"
Những Nhà Cải Cách Việt Nam - Lê Minh Quốc full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Nhà Cải Cách Việt Nam - Lê Minh Quốc full prc pdf epub azw3 [Lịch sử]
Ebooks
Nhóm Zalo
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
1
Biểu ghi biên mục trước xuất bản được thực hiện bởi Thư viện KHTHTP.HCM
Lê Minh Quốc
Những nhà cải cách Việt Nam / Lê Minh Quốc. - Hồ Chí Minh : Trẻ, 2009 234tr. ; 24cm. - (Kể chuyện danh nhân Việt Nam ; T.7)
1. Danh nhân -- Việt Nam. 2. Lịch sử -- Việt Nam. I. Ts.
959.7092 -- dc 22
L433-Q16
nhà xuất bản trẻ
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
HOAN NGHÊNH BẠN ĐỌC GÓP Ý PHÊ BÌNH NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
161b Lý Chính Thắng - Quận 3 - TP. Hồ Chí Minh Điện thoại: 9316211 - 8465595 - 8465596 - 9316289 Fax: 84.8.8437450
E-mail: [email protected]
Website: http://www. nxbtre.com.vn
4
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bản “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của nhà văn hóa, chính trị, quân sự thiên tài Nguyễn Trãi - nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước nhà ở thế kỷ XV đã dõng dạc tuyên bố: “Một gươm đại định, dẹp phăng giặc giã, dựng nên công oanh liệt ngàn năm. Bốn bề phẳng lặng, sạch hết đục nhơ, tuyên bố mệnh duy tân khắp nước”. Điều đó cho thấy trong tâm thức người Việt Nam ta, dựng nước và giữ nước luôn gắn liền với sứ mệnh duy tân đất nước. Trong thời đại của chúng ta, ngay từ gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp, dù phải đối phó với bao nhiêu trở ngại để đánh đuổi ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức” (Báo Cứu Quốc số 411, ngày 20/11/1946). Có thể khẳng định, đó là những người góp phần không nhỏ để đưa đất nước phát triển sang một thời kỳ mới.
Giáo sư Đinh Xuân Lâm - Chủ tịch Hội đồng khoa học Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam - đã hoàn toàn có lý khi khẳng định: “Hầu như là một quy luật trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là cứ mỗi khi đất nước có khó khăn bên trong hay từ bên ngoài tới thì xu hướng canh tân, đổi mới lại xuất hiện bằng những cải cách, đổi mới cụ thể về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội khắc phục các khó khăn trở ngại tạo đà tiến lên một thời kỳ phát triển mới. Đồng thời qua nội dung cũng thấy rõ được là muốn cải cách đổi mới có kết quả thì phải thực hiện trên tất cả
5
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
lãnh vực, trước hết là về kinh tế và chính trị, kinh tế và chính trị phải tiến hành song song, không có cải cách chính trị làm bệ đỡ, động lực thúc đẩy cho cải cách kinh tế thì không thể thành công”. Trên tinh thần muốn nhìn lại lịch sử nước nhà qua các cải cách mà những con người tài đức đã vạch ra, Nhà xuất bản Trẻ xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc tập Những nhà cải cách Việt Nam. Đây là tập sách thuộc bộ sách nhiều tập KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc biên soạn.
Trong tập sách này, chúng tôi đề cập đến vua Lê Thánh Tông, người triệt để cải cách nước nhà từ thế kỷ XV với nhiều chính sách tiến bộ. Hầu như trong lãnh vực nào, ngài cũng để lại những dấu ấn quan trọng như lập Hồng Đức bản đồ - đánh dấu một bước tiến mới về khoa địa lý họa đồ, phản ánh rõ nét về ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền độc lập của nước nhà Đại Việt; như vịệc ban hành Bộ luật Hồng Đức không chỉ phát huy tác dụng ở triều Lê mà còn là cơ sở pháp lý cho các triều đại sau đó.…Do đó không phải ngẫu nhiên mà nhà bác học Phan Huy Chú cho rằng “chính trị thời Hồng Đức rất thịnh”. Lê Thánh Tông thành công trong cải cách, một phần chính vì nhà vua là người giữ cương vị tối cao trong nhà nước phong kiến thời bấy giờ - mọi chính sách canh tân của ngài đều được thi hành toàn diện. Trong khi đó, lịch sử cũng cho thấy có những cải cách không được thực hiện, vì triều đình lúc đó không đủ tầm nhận thức các chương trình cải cách này. Đó thực sự là một điều đáng tiếc. Bởi nếu những cải cách của những danh nhân ấy được thực thi thì hẳn lịch sử nước ta đã có những bước tiến đáng kể. Những danh nhân không may mắn, sống bất phùng thời ấy là danh nhân Lương Đắc Bằng - người dâng 14 chước trị bình dưới thời vua Lê Tương Dực, danh nhân Giáp Hải - người đã dũng cảm dâng sớ dưới thời vua Mạc Mậu Hợp. Qua đó ta cũng rút ra được bài học: Các “thiên tử” này đã phải kết thúc một số phận bi thảm, một trong những nguyên nhân chính yếu là đã không sáng suốt, không nhanh chóng thực hiện theo những cải cách ấy. Tiếp theo là các danh nhân khác như Nguyễn Cư Trinh, người có công ổn định đời sống
6
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
nhân dân ở Đàng trong vào thế kỷ XVIII; là Nguyễn Trường Tộ, người đã viết 58 bản điều trần dưới thời vua Tự Đức - khiến ngày nay chúng ta còn phải kinh ngạc trước tầm vóc suy nghĩ của ông; là Bùi Viện, một nhà ngoại giao lần đầu tiên diện kiến tổng thống Mỹ để đặt mối quan hệ cần thiết trong bối cảnh nước nhà đang bị ngoại xâm, đồng thời cũng là một người tổ chức đội Tuần dương ngăn chặn giặc biển, lập Nha thương chính để góp phần phát triển thương nghiệp Việt Nam; là Nguyễn Lộ Trạch, người tiếp nối sự nghiệp cải cách của Nguyễn Trường Tộ, cũng là người viết Thiên hạ đại thế luận...…rất ảnh hưởng đến trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX; là Đặng Huy Trứ, nguời đầu tiên du nhập nghề nhiếp ảnh vào Việt Nam, cũng là một trong những người đầu tiên “gieo mầm khai hóa ở Việt Nam” (Phan Bội Châu); là Trần Quý Cáp, một lãnh tụ, một chiến sĩ tiên phong đã dấy lên phong trào Duy Tân ở Quảng Nam. Tất nhiên chúng tôi cũng không quên nhắc đến vai trò của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong nhiệm kỳ của Đại hội Đảng VI (1986 - 1991) đã có nhiều đóng góp tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước.
Có thể khẳng định đó là những công dân ưu tú của nước Việt ta đã có những tư tưởng đổi mới vì mục tiêu đem lại sự phồn vinh cho đất nước.
Thiết nghĩ, trong các chương trình cải cách của họ, cho đến nay vẫn có những điều chưa hẳn đã lỗi thời; cũng có những điều mà thời đại chúng ta đã và đang thực hiện. Bởi lẽ, Đảng ta luôn luôn chủ trương đổi mới để kịp với xu thế phát triển của thời đại. Nghị quyết VIII (6/1996) đã khẳng định: “Đưa công cuộc đổi mới lên tầm cao mới, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”. Để giúp cho bạn đọc - nhất là đối tượng thanh thiếu niên - có thể hình dung được sự đóng góp của các danh nhân trên, trong chừng mực nào đó, chúng tôi cố gắng giới thiệu tương đối đầy đủ những nội dung cải cách. Do khuôn khổ có hạn nên
7
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
những danh nhân tiêu biểu khác, chúng tôi sẽ tiếp tục giới thiệu ở các tập sau.
Nhân đây chúng tôi xin được nhắc lại, bộ sách KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM do nhà thơ Lê Minh Quốc thực hiện đã phát hành các tập: Danh nhân khoa học Việt Nam, Các vị Tổ ngành nghề Việt Nam, Danh nhân Sư phạm Việt Nam, Danh nhân văn hóa Việt Nam, Danh nhân quân sự Việt Nam, Các vị nữ danh nhân Việt Nam, Danh nhân y học Việt Nam, Những nhà cải cách Việt Nam và sẽ còn phát hành các tập tiếp theo, mời các bạn tìm đọc. Để bộ sách thật sự hữu ích cho bạn đọc - nhất là các bạn thanh thiếu niên - chúng tôi rất mong được sự chỉ giáo, giúp đỡ chân tình của các học giả uyên bác, của các nhà sử học và của các bạn đọc xa gần để tập sách ngày một hoàn hảo hơn. Trước hết xin bạn đọc ghi nhận ở đây sự biết ơn sâu xa của chúng tôi.
NHÀ XUẤT BẢN TRẺ
8
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
LÝ CÔNG UẨN
Người dời đô, cốt mưu nghiệp lớn,
tính kế muôn vạn đời sau
Hầu như cho đến nay, những người yêu thơ đều ít nhiều nhớ đến những câu thơ tài hoa trong bài thơ Lá diêu bông nổi tiếng của thi sĩ Hoàng Cầm. Mở đầu, tác giả Bên kia sông Đuống viết:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ
Chị bảo:
Đứa nào tìm được lá diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng
...
Sau khi thả hồn vào cảm xúc của bài thơ, đôi lúc ta bâng khuâng tự hỏi: “Đình Bảng ở đâu vậy?”. Thưa, làng Đình Bảng(1) còn có tên nôm là Kẻ Báng, là nơi phát tích vương triều Lý trong lịch sử Việt Nam. Vùng đất văn hiến này nằm trên châu thổ sông Hồng, trải dọc theo
(1) Tuy nhiên, có thông tin cho rằng tên gọi đúng của Đình Bảng phải là “Đình Báng” vì nó gắn liền với một hệ thống địa danh vẫn còn lưu truyền đến ngày nay, ít nhất là 10 thế kỷ (từ thời nhà Lý thế kỷ XI): Làng Báng, rừng Báng, giếng Báng, nem Báng (phương ngữ có câu: Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét”) và Đình Báng (cái đình của làng Báng). Ca dao cổ còn lưu lại:
Thứ nhất là đình Đông Khang
Thứ nhì Đình Báng, vẻ vang đình Diềm
(Xem Xưa & Nay số tháng 9/2003).
9
Lý Công Uẩn
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đường Quốc lộ 1A, đường xe lửa Hà Nội - Hữu nghị quan, cách thủ đô Hà Nội 16km về phía bắc. Nơi đây có sông Tiêu Tương phân nhánh, một nhánh chảy lên sông Ngũ Huyện, một nhánh chảy qua Tương Giang, Nội Duệ, Cầu Lim. Nghe đến những địa danh này, ắt những người yêu nhạc lại nhớ đến một giai điệu dịu dàng vọng lên trong tâm tưởng:
“Ai có về trên bến sông Tương, nhắn người duyên dáng tôi thương, bao ngày ôm mối tơ vương. Tháng với ngày mờ nhuốm đau thương, tâm hồn mơ bóng em luôn, mong vài lời em ngập hương...”.
Đừng lầm tưởng đây là tên con sông nào đó bên Trung Quốc, mà thật ra nhạc sĩ Thông Đạt lấy cảm hứng từ con sông Tương ở một vùng quê Kinh Bắc - Bắc Ninh. Đó là một vùng đất mà trong Địa dư chí, nhà bác học Phan Huy Chú đã viết:
“Có mạch núi cao vót, nhiều sông quanh vòng, là mạn trên của nước ta. Phong cảnh thì phủ Bắc Hà, phủ Lạng Giang đẹp hơn. Văn học thì phủ Từ Sơn, phủ Thuận An nhiều hơn. Mạch đất tốt tụ vào đấy, nên càng nhiều chỗ có dấu tích đẹp; tinh hoa hợp vào đấy, nên sinh ra nhiều danh thần. Vì là khí tốt tự nhiên ở phương bắc phát ra nên khác với mọi nơi”. Dưới thời Bắc thuộc, làng Đình Bảng thuộc bộ Vũ Ninh, có tên là Diên Uẩn; đến đời nhà Đường có tên là hương Cổ Pháp và tên gọi Đình Bảng có từ đời nhà Trần. Từ năm 1999 cho đến ngày nay, Đình Bảng là một xã thuộc huyện Từ Sơn (Bắc Ninh).
Theo truyền thuyết, vào thế kỷ XI có người nông dân họ Lý, nhà nghèo, phải đi cày ruộng thuê ở Tiêu Sơn, An Phòng (Bắc Ninh). Ông ta phải lòng một cô thôn nữ. Nàng có thai và cả hai bị làng đuổi đi nơi khác. Hai vợ chồng đến lập nghiệp ở khu rừng Báng. Ngày nọ,
10
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
chẳng may chồng chết lúc đến giếng uống nước. Lạ thay! Chẳng mấy chốc, mối đùn lên lấp cả giếng. Người vợ nhìn cái bụng ngày một lớn và khóc thương chồng khôn nguôi. Lúc ấy, tại chùa Ông Tâm, vị sư trụ trì đêm nằm ngủ thấy thần báo mộng: “Quét dọn chùa sạch sẽ để ngày mai đón hoàng đế”. Nhà sư vâng lời làm theo.
Sáng sớm mai. Tiếng gà gáy ran trong núi. Hương rừng thơm ngát. Nhà sư ngạc nhiên chỉ thấy có người đàn bà bụng mang dạ chửa đến xin nghỉ chân. Ít lâu sau, nàng đã sinh ra cậu con trai ngôi ngô tuấn tú. Mọi người đều kinh ngạc khi thấy trong lòng bàn tay hài nhi có bốn chữ “sơn hà xã tắc” đỏ thắm như son. Cậu bé ấy tên là Lý Công Uẩn, ngày sau sẽ là vị vua anh minh Lý Thái Tổ - người có nhiều cải cách quan trọng trong lịch sử nước nhà. Một trong những sự kiện đáng chú ý là Lý Công Uẩn đã dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La (Thăng Long) vào năm 1010.
Gần đây, các nhà nghiên cứu lịch sử đã phát hiện thêm nhiều tư liệu - nhất là từ tấm bia “Lý gia linh thạch” ở chùa Tiêu (Bắc Ninh cũ) - chứng minh Lý Công Uẩn là nhân chứng của một mối tình tuyệt đẹp. Các sách sử trước đây chỉ ghi: “Vua họ Lý là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp, Bắc Giang. Mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu, cùng thần nhân giao cấu rồi có chửa, sinh ra vua ngày 12 tháng Hai năm Giáp Tuất (974) niên hiệu Thái Bình năm thứ năm thời Đinh”; hoặc trong Thiên Nam ngữ lục cũng ghi rằng:
Tự nhiên thấy giấc hồn hoa
Ngỡ ai đã đến giao hòa cùng ai
Âm dương thăng giáng một hồi
Thủy liêm động mở, ngọc lơi dề dề
Theo thần phả tại thôn Mạnh Tân, xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh (Hà Nội) nơi thờ thân mẫu Lý Công Uẩn, cho biết rõ bà tên là Phạm Thị Tiên, con gái của cụ ông Long, họ Phạm và cụ bà Đặng Thị Quang. Trong đó có ghi lại truyền thuyết sau khi sinh nở thì hai mẹ con bà: “Trở về quê ở đất Cổ Pháp, trú trong nhà thiền sư Lý Khánh Văn. Bấy
11
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
giờ, trong nhà có hai con chó đá, đặt dưới chân giường, chó tự dưng sủa lên ba tiếng dữ, rồi ngoe nguẩy đuôi mừng khách. Người nhà thấy vậy rất sợ. Khánh Văn bói trong Kinh dịch, ở quẻ Càn, hào Cửu nhị, lời Thoán nói rằng: “Có thánh nhân đến nhà vào lúc giờ Ngọ”. Quả đúng như vậy”.
Gần đây, các nhà nghiên cứu như Tiến sĩ sử học Quỳnh Cư cho biết người đàn bà họ Phạm mà chính sử còn ghi, lại tên thật là Phạm Thị Ngà và khẳng định “Lý Công Uẩn là con thiền sư Vạn Hạnh... Mối tình của họ được ngưỡng vọng, sùng kính vì đã cống hiến cho đất nước người anh hùng kiệt xuất, sáng lập triều Lý, sáng lập kinh đô Thăng Long ngàn năm văn vật”(1).
Chùa Tiêu (Bắc Ninh)
(1) Nhân Dân hàng tháng số 29 (9.1999)
12
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Tượng bà Phạm Thị -
mẹ Lý Công Uẩn được
thờ tại đền Thiên Đài.
Đồng tình với quan điểm này, trong tập sách Văn hóa quê hương nhà Lý (NXB Hà Nội - 1999) hai nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy, Nguyễn Duy Nhất cũng cho rằng: “Cùng với việc ông Lý Công Uẩn gắn với làng quê của mình bởi những cái tên làng Cổ Pháp, chùa Cổ Pháp, còn có một hiện tượng nữa mà lâu nay chưa ai nghĩ tới, đó là cái tên làng ông trước là Diên Uẩn. Diên ở đây có nghĩa là dài lâu kéo dài (như Diên Thọ là kéo dài tuổi thọ), Uẩn là tiềm ẩn một sức mạnh. Diên Uẩn là tiềm ẩn một sức mạnh lâu dài. Lý Công Uẩn là ông tiềm ẩn một sức mạnh lâu dài, họ Lý. Nhưng ở đây ông Lý Công Uẩn sẽ trở thành nhà vua trị thiên hạ, thì phải hiểu cái tên Công Uẩn là sức mạnh tiềm ẩn lâu dài công phá ra. Nhà sư Lý Vạn Hạnh hoặc nhà sư Lý Khánh Văn đặt cho ông cái tên Lý Công Uẩn chẳng phải là chuyện bình thường mà là ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa. Vì thế mới có chuyện sử chép sư Vạn Hạnh bảo đứa trẻ này không phải là người
13
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
bình thường, sau lớn lên sẽ có thể giải nguy gỡ rối, làm minh chủ trong thiên hạ” (tr. 64) và “Khi ông Lý Công Uẩn đã lên làm vua, thì ông có thừa quyền hành để nêu rõ tên thật cha, mẹ, chú, anh, bà nội, khi phong tước, nhưng tại sao phải giấu tất cả các tên thật. Điều đó nói lên Lý Công Uẩn vướng vào một cái lý, cái lý đó vì ông là con ruột một vị sư - vị sư Lý Vạn Hạnh - mà đã là một vị sư, đi tu Phật thì không thể có con” (tr.66).
Nhưng sự thật Lý Công Uẩn có đúng là con ruột của thiền sư Vạn Hạnh (hoặc con của thiền sư Lý Khánh Văn) hay không, thì đây vẫn còn là một vấn đề mà giới sử học chưa chính thức kết luận. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nêu lên những thông tin này để chúng ta cùng tham khảo về lý lịch của một nhân vật kiệt xuất, mà trước đây chính sử chỉ ghi dè dặt là bà Phạm Thị đi chơi núi Tiêu Sơn, cùng với thần giao cầu sinh ra Lý Công Uẩn.
Nhưng có một điều chắc chắn là Lý Công Uẩn khi lên ba tuổi, được mẹ đem gửi cho nhà sư Lý Khánh Văn - em ruột của thiền sư Vạn Hạnh nuôi dưỡng. Có truyền thuyết, một lần nọ sư sai chú tiểu Lý Công Uẩn đem oản lên cúng thần Hộ pháp, nhưng tiểu lại khoét oản ăn trước. Đêm ấy, thần báo mộng cho sư biết. Bị nhà sư mắng, tiểu giận lắm, bèn viết vào sau lưng Hộ pháp bốn chữ “đồ tam thiên lý” (đày ba ngàn dặm). Đêm ấy, nhà sư lại mộng thấy thần đến, mặt ỉu xìu, buồn bã:
- Hoàng đế đã đày tôi đi xa, xin có lời chào ông!
Sư lấy làm lạ, sáng sớm đến chỗ Hộ pháp thì quả nhiên thấy có bốn chữ ấy, nhưng rửa mãi cũng không phai dấu tích. Chỉ đến khi Công Uẩn bước vào, lấy tay xoa nhẹ là sạch ngay. Ai nấy cũng đều lấy làm lạ.
Đến năm bảy tuổi, chú tiểu Lý Công Uẩn được sư Lý Khánh Văn gửi cho thiền sư Vạn Hạnh giáo dục, dạy dỗ. Lại có truyền thuyết, một hôm chú tiểu trốn học, bị thiền sư bắt ngủ ngoài tam quan. Đêm ấy, không ngủ được, tiểu ngâm bốn câu thơ (Hoàng Ngọc Phách, Kiều
14
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Thu Hoạch dịch):
Trời làm màn gối, đất làm chiên,
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên.
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi,
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.
Nghe tiếng thơ vang vọng, thiền sư Vạn Hạnh mừng lắm, biết tiểu có chân mạng đế vương nên càng ra sức dạy dỗ.
Vạn Hạnh là một trong những vị thiền sư lừng lẫy nhất ở thế kỷ XI, người làng Cổ Pháp - tức làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn (Bắc Ninh) không rõ năm sinh, chỉ biết mất năm 1018. Thuở nhỏ, thiền sư Vạn
Thiền Sư Vạn Hạnh -
người đóng vai trò quan
trọng đưa
Lý Công Uẩn lên ngôi
15
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Hạnh thông tuệ khác thường, coi khinh công danh phú quý. Năm 21 tuổi, ngài cùng sư Đinh Huệ học đạo với Thiền Ông ở chùa Lục Tổ. Mỗi lời ngài nói ra thiên hạ đều coi như sấm ngữ, từng bày mưu giúp vua Lê Đại Hành phá Tống bình Chiêm Thành nên được nhà vua tin cậy, kính trọng, thường triệu đến triều bàn việc nước. Nhờ vậy, thiền sư đã tiến cử Lý Công Uẩn vào bộ máy quyền lực triều Lê.
Hàng loạt truyền thuyết có tính chất siêu phàm, hoặc những bài sấm ký lạ lùng chính do thiền sư Vạn Hạnh tạo nên - một bước chuẩn bị cần thiết để sau này đưa Lý Công Uẩn lên ngôi báu.
Bấy giờ, sau khi vua Lê Đại Hành băng hà (1005) thì nội bộ triều Lê trở nên rối ren. Sinh thời nhà vua đã định cho con thứ ba là Long Việt làm Thái tử, nhưng ngay khi cha mất thì các con cấu xé, tranh giành ngôi báu trong bảy tháng ròng rã. Đến khi Long Việt lên ngôi vừa được ba ngày thì bị em ruột là Long Đĩnh sai người vào cung giết chết. Khi Long Việt bị giết, các quan đều sợ hãi trốn chạy, duy chỉ có Lý Công Uẩn ôm thây vua mà khóc, Long Đĩnh cho là người trung nên mới thăng chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ.
Theo sử cũ, do trước đây cầu xin Thái tử nhưng không được, thì nay cướp ngôi lên làm vua, Long Đĩnh tha hồ dâm dục, làm ác chẳng khác gì vua Kiệt, Trụ bên Trung Quốc. Chẳng hạn, khi bắt được người Mán thì sai dùng gậy mà đánh, bị đánh đau quá nên họ réo tên vua cha ra mà rủa thì Long Đĩnh lấy làm thích lắm. Long Đĩnh còn cho làm chuồng nhốt người vào trong đó rồi đốt cháy hoặc thả xuống nước, đợi lúc thủy triều lên sặc nước mà chết. Hay cho người róc mía trên đầu nhà sư, giả lỡ tay để dao chém vào đầu. Hoặc bắt tù leo lên cây rồi dưới sai người chặt gốc cho cây đổ; trồng cây sắt, nung đỏ rồi bắt tù leo lên v.v... Đã thế trong buổi chầu bàn việc nước, Long Đĩnh lại sai bọn phường chèo vào pha trò khôi hài để át luôn lời tâu của các quan! Tàn bạo, hoang dâm vô độ và mắc bệnh trĩ đến nỗi không ngồi được, mỗi lúc chầu triều phải nằm, nên bá quan gọi nhà vua là Lê Ngọa Triều. Khắp nơi thiên hạ đều than oán. Một ông vua như thế thì làm sao giữ được kỷ cương phép nước?
16
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Gần đây đã có một vài nhà sử học đặt lại vấn đề về “tính cách” Lê Ngọa Triều mà sử cũ đã ghi. Họ không đồng tình với các thông tin nêu trên, mà đưa ra những lập luận, lý luận để “bào chữa”. Chúng tôi chỉ xin nêu ra để bạn đọc tham khảo. Có một sự thật không chối cãi, khi Long Đỉnh làm vua, nhận thấy đây là thời điểm chín muồi, thiền sư Vạn Hạnh đã làm hết sức mình để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi. Ngày nọ, sau một đêm mưa sấm sét dữ dội, đột nhiên cây đa trước chùa Cổ Pháp bị sét đánh đổ. Thiên hạ thấy trong ruột cây có chữ rằng:
Thụ căn diểu diểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung xuất nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Những câu này trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ giải thích: “Gốc rễ sâu thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Cây hòa đao rụng (hòa đao mộc ghép lại, có âm Hán Việt là Lê, ám chỉ nhà Lê không còn). Mười tám hạt sẽ thành (thập bát tử ghép lại, có âm Hán Việt là Lý, ám chỉ nhà Lý được dựng lên). Đông a vào trong đất (Đông a ghép lại, có âm Hán Việt là Trần, ám chỉ nhà Trần, vì họ Trần có nguồn gốc từ Trung Quốc nên mới có chữ “nhập địa”). Cây lạ sẽ tái sinh (dị mộc là ám chỉ nhà Hậu Lê). Hướng đông mặt trời mọc (có lẽ là chữ Mạc). Hướng tây sao lặn đi (có lẽ là Tây Sơn). Khoảng sáu, bảy năm nữa, thiên hạ thái bình (lục thánh là chữ Nguyễn)” (1).
(1) Để góp phần hiểu rõ nghĩa của bài sấm này, ta biết rằng cũng có cách giải thích khác nhau đôi chỗ, thứ nhất có thể ngờ rằng, các câu: “Đông a nhập địa/ Dị mộc tái sinh” là do người sau thêm vào nhằm phục vụ ý đồ chính trị của thời điểm ấy; thứ hai các câu: “Chấn cung xuất nhật/ Đoài cung ẩn tinh” nên hiểu là “chấn cung” chỉ phương đông là đất Cổ Pháp; “đoài cung” chỉ phương tây là đất Hoa Lư, ý nói mặt trời ở phương đông lên thì sao ở phương tây lặn đi, nhà Lý lên thì nhà Lê lặn. Cách giải thích này hợp lý hơn.
17
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Trước hiện tượng kỳ dị này, thiền sư Vạn Hạnh mới bảo Lý Công Uẩn:
- Gần đây tôi thấy lời sấm lạ, biết rằng họ Lý đang thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp, đứng đầu trăm họ. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, là người khoan từ nhân thứ, lại được lòng dân, mà binh quyền đang nắm trong tay. Vậy người đứng đầu muôn dân chẳng phải là ông thì còn ai nữa! Tôi nay đã ngoài bảy mươi, xin đừng chết vội, để còn xem đức hóa của ông thế nào, thực là dịp may ngàn năm có một!
Lý Công Uẩn nghe nói thế cả sợ, nếu lời ấy lọt đến tai nhà vua thì mất mạng ngay, bèn sai người dẫn sư Vạn Hạnh vào trốn trong núi Tiêu Sơn. Theo truyền thuyết, bấy giờ, vua Lê Long Đĩnh ăn khế nhưng lại thấy trong ruột có hột lý (hột mận) thì càng tin vào sấm truyền, bí mật sai thủ hạ tìm giết những người họ Lý, ấy thế mà Công Uẩn ở bên cạnh lại không biết!
Trước khi Lê Long Đĩnh mất ít nhất là ba tháng, thiền sư vạn Hạnh đã cho lưu hành ở các nơi bài Quốc tự nói bóng gió đến việc Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ sắp giành được ngôi báu:
Cái tam nguyệt chi nội
Thân vệ đăng trụ xã tắc
Lạc trà ẩn quốc tự
Thập khẩu thủy thổ khứ
Ngộ thánh hiệu Thiên Đức
Những câu này có nghĩa: “Chắc trong vòng ba tháng nữa. Thân vệ sẽ lên làm chủ xã tắc. Cây đa in chữ quốc. Ở vùng đất Cổ Pháp (“Thập khẩu thủy thổ khứ”, hợp lại thành chữ Cổ Pháp). Gặp thánh hiệu Thiên Đức”.
Năm 1009, khi Lê Long Đĩnh vừa mất thì thiền sư Vạn Hạnh cũng đã cho treo bảng ở nhiều nơi, trên bảng viết bốn câu báo cho mọi người biết nhà Lý sẽ xuất hiện trên vũ đài chính trị:
18
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Tật lê trầm Bắc thủy
Lý tử thụ Nam thiên
Tứ phương can qua tĩnh
Bát biểu hạ thái bình
Những câu này có nghĩa: “Gốc lê chìm biển Bắc. Cây lý mọc trời Nam. Bốn phương binh đao lặng. Tám hướng chúc thái bình”. Rõ ràng, ngoài chốn dân gian thiền sư Vạn Hạnh đã đi trước một bước để tác động đến lòng dân, chuẩn bị cho một sự thay đổi sẽ diễn ra theo “mệnh trời” đã định!
Một thuận lợi nữa là ngay sau khi vua Lê vừa băng hà, thừa lúc vắng người, quan Chi hậu Đào Cam Mộc mới nói với Lý Công Uẩn:
- Lòng dân đang ngong ngóng, muốn có được bậc chân chúa, sao ông không nhân lúc này noi dấu vua Thang, vua Vũ, bắt chước việc làm của nhà Đinh, nhà Lê mà cứ cam phận làm kẻ bề tôi?
Mặc dù vui lòng với những lời nói khích ấy, nhưng Công Uẩn vẫn nghiêm nét mặt:
- Sao lại nói thế? Tôi bắt ông đem nộp cho bá quan mới được!
Không ngờ sự thể lại như thế này, nhưng Đào Cam Mộc vẫn bình tĩnh:
- Tôi thấy thiên thời, địa lợi, nhân hòa đã thuận cho ông nên mới nói thế. Nay ông muốn tố giác tôi thì cứ việc, tôi nào có sợ chết đâu!
Nghe câu nói rắn rỏi, quả quyết ấy, Công Uẩn biết Đào Cam Mộc không hài lòng nên dịu giọng:
- Tôi nào nỡ làm thế. Xin ông bình tâm. Chỉ sợ lời nói của ông lọt ra ngoài thôi!
Đào Cam Mộc khẽ khàng:
- Người trong thiên hạ ai ai cũng biết cả rồi, còn ngờ gì nữa! Hơn nữa lời sấm đã rõ ràng, không thể giấu kín được mãi. Chuyển họa làm phúc chính là lúc này, ông còn chần chừ gì nữa?
19
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tái hiện cảnh dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La (1010)
trong lễ hội 990 năm Thăng Long - Hà Nội
Công Uẩn trầm ngâm:
- Tôi biết ý ông cùng với sư Vạn Hạnh giống nhau, nếu thật như thế, bây giờ làm thế nào?
Lập tức, Đào Cam Mộc đem câu chuyện này bàn với bá quan đang họp trong triều thì ai nấy cũng đồng lòng tôn Lý Công Uẩn lên ngôi báu. Tiếng hô vang dậy cả cung đình.
Từ đây, lịch sử nước nhà mở ra triều đại nhà Lý, từ Thái Tổ Lý Công Uẩn đến Lý Chiêu Hoàng cả thẩy là 216 năm, truyền ngôi được 9 đời.
Tháng hai năm 1010, năm thứ nhất niên hiệu Thuận Thiên của vua Lý Thái Tổ, nhà vua suy nghĩ: “Lập quốc phải định đô. Kinh đô của nhà Đinh, Lê ở Hoa Lư tuy bốn bên núi như vách dựng, địa thế hiểm, nhưng chật hẹp, không có chỗ trung quân”. Sau đó, ngài tự tay viết Thiên đô chiếu
(Chiếu dời đô), chuyển kinh đô từ Hoa Lư về Đại La (tức Thăng Long - Hà Nội ngày nay). “Trong lịch sử văn học, Chiếu dời đô là một áng văn có vị trí rất quan trọng. Tác phẩm phản ánh ý chí của ông cha ta trong sự nghiệp dựng nước Đại Việt độc lập, thống nhất và giàu mạnh. Đúng như bài Chiếu dời đô đã dự liệu, việc dời đô ra Thăng Long đã mở đầu thời kỳ phát
20
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
triển nhanh chóng của dân tộc,
đẩy mạnh quá trình hưng thịnh
của nước Đại Việt”.(1)
Toàn văn Chiếu dời đô
(Nguyễn Đức Vân dịch) như
sau:
“Xưa, nhà Thương đến vua
Bàn Canh năm lần dời đô; nhà
Chu đến vua Thành Vương cũng
ba lần dời đô, há phải các vua thời
Tam đại đâu có phải theo ý riêng
mình mà tự tiện chuyển dời? Làm
như thế cốt để mưu nghiệp lớn,
tính kế cho con cháu muôn vạn
đời, trên kính mệnh trời, dưới theo
ý dân, nếu thấy thuận tiện thì
mới dời đổi. Vì vậy, vận nước lâu
dài, phong tục phồn thịnh. Còn
như hai nhà Đinh, Lê lại theo ý
riêng mình, coi thường mệnh
trời, không noi theo dấu cũ của
Thương, Chu, cứ đóng đô nơi đây,
khiến cho triều đại không được lâu
dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ
hao tổn, muôn vật không được
thích nghi. Trẫm rất đau xót,
không thể không đổi dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, có cái thế rồng cuốn
Văn bản Chiếu dời đô tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam
hổ ngồi, đúng ngôi vị Nam, Bắc, Đông, Tây thuận núi sông quay đi ngoảnh lại, (1) Tổng tập văn học Việt Nam - tập 1, NXB Khoa học Xã hội - 1997, trang. 228.
21
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đất rộng mà bằng, đất cao mà thoáng, dân cư khỏi chịu cái cảnh ngập lụt, muôn vật hết sức tươi tốt. Xem khắp nước Việt, chỉ đây là nơi thắng địa. Thật là nơi tụ hội quan trọng của bốn phương, nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?”
Trước suy nghĩ chín chắn ấy, các quan đều tâu:
- Bệ hạ vì thiên hạ mà làm kế lâu dài, trên làm cho đế nghiệp được rộng lớn, dưới làm dân nước được thịnh vượng. Được lợi như thế, ai không dám theo?
Nhà vua hài lòng lắm.
Thiết tưởng, nhân đây ta cũng nên biết qua về “lai lịch” thành Đại La, nơi mà vua Lý Thái Tổ muốn dời kinh đô ra đó. Nhà Hà Nội học Doãn Kế Thiện trong tác phẩm Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội cho biết: “Thành Đại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong. La thành có từ đời nhà Đường bên Trung Quốc, những căn cứ của những đất đã chiếm được đều đắp hai lần thành, thành ngoài gọi là La thành.
Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc (111 trước Công lịch đến 939 sau Công lịch), bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta, đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông Hồng, như Liên Lâu (Tiên Du, Bắc Ninh), rồi đến Long Biên (phía bắc sông Đuống). Đến đời Đường, thường có quân Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn xuống, kéo đến vây đánh phủ Đô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh. Năm 824, Đô hộ là Lý Nguyên Gia, tin theo thuyết phong thủy, cho rằng trước cửa thành Long Biên có dòng nước chảy ngược, nên nhân dân hay nổi lên “làm phản”. Lý Nguyên Gia bèn rời phủ trị sang địa phận huyện Tống Bình, gần sông Tô Lịch. Lúc đầu chỉ xây một tòa thành nhỏ, sau đó nhận thấy nơi ấy có địa thế hiểm yếu, liền lập phủ trị vĩnh viễn ở đó, đắp rộng cao thêm thành, làm cho dân ta hồi đó phải phục dịch rất khổ sở.
22
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Đến năm 866, nhà Đường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm Tiết độ sứ. Cao Biền là một tướng có nhiều tài lược và mưu trí, đã dùng nhiều thủ đoạn để lòe nạt dân chúng, như việc phá những thác ngầm ở dọc sông: đêm đến, hắn cho đục đá đặt thuốc nổ, làm nổ tung những thác ấy, rồi nói phao lên là vì trời giúp vua Đường sai thiên lôi xuống phá thác, làm cho nhân dân sợ hãi. Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại thành Đại La, bốn mặt dài hơn 1.982 trượng linh 5 thước, cao 2 trượng linh 6 thước. Muốn ngăn ngừa không cho nước sông Tô, sông Hồng tràn vào phủ trị, Cao Biền lại cho đắp một đường đê bao bọc ở ngoại thành, dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng, dày 2 trượng, trong thành cho nhân dân làm nhà ở hơn bốn chục vạn nóc. Đường đê bao ngoài thành gọi là Đại La thành, cũng gọi là Ngoại La thành.
Về Cao Biền, trong dân gian còn lưu truyền những truyền thuyết hoang đường, như nói Cao Biền thấy ở đất Giao Châu ta có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu. Vì vậy, ở nông thôn, làng nào có nhiều giếng khơi, người ta vẫn nói đó là giếng do Cao Biền đào ra. Lại như, mỗi khi thấy người nào yếu sức, tay chân cử động run rẩy, người ta thường vẫn nói câu đã gần thành tục ngữ: “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”. Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật “tản đậu thành binh” nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc một trăm lần thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hoá thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, nên khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững vì thế mà có câu nói trên. Lại còn chuyện nói Cao Biền đắp La thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở, một đêm Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo cho Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm.
23
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Từ năm 939, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bắt đầu độc lập tự chủ, nhưng đời Ngô Vương Quyền lại đóng đô ở Cổ Loa, hai đời Đinh, Lê thì đóng đô ở Hoa Lư, thành Đại La trở nên hoang phế. Mãi đến năm 1010, Lý Thái Tổ mới dời kinh đô đến đó, nhưng lại đắp một thành khác nhỏ hẹp hơn gọi là thành Thăng Long. Nền cũ của thành Đại La, phần lớn không còn lại dấu vết, chỉ còn nhận thấy những khoảng từ Thanh Nhàn (giáp Thanh Trì) đi lên cửa ô Cầu Dền sang ô Chợ Dừa, rồi thẳng đến ô Cầu Giấy, ngược lên đến làng Bưởi. Năm kia, ta đã cho theo dấu cũ ấy, sửa chữa lại nhiều nơi, đắp cao lên làm thành thân đê, đề phòng nạn lụt. Còn phần đê La Thành về phía sông Hồng, từ đời Lý đã nhập vào với đê Cơ Xá, và từ đời Trần đã nhập vào với đê Quai Vạc, chuyên ngăn nước sông Hồng” (NXB Hà Nội - 1999).
Nhưng do nguyên cớ nào vua Lý Thái Tổ lại đổi tên gọi Đại La thành Thăng Long? Trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa thu, tháng 7 năm Canh Tuất (1010) vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long”. Ngoài ra, nhà vua còn đổi kinh đô Hoa Lư của triều Đinh, Lê làm phủ Thiên Trường, thăng châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, đổi sông Bắc Giang thành sông Thiên Đức. Như vậy, ta thấy cái tên Thiên Đức đã ứng với câu thơ “Ngộ thánh hiệu Thiên Đức” như trong bài thơ Quốc tự mà thiền sư Vạn Hạnh đã viết trước đây. Nếu đời nhà Đinh, cả nước có 10 đạo thì nay vua Lý Thái Tổ đổi làm 24 lộ, còn châu Ái (Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ An) gọi là trại.
Do từ thuở nhỏ sống trong chùa và được thế lực tăng ni đưa lên ngôi báu nên khi nắm quyền lực trong tay vua Lý Thái Tổ đã cho xây dựng khá nhiều chùa. Chẳng hạn, xuất kho hai vạn quan dựng tám ngôi chùa tại phủ Thiên Đức; trong thành Thăng Long dựng chùa Thiên Ngự, cung Thái Thanh, chùa Vạn Tuế; ngoài thành thì dựng chùa Thắng Nghiêm, Thiên Vương, Thánh Thọ v.v...; ngoài ra tại các làng mạc chùa nào hư hỏng, đổ nát cũng đều cho dựng lại. Không những thế, nhà vua còn cho mở trường cho các nhà sư đến học, tổ chức cho nhân dân thi làm sư; sai người sang nhà Tống thỉnh kinh Tam Tạng đem về dịch...
24
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Trước việc nhà vua cho dựng quá nhiều chùa chiền, về sau trên quan điểm Nho giáo, nhà sử học Lê Văn Hưu không đồng tình: “Thế thì tiêu phí của cải sức lực vào việc thổ mộc không biết chừng nào mà kể. Của không phải là trời mưa xuống, sức không phải là thần làm thay, há chẳng phải là vét máu mỡ của dân ư? Vét máu mỡ của dân có thể gọi là việc làm phúc được chăng?”. Còn nhà sử học Lê Tung cũng có những lời chê dưới thời của ngài “có một điều là không học, chưa chấn chỉnh đạo Nho, thành ra tăng ni hết nửa dân gian, chùa chiền khắp trong thiên hạ...”. Nửa cuối thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tố đã có cái nhìn thỏa đáng hơn: “Chê như thế, có lẽ không được xác đáng. Nước nào cũng thế, gặp buổi giao thời, thường sinh ra tranh cướp, mất cả lòng nhân đạo, nên phải lấy một tôn giáo để dạy dân, và giữ lấy tính tốt (thì) nước ta hồi ấy mới tự trị được hơn nửa thế kỷ; (hơn nữa) đã trải qua bốn họ làm vua, là Ngô, Đinh, Lê và Lý, dân trí chưa được mở mang, trong nước còn loạn lạc đã được thái bình hồi nào mà học?... Có người cho việc xây dựng, sửa chữa chùa chiền là hại dân, nhưng trong sử không thấy chép dân ca thán về việc ấy, mà chính Công Uẩn là người thương dân hơn hết, chắc chắn những việc xây dựng, sửa chữa này không tổn hại gì đến dân”.
Lập luận này ngẫm lại ta thấy thuyết phục, vì ta biết, ngay từ lúc lên ngôi, vua Lý Thái Tổ không chỉ xây chùa chiền mà còn làm được nhiều việc thiết thực hợp lòng dân. Đó là xuống chiếu không thu thuế trong ba năm; những bần nông vì thiếu thuế phải trốn tránh phiêu dạt nơi xa thì nay đều tha, cho về quê quán làm ăn; những tù nhân của thời vua trước nay được cấp quần áo, lương thực rồi tha về nguyên quán... Ba năm sau, khi chiếu tha thuế đã hết hạn thì nhà vua định lại thuế hợp lý hơn trước, rồi ba năm kế tiếp nhân được mùa, nhà vua lại tha thuế v.v...
Về ngoại giao, vua Lý Thái Tổ cũng đã khôn khéo hòa hảo, giao thiệp với nhà Tống - một nước lớn, lúc nào cũng lăm le lấn xuống nước ta. Còn đối với các nước láng giềng, nhà vua tạo ra uy lực, kể cả việc dụng binh đánh nam dẹp bắc để khuất phục, giữ bình ổn trong nước. Sách Khâm định Việt sử cho biết, uy thế của nhà vua lừng lẫy đến nỗi các nước ở xa như Chân Lạp cũng phải sang triều cống.
25
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Trong việc riêng, vua Lý Thái Tổ cũng quan tâm đến việc dạy con. Khi chưa làm vua, có lần thấy con trai lớn là Lý Phật Mã dầu còn bé nhưng những lúc đùa chơi thường bắt trẻ già theo hầu, ngài hỏi đùa:
- Con nhà tướng thì nên luyện tập việc quân, chứ tập lối các quan theo hầu làm gì?
Lý Phật Mã thưa:
- Nhà Lê thay nhà Đinh chẳng phải là việc làm của nhà tướng sao? Theo con, dẫu theo văn hay võ nhưng cứ giỏi là được.
Vì câu trả lời này mà nhà vua đã lập Phật Mã làm Thái tử. Tuy thế, sợ con sống mãi trong thâm cung thì không hiểu được đời sống của nhân dân, nhà vua cho dựng cung Long Đức ngoài thành dành cho Thái tử. Nhờ vậy, do sống gần dân, hiểu dân sau này lên nối ngôi, Lý Phật Mã đã làm được nhiều việc ích nước lợi dân.
Những việc cải cách quan trọng của vua Lý Thái Tổ cũng đã được các nhà sử học đời sau ghi nhận thỏa đáng. Chẳng hạn, nhà sử học Lê Tung trong bài Tổng luận của bộ Đại Việt sử ký toàn thư dù có chê như ta đã biết, nhưng cũng phải khẳng định ngài là người “mở vận nước, có độ lượng khoan dung, có quy mô rộng rãi, dời kinh đô, đắp thành quách, kính giới, thương dân, tha cho thuế ruộng, đặt lệ đóng góp, Bắc - Nam giao hiếu, trong nước thái bình”.
*
* *
Sự kiện dời đô do ông vua khai sáng triều Lý tiến hành, trải qua gần ngàn năm đã chứng minh việc làm này thuận với lẽ trời và lòng người. Riêng Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ còn được giới nghiên cứu nước nhà ghi nhận là văn bản đầu tiên viết về Thăng Long - Hà Nội.
Nhân 990 năm và tiến tới 1000 năm kỷ niệm trọng thể sự kiện này, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã và đang tiến hành bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý giá của Thăng Long - Hà Nội với ý thức để lại cho muôn đời sau. Trên tinh thần đó, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã tiến hành dự án: “Bảo tồn, tôn tạo
26
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
và khai thác di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám” hoàn thành vào mùa thu năm 2000; “Bảo tồn, tu bổ, tôn tạo các di tích Đoan Môn, Hậu Lâu, Bắc Môn trong Thành cổ Hà Nội” cũng đã hoàn thành vào năm 2000; “Bảo tồn, tu bổ và tôn tạo toàn bộ khu vực Thành cổ” cũng được tiến hành sau khi Bộ Quốc phòng di chuyển (tính đến năm 2010). Ngoài ra, trong những năm gần đây, dự án “Xây dựng Bảo tàng Hà Nội”, “Bảo tồn - tôn tạo - khai thác khu di tích Thành Cổ Loa” cũng được tiến hành và dự kiến hoàn thành vào năm 2009. Riêng dự án “Bảo tồn khu phố cổ” cũng đang được tiến hành theo quan điểm giữ gìn cho được phong cách và tâm hồn đặc hữu của toàn bộ khu phố cổ đồng thời đáp ứng những yêu cầu về môi trường sống của đô thị hiện đại; cải tạo thí điểm từng ô phố, từng dãy phố, từng ngôi nhà cổ theo qui hoạch chi tiết được duyệt và theo kế hoạch thực hiện cụ thể của từng năm và nhiều năm.
Có một điều rất thú vị là trong khi cả nước đang hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, thì trong năm 2003 giới khảo cổ đã làm nên một sự kiện rất quan trọng: phát hiện dấu tích hoàng thành Thăng Long. Nói như ông Dương Trung Quốc - Tổng thư ký Hội Sử học Việt Nam thì: “Chưa bao giờ có một di chỉ cho chúng ta nhiều thông tin quý đến như thế. Tôi tin rằng đây cũng là một thông điệp. Giữa lúc chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long và hội nhập quốc tế, thì diện mạo tổ tiên hiển hiện ra. Phải chăng đây cũng là điềm báo hiệu vận hội mới của đất nước”. Về sự kiện này, tổng hợp thông tin trên mạng Vietnam Express thì ta được biết:
Sau hơn 5 tháng khai quật diện tích hơn 14.000m2 xung quanh khu vực hội trường Ba Đình, lần đầu tiên, vào tháng 9/2003 người ta có thể nhìn thấy tận mắt một phần diện mạo cực kỳ phong phú của các cung điện xưa trong Hoàng Thành thời Lý, Trần, Lê. Qua 14 hố khai quật, các chuyên gia đã làm xuất lộ được nền móng của một cung điện lớn dài 62 mét, rộng 27 mét với 9 gian nhà thuộc thời Lý và thời Trần với hệ thống 40 trụ móng được người xưa xử lý chống lún rất kiên cố. Điều đáng kinh ngạc là các nhà khảo cổ đã tìm thấy một giếng nước từ thời Lý còn khá nguyên vẹn, đường kính 68cm, sâu 2m50 cùng hai giếng thời Lê. Tiếp đó là dấu tích hai nền móng cung điện thời Lý
27
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Giếng thời nhà Lý trên đất Thăng Long (khai quật 2003)
có chân tảng đá hoa sen, dài 24m50, rộng 20 mét. Đây là di tích cung điện thời Lý duy nhất ở Thăng Long còn nguyên vẹn: chân tảng hoa sen được xếp đặt ngay ngắn trên các trụ móng cột. Ngoài ra, người ta còn phát hiện hệ thống cống thoát nước thời Lý - Trần và dấu vết rõ nét một con đường rải sỏi dài 27,5 mét.
Tổng số di vật tìm được ước tính trên 4 triệu, chủ yếu là gạch, ngói, các đồ gốm trang trí và tiền cổ. Trong số này, có những viên gạch khắc chữ “Đại Việt quốc quân thành nguyên”, chỉ rõ là gạch để xây thành của nước Đại Việt thời Đinh - Lê. Những viên gạch khắc chữ “Lý gia đệ tam Long Thụy Thái Bình tứ niên đạo” cho biết đó là gạch xây cung điện thời Lý năm 1057. Ngoài ra, các di vật khác như vũ khí, các loại tiền đồng, đồ dùng sinh hoạt và đồ trang sức kim loại phản ánh đời sống kinh tế - xã hội - văn hóa thời đó...
Kế tiếp với việc khai quật hố thám sát thứ hai tại số nhà 62 - 64 Trần Phú, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một đoạn tường kiến trúc, xây bằng đá ong. Phía dưới đoạn tường có một rãnh nước cổ chạy chui xuống chân tường, được kè bởi một hàng cọc gỗ. Tuy nhiên, công năng của kiến trúc này còn chưa được rõ, vì vậy, công việc khai quật phải dừng lại để xin phép mở hố thám sát B.
28
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Trong lòng hố 2B chỉ rộng hơn 20m2, ở tầng trên đã phát hiện toàn bộ phế tích của một lò gốm kinh thành Thăng Long thời Trần: như các con kê gốm, mảnh tường lò gốm… Theo Tiến sĩ Hà Văn Cẩn, nếu không phát hiện ra phế tích lò gốm này, chắc chắn sẽ rất dễ lầm lẫn số đồ gốm thu được ở đây là đồ Trung Quốc bởi độ tinh tế, mảnh mai của chúng. Có những chiếc bát mỏng như vỏ trứng, gần như trong suốt, hoa văn tinh xảo và trang nhã. Đây là một bất ngờ lớn vì cho tới nay, nhiều người vẫn cho rằng gốm Việt thời Trần chưa đạt đến trình độ công nghệ đó.
Tuy nhiên, bên dưới lò gốm mới là điều mọi người tìm kiếm: ở độ sâu 4m20, một kiến trúc xây bằng gạch và đá ong, không rõ là tường thành hay tường cung điện. Vì vậy, nhóm khai quật lại phải ngừng lại để xin phép mở hố thám sát 3.
Căn cứ theo tim tường kiến trúc vừa phát hiện, dịch về phía bắc 40 mét, hố 3 được mở với diện tích rộng đến 80m2. Kiến trúc cũ vẫn xuất hiện, lần này nguyên vẹn hơn. Đã có thể khẳng định đây là một đoạn của tường thành. Chiều rộng của dải tường này là 1m50, cao 1m50. Tính từ chân thành lên đến mặt đất là 3,8 mét. Cấu trúc gồm một lớp đá lát móng, một lớp gạch vồ ở trên và phần trên cùng được xây bằng đá ong.
Nếu nối hai đoạn đào được từ hố 2B sang hố 3 sẽ được một đoạn thành dài đến 50 mét chạy theo hướng Bắc - nam. Còn nếu nối với vết tích đoạn thành tìm được khi đào móng xây dựng Lăng Hồ Chí Minh năm 1977 thì sẽ có thể tìm thấy một đoạn thành dài đến 500 mét. Tiến sĩ Hà Văn Cẩn khẳng định, ở dưới cốt nền rất sâu như vậy, nếu được phép khai quật, chắc chắn sẽ gặp đoạn tường thành này.
Cũng trong hố 3, các nhà khảo cổ còn tìm thấy ở độ sâu 3,6 mét một nền kiến trúc thời Lê, hai mộ táng đầu thế kỷ, hai chuỗi tiền Khang Hy thông bảo (1676 - 1726). Ở độ sâu 4,4 - 4,5 mét, họ còn tìm thấy các dấu tích văn hóa Lý - Trần với rất nhiều đồ gia dụng: chậu gốm, mảnh sành, một cụm năm gốc cây chưa rõ cây gì, hạt cây, mai cua, vỏ sò… Ở độ sâu 5,1 mét - độ sâu nhất, cũng vẫn tìm thấy các mảnh sành của những chiếc chum, chậu bị vỡ.
29
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Đoạn thành vừa phát hiện trên có niên đại trong khoảng từ triều Lê đến triều Nguyễn. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ cho biết điều này không quan trọng bằng việc lần đầu tiên chúng ta đã có thể hình dung được cụ thể sự tồn tại của hoàng thành Thăng Long, không chỉ qua sử liệu mà qua những dấu tích vật chất.
Ta cũng có thể hình dung được Thăng Long mấy trăm năm trước là một vùng đất thấp như thế nào so với cốt nền hiện tại. Mặt khác, Tiến sĩ Tống Trung Tín - Viện phó Viện Khảo cổ - vẫn cho rằng “dân ở đâu thành ở đó”. Nếu theo lý thuyết này, thì dẫu chưa tìm thấy di tích thành thời Trần, nhưng với việc tìm thấy những dấu tích văn hóa và di chỉ cư trú của người dân thời Trần, có thể hình dung thành Thăng Long các thời trước Lê - Nguyễn sẽ dao động với biên độ nhỏ quanh chân thành thời Lê - Nguyễn vừa tìm được (có thể rộng hơn hoặc hẹp hơn, tùy từng triều đại).
Trước phát hiện về bức tường phía tây này, các nhà khảo cổ cũng đã xác định được con đường thần đạo lát gạch hoa chanh, chạy từ cột cờ Hà Nội qua Đoan Môn đến điện Kính Thiên, là trung tâm của hoàng thành thế kỷ XIII - XIV. Họ cũng phát hiện thấy điện Kính Thiên thời Lý - Trần trùng với điện Thiên An thời Lý - Trần. Liên kết các dữ kiện này, các nhà khoa học đã có được một hình dung về hoàng thành Thăng Long ngày càng rõ nét hơn.
Trong lúc đó, một cuộc khai quật khác, cũng cực kỳ quan trọng và có quy mô lớn nhất từ trước đến nay ở trung tâm Hà Nội (trên diện tích 2.000m2 với 12 hố khai quật được mở cùng lúc) trên khu đất 18 Hoàng Diệu, 1A Hoàng Văn Thụ, đang diễn ra gấp gáp cho kịp tiến độ thi công tòa nhà Quốc hội - nơi trước kia là trung tâm hoàng thành. Cả hai chuyên gia đầu ngành khảo cổ Việt Nam là GS Trần Quốc Vượng và GS Hà Văn Tấn đều cho rằng, những dấu ấn vật chất của một Thăng Long vàng son với lâu đài, cung điện, thành quách sẽ tiếp tục lên tiếng qua cuộc khai quật này.
Ngày 11/11/2003, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa Thông tin (VHTT), Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia
30
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
đã tổ chức họp báo, thông báo kết quả khai quật khảo cổ học bước đầu tại khu vực xây dựng mới Nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình. Theo ông Bộ trưởng Bộ VHTT Phạm Quang Nghị, sau khi tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học trên nhiều lãnh vực thì có 3 phương án được đề xuất:
⬥ Phương án 1: Bảo toàn toàn bộ di tích khai quật được như một bảo tàng ngoài trời.
⬥ Phương án 2: Kết hợp việc xây dựng các công trình mới với các bảo tồn tại chỗ một số bộ phận tiêu biểu, quý giá nhất của di tích. Dành một phần diện tích nhất định trong khu vực này xây dựng bảo tàng, hoặc dành một phần diện tích trong Nhà Quốc hội mới trưng bày những tài liệu, hiện vật, mô hình hiện trạng di tích.
⬥ Phương án 3: Trong trường hợp chưa đủ các điều kiện về quản lý, bảo vệ, bảo quản và tài chánh để bảo tồn tại chỗ thì tạm lấp cát, khi nào hội đủ điều kiện sẽ khai quật lại để bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
Trở lại với sự kiện năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời kinh đô từ Hoa Lư ra thành Đại La (Thăng Long), rõ ràng đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của một minh quân. Nói như vậy, vì không phải trong thời đại Hồ Chí Minh chúng ta mới thừa nhận, mà trước đó, năm 1397, khi Tuyên trung vệ quốc đại vương Hồ Quý Ly quyết định dời kinh đô về An Tôn (Thanh Hóa) thì Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết đã dâng thư can: “Ngày xưa nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điềm chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô Nhị (sông Hồng), núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa, các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ. Hãy nên noi gương việc trước: khi ấy quân Nguyên bị giết, giặc Chiêm phải nộp đầu... Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững mạnh cho nước nhà. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị. Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: “Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”.
31
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tất nhiên Hồ Quý Ly không nghe theo, sau khi xây thành xong ở An Tôn gọi là Tây Đô. Do đó, Thăng Long trở thành Đông Đô. Sau khi tiêu diệt nhà Hồ, giặc Minh đổi Đông Đô thành Đông Quan. Năm 1428, khi giải phóng Đông Quan, anh hùng Lê Lợi đổi lại thành Đông Kinh. Dưới thời vua Lê Thánh Tông lại đổi Đông Kinh thành phủ Trung Đô rồi phủ Phụng Thiên. Đến đời nhà Mạc rồi triều vua Lê - chúa Trịnh lại trở lại với tên gọi Thăng Long.
Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa và mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII - XVIII là giai đoạn phát triển của các thành thị trên quy mô cả nước. Thăng Long lại quen thuộc trong dân gian với cái tên Kinh Kỳ, Thượng Kinh hay Kẻ Chợ.
Từ năm 1788 Bắc bình vương Nguyễn Huệ cũng đã có ý định nhờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tìm đất để dựng kinh đô mới tại Nghệ An với lý do: “Nay kinh Phú Xuân thì tình thế cách trở. Ở xa trị Bắc hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng: chỉ đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về”. Sau ba lần bảy lượt tìm chọn vị trí, cuối cùng Phượng Hoàng Trung đô được dựng tại Yên Trường (Vinh), cụ thể là vùng đất giữa núi Dũng Quyết và núi Con Mèo. Nhưng rồi do biến động khốc liệt của thời cuộc, Phượng Hoàng Trung đô chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi...
Dưới thời Tây Sơn, do vua Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân (Huế) nên Thăng Long được đổi thành Bắc Thành. Sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, vua Gia Long vẫn giữ tên Bắc Thành nhưng đổi phủ Phụng Thiên ra Hoài Đức. Năm 1831, vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội gồm 4 phủ: Hoài Đức, Ứng Hòa, Thường Tín và Lý Nhân. Tỉnh lî đặt ở phủ Hoài Đức tức ngay vị trí thành Thăng Long cũ nên Thăng Long cũng được gọi là Hà Nội. Trải qua năm tháng, Thăng Long ngày càng phát triển và trở thành trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế... của cả nước:
32
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Ngang
Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng
Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng Buồm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
Quanh đi đến phố Hàng Da
Trải xem phường phố thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền
Đình làng Đình Bảng hiện nay (2008)
33
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Khi đặt tên Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã ý thức Thăng Long là biểu tượng của Rồng bay, vừa mang ý nghĩa vươn lên của dân tộc, vừa hướng về cội nguồn Tiên - Rồng. Từ năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã đổi chữ Long là Rồng thành chữ Long là Thịnh, vì lấy cớ Rồng tượng trưng cho vua, nhưng vua không đóng đô nơi này nên chữ Long chỉ còn mang ý nghĩa là thịnh vượng mà thôi.
Ngày nay, tên gọi thủ đô Thăng Long - Hà Nội chắc chắn trở lại với ý nghĩa như vua Lý Thái Tổ đã đặt tên. Còn làng Đình Bảng - nơi phát tích nhà Lý, nay có Đền Đô (tức đền Cổ Pháp) để thờ tám vị vua triều Lý nên còn gọi là Đền Lý Bát Đế, riêng Lý Chiêu Hoàng, vị vua thứ 9 của triều Lý thì được thờ tại Đền Rồng. Từ ngày 25/1/1991, Bộ Văn hóa Thông tin ký quyết định số 154 công nhận Đền Đô là Di tích Lịch sử - Văn hóa. Hàng năm Lễ hội Đền Đô được tổ chức rất trọng thể vào ngày 15 - 17/3 âm lịch, kỷ niệm ngày vua Lý Thái Tổ đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất).
34
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
TRẦN THỦ ĐỘ
Người mở đầu sự nghiệp dựng nước
và giữ nước thời Trần
Trong lịch sử có những nhân vật mà khi viết về họ, giới sử học đã có sự đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngược nhau; hoặc trong thời điểm này ghi nhận họ có công, nhưng ở thời điểm khác lại cho rằng họ có tội và ngược lại. Trần Thủ Độ, sinh năm 1194 ở làng Lưu Xá (Hưng Hà - Thái Bình) là cháu họ của Trần Lý là một trong những nhân vật như thế. Các sử thần thời Lê, từ Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên đến Lê Quý Đôn đều lên án hành động của Trần Thủ Độ trong việc lật đổ nhà Lý lập nhà Trần. Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá: “Thủ Độ coi việc đó là hết lòng trung, lo việc nước, nhưng biết đâu thiên hạ đời sau đều chỉ mặt gọi là giặc giết vua, huống chi còn làm thói chó lợn”; thời nhà Nguyễn, vua Thiệu Trị liệt ông vào hàng loạn thần nhà Lý, bắt phải hủy bỏ đền thờ, còn vua Tự Đức phê: “Nết xấu như chó lợn, dạ độc ác như hùm beo”; đến giữa thế kỷ XX các nhà viết sử như Trần Trọng Kim cũng viết: “Thật là người rất gian ác đối với nhà Lý” v.v... Gần đây, giới sử học nước nhà đã có cái nhìn khác. Nhân kỷ niệm 800 năm sinh của Trần Thủ Độ, từ ngày 26 đến 27/5/1994 Viện Sử học đã phối hợp với Sở Văn hóa Thông tin và Du lịch tỉnh Thái Bình tổ chức hội thảo khoa học “Thái Bình với nhà Trần” và xuất bản tập sách Trần Thủ Độ con người và sự nghiệp. Qua đó, hội thảo đã ghi nhận “Trần Thủ Độ là một danh nhân lịch sử lớn của dân tộc
35
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
cần đưa về vị trí xứng đáng của ông”. Nhà sử học Nguyễn Quang Ân lại đánh giá Trần Thủ Độ là “nhân vật kiệt xuất trong lịch sử nước ta. Ông xứng đáng mở đầu cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước vẻ vang thời Trần” và còn cho biết thêm thông tin là nhà nghiên cứu Hoa Bằng ngày 5/2/1971 nhân đi xem quan họ ở vùng Lim (thuộc huyện Tiên Sơn - Bắc Ninh) đã phát hiện ra đền thờ Trần Thủ Độ trên đồi Lim. Trước đền thờ có câu đối ca ngợi công đức Trần Thủ Độ (Nguyễn Quang Ân dịch nghĩa):
Công đức của ông để mãi đến ngày nay, chẳng những chỉ bó hẹp trong hai trăm năm đời nhà Trần;
Sau nghìn đời, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc thứ nhất dưới trời Nam.
Trước những quan điểm đánh giá trái ngược đó, Trần Thủ Độ là người như thế nào?
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nếu vua Lý Thái Tổ - người dựng lên vương nghiệp nhà Lý, là người rất mộ đạo Phật, lúc hưng thịnh nhất, năm 1024, đã cho dựng chùa Chân Giáo trong thành Thăng Long để tẩy rửa bụi trần với câu kinh tiếng kệ thì đúng 200 năm sau lại là nơi chấm dứt vương nghiệp nhà Lý! Lúc triều Lý suy vi nhất, sau khi nhường ngôi cho con gái, vua Lý Huệ Tông lên làm thượng hoàng ra tu ở chùa này và đã thắt cổ tự tử ở đây! Người bức ông vua cuối cùng của triều Lý - nếu không kể Lý Chiêu Hoàng - phải tự chọn lấy giải pháp nghiệt ngã này chính là Trần Thủ Độ.
Như ta biết, vào đời vua Lý Anh Tông, năm 1164 lần đầu tiên “thiên triều” phương Bắc mới công nhận Đại Việt ta là một nước, chứ không phải chỉ một quận như trước đó. “Nước ta thành tên là nước An Nam khởi đầu từ đấy” (Trần Trọng Kim - Việt Nam sử lược). Đây cũng là thời điểm nhà Lý bắt đầu suy vi. Sau khi vua Lý Anh Tông mất, thái tử Long Cán mới 3 tuổi lên nối ngôi, tức vua Lý Cao Tông. Lớn lên, nhà vua ham chơi bời, săn bắn, bỏ bê việc nước, giặc giã nổi lên khắp nơi. Năm 1208, có nội loạn, cha con vua Lý phải bỏ kinh thành mà
36
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
lánh nạn. Nhà vua chạy lên Quy Hóa (vùng sông Thao ở Phú Thọ), còn Thái tử Sam chạy về làng Lưu Gia ở Hải Ấp (nay thuộc Thái Bình) và trú ở trong nhà hào kiệt lừng lẫy nhất trong vùng là Trần Lý.
Nguyên họ Trần vốn người đất Mân (có tài liệu cho là người Quế Lâm), thuở xa xưa trước kia có người họ Trần tên là Kinh đến lập nghiệp ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường(1) sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá.
Khi thái tử Sam trú nhà Trần Lý thì cũng là thời điểm khởi đầu cho một cuộc nhân duyên giữa con trai nhà vua với con gái nhà thường dân. Mối tình này sẽ là đầu mối góp phần tích cực để kết thúc vương nghiệp nhà Lý.
Khi Thái tử Sam thấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc bèn lấy làm vợ thì anh em, con cháu họ Trần xem việc nước cũng như việc nhà. Những tay hiệt kiệt như Trần Lý, Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ... đã mộ quân kéo về kinh thành dẹp loạn, rồi rước vua Lý Cao Tông hồi cung. Do đó, năm 1211 khi Thái tử Sam lên ngôi, lúc ấy mới 16 tuổi, hiệu Lý Huệ Tông, thì đã dành cho anh em nhà Trần nhiều quyền hành, chức tước. Từ đó, họ Trần dần dần tạo được thế lực to lớn trong triều. Riêng Trần Thủ Độ được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ, nắm giữ lực lượng quân đội.
Lúc ấy, vua Lý Huệ Tông chung sống với hoàng hậu Trần Thị Dung, chỉ có được hai công chúa là Thuận Thiên và Chiêu Thánh, không có con trai nối dõi. Đã thế, nhà vua lại thường say sưa bỏ bê việc triều chính. Do rượu chè vô độ, bệnh nặng, rồi phát cuồng, tự xưng Thiên tướng giáng trần. Hàng ngày, Huệ Tông thường cầm mộc và giắt lá cờ trên búi tóc vừa múa may, vừa uống rượu bét nhè đến mê mệt... Năm 1224, lúc bệnh nặng, nhà vua lên làm thượng hoàng, nhường ngôi lại cho con gái thứ Chiêu Thánh, mới vừa 6 tuổi nối ngôi, hiệu Lý Chiêu Hoàng. Trước thời cơ này, Trần Thủ Độ đã bố trí con cháu họ Trần vào làm sắc dịch trong cung. Trong số những người này,
(1) Sau là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.
37
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Lý Chiêu Hoàng thường thích đùa nghịch với Trần Cảnh vì cùng tuổi nhỏ. Rồi một ngày nọ, cuối năm 1225 Trần Thủ Độ ra lệnh đóng cửa thành, canh phòng cung cấm nghiêm ngặt và loan báo:
- Bệ hạ đã có chồng!
Bá quan đều chưng hửng, nhưng không dám có lời khác ý với Trần Thủ Độ.
Trong chiếu truyền ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho biết: “Họ Lý ta vâng mệnh cao sáng từ trời, có cả bốn biển. Liệt thánh kế tiếp làm vua hơn hai trăm năm, chẳng may gặp việc gian truân, giặc cướp nổi lên như ong, nhân dân không được yên ổn. Thượng hoàng mắc bệnh, không người nối dõi, Trẫm phải vâng theo thánh chỉ, gượng gạo nối ngôi. Trẫm xét ngôi báu rất trọng đại mà Trẫm là vua đàn bà, phải gánh vác lịch số trời giao cho, riêng những nơm nớp lo sợ, như sắp sa xuống vực sâu. Nghĩ sao tìm được hiền nhân quân tử, để giúp đỡ về chính trị. Duy chỉ có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, uy nghi đường hoàng, thực có phong độ bậc thiên tử, có thể nhường ngôi báu để chống đỡ buổi gian nguy. Vậy rất mong Trần Cảnh đồng lòng hợp sức, dẹp yên loạn lạc, cứu vớt dân sinh, để cùng hưởng phúc thái bình”.
Trần Cảnh, cháu nội của Trần Lý, con thứ của Trần Thừa, em của Trần Liễu, lúc ấy mới 8 tuổi, đã lên ngôi báu như thế. Đó chính là Trần Thái Tông (1225 - 1258), niên hiệu Kiến Trung.
Cuộc “đảo chính” trong cung đình nhà Lý do Trần Thủ Độ “đạo diễn” đã diễn ra êm thắm, thuận tình hợp lý, không gây ra binh đao đổ máu. Điều này chứng tỏ ông là một nhà chính trị cực kỳ khôn khéo, sáng suốt, biết chọn thời điểm thích hợp nhất để “bàn giao” chính quyền từ nhà Lý đã suy tàn sang tay nhà Trần. Trần Thừa tuy không làm vua ngày nào nhưng vẫn được tôn làm thượng hoàng. Vì thế vua đầu tiên của nhà Trần gọi là Thái Tông, chứ không phải Thái Tổ như các triều đại khác. Còn Trần Thủ Độ được phong là Quốc thượng phụ, sau gia phong làm Thống quốc thái sư.
Dù đã dứt nghiệp nhà Lý nhưng thượng hoàng nhà Lý là Huệ Tông vẫn còn sờ sờ ra đó, Trần Thủ Độ quyết không để yên. Lần nọ,
38
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Huệ Tông ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Trần Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, liền ép Huệ Tông đến tu tại chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư, thật ra chỉ là một cách để dễ quản thúc. Ngày nọ, Trần Thủ Độ đến chùa xem xét tình hình, thấy Huệ Tông đang ngồi xổm nhổ cỏ, bèn nói xa nói gần:
- Nhổ cỏ thì phải nhổ tận gốc!
Huệ Tông đứng dậy phủi tay:
- Điều ngươi nói ta hiểu rồi!
Lần khác, Trần Thủ Độ sai người đem hương hoa đến dâng cho Huệ Tông. Hiểu ý, tụng kinh xong, Huệ Tông bước vào phòng trong khấn: “Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, nay ta chết thì ngày sau con cháu ngươi cũng phải chịu như thế”, rồi bước ra sau vườn thắt cổ tự tử. Đại Việt sử ký toàn thư có lời bình: “Họ Lý được nước không kém gì Tam Đại, truyền nối nhiều đời, đến Huệ Tông không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương đến đây là hết rồi, cho nên họ Trần mới lấy được nước. Đã lấy nước của người ta, lại giết vua của người ta thì thực là bất nhân quá lắm”.
Sự kiện này diễn ra vào tháng 8/1226.
Với mục tiêu phải loại bỏ hoàn toàn thế lực nhà Lý, do đó, Trần Thủ Độ đã thực hiện nhiều biện pháp, thủ đoạn tàn khốc. Lâu nay, khi nói đến một trong những thủ đoạn tàn khốc ấy, nhiều người vẫn cho rằng, mùa đông năm 1232, nhân tôn thất họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc Bắc Ninh) thì Trần Thủ Độ ngầm sai đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người vào làm lễ thì cho người giật sập, chôn sống những người tham dự! Thật ra, điều này không đáng tin. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, dù các sử thần không mấy cảm tình với Trần Thủ Độ nhưng cũng dè đặt: “Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây”. Nhưng có điều chắc chắn là để tránh sự khủng bố lúc ấy, em của vua Lý Cao Tông, hoàng thúc vua Lý Huệ Tông là hoàng tử Lý
39
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Long Tường đã đem gia quyến giương buồm chạy mãi, cho đến khi tàu cập vào một bán đảo, nay là đất nước Hàn Quốc. Điều hết sức thú vị là năm 1994, ông Lý Xương Căn - hậu duệ đời thứ 31 của vua Lý Thái Tổ - đã về thăm cố quốc. Nhưng đó là chuyện sau này. Chứ bấy giờ, Trần Thủ Độ đã ráo riết thực hiện âm mưu “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Trước hết, triều Trần ban chữ húy về tổ tiên của nhà vua. Ông nội của nhà vua là Trần Lý nên buộc họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn! (1)
Có câu sấm truyền còn lưu đến ngày nay:
Bao giờ rừng Báng hết cây
Tào Khê hết nước Lý nay lại về
Rất có thể là do nhà Trần đặt ra để lòng dân ngày ấy nguôi dần hy vọng vào nhà Lý. Bên cạnh đó, Trần Thủ Độ còn thực hiện chính sách đem cung nhân, con gái họ hàng nhà Lý gả cho các tộc trưởng người Mán! Không những khắc nghiệt đối với họ Lý, mà ngay cả trong nội bộ nhà Trần, Trần Thủ Độ cũng “sắp xếp” lại một cách thô bạo, theo nhận định của Đại Việt sử ký toàn thư thì “chốn buồng the cũng có nhiều điều hổ thẹn”: Trần Thị Dung - vợ của thượng hoàng nhà Lý là Huệ Tông, bị giáng làm Thiên cực công chúa và trở thành vợ của... Trần Thủ Độ, dù hai người là chị em họ với nhau! Vua Trần Thái Tông và Lý Chiêu Hoàng chung sống với nhau hơn mười năm nhưng vẫn chưa có con, sợ sau này sẽ ảnh hưởng đến ngôi vị của nhà Trần nên năm 1237, Trần Thủ Độ ép nhà vua giáng hoàng hậu làm công chúa, để lấy vợ của anh ruột mình là Trần Liễu đưa lên làm hoàng hậu! Đơn giản chỉ vì bà chị dâu này đang có thai được ba tháng!
Quyết định khủng khiếp này khiến anh em nhà vua nổi loạn. Nửa đêm, vua Trần Thái Tông trốn ra khỏi kinh thành tìm đường lên núi Yên Tử, đến chỗ quốc sư Phù Vân vốn là bạn cũ để cùng vui kinh kệ, rửa sạch lòng trần. Xã tắc không thể không có vua, dù chỉ một ngày,
(1) Trên báo Thanh Niên số ra ngày 21/10/2003 nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên cho biết” “Dòng họ Bàng của chúng tôi có quê gốc Bình Lục (Hà Nam), chính từ hoàng tộc nhà Lý bị Trần Thủ Độ truy sát phải đổi họ”. Nếu họ Trần tước họ Lý thì về sau năm 1395, Hồ Quý Ly đã bức tôn thất họ Trần sang họ Mai. Trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Theo lệ cũ, người tôn thất có tội nặng phải tước bỏ họ cũ, đổi gọi họ Mai.
40
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Trần Thủ Độ và bá quan liền lên núi mời vua quay về kinh sư, nhưng nhà vua mỏi mệt, ngao ngán:
- Trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc.
Nài nỉ mãi nhưng nhà vua vẫn không thuận. Cuối cùng, Trần Thủ Độ cương quyết:
- Xa giá ở đâu tức triều đình ở đó!
Rồi cho tiến hành xây dựng cung điện mới ở Yên Tử. Thấy vậy, Phù Vân Trúc Lâm quốc sư cũng khuyên nhà vua:
- Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hư hại núi rừng của đệ tử. Hơn nữa, đã làm vua thì không còn có thể theo ý riêng mình được...
Trước tình thế này, Trần Thái Tông đành quay trở về. Còn Trần Liễu nổi loạn được hai tuần thì tự thấy lực lượng không đương đầu nổi nên giả làm người đánh cá, đi thuyền độc mộc đến chỗ em mình để xin hàng. Hai anh em ruột ôm nhau khóc. Trần thủ Độ vác gươm đến đòi chém.
Nhưng nhà vua giấu Trần Liễu trong thuyền và xin tha cho anh mình. Trần Thủ Độ tức giận ném gươm xuống sông, nói:
- Ta chỉ là con chó săn thôi biết đâu anh em nhà người thuận nghịch thế nào?
Trong thời gian này, Trần Thủ Độ còn sai các nhà phong thủy đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế vương thì dùng pháp thuật để trấn yểm, như cho đào sông Bà Lễ (có lẽ là sông Chu hoặc sông Mã ở Thanh Hóa), đục núi Chiêu Bạc (có lẽ là núi Chiếu Bạch ở huyện Hà Trung, Thanh Hóa), còn lấp các khe kênh, mở đường ngang dọc thì không kể xiết... Về vấn đề này, trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô sĩ Liên cũng có lời bình vô cùng lý thú: “Từ khi có trời đất
41
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
này, thì đã có núi sông này, mà khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời, đều có số cả. Khí trời từ bắc chuyển xuống nam, hết nam rồi lại quay về bắc. Thánh nhân trăm năm mới sinh, đủ số lại trở lại từ đầu. Thời vận có lúc chậm lúc chóng, có khi thưa khi mau mà không đều, đại lược là thế, có can gì đến núi sông? Nếu bảo núi sông có thể lấy pháp thuật mà trấn áp, thì khí trời chuyển vận, thánh nhân ra đời có pháp thuật gì trấn áp được không? Ví như Tần Thủy Hoàng biết phương đông nam có vượng khí thiên tử, đã mấy lần xuống phương ấy để trấn áp, mà rút cuộc Hán Cao vẫn nổi dậy, có trấn áp được đâu!”
Dù sao, dàn xếp của Trần Thủ Độ cũng tạm ổn.
Trong những năm cuối đời nhà Lý, giặc giã trong nước nổi lên như rươi, do đó, sau khi sắp xếp mọi việc Trần Thủ Độ lại đem quân đi đánh dẹp. Nhờ vậy tình hình trong nước mới yên ổn. Là một nhà chính trị có tầm nhìn chiến lược nên để củng cố ngôi vị nhà Trần ngày một vững chắc, Trần Thủ Độ đã tiến hành nhiều cuộc cải cách quan trọng.
Trước hết, ông tập trung xây dựng lực lượng võ bị hùng hậu, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phản loạn. Những quy chế trước đây của nhà Lý nếu xét thấy còn hợp lý, ông vẫn tiếp thu để thực hiện. Chẳng hạn, theo lệ cũ hàng năm, cứ vào ngày 4/4 từ lúc gà gáy bá quan văn võ đều tập trung thành đội ngũ ngoài cửa thành, đến lúc tờ mờ sáng thì tiến vào triều chầu nhà vua. Rồi lui ra cửa Tây thành, đến đền thờ thần núi Đồng Cổ, họp nhau uống máu ăn thề. Trong không khí trang nghiêm ấy, quan Trung thư kiểm chính tuyên đọc lời thề:
- Làm tôi tận trung, làm quan trong sạch, ai trái lời thề này, thần minh giết chết!
Trần Thủ Độ vẫn giữ lệ cũ này, vì hơn ai hết, ông biết đây chính là dịp cần thiết để củng cố lòng thành của ba quân đối với nhà vua đương vị. Ngoài ra, ông cũng tổ chức lực lượng quân đội nhà nước như thời Lý: gồm quân triều đình, quân các địa phương và lực lượng dân binh (gồm hương binh ở vùng đồng bằng và thổ binh ở vùng
42
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
núi). Để làm tốt công tác tuyển quân, thì trước hết phải tổng điều tra dân số. Công tác này thời nhà Lý cũng đã tiến hành, nhưng dưới nhà Trần thì mới “làm sổ hộ tịch, cứ hàng năm làm kế tiếp, phép làm rất rõ và kỹ” như trong Lịch triều hiến chương loại chí đã cho biết; và xử phạt rất nặng những ai lậu sổ hộ tịch, giấu nhân đinh hòng trốn tránh sai dịch và binh dịch.
Đồng thời Trần Thủ Độ chia đất nước làm 12 lộ và đặt các chức quan phù hợp để quản lý dân theo luật định. Từ năm 1228, Trần Thủ Độ đã xác định lại sổ đinh tỉnh Thanh Hóa và cũng định lệ như thời nhà Lý mà trong Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Người có quan tước, con cháu được tập ấm mới được ra làm quan, người giàu có khỏe mạnh mà không có quan tước thì sung quân đội, đời đời làm lính”. Thời ấy, con trai lớn gọi là đại hoàng nam, con trai nhỏ gọi là tiểu hoàng nam, 60 tuổi gọi là lão, già lắm thì gọi là long lão. Nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, chẳng hạn có 1 đến 2 mẫu ruộng thì nộp 1 quan tiền, có 3 đến 4 mẫu thì nộp 2 quan tiền, có từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan tiền, ai không có ruộng thì được miễn hoàn toàn v.v... Việc làm này đã góp phần tích cực xây dựng bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, thống nhất từ trung ương đến các cấp cơ sở là xã.
Điều đáng khen ở Trần Thủ Độ, là người trực tiếp đứng ra duyệt định hộ khẩu trong nước, nhưng ông đã làm gương giữ kỷ cương phép nước rất nghiêm minh, không để tình cảm riêng chi phối việc chung. Trong sử sách còn ghi lại chuyện có một người cùng làng với vợ ông, đã thậm thụt “đi ngõ sau” để tỉ tê, nhờ bà nói với ông xin làm chức câu đương - tức một chức dịch trong làng. Nghe vợ nói xong, ông lẳng lặng ngồi nghe và bảo bà ghi rõ tên họ, quê quán của y. Đến lúc xét sổ hộ khẩu của làng, ông cho gọi đến tên y. Người này bước ra mặt mày hớn hở, nhưng rồi run như cầy sấy khi nghe ông phán:
- Anh nhờ thế lực của vợ tôi mà mong được chức câu đương. Vậy cũng được thôi. Nhưng để phân biệt với những người khác cùng chức đó, ta phải chặt một ngón chân của anh. Anh nghĩ sao?
43
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Tên này nghe ông phán như thế sợ hãi, xin thôi. Nhưng ông không đồng ý. Y kêu nài khóc lóc mãi, ông thương tình mới tha cho. Từ đấy, không một ai còn dám thậm thụt ra vào để kêu riêng với bà phu nhân nữa!
Trong An Nam chí lược cho biết thêm việc tuyển binh thời bình dưới thời nhà Trần: “Việc lấy quân không có số nhất định: chỉ chọn dân đinh nào khỏe mạnh thì lấy” và trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng cho biết nếu binh lính bỏ trốn khỏi quân ngũ thì “người trốn bị chặt ngón chân, rồi cho người ta muốn làm gì thì làm hoặc cho voi giày ngựa xé”! Xem ra kỷ luật trong quân ngũ thời ấy rất nghiêm. Chính vì sự rất minh ấy nên mới có chuyện để hậu thế suy ngẫm. Rằng, có lần vợ của thái sư Trần Thủ Độ ngồi trên kiệu đi qua khu cung cấm, bị tên lính ra ngăn cản không cho đi. Bà tức lắm, không biết làm sao, về “méc” với chồng:
- Tôi là vợ ông mà quân lính nó dám khinh nhờn, ngạo mạn như thế! Vậy còn thể diện gì nữa?
Trần Thủ Độ không nói gì. Ông cho gọi tên lính ấy lên, nghe kể lại đầu đuôi câu chuyện. Chăm chú nghe xong, ông cười lớn, vỗ vai người lính:
- Nhà ngươi ở một chức thấp nhỏ mà biết giữ phép như vậy, ta còn có thể trách vào đâu được nữa.
Nói xong, ông lấy vàng lụa thưởng cho người lính ấy.
Người ta thường nói “thượng bất chính, hạ tất loạn” thì thái độ của Thái sư Trần Thủ Độ quả là bài học không bao giờ cũ.
Có thể ghi nhận, chính sách nuôi binh trong công tác xây dựng lực lượng vũ trang hùng hậu, sẵn sàng tác chiến khi Tổ quốc lâm nguy thì Trần Thủ Độ cũng đã thực hiện như dưới thời Lý và sau này các thời kế tiếp cũng đều áp dụng. Đó là chính sách “ngụ nông ư binh” (gửi binh ở nhà nông). Trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: “Đời Lý, ngoại binh thì không có lương, cứ luân phiên đến canh, hết phiên
44
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
canh cho về nhà cày cấy trồng trọt để tự cấp. Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh các đạo thì đều chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương... Như vậy thì lúc bấy giờ thế quân cường thịnh cũng có thể biết đại khái. Đại để khi trong nước không có việc, thì cho quân lính về làm ruộng; khi có việc chinh chiến thì hết thảy người dân đều là quân lính”. Điều rất thú vị là chính sách này, trong thời đại Hồ Chí Minh cũng được kế thừa và học tập. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, trên cương vị Tổng bí thư, ông Lê Duẩn chỉ rõ: “Bộ đội ta phải vừa sẵn sàng chiến đấu vừa tích cực lao động sản xuất, góp phần xây dựng kinh tế. Đối với lực lượng vũ trang nhân dân, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ quan trọng nhất, thiêng liêng nhất; lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thể hiện bản chất và truyền thống tốt đẹp của các lực lượng vũ trang nhân dân”.
Chính nhờ tổ chức được các lực lượng vũ trang hùng mạnh nên nhà Trần đã đủ sức đánh quî các cuộc xâm lược của kẻ thù từ phương Bắc, mạnh gấp nhiều lần.
Vở diễn về Trần Thủ Độ của nhà hát Kịch Việt Nam (2007)
45
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất, năm 1258, Thái sư Trần Thủ Độ đã thể hiện được phẩm chất tận trung với nước, tận hiếu với dân. Lúc vận mệnh Tổ quốc đang nguy ngập, ông đã tuyên bố với vua Trần Thái Tông một câu đanh thép:
- Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.
Câu nói đầy khí phách này còn chói lọi ngàn năm trong sử sách.
Nếu chỉ chấn chỉnh võ bị quân sự, mà không quan tâm đến cải thiện dân sinh thì không hẳn nhà Trần đã được lòng dân. Một trong những việc mà Trần Thủ Độ đã làm được, đó là năm 1244 ông tâu vua xuống chiếu lệnh các quan dân ra sức đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển đề phòng nước sông lên to, gọi là Đỉnh Nhĩ (quai vạc); đắp đến đâu mà người dân bị hao tổn ruộng đất, thì nhà nước đều quy ra giá tiền mà đền bù. Để công việc tiến hành nhanh chóng, ông đặt ra chức quan Hà đê sứ để đôn đốc, chọn các quan ít việc giao cho giữ chức này. Thế là hàng năm cứ đến mùa nghỉ làm ruộng thì đắp đê và đào ngòi để phòng khi nước lụt và đại hạn, rồi bắt trồng cây ở hai bên thân đê để giữ cho đê khỏi bị lở. Việc làm thiết thực này, trong Việt sử tiêu án, nhà sử học Ngô Thì Sĩ ghi nhận: “Bắt đầu có đắp đê từ đây”. Rõ ràng Trần Thủ Độ đã đẩy mạnh công cuộc trị thủy, làm thủy lợi mà trước đó chưa ai nhìn ra ích lợi của nó.
Riêng trong thi cử nhằm tìm nhân tài ra giúp nước thì Trần Thủ Độ cũng tham mưu cho nhà vua tiến hành nhiều cải cách rất đáng kể. Như ta đã biết, dưới đời nhà Lý, khoa cử chưa định lệ rõ ràng, thí sinh không thể biết mấy năm mở khoa thi một lần, chỉ khi nào cần nhân tài nhà vua mới tổ chức thì bây giờ, việc thi cử có quy củ hơn. Năm 1232, vua Trần Thái Tông mở khoa thi Thái học sinh, chia các thí sinh trúng tuyển thành Tam giáp: Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp; định hạn 7 năm mở một khoa thi. Ngoài việc, đổi tên Quốc Tử Giám thành Quốc Tử Viện từ năm 1236, thì năm 1253, nhà vua đã xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước được vào Quốc Tử viện học tập, nghe giảng Tứ thư, Ngũ kinh... Nhà bác học Phan Huy Chú nhận
46
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Gươm thiêng tại đền thờ nhà Trần (Ninh Bình)
xét: “Đời Lý đến đời Trần đều chuộng Phật giáo và Đạo giáo, cho nên buổi ấy những thí sinh muốn được chọn phải thông hai giáo ấy - dù chính đạo hay dị đoan thì cũng được chuộng như nhau, không phân biệt. Do đó, học trò đi thi nếu không học rộng biết nhiều thì không thể đậu được”.
Trong suốt năm tháng giữ quyền lực, Trần Thủ Độ là người thay mặt vua Trần Thái Tông để giải quyết các vấn đề trọng đại. Do đó, có một vị đại quan vào bệ rồng, ứa nước mắt tâu với nhà vua rằng, không biết xã tắc sau này sẽ ra sao khi Thái sư Trần Thủ Độ đang chuyên quyền! Trần Thái Tông có lúc cũng từng nghĩ thế nên lập tức xa giá đến dinh của Trần Thủ Độ và thăm dò thái độ của ông:
- Trẫm biết thượng phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy mà có kẻ dám ngờ vực xằng, đã tâu với Trẫm điều đáng lo ngại nhất là việc thượng phụ chuyên quyền. Đó là lời tâu có hại cho tình nghĩa vua tôi, tình chú cháu giữa thượng phụ và Trẫm.
47
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Vậy thượng phụ nên đem hắn ra xử tội để làm gương cho kẻ khác!
Trần Thủ Độ nghe nói vậy chỉ lặng thinh. Giây lát sau, ông mới từ tốn:
- Thần có chuyên quyền thật. Kẻ kia nói thế quả không sai. Đó là người thẳng thắn, bạo dạn, dám nói thực, chẳng những không nên làm tội mà còn đáng khen.
Nói xong, Trần Thủ Độ thưởng mấy quan tiền và tấm lụa cho vị đại quan ấy!
Lại có lần, nhà vua muốn cử người anh của Trần Thủ Độ ra làm Tể tướng trong triều, thì ông thẳng thắn đáp:
- An Quốc là anh thần, nếu bệ hạ cho là giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn thì không thể cử An Quốc. Nếu cả hai anh em đều làm Tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?
Vua nghe vậy bèn thôi.
Rõ ràng Trần Thủ Độ đã có cách ứng xử không như bao kẻ “thường thường bậc trung” khác. Và qua những mẩu chuyện về ông mà sử sách còn ghi lại, ta thấy đó là một con người quyết đoán, không thích xu nịnh, biết làm gương để giữ kỷ cương phép nước, làm mọi việc vì lợi ích chung chứ không phải nhằm thu vén cho riêng mình. Có thể nói, vai trò của Trần Thủ Độ trong việc dựng nghiệp nhà Trần thật to lớn. Ông vừa đánh dẹp giặc giã, vừa hiến kế chỉnh đốn lại mọi việc để nước nhà ngày một cường thịnh, đủ sức đánh tan giặc ngoại xâm. Há chẳng phải là một nhân vật kiệt xuất sao? Chúng tôi đồng ý với quan điểm của nhà văn, nhà sử học Trúc Khê khi đánh giá về ông:
“Trần Thái Tông có thiên hạ, đều là do Trần Thủ Độ đã hoạch kế bày mưu gội mưa tắm gió. Những nhà bàn sử xưa nay phần nhiều chê trách Trần Thủ Độ, bảo là một kẻ đại gian hùng đã lợi dụng địa vị của mình mà ngấm ngầm lật đổ ngôi vua nhà Lý. Thực ra thì ngôi vua nhà Lý, tự Lý Huệ Tông đã làm cho nó đến phải đổ. Chứ có phải là lỗi ở Thủ Độ đâu. Cơ đồ nhà Lý đến đời Huệ Tông, bốn phương giặc giã, trăm họ lầm than như một cái nhà đã bị xiêu vẹo mấy phần rồi. Huệ Tông đáng lẽ phải chèo chống cái nhà
48
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
xiêu này thì ông lại là người vô tài bất trí, có thể gọi là ngu tối nữa. Nếu không ngu tối, sao trước một tình hình rối ren của nước nhà như vậy, ông lại có thể truyền ngôi cho một cô bé để mình rảnh thân đi ở chùa? Như vậy giang san nhà Lý đã vô chủ rồi, sự vô chủ ấy là tự vua lìa bỏ giang sơn vậy. Trong khi ấy núi Tản sông Lô chờ đợi bất cứ một người nào rước lên làm chủ miễn là người ấy có tài định loạn, có thể đem bốn phương thu về một mối, cứu cho trăm họ thoát khỏi vòng binh lửa lầm than. Người có tư cách ấy há chẳng phải là Trần Thủ Độ sao? Với cái tài lược của ông, ông rất có thể lên ngôi hoàng đế làm chủ thiên hạ trong lúc này, mà không đáng phải chịu những lời dị nghị. Vậy mà ông lại không như vậy để cái ngôi đại bảo cho người cháu lên làm chủ tể, còn mình thì chẳng quản gội gió tắm mưa, xông tên đột pháo, để làm cho bốn bể thăng bình.
Trần thay ngôi Lý, phải đâu là cái ngôi ấy đương yên ổn vững vàng, chính Trần Thủ Độ còn phải dùng vào đấy bao nhiêu tâm lực mới đặt được quốc tộ vào chỗ Thái sơn bàn thạch. Vậy việc Trần Thủ Độ lật đổ ngôi Lý và dựng nghiệp Trần, không có gì là đáng trách cả. Chẳng những không đáng trách mà ta còn đáng ca công tụng đức của bậc vĩ nhân ấy, đã làm cho nước ta thống nhất dưới triều Kiến Trung (niên hiệu Trần Thái Tông). Nhờ có sự thống nhất, nguyên khí nước nhà bị hao tàn sau mấy mươi năm loạn lạc, mới được bồi dưỡng dần dần, nên sau mới có đủ sức lực đánh phá được quân Mông Cổ là quân kiêu hùng nhất thế giới để giữ lấy nền độc lập cho dân tộc. Nếu không nhờ ở sự thống nhất quốc gia của Trần Thủ Độ, trong nước cứ kéo dài mãi cái tình trạng rối ren loạn lạc, thử hỏi quân Mông Cổ sang cướp, người mình phỏng có cách nào mà chống lại được chăng? Coi đó Trần Thủ Độ chẳng những không phải là người có tội trên lịch sử mà chính là người có công, không riêng có công với triều Trần mà còn có công với cả nước Việt Nam ta vậy.
Nếu Trần Thủ Độ có cái chỗ đáng trách chỉ là việc xử tệ với nhà Lý, và việc làm rối luân nghĩa trong cung vi nhà Trần. Tuy nhiên thiết tưởng những việc đối với nhà Lý tuy rằng đáng trách, song nếu ta chịu khó sánh rộng ra một chút, cũng có thể nguyên lượng cho ông. Vì cứ xem các nhà chính trị trong thế giới, đối với phe địch, hay đối với những người mà họ cho là có thể nguy hiểm cho sự yên vui của họ, nhiều khi họ còn hành động cách tàn nhẫn hơn thế”.
49
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Miễu “Linh Từ Quốc Mẫu” thờ bà Trần Thủ Độ tại Ninh Bình
Trần Thủ Độ mất vào mùa xuân, tháng giêng năm 1264, thọ 71 xuân, được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ đại vương, táng ở địa phận xã Phù Ngự, huyện Ngự Thiên (nay thuộc huyện Hương Nhân - Thái Bình), được tôn thượng đẳng thần. Theo truyền thuyết dân gian, Trần Thủ Độ còn có công giúp dân xã Hương Tảo, huyện Yên Dũng - Bắc Giang khai hoang lập ấp, sai lính giúp săn đuổi hổ báo, diệt trừ mãng xà ở núi Nham Biền cho dân khai hoang mở ruộng. Do đó, sau khi mất, ông còn được dân nơi này thờ và tôn làm thành hoàng. Hiện nay, ngày 7/7 hàng năm là ngày tế lễ Trần Thủ Độ.
Còn bà Trần Thị Dung - vợ của Trần Thủ Độ, cô ruột vua Trần Thái Tông - dù trong đời thường có lúc cũng tầm thường như ta đã biết, nhưng lại là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông. Nói như Đại Việt sử ký toàn thư, trời sinh bà ra là để mở mang cơ nghiệp cho nhà Trần. Khi nhà Trần rút ra khỏi kinh thành thì bà là người đã đứng ra tổ chức việc vận chuyển kho báu, lương
50
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
thực đến nơi an toàn. Trong lúc tản cư, có tên cấm quan đi theo chọc ghẹo một ả nữ tỳ. Bà hay tin, cho bắt tên cấm binh đó chặt đầu để giữ nghiêm kỷ cương! Công việc nội trị của bà đã góp phần làm phá sản kế hoạch của giặc khi chúng lọt vào kinh thành thì chỉ thấy vườn không nhà trống! Trước đây, vua Trần Thái Tông thấy bà từng là vợ của ông vua nhà Lý - Lý Huệ Tông nên không nỡ gọi là công chúa, mà ban cho Linh Từ Quốc Mẫu. Bà mất năm 1259. Hiện nay, tại động Thiên Hương (Ninh Hải, Hoa Lư - Ninh Bình) có đền Linh Từ Quốc Mẫu thờ bà Trần Thị Dung. Tương truyền, bà là người đã truyền nghề thêu ren tại vùng này nên được nhân dân suy tôn bà Tổ của nghề.
51
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
HỒ QUÝ LY
Người chủ trương nhiều cải cách
táo bạo cuối đời Trần
Trăng sáng. Biển dậy sóng. Cha con nhà buôn họ Lê đang ra sức chèo chống giữa cơn phong ba. Chẳng mấy chốc, họ ghé bình yên vào bờ. Trong lúc ông cha nuôi đi liên hệ các mối lái thì người con trai mệt lả nằm dài trên biển. Lúc thức dậy, chàng thấy trên bãi bờ có dòng chữ ghi nguệch ngoạc: “Quảng Hàn cung lý nhất chi mai”. Chỉ thoáng đọc qua, chàng đã thuộc nằm lòng.
Năm tháng trôi qua. Do có sức khỏe và võ nghệ nên chàng được tuyển vào trong cung và vua Trần tin dùng. Chàng thường hộ giá vua Trần Nghệ Tông xem hoa thưởng nguyệt. Cũng vào một đêm trăng sáng, lúc đi ngang điện Thanh Thử thấy nơi này có nhiều cây quế, nhà vua cao hứng ra câu đối: “Thiên Thử điện tiền thiên thụ quế”, và bảo bá quan văn võ nếu ai đối được thì sẽ trọng thưởng. Trong lúc mọi người đang nhăn mày nhíu trán suy nghĩ thì chàng sực nhớ câu thơ mà ai đó đã viết trên bãi biển năm xưa. Chàng cúi đầu xin đối lại:
Thiên Thử điện tiền thiên thụ quế,
Quảng Hàn cung lý nhất chi mai.
Nhà vua Trần kinh ngạc vì em gái ngài là công chúa Nhất Chi Mai (Huy Ninh), góa chồng, thường ở trong cung cấm, lại đặt tên cung ấy là cung Quảng Hàn thì làm sao chàng trai này biết được? Chàng thành thật kể lại chuyện cũ. Ngẫm nghĩ một lát, vua Trần cho rằng
52
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
đó là duyên tiền định nên gả công chúa Huy Ninh cho chàng. Mối tình lạ lùng này, một lần nữa đã tạo cho chàng thêm cơ hội để tiếp cận với quyền lực triều Trần, để sau này ráo riết thực hiện nhiều biện pháp lật đổ triều Trần. Chàng trai đó là Hồ Quý Ly, sinh năm 1335.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Hồ Quý Ly, có tên tự Lý Nguyên, ông tổ là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), đời nhà Hậu Hán thời Ngũ Quý (907 - 959) sang làm Thái thú Diễn Châu (Nghệ An). Đến đời nhà Lý, họ Hồ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan; đến đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời về Thanh Hóa làm con nuôi Tuyên úy Lê Huấn, từ đấy mang họ Lê. Là cháu bốn đời của Lê Liêm nên lúc ấy Quý Ly cũng mang họ Lê.
Trước đây, năm 1226, Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ bức thượng hoàng nhà Lý là Huệ Tông phải treo cổ chết trong chùa Chân Giáo để đoạt ngôi nhà Trần. Trước khi chết Lý Huệ Tông đã khấn với trời đất: “Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, nay ta chết thì ngày sau con cháu ngươi cũng phải chịu như thế”. Nếu tin ở thuyết nhân quả thì ta thấy lời nguyền này sẽ ứng vào con cháu nhà Trần. Người thực hành sứ mệnh ấy, lật đổ triều Trần để lập ra triều Hồ chính là Hồ Quý Ly - một con người cũng có nhiều thủ đoạn, quyết đoán, khôn khéo không thua gì Trần Thủ Độ. Và đây cũng là nhân vật mà sử sách xưa nay đã có nhiều đánh giá rất khác nhau.
Năm 1371, Quý Ly được vua Nghệ Tông tin dùng không những phong làm Khu mật đại sứ, phong tước Trung tuyên hầu, rồi năm 1387 lại phong làm Đồng bình chương sự, ban cho một thanh kiếm và một lá cờ trên đề tám chữ: “Văn vũ toàn tài, quân thần đồng đức”... Được biệt đãi như vậy không chỉ do tài năng mà còn do Quý Ly có hai bà cô được vua Trần Minh Tông lấy làm cung nhân: bà Minh Từ sinh ra vua Nghệ Tông, bà Đôn Từ sinh ra vua Duêï Tông. Năm 1372, lên làm thượng hoàng, Trần Nghệ Tông đã trao ngôi báu lại cho em trai là Kính (hay Cảnh), tức Trần Duệ Tông thì vị vua này lại lập Lê Thị là em gái con nhà chú của Quý Ly làm hoàng hậu. Một lần nữa mối quan hệ giữa Quý Ly với vua Trần lại càng thêm gắn bó.
53
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Do Quý Ly được thượng hoàng giao nhiều quyền lực nên các vua kế vị và bá quan trong triều tìm mọi cách để triệt hạ, nhưng mọi âm mưu đều thất bại. Thậm chí, có lần thượng hoàng Nghệ Tông nằm mơ thấy em trai Duệ Tông (đã chết trận năm 1377) đem quân đến và đọc bài thơ báo mộng (Hoàng Văn Lâu dịch nghĩa):
Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ
Lăm le lên lầu gà trắng
Khẩu vương đã định việc hưng vong
Không ở trước mà ở về sau
Tỉnh dậy, thượng hoàng hoang mang lắm, tự đoán “mỏ đỏ” (xích chủy) là Quý Ly; “gà trắng” (bạch kê) là ám chỉ mình vì ngài sinh năm Tân Dậu, tức năm gà; “khẩu vương” thì chữ “vương” ở trong lòng chữ “khẩu” là chữ “quốc”, việc nước còn hay mất thì sau sẽ thấy. Suy luận như thế, dù bất lực nhưng Nghệ Tông cũng tìm cách thăm dò thái độ của Quý Lý. Bấy giờ, dưới đời nhà Trần, lễ tuyên thệ hàng năm vẫn được duy trì như thời nhà Lý. Sau lễ tuyên thệ năm 1394 dưới thời vua Trần Thuận Tông, thượng hoàng Nghệ Tông cho gọi Quý Ly vào cung và bảo:
- Khanh là thân thích của nhà vua, hết thẩy công việc đều ủy thác cho khanh cả, nay thế nước suy yếu, mà Trẫm đến tuổi già lẫn, sau khi Trẫm qua đời, nếu quan gia (chỉ vua Trần Thuận Tông) có thể giúp được thì giúp, nếu là người yếu hèn ngu tối, thì khanh tự nhận lấy làm vua...
Không đợi thượng hoàng nói hết câu, Quý Ly đã sụp lạy khóc lóc thề thốt:
- Nếu thần không tận trung hết lòng giúp quan gia thì trời sẽ ghét bỏ thần!
Đầu năm sau, sau khi thượng hoàng Nghệ Tông mất, không những Quý Ly lên làm Phụ Chính thái sư mà còn đứng ra gả con gái mình cho vua Thuận Tông. Như vậy, về quan hệ gia đình thì ông vua mới mười chín, đôi mươi xuân này trở thành con rể của Quý Ly. Đại Việt
54
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
sử ký toàn thư cho biết: “Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, việc nước trong tay quyền thần, tai họa đến thân mà không biết, thương thay!” Bấy giờ, Quý Ly vào ở hẳn trong điện và dịch thiên Vô dật(1) để dạy quan gia và mệnh lệnh ban ra thì xưng Phụ chính cai giáo hoàng đế (nghĩa là giúp vua trị nước kiêm việc dạy bảo vua).
Từ đây, với quyền lực đang
nắm trong tay, Quý Ly bắt đầu
tiến hành những cuộc cải cách
quan trọng.
Tháng 4/1396, Quý Ly cho
phát hành tiền giấy gọi là Thông
bảo hội sao, cứ 1 quan tiền đồng
đổi lấy 2 quan tiền giấy. Các loại
tiền gồm có: tờ 10 đồng vẽ rong
biển, tờ 30 đồng vẽ sóng biển, tờ
1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa
(quy), tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ
phượng, tờ 1 quan vẽ rồng (long).
Chủ trương phát hành tiền giấy
rất táo bạo và cũng là lần đầu tiên
xuất hiện ở nước ta. Có lẽ kỹ thuật
in thời ấy còn thô sơ nên chắc chắn
không tránh khỏi tình trạng làm... tiền giả! Thật vậy, chỉ ba năm sau, tên cướp Nguyễn Nhữ Cái trốn
Tiền đồng “Thánh Nguyên thông bảo” đúc dưới thời Hồ Quý Ly
vào núi Thiết Sơn làm loạn đã... làm tiền giả để tiêu dùng! Do đó, Quý Ly đã quy định nghiêm ngặt kẻ nào làm tiền giả thì bị tội chết, ruộng đất tài sản bị tịch thu; cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa tiền, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ; kẻ nào vi phạm cũng bị tội như làm tiền giả! Việc thu lại tiền
(1) Vô dật: Một thiên trong sách Thượng thư do Chu Công Đán soạn ra để dạy Thành Vương nhà Chu như nên chăm lo chính sự, chớ hưởng lạc, hiểu nỗi khổ của dân, không nên đánh thuế nặng...
55
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đồng, không những nhằm giải quyết khủng hoảng tài chính mà còn là mục đích dùng để đúc vũ khí phục vụ cho nền an ninh quốc phòng. Vì lúc này, giặc Minh đang tìm cớ để đánh xuống nước ta, thì việc chuẩn bị trước của Quý Ly đã chứng tỏ tầm nhìn xa của một người trị nước. Chủ trương táo bạo này, đã không được nhân dân ủng hộ. Cứ theo nhận định của nhà bác học Phan Huy Chú thì ta biết được tâm lý của người tiêu dùng thuở ấy: “Tiền giấy chẳng qua chỉ là mảnh giấy vuông, phí tổn chỉ đáng năm, ba đồng tiền, mà đem đổi lấy vật đáng năm, sáu trăm đồng của người ta, cố nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại người có tiền giấy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ giả mạo sinh ra không cùng, thật không phải là cách bình ổn vật giá nhằm lưu thông của cải của dân vậy. Quý Ly không xét kỹ đến cái gốc lợi hại, chỉ ham chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của, hàng hóa vẫn đang lưu thông lập tức sinh ra ứ đọng khiến dân nghe đã thấy sợ, thêm mối xôn xao, thế có phải là chế độ bình trị đâu?”.
Do đó, khi nhà Hồ sụp đổ thì tiền giấy cũng mất theo. Mãi đến sau này, khi đã xâm lược nước ta, năm 1875 thực dân Pháp mới lập Banque de l’Indo - Chine (Đông Dương ngân hàng) và ngày 3/4/1901 mới bắt đầu lưu hành tại nước ta những tờ giấy bạc in ở Pháp.
Ngoài việc phát hành tiền giấy thì cũng trong năm 1396, việc tổ chức về giáo dục đã có những thay đổi, thi cử được đưa vào nề nếp: kỳ 1 thi một bài kinh nghĩa, từ 500 chữ trở lên; kỳ 2 thi làm thơ Đường luật, phú; kỳ 3 thi chiếu, chế, biểu; kỳ 4 thi văn sách, ra đề theo kinh, sử hay thời sự, bài viết phải 1.000 chữ trở lên và quy định 3 năm thi một kỳ, năm trước thi Hương, năm sau thi Hội. Thú vị là từ năm 1403, còn có thêm môn thi chữ viết và làm tính. Do tồn tại ngắn ngủi, nhà Hồ chỉ tổ chức được hai khoa thi vào năm 1400 và 1405, nhưng ta thấy Quý Ly là người hết sức quan tâm đến giáo dục như cho mở trường rộng khắp đến các châu, huyện, không chỉ là lời nói suông mà ông chủ trương cấp ruộng cho các nơi ấy để chi vào việc học tập và khuyến khích dùng chữ Nôm của dân tộc, khuyến khích phát triển dạy võ, dạy nghề, làm thuốc... Trong Thông giám cương mục cho biết
56
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
những chi tiết cụ thể: ”Lệnh cho phủ và châu thuộc các lộ Sơn Nam, Kinh Bắc và Hải Đông đều đặt một viên quan giáo thụ giữ về việc học, cấp ruộng theo đẳng cấp: phủ và châu hạng lớn 15 mẫu, hạng trung bình 12 mẫu, hạng nhỏ 10 mẫu để lấy hoa lợi ruộng ấy chi dùng vào việc học trong phủ hoặc châu. Viên quan cai trị ở lộ đôn đốc viên quan giữ việc học phải dạy bảo học trò, cho thành người tài nghệ. Hàng năm, cứ đến cuối năm, lựa chọn những người vào hạng ưu tú tiến cử vào triều, Trẫm sẽ thân hành thi lại rồi cất nhắc bổ dụng”. Đọc văn bản, ta thấy xưng “Trẫm” tức vua Thuận Tông, nhưng thật ra đó là ý kiến riêng của Quý Ly.
Do ghét lối học vẹt, sao chép sách vở cổ xưa một cách máy móc, trong các kỳ thi Quý Ly còn ra lệnh bãi bỏ phép thi ám tả, cổ văn. Bản thân ông đã nêu gương bằng cách làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa - dịch Kinh thi ra chữ Nôm, xem như “giáo trình” để nữ sư dạy hậu phi, cung nhân... Trong đó, phần giải nghĩa, ông đã đưa những ý kiến của riêng mình chứ không nhất nhất phải theo lời cổ nhân. Trước đó, năm 1392, Quý Ly cũng từng viết sách Minh đạo (con đường sáng), đánh giá lại vai trò của Khổng Tử, chỉ đặt ở vị trí tiên sư; xác định Chu Công mới là tiên thánh v.v... Sự đánh giá táo bạo này, sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bình: “Đạo của tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không ai phát huy được; hậu thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không còn ai làm khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử, thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thực là không biết lượng sức mình”. Sự đánh giá của Quý Ly đúng, sai như thế nào ta chưa bàn đến, nhưng rõ ràng ông là một người không lệ thuộc vào sách vở có sẵn, không nhắm mắt tin theo những điều mà người trước đã tin, đã khẳng định.
Tháng giêng năm 1397, Quý Ly bắt đầu thực hiện việc xây thành tại động An Tôn (Thanh Hóa), nhằm dời kinh đô về địa điểm mới. Đương thời, để phân biệt với kinh thành Thăng Long, thành đã được gọi tên Tây Đô, Thăng Long được gọi là Đông Đô. Việc làm này nhằm mục đích gì? Vì tính chất chiến lược quân sự là giữ lấy xứ Thanh - Nghệ nhằm chống lại cuộc ngoại xâm của phương Bắc tràn
57
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Thành nhà Hồ hiện nay (2008)
xuống nước ta chăng? Không rõ. Nhưng có một điều chắc chắn là sau khi hoàn thành, Quý Ly đã bức vua Trần Thuận Tông dời kinh đô đến phủ Thanh Hóa. Đây cũng là năm mà Quý Ly đã có cuộc cải cách về danh điền (ruộng có người đứng tên) tức ruộng tư. Từ đây, theo quy định mới, chỉ các đại vương, chị hoặc em ruột nhà vua được quyền sở hữu ruộng không hạn chế, còn dân đen thì không quá 10 mẫu. Những người có ruộng quá hạn định trên phải hiến cho nhà nước. Ngoài ra nếu ai có tội hoặc mất chức thì được phép lấy ruộng chuộc tội, chuộc lại chức. Lại ra lệnh cho dân phải nêu rõ tên họ cắm trên ruộng. Quan lộ, phủ châu, huyện phải đo đạc lập thành sổ sách chu đáo, nếu ruộng nào không có giấy khai báo thì lấy làm quan điền, tức ruộng công.
Cuộc cải cách này rõ ràng có lợi cho công điền. Nhưng một điều sâu xa hơn là Quý Ly đã đánh một đòn quyết định vào quyền lợi của tôn thất nhà Trần. Trước đây tôn thất nhà Trần đã sai nô tì đắp đê ở những địa phận ven bờ biển ngăn nước mặn, khai khẩn thành ruộng, lập trang trại riêng thì nay phần lớn số ruộng ấy thuộc về nhà nước! Điều này đã khiến không ít người bất mãn!
58
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Cùng lúc với cuộc cải cách ruộng đất này, năm 1398 Quý Ly lại ép vua Thuận Tông, cũng là con rể của mình phải nhường ngôi cho thái tử An, mới 3 tuổi, tức cháu gọi Quý Ly bằng ông ngoại! Ép bằng cách nào để nhà vua thuận tình và không gây xáo trộn trong vương triều nhà Trần? Quý Ly đã ngầm sai tên đạo sĩ Nguyễn Khánh vào cung thuyết dụ:
- Cõi tiên thanh nhã thơm tho, khác hẳn phàm trần. Liệt thánh triều ta chỉ thờ đạo Phật, chưa có ai đi theo chân tiên. Bệ hạ được tôn ở ngôi cửu ngũ nhưng muôn việc khó nhọc, chi bằng truyền ngôi cho Đông cung để giữ khí hư hòa.
Mật ngọt chết ruồi. Nhà vua ngu dại nghe theo, bèn hạ chiếu truyền ngôi cho con, lên làm Thái thượng nguyên quân hoàng đế, rồi đi tu. Vậy mà Quý Ly vẫn không tha, sai bọn thuộc hạ thắt cổ nhà vua, giết chết vào năm 1399, thọ 22 xuân! Thái tử An lên ngôi, tức Trần Thiếu Đế, còn Quý Ly tự xưng là Khâm đức hưng liệt đại vương. Hành động tàn bạo này đã khiến các quan trong triều phản ứng, tìm mọi cách để giết Quý Ly nhưng âm mưu này bị bại lộ. Những người tham gia cuộc “đảo chính” này không những bị giết mà thân thuộc của họ cũng chung số phận. Có đến 370 người bỏ mạng!
Tháng 6/1399, Quý Ly tự xưng là Quốc tổ Chương hoàng, nhưng trong các bảng văn vẫn chưa dám xưng “Trẫm”, chỉ xưng “Dư”. Mặc dù cả hai chữ này đều có nghĩa là “ta”, nhưng theo chế độ phân biệt đẳng cấp thời phong kiến thì chữ “dư” dùng chung cho người trên đối với người dưới, chữ “trẫm” để riêng cho vua xưng với thần dân. Đầu năm 1400, nhận thấy điều kiện lật đổ triều Trần đã chín muồi, Quý Ly ép nhà vua nhường ngôi và buộc bá quan phải dâng biểu tôn mình lên ngôi. Tuy thế, Quý Ly vẫn giả vờ khiêm tốn không nhận! Bá quan phải ba lần dâng biểu, Quý Ly mới lên ngôi, lấy lại họ Hồ, đặt niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu. Trần Thiếu Đế bị phế làm Bảo Minh đại vương, vì là cháu ngoại nên không bị bức tử. Ngồi trên bệ rồng chưa đầy một năm, Hồ Quý Ly bắt chước triều Trần, lên làm thượng hoàng mà nhường ngôi cho con. Để thử lòng và xem chí khí của hai con như thế nào, ông đã ra câu đối (dịch nghĩa):
59
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
- Phiến đá kỳ lạ này, có lúc làm mây làm mưa để làm tươi mát cho dân sinh.
Con trưởng Hồ Nguyên Trừng biết ý cha, đối lại với dụng ý khuyên hãy lập em mình là Hồ Hán Thương lên ngôi, còn mình sẽ hết lòng phò trợ (dịch nghĩa)ï:
- Ba tấc gỗ thông đây, một ngày kia sẽ làm rường làm cột giúp xã tắc.
Tuy vậy, hai anh em vẫn có điều bất hòa, Hồ Quý Ly từng khuyên (dịch nghĩa):
Trời thì che đất thì chở
Anh em hai người sao chẳng niềm nở
Ô hô! Xót thay chừ lời ca trăn trở
Viên cận thần Nguyễn Ông Kiều biết chuyện này kể cho thiên hạ đều nghe, bị Hồ Quý Ly tức giận giết chết. Nhà Hồ được dựng lên, tuy bề ngoài thuần phục nhà Minh phương Bắc, nhưng Hồ Quý Ly vẫn nghĩ đến cách chống đối, củng cố chủ quyền độc lập. Trước hết là phải có lực lượng hùng hậu, có lần ông hỏi bá quan:
- Làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc phương Bắc?
Và ông đã tiến hành bằng cách: các nhân khẩu từ hai tuổi trở lên đều ghi tên vào sổ bộ để nhà nước quản lý và nắm được thực số; các phiên trấn xa xôi hễ có người kinh trú ngụ thì bắt phải trở về nguyên quán, không được ẩn lậu. Nhờ tiến hành biện pháp này, khi sổ bộ làm xong thì số người từ 15 đến 60 tuổi tăng gấp bội hơn trước nhiều lần. Từ đấy, việc điểm binh ngày càng thuận lợi, những người đến tuổi quy định không thể trốn tránh việc tòng quân. Ngoài ra, Quý Ly còn định lại các lệ thuế và tô ruộng, lập phép hạn chế gia nô...
Giữa lúc công cuộc cải cách đang tiến hành thì cuối năm 1406 quân Minh phái một đạo quân hộ tống tên Việt gian Trần Thiêm Bình đang sống lưu vong trên đất trung Quốc về nước, hòng dựng lên một triều vua bù nhìn làm tay sai cho chúng. Trước nguy cơ đất nước bị xâm lược, nhà Hồ một mặt áp dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo, một mặt ra sức chuẩn bị kháng chiến. Nhà vua Hồ Hán Thương xuống
60
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
chiếu truyền gọi các quan An phủ sứ ở các lộ về triều để cùng với các quan ở kinh họp bàn kế hoạch kháng chiến. Có người khuyên nên đánh để trừ mối lo về sau. Có người cho rằng nên tạm hòa, chiều theo những điều chúng muốn để hoãn binh thì hơn. Khi được Hồ Hán Thương hỏi ý kiến, Tể tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đứng dậy, tay nắm chặt quả quyết:
- Thần không sợ đánh chỉ sợ lòng dân không theo.
Thượng hoàng Hồ Quý Ly lúc ấy đang ngồi dự họp, nghe lời nói khí khái như thế cảm động lắm, bèn ban tặng cho cái hộp trầu bằng vàng. Chính câu nói này đã cứu vớt lại uy thế của nhà Hồ trong sử sách. Bởi lẽ, theo quan điểm họ Hồ cướp ngôi nhà Trần, do đó, các nhà viết sử đời sau như Phan Huy Chú chỉ gọi là nhà nhuận Hồ (nghĩa là “thừa”) chứ không ghi lên ngôi chính thống. Sử thần Ngô Sĩ Liên bình luận xác đáng: “Mệnh trời là ở lòng dân. Câu nói của Trừng hiểu được điều cốt yếu đó. Không thể vì cớ họ Hồ mà bỏ câu nói của Trừng được”.
Khi giặc Minh hộ tống Trần Thiêm Bình vừa tới biên giới nước ta thì quân nhà Hồ bất ngờ tấn công, vây chặt đội quân của giặc. Bí thế, Hoàng Trung - tướng giặc Minh - liền thí bỏ Thiêm Bình bằng cách nộp cho nhà Hồ! Dù mất con bài chính trị lợi hại, nhưng với dã tâm bành trướng chiếm đất nên giặc Minh lại tiếp tục xua quân sang nước ta. Chúng đã vấp phải sự kháng cự oanh liệt của quân dân Đại Ngu. Đáng chú ý nhất là Hồ Nguyên Trừng đã sáng chế ra một loại súng nổi tiếng đó là súng thần cơ. Sự kiện này đã khẳng định, con trai Hồ Quý Ly là một kỹ sư chế tạo súng lỗi lạc nhất thời bấy giờ. Dù được trang bị vũ khí hùng hậu nhưng nhà Hồ vẫn không đẩy lùi được sức tấn công của giặc. Sau này nhà chính trị thiên tài Nguyễn Trãi đã chỉ ra nguyên nhân thất bại lớn nhất chính là: “Quân nhà Hồ trăm vạn nhưng trăm vạn lòng”.Trong lúc thất thế, cha con họ Hồ đem đám tàn binh chạy vào Thanh Hóa và cuối cùng đều sa vào tay giặc! Cuộc kháng chiến của triều Hồ đến giữa năm 1407 hoàn toàn bị giặc Minh dập tắt. Sau này, nhà quân sự lỗi lạc Võ Nguyên Giáp cũng đã nhận xét: “Do phạm sai lầm chính trị thì để mất lòng dân,
61
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
quân sự thì nặng về phòng ngự, nên cuộc kháng chiến đã bị thất bại nhanh chóng” (Kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi - NXB Khoa học xã hội, 1981, tr. 22).
Dù nhà Hồ tồn tại ngắn ngủi trong lịch sử Việt Nam, nhưng vai trò của Hồ Quý Ly cho đến nay vẫn còn có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Chúng tôi đồng ý với ý kiến của nhóm tác giả Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Tiến Doãn, Hồ Thị Hồng, Hoàng Mạnh Kha đã nhận định như sau:
“Theo quan điểm phong kiến chính thống, thì nhà Hồ là ngụy triều... Trước năm 1990, có nhiều bài viết về Hồ Quý Ly. Phần lớn đánh giá Hồ Quý Ly tuy có đầu óc mạnh dạn muốn xoay chuyển thời thế nhưng do phạm nhiều sai lầm nên đã dẫn đến họa mất nước. Năm 1990 và tiếp theo năm 1992, có hai cuộc hội thảo chuyên đề do Viện sử học và Ban nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa tổ chức, để đánh giá một cách toàn diện vai trò của Hồ Quý Ly đối với công cuộc cải cách thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV, và vị trí của nhà Hồ trong lịch sử. Tuy số lượng bài viết tương đối nhiều, song nhìn chung, do nguồn tư liệu bị thất truyền (như quyển Minh đạo lục, bản dịch thiên Vô dật, thơ ca của Hồ Quý Ly viết ra đều bị mất. Về thơ ca, đến nay chỉ còn giữ được 5 bài, trong đó có l bài thơ Nôm) nên các ý kiến thường trùng lặp, hoặc thiếu cứ liệu để minh chứng. Sự đánh giá về Hồ Quý Ly qua hai cuộc hội thảo đã có những nét đáng chú ý sau đây:
🞹 Về cải cách chính trị - xã hội:
Có 3 loại ý kiến:
⬥ Loại thứ nhất: đánh giá thấp vai trò của Hồ Quý Ly, cho rằng ông là nhà cấp tiến không tưởng, nhà thực tiễn nóng vội, nhiều khi mù quáng, phạm sai lầm cả về chiến lược và sách lược nên đã chịu thất bại. Về chính trị, ông không được lòng dân. Về quân sự, ông không có tài, đánh thường không thắng, phải nhờ đến tướng Trần Khát Chân mới thắng được Chiêm Thành. Về tổ chức kháng chiến chống quân Minh, do không dựa vào dân nên nhanh chóng bị thất bại và để mất nước.
62
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
⬥ Loại thứ hai: Đánh giá cao vai trò của Hồ Quý Ly, cho ông là nhà cải cách lớn, viện dẫn rằng tên ông được ghi vào Bách khoa từ điển nước ngoài, được nhà sử học Liên Xô (cũ) đánh giá như sau: Hồ Quý Ly, một nhà cải cách, một nhà yêu nước, một chiến sĩ chống quân bành trướng phương Bắc. Ông xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Có tác giả viết: “Nếu được phép nhìn nhận tổng quát về Hồ Quý Ly, chúng tôi mạnh dạn cho rằng ông không thuần túy là một nhà chính trị cầm quyền, ông nghiêng về phía một học giả, một lý thuyết gia có tầm xây dựng đề án chiến lược mang tính cách mạng ở thế kỷ XIV - XV. Việt Nam có một con người như thế, vậy cũng đáng xếp vào hàng ngũ nhân vật khổng lồ”.
⬥ Loại thứ ba: Nêu lên những mặt tích cực trong cải cách của Hồ Quý Ly, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đồng thời, cũng chỉ ra những mặt thiếu sót, sai lầm của Hồ Quý Ly để từ đó rút ra những bài học lịch sử.
Xác nhận Hồ Quý Ly là người có tư tưởng cải cách, không bảo thủ, rập khuôn theo đường cũ, dám đề ra chính sách cải cách nhiều mặt nhằm thay đổi chế độ phong kiến quý tộc đã bị lỗi thời.
Tài lực của ông bất tòng tâm. Ông thiếu nhiều kiến thức để cải cách kinh tế - xã hội, nên những chính sách mới do ông đề ra gặp nhiều mâu thuẫn và khó thực thi. Ví dụ chính sách hạn nô nhằm đánh vào quý tộc nhà Trần, kinh tế thái ấp, song lại chuyển nô tì, nông nô sang dạng nô mới (thuộc nhà nước). Đời sống của họ không có gì thay đổi. Chính sách hạn điền lại đánh vào địa chủ, thứ dân, một thành phần kinh tế mới đang phát triển cần được khuyến khích, việc phát hành tiền giấy cũng không được dân chúng hưởng ứng vì chưa phải do nhu cầu của phát triển thương mại.
Kết luận là: Hồ Quý Ly để lại bài học cho lịch sử lớn hơn là cái ông làm cho lịch sử.
63
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
🞹 Về chính sách giáo dục:
Đối với chính sách về cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly không có những ý kiến khác nhau cơ bản; nhìn chung đều đánh giá là có ý nghĩa tích cực và tiến bộ.
🞹 Về phát triển giáo dục:
Tuy không thành hệ thống lý luận về cải cách giáo dục mà chỉ bằng những chiếu chỉ, bằng những việc làm cụ thể, Hồ Quý Ly trong 15 năm trong lãnh vực giáo dục, với những nội dung và hình thức giáo dục mới đã góp phần đào tạo nên một lớp người có văn hóa đông đảo ở cuối thời Trần. Có thể nói so với các mặt khác về cải cách (chính trị, kinh tế, quân sự) thì chính sách cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly là tiến bộ nhất, và được nhân dân dễ dàng chấp nhận. Theo cách nhìn mới thì Hồ Quý Ly đã góp phần quan trọng trong việc đổi mới về mục tiêu giáo dục (đào tạo ra người có thực tài, có tác dụng thiết thực đối với đời sống xã hội), về nội dung giáo dục (giảm bớt giáo điều), về phương pháp giáo dục (có ứng dụng những điều học vào thực tế đời sống, dùng chữ Nôm cùng với chữ Hán làm phương tiện dạy, học, sáng tác...), về quản lí giáo dục (tổ chức trường học có quy củ ở địa phương, có chính sách khuyến học, đặt lệ thi có nền nếp). Sử thần Ngô Sĩ Liên cũng đánh giá: “Phép khoa cử đời Trần đến đây mới đủ văn tự bốn trường, đến nay còn theo không thay đổi được. Chọn nhân tài bằng văn học không gì hơn phép này. Xem những người đỗ về các khoa cuối đời Trần thì Nguyễn Ức Trai là nhất, văn chương của ông đã giúp triều Lê buổi đầu dựng nước. Sau nữa như Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Phan Phu Tiên, Nguyễn Thiên Tùng, đều là văn chương cự phách một thời”.
🞹 Về học thuật:
Hồ Quý Ly là người duy nhất, trong thời kỳ phong kiến, chủ trương xây dựng một hệ tư tưởng văn hóa Nho giáo Việt Nam bằng cách phê phán thần tượng Trình Chu của Trung Hoa, làm rõ bản sắc dân tộc qua việc giải nghĩa các sách kinh điển, bằng cách sử dụng văn tự
64
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
của nước nhà.
Cải cách thi cử, tuyển chọn quan lại của Hồ Quý Ly cũng xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam. Những định hướng của ông về một nền giáo dục của đất nước là: “Tỏ rõ giáo hóa, giữ phong tục, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài”. Đối với những ý kiến táo bạo của ông, một số nhà nho cũ tỏ ý không đồng tình, như Đoàn Xuân Lôi, một quốc tử trợ giáo thời ấy đã dâng thư lên nói: “bàn như thế là không phải”. Ngô Sĩ Liên cho rằng: “Từ khi có nhân dân đến giờ chưa có ai hơn Khổng Tử, mà Hồ Quý Ly dám khinh xuất, bàn đến, thực là không tự biết mình”.
Các giáo sư Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn thì đánh giá: “Về mặt học thuật, Hồ Quý Ly muốn phục hồi tư tưởng Nho giáo trong giai đoạn buổi đầu. Các chính sách ruộng đất, tiền tệ, làm nhà học của họ Hồ là do chịu ảnh hưởng của sách Chu Lễ của Chu Công. Hồ Quý Ly phê phán Tống Nho để trở về với chân Nho, song ông bị phản đối vì
Vở tuồng Hồ Quý Ly của nhà hát tuồng Việt Nam (2003)
65
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đương thời Tống Nho đang là chỗ dựa tinh thần của tầng lớp nho sĩ, đại diện trí thức của giai cấp địa chủ mới. Đả kích Tống Nho tức là đả kích vào ý thức hệ của giai cấp địa chủ tư hữu mới. Rõ ràng, Hồ Quý Ly đã tiếp tục tinh thần của học phong Đông A. Qua Minh đạo lục, cần phải ghi nhận rằng Hồ Quý Ly đã cống hiến xuất sắc về tư tưởng. Ông đã phát huy hào khí của học phong Đông A. Cùng sự suy nghĩ mạnh dạn, sáng tạo, tìm tòi tự tin của mình, tạo ra một bước ngoặt mới về tư tưởng trong quá trình tiếp nhận và Việt hóa học thuyết Nho giáo thời trung đại ở nước ta”.
Kết luận: Những cải cách giáo dục của Hồ Quý Ly nằm trong chương trình cải cách lớn của ông mang nhiều nội dung tích cực và tiến bộ. Tiếc rằng triều Hồ ngắn ngủi không đủ để cho những chủ trương cải cách của ông được thực thi đầy đủ và kiểm nghiệm qua thực tế. Chúng ta, sống cách thời đại Hồ Quý Ly gần 6 thế kỷ, nhưng vẫn thấy chủ trương cải cách của ông có giá trị thời sự. Đó là giáo dục phải góp phần đào tạo ra con người ham hành động sáng tạo, gần gũi với thực tế cuộc sống, mà muốn thực hiện được điều đó cần phải xem xét thay đổi từ mục tiêu giáo dục đến nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục, làm sao cho giáo dục luôn bám sát với thực tiễn và phục vụ thực tiễn” (Lịch sử giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.1945 - NXB Giáo Dục - 1996).
Sự thất bại của Hồ Quý Ly trong công cuộc cải cách, nay nhìn lại, ta có thể rút ra bài học: Trước nhất là do nó không được dân ủng hộ. Dân không ủng hộ chỉ vì những cải cách ấy chưa hội đủ điều kiện, chưa đủ thời gian để phát huy tác dụng nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho người dân. Thứ đến, bản thân họ Hồ trong mắt người dân đương thời không phải là bậc minh quân, mà chỉ là kẻ cướp ngôi nhà Trần bằng những thủ đoạn tàn khốc nhất. Một người như thế khi gương ngọn cờ cải cách, thì chắc chắn không tập hợp được lực lượng và tạo lòng tin trong mọi tầng lớp nhân dân.
Ngày nay, nhìn lại cuộc đời của một con người có nhiều chủ trương táo bạo và rất quyền biến trong hoạt động chính trị như Hồ Quý Ly, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu, khám phá và đó cũng chính
66
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
là những “chất liệu” cần thiết để các nhà văn xây dựng thành nhân vật tiểu thuyết, sân khấu... Gần đây, nổi bật nhất là tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã đoạt Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998 - 2000, Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2000 - 2001; hoặc vở tuồng Hồ Quý Ly (tác giả Xuân Yến, đạo diễn Nghệ sĩ Nhân dân Đình Quang) do Nhà hát Tuồng Việt Nam dàn dựng đã đoạt Huy chương vàng trong Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc năm 1999 tại Nha Trang, được Nhà hát Truyền hình Việt Nam chọn phát sóng và được đông đảo người xem truyền hình khen là một vở tuồng hay...
67
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
LÊ THÁNH TÔNG
Nhà cải cách toàn diện nhất
ở thế kỷ XV
“Tư chất và tính khí nhà vua cao
sáng, ham học không biết mỏi, tay
không rời sách; kinh, sử, chư tử, lịch
số, toán, chương đều tinh thông; văn
thơ càng giỏi hơn các bề tôi. Về trị
nước thì vua tôn trọng nho thuật, cất
nhắc anh tài, sáng lập chế độ, khôi
phục và mở mang bờ cõi, văn vũ, tài
lược hơn các đời. Người ta cho chính
trị đời Hồng Đức là rất thịnh”. Đó
là những dòng mà nhà bác học
Phan Huy Chú viết về vua Lê
Thánh Tông, con trai út của vua
Lê Thái Tông. Mẹ của ông là bà
Tượng vua Lê Thánh Tông
Ngô Thị Ngọc Dao, theo chị là Xuân vào hậu cung hầu vua Lê Thái Tông. Năm 1440 bà được
phong làm Tiệp dư. Nhưng do mâu thuẫn trong cung đình nên bà Ngô Thị Ngọc Dao bị đuổi ra khỏi thành, về sống tại nhà mình ở - phía tây nam Quốc Tử Giám (nay là chùa Huy Văn). Lúc này bà đã mang
68
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
thai. Tương truyền khi sinh, bà nằm mộng thấy thượng đế sai tiên đồng xuống làm con trai của bà. Tiên đồng dùng dằng không chịu đi ngay, thượng đế giận, cầm cái hốt ngọc đánh vào trán chảy cả máu. Bà giật mình tỉnh dậy, sau đó bà sinh hạ một cậu con trai khôi ngô, trên trán còn hằn cả vết sẹo, đặt tên là Lê Tư Thành. Đó là ngày 20/7 năm Nhâm Tuất (1442).
Đây cũng là năm vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở huyện Chí Linh và có vào thăm danh thần Nguyễn Trãi. Thấy người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ có nhan sắc nên vua bắt theo hầu. Chẳng may, khi cùng Nguyễn Thị Lộ về đến Lệ Chi Viên (thuộc huyện Gia Định - nay là huyện Gia Lương, Bắc Ninh) đêm ấy vua cảm bệnh rồi băng. Từ đó, Nguyễn Trãi và gia đình bị kết án oan khốc tru di tam tộc. Sau đó, thái tử Bàng Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi, tức vua Nhân Tông. Lê Tư Thành tuy sống trong dân dã, nhưng vẫn được phong Bình Nguyên Vương và hằng ngày vẫn được vào kinh học tập với các vương khác. Bấy giờ, thầy dạy học là Trần Phong thấy ngài thiên tư sáng láng, thần sắc khác thường lại thông minh hơn người nên càng ra sức dạy dỗ. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Vua lại càng sống kín đáo, không lộ vẻ anh minh ra ngoài, chỉ vui với sách vở cổ kim, nghĩa lý thánh hiền. Bẩm tính sinh ra đã biết, mà sớm khuya không lúc nào rời sách vở, tài năng lỗi lạc trời cho, mà chế tác lại càng đặc biệt lưu tâm. Ưa điều thiện, thích người hiền. Tuyên từ thái hậu yêu như con mình đẻ ra, vua Nhân Tông coi là người em hiếm có”. 17 năm sau, vua Lê Nhân Tông thì bị anh ruột là Nghi Dân đảo chính cướp ngôi. Nghi Dân lên ngôi được 8 tháng, nhưng hay nghe lời phỉnh nịnh, giết hại cựu thần nên ai ai cũng oán ghét. Tháng 6/1460 các tướng Nguyễn Xí, Đinh Liệt dựng cờ xướng nghĩa, bắt Nghi Dân đem giết, sau đó rước Lê Tư Thành lên làm vua, tức vua Lê Thánh Tông. Từ năm 1460 - 1469 nhà vua đặt niên hiệu là Quang Thuận, từ 1470 - 1497 lại đặt niên hiệu là Hồng Đức. Đức tính cần cù, ham đọc sách từ thuở thiếu thời đã được ngài gìn giữ cho đến lúc ngất ngưởng trên ngôi báu:
69
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Lòng vì thiên hạ những sơ âu,
Thay việc trời dám trể đâu.
Trống dời canh còn đọc sách,
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Suốt 38 năm trên ngôi vua, Lê Thánh Tông đã thi hành nhiều chính sách cải cách rất quan trọng trong lịch sử nước nhà. Nhà vua có công thay đổi và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ Trung ương xuống địa phương và rất có ý thức trong việc bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc. “Một thước núi, một tấc sông lẽ nào tự tiện vứt bỏ được… Nếu người nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trị tội nặng”. Về cai trị: Năm 1464, nhà vua chia đất nước ra làm 12 đạo. Đứng đầu mỗi đạo có tòa Đô trông coi về việc binh, tòa Thừa và tòa Hiến trông coi về hành chính. Lại đặt ra chức Giám sát ngự sử để kiểm tra công việc ở các đạo. Dưới đạo là phủ, châu, huyện, xã. Sau này, năm 1470, lấy thêm được đất Quảng Nam của
Hồng Đức bản đồ 1490
70
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Chiêm Thành, nhà vua lại đặt làm 13 xứ. Trong 13 xứ chia làm 52 phủ, 172 huyện và 50 châu. Dưới phủ huyện còn có 8.006 hương, phường, xã, trang, sách, động, nguyên, trưởng. Các quan lại địa phương có nhiệm vụ làm bản đồ các đạo mình quản nhiệm, ghi rõ đặc tính của từng miền. Những bản đồ đó gửi về bộ Hộ để làm bản đồ toàn quốc. Có thể xem bản đồ Hồng Đức là bản xưa nhất mà chúng ta còn giữ được - đánh dấu một bước tiến mới về khoa địa lý họa đồ, phản ánh rõ nét về ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền độc lập của nước nhà Đại Việt. Nhà vua còn đặt định lệ là các quan nội ngoại làm việc đến 65 tuổi, các người làm nha lại đến 60 tuổi thì đều được về hưu. Những người ra làm quan, với quyền lực trong tay thường nhũng nhiễu dân. Do đó, từ năm 1470 nhà vua lệnh cho các quan phụ trách Ti, Viện phải thực hiện đều đặn 3 năm một kỳ phép khảo khóa đối với quan lại dưới quyền theo ba nội dung:- Có được lòng dân không? Có yêu thương dân không? Dân trong hạt có trốn đi nơi khác không? Trên cơ sở đó mà thanh lọc đội ngũ quan lại. Việc làm này, khiến ta nhớ đến chủ trương hiện nay Đảng ta đang thực hiện trong việc Chỉnh đốn Đảng - là biện pháp làm trong sạch Đảng rất hợp lòng dân.
Về sưu thuế và canh tác: Vua Lê Thánh Tông khuyến khích phát triển việc làm ruộng, trồng dâu. Đặt ra quan Hà đê và quan Khuyến nông để trông coi việc này. Các quan bộ Hộ và quan Thừa Chính phải báo cáo xem nơi nào còn đất đai bỏ hoang thì đưa dân đến canh tác. Việc thuế tiến hành nghiêm minh và khoa học hơn trước. Chẳng hạn, những lão niên, người tàn tật và thanh thiếu niên chưa đến 18 tuổi thì không phải đóng thuế đinh; các thuế ruộng, thuế đất, thuế đất bãi trồng dâu thì chia làm ba hạng, căn cứ vào số mẫu mà đóng. Nhà vua thường xuyên đi kiểm tra công việc cày cấy trong dân. Năm 1470 đi kinh lý, thấy đồng ruộng nước nhiều, lúa chiêm bát ngát, ngài phấn khởi đọc bài thơ:
Lúa chiêm xuân khoảnh xanh xanh
Nuôi dân là phải lấy ăn làm đầu
Đầu thôn mấy cụ bảo nhau
Rằng so năm ngoái hoa màu nay hơn
71
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
Quan điểm cai trị của nhà vua khá rõ trong câu thơ “Nuôi dân là phải lấy ăn làm đầu”, không để cho dân đói rét, lấy niềm vui được mùa của dân làm niềm vui của mình. Chính vì ý thức như thế nên, nhà vua lập ra nhà Tế sinh nuôi những người nghèo đơn độc, đau yếu không ai chăm sóc và nơi nào dân bị dịch bệnh thì phải cứu chữa ngay. Do đó, đời sống nhân dân dưới đời vua Lê Thánh Tông khá sung túc. Sau khi đi thị sát khắp mọi miền đất nước, nhìn thấy người dân sống trong thanh bình, ngài cất tiếng thơ sảng khoái:
Đất nhiều cá muối dân no đủ,
Ruộng ít hoa màu thuế nhẹ nhàng.
Hoà bình hưởng mãi dân vui vẻ,
Hơn bốn mươi năm sống dễ dàng.
Có thể nói, Lê Thánh Tông vừa lấy đức trị, nhưng đồng thời cũng phát huy pháp trị. Ngay lúc mới lên ngôi, nhà vua đã sắc chỉ cho các quan ở nội mật và các cung tỳ, nội nhân từ nay về sau, nếu thấy chiếu chỉ và các việc trong cung thì không được lén lút tiết lộ ra cho người ngoài và vợ con thân thích. Lại ra sắc chỉ cho các vệ quân ở các đạo, phủ, trấn rằng: Có quốc gia phải có võ bị. Nay phải theo trận đồ nhà nước đã ban, trong địa phận của mình phải chỉnh đốn đội ngũ, dạy cho quân lính phép đi, đứng, đâm, đánh, hiểu được hiệu lệnh, tiếng chiêng, tiếng trống khiến cho binh lính quen tập cung tên, không quên võ bị. Ai trấn giữ biên cương thì phải gìn giữ quan ải cẩn thận, không được thông đồng với người nước ngoài. Ngoài ra nhà vua còn đặt ra lệ cứ 3 năm một kỳ thi võ, ai đậu thì thưởng, ai hỏng thì phạt, bất kể là quân hay tướng. Chính nhờ sửa sang về võ bị mà quân đội đời Hồng Đức rất hùng mạnh. Trong những 1470, quân Chiêm Thành cầu viện nhà Minh phương Bắc để đánh chiếm nước ta, nhưng đã bị vua Lê Thánh Tông thân chinh tiễu phạt, đánh thua liểng siểng. Sau đại thắng này, bờ cõi về phía Nam lại được mở mang. Sau chiến thắng Đô Bàn năm 1471, ông đã vượt lên ngọn núi cao 706m - nằm kề bên núi Đại Lãnh, là dẫy núi làm ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Khánh ngày nay - khắc bia phân định lãnh thổ Việt - Chiêm. Cũng vì thế mà ngọn núi có tên là núi Đá Bia.
72
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Bia tiến sĩ ở Văn Miếu do vua Lê Thánh Tông cho dựng để khắc tên
người trúng tuyển từ khoa 1442
Không những giỏi về tài cầm quân Lê Thánh Tông còn là một ông vua có ý thức về vấn đề giáo dục cho toàn dân. Ngài viết Dụ khuyến học kêu gọi mọi người ra sức học tập; định phép lại thi hương, sửa phép thi hội để chọn lấy nhân tài ra phò vua, giúp nước. Ngài cho sửa rộng thêm nhà Thái học, mở rộng quy mô Quốc Tử Giám và bắt đầu cho dựng bia Tiến sĩ, khắc tên những người trúng tuyển các khoa thi Hội từ khoa thi 1442 trở đi; lại làm kho Bí thư để chứa sách v.v… Tất cả những điều cải cách này đã tác động tích cực tinh thần hiếu học của tử sĩ. Nếu đời vua Nhân Tông khoa thi năm 1448 có 720 người đi thi, thì dưới đời Lê Thánh Tông khoa thi năm 1463 lên đến 1.400 người và khoa thi năm 1475 có đến 3.000 người thi. Nếu tính từ khoa thi đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam đến lúc chấm dứt thi chữ Hán (1075 - 1918), tổng số Tiến sĩ là 2.885 người thì chỉ riêng
73
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
đời vua Lê Thánh Tông chiếm tới 501 người! Cũng trong thời gian này, nhiều công trình nghiên cứu học thuật có giá trị của nước nhà đã hoàn thành: Đại Việt sử ký toàn thư, Thiên Nam dư hạ tập, Lê triều hình luật (hay Quốc triều hình luật thường gọi là Bộ luật Hồng Đức), lập bản đồ Hồng Đức v.v… Đặc biệt thời kỳ này, nhà vua đã chú ý nhiều đến âm nhạc, sai Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh soạn ra hai bộ: bộ Đồng văn - chuyên về hòa nhạc và bộ Nhã nhạc - chuyên về hợp xướng. Lại lập ra Ty giáo phường quản lý những việc liên quan đến âm nhạc. Nhờ sống trong không khí này mà Lương Thế Vinh hoàn thành tác phẩm Hí phường phả lục, Vũ Quỳnh viết Văn thành bút pháp… Một việc làm nữa của nhà vua được người đời sau ca ngợi là minh oan cho Nguyễn Trãi và sai người sưu tầm lại thơ văn của bậc khai quốc công thần này v.v…
Bộ Bộ luật Hồng Đức, gồm 6 quyển, 722 điều, đến nay vẫn được xem là bộ luật hoàn chỉnh nhất thời phong kiến ở nước ta. Nó thể hiện sự nghiêm minh của nhà nước, đồng thời cũng rất nhân đạo. Chẳng hạn, những phạm nhân trên 70 tuổi hoặc dưới 15 tuổi; những người phụ nữ, người cô đơn, dân nghèo, dân tộc ít người… được luật pháp bảo vệ v.v… “Có những tiến bộ đó là do trong khi kế thừa pháp luật Trung Hoa, kế thừa Hình thư đời Lý, đời Trần để soạn Quốc triều hình luật, nhà Lê đã có sự sáng tạo cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Có thể nói xu hướng hưng thịnh của phong kiến triều Lê, lòng nhân ái của các vị vua lỗi lạc như Lê Thánh Tông và quần thần của một triều đại đang lên cũng là điều kiện để cho luật Hồng Đức mang yếu tố tiến bộ. Vì có sự tiến bộ đó, Quốc triều hình luật không chỉ phát huy tác dụng ở triều Lê mà còn là cơ sở pháp luật chủ yếu cho các triều đại sau đó”(1)
Riêng về trong sáng tác văn học thì Lê Thánh Tông cũng là một tác gia lớn của thế kỷ XV, ngài viết nhiều thể loại. Trạng nguyên Vũ Quỳnh nhận xét: “Nhà vua chẳng những là hoàng đế về mặt chính trị, mà còn là hoàng đế về mặt văn chương nữa”. Ngài có viết thơ Nôm
(1) Pháp luật các triều đại Việt Nam và các nước - PTS Cao Văn Liên - NXB Thanh Niên 1998, trang 216.
74
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
in chung trong Hồng Đức quốc âm thi tập, có văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn; ngài cũng có thơ chữ Hán in chung trong Anh hoa hiếu trị “nhiều câu nghe như tiếng vàng ném xuống đất” (Đại Việt sử ký toàn thư); hoặc những tập riêng như Chinh Tây kỷ hành - trong đó mô tả cảnh đẹp của đất nước khi cầm quân đi đánh giặc, Minh lương cẩm tú thi tập, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ kim bách vịnh, Xuân vân thi tập… hoặc truyện chữ Hán như Thánh Tông di thảo. Ngoài ra, ngài còn để lại bài phú nổi tiếng: Lam Sơn lương thủy phú - ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của anh hùng Lê Lợi, để từ đó kêu gọi quân dân dốc sức bảo vệ và xây dựng Tổ quốc mà tiền nhân đã đổ bao xương máu gầy dựng nên. Đây là bài phú cổ bằng Hán văn dài nhất của ta còn sót lại có giá trị về từ chương và nội dung ý nghĩa. “Văn chương bài phú này có khí thế ngang trời, tứ văn dạt dào như suối vọt.” (Vũ Quỳnh) và “Tứ văn bài phú nổi bật lạ lùng, nghị luận thì chính đại, văn chương thì tinh xảo, đoạn kết có sức thuyết phục lớn” (Hoàng giáp Vũ Lãm). Ngoài ra, Lê Thánh Tông còn là người sáng lập ra hội Tao Đàn vào năm 1495, tự xưng là Tao Đàn nguyên súy. Năm ấy, gặp tiết trời mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân nhàn rỗi, vua Lê Thánh Tông soạn chín khúc ca làm thành Quỳnh uyển cửu ca, rồi chọn 28 văn thần - ứng với 28 ngôi sao trên trời, phong làm Tao Đàn nhị thập bát tú - để họa lại những vần thơ nói trên (1). Về ý nghĩa của việc thành lập Tao Đàn nầy, trong lời bạt ở cuối tác phẩm Quỳnh uyển cửu ca, học sĩ Đào Cử có nói rõ ý đồ của Lê Thánh Tông:
“Từ khi đức vua lên ngôi, trong ngoài đều phục, nắng mưa thuận hòa, dân yên vật thịnh. Trong khi nhàn rỗi, vua thường bỏ hết thú vui như đàn hát, săn bắn, khiến cho sạch lòng ít dục, như cây ngay từ gốc, nước trong từ nguồn, lại có tài học cao minh, lòng đạo sáng suốt, cho nên anh hoa phát tiết ra ngoài, biểu hiện ở lời ngâm vịnh. Ngài chỉ phóng bút một lúc, chín bài xong ngay. Trước thì vịnh thời tiết thuận năm được mùa, để mừng lòng
(1) Về số lượng văn nhân trong Tao đàn này, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết chỉ 27 người cùng với Lê Thánh Tông là 28. Và danh sách thì cũng có một vài tài liệu ghi khác đôi người, chẳng hạn, có tài liệu ghi thêm Chu Huân, Lương Thế Vinh, Thái Thuận. Phó Nguyên súy là Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận, thì cũng có tài liệu ghi là Thái Thuận. Xin nêu rõ để bạn đọc tham khảo.
75
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
trời ngầm giúp; giữa thì nói đạo làm vua, đạo làm tôi, để khuyên người về việc nên làm; sau cùng mượn cảnh ngụ tình để khích lệ tiết tháo trong sạch của các quan. Nghĩa lý thật cao xa, lời lẽ thật mạnh mẽ, thiện ý khuyên răn, chan chứa ở lời, thực là văn dạy người ở bậc đế vương”.
Ngoài những việc làm trên, thiết tưởng, những sửa đổi phong tục của ngài đã góp phần không nhỏ để nhân dân thời bấy giờ sống có văn minh hơn. Chẳng hạn, trong tang ma không được kéo dài quá lâu, không được bày trò hát xướng v.v…Và ngài cũng là người viết 24 điều huấn dụ cho dân xã thảo luận, học thuộc để giữ lấy thói tốt:
1. Mẹ dạy con phải có phép tắc; trai gái đều có nghề nghiệp, không được rượu chè, cờ bạc, tập nghề hát xướng để hại phong tục.
2. Người gia trưởng tự mình phải giữ lễ phép để cho cả nhà bắt chước; nếu con em làm càn quấy thì bắt tội gia trưởng.
3. Vợ chồng cần kiệm làm ăn, duy chỉ khi nào người vợ phạm tội thất xuất (1), chứ không được ruồng bỏ vợ làm hại đến phong hóa.
4. Làm kẻ tử đệ nên yêu mến anh em, thuận hòa với xóm giềng, phải lấy lễ nghĩa mà cư xử; nếu trái phép thì người tôn trưởng đánh đập dạy bảo, có tội to phải nộp cho quan để trừng trị.
5. Ở làng xóm tôn tộc, có việc hoạn nạn thì phải giúp đỡ nhau. Nếu ai có tiếng là người hạnh nghĩa tốt thì các quan phủ, huyện sở tại phải bẩm lên tòa Thừa, tòa Hiến để tâu vua mà tinh biểu cho.
6. Đàn bà có lỗi mà cha mẹ chồng đã trừng trị thì phải nên sửa mình hối lỗi, không được tự tiện trốn đi làm hư mất nết đàn bà.
7. Người đàn bà góa không được chứa những trai trẻ trong nhà, nói dối là con nuôi để âm hành những việc gian dâm.
8. Những đàn bà góa chồng, đối với các con vợ cả, hoặc vợ lẽ, nàng hầu, nên có lòng thương xót, không được mưu mô để chiếm đoạt gia tài làm riêng của mình.
(1) Thất xuất: bảy cớ mà người đàn đàn ông thời phong kiến nước ta được bỏ vợ: 1. Không có con; 2. Dâm ô, lười nhác; 3. Không hiếu thảo với cha mẹ chồng; 4. Lắm điều; 5. Trộm cắp; 6. Ghen tuông; 7. Có ác tật.
76
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
9. Đàn bà góa chưa có con cái, phải ở nhà chồng để giữ đủ tang lễ, không được chuyển vận của cải mang về nhà mình.
10. Làm đàn bà thì phải theo chồng, không được cậy cha mẹ mình phú quý mà khinh nhà chồng. Nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ.
11. Những sĩ phu nên quý phẩm hạnh và giữ phép quan; nếu cứ xu nịnh những kẻ quyền quý để cậy thế làm càn thì phải cách bỏ đi không kể đến nữa.
12. Kẻ lo việc giữ sổ sách giấy má để làm việc quan, nếu làm xáo trộn, thay đổi án từ, thì quan trên sẽ xét ra mà trừng trị.
13. Quan dân đều phải hiếu đễ, và chăm chỉ làm ruộng, cùng giúp đỡ lẫn nhau; khi đi làm việc quan, không được trễ biếng, trốn tránh. Nếu ai có tiếng là người lương thiện thì các quan phủ, huyện phải trình tòa Thừa, tòa Hiến để biểu dương.
14. Kẻ thương mãi phải tùy thời giá mà buôn bán với nhau, không được nâng giá khi hàng khan hiếm hoặc tụ tập đồ đảng để đi trộm cướp; nếu phạm tội ấy thì trị tội rất nặng.
15. Việc hôn giá tế tự phải giữ lễ phép, không được làm càn.
16. Chỗ dân gian có mở trường du hí hoặc cúng tế thì con trai, con gái đến xem, không đứng lẫn lộn để khỏi gian dâm.
17. Các hàng quán bên đường, có phụ nữ đi xa đến trọ, thì phải phòng giữ. Nếu để hà hiếp ô nhục người ta, việc phát giác ra thì người phạm cùng chủ nhà đều phải trị tội cả.
18. Phủ huyện phải lập bia ở các nơi sở tại để cấm con trai, con gái không được cùng tắm một bến, để cho có phân biệt.
19. Các xã thôn phải chọn một vài người gìa cả, đạo đức làm trưởng, những ngày thong thả đem dân ra đình tuyên giảng những lời cáo dụ, để khiến dân bắt chước làm theo điều thiện, thành ra mỹ tục.
20. Trong hạt phủ, huyện có kẻ cường hào xâm chiếm điền thổ, ức hiếp cô độc và xúi gịuc người ta kiện tụng, thì xã thôn báo giác lên để
77
BỘ SÁCH KỂ CHUYỆN DANH NHÂN VIỆT NAM
quan xử trị.
21. Các nhà vương, công, đại thần dung túng những đứa tiểu nhân, đưa người khấn lễ và cho người nhà đi ức hiếp nhân dân mà mua rẻ các đồ vật, thì dân được tố cáo để trọng trị.
22. Những người làm quan phủ, huyện mà biết khuyên bảo nhân dân làm điều hiếu nghĩa khiêm nhượng, có quan Thừa chính, Hiến sát xét thực, thì được cho vào hạng tốt; nếu ai không chăm dạy bảo dân thì cho là người không xứng chức.
23. Những người huynh trưởng ở chốn xã thôn và phường biết dạy bảo con em trong làng cho nên được phong tục tốt, thì quan phủ, huyện phải bẩm tòa Thừa, tòa Hiến tâu vua ban khen.
24. Các dân tộc ít người ở ngoài bờ cõi, nên giữ lời di huấn, không được trái đạo luân thường - như trường hợp cha, anh, chú, bác chết thì con em không được chiếm lấy những thê thiếp, nếu mà trái phép thì sẽ bị trị tội rất nặng.
Các điều huấn dụ trên có từ thế kỷ XV, khiến chúng ta tự hào đất nước ta là một nước có văn hiến từ lâu. Và những huấn dụ trên đến nay chưa hẳn đã hoàn toàn lỗi thời. Có thể nói, vua Lê Thánh Tông là đấng minh quân, với những cải cách tích cực ngài đã xây dựng một xã hội phồn vinh, no ấm nhất dưới thời phong kiến nước ta. Nhà vua là người đã thực hiện trọn vẹn những tư tưởng vì dân, chăm dân mà trước đó nhà chính trị kiệt xuất Nguyễn Trãi đã hứa trước quốc dân trong Bình Ngô đại cáo: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.
Trị nước được 38 năm, đến năm 1496 vua Lê Thánh Tông ốm nặng, nhưng vẫn không xao nhãng việc nước. Tháng giêng năm sau, ngài ngồi dựa ghế ngọc tuyền đọc bài thơ:
Năm chục hoa niên bảy thước thân,
Lòng như sắt cứng bỗng mềm dần.
Gió lay khô héo hoa bên cửa,
Sương dãi gầy mòn liễu trước sân.
78
TẬP 7: NHỮNG NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM
Tranh vẽ vua Lê Thánh Tông (thờ tại Lam Kinh)
Trời biếc xa trông mây thăm thẳm,
Kê vàng tỉnh giấc đối bâng khuâng.
Khuất lời cách mặt, non Bồng vắng,
Băng ngọc du hồn nhập mộng chăng?
(Bản dịch của Hoàng Văn Lâu)
Đọc xong, ngài truyền ngôi lại cho thái tử rồi băng. Công đức và tài năng của vua Lê Thánh Tông sống mãi trong sử sách nước nhà.
79
"""