt tiền bên trên lối vào chính có khắc dòng chữ thực thi công lý theo luật pháp. Cụm từ này không phải được trích dẫn từ một văn kiện quan trọng hoặc một quy tắc xét xử nào, mà chính là tác phẩm của Cass Gilbert, kiến trúc sư đã thiết kế và xây dựng toà nhà. Tất cả chỉ là vấn đề về mặt không gian: chúng vừa vặn một cách hoàn hảo với khoảng trống mà Gilbert dành cho mục đích ấy. Toà nhà trang nghiêm này có bốn tầng. Thật trớ trêu làm sao khi vào năm 1929, đúng năm sụp đổ của thị trường chứng khoán dẫn tới cuộc đại suy thoái, Quốc hội lại quyết định dành riêng một khoản vốn khổng lồ để xây dựng toà nhà. Một phần ba của tổng kinh phí chín triệu đôla Mỹ được đem ra để mua đá cẩm thạch. Đá Vermont chính hiệu lát ở mặt ngoài được chuyên chở tới bằng nhiều vô kể các toa xe lửa mui trần; bốn phòng xử án bên trong được lát đệm thêm đá Georgia giả pha lê, còn đá Alabama màu sữa thì được dùng để lát gần như toàn bộ tường và nền nhà của phần nội thất, ngoại trừ ở Đại sảnh. Nền ở đó được lát bằng đá cẩm thạch màu sẫm hơn của Ý, ngoài ra còn có thêm cả đá châu Phi. Các cột đá trong đại sảnh được đúc từ những phiến đá cẩm thạch của Ý, khai thác từ mỏ Montarrenti và vận chuyển bằng tàu biển tới Knoxville, bang Tennessee. Những người công nhân bình thường đã phải lao động vất vả để biến các phiến đá thô ban đầu thành những cột đá có chiều cao ba mươi fút làm cột chịu lực vững chắc cho toà nhà. Kể từ năm 1935, nơi đây đã trở thành nhà với đầy đủ ý nghĩa của từ này cho chín người đàn ông và thêm một người phụ nữ nữa từ năm 1981. Tất cả họ đều thành đạt một cách phi thường. Những người ủng hộ thì cho rằng tòa nhà là một biểu tượng tuyệt vời của phong cách kiến trúc Hy Lạp. Còn những người phản đối lại mỉa mai nóỉ rằng, đây giống như một cung điện được xây dựng nhằm làm thỏa mãn những mong muốn điên rồ của những vị vua chúa chứ không phải là một nơi ban phát công lý đến cho mọi người. Nhưng từ thời của John Marshall, Tòa án đã trở thành người bảo vệ và người thực thi Hiến pháp. Toà án tối cao có thể bãi bỏ những hành động trái pháp luật của Quốc hội. Chín con người ở đây có thể buộc một vị chủ tịch đương chức phải giao nộp các cuốn băng và các tài liệu cuối cùng sẽ dẫn tới sự thất sủng và buộc phải từ chức của ông ta. Sát cánh cùng quyền lập pháp của Quốc hội và quyền hành pháp của một nhiệm kỳ tổng thống, bộ máy tư pháp Hoa Kỳ, dẫn đầu là Tòa án tối cao, là một cơ quan chính phủ ngang hàng. Và nó đã làm được cái chức năng cầm quyền ấy của mình, vì thông qua tính hiệu lực của các quyết định của mình đối với bất cứ một vấn đề quan trọng nào của đất nước, Tòa án tối cao luôn tự hướng mình và định hướng hoạt động của mình theo nguyện vọng của nhân dân nước Mỹ. Người đàn ông đứng tuổi đang chậm rãi đi xuống phòng Đại sảnh mang trên mình cái truyền thống vinh dự ấy. Ông là một người cao và to xương, có đôi mắt màu nâu nhạt chẳng cần tới kính vẫn rất tuyệt vời dù đã qua bao thập kỷ nghiên cứu những hàng chữ in nhỏ li ti. Tóc ông đã gần rụng hết, đôi vai trở nên hẹp và còng xuống theo năm tháng, còn chân đi hơi khập khiễng. Tuy thế, Chánh án Harold Ramsey vẫn là một người đầy nghị lực cương cường và sở hữu một trí tuệ không ai sánh bằng. Những điều đó quá đủ để đền bù cho mọi khập khiễng của cơ thể. Ngay cả bước chân của ông dường như cũng mang tính quả quyết đặc biệt của riêng chúng. Ông là luật gia cao cấp nhất của nước Mỹ và đây là Tòa án của ông, tòa nhà của ông. Các phương tiện truyền thanh từ lâu đã gọi nơi đây là Tòa án Ramsey, cũng giống như họ đã từng gọi nó là Tòa án Warren và hàng loạt tên của những người tiền nhiệm khác. Điều đó giống như một hình thức kế thừa tài sản qua các thời kỳ. Ramsey điều hành tòa án của mình một cách chặt chẽ và nghiêm minh. Mười năm đã trôi qua trong sự đồng lòng của đa số nhân viên Tòa án. Ông yêu thích vòng quay của những vụ giao dịch, thương lượng đằng sau cánh gà Tòa án, nơi mà bất cứ một từ ngữ hoặc một câu nói được thận trọng đưa ra vào một thời điểm nào đó, để tỏ ra chút ít nghiêng về quan điểm của ai đó, đều là nhằm nhận lại một sự ủng hộ trong một dịp khác về sau. Ở đây, ai cũng kiên nhẫn chờ đợi tới khi có một vụ án thích hợp để dùng nó như một phương tiện đạt tới sự thăng tiến, nhiều khi bằng những cách mà các đồng nghiệp không hề ngờ tới. Lựa chọn sao cho đủ năm phiếu thuận để coi như được đa số tán thành nay đã trở thành nỗi ám ảnh thường trực trong Ramsey. Ông đã đến với Toà án này lúc đầu với tư cách một cộng tác viên và sau đó được nâng lên hàng số một mười năm về trước, về mặt lý thuyết thì ông là một nhân vật ngang hàng trong số những người dẫn đầu, nhưng trên thực tế thì lại là một cái gì đó hơn thế. Ramsey là một người có đức tin mãnh liệt và vô cùng điềm đạm. May mắn cho ông, ông được bổ nhiệm vào Tòa án vào thời kỳ mà quá trình lựa chọn ấy không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố chính trị như ngày nay. Không hề có những câu hỏi gây phiền hà về quan điểm của ứng cử viên đối với các vấn đề luật pháp cụ thể như nạo phá thai hay hình phạt tử hình. Cũng chẳng ai đòi hỏi ứng cử viên phải có dáng bộ hoặc cử chỉ thật quả quyết, dứt khoát là những gì mà việc tiến thân chính trị ngày nay đòi hỏi bắt buộc phải có. Thời trước, nếu như Tổng thống bổ nhiệm một ai đó thì chỉ cần một lý lịch tốt theo đúng yêu cầu và không có chuyện xấu xa nào từng xảy ra, người đó sẽ được chấp thuận. Thượng nghị viện đã hoàn toàn đồng lòng phê chuẩn Ramsey. Thực sự thì họ cũng không có lựa chọn nào khác. Trình độ học vấn và kiến thức luật pháp của ông đứng vào hàng số một. Tất cả các bằng cấp đều xếp hạng cao nhất trong mỗi lớp và đều do nhóm các trường đại học nổi tiếng ở miền Đông nước Mỹ cấp. Thêm nữa, với việc đưa ra học thuyết độc đáo và có ảnh hưởng sâu rộng về xu hướng phát triển của luật pháp, ông đã đoạt được một giải thưởng lớn dành cho chuyên gia pháp lý. Sau đó, ông được bổ nhiệm về Tòa thượng thẩm liên bang rồi chẳng mấy chốc tiến tới chức Chánh án ở đây. Trong suốt thời kỳ Ramsey nắm giữ chức vụ ở Tòa thượng thẩm, Tòa án tối cao chưa bao giờ huỷ bỏ bất cứ một quyết định nào của ông. Trong những năm ấy, Ramsey đã miệt mài xây dựng cho mình những mối quan hệ rộng rãi và làm tất cả những gì cần thiết trong quá trình theo đuổi cái vị trí mà ông đang cố gắng nắm giữ càng chặt càng tốt lúc này. Ông đã giành được vị trí ấy. Chẳng hề có cái gì được cho không. Đó là một trong những điều ông tin chắc. Nếu làm việc cật lực, người ta sẽ thành công ở nước Mỹ. Không một ai, người nghèo, người giàu hay người của tầng lớp trung lưu được quyền nhận của bố thí. Nước Mỹ là mảnh đất của cơ hội, nhưng người ta phải làm việc để có nó, phải đổ mồ hôi để giành giật được nó, phải hy sinh nhiều thứ để đoạt được nó. Ramsey không thể chịu đựng được những lời bào chữa của mọi người khi bản thân họ không chịu tiến lên phía trước. Ông sinh ra trong cái nghèo thăm thẳm xơ xác với một người cha nát rượu và ngược đãi gia đình. Ramsey cũng không tìm thấy nơi nương tựa ở mẹ mình: cha ông đã đè bẹp mọi bản năng người mẹ ở bà. Ông có một khởi đầu cuộc sống tệ hại không chút hứa hẹn như thế, nhưng hãy thử nhìn vào địa vị của ông bây giờ xem sao. Nếu ông có thể sống sót và thành công trong hoàn cảnh như thế thì những người khác cũng phải làm được như vậy. Còn nếu họ không làm được thì đó là lỗi của họ và ông không chấp nhận một lý do nào khác. Ông thở dài một hơi mãn nguyện. Lại một nhiệm kỳ nữa ở Tòa án vừa mới bắt đầu. Mọi việc đang diễn ra trôi chảy. Nhưng có một điều cản trở. Sức mạnh của mọi cỗ máy hoàn toàn phụ thuộc vào mắt xích yếu nhất của nó. Mà ông lại có một trong những mắt xích yếu nhất ấy. Thất bại nặng nề tiềm tàng của ông. Có thể là lúc này mọi việc đều ổn cả, nhưng năm năm nữa thì sao ? Tốt hơn cả là nên giải quyết những vấn đề kiểu này càng sớm càng tốt, trước khi chúng kịp bung ra ngoài tầm kiểm soát. Ông biết cuộc chiến đấu của mình sắp vấp phải một khó khăn, đó là Elizabeth Knight. Cô ta cũng thông minh như ông và có thể cũng cứng rắn như ông. Ông biết điều đó ngay từ ngày việc bổ nhiệm cô được phê chuẩn. Một phụ nữ lịch lãm trong tòa án của một ông già. Ngay từ ngày đầu tiên và cho tới tận bây giờ, ông đã tìm cách tác động tới Knight. Khi cô ta tỏ ra là một người trung lập, ông đã từng sẵn lòng nhượng bộ quan điểm của cô ta, với hy vọng rằng trách nhiệm phảỉ viết bản dự thảo để làm sao nhận được đa số phiếu ủng hộ sẽ làm cho cô ta đứng về cùng phe với ông. Ông đã cố gắng làm cho Knight phải đứng dưới sự bảo hộ của mình rồi dẫn dắt cô ta vượt qua những phức tạp trong công việc ở Tòa án này. Nhưng cô ta vẫn tỏ rõ tính nết độc lập ương bướng của mình. Ramsey từng biết nhiều Chánh án dần dần trở nên tự mãn, buông lỏng sự đề phòng và kết quả là vị trí lãnh đạo của họ bị những kẻ khác siêng năng hơn, mẫn cán hơn chiếm đoạt. Ramsey quyết không bao giờ để mình rơi vào tình trạng ấy. *** - Murphy quan tâm đến vụ Chance, Michael Fiske nói với Sara Evans. Họ đang ngồi trong văn phòng của cô trên tầng hai trong tòa nhà Tòa án. Michael, cao sáu fút hai và đẹp trai với dáng phong nhã của một người trước đây từng là vận động viên. Phần lớn các thư ký trước đây, thường chỉ làm một năm ở Tòa án tối cao rồi chuyển tới những vị trí có uy tín trong lĩnh vực hành nghề tư nhân, dịch vụ công cộng hoặc trong giới học viện. Michael gần như là ngoại lệ đầu tiên khi đã làm việc ở đây tới ba năm với tư cách là thư ký cao cấp cho thẩm phán Thomas Murphy, một người theo chủ nghĩa tự do trong Tòa án. Michael có một trí tuệ đáng ngạc nhiên. Bộ não của anh giống như một cỗ máy phân loại tiền: các dữ liệu được nạp vào đầu anh rồi nhanh chóng được phân loại và sắp đặt vào đúng vị trí cần thiết. Căn cứ theo một thực tế nào đó, anh có thể tưởng tượng trong óc hàng tá những chuỗi sự kiện phức tạp trong tương lai có thể xảy ra rồi lần lượt kiểm nghiệm xem mỗi sự kiện sẽ có tác động thế nào tới các sự kiện khác. Ở Tòa án này, anh sung sướng được dốc hết sức mình cho những vụ án có tầm quan trọng quốc gia, mà đi kèm luôn là nhận và trao những sự đe dọa về mặt tinh thần. Michael nhận thấy rằng, ngay cả trong những cuộc tranh luận cân não ác liệt nhất thì đằng sau những lời tuyên bố mang tính luật pháp đơn thuần vẫn luôn luôn có những cơ hội, những thời điểm của một điều gì đó sâu sắc, bí hiểm hơn thế. Anh thực sự không muốn rời khỏi Tòa án tối cao này. Thế giới ngoài kia chẳng có gì hấp dẫn đối với Michael. Sara nhìn một cách lo lắng. Trong phiên tòa trước, Murphy đã đề nghị được xét xử vụ của Chance. Mọi người đã tranh luận miệng với nhau và biên bản ghi nhớ của phiên tòa đã được lập. Sara đang ở độ tuổi giữa hai mươi, khoảng hai mươi lăm, tuy mảnh dẻ nhưng cơ thể lại có những đường cong rất tinh tế. Cô có một khuôn mặt dễ chịu với cặp mắt to và xanh. Mái tóc dày màu nâu nhạt thường chuyển sang vàng mỗi khi mùa hè tới, dường như lúc nào cũng có một mùi hương nhẹ nhàng thơm mát. Cô là thư ký cao cấp của thẩm phán Elizabeth Knight. - Em không hiểu. Em nghĩ là ông ấy muộn mất rồi. Một con người bé nhỏ chống lại cả một bộ máy công chức lớn. - Ông ấy cũng là một tín đồ trung thành luôn ủng hộ các tiền lệ. - Kể cả khi những tiền lệ ấy là sai ? - Sara, em đang hát theo dàn hợp xướng, nhưng anh nghĩ cũng chẳng sao. Knight sẽ không có nổi năm phiếu thuận nếu không có ông ấy, em cũng biết điều đó. Kể cả khi có ông ấy thì chị ấy có thể cũng không thắng được cơ mà. - Vậy thì ông ấy muốn gì ? Đó là cái cách mà sự việc thường vẫn diễn tiến trong cái mạng lưới của những thư ký nổi tiếng. Họ xoay xở ngược xuôi, tranh luận và tìm mọi cách kiếm được phiếu ủng hộ cho thẩm phán của mình, y hệt như những kẻ vụ lợi chính trị trơ trẽn. Các quan tòa không được phép công khai vận động hành lang để nhận phiếu ủng hộ cho việc thêm một đoạn văn nào đó vào quyết định cũng như việc thêm hoặc bớt một khía cạnh cụ thể trong đó. Nhưng thư ký thì được phép làm điều này. Trên thực tế, đa số trong họ lấy làm tự hào khi được tham gia vào quá trình vận động ấy. Nó không khác gì những tin tức không bao giờ hết, thu hút được sự quan tâm tầm cỡ quốc gia trong cột tin tức lượm lặt trên báo chí. Chúng diễn ra dưới sự kiểm soát của những người ở độ tuổi hai mươi lăm. - Không nhất thiết là ông ấy phải chống lại quan điểm của Knight. Nhưng nếu Knight nhận được năm phiếu ủng hộ trong cuộc họp, quyết định sẽ được rút ra trong phạm vi rất hẹp. Ông ấy sẽ không từ bỏ đâu. Murphy đã từng tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ông ấy vô cùng coi trọng vụ này và tin rằng nó xứng đáng được nhận sự quan tâm đặc biệt. Em cần phải biết điều đó khi em làm tổng kết quyết định sơ thảo. Sara gật đầu tán thành. Lý lịch của các thẩm phán đóng vai trò rất cao trong quá trình ra quyết định của họ, cao hơn mức người ta có thể tin được. - Cám ơn anh. Nhưng trước hết Knight phải nhận được quyết định để viết đã. - Tất nhiên chị ấy sẽ nhận được. Em biết là Ramsey sẽ không bỏ phiếu lật đổ Feres và Stanley mà. Chắc chắn Murphy sẽ bỏ phiếu ủng hộ vụ Chance trong cuộc họp. Murphy là cấp phó cao cấp, nên ông ấy sẽ ký quyết định. Nếu Knight nhận được năm phiếu ủng hộ trong cuộc họp thì ông ấy sẽ đứng về phía chị ấy. Nếu chị ấy đưa ra được những điều có giá trị, nghĩa là không chung chung, không dùng từ ngữ đại khái qua loa thì tất cả chúng ta đều ổn cả. Hoa Kỳ và Chance là một trong những vụ quan trọng nhất trong sổ ghi án của nhiệm kỳ vừa qua. Barbara Chance đã từng là binh nhì trong quân ngũ. Cô đã bị đe doạ, quấy rối và làm cho sợ đến chết khiếp nên phải chấp thuận quan hệ tình dục nhiều lần với vài nam đồng nghiệp cấp trên. Vụ án đã được xét xử ở nhiều cấp khác nhau trong nội bộ quân đội và kết quả là một trong số những kẻ đó đã bị đưa ra tòa án quân sự và bị bỏ tù. Tuy nhiên, Barbara Chance không cảm thấy hài lòng. Sau khi ra khỏi quân ngũ, cô đã kiện Quân đội ra tòa vì những tổn thương gây ra cho mình và cho rằng Quân đội đã dung túng cho sự tồn tại của một môi trường xấu nguy hại cho cô và các nữ đồng nghiệp của mình. Vụ án được xem xét một cách chậm chạp đúng theo các trình tự pháp lý và Chance cứ mất dần cơ hội. Làm bộc lộ đủ nhiều các lỗ hổng của luật pháp nên cuối cùng, vụ án rơi tõm xuống như một con cá ngừ lớn nằm chình ình trước lối vào của tòa nhà. Trớ trêu thay khi luật pháp hiện tại cho rằng Chance không có cơ hội thắng kiện. Quân đội chính thức được miễn khỏi các vụ kiện tụng liên quan tới người của họ vì bất kỳ thiệt hại nào do họ gây ra, bất chấp nguyên nhân của tội lỗi. Nhưng thẩm phán có thể thay đổi những gì luật pháp quy định. Knight và Sara Evans đang cố gắng hết sức mình sau cánh gà để làm được điều đó. Sự ủng hộ của Thomas Murphy là tối cần thiết cho kế hoạch này của họ. Có lẽ Murphy sẽ không ủng hộ việc huỷ bỏ hoàn toàn quyền miễn trừ của quân đội, nhưng ít nhất vụ của Chance có thể thụi một lỗ hổng vào bức tường bất khả đánh bại của quân đội Hoa Kỳ. Dường như còn quá sớm để bàn bạc về giải pháp cho một vụ án vẫn còn chưa được đem ra xét xử, nhưng đối với nhiều thẩm phán và trong nhiều vụ, việc tranh luận miệng là điều cần thiết. Trong thời gian nó được truyền đi truyền lại, phần lớn thẩm phán đã tự đưa ra quyết định trong đầu. Giai đoạn tranh luận này trong quá trình xét xử một vụ án là cái gì đó hơn cả một cơ hội để các thẩm phán thể hiện vai trò của mình và những mối quan tâm của họ tới các đồng nghiệp, thường thì bằng cách sử dụng những biện pháp cực đoan. Chúng cũng na ná như những thủ đoạn đe doạ về mặt tinh thần, như thể nói rằng: "Nếu anh có ý định như thế thì hãy cứ đợi xem điều gì sẽ xảy ra, bạn của tôi ạ !". Michael đứng nhìn Sara. Hình như Sara đã ký nhận làm thêm một nhiệm kỳ nữa cho Tòa án. Lớn lên từ một trang trại nhỏ ở nam Carolina và tốt nghiệp ở trường đại học Stanford, giống như tất cả các thư ký ở đây, một tương lai nghề nghiệp tuyệt vời đang chờ đón cô khi nào cô rời khỏi Tòa án. Lý lịch ghi rõ từng làm thư ký ở Tòa án tối cao là một chiếc chìa khóa vàng bước vào bất cứ nơi đâu một luật sư mong muốn. Điều đó đôi khi tác động theo chiều hướng xấu tới một số thư ký, khiến cho họ tự thổi phồng bản thân trong khi tài năng thực sự của họ không hề đạt được đến thế. Mặc dù vậy, Michael và Sara vẫn giữ nguyên được bản chất như họ từng có. Bên cạnh sự thông minh của cô thì một lý do khiến Michael một tuần trước đã hỏi cô một câu rất quan trọng, chính là vì sự xinh đẹp và cá tính biết cân nhắc đầy thú vị của cô. Một câu hỏi mà anh mong muốn nhận được câu trả lời càng sớm càng tốt. Có thể là lúc này. Chưa bao giờ anh là người đàn ông đủ kiên nhẫn. Sara ngẩng lên nhìn anh chờ đợi. - Em đã nghĩ tới câu hỏi của anh chưa ? Cô biết đã đến lúc anh hỏi cô điều đó. Cô đã cố né tránh nó nhiều lần. - Đó là tất cả những gì em đã và đang nghĩ đến. - Người ta nói rằng nếu nghĩ về điều gì đó quá lâu thì đó là dấu hiệu xấu. Anh nói một cách vui vẻ nhưng rõ là sự hài hước ấy có vẻ hơi phải cố gắng. - Michael, em rất quý anh. - Quý ư ? Trời ơi, lại một dấu hiệu xấu nữa. Mặt anh bỗng nóng bừng. Cô lắc đầu. - Em rất tiếc. Michael nhún vai. - Cũng không tiếc nổi bằng nửa anh đâu. Từ trước tới nay chưa bao giờ anh cầu hôn ai ngoài em. - Anh cũng là người đầu tiên hỏi em. Và em có thể nói với anh rằng em vô cùng hãnh diện vì điều đó. Anh đã giành được vị trí đó trong em. - Trừ một thứ. Michael nhìn xuống hai bàn tay hơi run run của mình. Đột nhiên anh cảm thấy làn da như dán chặt vào cơ thể. Anh tôn trọng quyết định của em. Anh cũng không thuộc số người cho rằng người ta có thể dần dần yêu được ai đó. Tình yêu hoặc là có sẵn, hoặc là sẽ không bao giờ đến. - Rồi anh sẽ gặp được người khác, Michael. Và đó sẽ là một cô gái hết sức may mắn. Sara cảm thấy lúng túng. Nhưng em hy vọng rằng chuyện này không làm em mất đi người bạn tốt nhất của mình ở Tòa án này. - Chắc chắn là mất. Michael giơ hai tay lên khi cô có ý định phản đối. Anh đùa thôi mà. Rồi anh thở dài. Anh không muốn em có cảm giác anh tự cao tự đại nhưng đây là lần đầu tiên có người thực sự đánh hỏng một kế hoạch của anh đấy. - Ước gì cuộc sống của em cũng được dễ dàng như thế. Sara mỉm cười. - Không, em đừng ước thế. Như thế lại càng làm cho việc chấp nhận thất bại trở nên khó khăn hơn. Michael quay người đi ra phía cửa. Chúng ta vẫn là bạn bè với nhau, Sara, ở bên em anh luôn thấy vô cùng vui vẻ. Anh không ngốc đến mức để mất điều đó đâu. Và rồi em cũng sẽ tìm thấy một người, anh ta cũng sẽ là người đàn ông cực kỳ may mắn. Anh không nhìn cô khi nói thêm. Tiện thể anh muốn hỏi, em đã tìm được người ấy chưa ? Sara nói nhỏ. - Sao anh hỏi thể ? - Cứ gọi đó là giác quan thứ sáu đi. Mất mát dễ chấp nhận hơn nếu ta biết được vì ai ta mất. - Em chưa có ai cả. Cô vội trả lời. Trông Michael có vẻ không tin. - Nói chuyện với em sau nhé. Sara nhìn theo đầy lo lắng. *** - Tôi nhớ lại những năm đầu của mình ở Tòa án này. Ramsey nhìn ra ngoài cửa sổ, một nụ cười nở trên khuôn mặt. Ông đang ngồi đối diện với Elizabeth Knight, cộng tác viên cao cấp nhất của Tòa án. Elizabeth Knight đang ở độ tuổi gần năm mươi, chiều cao trung bình, cơ thể mảnh dẻ với mái tóc đen dài búi sau gáy. Khuôn mặt bà có góc cạnh, làn da chưa hề có một nếp nhăn, như thể không bao giờ bà phải ra ngoài trời. Knight nhanh chóng tạo được thanh danh là một người chất vấn miệng giỏi nhất trong các cuộc tranh luận và là một trong số những thẩm phán chăm chỉ làm việc nhất. - Tôi chắc là ký ức đó vẫn còn rất sống động. Knight ngả người ra ghế khi bà kiểm tra lại lịch làm việc còn lại trong ngày của mình. - Nó cũng giống như một quá trình học hỏi. Bà chăm chú nhìn ông. Lúc này Ramsey đang quay lại nhìn thẳng vào Knight, hai bàn tay to lớn ôm lấy sau đầu. - Tôi phải mất tới năm năm chỉ để tìm hiểu mọi chuyện. Ramsey tiếp tục. Knight cố gắng không cười. - Thôi nào Harold, ông quá khiêm tốn. Tôi đảm bảo là ông đã có mọi thứ được tìm hiểu kỹ càng trước khi bước qua cánh cửa tòa nhà này. - Tôi nói nghiêm túc đấy, làm được việc đó phải mất nhiều thời gian. Tôi có thể kể cho cô nghe nên làm việc cùng ai để đạt được điều đó. Pelix Abemathy, ông già Tom Parks. Tôn trọng kinh nghiệm của người khác là điều không đáng phải xấu hổ đâu. Đó là quá trình học hỏi mà tất cả chúng ta, ai cũng phải trải qua. Mặc dù đương nhiên là cô tiến nhanh hơn tất cả mọi người - ông thêm vào - Nhưng ở đây, sự kiên nhẫn là một đức tính tốt vô cùng cần thiết. Cô mới chỉ ở đây có ba năm. Còn tôi thì coi nơi đây như nhà của mình đã hơn hai chục năm qua. Hy vọng là cô hiểu ý tôi. Knight mỉm cười. - Tôi hiểu là ông đang lo sợ rằng tôi sẽ để ngỏ khả năng ghi vụ Hoa Kỳ và Chance vào sổ ghi án cho tới cuối nhiệm kỳ cuối cùng. Ramsey đứng thẳng dậy. - Đừng tin vào những gì cô nghe ngóng được xung quanh ở đây. - Ngược lại, tôi lại thấy rằng hệ thống thông tin của đám thư ký là chính xác tuyệt đối. Ramsey lại ngồi xuống. - Tôi phải thừa nhận rằng tôi thấy hơi ngạc nhiên về điều đó. Vụ án này chẳng còn vấn đề gì liên quan tới luật pháp đòi hỏi chúng ta phải can thiệp vào. Cô có cần tôi nói rõ thêm không ? - Ông vung hai tay lên cao. - Đó là theo quan điểm của ông ? Một nét thoảng giãn ra trên mặt Ramsey. - Đó là theo quan điểm của Tòa án tối cao này trong suốt năm mươi năm qua. Tất cả những gì tôi yêu cầu là cô nên chấp thuận những tiền lệ đã có ở Tòa án này như nó xúng đáng được hưởng. - Ông sẽ không tìm thấy một ai khác coi trọng Tòa án này hơn tôi đâu. - Tôi rất mừng khi nghe cô nói thế. - Và tôi cũng sẽ rất sung sướng nếu được trao đổi suy nghĩ với ông thêm về vụ Chance sau khi chúng ta kết thúc buổi tranh luận miệng. Ramsey nhìn Knight một cách chán chường. - Sẽ là một cuộc thảo luận ngắn khi chẳng cần phải tốn nhiều thời gian cho việc nói có hoặc không. Nói thẳng với cô, đến cuối ngày hôm nay, tôi sẽ có năm phiếu ủng hộ, còn cô thì không đâu. - Tôi đã thuyết phục được ba thẩm phán khác bỏ phiếu đồng ý xử vụ án. Trông Ramsey như thể ông chực phá lên cười. - Cô sẽ nhanh chóng hiểu được sự khác biệt giữa bỏ phiếu xét xử với bỏ phiếu quyết định khác nhau lớn như thế nào. Tôi yên tâm tin rằng tôi sẽ có đa số về phía mình. Knight lịch sự mỉm cười. - Sự tự tin của ông rất truyền cảm. Đó là cái tôi có thể học được. Ramsey đứng dậy chuẩn bị rời di. - Vậy thì cô hãy nghe tiếp bài học này: Sai một li đi một dặm. Những gì tôi có là sự nắm giữ chức vụ ở đây gần một đời người rồi. Còn tất cả những gì cô có chỉ là thanh danh của cô mà thôi. Một khi đã mất, nó sẽ không bao giờ quay lại nữa. Ramsey tiến về phía cửa ra vào - Chúc cô một ngày tốt đẹp, Beth. Ông nói trước khi bước đi hẳn. Chương ba - Rufus ? Samuel Rider thận trọng áp bốt ống nghe điện thoại vào tai -Sao anh tìm được tôi ? - Ngoài đó có rất nhiều luật sư, phải không Samuel. Rufus Harms nói. - Tôi không còn làm việc cho Liên đoàn Luật sư nữa. - Tôi đoán là làm ngoài anh kiếm được khá hơn. - Có lúc tôi rất nhớ đồng phục. Rider nói dối. Ông ta đã từng là một anh lính quèn, nhờ có bằng cấp về pháp luật nên đã chọn được một vị trí an toàn trong Liên đoàn Luật sư. - Tôi phải gặp anh. Đừng hỏi vì sao trên điện thoại. - Mọi thứ ở nhà tù Fort Jackson đều ổn chứ ? Tôi được biết là anh đã chuyển tới đó. - Ổn cả. Nhà tù cũng tốt thôi mà. - Tôi không có ý đó, Rufus. Chỉ vì tôi đang băn khoăn không hiểu sao sau bao nhiêu lâu rồi bỗng nhiên anh lại tìm tôi. - Anh vẫn là luật sư của tôi đấy chứ ? Tôi lúc nào cũng cần có luật sư. - Lịch của tôi kín hết rồi, vả lại tôi cũng ít khi đi về phía đằng ấy. Tay Rider xiết chặt diện thoại khi nghe Rufus nói tiếp. - Tôi thực sự cần phải gặp anh ngày mai, Samuel. Anh có nghĩ là anh nợ tôi không ? - Hồi đó tôi đã làm hết những gì có thể. - Anh đã thông đồng với họ. Nhanh chóng và dễ dàng. - Không đúng. Rider phản đối. Trước khi xử, chúng tôi đã có cuộc thảo luận với các chuyên gia và nhóm luật sư phiên tòa đã quyết định thôi không tiếp tục nữa. Làm như thế là khôn ngoan đấy. - Anh đã không cố gắng đấu tranh quật lại khi tuyên án. Phần lớn mọi người đều làm việc đó. - Ai bảo anh thế ? - Học được nhiều thứ trong tù. - Làm sao có thể bỏ được giai đoạn tuyên án. Anh cũng biết là tôi cũng đưa vấn đề ra còn gì. - Nhưng anh không hề gọi một nhân chứng nào, không hề làm gì nhiều tới mức tôi có thể nhận thấy. Rider chống chế: - Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Anh hãy nhớ điều này Rufus, họ đã không xử tử anh. Một cô bé gái da trắng là rất nghiêm trọng. Họ nói với tôi là họ đã không làm tới tận cùng. Ít nhất thì anh vẫn còn được sống. - Ngày mai, Samuel. Tôi đã ghi tên anh vào danh sách khách thăm rồi. Khoảng chín giờ sáng. Cám ơn. Thực lòng cám ơn. Nhớ đem theo một chiếc radio nhỏ. Trước khi Rider kịp hỏi tại sao phải mang radio, hoặc tại sao ông ta lại phải tới gặp Harms, điện thoại đã ngắt. Rider ngả người cho đỡ căng thẳng trên chiếc ghế ngồi cực kỳ êm ái và nhìn quanh cái văn phòng ốp gỗ rộng thênh thang của mình. Ông mở văn phòng luật tại một thị trấn nhỏ cách Blacksburg, Virginia một chút và kiếm sống cũng khá: một ngôi nhà đẹp, ba năm thay ôtô một lần và mỗi năm đi nghỉ hai lần. Rider đã chôn vùi quá khứ vào đĩ vãng, đặc biệt là vụ án kinh khủng nhất ông đã từng tham gia trong thời gian ngắn ngủi làm luật sư trong quân đội. Đó là loại vụ án gây những tác động khó chịu như sữa vón cục trong dạ dày, có điều là thuốc Pepto-Bismol không thể nào chữa khỏi. Rider đưa tay lên mặt trong khi suy nghĩ của ông trôi dạt trở về thời điểm những năm bảy mươi, thời kỳ của những chao đảo trong quân đội, trong đất nước và trên toàn thế giới. Rufus Harms nghe có vẻ cay đắng trong điện thoại, nhưng anh ta đã giết cô bé gái. Một cách nhẫn tâm. Ngay trước mặt gia đình cô. Xiết chặt cổ cô bé trong có vài giây, nhanh tới mức không một ai kịp ngăn lại. Thay mặt cho Harms, Rider đã đàm phán và đạt được một thỏa thuận trước khi phiên tòa diễn ra. Nhưng sau đó, theo luật của quân đội, Rider được quyền phá vỡ thỏa thuận này trong giai đoạn tuyên án. Bị đơn sẽ được nhận hình phạt nào ngắn hạn hơn, cho dù đó là hình phạt được tuyên trong giai đoạn thỏa thuận trước phiên tòa, hay là hình phạt do quan tòa hoặc hội đồng xét xử của quân đội đưa ra. Mặc dù bị những lời nói của Harms giày vò nhưng Rider đã bị thuyết phục để không đưa thêm lý lẽ biện hộ cho Harms trong giai đoạn tuyên án. Rider đã đồng ý với công tố viên trong việc không đưa ra bất cứ một nhân chứng nào ngoài quân đội, những người có thể chứng thực cho nhân cách của Harms và nhiều điều khác có lợi cho anh nữa. Rider cũng đã đồng ý không tìm kiếm thêm những bằng chứng và nhân chứng mới mà thay vào đó, chỉ hoàn toàn dựa vào những dữ liệu được ghi trong hồ sơ chính thức. Thực ra làm như thế là không đúng luật cho lắm, vì không ai được phép xóa bỏ hoặc mặc cả, thương lượng để xóa bỏ quyền được chống án của bị đơn, dù là theo cách thức gì đi nữa. Nhưng nếu không có Rider nỗ lực đằng sau cánh gà như thế, thì rất có thể công tố viên đã tuyên án tử hình rồi. Mà với những gì diễn ra thì việc Harms phải nhận án tử hình cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Chỉ có một điều duy nhất là án mạng xảy ra quá nhanh, nhanh đến nỗi khó có thể chứng minh rằng đó là hành động có chủ tâm từ trước. Xác chết lạnh giá của cô bé có thể làm trật hướng của cả những phân tách pháp lý lôgic nhất. Sự thật là không ai quan tâm tới Rufus Harms. Rufus là người da đen và phần lớn thời gian trong quân ngũ bị nhốt trong trại giam. Vụ giết cô bé gái một cách vô nghĩa ấy tất nhiên không thể cải thiện vị trí của Harms trong con mắt quân đội. Nhiều người nghĩ rằng một người đàn ông như thế không xứng đáng để được xét xử ở tòa, đó là một vụ án tàn bạo, gây đau đớn và chết người. Có thể chính Rider cũng là một trong số người cảm thấy như vậy. Vì thế Rider đã không hành động hết mình dưới danh nghĩa là người bảo vệ cho Rufus, nhưng dù sao thì ông cũng đã cứu được Harms khỏi tội tử hình. Đó là điều tốt nhất mà một luật sư có thể làm được trong trường hợp ấy. Vậy thì Rufus còn muốn gặp mình làm gì ? Rider băn khoăn tự hỏi. Chương bốn Sau ba buổi hầu tòa trong thành phố, Fiske rời khỏi tòa nhà xây dựng bằng gạch và kính của Tòa án John Marshall, được đặt tên theo vị thẩm phán thứ ba của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Ngôi nhà của tổ tiên Marshall nằm ngay ở bên phải của tòa nhà này, nơi một bảo tàng đã được khánh thành nhằm giữ lại những kỷ niệm về bang Virginia và đất nước Hoa Kỳ vĩ đại. Người đàn ông nằm dưới mồ chắc sẽ phải vật vã dưới đó nếu biết được những cuộc tranh cãi và biện hộ ghê tởm đang diễn ra trong tòa nhà mang tên ông. Fieke hướng về đường Số Chín ra phía sông James. Mấy hôm nay trời nóng và ẩm. Nhưng lúc này nhiệt độ trở nên mát mẻ hơn nhờ cơn mưa sắp đổ xuống. Fiske kéo cổ áo choàng đi mưa cho kín. Mưa bắt đầu rơi khi anh đi bộ dọc theo vỉa hè, giày giẫm toé nước đọng trong những vũng nhỏ bẩn thỉu ở các chỗ trũng của nền nhựa đường và nền bêtông. Khi Fiske về được đến văn phòng ở Shockoe Slip, tóc và áo bành tô của anh đã ướt sũng, nước chảy thành dòng nhỏ sau lưng. Không dùng thang máy, anh nhảy hai bậc cầu thang một lên văn phòng của mình. Nó nằm trong một tòa nhà nhiều ngóc ngách từng là một cửa hàng bán thuốc lá. Bây giờ, các căn phòng gỗ sồi và gỗ thông được biến thành các loại văn phòng đa dạng. Nhưng mùi thuốc lá vẫn vĩnh viễn lởn vởn trong tòa nhà. Và đây không phải là nơi duy nhất người ta có thể ngửi thấy mùi này. Vượt qua đường 95 về phía nam và đi qua Nhà máy sản xuất thuốc lá Philip Morris, người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn cơn thèm thuốc mà chẳng cần đốt điếu nào. Có lần đi qua đó, Fiske đã liều mạng ném một que diêm đang cháy ra ngoài cửa sổ xe để thử xem không khí có nổ bùng lên không. Văn phòng của Fiske gồm một phòng và có nhà tắm nhỏ. Nhà tắm này rất quan trọng, vì anh thường xuyên ngủ ở đây nhiều hơn cả ở nhà. Anh treo áo khoác lên cho khô, với tay lấy khăn tắm trên thanh treo lau mặt và tóc. Anh cho cà phê vào phin rồi theo dõi nó nhỏ giọt trong khi nghĩ về Jerome Hicks. Nếu Fiske hoàn thành công việc một cách xuất sắc, Jerome Hicks sẽ được ngồi sau song sắt nhà tù nốt phần đời còn lại của cậu ta thay cho việc phải nhận một mũi tiêm chết người tại nhà tử hình của bang Virginia. Phạt tử hình một người da đen mười tám tuổi không giúp Graham lên được chức trưởng văn phòng luật sư như ông ta thèm muốn. Vụ án mạng giữa hai người da đen cùng đinh thậm chí có khi còn không được đưa lên trang cuối của báo chí nữa. Là một cảnh sát của Richmond, Fiske đã sống sót sau những trận chiến ác liệt. Những trận chiến cứ trải rộng khắp thành phố và các vùng lân cận, phồng rộng ra như chứng bệnh phình mạch, lớn bằng cả kích thước của một hạt, để lại đằng sau những khu người da đen tan tác. Giống như một đường xoắn ốc lớn, tiêu tốn tiền bạc, cuốn đi bên trên, xung quanh và xuyên qua những vật chướng ngại là vùng ngoại ô thành phố. Những dòng sông băng của tội ác chảy ra từ tất cả các bang. Và khi cuối cùng gặp nhau, chúng sẽ chảy đi đâu ? Fiske băn khoăn tự hỏi. Anh đột ngột ngồi xuống, cảm giác cháy bỏng trong người lại bắt đầu. Nó luôn luôn xuất hiện từ từ lúc ban đầu. Anh cảm nhận nó đang lan từ bụng lên ngực rồi tỏa đi khắp nơi. Cuối cùng, giống như một dòng dung nham trong vực, một cảm giác về sức nóng đến không thể tưởng tượng được tràn vào hai cánh tay và để dồn xuống các ngón tay Fiske. Anh loạng choạng đứng dậy, khóa cửa phòng rồi cởi áo sơ mi và cà vạt. Anh mặc một chiếc áo phông bên trong. Anh luôn luôn phải mặc chiếc áo phông đáng ghét này. Qua lớp vải cô tông, ngón tay anh lần tới điểm bắt đầu của một vết sẹo dầy vẫn sần sùi sau bao nhiêu năm tồn tại. Nó bắt đầu ngay dưới rốn và chạy dọc theo vết chỉ khâu uốn khúc không ngắt đoạn rồi kết thúc ở chỗ chân cổ. Fiske nằm xuống sàn nhà rồi làm liền một mạch năm mươi lần chống tay lên xuống không nghỉ, cơn nóng ở ngực và tứ chi dấy lên rồi hạ bớt mà không lặp lại. Một giọt mồ hôi từ chỗ lông mày nhỏ xuống sàn gỗ. Fiske như nhìn thấy hình phản chiếu của mình trong đó. Ít nhất nó cũng không phải là máu. Anh lại tiếp tục tập ngần ấy động tác bụng, vết sẹo gợn lên và gập lại theo từng lần gập lên gập xuống của người anh, giống như một con rắn miễn cưỡng uốn cong thân mình. Fiske có gắn một thanh tập thể thao ở cánh cửa dẫn vào buồng tắm và bây giờ anh bắt đầu làm mười hai động tác đứng lên ngồi xuống. Trước đây, anh thường làm với số lần gấp đôi như thế, nhưng giờ đây sức khoẻ của anh đã suy sụp dần. Cái đang ẩn nấp dưới làn da này cuối cùng sẽ áp đảo anh, giết chết anh. Nhưng lúc này, cơn bỏng đã hạ nhiệt dần. Sự ráng sức của cơ thể dường như đã đẩy lùi được nó, làm cho kẻ xâm lấn đó hiểu được rằng trong ngôi nhà cơ thể này vẫn có chủ nhân của nó. Fiske lau sạch người rồi mặc lại áo. Anh nhấp từng ngụm cà phê và nhìn ra ngoài cửa sổ. Từ vị trí thuận lợi này, anh có thể phân biệt được đường nét của sông James. Mưa to khiến mặt nước trở nên dữ dội. Anh và em trai mình, vẫn thường đi thuyền dọc con sông này, hoặc là ung dung thả trôi trên chiếc bè nổi bằng lốp ôtô trong những ngày mùa hè nóng nực. Nhưng chuyện đó xảy ra đã nhiều năm về trước. Những ngày tháng thanh thản đã trôi qua. Không còn thời gian dành cho nó trong cuộc đời ngắn ngủi của anh. Mặc dù vậy, anh vẫn hài lòng với phần lớn những gì mình đã làm. Dó không phải là cuộc sống của một luật sư cao cấp tại Tòa án Tối cao như em trai anh, nhưng anh có phần hãnh diện với nghề nghiệp của mình và với cách anh thực hiện nó. Khi nào chết đi, anh sẽ không có nhiều tiền cũng như nhiều tiếng tăm lừng lẫy, nhưng anh biết anh có thể chết và có lý do để cảm thấy thỏa mãn, để thấy mình đã hoàn thành cuộc sống. Fiske quay trở lại với công việc của mình. Chương năm Với hình dáng giống như một con diều hâu đang thời kỳ ấp trứng, nhà tù Fort Jackson được xây dựng tít trên cao ở vùng địa hình hoang vắng, tiêu điều phía nam bang Virgina. Nằm ở vị trí trung tâm của mảnh đất đầu thừa đuôi thẹo hẻo lánh trên xứ sở của than đá này, khoảng cách từ Fort Jackson tới Tennessee, Kentucky và phần phía đông Virginia là gần như nhau, ở Hoa Kỳ, rất ít nhà tù quân đội được xây dựng biệt lập hoàn toàn, chúng thường được gắn liền với một cơ sở quân đội nào đó vì lý do truyền thống và cũng vì lý do tiết kiệm ngân sách. Fort Jackson không nằm ngoài quy luật này. Tuy thế, chức năng vượt trội hơn cả của nơi này luôn là nhà tù, nơi những kẻ tội phạm nguy hiểm nhất của Hoa Kỳ âm thầm đếm ngược thời gian còn lại trong cuộc sống của mình. Chưa từng có một cuộc vượt ngục nào xảy ra ở Fort Jackson. Ở đây, tự do đoạt được mà không có quyết định của tòa án chỉ là thứ tự do trống rỗng và ngắn ngủi. Miền đất bao quanh nhà tù còn chứa đựng một mối đe doạ lớn hơn rất nhiều, nơi có những ngọn núi đá nhọn lởm chởm với những mỏ than lộ thiên, những con đường ngoằn nghèo với những chỗ thụt xuống thình lình và một khu rừng rậm rạp đầy rắn chuông cùng rắn hổ mang. Nhưng họ hàng hung hãn hơn nữa của chúng là rắn hổ mang nước đang sẵn sàng chờ đợi dưới mặt nước ô nhiễm, khao khát ngoạm vào những bước chân hoảng loạn dám đột nhập vào lãnh thổ của nó. Thêm nữa, những người dân bản địa ở mũi đất bị lãng quên của Virginia này đã được dạy dỗ, đào tạo cẩn thận với súng vào dao. Họ sẵn sàng thản nhiên sử dụng chúng. Dù vậy, mảnh đất dốc này vẫn tiềm ẩn vẻ đẹp tuyệt vời của những dải rừng mênh mang, những bờ cây bụi cùng hoa muôn màu sắc cũng như sự thanh bình, thong thả của cuộc sống hoang dã hòa trong sự tĩnh lặng của biển xanh sâu thẳm. Luật sư Samuel Rider đi qua cổng chính của pháo đài, nhận thẻ khách thăm và đỗ xe ở lô dành cho khách. Ông căng thẳng đi về phía lối vào hai bên bọc tường đá của nhà tù, chiếc cặp xách tay đập nhẹ vào ống quần màu xanh da trời. Thủ tục kiểm tra an ninh kéo dài hai mươi phút, bao gồm việc xuất trình giấy tờ cá nhân, kiểm tra tên trong danh sách khách thăm, kiểm tra toàn người, đi qua máy chiếu kim loại và kết thúc bằng việc kiểm tra cặp xách tay. Lính gác nhìn chằm chằm đầy nghi ngờ vào chiếc đài thu thanh nhỏ nhưng cuối cùng cũng cho phép Rider được mang vào sau khi thừa nhận rằng không có vật lậu gì giấu trong đó. Rider phải đọc các nguyên tắc thăm tù và đối với mỗi nguyên tắc, ông phải khẳng định một cách rõ ràng và chắc chắn rằng đã hoàn toàn hiểu rõ. Rider biết rằng nếu ông định húc đầu vào một trong số chúng thì ngay lập tức vẻ bề ngoài lịch sự của đám lính gác sẽ biến mất. Ông nhìn quanh mà không thể tống khứ khỏi mình cảm giác bị đè nén bởi nỗi sợ hãi và sự căng thẳng tột độ, cứ như thể người kiến trúc sư xây dựng nhà tù này đã cố tình trạm khắc chúng vào tận bên trong từng khung bê tông cốt thép. Ruột Rider quặn lại, lòng bàn tay ướt đầm mồ hôi như sắp phải trèo lên một chiếc máy bay phản lực cánh quạt hai mươi chỗ ngồi trong một cơn cuồng phong dữ tợn. Đã từng tham gia quân đội trong thời kỳ của cuộc chiến tranh Việt Nam nhưng Rider chưa bao giờ rời khỏi nước Mỹ, chưa bao giờ thực sự tới gần cuộc chiến ấy, tới gần những mối hiểm nguy đe dọa tính mạng, sẽ thật trớ trêu làm sao nếu ông gục xuống chết vì vỡ động mạch khi đang đứng trong một nhà tù quân đội trên đất Mỹ. Rider hít một hơi sâu, trấn an tinh thần để tim khỏi đập thình thịch rồi lại một lần nữa tự hỏi không hiểu tại sao mình lại tới chốn này. Rufus Harms hiện đang ở vào một vị trí không thể bắt ông, cũng như bắt bất kỳ ai khác, phải làm bất cứ việc gì. Thế mà ông lại đang đứng ở đây. Rider hít thêm một hơi thật sâu nữa, nắm chặt tấm thẻ khách thăm và xiết lấy tay cầm của cặp xách như coi nó là tấm bùa hộ mạng bằng da cho mình trong khi một lính gác hộ tống ông tới phòng thăm. Trong vài phút ngồi một mình, Rider đưa mắt nhìn bốn bức tường màu nâu xám xịt dường như được thiết kế để làm những người đang bị dày vò khổ sở bởi ý định tự vẫn thêm phần sầu nản. Rider tự hỏi không biết nơi đây đã là mồ chôn của bao nhiêu người. Dù thế, ai cũng đều có một bà mẹ, thậm chí kể cả kẻ đê mạt nhất. Rider cho rằng một số còn có cả cha bằng xương bằng thịt nữa, chứ không chỉ đơn giản là tinh trùng kết hợp với trứng. Vậy mà tất cả đều âm thầm kết thúc cuộc đời ở nơi đây. Độc ác từ trong trứng nước ư ? Có thể là như thế. Rider nghĩ bụng, có lẽ một cuộc kiểm tra di truyền sẽ giúp người ta xác định được điều đó hay không. Nhưng giả sử khi biết được điều này rồi thì người ta sẽ làm cái quái gì ? Rider dừng phắt những ý nghĩ mơ màng lại khi Rufus Harms bước vào phòng thăm tù, cao vượt lên khỏi hai người lính gác hộ tống hai bên. ẳ Sự thật thì trái ngược hẳn, nhưng cảm giác đầu tiên giống như đang tiếp kiến ông chủ đất cùng hai nông nô của mình. Harms là người đàn ông to lớn nhất Rider từng gặp, một người khổng lồ có một sức mạnh thực sự bất thường. Kể cả lúc này, khổ người to lớn của anh như choán hết cả không gian trong phòng. Ngực Harms giống như hai tảng bê tông gắn kết với nhau, cánh tay dầy hơn cả thân cây. Cả chân tay Harms đều bị xích và điều đó khiến anh phải bước lê những bước điển hình của một người tù. Mặc dù vậy, trông Harms vẫn rất hoàn hảo với những sải chân ngắn của một người phong nhã. Harms chắc đã gần tới năm mươi, nhưng trông trẻ hơn phải tới mười tuổi, Rider nghĩ. Ông nhận thấy những vết cào xước trên mặt cùng vết trẹo xương đáng sợ ngay phía dưới mắt phải của Harms. Người thanh niên mà Rider từng đại diện nay là một con người có nét mặt còn đẹp trai và đường bệ hơn trước. Rider băn khoăn tự hỏi không biết Rufus Harms có thường xuyên bị đánh trong nhà tù này không, và dưới lớp quần áo kia, hình dạng những bằng chứng của sự ngược đãi hành hạ trông sẽ thế nào. Harms ngồi xuống đối diện với Rider bên chiếc bàn gỗ, nơi mặt bàn bị gạch xóa nhằng nhịt bởi những vết móng tay căng thẳng và tuyệt vọng. Lúc này, Harms không vội nhìn Rider mà liếc mắt tới người lính gác vẫn còn đang đứng trong phòng. Hiểu được cái nhìn ấy, Rider nói với người lính gác. - Tôi là luật sư của anh ta, vì thế anh phải để cho chúng tôi được nói chuyện riêng ở đây. Câu trả lời rất máy móc. - Đây là nhà tù nơi mỗi phạm nhân đều được liệt vào loại hung ác và nguy hiểm. Chúng tôi ở đây là để bảo đảm an toàn cho khách thăm. Rider biết con người ở đây, kể cả tù nhân và lính gác, đều là những kẻ nguy hiểm và đó là cái cách mà mọi sự việc phải diễn ra ở Fort Jackson này. - Tôi hiểu điều đó. Rider đáp - Tôi không yêu cầu anh phải bỏ mặc tôi trong phòng, nhưng tôi đề nghị anh đứng lùi ra xa. Đặc quyền giành cho luật sư và khách hàng đấy, anh biết điều này chứ ? Người lính gác không trả lời nhưng di chuyển xa ra phía góc xa của phòng, có vẻ như ngoài tầm nghe. Cuối cùng thì Rufus Harms cũng nhìn vào Rider. - Anh có mang radio chứ ? - Một yêu cầu kỳ quặc nhưng tôi vẫn tôn trọng. - Vậy thì lấy ra và bật lên đi. Rider làm theo. Lập tức căn phòng tràn ngập trong giai điệu ảm đạm của thứ âm nhạc đồng quê miền tây. Lời bài hát nghe thật nông cạn so với nỗi thống khổ thực sự cảm thấy được ở đây, Rider khó chịu nghĩ. Khi viên luật sư ngẩng lên nhìn một cách dò hỏi, Harms nhìn quanh phòng và nói. - Ở đây tai vách mạch rừng, ta không thể biết được, phải không ? - Nghe trộm cuộc nói chuyện giữa một luật sư và khách hàng của anh ta là phạm pháp. Harms cựa nhẹ tay, sợi dây xích kêu lách cách. - Khối thứ phạm pháp nhưng mọi người vẫn cứ làm. - Cả trong nhà tù này lẫn ngoài kia. Đúng vậy chứ ? Rider thấy mình đang gật đầu. Harms bây giờ không còn là một thanh niên trẻ trung và sợ sệt nữa. Anh ta đã là một người đàn ông. Một người đàn ông tự chủ mặc dù không hề có khả năng làm chủ dù chỉ là điều đơn giản nhất trong sự tồn tại của mình. Rider cũng còn quan sát thêm một điều nữa: mỗi cử động của Harms đều được tính toán, suy nghĩ trước, như thể anh đang chơi một ván cờ, chậm chạp đưa tay ra chạm tới một quân cờ rồi thận trọng không kém mà rút tay lại. Ở đây, mỗi cử chỉ nào quá đột ngột đều có thể dẫn tới cái chết. Người tù dướn người về phía trước và bắt đầu nói bằng một giọng bé tới mức Rider phải ráng sức lắm mới khỏi để âm nhạc át mất. - Cám ơn anh vì đã tới. Tôi thấy ngạc nhiên vì anh đồng ý. - Tôi cũng chẳng kém ngạc nhiên khi thấy anh gọi điện thoại. Nhưng tôi đoán là cú điện thoại của anh cũng khơi dậy cả trí tò mò trong tôi nữa. - Trông anh khá lắm. Thời gian không tệ với anh tẹo nào. Rider bật cười. - Tôi rụng hết cả tóc và mập ra tới năm mươi pao. Nhưng dù sao cũng cám ơn vì lời khen. - Tôi sẽ không làm mất thời gian của anh. Tôi có cái này muốn anh đệ trình lên toà án cho tôi. Nỗi sửng sốt hiện rõ trên mặt Rider. - Tòa án nào ? Mặc cho nhạc mở cỡ to nhưng lần này Harms còn nói nhỏ hơn nữa. - Tòa án nào cao nhất là được. Tòa án tối cao. Nét mặt Rider trùng xuống. - Chắc anh đùa - Cái nhìn trên khuôn mặt Harms chứng tỏ anh không thừa nhận kết luận này của Rider - Thôi được, chính xác thì anh muốn tôi đệ trình cái gì ? Bằng những cử động nhẹ nhàng và bất chấp sự gò bó do xiềng xích gây ra, Harms từ từ lôi một chiếc phong bì ra khỏi áo và giơ nó lên. Ngay lập tức, người lính gác tiến tới và giật lấy nó khỏi tay anh. Rider lập tức phòng vệ. - Này anh binh nhì, đây là cuộc nói chuyện mật giữa luật sư và khách hàng. - Cứ để anh ta đọc, Samuel. Tôi chẳng có gì phải giấu diếm cả - Harms nói bằng giọng đều đều, mắt nhìn ra chỗ khác. Người lính gác mở phong bì và đọc lướt qua nội dung của bức thư. Khi đã thỏa mãn, anh ta trả lại nó cho Harms rồi quay trở về vị trí. Harms đưa chiếc phong bì và lá thư cho Rider. Sau khi đọc xong, Rider ngẩng lên nhìn anh. Khi đó, Harms tiếp tục cúi sát về phía Rider hơn và bắt đầu nói ít nhất phải tới mười phút. Không biết bao nhiêu lần, mắt Rider phải mở to thảng thốt mỗi khi những lời nói của Harms rót vào tai ông. Cuối cùng khi kết thúc, người tù ngồi trở lại chỗ cũ và nhìn Rider. - Anh sẽ giúp tôi chứ ? Rider không thể trả lời được vì rõ là vẫn còn đang cảm thấy ghê sợ những gì vừa được nghe. Nếu như chuỗi xích sắt ở chỗ thắt lưng không cản trở thì Harms đã đưa cả hai tay về phía Rider, không phải để đe doạ, mà là để cầu khẩn bằng hành động sự giúp đỡ từ một người đàn ông đã không tìm ra được điều gì giúp anh trong suốt gần ba mươi năm qua. - Anh đồng ý chứ, Samuel ? Cuối cùng Rider cũng gật đầu. - Tôi sẽ giúp anh, Rufus. Harms đứng dậy và tiến về phía cửa ra vào. Rider nhét tờ giấy vào trong phong bì và cất kín nó cùng chiếc radio vào trong cặp xách, ông không bao giờ biết được rằng, đằng sau tấm gương lớn treo ở bức tường đối diện trong căn phòng này, có một người đang ngồi theo dõi toàn bộ cuộc trò chuyện giữa người tù và viên luật sư. Lúc này, con người đó đang xoa xoa chiếc cằm của mình và chìm sâu vào trong suy nghĩ. Chương sáu Vào lúc mười giờ sáng, người phụ trách trật tự của Tòa án tối cao Richard Perkins, đeo bím tóc màu xám sẫm, cũng là trang phục truyền thống đốỉ với luật sư của Văn phòng luật sư liên bang, đứng tại một đầu của chiếc bàn dài của Tòa án khi đó đang có chín chiếc ghế da cao thành, nhiều kiểu và nhiều cỡ khác nhau kê ở đằng sau. Ông đập chiếc búa xuống. Phòng xử án đông người trở nên im ắng. - Thưa Quý tòa, thưa ngài Chánh án và thưa các thẩm phán của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Perkins tuyên bố. Chiếc màn nhung màu đỏ tía dài phía đằng sau chiếc bàn tách ra tại chín vị trí. Một số lượng tương ứng thẩm phán xuất hiện, trông cứng nhắc và thiếu thoải mái trong các áo choàng đen như thể vừa giật mình thức dậy và bỗng thấy cả một đám đông đứng cạnh giường ngủ. Khi họ ngồi xuống ghế của mình, Perkins tiếp tục. - Xin các vị trật tự. Tôi xin nhắc nhở tất cả những ai có việc liên quan tới Tòa án tối cao Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, hãy ngồi gần lại phía trên và chú ý lắng nghe để phiên tòa có thể bắt đầu. Chúa phù hộ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Tòa án tôn kính của đất nước này. Perkins ngồi xuống và đưa mắt nhìn quanh phòng xử án có chiều dài lớn như căn phòng trong một lâu đài. Trần nhà cao bốn mươi bốn fut khiến người ta phải đưa mắt nghĩ tới chuyện tìm kiếm những đám mây. Sau những công việc khởi đầu và nghi thức thề long trọng của các thành viên đoàn luật sư Tòa án tối cao, vụ đầu tiên trong hai vụ của buổi sáng sẽ được gọi. Trong một ngày thứ Tư như ngày hôm nay, chỉ có hai vụ sẽ được xét xử vào buổi sáng. Các phiên tòa buổi chiều chỉ được mở vào các ngày thứ Hai và thứ Ba. Sẽ không có cuộc tranh luận miệng nào được tiến hành trong ngày thứ Năm và thứ Sáu. Khoảng một trăm năm mươi cuộc tranh luận miệng sẽ được tổ chức cứ mỗi hai tuần vào ba ngày của một tuần cho tới tận cuối tháng Tư, để cho các thẩm phán thực thi trách nhiệm của Solomon thời hiện đại đối với nhân dân Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Hai bên phòng xử án có các trụ gạch đứng oai vệ và uy nghi. Trụ bên phải có hình vẽ của những người lập pháp trong thời kỳ trước kỷ nguyên Thiên Chúa. Bên trái là những người tương nhiệm trong kỷ nguyên Thiên Chúa. Hai đám đông sẵn sàng túc trực ở hai bên. Chắc là để quyết định bên nào đứng. Moses đấu với Napoleon, Hammurabi đấu với Muhammad. Luật pháp - người bảo vệ công lý - cũng có thể gây đau đớn, thậm chí là cả tàn bạo, vấy máu. Ngay phía bên trên chiếc bàn dài của thẩm phán là hai hình vẽ khắc trên đá cẩm thạch, một mô tả vẻ uy nghiêm của luật pháp, một mô tả quyền lực của chính quyền. Giữa hai tấm panen là cảnh sinh động Mười điều răn của Chúa. Bay khắp căn phòng rộng lớn là những hình trạm khắc của các sứ giả hòa bình: Người che chở cho quyền con người, Thần tài năng, Thần thông thái. Đó cũng là những gì thể hiện vai trò của Tòa án. Nếu như từng có giai đoạn xét xử những vấn đề tối cao thì dường như phong cảnh ở đây hoàn toàn xứng đáng với việc đó. Ramsey ngồi chính giữa bàn, Elizabeth Knight ngồi ở góc ngoài cùng bên phải. Một hệ thống micrô được treo ở giữa chiều cao của phòng. Rõ ràng, các ông bố, bà mẹ ngồi trong đám cử tọa phía dưới trở nên căng thẳng trông thấy khi các thẩm phán xuất hiện, trong khi lũ con bụi đời hư hỏng của họ ngồi thẳng lên thêm một chút. Điều này cũng là dễ hiểu đối với ai thậm chí mới chỉ vừa biết đến tiếng tăm của nơi này. Ở đây có thể cảm nhận rõ quyền lực và cuộc chiến sắp tới. Chín thẩm phán mặc áo choàng đen nói cho những người phụ nữ biết khi nào họ có thể từ bỏ con cái mình một cách hợp pháp; ra lệnh cho những đứa trẻ phải đi học ở đâu; công bố bài phát biểu nào đó là tục tĩu hay không; tuyên bố rằng cảnh sát không thể lục soát hoặc bắt giữ người một cách vô lý hoặc đánh đập bắt người ta thú tội. Không ai bầu họ vào những chức vụ hiện thời. Họ phải nắm giữ chức vụ ấy bằng cách chống lại những thách thức đầy rẫy trước mắt. Họ thực hiện nhiệm vụ của mình một cách bí mật, kín đáo tới mức làm cho các cơ quan liên bang đáng kính khác trở thành những tổ chức tự phụ và hay khoe khoang nếu đem ra so sánh. Họ thường xuyên đương đầu với những vấn đề liên quan tới các nhóm xã hội, nhóm chính trị khắp cả nước chống lại những người đứng đầu, phản đối các cơ sở nạo phá thai và biểu tình bên ngoài các phòng xử tử tù nhân. Họ xét xử các vấn đề phức tạp tới mức làm hoảng loạn cả nhân loại văn minh cho tới tận khi tuyệt diệt. Và trông họ vẫn vô cùng bình thản. Vụ án đầu tiên đã được gọi. Đây là vụ liên quan tới phân biệt đối xử trong các trường đại học công, đúng hơn là tới những gì còn rơi rớt lại của quan niệm này. Frank Campbell, viên luật sư biện hộ cho phân biệt đối xử, vừa mới kịp bắt đầu câu đầu tiên trước khi Ramsey thình lình tấn công. Chánh án Ramsey chỉ ra rằng lần sửa đổi thứ mười bốn của Hiến pháp đã tuyên bố dứt khoát rằng không được phân biệt đối xử với bất kỳ một ai. Chẳng phải như thế có nghĩa là, Hiến pháp cấm sự đối xử phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào sao ? - Nhưng có những sự hiểu lầm to lớn đang sắp trở thành... - Tại sao sự đa dạng được đặt ngang hàng với sự bình đẳng ? - Ramsey đột nhiên hỏi Campbell. - Để đảm bảo rằng tất cả các sinh viên đều có quyền bày tỏ những quan điểm khác nhau, đại diện cho những nền văn hóa khác nhau và những điều này đến lượt nó sẽ phá vỡ sự ngu dốt của những khuôn mẫu. - Có phải anh đang đặt những lời tranh luận của mình trên cơ sở cho rằng người da đen và người da trắng suy nghĩ khác nhau ? Rằng một người da đen được nuôi dưỡng bởi cha mẹ là những giáo sư đại học ở một nơi giàu có, như San Fransisco chẳng hạn, sẽ mang tới trường đại học những giá trị và những tư tưởng khác biệt so với một người da trắng cũng được nuôi nống trong một môi trường y hệt như vậy ở San Fransisco sao ? Giọng Ramsey đầy hoài nghi. - Tôi nghĩ là tất cả mọi người đều có sự khác biệt với nhau. Campbell đáp lại. - Thay vì dựa trên màu da, dường như những người nghèo khổ nhất trong chúng ta chính là những người có quyền được nhận sự trợ giúp nhiều nhất đúng không ? Thẩm phán Knight hỏi. Ramsey nhìn về phía bà một cách lạ kỳ. - Và tranh luận của anh chưa đưa ra được sự khác biệt gì liên quan tới việc này, đúng không ? Knight thêm. - Đúng vậy. Campbell thừa nhận. Michael Fiske và Sara Evans ngồi ở những khu vực riêng vuông góc với chiếc bàn lớn. Michael đưa mắt nhìn Sara khi anh lắng nghe chuỗi những câu hỏi này. Sara không nhìn anh. - Không thể chỉ hiểu pháp luật theo nghĩa hẹp, phải không ? Cô làm chúng ta phải quay trở lại với phần đầu của Hiến pháp mất. Ramsey vẫn khăng khăng cố chấp sau khi cuối cùng cũng rời cái nhìn khỏi Knight. - Vậy ý nghĩa tinh thần của ngôn từ luật pháp là như thế nào ? Campbell nhập cuộc. - Tinh thần là những thứ vô định hình, tôi thích được giải quyết những sự kiện cụ thể hơn. Lời nói của Ramsey gây nên những tiếng cười rải rác trong phòng xử án. Ramsey nhắc lại sự tấn công bằng miệng của ông và với sự chính xác tuyệt đối, ông bẻ cong các chuỗi lập luận của Campbell. Knight không nói gì thêm, mắt nhìn thẳng về phía trước, suy nghĩ rõ ràng đã rời xa khỏi phòng xử án. Khi ngọn đèn đỏ trên bục của luật sư bật sáng báo hiệu thời gian của Campbell đã kết thúc, anh ta gần như chạy về chỗ ngồi. Khi viên luật sư phản đối các hành động phân biệt đối xử bước lên bục và bắt đầu những tài biện hộ của mình, dường như các thẩm phán không còn lắng nghe thêm chút nào nữa. *** - Này, Ramsey thực hiệu quả. Sara nhận xét. Cô và Michael đang ngồi trong phòng giải khát của Tòa án. Các thẩm phán đã rút về phòng ăn để tiến hành tiệc trưa truyền thống luôn được tổ chức sau các cuộc tranh luận miệng - Ông ấy đánh gục viên luật sư của trường đại học chỉ trong khoảng năm giây. Michael nuốt một miếng bánh xăng-uých. - Ba năm vừa rồi ông ấy luôn để mắt tìm kiếm một vụ nào đó để thực sự quật ngã hành động phân biệt đối xử. Vậy là ông ấy đã tìm được một vụ. Vụ này chắc đã được giải quyết xong trước khi nó tới tòa án này. - Anh thực sự nghĩ rằng Ramsey đi xa tới mức ấy ? - Em có còn là trẻ con không đấy ? Đợi tới khi đọc quyết định thì em sẽ biết. Chắc chắn ông ấy sẽ tự viết bản quyết định đó. Có thế thì ông ấy mới thấy hả hê. - Em có thể hiểu được phần nào lôgic của ông ấy. Sara nói. - Tất nhiên rồi. Điều đó là hiển nhiên. Một nhóm bảo thủ đưa vụ án ra, lựa chọn nguyên đơn. Da trắng, sáng ngời, lao động chân tay, làm việc cật lực, chưa bao giờ nhận của bố thí. Và còn có giá trị hơn nữa, là một phụ nữ. - Hiến pháp có nói rằng không được phân biệt đối xử với bất cứ ai. - Sara, em biết rằng lần sửa đổi thứ mười bốn được thông qua ngay sau cuộc nội chiến để đảm bảo rằng người da đen sẽ không bị phân biệt đối xử. Bây giờ, nó lại bị gọt giũa để tiêu diệt những người nó định giúp đỡ. Thế đấy, những kẻ huỷ diệt chỉ muốn bảo đảm chắc chắn cho trận chiến đấu quyết liệt cuối cùng của họ. - Ý anh là thế nào ? - Nghĩa là những người nghèo có hy vọng bắt đầu bị đẩy lùi lại. Còn những người nghèo vô hy vọng thì bắt đầu bị quật ngã. Không tốt chút nào. - Ôi. Sara nhìn Michael. Thái độ của anh đầy nhiệt huyết, thật lanh lợi. Quá nghiêm túc so với độ tuổi của anh. Anh bước chân lên bục diễn thuyết đầy tính quy tắc nhiều khi gây cho người khác cảm giác lúng túng. Đó là một trong những cá tính của Michael khiến Sara vừa thấy thán phục vừa thấy sợ hãi. - Anh trai anh có thể nói thêm với em một vài chuyện về việc này - Michael thêm. - Em biết. Hy vọng có ngày em được gặp anh ấy. Michael liếc nhìn cô rồi quay đi chỗ khác. - Ramsey nhìn thế giới này không giống như thực tế của nó. Ông ấy tạo ra thế giới của riêng mình, vậy tại sao những người khác lại không thể làm như ông ấy ? Mặc dù vậy, anh vẫn khâm phục anh trai mình. Anh ta đã áp dụng điều ấy một cách công bằng với người nghèo và người giàu, giữa chính quyền bang và các cá nhân. Anh ta không chơi trò ưu tiên bên nào. Anh đồng ý với anh ta ở điểm này. - Anh cũng đã vượt qua được rất nhiều trở ngại - Ừ. Anh không muốn tự thổi phồng bản thân nhưng chỉ số IQ của anh hơn một trăm sáu mươi. Không phải ai cũng có được chỉ số này. - Em biết. Sara nói một cách thèm muốn - Bộ não pháp lý của em nói rằng những gì xảy ra hôm nay là đúng. Nhưng trái tim em nói rằng đó là một thảm kịch. - Này, đây là Tòa án tối cao. Không có chuyện gì dễ dàng ở đây được. Mà tiện thể anh hỏi em, không biết Knight thử làm gì trong phiên tòa sáng nay ? Michael luôn luôn móc nối được mọi sự kiện xảy ra ở Tòa án, tất cả những bí mật nội bộ, những chuyện đồn đại, các chiến lược của các thẩm phán và thư ký của họ, cho tới những triết lý và những quan điểm sâu sắc hơn của họ đối với các vụ án đặt trước mặt. Mặc dù vậy, anh vẫn chưa hiểu những điều bóng gió Knight nhắc tới trong phiên tòa buổi sáng và điều đó khiến anh thấy khó chịu. - Michael, chỉ là hai ba câu nói. - Thế là sao ? Hai câu nói nhưng đầy tiềm ẩn. Quyền lợi của người nghèo ? Em đã thấy cái cách Ramsey vớ lấy điều đó rồi đấy. Có phải Knight đang bố trí một việc gì đó sau này không ? Một vụ án cô ấy đang định đưa ra ở đây chăng ? - Em không thể hiểu tại sao anh có thể hỏi em như vậy. Điều đó là bí mật. - Anh và em cùng một phe ở đây, Sara. - Đúng ! Bao nhiêu lần Knight và Murphy cùng bỏ phiếu ủng hộ một phe ? Không nhiều lắm. Và anh biết trong tòa nhà này có chín đơn vị tách biệt nhau. - Đúng, chín ông vua nhỏ. Nhưng nếu Knight chuẩn bị sẵn một kế hoạch, anh muốn được biết về điều đó. - Anh không nhất thiết phải biết tất cả mọi chuyện diễn ra trong tòa nhà này. Chúa ơi, anh đã biết nhiều hơn tất cả các thư ký khác cộng lại rồi, hơn cả phần lớn các thẩm phán nữa. Ý em muốn nói ở đây là, có bao nhiêu thư ký khác xuống phòng thư tín vào lúc sáng sớm để giành được lợi thế giữ lấy các đơn thư kháng án được gửi tới ? - Anh không muốn làm việc gì nửa vời. Sara nhìn Michael và định nói gì đó nhưng sau lại thôi. Tại sao cứ phải làm phức tạp hóa mọi chuyện ? Cô đã cho anh biết câu trả lời của mình. Mặc dù là một người tự chủ nhưng Sara không tưởng tượng nổi có thể cưới một người ở tiêu chuẩn cao như Michael Fiske. Cô sẽ không bao giờ với tới được họ, chịu đựng được họ. Chỉ thử thôi cũng đã đủ hại tới sức khoẻ rồi. - Thôi được, em không phản bội lại sự tin tưởng của ai bao giờ. Anh cũng biết rõ như em, rằng nơi đây giống như một chiến trường quân sự. Lỡ mồm có thể làm đắm tàu. Anh cũng phải để ý tới cả phía sau lưng mình. - Về tổng thể thì anh không có gì phải bàn cãi với em, nhưng anh đang tham gia vào vụ án này. Em biết Murphy rồi, ông ấy là một người ưa thích những cái cũ - một người hoài cổ đáng yêu, nhưng cũng là một người tự do, không thành kiến. Bất cứ cái gì có thể giúp người nghèo, ông ấy sẵn sàng tham gia. Ông ấy và Knight có thể đứng chung giới tuyến trong vấn đề này, không có gì phải nghi ngờ về điều đó. Ông ấy luôn luôn tìm kiếm cơ hội vặn ngoéo bộ máy của Ramsey. Tom Murphy đã dẫn dắt Tòa án này trước khi Ramsey bước tới được một vị trí tương đối. Trong những năm tháng xế chiều của cuộc đời mà vẫn cứ bất đồng quan điểm thì chẳng vui chút nào. Sara lắc đầu. - Em thực sự không thể bàn về chuyện này với anh. Michael thở dài nhìn vào đĩa thức ăn. - Chuyện gì chúng ta cũng xa rời khỏi nhau, phải không Sara ? - Không đúng. Anh đang cố làm cho mọi chuyện có vẻ như thế. Em biết em làm anh tổn thương khi nói không, và em rất tiếc. Đột nhiên Michael nghiến răng. - Có lẽ thế lại tốt. Cả hai chúng ta đều quá cứng rắn và chắc chắn kết thúc sẽ là giết nhau mất. - Một chàng thanh niên Virginia với một cô gái Carolina. Sara kéo dài giọng - Có lẽ anh nói đúng. Michael xoay ly đồ uống rồi nhìn Sara. - Nếu em cho anh là một kẻ bướng bỉnh thì nhất định em nên gặp anh trai anh. Sara không nhìn lại. - Vâng. Trong phiên tòa chúng ta đã tới xem, anh trai anh thật là khủng khiếp. - Anh rất tự hào vì anh ấy. Bây giờ cô mới nhìn Michael. - Vậy tại sao chúng ta phải trốn vào rồi lại lủi ra khỏi phòng xử án để anh ấy không biết sự có mặt của chúng ta như thế ? - Em nên hỏi anh ấy thì hơn. - Em đang hỏi anh. Michael nhún vai. - Anh ấy có vấn đề với anh. Như kiểu muốn xua đuổi anh khỏi cuộc đời anh ấy. - Tại sao ? - Anh thực sự không biết hết mọi lý do. Có thể anh ấy cũng không biết hết như anh. Anh chỉ biết là làm như thế không khiến anh ấy sung sướng chút nào. - Từ những gì ít ỏi em được thấy, anh ấy không gây cho em ấn tượng anh ấy là con người đang tuyệt vọng hoặc đang thế nào đó. - Thât vậy không ? Thế ấn tượng của em là gì ? - Vui tính, thông minh, biết đồng cảm với mọi người. - Anh thấy anh ấy biết đồng cảm với em. - Anh ấy còn không biết em có mặt ở đó. - Mặc dù vậy, em muốn anh ấy biết em ở đó, đúng không ? - Anh định nói gì ? - Chỉ muốn nói là anh không mù. Và anh đã phải đi dưới cái bóng của anh ấy suốt đời anh rồi. - Anh là một thiên tài với tương lai vô hạn. - Còn anh ấy là một cựu cảnh sát anh hùng bây giờ quay sang bảo vệ chính những kẻ anh ấy từng bắt giữ. Anh ấy cũng có một tinh thần cao tới mức không bao giờ anh có được. Anh ấy là một chàng trai có sức chịu đựng và sự cố gắng cao tới mức khó tin. Michael lắc đầu nhớ lại thời gian anh trai anh nằm trong bệnh viện. Không ai trong số họ biết được John có thể sống thêm một ngày, thậm chí là một phút nữa hay không. Anh chưa từng biết tới nỗi sợ hãi như thế, nỗi sợ mất anh trai. Nhưng dù sao bây giờ anh cũng đã mất anh ấy mà lại không phải vì cái chết. Không phải vì những viên đạn đó. - Có khi anh ấy lại thấy đang sống dưới cái bóng của anh. - Anh không tin. - Đã bao giờ anh hỏi anh ấy chưa ? - Như anh từng nói với em, bọn anh không nói chuyện với nhau nhiều. Michael ngừng lại rồi bình thản tiếp - Có phải anh ấy là lý do khiến em từ chối anh không ? Michael đã quan sát Sara khi cô chăm chú nhìn anh trai anh. Sara đã thích mê mẩn John Fiske ngay từ cái nhìn đầu tiên. Đúng là một ý tưởng ngớ ngẩn khi tự nhiên anh nảy ra ý định, cả hai người cùng đến chỗ anh trai mình. Michael tự nguyền rủa mình. Sara đỏ mặt. - Em thậm chí còn chưa biết anh ấy thì làm sao có thể có cảm nhận gì được ? - Em đang hỏi anh hay tự hỏi bản thân đấy ? - Em không trả lời đâu. Giọng Sara run run - Thế còn anh thì sao ? Anh có yêu anh ấy không ? Đột nhiên Michael đứng dậy và nhìn Sara. - Anh luôn luôn yêu quý anh trai mình, Sara. Luôn luôn. Chương bảy Rider vội vã đi vào trong phòng làm việc mà không nói một lời với cô thư ký. Ông mở cặp xách tay rồi nhặt lấy chiếc phong bì, sau đó rút lá thư ở bên trong ra và chỉ liếc nhìn qua một chút trước khi xé vụn và ném vào thùng rác. Rufus Harms viết về nguyện vọng cuối cùng và di chúc của mình trong lá thư ấy. Nhưng đó chỉ là một cách đánh lạc hướng, một thứ vô hại dành cho lính gác ngục kiểm soát. Rider đưa sát chiếc phong bì lên mắt trong khi tay nhấn nút máy điện đàm. - Sheila, cô mang cho tôi ấm đun nước vào đây. Nhớ đổ đầy nước vào. - Tôi sẽ pha trà cho ông, thưa ông Rider. - Tôi không cần trà. Tôi chỉ muốn cô mang ấm đun vào đây. Sheila không thắc mắc gì về cái yêu cầu kỳ quặc cũng như thái độ của ông chủ. Cô lẳng lặng mang ấm đun vào rồi rút lui cũng trong im lặng. Rider cắm dây dẫn vào ổ điện và chỉ vài phút sau, hơi nước bắt đầu bốc lên khỏi miệng ấm. Ông thận trọng cầm lấy hai mép ngoài của chiếc phong bì rồi hơ nó lên đám hơi nước và theo dõi hai lớp giấy bắt đầu tách ra. Đúng như lời Rufus Harms đã nói. Rider hơ tiếp phần mép ngoài và cuối cùng thì hai lớp giấy tách khỏi nhau hoàn toàn. Chiếc phong bì bây giờ trở thành hai tờ giấy: một tờ viết tay, còn tờ kia là bản phôtô lá thư của Quân đội gửi cho Harms. Vừa rút ấm đun nước ra, Rider vừa thán phục Rufus vì đã chế tạo được một thứ dụng cụ đặc biệt như thế: chiếc phong bì thực chất là một lá thư. Ông thán phục vì không biết làm sao Rufus có thể photo rồi gài cả lá thư của Quân đội vào đó. Đến lúc ấy ông mới chợt nhớ lại rằng, bố Harms trước đây đã từng làm việc tại một công ty in ấn. Giá Rufus theo bố vào kinh doanh trong lĩnh vực này thay vì gia nhập quân đội thì tốt cho cậu ấy biết bao, Rider lẩm bẩm một mình. Ông để cho hai tờ giấy khô hẳn trong một phút rồi bắt đầu ngồi sau bàn làm việc đọc những gì Rufus viết. Việc này không mất nhiều thời gian lắm, vì những gì viết trong đó khá ngắn gọn và rõ ràng, mặc dù rất nhiều từ viết sai chính tả và có nét chữ rất kỳ quặc. Rider không biết được rằng Harms đã phải viết hoàn toàn trong bóng tối và mỗi khi nghe thấy tiếng bước chân của lính gác tới gần là một lần phải dừng lại. Cổ họng Rider khô khốc khi ông đọc xong lá thư. Ông buộc mình phải xem nốt lá thư của Quân đội Hoa Kỳ. Lại một cú đấm nữa. - Chúa ơi ! - Rider dựa vào lưng ghế sau, tay run run xoa vào đầu tay nắm tròn của chiếc ghế rồi lảo đảo đứng dậy và chạy ra khóa cửa ra vào. Nỗi hoảng sợ lan tỏa giống như một con vi rút câm lặng. Ông thấy khó thở. Rider loạng choạng quay trở lại chỗ bàn làm việc và lại nhấn vào nút máy điện đàm. - Sheila, mang cho tôi một cốc nước và một viên aspirin. Một phút sau, có tiếng gõ cửa từ bên ngoài: - Thưa ông Rider. Sheila nói vọng vào - Cửa khóa rồi. Rider vội ra mở khóa, cầm lấy cốc nước và viên thuốc rồi định đóng cửa lại thì Sheila bỗng hỏi: - Ông không sao chứ ? - Không sao, không sao. Rider trả lời và đẩy cô thư ký ra ngoài. Rider cúi nhìn hai tờ giấy Rufus muốn ông đệ trình lên Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Thật ngẫu nhiên làm sao khi chỉ nhờ có lời đảm bảo của một người đồng nghiệp trước đây trong quân đội mà Rider nay đã trở thành một thành viên trong đoàn luật sư danh dự của Tòa án tối cao. Nếu ông làm theo đúng những gì Rufus mong muốn, ông sẽ phải làm luật sư cho việc chống án của anh ta. Trước mắt Rider hiện rõ thảm họa gì sẽ xảy ra nếu sự việc tiến triển như thế. Thế mà ông lại đã hứa với Rufus. Rider nằm xuống chiếc ghế sôpha ở góc phòng, nhắm mắt lại và bắt đầu cân nhắc một cách thận trọng. Có quá nhiều điều xảy ra trong cái đêm cô bé Ruth Ann Mosley bị giết đã không được nhắc đến. Rufus không có tiền án tiền sự gì liên quan tới bạo lực, chỉ có duy nhất một điều là anh ta thường xuyên không thể làm theo mệnh lệnh khiến cho sĩ quan cấp trên tức giận đến điên người. Nhưng điều này cũng từng xảy ra với Rider thời gian đầu khi bắt đầu gia nhập Quân đội. Việc Rufus không có khả năng xử lý một mệnh lệnh, dù là đơn giản nhất đã được Rider giải thích trong thời gian diễn ra việc xét xử trước đây. Nhưng không thể giải thích cho việc Rufus trốn chạy khỏi trại giam của doanh trại. Sự thật là, khi không thể nào biện hộ được cho hành động này của Rufus, Rider đã phải làm ầm lên và lấy cớ về mặt tinh thần. Những điều này cũng chỉ vừa đủ thúc đẩy và giúp cho khách hàng của ông tránh được án tử hình. Và mọi thứ chấm dứt ở đó. Công lý đã được thực hiện. Ít ra là ở mức cao nhất người ta có thể chờ đợi trên thế giới này. Rider một lần nữa cúi xuống nhìn vào bản thông báo của Quân đội. Sự dối trá trong quá khứ nay đã lộ tẩy hoàn toàn. Lẽ ra thông tin này phải được lưu trong hồ sơ quân sự của Harms khi vụ án xảy ra. Nếu thế, đây có thể là cơ sở cho một sự bào chữa đáng tin cậy và chấp nhận được. Hồ sơ quân sự của Harms đã bị tẩy xóa, sửa chữa và bây giờ Rider đã hiểu là tại sao. Harms muốn tự do, muốn tên tuổi mình được trong sạch và muốn điều đó được thực hiện bởi tòa án cao cấp nhất của đất nước này. Nhưng anh từ chối không muốn đặt niềm tin vào Quân đội. Đó là những gì Harms đã nói với Rider trong tiếng nhạc đồng quê réo rắt từ chiếc đài phát thanh. Liệu ông có thể trách móc gì Harms vì chuyện này được đây ? Rufus đang có tất cả lợi thế. Anh ta phải được nói, phải được lắng nghe và phải được trả tự do. Nhưng mặc dù biết như vậy, Rider vẫn nằm bất động trên chiếc ghế sôpha. Lý do không có gì phức tạp. Chỉ vì Rider đang sợ hãi. Nỗi sợ này dường như lớn hơn tất cả các cảm xúc khác loài người có thể có được. Rider đã dự định vài năm nữa sẽ về hưu và chuyển tới sống tại biệt thự nơi ông và vợ mình đã lựa chọn bên bờ biển Gulf. Con cái ông đã trưởng thành. Rider đã chán ngấy những mùa đông lạnh giá ở đây, chán ngấy việc suốt ngày phải đuổi tìm những vụ làm ăn mới cũng như việc ngồi mẫn cán làm việc hết giờ này tới giờ khác. Nhưng dù viễn cảnh về hưu có cám dỗ bao nhiêu thì điều đó cũng vẫn chưa đủ để có thể ngăn cản Rider không giúp đỡ người khách hàng cũ của mình. Nhiều điều có lý và cũng có nhiều điều sai lầm. Rider đứng dậy khỏi ghế đi văng và ra ngồi sau bàn làm việc. Lúc đầu ông đã nghĩ tới cách đơn giản nhất giúp được Rufue, đó là gửi những gì ông đang giữ trong tay tới một toà báo nào đó rồi để sức mạnh của các phương tiện truyền thông đại chúng này giải quyết vụ việc. Nhưng ông cũng biết rằng, báo chí có thể hoặc là xé tan tất cả và coi như những tờ giấy lộn nhận được từ một kẻ điên khùng, hoặc là làm hỏng bét mọi việc khiến Rufus rất có thể bị đẩy vào vòng nguy hiểm. Rider đã quyết định không làm như thế, vì một lý do thật đơn giản. Rufus là khách hàng của ông và đã yêu cầu luật sư của mình đệ trình đơn chống án của anh ấy tới Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Và đó cũng chính là những gì Rider sẽ làm. Đã một lần ông không đáp ứng được yêu cầu của Rufus. Chuyện ấy sẽ không lặp lại thêm một lần nữa. Rufus đang khao khát dù chỉ chút ít công lý và nơi nào có thể làm được điều đó cho anh ta tốt hơn tòa án cao cấp nhất trên đất nước này ? Nếu người ta không tìm được công lý ở đó thì còn biết tìm ở nơi đâu ? Rider thầm hỏi. Khi Rider rút một tập giấy ra khỏi ngăn kéo bàn, ánh nắng mặt trời từ bên ngoài cửa sổ chiếu sượt qua những khuy cài ở tay áo sơmi của ông và tạo thành những đốm chấm sáng nhảy nhót trên tường phòng. Ông kéo chiếc máy chữ cổ lại. Rider không quen lắm với các yêu cầu về thủ tục đệ trình lên Tòa án tối cao nhưng ông cho rằng ông hoàn toàn có thể thực hiện được chúng. Điều đó không làm ông bận tâm. Ông chỉ muốn nhanh chóng thoát khỏi câu chuyện này. Khi đã đánh máy xong, Rider bắt đầu cho cả tờ giấy ông vừa đánh cùng lá thư của Harms và lá thư của Quân đội vào trong một chiếc phong bì. Sau đó ông dừng lại. Tính đa nghi, sự thận trọng như một thứ bệnh nghề nghiệp là kết quả của ba mươi năm hành nghề khiến ông vội vã chạy sang căn phòng nhỏ phía sau phòng làm việc của mình để photo-copy lại cả lá thư viết tay của Harms lẫn lá thư ông vừa đánh máy. Sự lo lắng đã khiến ông quyết định giữ thêm bản copy cả lá thư của Quân đội nữa. Rider cất tất cả ba bản copy vào một ngăn kéo bàn rồi khóa lại. Ông cho bản gốc vào phong bì, tìm địa chỉ của Tòa án tối cao trong danh bạ rồi đánh máy nhãn dán. Rider không đề địa chỉ gửi trả lại trên phong bì. Khi đã làm xong, ông đội mũ, mặc áo khoác rồi đi bộ tới bưu điện gần nhất. Khi chưa có đủ thời gian suy nghĩ kỹ càng và vì muốn biết chắc thư của mình sẽ tới được đúng địa chỉ, Rider quyết định gửi bảo đảm để có thể nhận được biên lai. Ông đưa tờ phiếu đã điền đủ cho nhân viên bưu điện, hoàn thành thủ tục đơn giản rồi quay về văn phòng. Chỉ tới lúc này ông mới chợt nhận ra. Tờ biên lai chứng nhận sẽ giúp Tòa án tối cao lần ra được người gửi chiếc phong bì. Rider thở dài. Rufus đã phải mất nửa cuộc đời để chờ đợi điều này, thế mà bây giờ ông lại đang bỏ rơi anh ta, cho dù cũng không hẳn là như thế. Suốt cả phần ngày còn lại, Rider nằm trên ghế đi-văng tại văn phòng, trong bóng tối và cầu nguyện rằng mình đã làm đúng. Và từ tận trái tim mình, ông biết ông đã làm một điều đúng đắn. Chương tám -Thư ký của Ramsey làm phiền em vì mấy hôm trước chị có đưa ra quan điểm cho rằng người nghèo phải có quyền được hưởng một số ưu tiên nhất định, thưa thẩm phán Knight. Sara nhìn về phía người phụ nữ đang ngồi rất bình tĩnh sau bàn làm việc của mình. Một nụ cười lướt nhẹ trên mặt Knight khi bà đang xem xét một số giấy tờ trên bàn. - Tôi biết thế nào họ cũng làm vậy. Cả hai người đều biết rõ rằng đám thư ký của Ramsay giống như một lực lượng đặc nhiệm được huấn luyện kỹ lưỡng. Họ có chân rết ở khắp mọi nơi, tìm kiếm tất cả những gì đáng quan tâm đối với ông Chánh án cũng như công việc của ông ấy. Hầu như không điều gì có thể lọt qua cặp mắt của họ. Mỗi một từ ngữ, một lời phiền trách, một cuộc gặp gỡ hay cuộc đối thoại bình thường ngoài hành lang đều được ghi chép, phân tích và phân loại thật kỹ càng cho việc sử dụng sau này. - Vậy là chị đã dự định để những phản ứng như thế xảy ra ? - Sara, có những điều ở đây mặc dù không muốn nhưng tôi cũng như bất kỳ một ai đó vẫn phải vượt qua. Một số người gọi đó là ván bài. Tôi không thích gọi như thế nhưng tôi không thể tảng lờ sự tồn tại của nó. Tôi không để ý nhiều tới ông Chánh án. Những luận điểm tôi đang suy nghĩ đây sẽ liên quan tới nhiều vụ án Ramsey không ủng hộ. Tôi biết điều đó và ông ấy cũng biết điều đó. - Vậy là chị đang thả nổi những quả bóng tranh luận tới các thẩm phán khác. - Đúng một phần. Các cuộc tranh luận miệng cũng là những diễn đàn công khai và mở rộng. - Đối với công chúng thì như thế. Sara suy nghĩ một lúc - Thế còn với thông tin đại chúng thì sao ? Knight đặt đống tài Hệu xuống rồi đan hai bàn tay với nhau, nhìn cô gái trẻ. - Tòa án này bị ảnh hưởng bởi công chúng ở mức độ nhiều hơn mức bất kỳ ai đó dám thừa nhận. Một số người ở đây muốn giữ nguyên hiện trạng như bây giờ đang có. Nhưng Tòa án này cần phải thay đổi. - Có phải điều này có liên quan chặt chẽ tới những vụ chị đang yêu cầu em nghiên cứu về quyền được hưởng giáo dục bình đẳng của những người nghèo ? - Tôi buộc phải quan tâm tới những vụ như thế. Elizabeth Knight lớn lên ở miền đông bang Texas trong một gia đình bình thường về mặt xã hội nhưng cha cô là một người giàu có. Nhờ vậy, việc học hành của bà luôn được đảm bảo ở mức độ cao cấp nhất và cũng vì thế, Knight rất hay tự hỏi không biết cuộc đời bà sẽ ra sao nếu cha bà cũng nghèo khổ như rất nhiều người sống xung quanh bà thời đó. Tất cả các quan tòa đều được học bộ môn tâm lý học và Elizabeth cũng không nằm ngoài nguyên tắc ấy - Và đó là tất cả những gì tôi sẽ nói tới bây giờ. - Cả vụ Blankey nữa ư ? Sara nhắc tới vụ kiện mà Ramsey đã bỏ rất nhiều công sức kỹ lưỡng. - Chúng ta chưa bỏ phiếu cho vụ đó nên tôi cũng không thể nói được nó sẽ chuyển biến theo chiều hướng nào. Các cuộc họp bỏ phiếu thường được tiến hành hoàn toàn bí mật, đến mức không có cả người ghi tốc ký hoặc thư ký thường trực tham dự. Tuy vậy, đối với những người đã làm việc ở Tòa án một thời gian dài liên tục và đối với đám thư ký ngày nào cũng có mặt tại đây thì cũng không khó khăn gì trong việc dự đoán kết quả bỏ phiếu sẽ như thế nào, mặc dù trong quá khứ, đã có nhiều quyết định của các thẩm phán làm người ngoài phải ngạc nhiên. Nhưng cái nhìn thất vọng trên khuôn mặt của thẩm phán Knight giúp Sara thấy rõ kết quả của cuộc bỏ phiếu cho vụ Blankey sẽ ra sao. Sara và tất cả mọi người đều hình dung được sự việc sẽ tiến triển đến kết cục thế nào. Michale Fiske đã đúng. Cái duy nhất còn chưa biết đó là việc loại bỏ quyết định sẽ được thực hiện như thế nào mà thôi. - Thật buồn vì em sẽ không còn ở đây để chứng kiến kết quả nghiên cứu của mình đơm hoa kết trái như thế nào. Sara nói. - Cô sẽ không bao giờ biết. Đây là nhiệm kỳ thứ hai cô quay lại làm việc ở đây. Michael Fiske đã ký nhận làm việc tiếp cho Tommy một nhiệm kỳ nữa đấy. Tôi cũng rất muốn cô quay lại. - Thât lạ vì chị lại nhắc tới anh ấy. Michael cũng đã hỏi về nhận xét của chị trong cuộc tranh luận miệng. Anh ấy nói rằng có thể Murphy sẽ hoan nghênh bất cứ điều gì chị định đưa ra liên quan tới quyền ưu tiên cho người nghèo. Knight mỉm cười. - Chắc cậu ấy biết sẽ như thế. Michael và Tommy gắn bó với nhau ở mức tối đa mà thư ký và thẩm phán có thể thân thiết. - Michael hiểu về Tòa án này hơn bất cứ người nào. Thực ra, cũng có lúc em cảm thấy anh ấy hơi đáng sợ. Knight sắc sảo nhìn Sara. - Tôi tưởng là cô và Michael thân thiết với nhau lắm. - Vâng, chúng em là bạn tốt của nhau. Mặt Sara đỏ bừng lên khi Knight tiếp tục theo dõi phản ứng của cô. - Thế hai người có định ra thông báo chung nào không đấy ? Knight nở một nụ cười ấm áp. - Cái gì cơ ? Không, không. Chúng em chỉ là bạn bè thôi. - Thế à. Tôi xin lỗi, Sara, đó không phải là việc của tôi. - Không sao. Thực tế thì bọn em cũng hay ở bên nhau. Em biết là nhiều người cho rằng giữa hai bọn em có cái gì đó hơn tình bạn. Dù sao Michael cũng là một người đàn ông hấp dẫn và rõ ràng là rất thông minh. Anh ấy sẽ có một triển vọng sáng sủa. - Sara, sao lại đi lạc chủ đề thế, hình như cô đang định tự thuyết phục mình về một điều gì đó. Sara nhìn xuống. - Hình như thế thì phải, có đúng không chị ? - Cô hãy nghe lời khuyên của một bà mẹ có hai con gái đây. Đừng vội vàng. Hãy để nó tự nhiên. Cô còn nhiều thời gian. Chỉ có thế thôi. Sara mỉm cười. - Cám ơn chị. - Nào, thế biên bản tòa án về vụ Chance và Hoa Kỳ thế nào rồi ? - Em được biết là Steven đang tiếp tục không dừng. - Steven Wright làm việc không được tốt lắm. - Anh ấy cố gắng rất nhiều. - Cô phải giúp cậu ta, Sara. Cô là thư ký cao cấp. Lẽ ra biên bản đó tôi phải có từ cách đây hai tuần rồi. Ramsey đã có đầy đủ các lý luận, sự kiện trong tay và các tiền lệ ở tòa án này hoàn toàn ủng hộ ông ta. Nếu tôi muốn làm được điều gì đó thì ít ra tôi cũng phải có những gì như ông ta chứ. - Em sẽ đặt chuyện này lên ưu tiên số một. - Tốt. Sara đứng dậy để ra đi. - Và chị cho là chị sẽ điều khiển được ông Chánh án ? Hai người phụ nữ nhìn nhau mỉm cười. Elizzabeth Knight giống như người mẹ thứ hai của Sara, thay cho người mẹ đẻ của cô đã mất từ khi cô còn thơ dại. Khi Sara bước ra khỏi phòng, Knight quay lại chỗ ghế ngồi. Nơi bà đang ở đây chính là kết quả cuối cùng của cả một cuộc đời lao động, hy sinh, may mắn và nỗ lực. Bà đã cưới một thượng nghị sĩ được kính trọng của Hoa Kỳ, người đàn ông bà yêu và yêu bà. Bà là một trong số ba phụ nữ duy nhất được mặc chiếc áo choàng dành riêng cho thẩm phán của Tòa án tối cao. Cùng một lúc bà vừa cảm thấy khiêm nhường, vừa cảm thấy trong tay mình đầy quyền lực. Vị lãnh đạo bổ nhiệm bà vào vị trí này vẫn còn đang đương chức, ông luôn coi bà là một luật gia theo đường lối ôn hòa và đáng tin cậy. Knight không phải là người tích cực hoạt động chính trị nên ông không hoàn toàn mong đợi bà phục tùng đảng của ông. Nhưng chắc chắn ông muốn bà làm một người trung lập trong toà án này, bằng việc để cho các đại biểu do nhân dân bầu cử đưa ra giải pháp và quyết định cho những vấn đề thực sự quan trọng. Knight không có những triết lý xử thế cứng rắn như Ramsey hoặc Murphy. Họ là những người không bao giờ dựa vào bản chất của vụ án để quyết định, mà dựa vào cái bao quát hơn đứng đằng sau từng vụ. Murphy sẽ không bao giờ bỏ phiếu bênh vực hoặc huỷ bỏ vụ nào ủng hộ việc áp dụng án tử hình. Ramsey sẽ chết héo nếu phải đứng về phe bị đơn trong một vụ án hình sự. Knight không lựa chọn bên nào theo cách như thế. Bà nhận bất cứ vụ nào, bất cứ bên nào yêu cầu mình. Bà trăn trở với những thực tế xảy ra. Khi bà nghĩ về ảnh hưởng rộng lớn của các quyết định của Tòa, bà cũng còn lo lắng cho sự công bằng đem lại cho các bên. Điều đó có nghĩa là bà là một người bỏ phiếu tự do trong đa số các vụ và Knight không thấy phiền lòng vì điều đó. Bà không phải là một người cô đơn đứng ngoài rìa và bà tới đây để tạo ra sự khác biệt. Chỉ tới bây giờ, Knight mới nhìn thấy được ảnh hưởng cực kỳ to lớn mình có thể gây ra. Trách nhiệm đi kèm với quyền lực này là điều khiến bà cảm thấy nhún nhường, khiêm tốn. Nhưng cũng là điều làm bà sợ hãi. Nó làm bà tỉnh hẳn ngủ và nằm đăm đăm nhìn lên trần nhà trong khi chồng bà ngủ ngon lành bên cạnh. Knight ngẫm nghĩ và mỉm cười vì bà vẫn không hề muốn sống ở một nơi nào khác và theo một cách nào khác. Chương chín John Fiske bước vào tòa nhà tọa lạc ở phía đông của Rỉchmond. Tên gọi chính thức của nó là Nhà dưỡng lão, nhưng thực ra đây là nơi những người già tới sống nốt phần đời oặt oẹo còn lại và chờ đợi cái chết. Fiske cố gắng không để ý tới những tiếng rên rỉ và khóc lóc khi anh đi dọc theo hành lang. Anh nhìn thấy những thân thể yếu ớt, đầu gục xuống, chân tay bất động, ngồi dính vào những chiếc xe lăn chất đầy ở góc tường như cả loạt những giỏ mua hàng ở siêu thị. Họ ngồi đó như thể đang chờ đợi người bạn nhảy họ biết chắc rằng sẽ không bao giờ xuất hiện. Bố anh và anh đã phải lấy hết quyết tâm mới đưa được mẹ anh vào đây. Michael Fiske chưa bao giờ quen được với sự thật là mẹ anh đã hoàn toàn mất trí nhớ do một căn bệnh tâm thần. Cuộc sống lúc tốt đẹp thì rất dễ để hưởng thụ, nhưng giá trị chân thật của một con người lại được đo đếm theo cách người ta hành động khi gặp phải điều bất hạnh trong đời. Và ở mức độ mà John Fiske biết thì em trai anh đã không vượt qua được nỗi thống khổ này. Anh đăng ký ở bàn đón tiếp. - Hôm nay mẹ tôi thế nào ? Anh hỏi người nhân viên hành chính. Là khách thường xuyên của nơi này nên Fiske quen biết tất cả nhân viên ở đây. - Dạo này bà ấy khá hơn rồi, nhưng sự xuất hiện của anh sẽ giúp bà ấy nhanh nhẹn và linh lợi lên. Cô gái trả lời. - Đúng thế. Fiske làu bàu khi anh đi về phía phòng khách. Mẹ anh đã sẵn sàng ngồi chờ, mặc áo ở nhà và đi dép lê như mọi lần. Mắt bà nhìn xung quanh một cách vô hồn, miệng mấp máy nhưng không nói nên lời. Khi Fiske xuất hiện ở cửa ra vào, bà đưa mắt nhìn rồi một nụ cười nở trên khuôn mặt. Fiske tiến về phía bà và ngồi xuống trước mặt mẹ mình. - Con khoẻ không Mikey ? Gladys Fiske vừa hỏi vừa âu yếm ôm lấy mặt anh - Con trai của mẹ ? Fiske thở một hơi thật sâu. Lại vẫn điều tồi tệ đã xảy ra từ hai năm nay. Trong tâm trí đã bị tàn phá của Gladys Fiske, anh mãi mãi được coi như em trai mình, chắc phải cho tới tận khi mẹ anh nằm xuống vĩnh viễn. Bằng một cách nào đó, John Fiske đã hoàn toàn biến mất khỏi trí nhớ của mẹ anh, như thể chưa bao giờ anh được sinh ra trên đời. John nhẹ nhàng nắm lấy tay mẹ, cố gắng hết sức kìm nén sự thất vọng đang dâng lên đầy ắp trong mình. - Con khoẻ. Mọi thứ đều tất. Bố cũng khoẻ. Rồi anh nhẹ nhàng nói thêm - Johnny cũng khoẻ, anh ấy hỏi thăm mẹ. Lần nào cũng vậy. Cái nhìn của mẹ anh thật trống rỗng. - Johnny ? Lần nào Fiske cũng thử điều này và câu trả lời luôn là như thế. Tại sao mẹ anh lại lãng quên chính anh chứ không phải em trai anh ? Chắc phải có một nguyên nhân sâu xa nào đó khiến căn bệnh tâm thần ấy đã xóa sạch những ký ức về anh trong bà. Chẳng lẽ sự tồn tại của anh chưa bao giờ sâu nặng và quan trọng đối với bà ? Thế mà anh lại là đứa con luôn luôn hiện diện bên cha mẹ mình. Anh đã giúp đỡ họ khi còn là một đứa trẻ và bây giờ lại nâng đỡ họ với tư cách một người đàn ông. Từ việc giành một phần lớn thu nhập của mình mua cho cha mẹ một ngôi nhà khi cuộc sống của họ còn vô cùng vất vả, tới cả việc bỏ tiền ra lợp ngói gỗ cho ngôi nhà ấy vì bố anh không có tiền thuê người làm cho mình. Thế mà Mike mới là người được yêu thương, là người được đi theo con đường nó lựa chọn, con đường riêng ích kỷ của nó, John thầm nghĩ... Mỉke luôn được coi là đứa con cưng, là người sẽ mang niềm tự hào về cho gia đình. John biết là bố mẹ anh thực ra không bao giờ có cách nhìn cực đoan như thế về các con trai của họ, nhưng cơn giận dữ trong lòng anh đã bóp méo sự thực, thổi phồng lên những điều tồi tệ và dìm chết những điều tốt đẹp. - Mikey ? Mẹ anh lo lắng - Các con của con thế nào ? - Bọn chúng khoẻ cả, lớn vùn vụt như những hạt mầm tốt. Trông chúng giống mẹ lắm. Phải đóng giả làm em trai mình, đóng giả người đã làm bố của những đứa trẻ khiến John muốn sụp xuống sàn nhà gào thét. Gladys Fiske mỉm cười và đưa tay lên vuốt tóc. John tranh thủ cơ hội này. - Trông mẹ khá lắm. Bố nói rằng bây giờ mẹ đẹp hơn bao giờ hết. Gladys Fiske là một người phụ nữ hấp dẫn và vẻ bề ngoài là điều vô cùng quan trọng đối với bà. Nhưng căn bệnh tâm thần đã thúc đẩy sự tiến triển mạnh mẽ của quá trình lão hóa. Fiske biết mẹ anh sẽ thất vọng khủng khiếp nếu nhìn thấy vẻ bề ngoài của mình lúc này. Anh mong bà vốn luôn coi mình như lúc mới hai mươi tuổi, lứa tuổi đẹp nhất trong đời bà. Fiske lấy ra một hộp quà nhỏ vừa mới mua cho mẹ. Mẹ anh cầm lấy với niềm hân hoan của một đứa trẻ và xé tung lớp giấy gói bên ngoài. Bà ngắm nghía chiếc lược một lúc rồi cẩn thận đưa lên chải đầu. - Đây là vật đẹp nhất mẹ từng thấy. Mẹ anh nói như thế với bất cứ thứ gì anh mua cho bà. Những tấm vải, son môi hoặc một cuốn truyện tranh. Vật đẹp nhất bà từng nhìn thấy, Mike. Cứ mỗi lần anh tới đây, em trai anh lại ghi được điểm trong bà. Fiske cố gắng tránh xa khỏi những ý nghĩ này và ở lại chơi với mẹ anh tới một giờ đồng hồ. Anh yêu mẹ vô cùng. Nếu có thể, anh sẵn sàng xé tan căn bệnh đã huỷ hoại bộ não của mẹ anh. Nhưng vì đó là điều không thể nên anh sẽ làm bất cứ điều gì có thể để được ở bên bà. Kể cả khi dưới tên của người khác. Fiske rời khỏi Nhà dưỡng lão và lái xe tới nhà cha mình. Khi xe tới con phố quen thuộc, Fiske nhìn quanh cái không gian rệu rã, nơi đã từng là một phần trong mười tám năm đầu đời của anh: những ngôi nhà đổ nát với sơn tường tróc vỡ từng mảng, cổng vào nhà vẹo vọ, hàng rào mắt cáo sệ xuống theo năm tháng và những mảnh sân trước nhà bẩn thỉu nằm dọc theo hai bên dãy phố chật hẹp, mặt đường rạn nứt có hai hàng xe Ford hoặc Chevys cổ lỗ sĩ và méo mó đậu hai bên lề. Năm mươi năm về trước, những con người ở đây là cộng đồng điển hình của một tập thể gia đình sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, những con người mang trong mình một niềm tin vững chắc rằng cuộc sống chỉ có thể ngày càng tốt đẹp hơn. Với những người vẫn còn chưa thoát ra khỏi niềm hy vọng này, những thay đổi duy nhất họ có thể thấy trong cuộc đời tan nát của mình chỉ là một chiếc thang gỗ gắn thêm vào bậc cửa trước nhà. Fiske rẽ vào con đường cho ô tô chạy trong ngôi nhà được giữ gìn cẩn thận của cha anh. Cuộc sống của những người hàng xóm láng giềng càng xuống dốc bao nhiêu thì cha anh lại càng nỗ lực làm việc để điều đó khỏi xảy đến với ngôi nhà của mình bấy nhiêu. Có thể là để níu kéo quá khứ thêm một thời gian nữa. Có thể cha anh hy vọng rằng mẹ anh sẽ quay về nhà và trở lại là một cô gái hai mươi tuổi với tâm trí tươi sáng và khoẻ mạnh. Chiếc Buick của ông đang đậu trên đường dành cho ôtô chạy, thân xe hơi bị rỉ nhưng máy vẫn còn mới toanh nhờ tài nghệ của một thợ cơ khí siêu hạng của ông chủ. Cha anh đang ở trong gara, mặc áo phông trắng và quần xanh công nhân. Ông đang ngồi xổm trước một số dụng cụ làm việc. Cha anh đã về hưu và trông có vẻ rất hạnh phúc với những ngón tay dính đầy dầu mỡ, xung quanh và trước mặt ông rải rác đủ mọi bộ phận thiết yếu của một loại máy móc phức tạp nào đó. - Có bia trong tủ lạnh đấy. Ed nói mà không ngẩng đầu lên. Fiske mở cánh cửa tủ lạnh cũ cha anh đặt trong gara và lấy ra một lon Miller. Anh ngồi xuống một chiếc ghế nhà bếp cũ kỹ đã lung lay và xem ông làm việc, giống như anh vẫn từng làm khi còn là một cậu bé. Anh đã từng cảm thấy như bị thôi miên bởi đôi tay lành nghề của cha, bởi cái cách lắp ráp các bộ phận một cách chính xác và đầy tự tin của ông. - Con vừa đến thăm mẹ. Ed đẩy điếu thuốc lá ông đang hút dở sang khoé miệng bên phải. Cánh tay vạm vỡ của ông gập lại, sau đó lại duỗi ra khi ông lắp bánh cóc vào một bộ phận. - Ngày mai bố đi. Mặc dù hôm nay bố đã chuẩn bị xong cả, quần áo này, rồi cả hoa nữa. Và Ida sẽ chuẩn bị giúp bố một bữa ăn tối đóng hộp để mang đi. Bố sẽ làm cho chuyến thăm ngày mai thực sự đặc biệt. Chỉ có bố với mẹ con. Ida German là người hàng xóm sát vách nhà anh. Bà đã sống ở đây lâu hơn tất cả những người khác. Bà là người bạn tốt của cha anh, đặc biệt kể từ khi mẹ anh ra đi. - Mẹ sẽ thích điều đó. Fiske nhấp một ngụm bia và mỉm cười khi hình dung cảnh cha mẹ anh ở bên nhau. Ed kết thúc công việc ông đang làm và dành một phút cho việc rửa tay bằng cách lấy xăng và một miếng giẻ để chùi sạch những vệt dầu mỡ dính trên tay. Ông lấy một lon bia rồi ngồi xuống một hòm dụng cụ cũ rích đối diện với Fiske. - Hôm qua bố nói chuyện với Mike. Ông nói. - Vậy ư ? Fiske hỏi mà chẳng buồn quan tâm. - Công việc của nó ở Tòa án tối cao rất tốt. Con biết không, họ đề nghị nó làm thêm một năm nữa. Chắc chắn nó phải rất khá. - Con tin chắc là nó là nhân viên tốt nhất của họ. Fiske đứng dậy và đi ra khỏi cửa. Anh hít một hơi thật sâu để cho hương thơm trong lành của cả bãi cỏ mới cắt tràn đầy lồng ngực. Ngày xưa cứ mỗi khi thứ Bảy tới, anh và em trai mình vẫn thường ra cắt cỏ, làm đủ mọi thứ việc vặt rồi sau đó, cả nhà cùng nhau nhảy lên chiếc xe ngựa kéo khổng lồ làm chuyến đi dã ngoại cuối tuần, tới cửa hàng tạp hóa A&p. Nếu hoàn thành công việc tốt, làm việc vặt một cách hoàn hảo, không cắt cỏ quá ngắn, hai anh em sẽ được uống nước xôđa từ chiếc máy bán hàng tự động đặt gần giá đựng báo ngay bên ngoài cửa hàng. Đối với anh em Fiske thì đó là thứ nước vàng. Fiske và em trai anh thường mất cả tuần nghĩ cách để được uống thứ nước đó. Họ đã lớn lên thân thiết làm sao. Mặc dù John hơn em trai mình ba tuổi nhưng họ thường cùng nhau mang báo vào trong nhà, cùng chơi thể thao. Mike có năng khiếu về mặt thể chất nên đã được chơi trong đội thể thao đại diện cho trường đại học khi mới chỉ là sinh viên năm thứ nhất. Họ là anh em nhà Fiske. Ai cũng biết họ, ngưỡng mộ họ. Đó là những tháng năm hạnh phúc. Những tháng nám ấy đã trôi qua. Anh quay lại và nhìn bố. Ed lắc đầu. - Con có biết là Mike đã từ chối giảng dạy ở một trong những trường đại học luật, trường Harvard hoặc gì đó, để ở lại Tòa án tối cao không ? Nó nhận được cả đống lời đề nghị từ các công ty luật lớn nữa. Nó đã cho bố xem cả. Trời ơi, chúng nhắc đến tiền lương nhiều tới mức bố không thể tin vào mắt mình. Giọng ông không giấu nổi niềm tự hào. - Càng ngày Michael càng có thêm nhiều quyền lực. Fiske khô khan đáp. Đột nhiên Ed vỗ đùi. - Có chuyện gì vậy Johnny ? Vì cái gì mà lúc nào con cũng chống đối lại em con thế ? - Con chẳng có gì phải chống lại nó cả. - Thế thì tại sao hai con lại không hòa thuận với nhau như ngày xưa nữa ? Bố đã nói chuyện với Mike. Chuyện này không bắt nguồn từ nó. - Bố thử nhìn xem. Michael có cuộc sống riêng của nó, con có cuộc sống riêng của con. Cũng như bố thôi, con có thấy bố giận dữ gì với chú Ben đâu. - Em trai bố là một kẻ lười biếng, vô trách nhỉệm và nghiện rượu. Em trai con không hề mắc phải những thói xấu đó. - Lười biếng và nghiện ngập không phải là những thói xấu duy nhất trên đời. - Thật tồi tệ nhưng bố không thể hiểu được con, con trai ạ. - Thì bố lại gia nhập đám đông không hiểu con thôi. Ed ném mẩu thuốc lá còn lại xuống sàn nhà xi măng, đứng lên và dựa lưng vào một chiếc cột chống trần trong gara. - Ghen tỵ với em mình là không tốt. Lẽ ra con phải thấy vui vì những gì em con làm được mới phải. - Vậy bố cho là con ghen tỵ ? - Không phải sao ? Fiske nhấp thêm một ngụm bia và nhìn ra phía hàng rào thép gai cao ngang bụng bao lấy mảnh sân sau nhà. Vào lúc này, nó đang được quét ngoài bởi một lớp sơn màu xanh đậm. Nhiều năm qua nó đã được khoác lên mình đủ mọi màu sơn khác nhau. Mùa hè nào John và Mike cũng sơn hàng rào bằng phần sơn còn thừa lại, bất kể là màu gì, sau khi công ty vận tải nơi Ed làm việc sơn sửa lại văn phòng của họ hàng năm. John đưa mắt nhìn cây táo mọc ở góc sân. Anh ra hiệu bằng lon bia. - Cây táo của bố có sâu bướm ma. Bố đưa cho con cái mồi lửa. - Để bố làm sau. - Nào bố, đứng lên ghế bố còn ngại nữa là. Fiske cởi áo khoác ngoài, bê chiếc thang từ trong gara ra ngoài và cầm lấy mồi lửa cha anh vừa đưa. Anh châm lửa cho cháy, dựng chiếc thang vào phía dưới tổ sâu rồi trèo lên. Mất vài phút trôi qua rồi chiếc tổ sâu dần dần tan ra dưới sức nóng của lửa. Fiske trèo xuống và dập tắt mồi lửa trong khi bố anh dọn dẹp phần còn lại của tổ sâu bướm vừa rơi lả tả xuống đất. - Bố vừa mới nhắc đến vấn để trục trặc giữa con với Mike. - Chuyện gì ? - Trông Ed có vẻ bối rối. - Lần cuối cùng Mike đến giúp đỡ bố mẹ, hay chỉ đơn giản là đến thăm bố hoặc mẹ thôi, là bao giờ ? Ed gãi bộ ria mép lởm chởm và đưa tay vào sờ soạng trong túi quần tìm thuốc lá. - Nó bận mà. Lúc nào có thể nó sẽ đến. - Chắc là thế. - Nó có những việc quan trọng phải làm để giúp chính phủ. Nó làm việc ở đó phụ tá cho tất cả thẩm phán. Còn biết đó là toà án cao cấp nhất ở đất nước này mà. - Được thôi, nhưng con cũng bận đâu kém gì. - Bố biết điều đó, con trai ạ. Nhưng... - Con hiểu, nhưng mà khác chứ gì. Fiske vắt chiếc áo khoác qua vai, chùi dòng mồ hôi đang chảy tới mắt. Bọn muỗi sắp xuất hiện đến nơi rồi. Điều đó khiến anh nghĩ tới nước. Bố anh có đặt một toa xe moóc làm căn nhà lưu động ở bãi cắm trại gần sông Mattaponi - Dạo này bố có tới chỗ toa xe moóc nữa không ? Ed lắc đầu và cảm thấy nhẹ cả người khi chủ đề câu chuyện đã thay đổi. - Không, nhưng chắc sẽ đi trong một ngày gần đây. Bố sẽ làm một chuyến đi thuyền trước khi trời kịp trở lạnh. Fiske lau một vạt mồ hôi khác trên trán. - Lúc nào đi bố nhớ báo cho con đi cùng. Ed nhìn con một cách kỹ lưỡng. - Dạo này con thế nào ? - Công việc ư ? Thua hai vụ, thắng hai vụ trong tuần này. Trong hoàn cảnh như hiện nay thì con coi đó là kết quả chấp nhận được trong trận chiến. - Con phải cẩn thận, con trai ạ. Bố biết con tin tưởng vào những gì mình đang làm, nhưng con đang làm luật sư cho một lũ hung dữ chết tiệt. Có thể một số trong bọn chúng nhận ra con đã từng làm trong ngành cảnh sát. Nhiều khi ban đêm, bố vẫn nằm thao thức nghĩ ngợi về chuyện đó. Fiske mỉm cười. Anh yêu quý cha và theo một cách tế nhị nào đó thì tình cảm dành cho ông còn nhiều hơn tình yêu đối với mẹ anh. Anh cảm thấy yên ổn khi biết rằng đôi khi cha anh vẫn mất ngủ vì nghĩ tới anh. Anh vỗ về lưng ông. - Bố đừng lo, con không bao giờ mất cảnh giác đâu. - Còn những chuyện khác thì thế nào ? Bất giác Fiske đưa tay lên ngực. - Tốt cả. Chắc con sẽ sống tới trăm tuổi. - Bố mong là như thế, con trai ạ. Ông nói với một niềm tin vững chắc khi đưa mắt dõi theo bóng con trai đang ra về. Ed lắc đầu khi nghĩ rằng các con ông ngày càng tách xa nhau trong khi ông chẳng làm được gì để thay đổi điều đó. "Khỉ thật", đó là tất cả những gì ông có thể nói trước khi ngồi xuống hòm dụng cụ uống nốt chỗ bia còn lại. Chương mười Khi Michael Fiske vừa hát lẩm nhẩm vừa đi dọc theo hành lang rộng với trần nhà cao tới phòng thư tín của thư ký tòa án thì lúc đó vẫn còn là sáng sớm. Người nhân viên ngẩng lên nhìn khi anh bước vào phòng. - Anh chọn đúng lúc quá, Michael. Vừa có một đợt thư mới tới. - Chắc có thư từ các nhà tù nhỉ ? - Michael hỏi, hàm ý nhắc tới số lượng ngày càng tăng cao của những kiến nghị, thỉnh cầu từ đám tù nhân. Phần lớn chúng được viết theo ngôn từ của những kẻ nghèo khó, bần cùng. Tòa án đã phải dành một tủ đựng riêng cho những đơn từ này và nó lớn tới mức một nhân viên đã được điều xuống đây chỉ để quản lý chúng. Lại có cả một bộ phận nhân viên lo việc tìm hiểu xem đó chỉ là những lời đùa cợt hay là những vụ xứng đáng nhận được sự quan tâm của Tòa án. Michael biết rằng nhiều quyết định quan trọng của Tòa án tối cao là kết quả có được từ lao động của bộ phận nhân viên này. Do đó, cái nghi lễ sáng nào anh cũng thực hiện này là nhằm đi tìm một lời kháng cáo có giá trị bằng vàng trong đống hồ sơ giấy tờ ấy. - Anh đoán đúng, tôi đang cố gắng giải mã những điều viết tay nguệch ngoạc này. Người nhân viên đáp lại. Michael lôi một hộp thư tới góc phòng. Trong hộp là một dãy thư từ được xếp thẳng hàng. Đó là những nỗi thống khổ được viết bằng lời, là một đám rước của những lời khiếu kiện về sự bất công của luật pháp với đủ mọi nội dung và đủ mọi hình thức. Không được phép coi thường hoặc xem nhẹ bất cứ lá thư nào. Rất nhiều trong số chúng là do những người đang phải giam mình trong khu xà lim tử tù viết ra. Tòa án tối cao là hy vọng cuối cùng trước khi sự huỷ diệt của luật pháp được thi hành đối với họ. Sau suốt hai giờ đồng hồ tìm kiếm trong chiếc hộp, Michael đang chuẩn bị kết thúc công việc này. Anh thành thạo đọc lướt qua những trang viết dài lê thê, tập trung vào những điểm quan trọng, so sánh chúng với những vụ án chưa được xét xử và cả những tiền lệ đã từng diễn ra trong vòng năm mươi năm qua được lưu trữ trong bộ nhớ như một cuốn bách khoa toàn thư trong óc anh, sau đó xếp lại vào hộp đựng hồ sơ và tiếp tục nghiên cứu những lá thư khác. Tuy nhiên, sau hai giờ nghiên cứu, anh vẫn chưa thấy có điều gì đáng chú ý. Michael vừa nghĩ tới việc kết thúc và lên văn phòng thì tay anh chạm phải một chiếc phong bì giản dị, giấy làm từ sợi cây chuối. Địa chỉ gửi đến được đánh máy và trên phong bì không ghi địa chỉ người gửi trong trường hợp thư phải gửi trở lại. Thật lạ, Michael nghĩ bụng. Thông thường, những người tìm kiếm sự bào chữa cho mình từ phía Tòa án mong muốn thẩm phán ở đây biết có thể tìm họ ở nơi nào trong những trường hợp hiếm hoi khi lời khẩn cầu của họ được phúc đáp. Tuy vậy, góc trái của giấy biên nhận thư gửi bảo đảm của bưu điện đã được gắn cùng chiếc phong bì. Michael mở phong bì và lấy ra hai tờ giấy. Một trong những nhiệm vụ của phòng thư tín này là phải đảm bảo rằng, mọi đơn từ được đệ trình đều tuân thủ những quy định nghiêm ngặt của Tòa án tối cao. Đối với những bên tự cho mình thuộc vào tình trạng nghèo khổ, thì nếu đơn từ của họ được chấp nhận, Tòa án sẽ bớt đi một phần nhất định chi phí cho việc xét xử và thậm chí là chi trả một phần chi phí bào chữa, kể cả khi luật sư đồng ý không lấy tiền công. Có hai mẫu đơn cần phải hoàn thành để được thừa nhận tình trạng nghèo khổ, đó là bản đề nghị được phép đệ trình đơn từ với tư cách một người nghèo khổ bần cùng, và một bản khai có tuyên thệ và chữ ký của tù nhân. Cả hai mẫu đơn này đều không thấy có trong chiếc phong bì, Michael nhanh chóng nhận xét. Lá đơn này sẽ bị gửi trả lại. Nhưng khi Michael bắt đầu đọc nội dung trong lá thư, tất cả mọi ý nghĩ về sự đệ trình không đủ thủ tục hoàn toàn biến mất. Khi vừa kết thúc, anh cảm thấy mồ hôi từ hai lòng bàn tay toát ra thấm cả vào lớp giấy. Thoạt đầu, Michael muốn cho mấy tờ giấy trở lại phong bì và quên đi tất cả những gì vừa đọc. Nhưng như thể anh vừa tận mắt chứng kiến một tội ác mới xảy ra, anh lại nghĩ có lẽ mình phải làm một điều gì đó. - Michael, văn phòng thẩm phán Murphy vừa gọi xuống tìm anh đấy. Người nhân viên nói. Khi không thấy Michael trả lời, anh ta lại nhắc lại - Michael ! Thẩm phán Murphy đang tìm anh. Michael gật đầu, cuối cùng cũng cố nghĩ được tới một việc khác hơn là chăm chăm nhìn vào những giấy tờ đang nằm trong tay anh. Khi người nhân viên quay trở lại làm việc, Michael bỏ những giấy tờ ấy vào trong phong bì. Anh lưỡng lự một chút. Toàn bộ nghề nghiệp của anh, cuộc sống của anh sẽ được quyết định bởi giây phút kế tiếp. Cuối cùng thì, như thể đôi tay hành động độc lập với suy nghĩ, anh nhét chiếc phong bì vào cặp xách tay của mình. Với việc thực hiện hành động này trước khi lá đơn kháng án được xử lý theo trình tự quy định của Tòa án, anh đã vừa thừa nhận mình phạm phải trọng tội trộm cắp tài sản liên bang. Suýt nữa Michael va vào Sara Evans khi anh lao ra khỏi phòng thư tín. Cô mỉm cười nhưng lập tức thay đổi khi nhìn thấy nét mặt của Michael. - Michael, có chuyện gì vậy ? - Không có gì, anh khoẻ. Cô nắm lấy tay anh. - Anh không bình thường. Anh đang run, còn mặt thì trắng bệch. - Có lẽ anh hơi mệt. - Thế thì anh nên về nhà nghỉ. - Anh sẽ đến chỗ y tế lấy thuốc. Rồi sẽ ổn thôi mà. - Anh có chắc không ? - Sara, anh phải đỉ. Michael lao đi, để Sara ở lại nhìn theo một cách lo lắng. Phần ngày còn lại đối với Michael trôi đi thật nặng nề, lạnh lẽo và anh liên tục nhận thấy mình đang chăm chăm nhìn vào chiếc cặp xách tay và miên man nghĩ ngợi về nội dung lá thư trong đó. Vào lúc tối khuya, khi công việc ở Tòa án đã kết thúc, Michael đạp xe vùn vụt về căn hộ của anh ở gần đồi Capitol. Anh khóa cửa ra vào, lôi chiếc phong bì ra khỏi cặp xách rồi bê tất cả ra bàn ăn sau khi lấy thêm tập giấy màu vàng từ trong cặp. Một giờ sau, Michael ngồi thẳng người trở lại và xem xét lại vô số những lời nhận xét anh vừa viết. Anh mở máy tính xách tay và đánh máy lại toàn bộ, vừa đánh vừa sửa chữa, thay đổi, suy đi tính lại theo thói quen đã tồn tại từ lâu trong anh. Anh vừa quyết định sẽ bắt tay vào vụ này cũng như từng làm với mọi vụ khác. Anh sẽ kiểm tra lại các thông tin trong đơn kháng cáo thật cẩn thận. Điều quan trọng hơn cả là anh sẽ phải xác nhận xem có đúng những cái tên được nhắc tới trong lá đơn này đích xác là những người anh đang nghĩ đến hay không. Nếu đúng, anh sẽ đưa lá đơn này trở lại phòng thư tín. Còn nếu không và lá thư chỉ là việc làm mù quáng của một tù nhân khi đầu óc bất bình thường, anh sẽ hủy nó đi. Michael nhìn ra ngoài cửa sổ, ngang qua đường tới chỗ những dãy nhà lụp xụp trước đây giờ đã được thay thế bởi hàng loạt những căn hộ tập thể như căn hộ của anh. Đây là khu vực sinh sống của nhân viên chính phủ. Ánh đèn từ các căn phòng tạo nên những đốm sáng như những hình mạng tổ ong. Một số vẫn đang làm việc, số khác đã đi ngủ, bị hành hạ bởi những cơn ác mộng về hàng loạt những công việc mang tầm cỡ quốc gia vẫn chưa được hoàn thành, ít nhất cho tới khi họ thức dậy vào năm giờ sáng hôm sau. Cái bóng tối mà Michael đang nhìn vào chỉ bị gián đoạn bởi ánh đèn đường ở một góc nhỏ. Gió thổi mạnh hơn và nhiệt độ giảm xuống, báo hiệu một cơn bão sắp tới. Một luồng khí lạnh đột ngột ùa vào qua khung cửa sổ. Michael quay vào lấy một chiếc áo sơmi ra khỏi tủ, khoác vào người và lại quay ra ngắm nhìn đường phố. Anh chưa bao giờ nghe tới cái tên Rufus Harms. Nếu dựa vào ngày tháng đề trong lá thư, người đàn ông này đã bị bỏ tù từ khi anh mới năm tuổi. Có quá nhiều lỗi chính tả trong lá thư và cấu trúc từ ngữ cũng như câu văn thật vụng về khiến anh liên tưởng tới văn phong của một cậu học trò. Tờ giấy đánh máy đã giải thích một số đặc điểm của vụ án và rõ ràng được viết ra bởi một người có trình độ cao hơn nhiều. Có lẽ là tác phẩm của một luật sư, Michael thầm nghĩ. Có cái gì đó như là ngôn ngữ của luật pháp trong đó, mặc dù dường như tác giả của nó có ý định che giấu cả nghề nghiệp cũng như lý lịch cá nhân của mình. Theo như lá thư đánh máy cho biết thì bản thông báo của Quân đội Hoa Kỳ đã yêu cầu Rufus Harms cung cấp cho họ một số thông tin nhất định nào đó. Tuy nhiên, Rufus Harms phủ định việc anh ta đã từng là thành viên của chương trình mà hồ sơ của Quân đội đã ghi rằng anh tham dự vào đó. Harms khẳng định rằng điều đó nhằm che đậy một tội ác và dẫn tới kết quả là công lý đã thất bại một cách đáng sợ, một sự thất bại của luật pháp gây nên nỗi đau phá huỷ một phần tư thế kỷ của cuộc đời anh ta. Đột nhiên thấy nóng, Michael áp mặt vào lớp kính cửa sổ mát lạnh rồi hít một hơi thở sâu. Việc anh đang làm đây chẳng khác gì can thiệp một cách trắng trợn vào quyền được xét xử tại tòa án. Michael luôn tin tưởng rằng công dân có quyền được tiếp cận với luật pháp, bất kể người đó giàu hay nghèo. Cái quyền ấy là không thể lay chuyển, đâu phải là rác để có thể huỷ bỏ hoặc tuyên bố vô giá trị. Anh tự an ủi mình, một chút với ý nghĩ rằng việc kháng cáo này của Rufus Harm rất có thể sẽ thất bại vì dù sao nó cũng chưa đủ chặt chẽ về mặt thủ tục luật pháp. Nhưng vụ này khác. Cho dù có thất bại, nó vẫn sẽ gây những tổn thất khủng khiếp về thanh danh cho một vài nhân vật vô cùng quan trọng. Nếu đó là sự thật thì sao ? Michael nhắm nghiền mắt lại. Chúa ơi, xin Người hãy đừng để điều đó xảy ra, anh cầu nguyện. Michael quay đầu lại nhìn chiếc điện thoại. Tự nhiên anh nghĩ tới chuyện gọi điện để nghe lời khuyên của anh trai. John có những hiểu biết riêng mà Michael không có. Có lẽ anh ấy sẽ biết cách xử lý tình huống này tốt hơn anh. Michael lưỡng lự thêm một chút vì cảm thấy miễn cưỡng khi phải thừa nhận rằng anh cần sự giúp đỡ, nhất là lại từ cái người phiền toái và ghẻ lạnh ấy. Nhưng cũng có thể nhờ việc này, anh em của anh lại quay lại thân thiết với nhau. Lỗi không hoàn toàn nằm ở một phía nào. Michael đủ trưởng thành để hiểu và công nhận điều đó. Anh nhấc ống nghe và quay số. Đầu dây kia là máy trả lời tự động và điều này khiến anh phần nào cảm thấy hài lòng. Anh để lại lời nhắn rằng anh cần sự giúp đỡ của John nhưng không nói gì thêm. Michael đặt máy xuống và lại quay ra chỗ cửa sổ. Có lẽ John không có nhà như vậy lại tốt hơn. Anh trai anh có xu hướng nhìn nhận sự việc một cách cứng nhắc theo đúng nghĩa đen của chúng. Điều đó cũng thể hiện cách sống của anh ấy. Khi trời đã bắt đầu về sáng, Michael ngủ thiếp đi khi càng ngày càng cảm thấy tự tin rằng anh có thể giải quyết được cơn ác mộng này, cho dù nó có biến đổi như thế nào đi nữa. Chương mười một Ba ngày sau khi Michael Fiske lấy hồ sơ ra khỏi phòng thư tín của Tòa án, Rufus Harms gọi một cú điện thoại khác tới văn phòng của Sam Rider nhưng được cho biết rằng viên luật sư đi vắng. Trên đường bị áp giải trở lại phòng giam, Rufus đối mặt với một người đàn ông ngoài hành lang. - Dạo này gọi điện thoại nhiều nhỉ, Harms. Chuyện gì, có vụ làm ăn qua đường bưu điện hay cái gì hả ? - Đám lính cười ầm lên hưởng ứng. Vic Tremaine nhỏ thó với chiều cao dưới sáu fít, tóc quăn màu vàng sáng, nét mặt dãi dầu sương gió và giống như một tháp pháo. Là phó chỉ huy trưởng của nhà tù Fort Jackson, ông ta coi việc đè nén và gây khổ sở cho Harms càng nhiều càng tốt như nhiệm vụ của riêng cá nhân mình. Harms không nói gì và kiên nhẫn đứng im trong khi Tremaine nhìn anh từ đầu tới chân. - Luật sư của mày muốn gì ? Hắn định tiếp tục bào chữa cho việc mày làm thịt con bé đó hả ? Có đúng vậy không ? Tremaine tiến sát vào người tù - Mày vẫn mê thấy nó lúc ngủ. Tao mong là như thế. Mày biết là tao nghe thấy mày gào thét trong phòng giam. Giọng Tremaine công khai tỏ ý châm chọc, cơ tay và cơ vai của hắn căng ra theo từng từ, mạch máu ở cổ cũng căng theo, như thể hắn muốn Harms phát điên lên, làm một điều gì đó chống lại và nếu được thế, đây sẽ là thời điểm kết thúc thời gian nằm tù của Harms - Kêu khóc như một đứa con nít chết tiệt. Tao dám cá là bố mẹ con bé cũng gào khóc như mày. Tao cá là họ muốn xiết chặt ngón tay mình quanh cổ họng mày. Giống như mày đã làm với con họ. Mày đã bao giờ nghĩ tới điều này chưa ? Harms không nao núng. Môi anh vẫn mím chặt, mắt nhìn như xuyên qua Tremaine. Harms đã từng trải qua những ngày tháng bị biệt giam, cách ly, bị mắng chửi và bị sỉ nhục cả về mặt tinh thần lẫn thể xác. Anh đã chịu đựng được mọi sự tàn ác, căm hờn và giận dữ nhất con người có thể trút lên nhau. Bất chấp nội dung và giọng điệu xấu xa, những lời nói của Tremaine sẽ không thể phá vỡ bức tường phòng vệ trong anh, điều đã giúp anh sống sót cho tới ngày hôm nay. Cảm nhận được điều này, Tremaine lùi lại một bước. - Đưa hắn khuất khỏi mắt tôi. Khi đám lính tiếp tục công việc, Tremaine gọi với theo - Quay về phòng mà đọc Kinh thánh của mày đi, Harms. Làm như thế sẽ giúp mày tới gần Thượng đế hơn đấy. *** John Fiske vội vã đuổi theo người phụ nữ đang đi dọc theo hành lang trong tòa nhà của tòa án. - Này, Janet, cho tôi một phút được không ? Janet Ryan là một công tố viên dày dạn kinh nghiệm và hiện đang cố gắng hết sức nhằm tống một trong những khách hàng của Fiske vào tù một thời gian thật dài. Cô là một phụ nữ rất hấp dẫn và đã li dị. Cô mỉm cười khi nhìn thấy anh. - Với anh thì có hai phút. - về vụ Rodney... - Khoan đã, để tôi nhớ lại xem sao. Có quá nhiều Rodney. - Vụ trộm bẻ khóa ở cửa hàng điện tử, phía bắc. - Có dùng súng, chống lại cảnh sát, ưu tiên số một. Tôi nhớ rồi. - Đúng vậy. Dù sao thì cả hai chúng ta đều không muốn đem thằng khờ này ra xét xử. - Nghe đây, John: lý lẽ biện hộ của anh bốc mùi rồi, trong khi lý lẽ của tôi thì thắng áp đảo. Fish lắc đầu. - Có thể cô sẽ gặp phải cả tá những vấn đề với một số trong những bằng chứng của cô. - Có thể một từ nực cười, anh có nghĩ vậy không ? - Lời thú tội đó có lỗ hổng. - Lời thú tội nào chẳng có lỗ hổng. Sự thật là khách hàng của anh là một tên trộm lành nghề. Rồi tôi sẽ làm cho hội thẩm đoàn tống hắn vào tù thật lâu. - Cô đã quyết thế thì tại sao lại phải lãng phí tiền của người nộp thuế làm gì ? - Anh muốn thương lượng điều gì ? - Thừa nhận tội bẻ khóa, tích trữ đồ ăn trộm. Nhưng quên chuyện khẩu súng đáng ghét ấy đi. Chúng ta sẽ kết thúc với năm năm tù, tính cả thời gian tạm giam. Janet chực bỏ đi. - Gặp lại anh ở phiên tòa. - Thôi được, thôi được, tám năm vậy. Nhưng tôi phải nói chuyện với cậu ta đã. Janet quay lại và đếm ngón tay. - Cậu ta đã thừa nhận tất cả, kể cả khẩu súng đáng ghét đó thì cậu ta sẽ nhận án mười năm, không kể thời gian đã ngồi tù. Tự cậu ta làm đấy nhé. Có thể sau đó sẽ là năm năm thử thách nữa. Nếu sau đó lại giở trò, cậu ta sẽ phải quay lại ngồi tù thêm mười năm nữa mà không cần xem xét gì. Nếu anh muốn đưa ra xét xử thì hai người cứ chờ đấy mà lĩnh gọn cái án hai mươi năm. Tôi muốn câu trả lời ngay bây giờ. - Khỉ thật, Janet. Lòng trắc ẩn của cô đâu rồi ? - Tôi dành cái đó cho ai xứng đáng. Có lẽ anh đoán được, danh sách những người đó ngắn lắm. Quý anh lắm tôi mới đồng ý thương lượng thế này đấy. Nào, có hay không ? Fiske đập ngón tay vào cặp xách tay. - Nhanh lên, một, hai... - Ryan nói. - Thôi được, thôi được, xong. - Vậy đi làm việc của anh đi, John. Tiện thể tôi muốn hỏi, sao không bao giờ anh gọi điện cho tôi thế ? Ngoài giờ làm việc ấy ? - Cô có nghĩ là làm thế sẽ gây ra một cuộc xung đột ngấm ngầm ở đâu đó không ? - Không đâu. Tôi luôn đối xử công bằng với bạn bè mà. Janet vừa ngâm nga một đoạn nhạc vừa bỏ đi trong khi Fiske đứng lại, dựa lưng vào tường và lắc đầu. Một giờ sau, Fiske quay về văn phòng và quăng cặp xách xuống. Anh nhấc ống nghe điện thoại và kiểm tra các tin nhắn ở nhà, vừa nghe vừa viết nội dung cần thiết xuống giấy trước khi tin nhắn tiếp theo xuất hiện. Khi nghe thấy giọng em trai mình, Fiske thậm chí chẳng buồn dừng bút. Một ngón tay được đưa ra và tin nhắn đã bị xóa. Hiếm nhưng không phải Mike không bao giờ gọi cho anh. Fiske chưa bao giờ gọi lại. Anh cho rằng em trai mình làm như thế chỉ để tỏ ra chống đối lại anh. Ngay khi ý nghĩ này vừa ập đến, Fiske biết nó không đúng sự thật. Anh đứng dậy đi ra giá sách chất đầy những cuốn sách về luật pháp và sổ ghi chép về các phiên tòa. Anh lấy ra một khung ảnh. Đó là một tấm ảnh đã cũ trong đó anh mặc đồng phục cảnh sát, còn Mike đứng bên cạnh. Cậu em vừa mới bước vào tuổi trưởng thành với vẻ mặt hơi tự hào trong khi người anh cao to lại có nét mặt nghiêm khắc vì đã chứng kiến quá nhiều những ung nhọt xấu xa của cuộc đời. Thực tế, Fiske đã và đang trực tiếp tiếp xúc với phần đen tối nhất của xã hội loài người, chỉ có điều không còn mặc đồng phục nữa. Thay vào đó, chỉ cần một chiếc cặp, một bộ comple rẻ tiền và một cái miệng nhanh nhẹn. Lời nói thế chỗ cho đạn dược. Cho tới tận cuối đời sẽ mãi là như thế. Fiske trả tấm ảnh lại chỗ cũ và ngồi xuống. Nhưng anh vẫn liếc nhìn nó và đột nhiên không thể nào tập trung vào việc được nữa. *** Vài ngày sau, Sara Evans gõ rồi mở cánh cửa vào văn phòng của Michael Fiske. Không có ai. Michael đã mượn cô một cuốn sách và cô muốn lấy lại. Sara nhìn quanh xem cuốn sách có nằm đâu đó không nhưng không thấy. Sau đó, cô nhận ra chiếc cặp xách tay của anh đặt trong hốc bàn làm việc. Sara lấy chiếc cặp ra. Sức nặng của nó cho cô biết rằng có cái gì đó ở bên trong. Chiếc cặp đã khóa nhưng Sara biết mã số vì trước đây đã từng mượn Michael vài lần. Cô mở ra và nhìn thấy hai quyển sách cùng một số giấy tờ bên trong, cả hai đều không phải cuốn cô cần. Định đóng lại nhưng Sara bỗng dừng tay. Cô lấy tập giấy tờ ra và xem xét chiếc phong bì lẫn trong đó. Địa chỉ gửi tới là phòng thư tín của Tòa án. Sara vừa kịp liếc qua lá thư viết tay cùng tờ giấy đánh máy thì bỗng nghe thấy tiếng bước chân. Cô đặt tập giấy trở lại chỗ cũ, đóng cặp và đặt nó trở lại vào hốc bàn. Michael bước vào phòng. - Sara, em làm gì ở đây ? Sara cố làm ra vẻ bình thường. - Em đến lấy lại cuốn sách em cho anh mượn tuần trước. - Anh để ở nhà. - Vậy có thể em đến chỗ anh ăn tối rồi lấy cũng được. - Anh bận lắm. - Chúng ta đều bận, Michael. Nhưng dạo này em thấy anh thu mình lại quá. Anh có chắc là anh vẫn ổn không ? Anh không bị suy sụp vì căng thẳng đấy chứ ? - Cô mỉm cười vì muốn anh biết rằng cô đang đùa. Nhưng trông Michael đúng là đang bị suy sụp. - Anh khoẻ mà, thật đấy. Mai anh sẽ mang sách cho em. - Việc đó không quan trọng. - Mai anh sẽ mang. Anh nói hơi xẵng giọng, mặt đỏ lên nhưng rồi lại bình tĩnh ngay trở lại - Anh có rất nhiều việc. Michael nhìn ra cửa. Sara đi ra, đặt tay lên nắm cửa rồi quay lại nhìn. - Michael, nếu anh có chuyện gì muốn nói, em sẵn sàng lắng nghe. - Được, cám ơn em. Michael đưa Sara ra ngoài rồi khóa cửa lại. Anh đi về phía bàn làm việc và lấy chiếc cặp lên. Anh nhìn vào tập giấy tờ trong đó rồi lại nhìn ra phía cửa ra vào. *** Đêm hôm đó, Sara lái xe vào con đường rải sỏi và dừng lại trước một ngôi nhà nhỏ nằm xa khỏi đại lộ George Washington, một con đường thực sự đẹp với những hàng cây cổ thụ hai bên. Căn nhà là tài sản đầu tiên thuộc sở hữu của cô và cô đã bỏ nhiều công sức làm đẹp cho nó. Một con đường nhỏ theo kiểu bậc thang dẫn xuống dòng sông Potomac, nơi chiếc thuyền buồm của cô neo đậu. Khi có thời giờ rảnh rỗi, Michael và cô đã từng đi thuyền dọc theo con sông tới vùng đất Maryland, sau đó hướng về phía bắc tới cầu Memorial và tới thị trấn George. Với một cuộc sống lúc nào cũng bị vây quanh bởi cả biển công việc ngập đầu thì những giờ phút đó là nơi trú ẩn thanh bình cho cả hai người. Michael đã từ chối lời mời đi thuyền lần gần đây nhất của cô. Thực ra thì anh đã từ chối tất cả mọi lời đề nghị cùng ở bên nhau từ phía cô trong tuần lễ vừa rồi. Thoạt đầu cô tưởng rằng đó là do cô từ chối lời cầu hôn của anh, nhưng sau chuyện vừa rồi xảy ra ở văn phòng của anh, Sara biết rằng nguyên nhân không phải như thế. Cô cố gắng hình dung lại chính xác những gì mình đã nhìn thấy trong cặp. Chắc chắn đó là một lá đơn kháng cáo. Cô đã nhìn thấy trên tờ giấy đánh máy có một cái tên. Đó là Harms. Cô không thể nhớ nổi họ là gì. Với tất cả những điều ít ỏi cô đọc được trước khi Michael xuất hiện, cô có thể khẳng định được rằng Harms đang đệ trình đơn kháng án lên Tòa án tối cao. Cô không biết nội dung thế nào. Trong tờ giấy đánh máy không có chữ ký. Sau đó cô đã đi thẳng từ phòng Michael xuống phòng thư từ của Toà án để kiểm tra xem có vụ việc nào dính tới cái tên Harms được vào sổ không. Nhưng không. Cô không muốn tin vào điều mình đang nghĩ tới, nhưng chẳng lẽ Michael dám lấy đi một lá đơn kháng cáo trước khi nó được xử lý và đưa vào bộ nhớ của Tòa án ? Nếu đúng thế thì anh đã phạm phải một trọng tội. Anh có thể bị sa thải khỏi Tòa án, thậm chí phải ngồi tù. Sara vào trong nhà, thay quần áo bằng một chiếc quần bò cùng áo phông rồi ra ngoài. Trời đã tối sẫm. Nhân viên Tòa án ít khi về tới nhà khi trời còn đang sáng, trừ phi đó là vào buổi trưa và họ tranh thủ về nhà tắm rồi thay đổi quần áo trước khi quay trở lại làm việc. Sara theo các bậc thang xuống tới chỗ bến đậu và ngồi trên chiếc thuyền nhỏ của mình. Chỉ cần Michael tâm sự với cô, cô sẽ giúp đỡ anh. Anh đã rút lui khỏi cô, mặc dù lời nói của anh thì ngược lại. Michael đã không biết cách đón nhận lời từ chối. Nhưng ai biết ? Cô tự hỏi mình. Đột nhiên Sara đứng bật dậy, chạy vào trong nhà và nhấc ống nghe điện thoại lên định quay số của Michael nhưng rồi lại dừng lại. Michael Fiske là một người bướng bỉnh. Nếu cô định đối chất với anh về những gì cô nhìn thấy, điều đó chỉ càng làm sự việc thêm phần tồi tệ. Sara lại đặt máy xuống. Cô phải làm thế nào để anh tự đến với cô. Sara quay ra ngoài và nhìn vào mặt nước. Một chiếc máy bay phản lực cỡ nhỏ bay qua và Sara máy móc đưa tay ra vẫy. Chiếc máy bay đang bay rất thấp và nếu nơi cô đứng có đèn sáng thì người ngồi trong đó có thể trông thấy cái vẫy tay của cô. Khi cánh tay cô hạ xuống, Sara lại càng cảm thấy thất vọng hơn nữa, hơn cả khi cha cô ra đi bỏ lại cô một mình đơn độc trong cuộc sống này. Sau mất mát ấy, Sara đã bắt đầu một cuộc sống mới. Cô đi học ở một trường luật ở miền Tây, là một sinh viên xuất sắc, sau đó làm nhân viên ở Tòa thượng thẩm rồi bây giờ là Tòa án tối cao. Đó cũng là lúc cô bán trang trại của gia đình ở miền bắc Carolina và mua mảnh đất này. Cô không muốn trốn chạy khỏi quá khứ hay trốn chạy khỏi nỗi buồn đeo đẳng mỗi khi cô miên man nghĩ về cha mẹ khi họ không có mặt để chứng kiến tài năng của cô, hoặc đơn giản chỉ để ôm cô vào lòng. Tới ngày cô rời khỏi Tòa án tối cao này, Sara chưa biết cô sẽ muốn làm gì. Trong vũ đài luật pháp, cô có thể bay nhảy tới bất cứ đâu. Nhưng vấn đề là ở chỗ cô không biết liệu có muốn gắn bó cuộc đời mình với nghề luật hay không. Ba năm ở trường luật, một năm ở Toà thượng thẩm và chuẩn bị bắt đầu năm thứ hai ở Tòa án tối cao, cô cảm thấy như mình sắp sửa kiệt sức đến nơi. Sara nghĩ tới cha mình, một người nông dân và cũng là thẩm phán hòa giải ở thị trấn. Ông không hề có phòng xử án của mình. Ông thường thực thi công lý một cách công bằng và hợp lý ngay khi ngồi trên máy kéo ngoài đồng ruộng hoặc khi đang rửa bát đĩa sau bữa tối. Đối với Sara, luật pháp là như thế, hoặc ít nhất phải là như thế. Đó là một công cuộc tìm kiếm sự thật và công lý sẽ được đưa ra sau khi sự thật được phơi bày. Không có những chương trình nghị sự bí mật, không có những trò chơi từ ngữ, mà chỉ là lẽ phải được đưa vào cuộc sống. Sara lắc đầu. Nhưng không bao giờ đơn giản như thế. Cô hiểu điều này rõ hơn phần lớn những người khác. Sara vào trong nhà, đứng lên một chiếc ghế và với tay lấy bao thuốc lá trên nóc tủ bếp. Cô ngồi lên chiếc xích đu ở cổng sau nơi hướng ra bờ sông. Sara ngước nhìn bầu trời và định vị chòm sao Đại Hùng. Cha cô là một nhà thiên văn học nghiệp dư đầy ham mê và ông đã dạy cô về rất nhiều chòm sao. Sara thường dựa vào sao để định hướng khi đi thuyền, đó là một thói quen cô học được từ khi còn ở Stanford. Vào những đêm trời quang đãng, bầu trời đầy sao như thế này, người ta sẽ không thể lạc đường. Nghĩ tới điều này khiến Sara thấy phần nào được an ủi. Cô châm thuốc hút và hy vọng rằng Michael biết anh đang làm gì. Suy nghĩ của cô hướng về John Fiske. Những lời nhận xét của Michael về anh trai mình đã gần đúng, mặc dù cô cố gắng phản đối. Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy John Fiske, có một cái gì đó đã rộn lên trong từng mạch máu ở trái tim, khối óc và tâm hồn Sara mà cô không tài nào giải thích nổi. Sara chưa bao giờ tin rằng những cảm xúc đặc biệt lại có thể xuất hiện một cách mãnh liệt nhanh tới mức như vậy. Điều đó không thể xảy ra. Nhưng cô thấy vô cùng bối rối vì đó cũng chính là những gì đã thực sự xảy ra với cô. Mỗi một cử động của John Fiske, mỗí từ anh nói, mỗi khi anh nhìn ai, hoặc chỉ đơn giản khi anh cười thành tiếng, mỉm cười hoặc nhíu mày, Sara cảm thấy mình có thể nhìn ngắm anh mãi mãi mà không bao giờ mệt mỏi. Cô suýt nữa bật cười vì điều vô lý ấy. Nhưng thật điên rồ khi đó thực sự là những gì cô cảm thấy. Đó không phải là lần duy nhất cô quan sát John Fiske. Không để Michael biết, cô đã nhờ một người bạn làm việc ở Toà án quận Richmond tìm giúp lịch xét xử của John Fiske trong khoảng thời gian hai tuần. Cô đã hết sức ngạc nhiên khi thấy lịch làm việc dày đặc của anh. Một lần vào mùa hè, khi công việc ở Toà án tối cao đã vãn bớt, Sara đã tới xem John Fiske biện hộ trong một phiên tòa. Cô đã choàng khăn, đeo kính, để phòng khi sau này cô được giới thiệu với anh, hoặc phòng khi cô và Michael tới thăm anh. Cô đã lắng nghe anh tranh luận một cách mạnh mẽ để bảo vệ khách hàng. Ngay khi anh vừa kết thúc, thẩm phán đã quyết định bỏ tù chung thân bị cáo. Khách hàng của John bị dẫn đi để bắt đầu thời hạn ngồi tù của mình. Fiske nhấc chiếc cặp xách tay và rời khỏi phòng xử án. Ở bên ngoài, Sara đã theo dõi Fiske an ủi gia đình của người tù. Người vợ gầy gò và ốm yếu, mặt đầy những vết thâm tím và lằn roi. Fiske nói vài lời với người vợ, ôm lấy cô ta vỗ về rồi sau đó quay sang cậu con trai lớn. Đó là cậu bé khoảng mười bốn tuổi và trông đúng là một môn đồ của đường phố. - Bây giờ cháu là người đàn ông trong gia đình, Lucas. Cháu phải chăm sóc gia đình của mình. Fiske nói. Sara quan sát thái độ cậu bé. Cô đau đớn nhận thấy nỗi tức giận trên mặt cậu. Làm sao một đứa trẻ lại có thể có thái độ thù địch tới mức ấy ? Lucas ừ hử nhìn vào tường. Cậu ta đang mặc bộ quần áo công nhân, đầu quàng khăn. Quần áo của cậu ta khiến người ta nghĩ tới một người không có đủ tiền để mua, dù chỉ một viên thịt băm chết tiệt ở cửa hàng McDonald's. Fiske quỳ xuống và nhìn vào cậu con trai thứ hai. Enis mới sáu tuổi, nghịch như quỷ sứ. - Chào Enis, cháu thế nào ? Fiske hỏi, đưa tay ra cho cậu bé. Enis cẩn thận bắt tay Fiske. - Bố cháu đâu ? - Bố cháu phải đi xa một thời gian. - Tại sao ? - Vì ông ấy đã giết... Cái nhìn gay gắt của Fiske khiến Lucas phải ngừng lời. Lucas làu bàu chửi, giằng khỏi tay mẹ và hùng hổ bỏ đi. Fiske quay lại Enis. - Bố cháu làm một việc ông không thấy tự hào nên đã ra đi để thu xếp chuyện đó. - Nhà tù ư ? Enis hỏi. Fiske gật đầu. Khi quan sát cuộc nói chuyện này, Sara nhận ra rằng có thể Fiske cũng thấy ngốc ngếch và không thích đáng khi phải tham dự vào tình huống này, chẳng khác gì một nhân vật trong vở kịch đời thường vào những năm 50 cố gắng giải thích điều gì đó cho một đứa trẻ của thiên niên kỷ thứ hai. Mặc dù mới chỉ sáu tuổi nhưng rất có thể là Enis vẫn biết nhiều về hệ thống xét xử tội phạm. Cậu bé có khi còn biết nhiều về những tệ nạn xã hội hơn khối người lớn khác. - Bao giờ bố cháu ra ? Enis hỏi. Fiske ngước nhìn người vợ rồi sau đó đến đứa trẻ. - Không lâu lắm, Enis. Nhưng có mẹ cháu ở bên cháu mà. - Thế thì được. Enis hơi cảm động trả lời. Cậu bé nắm tay mẹ và cả hai ra đi. Sara nhìn Fiske khi anh dõi mắt theo hai mẹ con. Một lần nữa, cô có thể cảm nhận được điều anh đang nghĩ tới. Họ sẽ vĩnh viễn mất một đứa con. Còn đứa thứ hai sẽ vô tình lãng quên bố nó, giống như một chú chó đi lạc ngoài đường quên chủ. Cuối cùng, Fiske nới lỏng cà vạt và ra khỏi tòa án. Sara không biết chính xác tại sao nhưng cô đã quyết định đi theo anh. Fiske đi chậm nên rất dễ cho Sara theo kịp anh mà không để mất dấu vết. Quán rượu Fiske vào rất nhỏ, cửa sổ màu tối. Sara lưỡng lự một chút rồi cũng đẩy cửa bước vào. Fiske đang ngồi ở quầy. Anh đã kịp gọi đồ uống vì khi Sara vào, cô thấy người phục vụ ở quầy đang đẩy một chai bia về phía anh. Cô nhanh chóng tìm một chỗ ngồi kín đáo ở phía sau rồi ngồi xuống. Bất chấp vẻ bề ngoài xám xịt dơ dáy, quán rượu này vẫn khá đông khách mặc dù lúc đó mới chỉ năm giờ chiều. Khách ở đây là một sự pha trộn thú vị giữa tầng lớp công nhân và các công chức địa phương. Fiske đang ngồi giữa hai công nhân xây dựng với hai chiếc mũ bảo hộ màu vàng đặt trước mặt. Fiske cởi áo vét rồi ngồi lên nó. Vai anh cũng vạm vỡ như vai hai người đàn ông bên cạnh. Sara nhận thấy áo sơ mi của anh tuột khỏi lưng quần sau. Sara bị hút mắt vào cái đám tóc sẫm màu ôm lấy gáy và chạm vào áo sơ mi màu trắng của Fiske. Fiske đang nói chuyện với cả hai người đàn ông. Hai người công nhân phá lên cười sảng khoái khi Fiske nói gì đó và Sara thấy mình cũng đang mỉm cười mặc dù cô không nghe thấy gì. Một cô hầu bàn tiến tới và Sara gọi một ly rượu gừng. Cô tiếp tục theo dõi Fiske. Lúc này anh không còn đùa cợt nữa. Anh đang đăm chiêu nhìn vào bức tường, chăm chú tới mức khiến Sara cũng bất giác đưa mắt nhìn theo. Tất cả những gì cô thấy chỉ là các chai đồ uống được sắp xếp gọn gàng. Tất nhiên là Fiske đang nhìn vào cái gì xa hơn thế. Anh đã gọi tới chai bia thứ hai và khi người phục vụ đưa tới, Fiske nhấc chai lên uống liền một mạch cho tới khi chai bia cạn hẳn. Sara nhận thấy bàn tay Fiske rất lớn, ngón tay dầy và trông mạnh mẽ. Trông không giống bàn tay của một người suốt ngày cầm bút hoặc ngồi trước màn hình máy vi tính. Fiske đặt mạnh tiền xuống mặt quầy rượu, túm lấy áo vét và quay người lại. Sara cảm thấy như Fiske đã nhìn cô. Anh lưỡng lự một lát rồi mặc áo vào. Góc bàn nơi cô đang ngồi rất tối. Cô không tin anh đã nhìn thấy cô, nhưng tại sao Fiske lại lưỡng lự ? Hơi căng thẳng, Sara đợi thêm vài phút rồi mới đứng dậy, không quên để lại tiền. Khi đi ra ngoài ánh sáng mặt trời, Sara không nhìn thấy anh đâu nữa. Giống như trong một giấc mơ, anh đã biến mất. Trong một cơn bốc đồng, Sara quay lại quầy rượu và hỏi người phục vụ quầy xem anh ta có biết John không. Người phục vụ lắc đầu. Sara muốn hỏi thêm vài câu nữa nhưng nét mặt anh ta báo cho cô biết rằng anh ta không muốn nói chuyện với cô. Hai người công nhân xây dựng nhìn cô đầy quan tâm. Sara quyết định đi khỏi trước khi có chuyện gì đó không hay có thể xảy ra. Cô đi bộ về phía ôtô của mình và chui vào trong xe. Cô nửa muốn bằng cách nào đó ngẫu nhiên gặp mặt được Fiske, nửa lại thấy mừng vì chuyện đó đã không xảy ra. Cô có thể nói gì được ? Chào anh, tôi làm việc với em trai anh và tôi đang theo dõi anh ư ? Đêm hôm đó, cô lái xe về phía bắc Virginia, uống hai cốc bia và ngủ quên trên chiếc ghế đu. Chính là chiếc ghế cô đang vừa ngồi vừa hút thuốc và ngắm bầu trời sao lúc này. Đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy John Fiske, cách đây đã gần bốn tháng. Cô không thể đã yêu anh vì thậm chí cô còn không biết gì về anh. Có lẽ là sự say đắm thì đúng hơn. Có thể nếu cô đã một lần gặp Fiske thì cái ấn tượng về anh trong cô đã không còn nữa. Mặc dù vậy, Sara không phải là người tin vào định mệnh. Nếu có chuyện gì đó sẽ xảy ra giữa hai người thì chắc cô phải là người đi những bước đầu tiên. Sara hoàn toàn bối rối khi không hiểu bước đầu tiên ấy phải như thế nào. Sara bỏ điếu thuốc và nhìn lên trời, cô cảm thấy muốn được chạy thuyền. Cô muốn được cảm thấy gió vờn lên mặt, nước bắn tung lên da và sợi thừng xiết lấy mu bàn tay. Nhưng lúc này cô không muốn được trải qua những cảm giác đó mà chỉ có một mình. Cô muốn được làm việc đó cùng một người, một người thật đặc biệt. Nhưng với những gì Michael đã nói về John Fiske, với những gì cô đã tự trông thấy về anh, Sara băn khoăn tự hỏi không biết nỗi mong mỏi của cô có bao giờ thành sự thực được không. *** Cách Sara một trăm dặm về phía nam, John Fiske cũng đang nhìn lên bầu trời khi anh bước ra khỏi xe. Chiếc Buick không thấy đậu trên đường nhưng dù sao anh đến đây cũng không vì mục đích thăm cha. Xung quanh thật yên ắng, ngoại trừ hai cậu thiếu niên cách chỗ anh đứng hai ngôi nhà đang lúi húi xem xét một chiếc Chevy có bộ máy cồng kềnh, dường như đang bị thủng ở một chỗ nào đó. Fiske tham gia một phiên tòa cả ngày hôm nay. Anh đã trình bày lý lẽ biện hộ của mình ở mức tốt nhất có thể và cũng chẳng nghĩ tới chuyện phải che giấu những nét xấu. Sau tám giờ tranh luận căng thẳng, thậm chí Fiske còn không có thời gian vào nhà vệ sinh đi tiểu, bồi thẩm đoàn đã quay trở lại và tuyên bố bị cáo có tội. Đây là lần thứ ba khách hàng của anh kháng cáo. Anh ta đã chẳng làm nên được trò trống gì. Một điều kỳ cục xảy ra là bây giờ Fiske lại thực sự tin anh ta vô tội trong vụ án đặc biệt này. Đó không phải là điều anh có thể nói với phần lớn khách hàng. Nhưng khách hàng này của anh đã thoát được rất nhiều vụ mà không bị trừng phạt và với kết quả này, rất có thể bồi thẩm đoàn đã vô tình đòi được món nợ với anh ta. Fiske sẽ chết vì tuổi già trước khi tiền công cho anh được thanh toán. Đối với những tù nhân nhận án chung thân, họ rất ít khi nghĩ tới việc trả hết nợ nần, đặc biệt là với những luật sư không cãi thắng được cho mình. Fiske đi ra phía sân sau nhà, mở cánh cửa bên hông gara vào lấy một chai bia từ tủ lạnh. Hơi ẩm vẫn còn bọc lấy chai bia như một tấm chăn mỏng. Anh áp chai bia vào thái dương để cho cái lạnh ngấm sâu vào trong người. Tít cuối sân có một số cây cối và một giàn nho đã chết từ lâu nhưng vẫn cuốn chặt quanh những chiếc cột sắt và dàn leo bằng sắt han rỉ. Fiske đi về phía đó và dựa lưng vào một cây du. Anh nhìn xuống một chiếc hố nhỏ nằm dưới bãi cỏ. Đây là nơi chôn cất chú chó giống Bỉ với cái tên Bo. Anh em nhà Fiske đã lớn lên cùng chú chó này. Khi cha anh mang nó về, Bo còn chưa to bằng nổi một nắm đấm. Chỉ trong vòng một năm hoặc hơn thế một chút, Bo lớn bổng lên trở thành một chú chó ngực rộng, nặng sáu mươi pao, lông pha hai màu trắng đen, đẹp tuyệt vời và cả hai anh em đều vô cùng yêu quý, đặc biệt là Mike. Bo chạy theo họ vào mỗi bài chạy thể dục buổi sáng và chơi với cả hai anh em. Họ đã có với Bo chín năm vui vẻ trước khi Bo ngã xuống vì một cơn đột quỵ khi đang chơi với Mike. John chưa bao giờ thấy ai kêu khóc tuyệt vọng và đau khổ đến thế trong suốt cuộc đời anh. Cả cha và mẹ đều không thể an ủi được Mike. Em anh ngồi ở sân sau nhà kêu gào, ôm lấy bộ lông rậm rạp của con chó, cố tìm cách giúp Bo đứng lên để chơi đùa với mình dưới ánh nắng mặt trời. John ôm lấy Mike trong tay, khóc cùng Mike, vuốt ve cái đầu bất động của chú chó yêu dấu. Ngày hôm sau trong lúc Mike đến trường, John đứng sau cha trong khi ông chôn chú chó ở chính chỗ này. Khi Mike tan học về, họ đã làm một lễ tang nhỏ cho Bo. Mike đã đọc Kinh thánh và hai anh em đã lấy một tấm bia, thực chất là một tảng đá có viết tên Bo trên đó, rồi đặt ngay phía đầu của ngôi mộ giản dị. Tảng đá vẫn còn ở đây nhưng nét mực trên đó đã phai mờ từ lâu. Fiske quỳ xuống và đưa tay lướt dọc trên bãi cỏ. Dưới bóng râm, cỏ ở đây thật mịn và đẹp. Khỉ thật, họ đã cùng yêu chú chó vô cùng. Tại sao quá khứ lại trôi đi quá nhanh như thế ? Tại sao những quãng thời gian đẹp bao giờ cũng thật ngắn ngủi ? Anh lắc đầu và giật mình vì một tiếng nói cất lên từ phía sau. - Bác vẫn còn nhớ như in chú chó đó. Chỉ mới như ngày hôm qua. Fiske nhìn Ida German, người đang đứng phía bên kia hàng rào nhìn anh. Anh đứng dậy, trông hơi lúng túng. - Chuyện đã lâu lắm rồi, bà German. Từ người phụ nữ toát ra mùi thịt bò lẫn mùi hành và Fiske biết nhà bà cũng có mùi như thế. Bà German đã góa chồng gần ba mươi năm nay, giờ đây trở nên chậm chạp, người béo lùn. Chiếc áo dài mặc ở nhà trùm ra ngoài đôi chân đầy sẹo và nổi đầy tĩnh mạch cùng mắt cá chân húp híp sưng phồng. Nhưng mặc dù đã gần chín mươi tuổi, trí nhớ của bà vẫn còn rất sắc sảo, sáng suất với giọng nói đầy quả quyết, dứt khoát. - Với bác thì mọi chuyện qua đã lâu chứ với cháu thì chưa đâu. Chưa phải lúc. Mẹ cháu thế nào ? - Mẹ cháu vẫn thế. - Bác muốn đi thăm mẹ cháu nhưng cái thân già này không muốn nhúc nhắc và càng ngày càng lười biếng. - Mẹ cháu sẽ rất mừng nếu được gặp bác. - Bố cháu vừa ra ngoài được một lúc. - Cháu rất vui khi bố cháu chịu đi đây đó. Và cháu rất cám ơn vì bác vẫn ở bên bố cháu. - Sống một mình có gì vui đâu. Bác sống lâu hơn cả ba đứa con của mình. Điều khó chịu đựng nhất đối với người làm cha làm mẹ là phải chôn con cái mình. Chẳng hợp tự nhiên tý nào. Mike thế nào ? Dạo này bác ít gặp nó. - Nó khá bận. - Ai có thể tưởng tượng được rằng thằng bé má phính ngày ấy bây giờ lại giỏi giang đến thế ? Thật khó mà hình dung, nếu cháu hỏi bác. - Nó đã rất nỗ lực. Fiske ngừng trong giây lát. Anh buột miệng nói ra. Nhưng đúng là em trai anh đã nỗ lực để đạt được vị trí ngày nay. - Cả hai cháu đều thế. - Cháu nghĩ là Mike phần nào tiến xa hơn cháu. - Hừm. Chẳng lẽ cháu lại nghĩ vậy. Cha cháu lúc nào cũng khoe về cháu. Tất nhiên là cha cháu nói cả về Mike nữa, nhưng cháu mới là ông vua trong mắt cha cháu. - Cha mẹ cháu đã nuôi dạy bọn cháu trưởng thành. Hy sinh tất cả vì chúng cháu. Cháu không quên điều đó đâu - Có thể Mike đã quên, nhưng anh thì sẽ không bao giờ, Fiske tự nhủ. - Mike có ba tấm gương sáng để noi theo. Fiske nhìn bà một cách tò mò - Tháng bé đó tôn thờ cả mặt đất nơi cháu đặt chân lên. - Con người thay đổi mà bác. - Cháu nghĩ thế sao ? Một vài giọt mưa bắt đầu lác đác rơi. - Bác nên vào nhà đi, bác German. Trời sắp mưa to rồi đấy. - Cháu có thể gọi bác là Ida nếu cháu muốn. Fiske mỉm cười. - Có nhiều điều không bao giờ thay đổi, bác German ạ. Anh nhìn theo cho tới khi bà khuất vào bên trong. An ninh bây giờ không còn tuyệt đối an toàn như trước nữa. Anh và cha mình đã lắp giúp bà then cài cửa ra vào, khóa cho khung kính trập ở các cửa sổ và lổ hé ở cửa trước. Bà German còn lắp thêm cả mắt thần nữa. Fiske nhìn xuống mộ Bo một lần nữa. Hình ảnh em trai anh khóc gào trước chú chó đã chết mãi mãi ăn sâu vào tâm trí Fiske. Chương mười hai “Mẹ khoẻ không ? Michael Fiske đưa tay chạm vào mặt mẹ mình. Lúc đó là buổi sáng sớm và tâm trạng của Gladys không được tốt. Nét mặt bà tối sẫm và bà né tránh sự đụng chạm của anh. Michael nhìn mẹ, một nỗi buồn sâu thẳm dâng lên trong mắt anh khi anh nhận thấy sự chống đối ra mặt của bà. - Con mua quà cho mẹ. Anh mở chiếc túi xách mang theo và lấy ra một hộp bọc giấy. Vì Gladys không hề cử động gì tỏ ý muốn mở gói quà, Michael liền bóc giúp mẹ. Anh giơ chiếc áo sơ mi màu hoa oải hương ưa thích của bà lên. Michael đưa sát hơn cho bà nhưng mẹ anh không cầm lấy. Lần nào bà cũng như thế mỗi khi anh tới thăm. Rất hiếm khi bà chịu nói chuyện với anh và luôn ở trong tâm trạng xấu. Những món quà của anh không bao giờ được chấp nhận. Michael đã nhiều lần cố gắng làm cho mẹ anh nói chuyện với mình, nhưng lần nào anh cũng thất bại. Anh ngồi xuống và thở dài. Anh đã nói với cha mình về việc mẹ anh hoàn toàn từ chối tiếp xúc với anh. Nhưng cha anh bất lực không thể thay đổi được gì. Không ai điều khiển được việc Gladys muốn cư xử tử tế với ai. Chỉ vì điều này mà càng ngày Michael càng ít tới thăm mẹ hơn. Anh cũng đã cố thử tìm cách nói chuyện với anh trai mình về điều đó nhưng John từ chối không muốn bàn bạc với anh. Michael biết là mẹ anh không bao giờ đối xử với anh trai anh như thế. Đối với bà, John là cục cưng bằng vàng. John Fiske có thể ra tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ hoặc đạt giải Nôben. Còn trong con mắt bà, anh mãi mãi chỉ đứng đằng sau John. Michael đặt chiếc áo lên mặt bàn, hôn lướt mẹ rồi ra về. Trời bắt đầu mưa. Michael kéo cao cổ áo choàng đi mưa và quay trở lại chỗ xe ôtô. Trước mắt anh là cả một chặng đường dài. Thăm mẹ không phải là lý do duy nhất khiến anh lái xe về phía nam này. Lúc này anh đang tiến về phía tây nam bang Virginia. Tới nhà tù Fort Jackson. Tới gặp Rufus Harms. Có lúc anh cân nhắc không biết có nên ghé vào thăm anh trai không. Mike không ngạc nhiên khi John không trả lời cú điện thoại của anh. Nhưng chuyến đi anh đang thực hiện này có những rủi ro mang tính cá nhân và Michael không thấy phiền lòng nếu có được lời khuyên hoặc sự có mặt của John. Nhưng sau đó anh lắc đầu. John Fiske là một luật sư rất bận rộn và anh ấy không có thời gian để đi lung tung khắp bang theo đuổi những giả thuyết hoang đường của em trai mình. Anh sẽ phải tự giải quyết vụ này một mình. *** Như lệ thường, Elizabeth Knight thức dậy rất sớm, làm vài động tác thể dục cho giãn người trên sàn nhà rồi tiếp tục những công việc nhàm chán trong phòng ngủ của căn hộ thuộc sở hữu của bà và chồng - Thượng nghị sĩ Jordan Knight. Bà tắm, mặc quần áo, chuẩn bị một ít cà phê và vài lát bánh mì nướng trong khi xem xét một số biên bản phiên tòa để chuẩn bị cho cuộc tranh luận miệng sẽ diễn ra vào tuần sau. Hôm nay là thứ Sáu nên một phần của ngày làm việc sẽ được dành cho cuộc họp, nơi các thẩm phán sẽ bỏ phiếu cho các vụ án mà họ đã nghe. Ramsey điều khiển cuộc họp theo một chương trình chặt chẽ. Bà thất vọng vì rất ít có cơ hội cho mọi người tranh luận trong các cuộc họp này. Ramsey sẽ tổng kết những điểm nổi bật của từng vụ, nêu miệng hướng bỏ phiếu của ông ta rồi chỉ việc chờ đợi các thẩm phán khác làm theo. Nếu Ramsey thuộc về số đông - điều này thường xuyên xảy ra - ông ta sẽ ký vào biên bản quyết định. Còn nếu không, một thẩm phán cao cấp khác - thường là Murphy - người thường đối lập về mặt tư tưởng với Ramsey và rất ít khi hai người cùng bỏ phiếu theo cùng một hướng - sẽ là người ký. Khi Knight uống xong cốc cà phê, ý nghĩ của bà quay trở về ba năm đầu tiên ở Tòa án. Thực sự giống một cơn lốc vòi rồng. Vì giới tính của mình nên bà thường được coi là người không chỉ bênh vực, đấu tranh cho quyền của phụ nữ, mà còn cho cả những vụ kiện mà rất nhiều phụ nữ ủng hộ. Không ai coi điều này như một sự rập khuôn, mẫu sáo mặc dù Knight biết rành rành là như thế. Bà là một thẩm phán chứ không phải một chính trị gia. Bà phải xem xét từng vụ án riêng biệt, như hồi còn làm thẩm phán ở tòa xét xử. Và bây giờ cũng sẽ như thế, mặc dù bà biết rằng phải chấp nhận một sự thật là Tòa án tối cao là một nơi khác biệt. Tác động của các quyết định của tòa án này là rất lớn và vì thế, các thẩm phán bắt buộc phải chú ý tới những khía cạnh ngoài phạm vi cụ thể của mỗi vụ án và xét xem quyết định của tòa sẽ gây tác động như thế nào với nhiều người. Đó là việc khó khăn nhất đối với Knight. Bà đưa mắt nhìn quanh căn hộ sang trọng. Hai vợ chồng Knight có một cuộc sống tốt đẹp bên nhau. Họ được coi như cặp vợ chồng có quyền lực cao nhất ở thủ đô. Và theo một cách nào đó thì đúng là như thế. Bà đảm nhận trọng trách này ở mức tốt nhất có thể, kể cả khi bà phải chiến đấu với sự tách biệt, cách ly mà mỗi thẩm phán đều phải chịu đựng. Khi một người tới làm việc ở Toà án tối cao, bạn bè sẽ thôi không gọi điện, mọi người đối xử sẽ khác đi, họ tỏ ra thận trọng hơn, cảnh giác hơn trong từng lời nói. Knight là một người thích sống tập thể và hướng ngoại. Bây giờ, bà đã bớt những hoạt động ấy rất nhiều. Bà tham gia vào các hoạt động trong đời sống chính trị của chồng mình như một cách giảm bớt tác động của sự thay đổi đột ngột ấy. Nhiều khi, Knight cảm thấy mình giống một nữ tu sĩ giữa tám thầy tu đồng hành suốt cuộc đời. Như để trả lời cho những ý nghĩ của Knight, Jordan Knight đến từ phía sau và ôm chặt lấy vợ. Ông vẫn mặc bộ pijama của mình. - Em biết không, không có luật lệ nào quy định rằng ngày nào cũng phải dậy từ tờ mờ sáng. Nằm rúc vào trong chăn là rất tốt cho tâm hồn đấy. Ông nói. Knight hôn chồng và quay lại ôm lấy ông. - Khi anh đi ngủ muộn em cũng có nói gì đâu, ông Thượng nghị sĩ ? - Anh cho là cả hai chúng ta phải phối hợp với nhau khắc phục thôi. Ai mà biết được những thói quen này sẽ dẫn tới cái gì ? Anh nghe người ta nói rằng tình dục là sự bảo vệ tốt nhất chống lại tuổi già. Giordan Knight là một người cao to, tóc hoa râm mỏng và khuôn mặt rám nắng có nhiều vết nhăn. Trong cách đánh giá không công bằng trên thế giới này về vẻ bề ngoài của phụ nữ và nam giới, ông vẫn được coi là người đẹp trai, bất chấp những nếp nhăn và trọng lượng gia tăng của mình. Ông thường xuất hiện trên các trang của tờ Bưu điện Washỉngton, các tạp chí địa phương và trong các chương trình tivi trên toàn quốc, nơi những tay chúa trùm chính trị có nhiều kinh nghiệm nhất vẫn thường xuyên bị áp đảo bởi sự dí dỏm, thông minh và đầy hiểu biết của ông. - Chắc chắn anh luôn có những quan niệm thú vị rồi. Jordan tự rót cho mình một cốc cà phê trong khi Knight xem xét giấy tờ của mình. - Ramsey vẫn cố hướng em trở thành một thành viên trong nhóm của ông ta à ? - Ồ, ông ta nhấn tất cả các nút cần thiết, nói tất cả những điều đúng đắn. Tuy nhiên, em sợ rằng một số hoạt động gần đây của em không khiến ông ấy thấy dễ chịu. - Em cứ đi con đường riêng của mình, như em vẫn luôn làm, Beth. Em thông minh hơn tất cả bọn họ. Quỷ thật, lẽ ra em phải làm Chánh án mới đúng. Knight vòng một tay quanh bờ vai rộng của chồng. - Giống như lẽ ra anh phải làm Thủ tướng chứ gì ? Jordan nhún vai. - Anh nghĩ Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã là một thách thức quá đủ đối với mình. Ai mà biết được, có khi vị trí đó lại là mong ước của em. Knight buông tay. - Chúng ta chưa bao giờ thực sự bàn bạc về chuyện này. - Anh biết. Cả hai chúng ta đều bận rộn. Có quá nhiều công việc đòi hỏi chúng ta. Khi mọi thứ tạm ổn, chúng ta sẽ nói chuyện sau. Anh nghĩ chúng ta nên nghĩ tới việc đó. - Có vẻ như anh đang nói chuyện nghiêm túc. - Đúng, không thể làm mãi một công việc nhàm chán, Beth. Knight cười phá lên băn khoăn. - Em sợ là mình đã ký giao ước làm việc ở Tòa án tới cuối đời mất rồi. - Rất tốt khi nghĩ tới chính trị. Em có thể quyết định, không tái chạy đua nữa. Hoặc có thể mất ghế của mình. - Em nghĩ là có rất nhiều việc khác nữa anh muốn làm. - Chuyện đó sẽ không xảy ra. Có quá nhiều trở ngại. Quá nhiều trò chơi. Nói thật với em, anh bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Beth Knight định nói gì đó nhưng sau lại thôi. Cô đã thực sự tham gia vào "trò chơi" của Tòa án tối cao. Jordan Knight đặt cốc cà phê xuống, hôn vào má vợ. - Hãy tiến lên, bà thẩm phán. Khi ngài Thượng nghị sĩ đi khỏi, Knight đưa tay xoa má nơi chồng cô vừa hôn vào. Bà cố gắng nghiên cứu tập giấy tờ lại một lần nữa, nhưng bỗng thấy không thể. Bà cứ ngồi đó lan man nghĩ ngợi tới đủ mọi thứ chuyện linh tinh. *** Fiske cầm trong tay tấm ảnh chụp chung giữa anh và em trai. Anh đã ngồi đây suốt hai mươi phút với tấm ảnh này nhưng phần lớn thời gian lại không hề nhìn vào nó. Cuối cùng, anh đặt nó lên trên chiếc cặp xách tay, tiến về phía điện thoại và quay số của Michael. Không ai nhấc máy. Fiske chẳng buồn để lại lời nhắn. Sau đó, anh gọi tới Tòa án tối cao nhưng Michael không có ở văn phòng. Ba mươi phút sau, anh lại gọi lại. Lần này, một người khác cho anh biết Michael sẽ không đến Tòa án cả ngày hôm nay. Đúng là có số phận, anh thầm nghĩ. Kể cả khi lấy hết được quyết tâm để gọi điện rồi nhưng anh vẫn không thể nào liên lạc được với Michael. Có phải như thế là quyết tâm rồi không ? Anh quay trở lại ngồi xuống bàn làm việc và cố bắt đầu công việc, nhưng mắt vẫn không làm sao rời khỏi tấm ảnh. Cuối cùng, Fiske đóng cặp lại, cảm thấy dễ chịu khi đã đến giờ tới tòa án, dễ chịu khi thoát được khỏi những cảm giác có lỗi khó xử. Anh tham dự hai phiên tòa trong buổi sáng. Vụ đầu tiên Fiske thắng tuyệt đối. Nhưng với vụ thứ hai, anh lại bị đả kích tơi bời bởi thẩm phán, người dường như cố tìm mọi cơ hội để chế nhạo và giễu cợt những lời biện hộ pháp lý của anh. Trong khi đó, viên trợ lý luật sư vẫn đứng bên cạnh một cách lịch sự, miệng lúc nào cũng mỉm cười. Trong công việc của anh, người ta thường phải cố gắng giữ một vẻ giả tạo bên ngoài thật chuyên nghiệp, nếu không rất có thể lần sau chính bản thân mình sẽ trở thành đích bắn của những người khác. Tất cả mọi người ở đây đều hiểu được điều đó. Hoặc nếu không phải tất cả thì ít nhất là những người đã rơi vào trường hợp này. Sau đó, Fiske tới nhà tù Richmond rồi một nhà tù của hạt Henrico để nói chuyện với khách hàng. Anh cùng thảo luận về chiến lược cho phiên xử sắp tới với người khách hàng đầu tiên. Người khách hàng đang ngồi tù này đề nghị Fiske để anh ta lên bục nhân chứng rồi nói dối. Xin lỗi, anh không được phép làm như vậy, Fiske nói với anh ta. Với người khách hàng thứ hai, câu chuyện lại xoay quanh việc thương lượng về thời hạn tù cho bị cáo. Mấy tháng, mấy năm hay mấy thập kỷ. Phải ngồi tù bao lâu ? Hay sẽ được hưởng án treo ? Hãy giúp tôi ra khỏi đây. Tôi còn có vợ con. Tôi có công việc làm ăn đang chờ. Được thôi, anh đúng. Nhưng sao lúc gây ra vụ giết người và vụ cố ý gây thương tật anh không nghĩ tới những điều này ? Với người khách hàng cuối cùng, sự việc tiến triển hoàn toàn khác. - Leon, chúng ta đang ở tình trạng không được tốt. Tôi nghĩ chúng ta nên nhận đi thì hơn. Fiske khuyên. - Không. Chúng ta sẽ ra tòa. - Họ có hai nhân chứng trực tiếp chứng kiến. - Có đúng vậy không ? Leon bị buộc tội đã bắn chết một đứa trẻ. Chuyện xảy ra khi hai nhóm lang thang đầu trọc có tranh chấp với nhau và cô bé gái trở thành nạn nhân - một thảm kịch thường xảy ra gần đây. - Nhưng họ sẽ không làm hại gì được tôi nếu họ không ra làm chứng, phải không ? - Tại sao họ không ra ? - Fiske nói đều đều. Trước đây anh đã gặp những chuyện tương tự. Không biết bao nhiêu lần, cảnh sát đã phải chịu để tuột khỏi tay một vụ án nào đó ngay trước mắt mình chỉ vì nhân chứng đột nhiên quên hết những gì họ từng nhìn tận mắt và nhớ như in trước đó ? Leon nhún vai. - Anh biết là có thể như thế mà. Nhiều người không bao giờ đúng hẹn. - Cảnh sát đã lấy lời khai rồi. Leon nhìn Fiske một cách sắc sảo. - Đúng thế, nhưng có đúng là tôi sẽ đối mặt với những người làm chứng chống lại tôi trong phiên tòa không ? Ngay tại bục nhân chứng anh có thể tóm được sai sót của họ đúng không ? - Chắc chắn là anh hiểu rõ Hiến pháp. Fiske khô khan đáp. Anh hít một hơi thở sâu vì đã quá mệt mỏi với trò hăm doạ nhân chứng - Nào Leon. Tôi là luật sư của anh. Tôi có đặc quyền được biết. Vì sao họ sẽ không ra làm chứng chống lại anh ? Leon nở một nụ cười. - Không việc gì tới anh. - Có chứ. Tôi không muốn phải bị ngạc nhiên trước những chuyện có thể xảy ra. Anh không bao giờ biết được công tố viên sẽ cố thử làm điều gì. Tin tôi đi, tôi đã từng chứng kiến điều đó. Nếu có chuyện gì xảy ra mà tôi chưa chuẩn bị sẵn sàng để đối phó thì đồ ngốc nhà anh sẽ toi luôn đấy. Trông Leon đã bắt đầu có biểu hiện lo lắng. Rõ ràng anh ta chưa nghĩ tới điều này. Anh ta lấy tay xoa xoa vào chữ thập in trên trán. - Đặc quyền của luật sư hả ? Anh vừa nói đến điều này. - Đúng vậy. Fiske cúi người về phía trước - Giữa tôi, anh và Chúa trời. Leon cười phá lên. - Chúa ư ? Cứt thật, anh kiếm được ông bạn đồng hành tốt đấy. Anh ta cúi người theo và nói nhỏ - Cho tôi gặp mấy người bạn. Họ sẽ có một cuộc viếng thăm nho nhỏ với hai nhân chứng ấy để đảm bảo chúng sẽ quên đường tới tòa án. Thế là xong. Fiske ngồi phịch, xuống. - Đồ chết tiệt. Anh vừa làm xong đấy nhé. - Xong cái gì ? - Nói với tôi về cái việc điên rồ tôi sẽ phải cùng đem tới phiên tòa. - Anh nói cái quái gì thế ? - Về mặt luật pháp và đạo lý, tôi không được phép để lộ thông tin do khách hàng cung cấp cho mình. - Vậy thì có vấn đề gì đâu ? Tôi là khách hàng của anh và tôi vừa cho anh biết một việc. - Đúng thế nhưng anh thử nhìn xem, vẫn có một ngoại lệ nằm ngoài điều luật này. Anh vừa nói cho tôi nghe về một tội ác anh dự định làm trong tương lai. Đó là điều tôi sẽ phải nói ra trong phiên tòa. Tôi không thể để anh phạm tội ác này. Tôi phải thuyết phục anh không được làm việc đó. Coi như anh đã được tôi thuyết phục rồi đi. Giả sử như anh đã làm chuyện này rồi thì thôi, không có vấn đề gì. Anh nghĩ cái quái gì mà lại kể ra cho tôi nghe hả ? - Fiske nhìn một cách ghê tởm. - Tôi không biết luật là như thế. Khỉ thật, tôi có phải là luật sư đâu. - Thôi nào Leon. Anh hiểu về luật hơn khối luật sư đấy. Anh làm rối tung mọi sự lên. Chúng ta nên thừa nhận đi thì hơn. - Ý anh là gì vậy ? - Nếu chúng ta tới phiên tòa và nhân chứng không xuất hiện, tôi sẽ phải nói cho tòa biết những gì anh vừa nói với tôi. Còn nếu nhân chứng xuất hiện thì coi như đời anh xong. - Vậy thì anh đừng nói gì với ai. - Không thể được, Leon. Nếu tôi không nói và nếu bằng cách nào đó chuyện vỡ lỡ ra, tôi sẽ bị tước giấy phép hành nghề. Mặc dù tôi rất quý anh nhưng tôi không thể hy sinh đến mức như thế vì một khách hàng. Không có giấy phép thì tôi kiếm sống thế nào được. Trong khi chính anh là người làm rối tung lên chứ đâu phải tôi. """