"Những Ngày Cuối Của Dòng Mekong Hùng Vĩ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Ngày Cuối Của Dòng Mekong Hùng Vĩ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Những Ngày Cuối Của Dòng Mekong Hùng Vỹ Brian Eyler —★— Nguyễn Đình Huỳnh dịch Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam Phanbook phát hành —★— ebook©vctvegroup —★— Ebook này chỉ để tham khảo, mua sách giấy để ủng hộ tác giả và dịch giả. B Tác giả RIAN EYLER là Giám đốc Chương trình Đông Nam Á của Trung tâm Stimson tại Washington, DC. Ông từng có thời gian quản lý các trung tâm du học ở Bắc Kinh và Côn Minh, Trung Quốc cho IES Abroad và dẫn đầu nhiều chuyến tham quan học tập trên khắp khu vực sông Mekong. Trong Những ngày cuối của dòng Mekong hùng vĩ, Brian Eyler dẫn chúng ta bước vào một chuyến khảo sát Mekong từ thượng đến hạ nguồn, tìm hiểu về những người phụ thuộc vào tài nguyên nơi đây. Thông qua câu chuyện sinh kế của các cộng đồng cư dân chịu tác động bởi chính sách khai thác và tái định hình môi trường dòng sông này, ông đưa ra các giải pháp hợp lý, và cũng cảnh báo nếu những kịch bản tốt lành không xảy ra... DANH MỤC BẢN ĐỒ VÀ SỐ LIỆU Bản đồ lưu vực Mekong Bản đồ khu vực Zomia Bản đồ các đập ở tây nam Trung Quốc Bản đồ Tam Giác Vàng Bản đồ nước Lào Bản đồ các đập ở Hạ Mekong Bản đồ Campuchia Bản đồ hồ Tonle Sap và bãi bồi sông Mekong Tác động của biến đổi khí hậu và đập thượng nguồn lên hồ Tonle Sap Bản đồ sử dụng đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long Sơ đồ tác động xâm nhập mặn và mực nước biển đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long GIỚI THIỆU T rường Mekong ở huyện vùng biên Chiang Khong, Thái Lan, gần trung tâm Tam Giác Vàng, cách bờ dòng sông nổi tiếng này chưa đến hai mươi mét. Ngôi trường kiểu nhà sàn hai tầng bằng gỗ tếch được nhóm bảo tồn cộng đồng Rak Chiang Khong xây dựng vào năm 2013. Phòng họp là một không gian mở trên tầng hai của trường, các vị lãnh đạo cộng đồng địa phương thường tụ họp ở đây trên những chiếc chiếu dài, trao đổi quan điểm về cách bảo tồn văn hóa địa phương, quản lý rừng cộng đồng, và bảo vệ các tài nguyên quý giá của sông Mekong. Gian nhà chính của trường dài tầm hai mươi mét, cạnh chiếc lán nhỏ ba vách mặt tiền mở ra sông. Ba buồng chuối xanh chưa chín cắt từ những cây chuối trồng dọc theo rìa mảnh đất của trường treo trên xà ngang cái lán. Một tấm áp phích mua ngoài cửa hàng in hình Quốc vương Thái Lan Bhumibol Adulyadej vừa qua đời được treo trên bức tường phía sau cạnh những tấm áp phích lớn vẽ bằng tay hình Hồ Chí Minh, Che Guevara và Nelson Mandela. Phía dưới là bức tranh vẽ Naga, thần rắn bảo vệ sông Mekong. Trong bức tranh, phần cuối đuôi của Naga bị chặt nát, nhưng đôi mắt vẫn rất sống động. Đó là một buổi sáng tháng Một trong lành, tôi đang ngồi bên chiếc bàn dã ngoại đặt giữa ngôi trường và con sông cùng với Niwat Roykeaw, trưởng nhóm Rak Chiang Khong và là người am hiểu mọi thứ về dòng Mekong. Người dân địa phương gọi ông là Khru Tee, có nghĩa là thầy hay đạo sư, và Trường Mekong là đạo tràng của ông. Vài ngày trước, Khru Tee đã chỉ cho tôi thấy cách các cộng đồng địa phương thích nghi với tình hình đang thay đổi. Ông cho biết sản lượng cá đánh bắt ở đây đang sụt giảm và mực nước sông Mekong gần đây dâng cao một cách khó lường vào giữa mùa khô. Cả hai tình huống trên đều liên quan đến các con đập của Trung Quốc, cách Chiang Khong hàng trăm cây số về phía thượng nguồn. Ông có vóc người mảnh khảnh, tóc bạc để dài, buộc thả sau lưng cho thấy phong trào văn hóa đối kháng những năm 1960 ở phương Tây đã lan đến tận Tam Giác Vàng từ hàng chục năm trước. Đặc điểm nổi bật nhất của ông là chiếc răng cửa dài hơi nhô ra ngoài so với những chiếc còn lại. Nhìn kỹ mới thấy đôi mắt của Khru Tee lấp lánh ngọn lửa chất chứa những câu chuyện về dòng Mekong. Vào những năm 1960, Khru Tee còn là một cậu bé sống trong căn nhà sàn bằng gỗ phía bên bờ sông của con phố độc nhất ở Chiang Khong. Cậu giúp mẹ chăm sóc khu vườn ven sông trồng đu đủ, ớt, cà tím, và mò cua bắt ốc, tìm kiếm những thứ ngon lành khác trên bờ sông. Cậu nhìn ngư dân ngày ngày mang hàng đống cá lên chợ. Thỉnh thoảng, người dân trong huyện tụ tập xem cá trê Mekong khổng lồ mới bắt được có khi dài tới 3m và nặng hơn 300kg. Vào những tháng mùa đông mát mẻ, gia đình cậu ngủ trên chiếu trải dưới sàn nhà cạnh đống lửa, điểm chung của các ngôi nhà ở vùng Tam Giác Vàng và vùng cao Đông Nam Á. Những người lớn tuổi nhất luôn ngủ gần lửa nhất, và Khru Tee thường tranh với anh chị mình ngủ cạnh ông nội cho ấm. Đêm đêm để dỗ Khru Tee ngủ, ông nội kể cho cậu nghe những câu chuyện về Bulaheng khổng lồ, ông lão của sông Mekong, người bảo vệ dòng sông và các vùng đất lân cận. Theo tôi, Bulaheng là nhân vật kiểu như Paul Bunyan, người thợ đốn gỗ khổng lồ trong truyện dân gian Mỹ. Nhưng điểm khác biệt ở đây là thay vì đốn hạ rừng, ông là người canh giữ vùng Tam Giác Vàng, chiến đấu chống lại quỷ dữ và những kẻ xâm phạm. Dấu chân của Bulaheng tạo ra núi và sông khi ông đi qua vùng đất này. Giống như Paul Bunyan nuôi bò Babe the Blue Ox thành một con thú khổng lồ, Bulaheng đã nuôi cá sông Mekong để chúng luôn dồi dào, to lớn, cung cấp cho những người sống gần sông. Nơi ông nghỉ ngơi, Bulaheng tạo ra vùng đất bằng phẳng và dạy cho người dân sông Mekong cách trồng lúa trên đồng và làm cái đơm để bắt cá. Năm 2001, Khru Tee cùng với vài người dân Chiang Khong đã chiếm giữ những tảng đá trồi lên trên mặt nước giữa sông Mekong ngay phía bắc Chiang Khong. Vài ngày trước, các kỹ sư từ Trung Quốc chạy tàu cao tốc đến và cài chất nổ vào các tảng đá theo một kế hoạch phát triển nhằm dọn đường cho tàu thuyền buôn bán của Trung Quốc đi xuống hạ nguồn. Người dân địa phương tin rằng những tảng đá là nơi sinh sản theo mùa của loài cá trê Mekong khổng lồ, và nếu không có chúng, những loài đang gặp nguy này sẽ bị tuyệt chủng. Khru Tee và những người bạn của ông đã ngăn chặn thành công đám người Trung Quốc, những người này về sau đã chấp nhận xây dựng công trình cảng ở Chiang Saen, thành phố cách 40km về phía thượng nguồn. Khi Khru Tee kể cho tôi chuyện này, ông nói chính ý chí của Bulaheng đã dẫn dắt những người phản kháng tiến lên. Qua chương trình ở Trường Mekong, Khru Tee cố gắng làm sống lại huyền thoại Bulaheng. “Nếu mọi người biết được huyền thoại này, họ sẽ hiểu vì sao Bulaheng là người bảo vệ hệ sinh thái vùng này. Thông qua Bulaheng, trẻ em sẽ biết được các thành phần của hệ sinh thái phối hợp với nhau như thế nào và hiểu được vị trí của chúng trong hệ sinh thái này”, ông nói. Những năm vừa qua, vào mùa câu cá trê theo truyền thống, nhóm Rak Chiang Khong tổ chức một lễ hội tưởng niệm Bulaheng. Mỗi năm, Khru Tee cùng với trẻ em địa phương dựng hình Bulaheng cao hai tầng diễu hành qua huyện và diễn các vở kịch luân lý theo truyền thuyết Bulaheng. Trong cuộc trò chuyện, tôi gợi ý trong vở diễn năm nay Bulaheng đụng phải con đập trên sông Mekong và đá sập nó. Mắt Khru Tee sáng lên. “Bulaheng đá con đập!”, ông nói to, “Hay, chúng tôi sẽ làm thế!” và bắt đầu phổ biến ý tưởng đó cho những người khác ngồi quanh bàn. Tôi nhắc ông Trung Quốc lại đang tập hợp nỗ lực để phá hủy các bãi cạn ngay phía bắc Chiang Khong và khai thông lòng sông để tàu hàng lớn qua lại. Tôi hỏi nhóm ông có chuẩn bị hành động gì không. “Chúng tôi sẽ tiến ra đó lần nữa và ngăn họ lại. Chúng tôi có Bulaheng sau lưng, và nếu Bulaheng đá đập được thì Bulaheng chặn người Trung Quốc được!” Nhưng với những thay đổi nhanh chóng do việc đầu tư xây dựng cầu, đường cao tốc, đập, và siêu thị ở khu Tam Giác Vàng, một số do Trung Quốc xây và một số do nước khác, giữ cho truyền thuyết Bulaheng sống mãi dường như là một nhiệm vụ rất khó khăn. *** Sông Mekong dài 4300km và chạy qua hay tạo thành đường biên giới của Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Sông bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng, hơn nửa chiều dài sông chảy qua Trung Quốc. Ở Trung Quốc, người ta gọi là sông Lan Thương. Để tiện cho độc giả, tôi không gọi sông Mekong ở Trung Quốc là sông Lan Thương. Cho đến gần đây, phần lớn người dân Trung Quốc không biết sông Lan Thương và sông Mekong là một, dẫn đến chuyện nhiều người ở Trung Quốc thắc mắc vì sao các nước hạ nguồn lại quá bận tâm đến cách Trung Quốc đối xử với sông Mekong. Where Have All the Fish Gone (Cá đi đâu hết rồi), phim tài liệu của nhà báo Đông Nam Á kỳ cựu Tom Fawthrop, cho thấy sự thiếu hiểu biết đó khi ông quay phim một nhà ngoại giao Trung Quốc nói rằng những việc xảy ra trên sông Lan Thương chẳng ảnh hưởng gì đến sông Mekong vì chúng là hai con sông khác nhau. Truyền thông Trung Quốc khi đưa tin về các sự kiện xuyên biên giới như vụ sát hại tàn bạo 13 thương nhân Trung Quốc vào năm 2011 trên sông Mekong ở Tam Giác Vàng đã cố thay đổi suy nghĩ đó. Nhưng với nhiều người, đó vẫn là hai con sông khác nhau. Tuy phần sông Mekong chảy qua Trung Quốc rất dài nhưng nó đóng góp chưa đến hai mươi phần trăm lượng nước trong lưu vực sông Mekong. Con sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng và sau khi vào Vân Nam, nó chảy nhanh qua các hẻm núi sâu, chạy song song với ba con sông lớn của châu Á. Ở Vân Nam, khoảng cách giữa sông Salween, sông Irrawaddy, sông Mekong với dòng chính của con sông dài nhất Trung Quốc - sông Dương Tử, có lúc dưới 120km. Ở phía nam tỉnh Vân Nam, sông Mekong cũng chảy gần sông Hồng, tuyến đường thủy quan trọng nhất Bắc Việt Nam. Ngay sau khi ra khỏi Trung Quốc, dòng sông không có đối thủ cạnh tranh giành nguồn cung cấp nước. Lưu vực của nó lấy nước từ khắp nơi, ngoại trừ phần đông bắc nhỏ bé của Lào, một nửa của Thái Lan và gần như toàn bộ Campuchia. Phía nam Phnom Penh, thủ đô Campuchia, sông Mekong phân thành nhiều nhánh, cấp nước cho hơn 30.000km kênh nhân tạo của đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam Việt Nam. Bản đồ Lưu vực sông Mekong. Hơn sáu mươi sáu triệu người sống trong lưu vực sông Mekong. Con số này bao gồm phần lớn dân số Lào và Campuchia, một phần ba của sáu mươi lăm triệu dân Thái Lan, và một phần năm của chín mươi triệu người Việt Nam. Phần sông thuộc Trung Quốc có dân cư thưa thớt trừ Cảnh Hồng, thủ phủ của châu tự trị dân tộc Thái Tây Song Bản Nạp, thành phố lớn thứ ba nằm dọc theo bờ sông có dân số 500.000 người. Xuôi theo dòng sông sẽ thấy phần lớn cư dân gần bờ sông sống trong những ngôi làng và thị trấn nhỏ có vài trăm hay vài ngàn dân. Trung bình một người dân nông thôn trong lưu vực sông Mekong đánh cá, trồng lúa hay hoa màu có thu nhập khoảng 800 đô-la một năm. Thực phẩm của dân ở lưu vực sông Mekong chủ yếu lấy trực tiếp từ dòng sông này hay vùng đất bao quanh, cùng với những thứ bày bán ở chợ địa phương. Chẳng hạn, trung bình một người Campuchia nhận được khoảng 60% lượng protein nhờ ăn cá đánh bắt từ sông Mekong. Nếu ngồi bè đi dọc chiều dài sông, điều thực ra không thể thực hiện được do các thác nước ở biên giới Lào và Campuchia, các đô thị như thủ đô Viêng Chăn và Phnom Penh là những thứ hiếm hoi nhìn thấy được. Tuy nhiên, các thành phố như Phnom Penh đang bùng nổ thu hút những người mới đến từ các vùng nông thôn do nền kinh tế đô thị phát triển của chúng. Dân số Phnom Penh đã tăng từ 1,3 triệu năm 2008 lên 2 triệu năm 2017. Cũng trong khoảng thời gian đó, dân số Viêng Chăn tăng gần bốn lần từ 208.000 lên gần 800.000. Tình trạng mật độ dân số tương đối thấp và sự phát triển đô thị rầm rộ nhưng không thường xuyên này không có ở vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Khi hành trình giả định của chúng ta xuôi theo dòng sông vào Việt Nam còn chưa đầy hai trăm kilomét sẽ tới biển, dòng sông đang lờ đờ lười biếng bỗng nhộn nhịp thương lái và nông dân. Dân đồng bằng sông Cửu Long vận chuyển hàng hóa bằng sà lan và thuyền đuôi dài đến các chợ nổi nằm ngay giữa sông hay đến các thị trấn và thành phố lớn như Cần Thơ, Long Xuyên, Mỹ Tho. Ở đồng bằng này, những dãy nhà nhỏ một đến hai tầng chạy dài không dứt dọc theo các mạng lưới kênh đào được người Việt và các cường quốc thực dân thất bại trong việc thống trị Việt Nam xây dựng cách đây hơn ba thế kỷ. Mật độ dân số ở đây là 425 người/km2, cao hơn năm lần so với mật độ ở phần thượng nguồn lưu vực này. Mãi đến gần đầy, ba đặc điểm - sự biệt lập, chu trình thủy văn độc đáo của dòng sông, và cách hai đặc điểm này tương tác với nhau để tạo ra sự đa dạng của dân cư, hệ thực vật, và động vật - đã xác định cách người dân ở đây tương tác với nhau, với dòng sông, và với vùng đất xung quanh. Đầu tiên, dòng sông cắt đôi lục địa Đông Nam Á, tạo ra sự tách biệt giữa các vùng ảnh hưởng của Việt Nam và Thái Lan trước đây. Ngoài Đế quốc Khmer, dòng sông còn đánh dấu biên giới biệt lập của các vương quốc. Ví dụ, một tỉnh đông bắc Thái Lan giáp sông Mekong có tên là Loei, nghĩa là “ngoài kia”. Đối với người Thái, đó là nơi không người sinh sống hay nơi nền văn minh của nó không thể xâm nhập. Đi lại đường bộ qua lưu vực này lúc nào cũng khó khăn. Nhà thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã ghi nhận vào giữa thế kỷ 19 đi đường bộ từ Sài Gòn đến cố đô Luông Pha Băng cổ xưa ở Bắc Lào còn lâu hơn so với đi đường thủy từ Sài Gòn đến Paris. Sự cô lập của sông Mekong khiến các vương quốc và đế chế lớn của Thái Lan, Việt Nam, và Campuchia thời cận đại hiếm khi mua bán với nhau và thay vào đó mua hàng hóa của các thương nhân Trung Quốc, Ấn Độ, và Mã Lai đang thống trị các tuyến thương mại đường biển. Chắc chắn đã từng có thương mại đường bộ, và trong lịch sử nó được các thương nhân lui tới tỉnh Vân Nam của Trung Quốc kiểm soát. Địa hình trắc trở và mật độ dân số tương đối thấp khiến cho sức mạnh các vương quốc này hiếm khi vượt quá 1OOkm tính từ thủ đô của chúng. Do địa lý như thế, mãi đến cuối thế kỷ 19, các khái niệm biên giới theo nghĩa hiện đại mới được biết đến, và các quốc gia hình thành từ các vương quốc này không có nhiều di sản quan hệ khu vực. Thực ra, các nước này trong lịch sử đều có quan hệ với các cường quốc xa xôi như Trung Quốc, Liên Xô, và Hoa Kỳ tốt hơn là với nhau. Đối với nhau, các nước này chỉ cướp phá kinh đô của nhau hay bắt giữ và nô dịch người dân các nước lân cận. Sông Mekong thường đông đúc thuyền bè qua lại, nhưng chỉ đi được từng đoạn, và điều này củng cố đặc điểm cô lập của nó. Ở đoạn giữa sông, đá nhô và bãi cạn ở gần Tam Giác Vàng cản trở tàu hàng lớn đi qua. Trong hai thập niên vừa qua, giao thương đường sông giữa Trung Quốc và Thái Lan đã cải thiện hơn, nhưng những chỗ khó qua trên đoạn sông dài 180km đòi hỏi kỹ năng của những thuyền trưởng giàu kinh nghiệm nhất. Mực nước ở đây thường xuống rất thấp trong mùa khô - kéo dài từ tháng 11 đến tháng 6 - đến nỗi tàu buôn của Trung Quốc không thể xuất bến. Xa hơn về phía hạ nguồn, một đường đứt gãy tự nhiên cắt ngang dòng sông tại Siphandone (Bốn Ngàn Đảo) trên biên giới Lào với Campuchia tạo ra một loạt thác nước không thể vượt qua. Trong lịch sử, khó khăn do những rặng núi cao càng làm tăng tính biệt lập và xa cách của vùng Mekong. Bản đồ địa hình cho thấy phần lớn lục địa Đông Nam Á có độ cao hơn ba trăm mét, và những ngọn núi vùng cao Đông Nam Á là nơi khó vượt qua nhất trên thế giới. Những vương quốc tìm cách mở rộng lãnh thổ qua xâm chiếm hay thương mại đều đuối sức dưới chân núi đồi vùng cao Đông Nam Á và trở thành mục tiêu dễ dàng của các nhóm sắc tộc thiểu số sống trên vùng núi. Trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ, quân đội Việt Nam và Lào đã lợi dụng độ cao này để tạo lợi thế, ẩn nấp trong rừng rậm và hang động rồi đánh bại các đội quân mạnh nhất thế giới bằng cách sử dụng chiến thuật du kích thay vì giáp mặt kẻ thù trên chiến trường theo lối cũ. Khmer Đỏ, chế độ chính trị sát hại hơn 1 triệu người ở Campuchia từ 1975 đến 1978 đã tồn tại ở vùng núi của Campuchia trong nhiều thập niên sau khi bị người Việt Nam đánh đuổi vào năm 1979. Thậm chí hiện nay, các vùng cao hẻo lánh của lưu vực sông Mekong là các trung tâm sản xuất thuốc phiện vì các nước yếu như Lào và Myanmar không thể triển khai lực lượng an ninh và bài trừ ma túy lên vùng đồi núi để triệt phá. Đồng thời, thuốc phiện là sản phẩm duy nhất bán được giá cao tới mức dân làng hay bọn buôn lậu sẵn sàng gùi nó xuống những con đường mòn nhỏ hẹp ra chợ. Chu trình thủy văn tự nhiên của dòng sông là đặc điểm quan trọng thứ hai của nó. Từ khi định cư ở lưu vực sông Mekong, người ta đã dựa vào các đợt lũ theo mùa của dòng sông để đưa nước khắp vùng đầu nguồn và đưa phù sa màu mỡ vào các cánh đồng giúp mùa màng bội thu. Không nơi nào sức mạnh hung hãn của dòng Mekong hiện rõ và tác động lớn hơn vùng hồ Tonle Sap ở miền Trung Campuchia. Vào mùa mưa, nhịp thoát lũ của sông Mekong khiến nhánh sông chảy ra từ hồ Tonle Sap đảo ngược dòng chảy, đưa nhiều nước trở lại hồ đến nỗi diện tích mặt hồ tăng gần năm lần. Hiện tượng tự nhiên này đã tạo ra Đế quốc Khmer, và vào thế kỷ 10 họ đã bắt đầu lợi dụng chu kỳ lũ lụt hằng năm này để trồng ba vụ lúa một năm, đủ để nuôi sống bộ máy hành chính và quân đội lớn đến nỗi đế chế này bành trướng ra gần như toàn bộ lục địa Đông Nam Á. Kế bên phế tích Angkor Wat gần Xiêm Riệp ngày nay là hai hồ chứa hình chữ nhật khổng lồ được xây dựng vào thời hoàng kim của Đế quốc Khmer, các công trình này trữ nước trong mùa khô để tưới cho những vùng đất trồng trọt của đế quốc. Ngày nay, hệ thống tưới tiêu hiện đại của Campuchia không tinh vi như thời từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 13. Vì thế, nông dân hiện còn phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn nước lũ của sông Mekong và hồ Tonle Sap trong mùa mưa. Xa hơn về phía hạ nguồn là vùng châu thổ của Việt Nam, lũ lụt hằng năm cũng hỗ trợ sinh kế cho 18 triệu người sản xuất 75% sản lượng lúa gạo trên chưa đến 12% đất đai của nước này. Hai đặc điểm nêu trên của sông Mekong, sự cách biệt và lưu lượng nước mạnh cùng với tài nguyên trong dòng chảy nhờ chu trình thủy văn tự nhiên của nó, đã kết hợp tạo ra đặc điểm thứ ba - độ đa dạng cao, cả về sắc tộc dân cư trong khu vực và hệ động thực vật của nó. Học giả James Scott thuộc Đại học Yale đã miêu tả các miền cao của vùng Mekong là khu vực nương náu của các nhóm sắc tộc chọn trốn tránh các nền văn minh đồng bằng đang bành trướng như Trung Quốc, Việt Nam, hay Thái Lan. Trong tác phẩm quan trọng năm 2009 The Art of Not Being Governed (Nghệ thuật để không bị trị), Scott đặt tên cho vùng cao này của Trung Quốc và Đông Nam Á là Zomia[1]. Quân đội đồng bằng bạo ngược không thể đưa xe cộ và vũ khí lên đồi núi tấn công những người ẩn náu ở đó. Rừng có nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể làm thức ăn và việc giao dịch mua bán giúp duy trì sinh kế và bản sắc của những người này. Điều này giúp cho các nhóm sắc tộc ở Zomia giao dịch độc lập và bình đẳng với các vương quốc đồng bằng theo điều kiện của họ và phần nào giữ được khoảng cách. Do đó, những người trốn lên vùng tài nguyên thiên nhiên bất tận được tự do lựa chọn những nét đặc sắc văn hóa từ cuộc sống của họ ở đồng bằng trước đây và lấp đầy những chỗ trống còn lại bằng các phong tục và nghi lễ do chính họ nghĩ ra. Ví dụ, tỉnh Vân Nam ở Trung Quốc, nơi sông Mekong chia đôi, là quê hương của 26 trong 56 nhóm sắc tộc được công nhận chính thức và Lào có đến 149 nhóm sắc tộc được đăng ký gồm 8 ngữ hệ khác nhau. Mức độ đa dạng sắc tộc tương tự cũng có ở các vùng cao của Thái Lan, Campuchia, và Myanmar nằm trong hay quanh lưu vực sông Mekong. Zomia, theo định nghĩa là các phần thuộc lục địa Đông Nam Á và Trung Quốc ở độ cao trên 300 mét, là một trong những khu vực đa dạng văn hóa nhất trên thế giới. Các nhà nghiên cứu nghề cá trên sông Mekong đã xác định hơn 1.000 loài đặc hữu của con sông này, trong đó có hơn 700 loài di trú[2]. Chỉ có sông Amazon hơn hẳn sông Mekong về sự đa dạng các loài cá, nhưng sông Amazon dài gần gấp đôi và có vùng đầu nguồn rộng gần mười lần sông Mekong. Không dòng sông nào trên trái đất có nhiều cá di trú hơn sông Mekong. Các con sông nhiệt đới như sông Mekong và sông Amazon thường có nhiệt độ ấm áp, tạo ra nhiều cơ hội hơn cho sự tiến hóa hình thành loài. Nói cách khác, cá ngủ ít hơn và sinh sản thường xuyên hơn, do đó đẩy nhanh chu kỳ tiến hóa. Ở những khu vực bằng phẳng như hồ Tonle Sap, nhịp lũ hằng năm đưa nước tiến sâu vào các đầm lầy và rừng, giúp cá có được nguồn dinh dưỡng gần như không giới hạn. Nguồn dinh dưỡng dồi dào có được nhờ chu kỳ lũ lụt hằng năm tạo điều kiện cho những quần thể cực lớn của nhiều loài cá. Ví dụ, một ngày đánh cá bình thường trên hồ Tonle Sap sẽ thu được hơn 20 loài cá đủ kích cỡ. Một số loài cá tiếp tục lớn chừng nào chúng vẫn còn thứ để ăn, vì thế nguồn thức ăn dồi dào do lũ sông Mekong mang lại đã tạo ra một số loài cá lớn nhất thế giới như loài cá trê Mekong khổng lồ và loài cá đuối nước ngọt khổng lồ, cũng như các động vật có vú sống dưới sông như loài cá heo nước ngọt. Nguồn cá tự nhiên dồi dào ở sông Mekong khiến nơi đây trở thành ngư trường nước ngọt nội địa lớn nhất thế giới, với sản lượng đánh bắt mỗi năm hơn 2 triệu tấn[3]. Không có lưu vực sông nào trên thế giới có được sản lượng như thế. So sánh, sản lượng đánh bắt hằng năm của sông Mekong cao hơn 13 lần sản lượng đánh bắt của tất cả các sông và hồ ở Bắc Mỹ - tính cả Ngũ Đại Hồ - cộng lại. Ngày nay ba đặc điểm quan trọng và phụ thuộc lẫn nhau đó đang thay đổi mạnh mẽ do các quá trình năng động liên quan đến việc hiện đại hóa, công cuộc phát triển kinh tế quốc gia, và sự xuất hiện các cấu trúc khu vực mới thúc đẩy thương mại quốc tế và kết nối khu vực. Các trung tâm quyền lực ở đồng bằng có thể sử dụng công nghệ hiện đại để giành quyền kiểm soát tài nguyên ở vùng cao và tác động mạnh mẽ lên dân cư ở đó với mức độ lớn hơn nhiều so với trước. Nơi từng là vùng xa xôi hẻo lánh giờ nằm trong mạng lưới các dự án đường bộ và đường sắt kết nối với nhau, không chỉ đưa các nước trước đây chia cách gần lại với nhau, mà còn thâm nhập lên các triền núi để khuyến dụ dân chúng, phần lớn còn trẻ và chủ yếu thuộc các sắc tộc thiểu số, đi xuống các thành phố miền xuôi hòa lẫn vào lối sống hiện đại mới nổi. Các nước dọc sông Mekong hiện đang thao túng khả năng sản xuất của hệ sinh thái sông Mekong bằng cách tận dụng nhịp lũ hằng năm và khai thác cát ở lòng sông. Tất cả các quốc gia sông Mekong đi qua đều tìm cách xây đập trên sông và các sông nhánh. Đập sẽ điều tiết chu trình tự nhiên của dòng sông để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và phân phối nước cho thâm canh trong nông nghiệp. Hiện tại, Trung Quốc vận hành 10 đập trên thượng lưu sông Mekong và thêm 9 đập khác dự kiến hoàn thành trước năm 2030. Lào có kế hoạch xây 9 đập trên dòng chính sông Mekong và dự trù xây hơn 130 đập ở các sông nhánh - tất cả nằm trong mục tiêu trở thành “nguồn điện của Đông Nam Á”. Campuchia sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất từ các đập thượng nguồn, nhưng nước này cũng có kế hoạch xây 2 đập trên dòng chính và một loạt đập trên sông nhánh. Vô số nghiên cứu cho thấy xây đập trên dòng chính của sông Mekong và các nhánh của nó sẽ tác động hủy diệt các loài cá di cư và sinh kế của ngư dân địa phương, nhưng rất ít nhà hoạch định chính sách trong lưu vực quan tâm đến các cảnh báo này. Điều đó khiến ngành đánh bắt cá trong đất liền lớn nhất thế giới ở đây lâm nguy và tiếp đó là an ninh lương thực cho hàng triệu người sống trong phạm vi vài kilomét quanh dòng sông, dựa vào lượng cá đánh bắt được để đáp ứng phần lớn nhu cầu protein của họ. Để xây đập, các công ty xây dựng đã đốn sạch những khu rừng mênh mông và cưỡng bức hàng trăm ngàn người tái định cư. Người ta cho rằng ở Lào, việc di dời dân để xây đập hiện là nguyên nhân hàng đầu của tình trạng di cư trong nước. Họ hầu hết là người sắc tộc thiểu số, và việc tách họ khỏi quê cha đất tổ và các mối quan hệ xã hội của họ sẽ đe dọa hủy hoại kết nối văn hóa từng làm cho văn hóa khu vực này vô cùng đa dạng và độc đáo. Bản đồ khu vực Zomia. Điều đó không có nghĩa là hiện đại hóa và liên kết khu vực không mang lại lợi ích cho người dân Mekong. Trước những năm 1990, lịch sử cho thấy khu vực này hiếm khi yên ổn. Đầu những năm 1990, chính phủ các nước Đông Nam Á và Liên Hiệp Quốc đã cùng nhau tìm giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột kéo dài nhiều thập niên ở Campuchia, và việc đó lại trùng hợp với sự tăng tốc mạnh mẽ trong phát triển kinh tế của Trung Quốc. Hai nhân tố đó đã mang lại một thời kỳ tương đối bình yên trên toàn khu vực và nhìn chung đến nay vẫn còn tác dụng. Hiện nay các nước Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar được xếp trong các nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Người dân trung bình[4] các nước này dưới 25 tuổi. Thái Lan và Trung Quốc, dù khá hơn một chút so với các nước còn lại trong khu vực, hiện đang phải vật lộn với những khó khăn ngày càng tăng khi gia nhập vào hàng ngũ các nước thu nhập cao. Trong toàn bộ khu vực sông Mekong, người dân trung bình chưa bao giờ khỏe mạnh hơn, có học thức hơn, hay cuộc sống tương đối tốt hơn hiện nay. Nhưng người dân trung bình đó đang chọn lối sống chịu ảnh hưởng từ phương Tây hiện đại và Trung Quốc đang đô thị hóa hơn là từ truyền thống lịch sử và tự nhiên của sông Mekong. Để theo lối sống đó, người ta thường phải chuyển khỏi lưu vực này đến các trung tâm đô thị như Bangkok và Thành phố Hồ Chí Minh, hay thúc đẩy lối sống thời thượng ở các khu vực đô thị của lưu vực như Viêng Chăn và Phnom Penh theo văn hóa tiêu dùng của Bangkok, Thành phố Hồ Chí Minh, Tokyo, New York, hay Bắc Kinh. Trong khi đó, sông Mekong ngày càng nối kết chặt hơn, bị khai thác nhiều hơn, và ít đa dạng hơn. Cuốn sách này cho thấy quá trình chuyển đổi, ngay cả với thiện chí tốt nhất, cũng không phải là nhiệm vụ đơn giản, vì đây là trường hợp cố lắp chốt vuông vào cái lỗ tròn. Cỗ máy phát triển kinh tế vốn đã mang lại một cuộc sống tương đối hòa bình và ổn định trên khắp vùng đồng bằng và ven biển Đông Nam Á giờ đang bắt đầu xâm nhập vào vùng nội địa và vùng sâu vùng xa của khu vực. Sẽ cần nhiều tài nguyên hơn để giữ cho cỗ máy này hoạt động. Vì sông Mekong và lưu vực của nó được xem là những kho báu chưa được chạm đến, các tài nguyên này đang bị khai thác ngày càng triệt để hơn. Có một nhận thức chung trong giới hoạch định chính sách ở tất cả các nước Mekong là trong quá khứ sông Mekong đã cung cấp rất nhiều tài nguyên nên trong tương lai cũng sẽ tiếp tục như vậy. Tuy nhiên, các hạn chế đang bắt đầu bộc lộ. Các nước ở hạ nguồn thường cáo buộc Bắc Kinh sử dụng các đập trên Thượng Mekong để giữ nước lại. Ủy hội Sông Mekong, thành lập năm 1995 với nhiệm vụ thúc đẩy nghiên cứu khoa học và hợp tác về các nguồn tài nguyên chung của sông này ở Thái Lan, Lào, Campuchia, và Việt Nam, bị cả bên trong lẫn bên ngoài lưu vực xem là một tổ chức thất bại vì không thiết lập được nền tảng tạo thuận lợi cho sự phân phối hài hòa và công bằng các nguồn tài nguyên của dòng Mekong. Việt Nam và Campuchia tiếp tục phản đối các đập thượng nguồn của Lào, và các nước trong khu vực kịch liệt phản đối Thái Lan khi nước này chuyển hướng lượng nước khổng lồ từ dòng chính sông Mekong cho mục đích tưới tiêu. Như vậy, ngay cả ở cấp chính phủ quốc gia cũng thừa nhận rằng các cách tiếp cận nhằm phát triển lưu vực sông Mekong đang tạo ra những rủi ro trong hiện tại lẫn tương lai. Cuốn sách này kể về cuộc hành trình xuôi dòng Mekong từ rìa dãy núi Himalayaa ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đến đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Đây là công trình đầu tiên thuộc loại này tìm hiểu bốn chủ đề liên quan với nhau góp phần vào sự thay đổi môi trường và xã hội năng động đang diễn ra ở lưu vực này: quản lý các tài nguyên thiên nhiên và văn hóa với trọng tâm cụ thể là nước, đầm lầy, rừng; phát triển du lịch; di cư từ nông thôn ra thành thị; và tác động của biến đổi khí hậu. Cuốn sách năm 2000 của Milton Ostern The Mekong: Turbulent Past, Uncertain Future (Sông Mekong: Quá khứ bất an, Tương lai bất định) viết về lịch sử của vùng Mekong từ những khu định cư đầu tiên tại Óc Eo được các thương nhân Trung Hoa ghi lại 2.000 năm trước, qua thời Đế quốc Khmer, rồi đến thời kỳ thuộc địa và cuối cùng là tình trạng bạo lực trong thế kỷ 20 khi các cường quốc tiến hành các cuộc chiến tranh đã đưa nước Mỹ can dự vào vùng Mekong. Ở mặt nào đó cuốn sách này tiếp nối cuốn sách của Milton Ostern với nỗi lo về một Trung Quốc đang trỗi dậy sẽ tác động đến các quốc gia cuối dòng Mekong như thế nào. Các tác động môi trường và xã hội của việc bành trướng kinh tế của Trung Quốc vào Hạ Mekong cũng là một chủ đề khác được trình bày trong sách. Tuy nhiên, sách này không được viết với thành kiến chống Trung Quốc. Tôi đã sống và làm việc ở Trung Quốc trong 15 năm, và tôi hiểu quan điểm và thế lưỡng nan trong phát triển của Trung Quốc cũng sâu sắc như hiểu quan điểm và thế lưỡng nan của 5 quốc gia Hạ Mekong. Nếu cuốn sách này chống lại điều gì thì đó chính là mô hình phát triển mà Trung Quốc đã sao chép của phương Tây. Mô hình này được xác lập bởi chủ nghĩa tư bản chú trọng đầu tư và tăng trưởng kinh tế vĩ mô, đánh đổi bằng thiệt hại trong việc bảo vệ các cộng đồng và đa dạng sinh học tự nhiên. Xuyên suốt cuốn sách, tôi cho rằng dù mô hình này có thể mang lại những kết quả ấn tượng ở các khu vực đô thị ở đồng bằng như Thượng Hải, Bangkok và Thành phố Hồ Chí Minh, nó có thể không hiệu quả ở các vùng xa, vùng cao, và các vùng ven sông thuộc lưu vực sông Mekong. Tôi cố gắng tìm hiểu lịch sử và văn hóa địa phương các nơi được nói đến trong sách, chú ý đến thực phẩm và các địa điểm quan trọng làm nổi bật các kho báu độc đáo của sông Mekong, và tìm hiểu những kho báu này đang gặp nguy thế nào. Vì thế, sách này có thể là bạn đồng hành cho lữ khách thích khám phá đi qua lưu vực này. Đồng thời, độc giả am hiểu, học giả hàn lâm, và giới hoạch định chính sách có thể sẽ thấy cuốn sách này hữu ích vì nó vạch trần những rủi ro đối với phương thức phát triển kinh tế hiện nay và thảo luận đường hướng nhằm cải thiện tình hình phát triển và bảo vệ hệ sinh thái cốt lõi của lưu vực sông này. Ba chương đầu viết về những gì diễn ra ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, và việc nhấn mạnh Trung Quốc trong sách không phải không có mục đích. Xét cho cùng, một nửa chiều dài sông chảy trên đất Trung Quốc nhưng hầu hết các tài liệu hiện có về sông Mekong chỉ tập trung vào các phần lưu vực hạ nguồn bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Hơn nữa, Trung Quốc là quốc gia chiếm ưu thế trong toàn bộ vùng Mekong, và người dân, giới đầu tư cũng như chính quyền nước này hiện đang thâm nhập sâu vào các quốc gia Hạ Mekong. Chương Một đưa người đọc đến ngôi làng Tây Tạng Vũ Băng (Yubeng) hẻo lánh được xem là Shangri-la (thiên đường hạ giới) cuối cùng, và xem xét tác động của du lịch và biến đổi khí hậu lên sinh kế của dân làng Tây Tạng. Chương Hai tìm hiểu các động lực phát triển vĩ mô đối với loạt đập của Trung Quốc ở Thượng Mekong, và lý do dân địa phương cần phải tham gia vào các quá trình từ dưới lên để duy trì sinh kế của họ. Chương Ba đưa người đọc đến cố đô Đại Lý (Dali) và cho thấy các áp lực từ phát triển du lịch và nông nghiệp đã đe dọa khả năng tồn tại của tài nguyên quan trọng nhất của Đại Lý, hồ Nhĩ Hải (Erhai), như thế nào. Chương Bốn chuyển sang Đông Nam Á, tìm hiểu tại sao người Akha (A Tạp) sống trên các đỉnh núi ở Trung Quốc và Đông Nam Á, sau nhiều thế kỷ lần tránh sự thống trị của văn hóa vùng xuôi, lại chọn lối sống hiện đang gắn kết họ với các xu hướng đang nổi trên cả nước và toàn cầu. Chương Năm kể câu chuyện lợi lộc kinh doanh của Trung Quốc - hợp pháp lẫn bất hợp pháp - đang thống trị Tam Giác Vàng một thời bất khuất và cách dân địa phương thích nghi với thay đổi. Chính tại đây, chúng tôi gặp lại Khru Tee và tìm hiểu hoạt động bảo tồn văn hóa bản địa của ông. Chương Sáu đi sâu vào nước Lào không có biển và chưa thực sự quan tâm thích đáng nhằm cải thiện cuộc sống của hàng chục ngàn người dân sắc tộc thiểu số bị ảnh hưởng bởi các con đập và các dự án phát triển khác, phần lớn đến từ Trung Quốc. Chương Bảy thảo luận quan điểm tổng thể về toàn vùng Hạ Mekong, cách điều phối phát triển năng lượng tốt hơn và sáng tạo hơn để các kế hoạch hiện có về 180 con đập trên dòng chính và các sông nhánh có thể giảm mạnh và mang lại một kết quả chi phí - lợi ích tốt hơn. Chương Tám tìm hiểu sự hủy diệt hồ Boeung Kak, một nguồn nước quan trọng ở thủ đô Phnom Penh, Campuchia trong bối cảnh phát triển chính trị ở Campuchia suốt nửa thế kỷ qua. Chương Chín nghiên cứu kỹ các quá trình sinh thái quan trọng khiến hồ Tonle Sap của Campuchia trở thành ngư trường nội địa lớn nhất thế giới và khám phá xem các cộng đồng ở đó đối phó với việc nguồn cá bị suy giảm do đánh bắt quá mức và các con đập thượng nguồn. Cuối cùng, sách kết thúc tại đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam và nghiên cứu các phương án thích nghi trong khu vực sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam, hiện đang bị kẹp giữa các đập thượng nguồn và biển dâng cao. Một nguồn cảm hứng chính của sách này là vấn đề lựa chọn cá nhân và cách tác động của các lựa chọn này phá vỡ và có thể sẽ chấm dứt mối quan hệ xã hội và sinh thái vốn đã biến sông Mekong thành một khung cảnh văn hóa sôi động và một nơi phong phú đa dạng sinh học. Một số lựa chọn cá nhân đó cũng bình thường như việc dùng điện thoại thông minh, trong khi những lựa chọn khác, như chọn xây đập chắn một đoạn sông Mekong, có tác động mạnh mẽ hơn nhiều. Rõ ràng người đọc không nên có ấn tượng từ tên sách là sông Mekong đang quằn quại chết dần. Tháng 2 năm 2017, Giám đốc điều hành của Ủy hội Sông Mekong, Tiến sĩ Phạm Tuấn Phan đã nhận xét trong một cuộc phỏng vấn “Phát triển thủy điện không giết chết sông Mekong”[5]. Phát biểu của ông gây ra nhiều tranh cãi. Nếu dòng Mekong là con sông chỉ để sản xuất điện, giao thông đường thủy, và tưới tiêu, thì chắc chắn các con đập sẽ không giết chết sông Mekong. Nhưng dòng Mekong không chỉ là một con sông. Sự hào phóng của dòng sông là điều làm nó vĩ đại, và địa lý cùng với sản vật tự nhiên của nó mang lại những trải nghiệm sống không nơi nào khác trên thế giới có được. Trong bối cảnh đó, không còn nghi ngờ gì nữa, các con đập, các tuyến đường sắt và đường cao tốc mới, và hệ thống mang lại kiểu phát triển mới này cho lưu vực sông Mekong sẽ làm thay đổi hẳn môi trường văn hóa và sự phong phú sinh thái vẫn còn được thấy trong những ngày cuối này của dòng Mekong hùng vĩ, nếu chúng ta không bắt tay hành động trong thời gian tới. 1 VŨ BĂNG: THIÊN ĐƯỜNG HẠ GIỚI CUỐI CÙNG T hôn Vũ Băng của người Tây Tạng nằm khuất ở lưng chừng dốc lên ngọn núi thiêng Kawagarbo (Tạp Ngõa Cách Bác) tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cách biên giới Tây Tạng chỉ vài kilomét. Năm mươi năm trước, đi từ thị trấn lớn nào gần đó lên Vũ Băng đều phải mất hằng tháng trời cưỡi ngựa. Cách đây hai mươi năm, cách duy nhất để đến được đầu con đường mòn lên Vũ Băng là tự buộc mình và ngựa vào sợi dây giăng ngang sông Mekong và dùng ròng rọc vượt qua hẻm núi sang bên kia sông. Thậm chí ngày nay, đến được Vũ Băng cũng mất hai ngày đường từ Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam, cách đó 500km. Hiện nay đã có cầu để xe chạy sang bờ bên kia của dòng Mekong. Truyền thuyết địa phương kể Vũ Băng được “phát hiện” bởi các thương nhân buôn bán đường dài dẫn ngựa thồ hàng đi dọc sông Mekong tìm thức ăn. Ở rìa sông, một người đàn ông từ rừng đi ra mời các thương nhân mua lúa mạch. Ở đoạn hẻm núi này, các thương nhân không hay biết có người ở, vì thế người đàn ông của rừng núi kia khiến họ bất ngờ. Khi họ hỏi người đàn ông từ đâu đến, anh ta liền lần vào núi không một câu trả lời. Lần kế tiếp các thương nhân lại đến hẻm núi, họ gặp một người đàn ông khác cạnh bờ sông mời mua lúa mạch. Lần này họ quyết tìm ra nơi trồng lúa mạch. Người bán lúa mạch hoàn toàn không biết các thương nhân đã chọc một lỗ trên bao lúa của anh rồi lần theo vết lúa mạch rơi vãi trên núi. Cuối đường mòn, trong một thung lũng chưa từng biết đến được những đỉnh đầy tuyết của núi Kawagarbo bao quanh ba mặt, họ tìm thấy ngôi làng Vũ Băng nhỏ bé. Câu chuyện kết thúc với việc đưa ra lý do dân làng Vũ Băng ít biết về thế giới bên ngoài vì rừng và suối xung quanh cung cấp dồi dào tài nguyên và ngọn núi thiêng liêng bảo vệ sinh kế của họ. Trong thung lũng ẩn khuất này có sẵn tất cả những gì họ cần. Vũ Băng, như nhiều ngôi làng hẻo lánh quanh nó, chắc đã truyền cảm hứng cho James Hilton tô vẽ thiên đường hạ giới trong cuốn tiểu thuyết năm 1933 The Lost Horizon (Chân trời đã mất)[6] của ông. Ngay cả ngày nay, người dân Vũ Băng vẫn thích tách biệt thung lũng ẩn khuất này khỏi thế giới ngoài kia. Tuy nhiên, Vũ Băng giờ cũng là một địa điểm du lịch đang phát triển nhanh dành cho du khách Trung Quốc và nước ngoài muốn trải nghiệm vài ngày ở nơi hẻo lánh xa khỏi những thị trấn du lịch đông nghịt của tỉnh Vân Nam. Sự xa cách và các điểm hành hương thiêng liêng của Vũ Băng thu hút hàng ngàn người mỗi năm. Nhiều người đến đây vì họ không tin được trên đời có một nơi như Vũ Băng, vẫn chưa có đường cho xe chạy vào làng. Khách không còn phải lần theo dấu lúa mạch đi vào Vũ Băng, nhưng để vào được làng cần phải đi bộ theo con đường dốc 9km từ rìa sông Mekong qua một trong những rặng núi thấp của dãy Kawagarbo, chẳng dễ chút nào cho dân thành phố miền xuôi muốn tìm đến thiên đường hạ giới. Khi bắt đầu hành trình lên Vũ Băng vào một sáng tháng 6 năm 2015, tôi đi cùng khoảng 30 du khách Trung Quốc mặc đồ dã ngoại thời thượng lòe loẹt. Các du khách này gây ấn tượng là nếu không ăn mặc đúng điệu thì đừng đi, và tăng trưởng kinh tế cao ở Trung Quốc những năm gần đây đã giúp ích cho việc mua sắm những bộ cánh dã ngoại đắt tiền. Vài người không leo núi nổi đã ngồi sẵn trên những con la được người Tây Tạng ở đây dắt qua triền núi đi đến Vũ Băng. Ngoài du khách còn có các gia đình Tây Tạng mặc áo choàng len sửa soạn cho chuyến đi lên Vũ Băng theo đường mòn. Họ tụng thần chú Phật giáo Tây Tạng khi quay kinh luân cầm tay. Nhờ họ tôi biết được có một thác nước linh thiêng nằm đâu đó trên dãy núi phía sau Vũ Băng, một điểm dừng chân khi thực hiện nghi lễ kora, cuộc đi vòng quanh ngọn núi Kawagarbo của Phật tử hành hương. Vì núi Kawagarbo được xem là một trong những ngọn núi linh thiêng nhất của Phật giáo Tây Tạng, về mặt tâm linh người ở đây xếp núi này cao hơn núi Everest nhiều, Phật tử hành hương sùng kính thực hiện nghi lễ kora đi quanh núi Kawagarbo. Những người khỏe mạnh từ khắp nơi trong thế giới Tây Tạng đến đây để thực hiện nghi lễ này. Để đi hết một vòng 240km mất trung bình từ 2 đến 3 tuần, dọc đường khách hành hương nghỉ lại ở các nhà nghỉ có phòng và thức ăn khá đơn giản. Trong những năm gần đây, khi Phật giáo Tây Tạng có thêm nhiều tín đồ người Hán, ngày càng có nhiều tín đồ mới muốn thực hiện hành trình gian khổ đi quanh ngọn núi. Quả thực một số người Trung Quốc, có cả vài người châu Âu và người Mỹ tôi gặp trên đường đến Vũ Băng, đang cố hoàn tất trọn vẹn hành trình tâm linh này. Nhiều người hành hương sớm nhận ra việc thực hiện nghi lễ kora đi quanh núi năm 2015 tốt lành hơn, vì đó là năm tuổi của ngọn núi này, cứ 12 năm lại đến theo lịch can chi Tây Tạng. Trong thế giới Tây Tạng, tất cả các vật thể vô tri, như núi, cây và hồ, đều có thần linh, tất cả đều phải được thành kính thờ phụng. Núi Kawagarbo là nơi ở thiêng liêng của vị thần chiến binh Tây Tạng cùng tên. Vị thần núi này che chở những người thờ phụng khỏi bệnh tật, bất hạnh, và các tai ương khác. Khách hành hương đi bộ quanh núi sẽ được công đức. Người xúc phạm ngọn núi và tục lệ của nó sẽ bị trừng phạt. Cao 6.800 mét, đỉnh cao nhất của núi Kawagarbo thấp hơn nhiều so với đỉnh cao nhất trong dãy núi Himalayaa Tây Tạng. Thực ra, nó còn không nằm trong số 100 đỉnh núi cao nhất thế giới, nhưng 6 đỉnh phủ tuyết vĩnh cửu của nó là những đỉnh núi ấn tượng nhất và từ lâu đã hấp dẫn những người dam mê dã ngoại và leo núi. Đầu năm 1991, một nhóm gồm 11 người leo núi Nhật Bản của Đại học Kyoto và 6 người leo núi Trung Quốc đã cố trở thành những người đầu tiên thành công lên đến đỉnh cao nhất của núi Kawagarbo. Bất chấp sự phản đối của các cộng đồng Tây Tạng ở đây cho rằng việc cố chinh phục ngọn núi là hành vi bất kính và không tôn trọng tín ngưỡng địa phương, nhóm leo núi đã quyết thực hiện chuyến đi và không một ai trở về. Vì không bao giờ tìm thấy thi thể của họ, người ta ít biết được chuyện gì đã xảy ra với 17 người này, nhưng dân địa phương tin rằng một trận tuyết lở kỳ lạ đã chôn vùi cả nhóm khi họ từ đỉnh đi xuống vào ngày 3 tháng 1 năm 1991. Kể từ thảm họa đó, một trong những thảm họa lớn nhất trong lịch sử leo núi, không có ai leo lên 6 đỉnh chính của núi này nữa, và vào năm 2001, chính quyền địa phương viện lý do tôn giáo và văn hóa đã cấm triệt việc leo lên các ngọn núi này[7]. Sau ba giờ vượt dốc qua những khu rừng nguyên sinh bách và đỗ quyên, tôi dừng lại ở một con đèo thoáng nơi hai đỉnh của núi Kawagarbo, đỉnh Thần Nữ Phong vi vu và đỉnh General Peak thoáng đãng, hiện rõ trước mặt. Một người đàn ông trung niên Tây Tạng tự giới thiệu tên là Asheng đi ra từ một túp lều dùng làm điểm dừng chân cho khách bộ hành và những người hành hương. Anh đang cầm một bó cây kế trắng và bảo tôi đó là hoa tuyết liên, một dược liệu quý hiếm chỉ mọc ở những vùng cao và được dân địa phương dùng để chống viêm và chống lão hóa. Asheng cho tôi biết anh là người gốc Vũ Băng và đã sống cả đời trong thung lũng hẻo lánh đó. Asheng xem thường cuộc sống thành phố, kể lại những trải nghiệm tồi tệ trong các chuyến đi Côn Minh. Ở vùng núi anh có thể tận hưởng cuộc sống tự do, kiếm sống bằng cách bán hoa tuyết liên có giá trị cao và các thứ quý giá khác của rừng như nấm tùng nhung và đông trùng hạ thảo, tất cả đều bán được giá cao cho thế giới ngoài kia. Kết thúc cuộc trò chuyện năm phút, anh khẳng định anh là người hạnh phúc nhất trên trái đất. Anh khuyến khích tôi từ bỏ những thứ đang làm, chuyển đến Vũ Băng ở để có được tự do thực sự. Tôi nói với anh là tôi cần phải đi tiếp và tự mình chứng kiến. Con đường mòn chạy từ đèo uốn lượn xuống sườn núi dốc và thung lũng Vũ Băng hiện ra. Mặt trời trên cao chiếu xuống mái dát vàng của ngôi chùa Tây Tạng nép mình trong phần đất bằng phẳng và thấp của làng. Những vách đá dựng đứng khuất trong thảm thực vật tươi tốt quanh thung lũng và xa xa là các cánh đồng lúa mạch ngay lề thẳng lối. Những dòng suối từ các đỉnh núi Kawagarbo tuyết phủ cuồn cuộn chảy tạo nên vực thung lũng sâu trước khi chảy vào một con sông nhỏ chia đôi trung tâm thung lũng này. Những ngôi nhà Tây Tạng hai tầng, hàng rào gỗ bao quanh để nuôi la thồ và các vật nuôi khác, tập trung đông đúc ở cuối làng còn phía trên làng là những ngôi nhà ôm quanh sườn núi dọc theo con đường đất. Một dây cờ cầu nguyện Tây Tạng nhiều màu dài hàng trăm mét mang lại kết nối tâm linh giữa đầu làng và cuối làng. Cờ cầu nguyện thường được treo khắp nơi ở Tây Tạng. Những câu kinh và lời cầu nguyện được in trên những lá cờ nhỏ màu trắng, vàng, đỏ và xanh. Người ta tin rằng khi gió thổi qua những lá cờ cầu nguyện sẽ phù hộ cho khu vực quanh chúng. *** Cuối những năm 1990, vài người đam mê dã ngoại từ Nhật Bản, châu Âu và Hoa Kỳ đến đã bắt đầu tìm đường lên Vũ Băng. Hầu hết là du khách ba lô trên hành trình đi Vân Nam và Đông Nam Á với ngân sách eo hẹp. Vào thời điểm đó, phần lớn Vân Nam chưa chính thức mở cửa cho du khách nước ngoài, nghĩa là các khách sạn và nhà nghỉ không được phép nhận khách nước ngoài. Vì thế những du khách ba lô nước ngoài đầu tiên thường trả tiền cho bất kỳ nhà dân nào ở Vũ Băng đồng ý cho họ ở lại. Họ muốn tìm một trải nghiệm mộc mạc trong vùng sắc tộc Tây Tạng ở Vân Nam và không trông mong tiện nghi thoải mái. Nhà nghỉ đầu tiên ở Vũ Băng mở cửa trong hoàn cảnh đó khi một người địa phương tên Ahnazhu bắt đầu đón du khách nước ngoài về nhà anh. Để bắt đầu, anh cung cấp chỗ nghỉ và thức ăn miễn phí cho du khách như khi anh đón những người hành hương đến đây để thực hiện nghi lễ kora đi quanh núi Kawagarbo. Ahnazhu là người duy nhất trong làng nói được tiếng Trung và vì thế là người duy nhất có thể giao tiếp với vài du khách nói được tiếng Trung. Dù trước đây anh học tiếng trong những hoàn cảnh không thuận lợi, khả năng ngôn ngữ sau này lại giúp anh trở thành người có thế lực và giàu nhất làng. Không trường không lớp, Ahnazhu học nói tiếng Trung trong tù do vô tình bắn chết một dân làng khi đi săn trong những ngọn núi quanh làng. Sau khi mãn hạn tù, anh kết hôn với một phụ nữ địa phương và thực hành kỹ năng ngôn ngữ mới học được. Với việc cho khách lưu trú, anh trở thành trụ cột trong gia đình. Đầu những năm 2000, ngoài du khách nước ngoài còn có thêm du khách người Hán. Số khách này thường đến trong ba tuần nghỉ Hoàng Kim Chu là Tết, lễ Lao động, và lễ Quốc khánh, và vì thế nhiều dân địa phương bắt đầu biến nhà họ thành nhà nghỉ. Ahnazhu cũng thế, xây một nhà khách sáu phòng đặt tên là Trekker’s Inn. Trong những năm đầu khách còn ít, dân làng thu chưa tới một đô-la cho một đêm lưu trú và chia sẻ tiền thu được với những người khác trong làng theo kiểu tập thể. Dân làng Vũ Băng luôn chia sẻ nguồn lợi của họ, và trong giai đoạn đầu thu nhập mới từ khách du lịch cũng không ngoại lệ. Ahnazhu điều hành hệ thống phân phối thu nhập, và trong một vài năm, hệ thống này đã hoạt động tốt. Dù không phải tất cả các gia đình đều tham gia phục vụ du khách, tất cả dân làng Vũ Băng đều hưởng lợi từ hoạt động du lịch. Tuy nhiên, khi ý thức về tài sản cá nhân tăng lên và các hộ gia đình tìm cách tách thu nhập khỏi những người không tham gia dịch vụ lưu trú, dân làng đưa ra hệ thống luân lưu chỉ chi trả cho những gia đình có khách lưu trú. Các hộ tham gia được phân bổ khách và chỉ được nhận khách tiếp khi tất cả các hộ đều đã có khách nghỉ lại. Dân làng cho rằng hệ thống xoay vòng như vậy đã nhiều năm hoạt động hiệu quả trong việc đưa du khách qua núi bằng con la, nên nó cũng hiệu quả trong việc bố trí chỗ nghỉ cho khách. Nhưng số lượng du khách Trung Quốc tăng mạnh, nhất là trong các tuần lễ vàng Hoàng Kim Chu, khiến rất khó điều hành hệ thống xoay vòng. Một số gia đình có nhà lớn chứa được 30 khách, trong khi nhà những người khác chỉ có thể chứa được 10 khách, và một số dân làng kêu ca thời gian và công sức của họ không được chi trả xứng đáng. Vài dân làng có máu kinh doanh nâng cấp nhà của họ. Một số nhà nghỉ tiện nghi hơn những nhà nghỉ khác và có cảnh quan đẹp hơn. Du khách phàn nàn hệ thống xoay vòng buộc họ phải ở những nơi không hấp dẫn nhưng phải trả tiền bằng nơi có cảnh núi non ngoạn mục. Khi công việc kinh doanh phát triển, dân làng thỏa thuận một hệ thống mới cho phép du khách chọn chỗ ở. Các hộ cạnh nhau hợp lại thành nhóm bốn nhà và thu nhập chung được phân chia đều giữa bốn hộ. Với cách làm này mô hình du lịch dựa vào cộng đồng công bằng có thể tiếp tục duy trì. Nhưng dân làng bắt đầu nói dối nhau về số lượng khách lưu trú ở nhà họ. Mâu thuẫn bùng lên khi hàng xóm chạy qua đếm số khách thuê trọ ở nhà bên. Nghi kỵ và tham lam - theo người kể lại câu chuyện là những thứ trước đây dân làng chưa từng biết tới - khiến hệ thống được thiết kế với ý định tốt nhất đổ vỡ. Hệ thống đó hoàn toàn sụp đổ vào năm 2009 khi một công ty du lịch nhà nước từ Côn Minh mua quyền phát triển và bảo trì ngôi làng và các điểm thắng cảnh trong thung lũng để bán vé tham quan. Công ty này cũng yêu cầu giá phòng được xác định theo nhu cầu thị trường. Những hộ gia đình có địa điểm đẹp hơn và dịch vụ tốt hơn được trả nhiều hơn. Cạnh tranh giành giật du khách giữa dân làng Vũ Băng lúc này hết sức sôi nổi. *** Vũ Băng hiện đón trung bình mỗi ngày 100 khách, và trong những ngày lễ lớn, con số đó có thể tăng gấp mười lần. Phần lớn du khách là người Hán. Một nhân tố góp phần vào sự tăng trưởng nhanh chóng khách Hán là thu nhập ở Trung Quốc tăng gấp ba lần trong 20 năm qua. Quan trọng hơn, Phật giáo Tây Tạng ngày càng phổ biến khắp Trung Quốc. Làn sóng tâm linh mới này xuất hiện sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Khác với phần lớn nơi khác trên thế giới, nền kinh tế Trung Quốc vượt qua được cuộc khủng hoảng năm 2008, nhờ một loạt các gói kích thích kinh tế và việc kiểm soát tiền tệ chặt chẽ đã mang lại cho các quan chức chính quyền, doanh nghiệp nhà nước, và các công ty xuất khẩu tư nhân những khoản lợi nhuận trời cho. Trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, một giới giàu có mới (nouveau riche) bắt đầu hình thành ở các đô thị Trung Quốc, nhưng tầng lớp giàu có chỉ thực sự xuất hiện sau năm 2008. Ngoài những cái nhất khác, tầng lớp mới giàu lên của Trung Quốc đã trở thành khách tiêu dùng hàng xa xỉ lớn nhất thế giới. Địa vị xã hội ở Trung Quốc hiện đại được phô trương qua nhãn hiệu các món thời trang xa xỉ người ta mặc và giá cả những chiếc xe người ta lái. Nó cũng được phô trương ở đẳng cấp các mối quan hệ chính trị và xã hội của một người. Việc thăng tiến xã hội không do kiến thức quyết định mà do quen biết ai và khả năng lợi dụng các quan hệ thế lực đó. Khi nói đến tập quán và sinh hoạt xã hội, người Hán thích các bữa tiệc phung phí, các đám cưới rình rang hàng trăm khách để chứng tỏ địa vị và quyền lực. Một nhà nhân chủng học gọi hiện tượng đó là kiểu cố ý phô trương xã hội nhằm chia tách tầng lớp giàu có với những người nghèo khổ. Có người nghĩ rằng sự quan tâm gần đây đến tôn giáo Tây Tạng ở Trung Quốc là phản ứng chống lại sự thừa mứa vật chất trong thập niên trước, nhưng thực ra nó xuất hiện như là cách thức để phân hóa hơn nữa người giàu với kẻ nghèo. John Osburg, tác giả của Anxious Wealth: Money and Morality Among China’s New Rich (Của cải bất an: Tiền bạc và đạo đức trong tầng lớp giàu có mới nổi ở Trung Quốc) đề cập đến hiện tượng mới nảy sinh này trong cuộc phỏng vấn năm 2014 của tờ New York Times, “Nếu không thể [làm mình nổi bật] trong đám đông tiêu xài xa hoa, thì anh nên biến đi”[8]. Đối với nhiều người Hán, việc theo Phật giáo Tây Tạng, mà cốt lõi của nó là yêu cầu tín đồ buông bỏ ý niệm về bản thân và đẳng cấp xã hội, lại bị hiểu sai là cách để học làm sang ở chốn thị thành Trung Quốc. Nhà sử học Jeremiah Jenne, một cư dân Bắc Kinh lâu năm và là người chứng kiến sự phục hưng tâm linh này gọi nỗi ám ảnh mới về Phật giáo Tây Tạng đó là một loại “Đông phương luận nội tại”. Ông tin xu hướng đó gần giống với sự tiếp thu văn hóa, tôn giáo, và mỹ học Mỹ bản thổ của người Mỹ nhập cư, như là một việc “chọn lối sống” không tiếp thu lịch sử đau thương giữa người da trắng và người Mỹ bản địa[9]. Việc chọn lối sống mới này đưa người Hán hành hương đến các tu viện xa xôi ở các vùng Tây Tạng thuộc các tỉnh Thanh Hải, Tứ Xuyên và Vân Nam có những luật lệ tôn giáo thoáng hơn so với Tây Tạng nguyên thủy. Ở đó họ tranh giành sự chú ý của các cao tăng được gọi là “Phật Sống” làm đại diện trần gian của các vị thần quyền năng trong văn hóa Phật giáo. Daniel Smyer Yu, nhà nhân chủng học chuyên về phục hưng tôn giáo thời hậu Mao ở Trung Quốc, cho rằng người Hán không bị trí tuệ hay sức lôi cuốn của những vị Phật Sống này thu hút, mà vì vị thế của vị Phật cụ thể đã tái sinh trong cơ thể họ - thứ hạng vị Phật càng cao, sức hút xã hội càng lớn[10]. Để chứng tỏ thân phận, địa vị của mình, các tín đồ người Hán đã nhanh chóng chia sẻ những cuộc gặp gỡ các vị Phật Sống thánh minh cao cả bằng cách đăng hình ảnh và suy nghĩ trên các trang mạng xã hội. Điều đó không có nghĩa là trong màn thể hiện đó, thực hiện bằng cách kết hợp du lịch với hành hương tôn giáo, Phật giáo Tây Tạng không mang lại tiến bộ tâm linh cho các tín đồ người Hán. Đối với hẩu hết người Hán, cũng như đối với hầu hết người phương Tây tự xưng là Phật tử Tây Tạng, việc hành hương này được xem là một trải nghiệm xác nhận và nâng đỡ tinh thần. Osburg cho rằng Phật giáo Trung Quốc trong thời kỳ sau Mao hiện nay bị xem là hủ bại về kinh tế và chính trị. Ông tin rằng người Hán xem Phật giáo Tây Tạng là một trải nghiệm tâm linh cận đại đương nhiên dẫn đến suối nguồn hạnh phúc[11]. Cần lưu ý rằng nhận thức này được hình thành cùng lúc với sự bành trướng kinh tế và chính trị của nhà nước Trung Quốc vào thế giới Tây Tạng vốn đã làm suy thoái nghiêm trọng xã hội và văn hóa Tây Tạng. Đường trải nhựa và đường sắt giúp người Hán dễ dàng tiếp cận không gian Tây Tạng hơn; do đó, như Smyer Yu nêu, làn sóng mới quan tâm đến Phật giáo Tây Tạng đã đem lại sức sống mới về mặt vật chất và tinh thần cho tôn giáo này và các thiết chế của nó. Do chúng ở gần các khu đô thị Trung Quốc và độ cao tương đối thấp làm giảm nguy cơ về sức khỏe và thuận tiện cho thời gian lưu trú dài hơn, các điểm tôn giáo ở ngoại vi Tây Tạng được quan tâm nhiều nhất. Sự bùng nổ du lịch gần đây của Vũ Băng là một phần của tình hình đó. Trước khi đi bộ vào Vũ Băng, hầu hết du khách nghỉ đêm tại chùa Phi Lai, nằm trên một sườn núi đối diện Kawagarbo. Nếu du khách may mắn đến chùa Phi Lai vào một ngày đẹp trời có thể thoáng thấy đỉnh núi Kawagarbo trong ánh hoàng hôn. Ở đó, du khách có thể trả mức phí cắt cổ 160 nhân dân tệ (25 đô-la) một người để chụp ảnh trên cái bục thẳng hàng với tám bảo tháp Tây Tạng màu trắng, mỗi tháp tượng trưng cho một ngọn núi Tây Tạng linh thiêng nhất, nền ảnh là Kawagarbo. Phần lớn du khách Trung Quốc chọn mua vé, chụp ảnh tự sướng, và đưa ngay ảnh lên tài khoản WeChat hay Weibo của họ - tất cả chỉ để thể hiện. Khi đã đi bộ vượt núi vào Vũ Băng, hầu hết du khách ở lại hai đêm và quyết tâm đi thăm các thánh địa lớn của Vũ Băng. Họ sẽ dành ngày thứ hai thực hiện chuyến đi khứ hồi 8 tiếng đến hồ băng linh thiêng nằm bên dưới đỉnh General uy nghiêm của Kawagarbo. Họ dậy sớm vào ngày thứ ba cho chuyến đi khứ hồi 6 giờ đến thác nước thiêng nổi tiếng, địa điểm hành hương thiêng liêng nhất Vũ Băng, rồi đi bộ 6 tiếng quay về xe của họ đậu đâu đó dọc theo sông Mekong. Trong ba ngày ở Vũ Băng, đến thăm các điểm bắt buộc đó là một việc rất cập rập, nhưng đối với du khách người Hán, trả được nghiệp chướng là việc đáng để làm. Thời gian rảnh rỗi giữa các chuyến đi thường được dành cho việc ngâm chân trong nước nóng, trò chuyện với các bạn đồng hành khi ăn để chia sẻ những khám phá trong ngày, rồi đi ngủ sớm. Vài người tìm gặp vị sư trụ trì chùa Vũ Băng hỏi chuyện. Vào ban ngày, khi du khách và những người hành hương lầm lũi trên những lối mòn vượt núi, dân làng và nhân viên nhà khách hầu như rảnh rỗi quay lại vườn tược và chuẩn bị buổi tối. Nếu không phải là mùa thu hoạch, phần lớn thời gian này được dành để thăm hỏi người trong gia đình và hàng xóm. Hầu hết người dân Tây Tạng tôi đã trò chuyện xem dịch vụ du lịch là phương thức kiếm sống tương đối tầm thường. Trước khi các đường dây tải điện vượt qua núi non đến Vũ Băng vào năm 2012, người ta dành thời gian rảnh buổi chiều kiếm củi trên núi. Trong mùa du lịch cao điểm thời đó, hằng ngày mỗi nhà nghỉ trong số 20 nhà cần hơn 100kg củi đốt nồi hơi phục vụ tắm rửa và nấu ăn. Ahnazhu, người trong thập niên đầu tiên của thế kỷ này được chọn phụ trách bảo vệ rừng Vũ Băng, đã nâng cao nhận thức về việc dùng củi sẽ đe dọa khu rừng xung quanh như thế nào. Khi ngày càng nhiều dân làng lùng sục trên núi để lấy gỗ cây, Ahnazhu nhận thấy nạn săn trộm động vật hoang dã bất hợp pháp tăng lên và đã mẫn cán cùng với dân địa phương ngăn chặn tình trạng đó. Anh cảnh báo nếu rừng và động vật hoang dã biến mất, du khách sẽ không còn. Khi ngành du lịch Vũ Băng được chuyển cho công ty du lịch nhà nước đóng tại Côn Minh vào năm 2009, kế hoạch ban đầu dẫn điện về làng này còn có thêm một con đường tạo điều kiện cho việc vận chuyển đường bộ. Người dân địa phương phản đối kế hoạch đó, không phải vì con đường sẽ mang lại lượng khách du lịch không thể kiểm soát và đe dọa môi trường nguyên sơ của Vũ Băng, mà vì dân địa phương đã đầu tư nhiều vào hơn 400 con la kiếm tiền cho các hộ gia đình và giúp tạo việc làm cho những thanh niên khỏe mạnh trong làng. Nếu các con la thất nghiệp, các ông chồng và lũ con trai của Vũ Băng chắc sẽ phải bỏ làng tìm việc ở các vùng khác của Vân Nam. Dân làng Vũ Băng, như nhiều người Tây Tạng, theo chế độ đa phu, một vợ lấy hai chồng hay nhiều hơn. Khi Ahnazhu kết hôn, anh là chồng thứ hai của vợ anh. Trong các xã hội đa phu, phần lớn được thấy ở những vùng khan hiếm tài nguyên và hẻo lánh trên thế giới, người ta vẫn thích con trai vì họ có khả năng sản xuất nuôi sống gia đình và bảo vệ lãnh thổ. Tuy nhiên, một vợ nhiều chồng giải quyết vấn đề có quá nhiều đàn ông chưa có vợ. Chế độ đa phu cũng kiểm soát quy mô dân số bằng cách khuyến khích việc thôi muốn có con trai nếu đã có con gái đầu lòng. Rốt cuộc, khi người con gái đó trưởng thành, cô ta sẽ lấy nhiều chồng để giúp cho gia đình. Cũng như nhiều tài nguyên chung của Vũ Băng, đất đai và tài sản thường được chia sẻ đồng đều giữa những người chồng. Sự phân phối tài nguyên chung công bằng cùng với chế độ đa phu được cho là điều đã giữ cho Vũ Băng “ẩn kín” trong nhiều năm. Bây giờ với thị trường tự do đang hoạt động, việc duy trì sự hài hòa đó, đồng thời quản lý nhu cầu ngày càng tăng về tài nguyên phục vụ cho sự bùng nổ du lịch, đòi hỏi đối thoại thường xuyên giữa dân làng, công ty quản lý du lịch, và số người Hán mới đổ đến giờ đang kiểm soát hoạt động lưu trú của làng bằng cách thuê lại các nhà nghỉ của dân địa phương. Nhà nghỉ Trekker’s Home nổi tiếng của Ahnazhu hiện được quản lý bởi Hua Jie, chừng bốn mươi tuổi, đã ly hôn, từ bỏ cuộc sống thành thị ven biển Trung Quốc và chuyển đến Vũ Băng sau chuyến du lịch năm 2014. Đeo kính thời trang gọng lớn và mặc đồ bụi bặm, Hua Jie khiến tôi ấn tượng với kiểu cách thời thượng rất giống những phụ nữ lắm tiền nghiện mua sắm hơn là người phụ nữ cố tìm một cuộc sống đơn giản mộc mạc ở Vũ Băng. Cô cho biết dù đã hơn một năm ở Vũ Băng, việc quản lý nhà khách mất công sức nhiều hơn cô nghĩ, nhưng cuộc sống ở làng mang lại trải nghiệm về một cộng đồng gắn bó, thứ cô chưa từng được biết. “Tôi đi một chặng đường dài để tìm sự thanh thản và đã yêu mến chốn này. Chừng nào người ta không đến đây để kiếm tiền, nơi này sẽ tiếp tục tuyệt vời.” Cô nói thêm nếu làm đường, kẻ hưởng lợi duy nhất là lòng tham. “Chính quyền sẽ ập đến, mở đường mở sá, xây cáp treo đón du khách vào và đưa họ lên các sườn núi. Hãy nhìn cáp treo đã hủy hoại tất cả danh lam thắng cảnh ở Trung Quốc như thế nào.” Năm 2013, Ahbiao, người Hán quê tỉnh Cam Túc hợp đồng thuê dài hạn một trong những nhà nghỉ được mở sớm nhất ở làng và nâng cấp thành một khách sạn nhỏ sang trọng tên là Ấn tượng Vũ Băng. Khi nói về lượng du khách ngày càng tăng, Ahbiao dẫn ra có bao nhiêu địa điểm du lịch ở vùng tây nam Trung Quốc hiện đang bắt đầu hạn chế lượng du khách trong ngày. “Tại núi tuyết thiêng liêng ở Á Đinh, ngay sát ranh giới Tứ Xuyên, ô tô bị giới hạn ở mức mỗi ngày bốn ngàn chiếc để cắt giảm khí thải. Khí thải từ ô tô làm tuyết tan và đó là vấn đề đáng lo ngại. Anh biết đấy, ở Bắc Kinh, Tử Cấm Thành đang giới hạn mỗi ngày tám mươi nghìn du khách để giảm chen chúc.” Tôi đã đến thăm cả hai nơi này nhiều lần và thấy rằng những giới hạn đó quá cao. “Vào năm 2015, vé vào Vũ Băng đã tăng từ 80 lên 230 nhân dân tệ nhằm hạn chế du khách. Nhưng họ vẫn nườm nượp đến”, Ahbiao nhận xét. Ahbiao cho biết thời anh mới đến làng, du khách không thể tìm ra một tấm nệm xốp êm ái để ngủ. Chuyện đó khiến tôi nhớ lại việc tôi đã ngủ bốn đêm ở Vũ Băng trên chiếc nệm rơm mỏng. Nhà khách của anh hiện có mười bốn phòng đầy đủ tiện nghi, phòng nào cũng nhìn ra đỉnh núi Kawagarbo, giá 280 nhân dân tệ một đêm, gấp bảy lần giá căn phòng tôi đã ở. Tôi nói với Ahbiao về những điều kiện cơ bản tại nhà khách tôi ở, và anh trả lời, “Đó là lý do nhiều dân làng chọn cho người ngoài thuê nhà của họ. Chúng tôi [người Hán] biết cách phục vụ nhu cầu của du khách Trung Quốc, thức ăn họ muốn, và dịch vụ họ cần. Cần một thời gian dài để dân ở đây nắm bắt được điều đó.” Tôi hỏi liệu số người Hán kinh doanh nhà nghỉ có làm cho du khách ít có cơ hội tiếp xúc với người Tây Tạng ở đây, vì giao du với người Tây Tạng “thuần khiết và vui vẻ”, như người Hán thường nói về người Tây Tạng, là một phần mong muốn trong trải nghiệm chung. Anh cho biết tất cả nhân viên nhà nghỉ của anh là người Tây Tạng và chủ nhà nghỉ người Tây Tạng tên Arong suốt ngày ở nhà nghỉ chuyện trò với du khách - điều anh không thể làm vì phải quản lý công việc kinh doanh hằng ngày. Trong thập niên qua, thu nhập tăng lên và việc ngày càng có nhiều người Hán sống và quản lý cơ sở kinh doanh ở Vũ Băng đã làm thay đổi cách dân làng Vũ Băng đối xử với những không gian truyền thống của họ. Điều này rốt cuộc đã tác động lên các mối quan hệ xã hội và ý thức thuộc về cộng đồng của dân làng. Một số dân địa phương cho thuê nhà của họ hiện sống trong những căn nhà nhỏ phía sau hay bên cạnh ngôi nhà Tây Tạng to lớn của họ. Những người khác chọn mua căn hộ và mỗi năm sống vài tháng trong thành phố Địch Khánh gần đó. Một số người làm vậy để gần gũi với con cái họ đang học nội trú ở Địch Khánh. Số khác mua nhà ở Côn Minh và chỉ trở về Vũ Băng vào các dịp lễ hội lớn và các buổi họp mặt gia đình quan trọng. Gắn kết xã hội ở Vũ Băng đang đổi thay. Chiều hôm đó, tôi trò chuyện khá lâu với ông Arong. Sau khi biết tôi là người Mỹ, ông lập tức tiết lộ hai người ông ngưỡng mộ nhất là Đức Đạt Lai Lạt Ma và Barack Obama. Ông thậm chí còn cho rằng không ngẫu nhiên mà hai cái tên đó có cùng vần điệu. Arong cũng thắc mắc tại sao mọi người chọn định cư ở các khu vực đô thị lớn và cho biết trong những lần vào thành phố, ông hiếm khi có được giấc ngủ ngon. Rồi ông chỉ vào những đỉnh núi tuyết xung quanh và nói, “Đó là những gì tôi thấy hằng ngày”. Sau đó ông nhìn tôi cười toe toét nói, “Khi tôi nhắm mắt lại, những ngọn núi đó tràn ngập giấc mơ. Tại sao tôi phải chọn sống ở thành phố?”. Vào ngày thứ ba ở Vũ Băng, tôi lên đường sớm đến thác nước thiêng. Tôi thận trọng xuất phát, vì đêm trước, chủ nhà kể vài câu chuyện cảnh báo việc du khách bị lạc trong núi. Đi theo đường mòn, tôi nhập bọn với một gia đình Tây Tạng hành hương từ An Đa ở tỉnh Thanh Hải đến để đi vòng quanh núi Kawagarbo. Một đứa bé được dịu trên lưng người đàn ông lớn tuổi nhất, các thành viên trong nhóm sau đó sẽ thay phiên nhau dịu đứa bé lên núi. Chúng tôi đi qua các thác nước nhỏ và thỉnh thoảng dừng lại ở một điểm ngắm cảnh để thêm đá vào các ụ đá hình tháp trên đường do những người hành hương và du khách tạo nên. Theo tập tục người Tây Tạng, dựng các ụ đá bằng cách chất cao những viên đá có bề mặt nhẵn nhằm kết nối với các thần linh ẩn trong các tạo vật thiên nhiên quanh họ. Chúng tôi cũng đi qua những nhóm leo núi Trung Quốc gần như kiệt sức đang trên đường đến thác nước, họ vẫn chưa thích nghi với không khí loãng ở độ cao 3.500 mét. Sau hai giờ, chúng tôi ra khỏi con đường rừng và đi thêm 30 phút trên đường đá dốc để đến thác nước. Luồng nước trắng xóa bắn ra trên vách đá granit màu nâu cao khoảng 100 mét. Vì tôi đến đây vào cuối mùa khô, phần lớn nước biến thành sương mù trước khi chạm đến mặt đất bên dưới. Thác này được cho là linh thiêng vì một vị thần tên là Bendero sống ở đầu nguồn. Dân địa phương phải liên tục cầu xin Bendero bằng lễ lạt và cầu nguyện. Người ta nói rằng những người hái thảo dược hay đốn cây trong khu vực này luôn bị ốm hay chết ngay sau đó, nhưng những người thờ Bendero thì được che chở. Một vài tuần trước, hai du khách Trung Quốc đã thiệt mạng tại thác khi xảy ra trận tuyết lở do tiếng la hét kéo dài của họ, người Hán thường làm thế ở các công viên công cộng và trên đỉnh núi để làm sạch phổi và giải tỏa căng thẳng, nhưng đó lại là điều cấm kỵ trong thế giới Tây Tạng. Tương tự như nhóm leo núi xấu số Trung - Nhật, dân địa phương cho rằng ngọn núi lại báo thù những người mạo phạm nó. Bên dưới thác, những lá cờ cầu nguyện đủ màu sắc được giăng trên những tảng đá ướt đẫm. Các đồng tiền giá trị nhỏ nằm trong vách đá như lễ vật dâng cúng ngọn núi. Sau khi hành lễ trước một bảo tháp nhỏ màu trắng, người hành hương và du khách bước đi theo chiều kim đồng hồ phía dưới thác để hoàn thành nghi thức thanh tẩy. Một số người đi quanh ba vòng, tất cả những người đi dưới thác đều ướt sũng. Du khách Trung Quốc chụp ảnh nhóm lấy thác nước làm nền. Hầu hết mọi người im lặng thành kính đi quanh dòng thác. Khi xuống tôi đi qua một nhóm thiếu nữ Tây Tạng chuyển rác từ các thùng rác đặt trên đường mòn vào các túi lớn màu xanh lá cây. Hai dân làng đang cầm một tấm biển ghi bằng tiếng Trung “Đội thu gom rác làng Vũ Băng”. Tôi nghĩ chắc họ phải dọn thường xuyên vì có rất ít thùng rác dọc theo đường mòn, và tôi quan sát thấy không thùng nào đầy tràn ra đường. Những thiếu nữ này cho biết các hộ gia đình hằng năm cùng nhau góp 30.000 nhân dân tệ (khoảng 8.000 đô-la) trả cho việc thu gom rác ba lần trong năm, một khoản hậu hĩ ở một nước có thu nhập bình quân đầu người một năm cũng chỉ chừng ấy. Khoản tiền đó lấy từ thuế đánh vào các nhà nghỉ. Khi sắp đến một trong ba ngày thu gom rác, dân làng rút thăm phân công dọn các đoạn đường mòn - một số chỉ cần dọn rác sau nhà mình, còn những người khác phải kéo những chiếc túi màu xanh lá cây đi xa vài kilomét. Ngoài ra, ba dân làng được công ty du lịch thuê quét đường mòn lên núi mỗi tháng một lần để bảo trì. Vào giữa thập niên đầu của thế kỷ này, việc thu gom rác rõ ràng không khó khăn lắm, vì một khoản trợ cấp của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên (The Nature Conservancy - TNC) đã thiết lập một hệ thống phân công dân làng dọn sạch từng đoạn đường mòn 50 mét. Tên các gia đình được viết trên thùng rác để phân định trách nhiệm giữ sạch các đoạn đường. Những người giúp quản lý rừng, như Ahnazhu, làm việc cho làng và động viên dân cư tuân thủ hệ thống trách nhiệm phân công cho các gia đình. Dân làng cần chút khích lệ tài chính để giữ cho sườn núi và các đường mòn sạch sẽ, và tiền của TNC đã được chi dọn 57 tấn rác[12]. Nhưng khi việc quản lý công viên quốc gia này được chuyển cho công ty có trụ sở tại Côn Minh năm 2009, giá vé lên Vũ Băng tăng gấp đôi lên 80 nhân dân tệ và dân làng nhận được một phần nhỏ tiền bán vé để dọn rác. Dù tiền đã chi nhưng dân làng ngừng thu gom rác. Họ cho rằng công ty quản lý đã thu hết lợi lộc bán vé (và chỉ cung cấp lại rất ít dịch vụ), trách nhiệm dọn dẹp rác thuộc về ban điều hành công ty[13]. Phải mất đến bốn năm để giải quyết cuộc xung đột đó và những con đường mòn của Vũ Băng trở nên xấu xí và đầy rác do du khách Trung Quốc vốn nổi tiếng toàn cầu về việc không bỏ rác đúng chỗ. Năm 2011, Liu Jianqiang, biên tập viên đóng tại Bắc Kinh của trang mạng về môi trường nhiều ảnh hưởng ChinaDialogue, đã lên Vũ Băng và đưa ra lý do vì sao con đường này đầy rác - một quan sát trái ngược với tôi. Dừng ở một trạm nghỉ, anh nhận xét chỉ bước ra khỏi đường mòn vài mét đã thấy “cảnh tượng khủng khiếp”: Các đống rác đầy ly mì gói, vỏ chai bia, và vỏ đồ hộp[14]. Dần dần, doanh thu bán vé tăng lên, đến năm 2013 công ty Côn Minh lắp đặt các cặp thùng rác xanh lá cây và xanh dương như những mốc đánh dấu đường mòn. Đồng thời, thuế đánh vào các nhà khách được chi hỗ trợ các đội dọn rác luân phiên. Wang Bo, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Wisconsin, đã sống hơn một năm ở Vũ Băng để tìm hiểu cách dân làng thích nghi với các hệ thống quản lý chất thải mới được áp dụng. Anh nói hệ thống tôi đã thấy trên đường từ thác xuống là một cải tiến lớn nhưng cho rằng nếu du khách được thông tin nhiều hơn về cách dân làng đối xử với những ngọn núi thì họ sẽ bớt xả rác trên đường mòn: Dân làng tin rằng những ngọn núi là những thực thể sống với sông suối đóng vai trò lá phổi và huyết mạch. Làm ô nhiễm những dòng suối sẽ khiến những ngọn núi tổn thương. Du khách thường giấu vỏ chai dưới những tảng đá dọc theo lòng suối nhưng không biết nước rất mạnh trong mùa mưa và đẩy rác xuống dưới dòng tạo ra những điểm nghẽn hay đẩy rác vào những chỗ người thu gom rác không thể dọn được. Wang Bo lưu ý rằng nếu du khách tiếp xúc nhiều hơn với những người hành hương, họ sẽ thấy hầu hết những người hành hương mang rác theo chứ không xả[15]. Dân địa phương cho tôi biết hầu hết rác được la chở đi, nhưng đó là lời nói dối ngây ngô. Trong lần đi bộ qua khu rừng ngay ngoài Vũ Băng Thượng, tôi bắt gặp một nhà kho lớn chồng chất những thùng rác đầy. Sau đó họ thú nhận phần lớn rác thu dọn từ năm 2013 được chứa ở nhà kho đó - la và ngựa thường đột nhập vào nhà kho tìm thức ăn và làm mọi thứ tung tóe lên. Hiện nay một số dân làng thích lắp cáp treo từ rìa sông Mekong vào làng vì nó có thể được dùng để tống khứ đống rác thải do ngành du lịch Vũ Băng gây ra. Nhu cầu cần có một lối đi thuận tiện hơn để ra vào làng đang ngày càng cấp bách. *** Một cách để rời khỏi Vũ Băng là đi theo con đường dọc dòng suối chính của Vũ Băng thu nước từ tuyết tan và nước mưa ở các thung lũng xung quanh chảy xuyên qua hẻm núi sâu 700 mét trên hành trình ngắn của nó ra sông Mekong. Dòng nước trong vắt chảy xuống từ con suối tan biến trong nước sông Mekong đục ngầu đầy bùn. Vào mùa khô của lưu vực sông Mekong, thường kéo từ tháng 11 đến tháng 5, trung bình hơn 40% lượng nước trong toàn bộ hệ thống đến từ tuyết tan ở Vân Nam, Tứ Xuyên và Tây Tạng - gấp hơn hai lần mùa mưa. Nếu xu hướng nóng lên toàn cầu vẫn tiếp tục, nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng 2°c vào năm 2100. Nhưng ở dãy Himalayaa, việc tăng thêm 2°c có thể xảy ra vào năm 2050. Nếu điều đó xảy ra, các sông băng nhỏ ở Himalaya hầu như sẽ biến mất hoàn toàn và các sông băng khác sẽ ngắn lại rất nhiều. Điều đó có nghĩa là hơn một phần ba các sông băng ở dãy Himalayaa, một khu vực có diện tích bằng nước Bỉ, có thể biến mất vào năm 2050. Băng tan sẽ giải phóng một lượng nước khổng lồ trước đó đã đóng băng trong nhiều thiên niên kỷ đổ vào sông Mekong, sông Trường Giang, sông Brahmaputra, sông Ấn và các dòng sông khác bắt nguồn từ dãy Himalaya. Những dòng chảy này sẽ đạt đỉnh giữa năm 2030 và năm 2050, có khả năng kéo theo một thời kỳ thiếu nước đột ngột, không thể đảo ngược nếu nhiệt độ toàn cầu tiếp tục tăng. Nước đã là nguồn tài nguyên khan hiếm ở Trung Quốc và chính phủ Trung Quốc đang nỗ lực nhanh chóng xây dựng khả năng chống lại các tác động biến đổi khí hậu đang đến. Lý do khiến Trung Quốc hiện đang xây dựng hàng trăm con đập khổng lồ ở đầu nguồn các con sông của dãy Himalaya, có thể đoán biết, là để tạo ra một loạt hồ chứa trữ nước từ băng tan để dùng trong tương lai. Điều đó sẽ cải thiện đáng kể nguồn nước có sẵn ở Trung Quốc, nhưng lại giữ quá nhiều nước không cho chảy xuống các quốc gia hạ nguồn đang đối mặt với tình trạng khan hiếm nước ngày càng tăng. Barry Baker, chuyên gia về biến đổi khí hậu tại Viện Sinh học Bảo tồn ở Fort Collins, Colorado, là nhà khoa học chính trong dự án nghiên cứu về sự ngắn lại của sông băng Mingyong (Minh Vĩnh) chảy qua đỉnh chính của núi Kawagarbo cách Vũ Băng khoảng 7km về phía thượng nguồn. Dân làng ở đây cấm Baker và nhóm của anh đi trên sông băng hay lấy các mẫu khoan, nhưng các kỹ thuật nhiếp ảnh so sánh sử dụng hình ảnh của nhà thám hiểm người Anh chụp từ lâu so với các bức ảnh gần đây xác định sông băng đã ngắn lại gần 3km kể từ cuối những năm 1800[16]. Ảnh vệ tinh gần đây cho thấy tốc độ rút ngắn sông băng đang tăng nhanh: 1,2km trong ba kilomét ngắn lại đó xảy ra từ năm 2003. Một nhân tố góp phần làm tăng tốc độ tan băng ở dãy Himalaya có thể liên quan đến sự tan chảy tăng lên ở các vùng băng vĩnh cửu quanh và bên dưới các sông băng. Vùng băng này có diện tích lớn hơn nhiều lần so với các vùng tuyết phủ quanh năm, và có một lớp đất dày dưới bề mặt luôn đóng băng. Xung quanh dãy Himalaya, sự nóng lên toàn cầu đang khiến độ cao mặt dưới của các vùng băng vĩnh cửu dịch chuyển lên vị trí cao hơn, tạo ra các dải băng vĩnh cửu mỏng hơn giữa lớp tuyết ở các đỉnh núi và vùng ấm hơn bên dưới. Đồng thời, lớp đất luôn đóng băng mỏng dần. Các hiệu ứng này cùng nhau tạo ra nhiều nhiệt hơn xung quanh những khu vực các sông băng bao bọc, và điều đó khiến băng vĩnh cửu tan chảy mạnh hơn. Dân làng Vũ Băng biết rõ các sông băng ở Kawagarbo đang ngắn lại. Sông băng ngắn lại là do nhiệt độ toàn cầu tăng lên, không phải do các nhân tố địa phương, nhưng dân làng Vũ Băng gắn kết tâm linh với núi Kawagarbo đến nỗi họ xem chuyện các sông băng ngắn lại là do dân địa phương cầu nguyện không đúng cách, do các du khách bất kính, và lòng tham của cải vật chất toàn cầu tăng lên[17]. Trưởng làng Vũ Băng trước đây, Zhang Dafu bảo tôi Tết Nguyên Đán, ngày lễ quan trọng cả với người Tây Tạng, gần đây mỗi năm ấm lên thấy rõ. Ông cũng lưu ý, Vũ Băng không có bão tuyết lớn từ năm 2012 đến năm 2015. “Việc không có tuyết giúp du khách dễ lên đây, nhưng tuyết trên núi đang giảm dần. Anh biết đó, sông băng thường chảy vào hồ băng, vì thế việc thờ phụng hồ cũng tạo ra kết nối với toàn bộ ngọn núi. Giờ thì sông băng đang ngắn lại.” Dân làng Vũ Băng rất tự hào bảo vệ ngọn núi. Năm 2005, họ đã vận động thành công đuổi một xưởng cưa tai hại ra khỏi ngọn núi. Họ vẫn ra sức nguyền rủa những người tìm cách leo lên núi và thường nói về chuyện nhóm leo núi xấu số đã biến mất vào năm 1991. Dù thấy các sông băng ngắn lại, họ không cho phép các nhà khoa học, Trung Quốc hay nước ngoài, đặt chân lên các sông băng trên núi để tiếp tục nghiên cứu. Từ góc độ khoa học, do biến đổi khí hậu bắt đầu tác động mạnh hơn lên sinh thái của Kawagarbo, dân làng Vũ Băng và du khách đến đây có thể gặp nguy do sạt lở đất và hạn hán gia tăng. Nhưng với sự kết nối tâm linh sâu sắc như thế với Kawagarbo, có thể nỗi đau khổ do việc tan chảy núi tuyết và sông băng ở ngọn núi gây ra sẽ có nhiều tác động sâu sắc hơn nữa lên tâm lý người dân địa phương. Đối với dân làng, tuyết ít hơn nghĩa là sinh mệnh ngọn núi đang tàn dần, và điều đó khiến họ đau buồn. Về chuyện Arong kể mơ thấy những ngọn núi tuyết, do tuyết trên núi Kawagarbo ít dần trong thế kỷ mới này, có lẽ điều ông mơ thấy, biểu hiện tâm lý của sự kết nối ông với thế giới xung quanh, cùng giấc ngủ của ông, sẽ vĩnh viễn đổi thay. 2 XÂY ĐẬP TRÊN THƯỢNG MEKONG N gay phía nam nơi con suối từ thung lũng Vũ Băng chảy ra đổ vào sông Mekong, dòng sông cắt thẳng qua một loạt hẻm núi hình chữ S dốc đứng. Vài năm trước, con đường đất dọc theo bờ sông phía đông đã được trải nhựa thành một xa lộ mới. Đi lại trên đường chủ yếu là người Tây Tạng chạy xe máy hay lái xe tải tự đổ quá khổ chở khoáng sản và cát từ các mỏ quanh đó. Những ngôi làng Tây Tạng nhỏ chừng 30 hay 40 nóc nhà xây bằng đá, gỗ, và đất trên những khoảnh đất thuận tiện trong hẻm núi. Những lá cờ cầu nguyện nhiều màu nối các ngôi nhà mái đỏ với ngôi chùa trong làng. Có lúc đầu dây mất hút trên sườn núi cao. Lưng chừng hẻm núi, bảo tháp màu trắng nhìn xuống những ngôi làng. Những chiếc cầu treo thô sơ, chỉ dành cho người đi bộ hay xe máy, bắc qua con sông. Không phải tất cả làng ở phía đối diện hẻm núi đều có đường đến cầu, và dân ở đó phải đi vài kilomét về phía hạ nguồn đến làng bên cạnh để đến được con đường trải nhựa. Kiểu nhà cửa đó không có ở phía hạ nguồn cách Vũ Băng 40km trong làng Tỳ Trung có tháp chuông cao bốn tầng của nhà thờ Công giáo, được xây bằng đá lấy ở vùng này theo hình thánh giá chuẩn vào cuối thế kỷ 19 bởi các nhà truyền giáo Pháp đến truyền đạo ở vùng ngoại vi Trung Quốc và Myanmar. Tám mươi phần trăm trong số 115 gia đình Tây Tạng ở Tỳ Trung là con chiên của nhà thờ này. Vài lần một tuần, phụ nữ sắc tộc Tây Tạng đội khăn choàng đầu rộng màu tím và đàn ông đội mũ cao bồi đến nhà thờ đá dự thánh lễ do Yao Fei, linh mục Công giáo từ Nội Mông chuyển đến Tỳ Trung vào năm 2008 làm chủ tế. Trước khi thánh lễ bắt đầu, họ xướng lời cầu nguyện bằng tiếng Trung theo giai điệu trầm bổng nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng. Vào Chủ nhật thường có du khách châu Âu xếp hàng sau các dãy ghế ở gian giữa giáo đường. Họ nắm chặt máy ảnh ống kính dài ghi lại cuộc hôn phối hiếm thấy giữa văn hóa Tây Tạng và phương Tây. Việc cải đạo sang Công giáo của Tỳ Trung cũng biến nơi đây trở thành nơi có ngành sản xuất rượu vang phát triển. Bên ngoài thánh đường, một biển hiệu viết bằng tiếng Trung có dịch tiếng Anh phía dưới ghi, “Một trăm năm công nghệ Pháp, thủ công thuần túy. Vang trắng và đỏ ngâm ủ chuyên nghiệp”. Nho và kỹ thuật làm rượu vang được các nhà truyền giáo Pháp đưa đến, nhưng sự phát triển rượu vang địa phương bắt đầu vào cuối những năm 1990 với sự hồi sinh của một giống nho Rose Honey được phát hiện mọc trên sân nhà thờ. Giống nho này bị xóa sổ bởi một căn bệnh ở Pháp đã làm biến mất nhiều giống nho một thế kỷ trước[18]. Trước khi vùng tây bắc của tỉnh Vân Nam mở cửa cho người nước ngoài vào những năm 1990, người ta từ lâu nghĩ rằng giống nho này đã mất. Đầu những năm 2000, chính quyền huyện Đức Khâm ở đây đã tiến hành các chương trình hỗ trợ nông nghiệp mang đến các giống nho khác cung cấp cho ngành sản xuất rượu vang đang phát triển ở thiên đường hạ giới này. Hiện nay, phần lớn dân làng bán nho của họ cho thương lái sau mỗi vụ thu hoạch, nhưng một số quyết định tự làm rượu vang đóng chai bán cho các xưởng rượu vang và các nhà nghỉ ở Tỳ Trung. Một thay đổi không mong muốn đe dọa không chỉ nền kinh tế rượu vang và du lịch địa phương mà còn cả sự hòa hợp tôn giáo độc đáo giữa các tín đồ Công giáo và Phật giáo ở làng đang sắp xảy ra ở Tỳ Trung. Năm 2018, Yến Môn, một cộng đồng ở thượng nguồn lớn hơn Tỳ Trung với trên 200 gia đình, sẽ bị chuyển toàn bộ đến định cư ở Tỳ Trung. Không giống như Tỳ Trung nằm trên một đồng bằng dài, hẹp, và cao 100 mét so với sông Mekong, Yến Môn nằm thấp bên bờ sông. Nó sẽ bị ngập hoàn toàn do hồ chứa của con đập mới Ô Lộng Long cách 12km phía hạ nguồn. “Chúng tôi lo lắng nhất về sự hòa hợp của làng”, một nhà sản xuất rượu vang địa phương bày tỏ. Tên ông trong sách này đổi thành Tashi do vấn đề di dời và bồi thường đất đai ở Trung Quốc hết sức nhạy cảm. Ông cho tôi biết cuộc sống thường ngày của người Công giáo ở Tỳ Trung vẫn gắn bó sâu sắc với văn hóa Phật giáo Tây Tạng: “Thường các nhà sư Phật giáo vẫn ban phúc lành trong các đám cưới Công giáo, Lễ Giáng sinh và Lễ Phục sinh. Chúng tôi có được sự hòa hợp này sau nhiều thập niên tiếp xúc với những Phật tử láng giềng”. Kết hợp các khía cạnh của các tôn giáo có ảnh hưởng lớn thành một thực hành tôn giáo hợp nhất, đặc biệt những yếu tố từ miền xuôi, là đặc điểm chung của các cộng đông Zomia vùng cao. Nhưng Tashi lưu ý chỉ vài thị trấn trong huyện Đức Khâm có các Hội Thánh Công giáo. Yến Môn không nằm trong số đó. Ông lo lắng rằng bất chấp di sản sắc tộc chung, việc nhiều tín đồ Phật giáo, chưa từng sống chung với người Công giáo, đến đây sống sẽ làm đảo lộn tinh thần cộng đồng và giao tiếp xã hội. Ông xem cư dân Yến Môn là những người mê tín quá mức và kể chuyện họ bị cuốn vào sự thù hận giáo phái giữa phái Đạt Lai Lạt Ma và phái Shugden, vị thần địa phương che chở các khu vực phía đông nam của thế giới Tây Tạng. Nơi duy nhất để xây nhà cho dân làng Yến Môn nằm trên đầu cánh đồng lúa của Tỳ Trung, ở khoảng giữa làng và rìa sông. Dân làng Tỳ Trung phản ứng khi biết các đồng lúa của họ sẽ bị xóa sổ. Các ruộng lúa bậc thang, cộng lại rộng hơn bốn hay năm lần ngôi làng, được khai khẩn bên sườn núi vào đầu những năm 1960 để đáp ứng các chỉ tiêu lương thực ngày càng tăng do cuộc Đại Nhảy Vọt của Trung Quốc. Nhiều cụ già vẫn còn nhớ thời gian cực nhọc tạo nên những cánh đồng này, và ngày nay khu ruộng tập thể là nơi quan trọng để giao tiếp xã hội vì việc trồng lúa huy động lao động tập thể của cả làng. Một dân làng quả quyết một vụ lúa có thể nuôi cả làng trong hai năm. Dù ở Trung Quốc những ngày tự cung tự cấp đã qua từ lâu, những dân làng này tin rằng trồng lúa giúp bảo đảm an ninh lương thực và thu nhập mà các làng khác ở huyện Đức Khâm không thể có được. Tỳ Trung là một trong hai làng duy nhất ở huyện miền núi Đức Khâm có đủ đất đai bằng phẳng để trồng lúa. Bồi thường đất đai là một vấn đề gây tranh cãi ở Tỳ Trung. Hơn một nửa diện tích đất sản xuất nông nghiệp của Tỳ Trung sẽ được sử dụng để xây nhà cho dân Yến Môn, hay được phân phối cho những người mới đến canh tác. Khi có tin về việc tái định cư Yến Môn, dân làng Tỳ Trung được trả 30.000 nhân dân tệ cho một mu (mẫu = 666,67m2) đất bị lấy cấp cho dần Yến Môn. Tham khảo số liệu bán đất gần đây ở các khu vực khác của huyện Đức Khâm, dân làng Tỳ Trung tin rằng giá trị đất của họ cao hơn 10 lần so với mức đó. Khi tôi đến Tỳ Trung vào năm 2015, mức giá đề nghị của chính quyền địa phương đã lên 100.000 nhân dân tệ một mu, nhưng dân Tỳ Trung vẫn không chịu. Một nhóm cư dân cũ của Tỳ Trung đã chuyển đi nhiều năm trước nhưng vẫn có đất trong làng. Họ thuyết phục những người vẫn sống ở Tỳ Trung chấp nhận đề nghị của chính quyền. Tashi nói với tôi, “Những người từ lâu bỏ làng vào thành phố không còn sống ở đây đã đồng ý với giá 100.000 nhân dân tệ một mu. Chuyện này đối với họ quá dễ vì họ có công ăn việc làm khác và nguồn thu nhập khác, còn đối với chúng tôi, lấy đất là lấy đi nguồn thu nhập chính của chúng tôi.” Một số dân làng sẽ mất toàn bộ đất canh tác của họ. Tashi nói với tôi cũng đáng để tiến hành các chiến thuật trì hoãn vì chính quyền địa phương sẽ lấy 30% tiền đền bù và chỉ chi trả hằng tháng từng khoản nhỏ tiền đền bù đã thỏa thuận trong 15 năm. Với mức đề nghị hiện nay, hằng tháng mỗi mu chỉ nhận được 3.000 nhân dân tệ đền bù, ngay cả những người kinh doanh giỏi giang nhất cũng không sống nổi. “Chúng tôi tiếp tục chờ đợi”, Tashi nói, nhưng trông rất thiếu tự tin. Ngày tôi đi bộ qua Tỳ Trung là ngày cuối cùng của chừng 30 cây óc chó khổng lồ dọc theo con đường duy nhất của làng. Những cây khổng lồ này bị đốn hạ theo một dự án mở rộng đường nhằm triển khai các loại hình giao thông mới sau khi dân Yến Môn chuyển đến. Những chỗ mát mẻ dưới gốc cây là nơi chiều chiều hàng xóm láng giềng gặp gỡ khi đi dạo. Các cây này mỗi năm cũng mang lại 10.000 nhân dân tệ (1.500 đô-la) tiền bán quả óc chó. Các gia đình trên khắp vùng cao Zomia tây nam Trung Quốc trông cậy vào quả óc chó như một nguồn protein và chất béo lành mạnh giá rẻ, và quả óc chó dại được biết có giá cao ở các chợ thành thị Trung Quốc. Giờ đây những đống thân cây óc chó ở Tỳ Trung đang được nhặt nhạnh để làm củi. Một người cho tôi biết cứ một cây dân làng được nhận 10.000 nhân dân tệ tiền đền bù, nhưng người ta đồn hầu hết dân làng chỉ nhận được 1.000 nhân dân tệ một cây, một phần nhỏ so với thu hoạch một năm. Khi tôi dừng lại dọc theo một bờ kè ven đường có hàng rào phía trên, một phụ nữ địa phương xuất hiện cho tôi biết bà đã mất sạch 100 cây nho vì dự án mở rộng đường. Bà chỉ được bồi thường 40 nhân dân tệ một cây nho, xấp xỉ giá trị một cây nho mang lại trong một năm. Khoản đền bù được công ty xây đập chi trả đó gửi đi một tín hiệu rõ ràng: Quý vị có một năm để tìm cách bù đắp cho thiệt hại do chúng tôi tạo ra. Năm 2014, vị trưởng làng Tỳ Trung trước đây họp những dân làng đã đưa đơn khiếu nại việc xây đập Ô Lộng Long và sự tràn ngập dân Yến Môn sắp tới. Tashi đã tham dự cuộc họp đó và cho biết vị trưởng làng rất giận những dân làng ngoan cố đó và nói, “Đất này, nước này, núi này, không phải của quý vị! Đừng ra vẻ như chúng là của quý vị! Đó là đất của nhà nước, và đó là tài nguyên của nhà nước”. Nhưng với dân làng Tỳ Trung đã sống ở thung lũng Mekong nhiều thế kỷ, nhà nước Trung Quốc chỉ mới khẳng định quyền sở hữu đối với các tài nguyên này trong thập niên vừa rồi, vì thế thật dễ hiểu bản sắc của họ được hình thành như thế nào cùng với cảnh quan xung quanh họ. “Làm sao một nhà nước có thể sở hữu một dòng sông? Con sông, giống như vùng đất và những ngọn núi xung quanh chúng tôi, là một phần tạo nên chúng tôi”, Tashi nói. Các cuộc đấu tranh cư dân Tỳ Trung phải đối mặt cũng rất thường xảy ra với những người bị ảnh hưởng bởi việc phát triển thủy điện ở vùng tây nam Trung Quốc. Ít ra dân Tỳ Trung còn giữ được nhà của họ, không giống như dân Yến Môn, nhưng dân ở cả hai làng đều tỏ ra lo ngại trước những khó khăn trong việc tạo lập ý thức cộng đồng mới. Nếu quá trình đền bù đất đai không giúp cho dân làng có được số tiền bao gồm cả giá trị đất đai và tổn thất thu nhập tương lai, an ninh kinh tế của cộng đồng này sẽ hết sức nguy ngập. Theo quan điểm của Bắc Kinh, tổn thất an ninh kinh tế của Tỳ Trung và Yến Môn không mấy ảnh hưởng đến kế hoạch tổng thể phát triển quốc gia của Trung Quốc. Xây dựng các dãy đập trên Thượng Mekong, sông Trường Giang và các sông nhánh lớn của nó là sông Đại Độ, sông Mân và sông Nhã Lung, là cách để cung cấp cho Trung Quốc lượng điện khổng lồ nhằm tăng cường an ninh kinh tế và an ninh năng lượng. Đến năm 2040, nhu cầu năng lượng của Trung Quốc sẽ tăng 90%[19] buộc ngành sản xuất điện của nước này phải tăng thêm công suất lắp đặt tương đương với công suất của toàn bộ Hoa Kỳ ngoài công suất phát điện hiện tại của nó[20]. Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, nhu cầu duy trì khả năng cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất xuất khẩu, và một tầng lớp người tiêu dùng ngày càng đông thúc đẩy việc tăng nhu cầu năng lượng này. Ba thập niên tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên năng lượng của Trung Quốc, trong khi các mỏ than, dầu, và khí tự nhiên còn lại ở xa các khu vực có nhu cầu cao. Mỏ dầu đầu tiên của Trung Quốc tại Đại Khánh ở tỉnh Hắc Long Giang hiện đã gần cạn kiệt. Suy giảm sản xuất tại Đại Khánh vào đầu những năm 2000 khiến các công ty khai thác dầu chuyển đến Tân Cương ở biên giới phía tây Trung Quốc. Điều này cũng dẫn đến việc hàng triệu người Hán di cư đến Tân Cương và phần nào dẫn đến căng thẳng sắc tộc không ngừng giữa sắc dân Duy Ngô Nhĩ địa phương và sắc dân Hán hiện đang thống trị. Đầu những năm 1990, Trung Quốc đã trở thành nước nhập khẩu ròng dầu mỏ[21], và ngày nay các công ty dầu khí ở nước ngoài của Trung Quốc, vốn nằm trong danh sách những công ty lớn nhất toàn cầu, hoạt động ở mọi ngõ ngách trên thế giới. Trung Quốc hầu như luôn là nhà nhập khẩu ròng khí tự nhiên và hiện phụ thuộc vào mạng lưới đường ống vận chuyển khí đốt và dầu từ các nước láng giềng ở Đông Nam Á và Trung Á. Chi phí cao để tiếp cận và sau đó vận chuyển dầu và khí đốt tự nhiên đến Trung Quốc cho thấy than, thứ Trung Quốc có tương đối nhiều, sẽ tiếp tục chiếm hơn một nửa trong cấu trúc năng lượng của nước này. Trung Quốc là nước tiêu thụ, sản xuất và nhập khẩu than lớn nhất thế giới[22], đồng thời là quốc gia gây ô nhiễm và phát thải khí nhà kính nhiều nhất thế giới. Nhận thức được tác động toàn cầu của dấu chân carbon, cũng như đối phó với áp lực giảm thiểu nguy cơ về sức khỏe liên quan đến các đợt ô nhiễm không khí gây tổn thất nghiêm trọng ở các vùng rộng lớn trong nước, Trung Quốc đã cam kết bắt đầu giảm phát thải carbon vào năm 2030. Cam kết đó, được tuyên bố vào năm 2014, đã nhận được sự hoan nghênh toàn cầu và được coi phần nào là động lực thúc đẩy hơn 200 quốc gia cùng ký kết thỏa thuận biến đổi khí hậu Paris năm 2015. Để Trung Quốc bắt đầu giảm phát thải carbon vào năm 2030, phần lớn công suất mới được lắp đặt phải từ năng lượng tái tạo - gồm cả thủy điện - được tạo ra từ bên trong hay gần với biên giới của nước này[23]. Khai thác tiềm năng thủy điện của các con sông phía tây nam Trung Quốc là một giải pháp quen thuộc, sạch sẽ, và tương đối không đắt đỏ cho vấn đề đó. Các kế hoạch mở rộng thủy điện của Trung Quốc đã được đặt ra từ lâu trước khi việc giảm lượng carbon của nước này trở thành một phần trong chương trình nghị sự quốc gia. Chiến dịch “Đưa điện từ tây sang đông” được hình thành vào những năm 1990 là cách để đưa điện từ các dòng sông phía tây nam Trung Quốc sang phía đông để cấp cho các khu công nghiệp ven biển và các khu vực đô thị của nước này. Đổi lại, các tỉnh nằm xa trong đất liền như Vân Nam, vốn kém phát triển hơn về kinh tế so với các tỉnh ven biển, sẽ có được nguồn thu giúp các tỉnh này thoát khỏi tình trạng “lạc hậu”. Do Vân Nam có rất nhiều danh lam thắng cảnh tự nhiên, một phần của kế hoạch đó cũng hứa hẹn ngăn chặn các ngành công nghiệp gây ô nhiễm khỏi tỉnh này để doanh thu từ du lịch tiếp tục tăng lên. Đến năm 2006, khi dự trữ nhiên liệu hóa thạch trong nước cạn kiệt, Thủ tướng Ôn Gia Bảo cam kết đến năm 2020, 20% năng lượng của Trung Quốc sẽ từ năng lượng tái tạo với thủy điện dẫn đầu. Các kế hoạch chi tiết nhằm tăng công suất thủy điện theo các kế hoạch hiện có đối với các đập thủy điện trên sông Mekong, sông Nộ Giang, sông Trường Giang và các sông nhánh của chúng đã được tiến hành. Ở Thượng Mekong, kế hoạch ban đầu cho 9 đập sản xuất 15 gigawatt điện được tăng hơn gấp đôi lên 20 đập sản xuất 30 gigawatt. Đến năm 2015, công suất thủy điện lắp đặt của Vân Nam đã đạt 50 gigawatt, đủ điện để thắp sáng 5 thành phố có dân số mỗi thành phố khoảng 10 triệu người. So sánh, Hoa Kỳ hiện đứng thứ hai sau Trung Quốc về sản xuất thủy điện, có tổng công suất lắp đặt là 100 gigawatt. Vân Nam, vùng Tứ Xuyên và Tây Tạng lân cận hiện mỗi địa phương có kế hoạch sản xuất 100 gigawatt thủy điện. Trước khi con đập mới nhất được xây dựng, trên 8 triệu cư dân sống ở các thung lũng sông hẻo lánh này, phần lớn là sắc tộc thiểu số, sẽ buộc phải di dời đến các khu định cư ở đồng bằng cách xa quê hương bản quán của họ trên vùng cao. Darrin Magee, chuyên gia thủy điện Vân Nam, mô tả đó là một sự biến đổi các đầu nguồn nước thành các “đầu nguồn điện”, một thuật ngữ do ông đặt ra. Thay vì được đánh giá cao do sử dụng nước cho nhiều lĩnh vực như thủy lợi, du lịch, hay giao thông đường thủy, giới chóp bu Trung Quốc xem các “đầu nguồn điện” này chỉ ở chức năng hẹp là sản xuất điện. Theo lẽ đó, bất chấp người dân sống ở các khu vực đầu nguồn này quý trọng tài nguyên thiên nhiên quanh họ tới đâu, giá trị sản xuất điện sẽ luôn quan trọng hơn nhu cầu của họ. Địa chất của Vân Nam khiến nó trở thành nơi mơ ước của những kẻ xây đập. Địa hình tỉnh này có chênh lệch độ cao 2.000 mét từ ranh giới miền núi phía bắc với Tây Tạng và Tứ Xuyên xuống vùng Tây Song Bản Nạp nhiệt đới ở phía nam. Ở những nơi có sông, sự giảm độ cao này tạo ra các thung lũng dài, sâu, có ít hay không có các khúc quanh. Vân Nam là nơi có một số hẻm núi sâu nhất thế giới, như hẻm núi Hồ Khiêu Hiệp trên sông Kim Sa, một trong những điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất của Vân Nam. Đối với sông Mekong hay bất kỳ con sông nào ở Vân Nam, hầu hết vị trí nơi thung lũng hẹp lại đều tạo điều kiện lý tưởng để xây đập có tường cao. Chừng nào còn làm được đường đi vào các nơi hẻo lánh của dòng sông và có thể di dời cư dân ở thung lũng của nó, tương đối dễ dàng chuyển những dòng sông chảy tự do này thành một loạt hồ chứa tĩnh nhằm mục đích tăng tối đa khả năng sản xuất điện. Quả thực đây sẽ là số phận của toàn bộ vùng Thượng Mekong ở Trung Quốc, và khi tất cả các con đập trong kế hoạch xây dựng xong, hàng loạt hồ chứa thường trực lúc đó sẽ chứa nước nhiều hơn hai lần vịnh Chesapeake. Trong mắt nhà nước Trung Hoa, người Zomia vùng cao thường bị gắn nhãn là “lạc hậu”, và bị xem không có những phẩm chất văn minh của người Hán đồng bằng. Định kiến này ăn sâu trong nhiều thế kỷ, họ xem những người ở ngoại vi đế chế Trung Hoa xưa là những kẻ man di mọi rợ và là mối đe dọa ở biên cương của nhà nước này. Các chính sách của triều đình và các đợt bành trướng trong nhiều thế kỷ đã cố đồng hóa các dân tộc này theo tập tục văn hóa Trung Hoa. Thông thường, một đế chế càng thành công và tồn tại lâu dài thì càng có nhiều vùng ngoại vi được sáp nhập vào nhà nước Trung Hoa. Những người không chuyển sang môi trường văn hóa xã hội của người Hán văn minh sẽ bị giết hay bị đẩy xa ra vùng biên. Đó là quá trình lịch sử ngay từ đầu đã đưa nhiều người đến vùng cao thuộc Zomia xa xôi. Vào những năm 1950, các nhà xã hội học Trung Quốc thấm nhuần lý thuyết Mác-xít về tiến hóa xã hội bắt đầu nghiên cứu các vùng cao phía tây nam với mục đích xếp loại các sắc tộc sống ở đó theo các tiêu chí chung của Mác. Một số, như người Wa (Ngõa tộc), bị coi ở mức thấp trong chuỗi tiến hóa xã hội là những người săn bắn hái lượm nguyên thủy, còn những sắc tộc khác trồng lúa nước như người Bạch định cư quanh Đại Lý được đánh giá là văn minh hơn và do đó được xếp hạng cao hơn. Không sắc tộc nào được xếp hạng cao bằng người Hán đồng bằng với hàng ngàn năm phát triển nông nghiệp và công nghệ. Hệ thống xếp hạng này đã biến người dân vùng Zomia của Trung Quốc từ người man rợ thành các sắc tộc “lạc hậu” cần có các chương trình phát triển của chính quyền Trung Quốc. Vì những người sống trên vùng núi nguyên thủy này có các tập tục cổ xưa tương tự như trong xã hội sơ khai của loài người nên ở một mức độ nào đó, văn hóa và tập quán của họ tương tự văn hóa Hán thời kỳ sơ khai. Điều đó tiếp tục củng cố các lý thuyết Mác-xít về tiến hóa xã hội. Sau năm 1979 khi chính quyền Trung Quốc khởi xướng chính sách cải cách và mở cửa, phương pháp nâng cao văn minh các sắc tộc vùng sâu vùng xa đã chuyển từ các chương trình xã hội sang các chương trình phát triển kinh tế. Giờ cách tốt nhất để phát triển các sắc tộc lạc hậu là chuyển đổi mô hình kinh tế xã hội của họ sang các nền kinh tế dùng tiền tệ, giúp họ thành những người lao động có hiệu quả, và tái định cư họ gần thị trường quốc gia hơn. Rốt cuộc, lý thuyết phát triển kinh tế thịnh hành lúc bấy giờ cho rằng sớm muộn gì việc tăng thu nhập sẽ kéo những người này ra khỏi núi đồi, đi vào các thị trấn và thành phố miền xuôi. Đây là những sắc tộc kém phát triển sống ở những vùng lạc hậu. Nếu chính quyền hay các cơ quan nhà nước sử dụng công nghệ để tối ưu hóa tài nguyên của những khu vực kém phát triển này tốt hơn những người sống ở đó, thì không chỉ làm tăng phúc lợi chung của sự phát triển kinh tê Trung Quốc, mà còn tạo cơ hội giúp những người này có cuộc sống tốt hơn ngay cả khi phải tái định cư họ ở những nơi mới cách xa hàng trăm kilomét. Đối với những người Trung Quốc miền xuôi đầy kỳ thị, tái định cư dân vùng cao là ban ơn cho họ. Bản đồ các đập ở tây nam Trung Quốc Các công ty xây dựng và vận hành đập chịu trách nhiệm tái định cư và đền bù cho những người bị ảnh hưởng bởi việc xây đập. Các chính quyền huyện theo luật định được ủy quyền giám sát toàn bộ quá trình này. Quá trình đền bù chủ yếu được xác định thông qua thủ tục kế toán đơn giản. Đầu tiên một kế toán lấy bản kiểm kê các tài sản thuộc sở hữu của một hộ gia đình và sau đó chi tiền đền bù. Tiếp theo, nhân viên kế toán đo diện tích đất sản xuất hộ gia đình đang canh tác (vì đối với kế toán nhà nước, canh tác là cách duy nhất để dân nông thôn có được thu nhập) và cung cấp đất tương đồng tại địa điểm tái định cư hay chi tiền mặt với giá trị tương đương. Nhìn chung, quy trình kế toán này hiệu quả ở những vùng đồng bằng vì dân nông thôn miền xuôi sống bằng nghề trồng hoa màu và một số thứ khác. Nhờ có chung các giá trị văn hóa giữa các vùng nông nghiệp đồng bằng và các thành phố Trung Quốc, nên việc thích nghi với cuộc sống ở một nơi mới tương đối dễ dàng. Nhưng trong trường hợp đền bù và hỗ trợ chuyển chỗ ở cho người dân vùng cao, quy trình kế toán đó hiếm khi cho ra một kết quả công bằng. Khi nhân viên kế toán đến một làng như Tỳ Trung hay Yến Môn để đánh giá gói đền bù cho một hộ gia đình, anh ta mang theo một loạt các giả định dựa vào nhiều năm sống ở đồng bằng. Chẳng hạn, kế sinh nhai của tay kế toán đó và sinh kế của tất cả bạn bè và đồng nghiệp của anh ta được chi trả hoàn toàn từ tiền lương hằng tháng bằng tiền mặt. Vì anh ta có thể là người đàn ông trụ cột của gia đình, anh ta tìm người đàn ông đứng đầu hộ gia đình vùng cao và hỏi hai câu: “Thu nhập của anh bao nhiêu một tháng, và anh có thể chỉ ra tài sản tạo ra thu nhập đó không?”. Người đàn ông chủ gia đình trả lời mỗi tháng đâu đó chừng 2.000 nhân dân tệ. Còn tài sản, anh ta chỉ vào miếng đất cạnh nhà cũng như bò và lợn sẽ bán ở chợ quê khi chúng lớn. Nhân viên kế toán ghi chép số lượng động vật của gia đình có thể bán được rồi chạy đi đo diện tích khu đất trồng trọt của người này. Tay kế toán làm vài con tính và nhanh chóng đưa ra con số bằng tổng giá trị tài sản và thu nhập trong năm của người này. Rồi anh ta đột ngột bỏ đi không nói gì. Sau khi nghe được một con số thấp đến mức không thể tưởng tượng được, người dân làng đó nghĩ, “Tất cả những gì của tôi chỉ đáng giá chừng đó thôi ư?”. Nhưng công việc ban đầu của tay kế toán đã xong và người này giờ phải mang lấy gánh nặng đấu tranh đòi đền bù công bằng. Để đạt được kết quả hợp lý hơn cho dân làng vùng cao, người đánh giá nên bổ sung thêm các câu hỏi của mình trong buổi điều tra tiếp theo, “Hằng ngày ông dùng gì không mua ở chợ?” vì cầu trả lời ở đây để cập đến những thứ không lập tức có sẵn xung quanh cộng đồng tái định cư. Người dân đó sẽ gãi đầu và bắt đầu tính toán củi lượm nhặt từ các sườn đồi xung quanh dùng để nấu ăn và sưởi ấm, số lượng cá đánh bắt từ dòng sông phía dưới, các loại rau lá hoang dã hái từ các sườn đồi thêm vào bữa ăn gia đình, rượu anh ta nấu ở vườn sau, cây dại quanh nhà để nuôi lợn và bò. Danh sách đó sẽ dài ra và người đánh giá sẽ vò đầu bối rối vì anh ta không biết tính giá trị các khoản đó như thế nào. Xét cho cùng, nền kinh tế vùng cao rất xa lạ với anh ta, và hầu hết các sản phẩm đó không thể tìm thấy ở chợ. Hơn nữa, nếu tay kế toán đó nói chuyện với vợ của người dân kia, rất có thể là người thực sự quản lý nguồn lực của gia đình, anh ta sẽ có được một bức tranh thực tế hơn về những gì thực sự được sử dụng để hỗ trợ sinh kế cho gia đình này. Phụ nữ trong các nhóm sắc tộc như Tây Tạng, Lật Túc và Ma Thoa ở tây nam Trung Quốc thường làm việc nhà và quản lý gia đình nhiều hơn. Nhưng tay kế toán không hiểu, vì theo cách nghĩ của anh ta, dứt khoát đàn ông là chủ gia đình ở Trung Quốc. Địa điểm tái định cư chẳng bao giờ sẵn có những thứ như nước sinh hoạt, thức ăn cho gia súc, rau ráng mọc bên nhà và cá trên sông. Các kiến trúc sư của chính quyền chọn chỗ này không nghĩ về các tài nguyên chung có sẵn miễn phí đó, họ cũng không nghĩ về không gian thực sự được các hộ gia đình sử dụng để duy trì đời sống. Điều đó do các kiến trúc sư của chính quyền sống trong các căn hộ chật hẹp ở thành phố và tất cả hàng hóa thường ngày của họ được mua trong siêu thị hay tiệm tạp hóa. Khi một gia đình chuyển đến ngôi nhà lắp dựng sẵn tại khu tái định cư, người trong nhà sẽ sớm phát hiện tỷ lệ không gian bên trong so với bên ngoài hoàn toàn trái ngược với trước đây. Nhà cũ của họ có phòng nhỏ nhưng sân rộng dùng để phơi hoa màu và nhốt vật nuôi trong chuồng ở xa cuối sân. Trong các cộng đồng tái định cư, dân làng được cấp những ngôi nhà lớn có sân nhỏ. Họ thường kêu ca về việc sống bên trên gia súc của mình có rất ít không gian tương tác xã hội như trước đây với sân ngoài rộng rãi. Một số cộng đồng được tái định cư ở miền xuôi bằng phẳng cách xa ngôi nhà trên núi của họ. Dân làng ở đó phàn nàn về việc không còn được hưởng không khí núi non trong lành và những cảnh quan hùng vĩ góp phần tạo nên bản sắc của họ. *** Khi việc xây dựng bắt đầu vào giữa những năm 1980 trên đập Mạn Loan, đập đầu tiên của Trung Quốc ở Thượng Mekong, các quan chức chính quyền hứa hẹn với các cộng đồng làm nông nghiệp hẻo lánh trong khu vực xung quanh về việc làm và sự sung túc. Công ty xây đập, thuộc sở hữu của chính quyền tỉnh, tuyên bố hồ chứa của đập Mạn Loan sẽ hỗ trợ các trại nuôi cá và đưa các đoàn du khách đi du thuyền bên dưới những những ngọn đồi bậc thang xanh mướt và những đỉnh núi thấp ở thung lũng Thượng Mekong. Chính quyền địa phương đã đầu tư một cảng phía sau vách đập và thuyết phục một số dân địa phương giàu có mua vài du thuyền lớn phục vụ sự bùng nổ du lịch sắp tói. Cái giá duy nhất phải trả của dân làng này là một nửa các làng trong thung lũng, những làng có đất sản xuất nông nghiệp màu mỡ nhất dọc theo bờ sông, phải di dời 300 mét lên sườn đồi. Điều đó có nghĩa là 3.400 người, hơn một nửa cư dân thung lũng Mạn Loan, bị mất nhà cửa. Đầu những năm 2000, Tiến sĩ Yu Xiaogang (Vu Hiểu Cương), giám đốc của Green Watershed, một tổ chức phi chính phủ về môi trường ở Côn Minh, đến thăm những ngọn đồi phía trên hồ chứa và phát hiện hầu hết các hộ tái định cư đang sống trong tình trạng nghèo khó. Con đập bắt đầu sản xuất điện vào năm 1993 và gần mười năm sau không có trại nuôi cá nào trong hồ chứa mới và không có du khách nào dùng đến đội thuyền mới toanh giờ đã gỉ sét tại bến cảng Mạn Loan. Ông thấy nhiều dân tái định cư được chủ đập thuê dọn rác trên mặt hồ và rác thải tích tụ sau vách đập - công ăn việc làm mới duy nhất cho dân làng. Năm 2001, Tiến sĩ Yu kết luận dân làng tái định cư đã bị ăn chặn tiền đền bù và gửi báo cáo về phát hiện đáng quan ngại của ông đến các nơi quen biết trong chính quyền Bắc Kinh. Ngay sau đó, thủ tướng sắp mãn nhiệm Chu Dung Cơ ra lệnh đánh giá lại toàn diện các tác động xã hội và môi trường của dự án đập Mạn Loan, vào thời điểm đó là công trình phô diễn cho việc đầu tư vào các vùng lạc hậu của Trung Quốc. Green Watershed được thuê tiến hành đánh giá này. Thời đó chưa từng có tiền lệ một quan chức chính phủ ở những cấp cao nhất phản hồi kiến nghị của một tổ chức phi chính phủ địa phương. Chỉ vì đó được xem là vấn đề của tỉnh Vân Nam, và chính quyền tỉnh không dễ dàng chấp nhận yêu cầu của một tổ chức cộng đồng nhỏ bé, chẳng tiếng tăm gì. Để tiến hành đánh giá, Tiến sĩ Yu sử dụng các phương pháp hiện đại xác định và tính giá trị những gì đã bỏ sót trong quy trình ban đầu. Trước đây, dân làng sống dọc bờ sông có thể lấy nước sông để uống và tưới tiêu, hay họ có thể lấy nước từ những con suối nhỏ đổ ra sông. Đánh giá của Tiến sĩ Yu phát hiện ra việc tiếp cận nước sạch kém đi nhiều sau khi tái định cư. Ngoài ra, vùng đất cấp cho dân làng sau quá trình tái định cư kém màu mỡ hơn nhiều so với đất dọc bờ sông, thường được lũ lụt mùa mưa bồi đắp. Sau khi tái định cư, sản lượng nông nghiệp tệ hơn nhiều so với trước, do dân làng không có tiền để mua phân bón giữ cho đồng ruộng của họ tươi tốt. Ông nhận thấy sự thiếu gắn kết xã hội trong các cộng đồng tái định cư và lưu ý đến tỷ lệ mắc bệnh cao ở người già cũng như việc tăng đột biến các vấn đề tâm lý và bạo hành gia đình. Trước đây, dân làng trồng lúa và canh tác tập thể vì các đồng lúa liền nhau. Sống gần nhau đòi hỏi dân làng phải duy trì một hệ thống tưới tiêu chung, cung cấp nước cho tất cả mọi người. Giờ đây, đất được giao cho dân tái định cư rải rác trên các sườn đồi và địa hình khó tưới tiêu. Tiền di dời trả cho dân làng không đủ mua đất bằng phẳng để canh tác. Quan trọng hơn, Tiến sĩ Yu phát hiện ra công ty xây đập không di chuyển các đền thờ và nghĩa địa của làng cũng như không tạo điều kiện cho dân làng xây dựng lại những không gian vốn hết sức quan trọng với đời sống tâm linh của những người dân sắc tộc này. Dân làng cho biết họ không bao giờ được hỏi ý kiến về tầm quan trọng của các đền thờ tôn giáo của họ. Những địa điểm quan trọng đó đã bị ngập dưới nước và hủy hoại khi con đập bắt đầu hoạt động đầu những năm 1990. Khi việc tái đánh giá Mạn Loan kết thúc, nhóm của Tiến sĩ Yu kết luận để khôi phục sinh kế của dần tái định cư, cần thêm 13.000 nhân dân tệ (1.800 đô-la) cho mỗi dân làng. Nhóm nghiên cứu xác định công ty xây dựng đập cần cung cấp phương tiện để tưới tiêu, san đất và hỗ trợ kỹ thuật canh tác các loại cây trồng mới. Ngoài ra, việc đánh giá cũng phát hiện nhu cầu xây dựng các không gian xã hội như trường học và chợ. Theo yêu cầu của cuộc điều tra đặc biệt do chính quyền trung ương chỉ đạo, công ty xây dựng đập đã thực hiện các công việc bản đánh giá đưa ra. Kế sinh nhai của những người tái định cư dân dần phục hồi. Ngày nay, chạy xe qua những ngọn đồi dọc theo hồ chứa sẽ thấy những làng này đang phát triển ở mức độ khiêm tốn nhất, rất khó nhận ra sự khác biệt giữa các làng tái định cư và các làng đã ở đó cả 100 năm. Tuy nhiên, những lời hứa khác đã không được thực hiện theo kế hoạch. Toàn bộ hồ chứa với chiều dài 30km có chưa tới 5 trại cá. Ngay cả sau khi xây đường cao tốc có cầu bắc qua Thượng Mekong phía đầu hồ chứa, rất ít du khách dừng lại để tham quan nơi này. Ở hạ nguồn, phía sau vách đập, những chiếc du thuyền khổng lồ tiếp tục han gỉ và các đống rác thải tiếp tục đe dọa con đập. Khi tôi gặp Tiến sĩ Yu lần đầu tiên vào năm 2004, ông đang tìm cách lặp lại chuyện can thiệp thành công tại Mạn Loan vào các dự án tái định cư đang thực hiện và trong tương lai. Các tổ chức nước ngoài nhìn thấy ở Tiến sĩ Yu một chiến binh bảo vệ những người thấp cổ bé họng và đã tài trợ mạnh mẽ cho hoạt động của ông. Văn phòng của ông, lúc đó đặt bên trong Viện Khoa học Xã hội Vân Nam, có đội ngũ chuyên gia và tình nguyện viên đẳng cấp thế giới nhiệt tình tham gia sự nghiệp chính nghĩa này. Hè năm đó, Tiến sĩ Yu bận rộn đến nỗi tôi, một nghiên cứu sinh tầm thường, chỉ được gặp ông 20 phút. Đầu năm đó, chính phủ Trung Quốc công bố kế hoạch xây một dãy 13 đập công suất 17 gigawatt trên sông Nộ Giang chảy song song với sông Mekong bên phía tây của nó. Rìa phía tây của lưu vực sông Nộ Giang tạo thành biên giới giữa Vân Nam với Myanmar, và sau khi chảy ra khỏi Vân Nam vào trung tâm các bang Shan và Karen của Myanmar, nó được gọi là sông Salween. Lưu vực sông Nộ Giang là nơi sinh sống của một số nhóm sắc tộc, và vì thiên nhiên biệt lập của nó, ở đây có nhiều loài thực vật và động vật đặc hữu hơn bất kỳ lưu vực sông nào ở châu Á, làm cho nó trở thành điểm đa dạng sinh học quan trọng. Con đập nào ở lưu vực này cũng sẽ đe dọa hệ sinh thái lưu vực và việc xây một loạt 13 đập ở Vân Nam sẽ buộc phải di dời 45.000 dân. Đầu năm 2004, Huadian, công ty nhà nước xây đập Hydrolancang ở Thượng Mekong, đã đến thung lũng Nộ Giang quảng bá cái gọi là lợi ích của đập đối với các cộng đồng địa phương. Ngay sau đó, nhóm Tiến sĩ Yu nhanh chóng hành động cảnh tỉnh dân thung lũng Nộ Giang. Chiến thuật của ông là chở các nhóm dân làng ở Nộ Giang đến đập Mạn Loan dọc theo sông Mekong. Ở đó, ông sắp xếp cho những người dân tái định cư tại Mạn Loan kể về việc sinh kế của họ khốn đốn thế nào vì quá trình di dời. Dân làng Nộ Giang tức giận đến nỗi khi biết những lời hứa giả dối của Huadian chỉ là một chiến dịch tuyên truyền, thay vì trở về nhà họ đi tiếp lên Côn Minh - thủ phủ tỉnh, phát động một cuộc biểu tình bất ngờ bên ngoài trụ sở chính quyền. Cuộc biểu tình này một lần nữa thúc đẩy hành động từ cấp cao nhất chính phủ. Vài ngày sau cuộc biểu tình ở Côn Minh, Thủ tướng Ôn Gia Bảo tuyên bố đình chỉ toàn bộ loạt đập cho đến khi có những đánh giá kỹ hơn. Tiến sĩ Yu và nhóm của ông một lần nữa đã chiến thắng. Với hai thành công trên và một công thức đã qua thử thách để thành công trong đấu tranh cho quyển của người dân vùng cao Vân Nam, ông đã được trao các giải thưởng quốc tế. Năm 2006, ông nhận giải thưởng môi trường Goldman, và năm 2009 ông được trao giải thưởng Ramon Magsaysay, được nhiều người xem tương đương giải Nobel châu Á. Nhưng việc đình chỉ loạt đập trên sông Nộ Giang năm 2004 đã đánh dấu sự khởi đầu của một trận chiến khó khăn nhiều rủi ro đối với các tổ chức cộng đồng như Green Watershed trong việc đảm bảo quyền lợi và đền bù thỏa đáng cho người dân tái định cư. Các công ty thủy điện như Huadian và Hydrolancang đã cấu kết với các chính quyền tỉnh và huyện ở tây nam Trung Quốc tăng cường chiến thuật đe dọa và ép buộc các cộng đồng địa phương phải nhanh chóng chấp nhận đền bù tái định cư. Khi Tiến sĩ Yu cố gắng đưa ra các đánh giá tác động xã hội và môi trường công bằng, Green Watershed bị cắt hợp đồng thuê văn phòng không được báo trước và tổ chức này bị cấm nhận tài trợ nước ngoài. Sau khi nhận giải thưởng Magsaysay năm 2009, hộ chiếu của Tiến sĩ Yu bị chính quyền tỉnh thu hồi, ngăn ông xuất ngoại. Các gói kích cầu của chính quyền được đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã giúp các công ty xây dựng thủy điện hùng mạnh thuộc sở hữu nhà nước ở Trung Quốc có nhiều tiền và nguồn lực hơn để đảm bảo giấc mơ xây đập của họ không bị gián đoạn. Năm 2012, khi Tiến sĩ Yu và một nhóm nhà môi trường đi vào thung lũng sông Nhã Lung, một nhánh dài của sông Trường Giang, gặp đại diện của hơn 100.000 dân bị đuổi khỏi thung lũng này, họ thấy phần lớn dân làng đang trong tình trạng sợ hãi và sốc do quá trình di dời. Công an địa phương thông báo: những người chống lại việc xây đập sẽ bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc. Không ai nói cho dân làng ở thung lũng Nhã Lung về quyền lợi hợp pháp của họ. Do có nhiều công an xuất hiện, Tiến sĩ Yu và nhóm của ông không thể có được kết quả như khi đàm phán với công ty xây dựng đập hay chính quyền địa phương. Các nỗ lực huy động cộng đồng luôn bị cản trở triệt để. Kể từ đó, Tiến sĩ Yu chuyển sang các phương cách ít trực diện hơn để tác động đến việc xây dựng thủy điện ở phía tây nam Trung Quốc. “Vận động để xây thủy điện có sức mạnh gần như vô hạn ở cấp địa phương và nó trở nên quá mạnh ở Bắc Kinh”, Tiến sĩ Yu nói với tôi trong chuyến thăm Côn Minh gần đây. Nhóm lợi ích đặc biệt này có thể dễ dàng tác động đến các quan chức chính phủ cấp cao ở Bắc Kinh và vượt mặt các cơ quan hoạch định chính sách như Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia hay Bộ Sinh thái và Môi trường”. Ông kể với tôi chuyện các nhóm vận động hô hào phát triển năng lượng sạch để hỗ trợ phát triển kinh tế của Trung Quốc đồng thời tạo ra các chiến dịch đưa tin giả cho rằng việc phản đối xây đập là âm mưu của nước ngoài nhằm cản trở sự tiến bộ của Trung Quốc. Khi sức mạnh của việc vận động xây thủy điện tăng lên, không gian cho các tổ chức như Green Watershed hoạt động ở cấp cộng đồng tại Trung Quốc bị thu hẹp dần. Khi lên nắm quyền vào năm 2012, Tập Cận Bình đã công khai thừa nhận nhu cầu tăng cường sự tham gia của xã hội dân sự vào việc giải quyết các vấn đề quốc gia, đặc biệt những vấn đề liên quan đến suy thoái môi trường và sinh kế nông thôn. Tuy nhiên, vào năm 2014, chính quyền của ông đã ban hành luật đăng ký mới hạn chế mạnh mẽ các hoạt động và các kênh tài trợ cho các tổ chức phi chính phủ. Nhưng trong một bước ngoặt đáng ngạc nhiên, năm 2016, chính quyền tỉnh Vân Nam đã công bố lệnh cấm xây đập trên dòng chính sông Nộ Giang và tiết lộ kế hoạch phát triển thung lũng Nộ Giang cho du lịch đại trà[24]. Rõ ràng chính quyền Bắc Kinh đã lo ngại về trận động đất ở thung lũng Nộ Giang và lệnh cho chính quyền Vân Nam phải thay đổi các kế hoạch xây đập trên sông Nộ Giang. Lưu vực Nộ Giang chạy sát sông Mekong, nhưng cuộc tranh cãi về các quan ngại địa chấn không ngăn được việc xây đập. Nhiều người chỉ trích việc xây đập đã xem lệnh cấm xây đập trên sông Nộ Giang là dấu hiệu cho thấy nhóm vận động xây thủy điện đang thất thế ở Bắc Kinh. Nhưng nếu đúng như thế, lo ngại việc Bắc Kinh thắt chặt quy định về đập thủy điện trong tương lai có thể khiến các công ty xây dựng đập hùng mạnh như Hydrolancang bắt đầu xây các đập đã đề xuất. Ngày nay, dãy sáu đập khổng lồ trên Thượng Mekong ở Vân Nam đang hoạt động hết công suất. Đập Đại Triều Sơn 1.350 megawatt vận hành năm 2003, một thập niên sau đập Mạn Loan. Sau đó vào năm 2008, con đập ở xa nhất về phía nam ở Cảnh Hồng chỉ cách thủ phủ châu tự trị Tây Song Bản Nạp vài kilomét phía thượng nguồn đi vào hoạt động. Ngay sau khi con đập 1.750 megawatt này vận hành, kênh xả lũ của nó đã hai lần bị hư hại nghiêm trọng do các đợt xả nước mạnh trong mùa mưa. Năm 2011, đập Tiểu Loan 4.200 megawatt bắt đầu hoạt động. Là đập khổng lồ cao 292 mét, Tiểu Loan từng là đập cao thứ hai trên thế giới (tại thời điểm xuất bản sách này[25] nó đứng thứ ba). Hồ của nó chứa lượng nước tương đương một nửa vịnh Chesapeake. Hai trăm kilomét phía thượng nguồn, đập Công Quả Kiều 900 megawatt vận hành vào năm 2011 và cuối cùng là một đập khổng lồ khác ở Thượng Mekong, đập Nọa Trát Độ có công suất cực lớn 5.800 megawatt bắt đầu dẫn nước vào hồ chứa năm 2014 và không hoạt động hết công suất cho đến 2 năm sau. Hồ chứa Nọa Trát Độ cũng chứa một lượng nước tương đương một nửa vịnh Chesapeake, và hồ chứa của nó dài hơn 100km. Hơn 43.000 dân đã được tái định cư trong thập niên xây dựng Nọa Trát Độ. Phía trên những con đập này, công ty Hydrolancang đã hoàn thành hoặc đang xây dựng thêm 13 đập có công suất tương đối nhỏ hơn so với dãy đập trên Thượng Mekong, nhưng vẫn có thể chứa một lượng nước khổng lồ. Năm 2012, kế hoạch xây đập Guonian nằm dưới chân núi Kawagarbo đã bị hủy vì nó quá gần sông băng Minh Vĩnh. Việc xây đập trên Thượng Mekong của Trung Quốc vẫn tiếp tục, nhưng mức huy động công suất phát điện của các con đập hiện có trên sông Mekong vẫn còn rất thấp. Tỉnh Vân Nam hiện đang phung phí phần lớn thủy điện của nó do tắc nghẽn trên lưới điện quốc gia của Trung Quốc và nền kinh tế chính trị vẫn chuộng dùng than làm nguồn phát điện chính ở các tỉnh ven biển. Các doanh nghiệp lớn ở Quảng Đông, 22% điện năng của Vân Nam được bán ở đây, thà mua điện từ các nhà máy nhiệt điện ở Quảng Đông còn hơn là từ các đập thủy điện của Vân Nam. Dù gần đây có giảm, than vẫn sẽ chiếm hơn 60% sản lượng điện của Trung Quốc trong những thập niên tới. Điện than sử dụng nhiều lao động hơn các nhà máy thủy điện. Nếu quá nhiều điện từ Vân Nam được truyền đến Quảng Đông, hàng chục ngàn người sẽ thất nghiệp. Hơn nữa, Quảng Đông muốn thu lợi nhiều nhất từ các chính sách mới thúc đẩy các tiêu chuẩn sử dụng năng lượng hiệu quả của chính phủ. Vì thế, khi công suất thủy điện của Vân Nam tăng lên thì nhu cầu năng lượng của Quảng Đông lại đang dần đến mức ổn định. Điều đó khiến tỉnh Vân Nam lãng phí các lợi ích kinh tế và các con đập mang lại ít lợi ích cho chủ của chúng. Cụ thể, từ 2013 đến 2015, công suất thủy điện bị lãng phí ở tỉnh Vân Nam đã tăng 10 lần. Trong mùa mưa năm 2014, do lưới điện của Trung Quốc không thể tiếp nhận tất cả thủy điện phát từ các con đập ở Vân Nam, các công ty thủy điện như Hydrolancang mỗi ngày mất hơn 100 triệu nhân dân tệ (12 triệu đô-la)[26]. Năm 2016, các đập ở Vân Nam được cho là đã lãng phí 300 terawatt giờ điện. Trong cùng năm đó, Thái Lan tiêu thụ chỉ nửa số lượng đó. Sự thừa mứa điện năng đang thu hút các khách hàng mới đấu nối trực tiếp vào nguồn điện do những con đập hoạt động kém hiệu quả này tạo ra. Gần đây, các công ty khai thác tiền mã hóa (tiền ảo) đã đặt máy ở Thượng Mekong để tận dụng nguồn điện bẩn giá rẻ này. Tuy nhiên, quan ngại lớn hơn là sự phá vỡ thỏa thuận đã có hàng chục năm giữa Vân Nam và các tỉnh ven biển giữ cho Vân Nam sạch và xanh. Giờ đây các ngành công nghiệp nặng đang di chuyển từ các tỉnh ven biển lên Vân Nam để tiếp cận nguồn điện giá rẻ, và các quy định lỏng lẻo ở tỉnh Vân Nam cho phép các ngành này tự do gây ô nhiễm. Các công ty xây đập ở Trung Quốc, như các công ty dầu khí ngoài khơi của Trung Quốc, là các công ty năng lượng hùng mạnh nhất và giàu có nhất thế giới. Các công ty xây dựng này đang nhanh chóng mở rộng hoạt động ra nước ngoài, được thúc đẩy bởi nhu cầu toàn cầu về năng lượng “xanh” và tiếp cận nguồn tài chính lãi suất thấp từ các ngần hàng do chính phủ Trung Quốc bảo trợ. Do các tác động môi trường và xã hội bất lợi của các con đập lớn, các tổ chức tài chính đa phương như Ngân hàng Thế giới và Ngần hàng Phát triển Châu Á đã hạn chế việc cho vay hỗ trợ đối với các dự án xây đập trên toàn thế giới. Điều đó đã tạo cơ hội cho các tổ chức tài chính Trung Quốc vốn có tiêu chuẩn thấp hơn và thường cho vay nhằm có được sự ủng hộ chính trị, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Sẽ được nêu trong các chương sau, các công ty xây dựng đập Trung Quốc không chỉ là kẻ duy nhất xây đập ở Hạ Mekong, mà còn đứng đầu một nhóm công ty có các dự án đang dần bóp nghẹt hệ sinh thái sông Mekong và buộc hàng trăm nghìn người phải lìa xa quê cha đất tổ. 3 THUNG LŨNG NHĨ HẢI Đ ập Tiểu Loan 4.200 megawatt nằm ở hạ nguồn ngay dưới chỗ hợp dòng của sông Mekong và sông Dạng Tỵ chảy ra từ hồ Nhĩ Hải của Đại Lý. Năm 1946, một nhóm kỹ sư Mỹ và Trung Quốc đã xây dựng một trong những đập thủy điện đầu tiên của Trung Quốc tại vị trí ở giữa hồ Nhĩ Hải và chỗ hợp lưu của sông Dạng Tỵ với sông Mekong để phát điện cho thành phố Đại Lý, nhưng con đập đó đã ngưng hoạt động vào cuối thập niên trước, khi hồ chứa khổng lồ của đập Tiểu Loan bắt đầu tích nước. Ngày nay, những cái tên Đại Lý và Nhĩ Hải rất nổi tiếng trong công chúng Trung Quốc vì những địa phương này xuất hiện trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp cực kỳ nổi tiếng của tác giả Hồng Kông Kim Dung cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960[27]. Nhưng ít người ở Trung Quốc và các nước trong vùng biết hồ Nhĩ Hải thuộc lưu vực sông Mekong. Trước thế kỷ 20, thung lũng Nhĩ Hải, cũng như phần lớn Vân Nam, bị cô lập với phần còn lại của Trung Quốc. Chỉ có thể đến được đó bằng cách đi qua những con đèo uốn lượn quanh những ngọn núi cao nguy hiểm giúp cư dân thung lũng dễ dàng phòng vệ. Sự cô lập tương đối đó cùng với một đồng bằng màu mỡ mênh mông ở bờ tây hồ Nhĩ Hải đã góp phần vào sự phát triển của nhiều vương quốc độc lập đã nhiều lúc không chỉ thách thức sự bành trướng của các hoàng đế Trung Hoa mà ở đỉnh cao, còn tạo điều kiện cho một vương quốc vươn tầm kiểm soát đến tận Đông Nam Á. Vào thế kỷ thứ 8, các nhóm sắc tộc thống trị sống quanh thung lũng Nhĩ Hải cùng nhau thành lập Vương quốc Nam Chiếu và xây dựng một thành bang gần Đại Lý ngày nay. Thành công của những người dân vùng cao này trong việc hình thành một cấu trúc nhà nước thịnh vượng rõ ràng đã chỉ ra thiếu sót trong lý thuyết của James Scott cho rằng những người Zomia có xu hướng né tránh việc thành lập nhà nước, nhưng chúng ta có thể giả định một nhân tố quan trọng tạo nên thành công của người dân vùng cao là việc họ định cư dọc theo đồng bằng thung lũng Nhĩ Hải để trồng lúa. Điều đó giúp mang lại những vụ mùa bội thu tạo điều kiện cho Nam Chiếu xây dựng nền tảng của một cơ cấu cai trị rộng lớn hơn. Các ghi chép lịch sử từ thời Nam Chiếu rất ít ỏi và khó giải mã, nhưng ghi chép của các vương quốc xung quanh cho thấy vào thế kỷ thứ 9, Nam Chiếu đã mở rộng sâu vào vùng là Myanmar ngày nay, rồi đến tận Lào và Thái Lan. Cuối cùng, Nam Chiếu bành trướng về phía bắc chinh phục Thành Đô, thủ phủ của tỉnh Tứ Xuyên. Nằm ở ngã tư các tuyến đường giao thương giữa Trung Quốc và Ấn Độ, Nam Chiếu nổi lên như một trung tâm khu vực về nghiên cứu Phật giáo Mật tông, tông phái Phật giáo phức tạp nhất lúc đó. Phật giáo Mật tông có lẽ được truyền bá thông qua các liên minh mang tính giai đoạn với nước láng giềng Tây Tạng, nơi tôn giáo này được phát triển rộng rãi. Vào đầu thế kỷ thứ 10, Nam Chiếu đã mở rộng quá mức và cuối cùng hoàn toàn sụp đổ khi các thành viên chủ chốt của hoàng gia cai trị bị sát hại. Điều đó đã khiến dân chúng lũ lượt di cư ra khỏi thung lũng Nhĩ Hải. Ngày nay, các học giả cho rằng những người sáng lập các vương quốc theo thời gian tạo thành bản sắc dân tộc của Thái Lan, Lào, và Myanmar ngày nay được thành lập bởi những người chạy khỏi thung lũng Nhĩ Hải khi Nam Chiếu sụp đổ. Khi Nam Chiếu suy tàn, Đoàn Tư Bình, hậu duệ của Nam Chiếu, thành lập Vương quốc Đại Lý vào năm 937, đặt cho vùng này tên gọi vẫn còn đến ngày nay là Đại Lý. Vương quốc Đại Lý chưa bao giờ vươn xa như Nam Chiếu, nhưng sự thống trị của nó trên phần lớn Vân Nam giúp nó phát triển trong ba thế kỷ như một vương quốc độc lập và nổi lên là trung tâm giáo dục Phật giáo hàng đầu của châu Á. Các học giả xa tận Ba Tư và Ấn Độ đã đến tu học tại Sùng Thánh Tự nổi tiếng ở Đại Lý để nghiên cứu Phật giáo Mật tông. Những người hành hương đi từ xa đến thung lũng Nhĩ Hải hành lễ tại các địa điểm kỷ niệm cuộc đời của Đức Phật lịch sử, Tất đạt-đa Cồ-đàm, dọc theo chiều dài 140km bên bờ hồ này. Ngày nay, ba ngôi chùa Đại Lý xây lại dưới chân Sùng Thánh Tự, cùng với bức tường thành cổ, là những công trình kiến trúc duy nhất thời đó còn lại trong thành phố này. Trong thập niên vừa qua, ngoài Sùng Thánh Tự, cơ quan quản lý du lịch Đại Lý còn phục dựng lại các điểm Phật giáo cổ xưa dọc theo bờ hồ Nhĩ Hải. Vào thế kỷ 13, quân đội Mông Cổ của Hốt Tất Liệt đánh bại Vương quốc Đại Lý và thành lập một đơn vị hành chính chính thức của Đế quốc Mông Cổ là Vân Nam. Đây là lần đầu tiên tên Vân Nam xuất hiện trên bản đồ. Truyền thuyết nói rằng quân Mông Cổ xâm lược được một tên phản bội dẫn qua con đường bí mật trên núi Thương Sơn và kết liễu Vương quốc Đại Lý. Tuy nhiên, rất có thể vị vua họ Đoàn cuối cùng đã đầu hàng trực tiếp với Kim Trướng Hãn Quốc khi ông được trao chức tỉnh trưởng đầu tiên của Vân Nam. Người Mông Cổ đầu tiên cai trị Đại Lý là Hoàng tử Hugeshi, một tín đồ Hồi giáo lãnh đạo đội quân ở Đại Lý có binh lính hầu hết tuyển từ các vùng Hồi giáo của Đế quốc Mông Cổ. Sự dịch chuyển nhân khẩu học này đánh dấu việc chuyển đổi từ Phật giáo sang Hồi giáo ở thung lũng Nhĩ Hải. Làn sóng những người nhập cư Hồi giáo bắt đầu thống trị các tuyến thương mại của khu vực này. Tỉnh trưởng Hồi giáo nổi tiếng nhất của Đại Lý là Sayyid Ajall Shams Din-Omar từng đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau trong lãnh thổ Ba Tư của Đế quốc Mông Cổ và được cho là sinh ra ở Cairo. Đến năm 1257, Sayyid Ajall chuyển đổi thành công nền kinh tế nông nghiệp của Vân Nam và bất chấp việc là tín đồ Hồi giáo ông đã du nhập các thiết chế giáo dục Nho giáo và thờ phụng của người Hán vào Vân Nam. Học giả Myanmar Thant Myint U trong cuốn sách năm 2011 Where China Meets India (Nơi Trung Hoa gặp Ấn Độ) mô tả thời kỳ người Mông Cổ ở Đại Lý là khởi đầu của quá trình hội nhập chậm chạp Đại Lý vào Trung Hoa của người Hán[28]. Ngày nay, người Hồi giáo Vân Nam tôn kính Sayyid Ajall như người cha lập quốc. Khi Đế quốc Mông Cổ sụp đổ và triều đình nhà Minh trỗi dậy vào thế kỷ 13, trung tâm kiểm soát chính trị ở Vân Nam chuyển từ Đại Lý về Côn Minh. Tuy nhiên, sự cô lập của nó lần nữa chứng minh Đại Lý là một địa phương gai góc khi vào cuối thế kỷ 19, một thương nhân Hồi giáo ở đây tên là Đỗ Văn Tú lãnh đạo cuộc nổi dậy Vân Nam Hồi Biến chống lại triều đại nhà Thanh mục nát và thành lập một vương quốc Hồi giáo độc lập. Đỗ Văn Tú cai trị yên ổn thung lũng Nhĩ Hải và một vùng rộng lớn của tỉnh Vân Nam trong gần hai thập niên. Khi các nhà thám hiểm Pháp De Lagree và Garnier ngược dòng Mekong trong chuyến thám hiểm thất bại nhằm tìm một tuyến đường sông đi vào Trung Quốc, đến gần cổng thành Đại Lý vào năm 1868, họ thấy mình lạc vào một thủ phủ quốc tế, thương mại nhộn nhịp với bộ máy cai trị hiệu quả. Cuộc nổi dậy Vân Nam Hồi Biến cuối cùng bị dập tắt khi quân Thanh tấn công Đại Lý vào năm 1872. Lính Anh liên minh với nhà Thanh đánh bại cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc ở miền Trung Trung Hoa đã cùng với đội quân pháo binh của nhà Thanh vây quanh thành. Đỗ Văn Tú đầu hàng với hy vọng triều đình nhà Thanh sẽ tha cho những người trung thành với ông, nhưng ông phải uống thuốc độc. Quân đội nhà Thanh chặt đầu Đỗ và mang đến Bắc Kinh trong một chum mật ong để chứng minh cuộc nổi loạn đã bị dẹp tan. Sau đó, quân Thanh quay súng vào thành phố và đuổi dân ra khỏi thung lũng. Hàng ngàn người không trốn được đã bị đẩy xuống hồ chết đuối. Thất bại nặng nề của cuộc nổi dậy Vân Nam Hồi Biến và Thái Bình Thiên Quốc quy mô lớn, cùng với một số cuộc nổi loạn nhỏ khác ở miền Nam Trung Quốc trong thế kỷ 19 đã gây ra những làn sóng người di cư tìm nơi ẩn náu sâu hơn trong vùng Zomia. Nhiều người chạy qua các thung lũng sâu của sông Mekong vào bán đảo Đông Nam Á. Những người khác chạy về phía tây đến Myanmar, nơi người Hồi giáo Trung Quốc ngày nay được gọi là người Phan Thái (Panthay). Hiện nay ngôi nhà của Đỗ Văn Tú là một địa điểm nổi tiếng trong tuyến du lịch tham quan Đại Lý Cổ Thành, và tấm biển ở lối vào viết Đỗ Văn Tú là một anh hùng được chính thức công nhận đã chiến đấu chống lại quân Thanh xâm lược vốn là một thách thức ngoại bang đối với nền văn minh Hán. Nhưng tấm biển này xem nhẹ khuynh hướng lịch sử muốn tách khỏi nhà nước Trung Hoa của Đại Lý. *** Di sản lịch sử phong phú của Đại Lý, cảnh quan tuyệt đẹp của núi Thương Sơn xanh tươi tạo thành đường biên phía tây của thung lũng Nhĩ Hải, và làn nước trong xanh của hồ Nhĩ Hải hiện mỗi năm thu hút hơn 20 triệu du khách đến Đại Lý Cổ Thành. So với Angkor Wat, được cho là địa điểm thu hút du khách nổi tiếng nhất ở sông Mekong, mỗi năm đón chưa đầy 3 triệu du khách. Ở nhiều mặt, Đại Lý Cổ Thành là điểm đón nhiều du khách nhất trong lưu vực sông Mekong. Tương tự Vũ Băng, dòng người từ nơi khác đến đang làm thay đổi bản sắc địa phương và khiến vùng hồ Nhĩ Hải, hồ lớn thứ hai của sông Mekong, lâm nguy. Năm 1999, khi tôi lần đầu tiên đến thung lũng Nhĩ Hải sau chuyến xe buýt dài 10 giờ từ Côn Minh chạy qua đường núi quanh co, Đại Lý là một thị trấn im lìm chủ yếu đón những người thích rong ruổi xem nơi này là điểm dừng chân cực bắc trong các chuyến du lịch ba lô ở Đông Nam Á. Lúc đó Trung Quốc vẫn bị xếp là một trong những nền kinh tế nghèo nhất thế giới, với GDP bình quân đầu người 800 đô-la, thấp hơn tám lần so với hiện nay, và rất ít người Hán có thời gian, tiền bạc cho một chuyến đi đến tỉnh Vân Nam. Nhiều người Trung Quốc mạo hiểm đến Đại Lý là những nghệ sĩ trẻ muốn lánh khỏi những vùng đang đô thị hóa nhanh chóng ở phía bắc Trung Quốc và tìm nguồn cảm hứng ở vùng đất Đại Lý thần tiên. Trên hết, những tác phẩm của Kim Dung đã miêu tả vùng này tràn ngập những điều ảo diệu và các kỳ quan thiên nhiên. Những người Hán chuyển đến đây sống dựng nên các xưởng nghệ thuật, các quán cà phê và nhà nghỉ nhắm đến một cuộc sống mới bên trong Cổ Thành. Du lịch không phải là thú giải trí duy nhất trong thị trấn. Cổ Thành có đủ mọi thứ người ta hình dung ở một thị trấn của Vân Nam: trường học, bệnh viện, chợ, sở chỉ huy quân sự địa phương, chùa chiền Phật giáo, thậm chí một nhà thờ Công giáo. Các công ty địa phương khai thác đá cẩm thạch giá trị cao từ núi Thương Sơn và vài hợp tác xã của phụ nữ sản xuất vải nhuộm nghệ thuật. Cả hai sản phẩm này được bán ở các chợ khắp Trung Quốc và các hợp tác xã nhuộm nghệ thuật thường giành được các giải thưởng khu vực và thế giới như là các ví dụ điển hình về doanh nghiệp nhỏ. Kỹ thuật chế tác bạc của Đại Lý cũng nổi tiếng khắp Trung Quốc. Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, trên những con đường lát đá cuội ở Cổ Thành, người ta vẫn có thể thấy những phụ nữ trung niên người Bạch mặc đồ trắng với áo ngoài thêu rất công phu, đầu quấn khăn đỏ trắng có sợi len đen ở giữa. Họ đang đi chợ về hay ngồi trước quẩy hàng của họ bàn tán những tin tức mới nhất của thị trấn. Nhiều người cũng đã lợi dụng tính cách phóng túng của du khách ba lô phương Tây và bắt đầu bán rong cần sa trên phố người nước ngoài “Dương Nhân Nhai”. Khi nhấm nháp cà phê ở quán ngoài trời, chắc chắn một bà già sẽ đến gần và thì thầm “ganja ganja” (cần sa) vào tai khách. Khách đến thăm Vân Nam thời nay sẽ luôn tình cờ gặp một cư dân địa phương đâu đó trên đường nhắc nhở du khách rằng ở Vân Nam “thiên cao, hoàng đế viễn”, và buôn bán cần sa ở đây là dấu hiệu thiếu sự kiểm soát của Bắc Kinh tại vùng biên Trung Quốc. Thời đó, hầu hết đàn ông trung niên và cao tuổi vẫn mặc bộ đồ zhongshan (trung sơn) màu xanh thường được gọi là bộ đồ Mao. Kiểu mặc này cũng phổ biến ở hầu hết các địa phương khác của Trung Quốc. Một số thiếu nữ đội mũ hình mặt trăng dệt bằng sợi trắng có vành thêu - một dải tua gắn bên phải để những người tìm vợ biết họ chưa kết hôn. Những người bán dạo rushan (nhũ phiến), đặc sản địa phương làm bằng phô mai chiên giòn quấn quanh một cái que, đứng bán ở các ngã tư lớn. Một trong những kỷ niệm đẹp nhất của tôi về Đại Lý là lần gặp ông He Liyi, một người Đại Lý lớn tuổi biết tiếng Anh và gần đây đã viết xong một cuốn sách bằng tiếng Anh có tựa Mr. China's Son nêu chi tiết mối quan hệ của ông với đội Phi Hổ, một nhóm phi công Mỹ đóng khắp miền Đông vùng Raj (Ấn Độ) thuộc Anh và vùng tây nam Trung Quốc trong Thế chiến II[29]. Cuốn sách cũng nêu chi tiết cách ông và Đại Lý sống sót qua cuộc Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc. Sau vài lần xuất bản, cuốn Mr. China's Son đã thu hút nhiều du khách nước ngoài đến Đại Lý. Văn hóa đầy cảm hứng của Đại Lý đã thu hút nhà văn và doanh nhân người Mỹ Colin Flahive đến đây vào năm 2002. Dù ông không ở lại lâu và đã quyết định mở quán Salvadors Coffee House rất thành công ở Côn Minh với một nhóm bạn, Flahive đã hồi tưởng sự quyến rũ của Đại Lý trong hồi ký Great Leaps. Ông viết, “Đại Lý có loại bùa mê khiến bạn muốn mỗi ngày ngồi ở một quán cà phê khác nhau và viết cuốn tiểu thuyết bạn chưa từng có thời gian để bắt đầu. Đó cũng là một nơi đáng ở, mua một con chó, để vài kiểu tóc tết và ngày ngày say sưa bập bùng guitar”[30]. Vào năm 1999, một chiều tản bộ ngay ngoài cổng phía nam thị trấn cổ, tôi tình cờ thấy một số người lao động trẻ tuổi xếp hàng dài hàng trăm thước trước các quầy hàng thiết kế đơn điệu. Là một sinh viên đang tò mò muốn biết tương lai của Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào trong thế kỷ mới, tôi cứ mong Đại Lý mãi mãi giữ nguyên như thế. Vì hiện rất ít người đến sống ở Đại Lý, tôi hỏi một công nhân các tòa nhà được xây để dùng vào việc gì, chúng chẳng giống chút nào với các công trình kiến trúc đá độc đáo bên trong Cổ Thành. “Có thể là cửa hàng, cũng có thể là nhà nghỉ, hay quán ăn”, anh ta trả lời. Tôi phản bác bằng nhận xét số du khách ít ỏi đến Đại Lý thích ở bên trong tường thành của Cổ Thành, câu trả lời của chàng trai trẻ giống câu trả lời tôi nghe nhiều lần từ hầu hết những người tôi gặp trong thập niên sau đó ở Trung Quốc. “Kinh tế Trung Quốc đang tăng tốc - mọi thứ sẽ thay đổi.” Năm 1999, tuyến đường sắt từ Côn Minh đến Đại Lý hoàn thành. Đầu những năm 2000, một đường cao tốc mới nối với Côn Minh giảm thời gian 10 tiếng lái xe chuyến đi năm 1999 của tôi xuống còn một nửa. Sự thuận tiện này khiến việc quay lại Đại Lý trở nên dễ dàng. Tôi đã đưa những người bạn thân nhất từ Mỹ qua đến đó, sau đó tôi đưa vợ tương lai của tôi, vài nhóm sinh viên Mỹ, và cuối cùng vào năm 2009, tôi đưa cha mẹ tôi đến Đại Lý trong chuyến đi đầu tiên của họ ra khỏi nước Mỹ. Trong thập niên đó, khi thu nhập tiếp tục tăng, các chuyến thăm của du khách đến Đại Lý thanh bình hằng năm tăng lên nhanh chóng. Năm 2003, Fang Lijun, một trong những họa sĩ hiện đại nổi tiếng nhất Trung Quốc có tác phẩm hiện bán với giá kỷ lục toàn cầu, mua một mảnh đất nhỏ bên trong rìa tây nam của Đại Lý Cổ Thành. Ở đó, ông xây một xưởng vẽ và nhà nghỉ có phong cách thiết kế kết hợp kiến trúc sắc tộc Bạch cổ xưa với cảm xúc hiện đại, công nghiệp. Ở chính giữa sân là hồ cá koi được che một phần với cấu trúc kính và sàn trong suốt. Phong cách kiến trúc độc đáo táo bạo. Khi lần đầu tiên ở lại đó vào năm 2004, cũng như nhiều người kinh hãi bởi những gì tầng lớp giàu có mới nổi ở Trung Quốc đang làm với tiền bạc của họ, tôi chưa từng thấy bất cứ điều gì giống thế ở Trung Quốc. Fang thuê một người Bạch địa phương tên Shi Laoshan giúp xây nhà nghỉ và giữ anh ta làm cho mình từ đó đến nay. Về sau, gần như năm nào tôi cũng đến nhà nghỉ này, có gặp Fang Lijun vài lần, nhưng quan trọng hơn là đã thành bạn bè thân thiết với Shi Laoshan hiện đang ở tuổi trung niên. Là dân Đại Lý Cổ Thành chính gốc, sở thích của Shi là hoàn thiện các tư thế nghỉ trưa của mình, vốn kéo dài đến chiều tối. Chợp mắt một chút vào ban ngày trở nên khó khăn với Shi hơn vào khoảng năm 2007, khi các công ty xây dựng bắt đầu đập phá toàn bộ các khu nhà trong Cổ Thành để xây dựng những bản sao các công trình kiến trúc cổ kiểu như Võ Miếu ngay cuối con phố có nhà nghỉ của Fang. Võ Miếu và nhiều công trình kiến trúc tương tự đã bị phá hủy trong những năm 1960 thời Cách mạng Văn hóa. Nhưng khi du khách có xu hướng muốn trải nghiệm Trung Hoa trước đây, đặc biệt muốn tìm về lịch sử cổ xưa của Đại Lý, các bản sao của Võ Miếu và Sùng Thánh Tự được tái tạo khắp thung lũng này. Ngày nay, những du khách Trung Quốc thường đến Đại Lý không phải là những người muốn nghỉ ngơi trong các quán cà phê và xưởng vẽ, mà muốn được xe buýt đưa đến rồi ngồi trên những chiếc xe dài thường dùng trong sân golf chở quanh Cổ Thành. Hướng dẫn viên du lịch huyên thuyên lịch sử Đại Lý qua loa gắn trên xe. Hay các nhóm du khách được các hướng dẫn viên cầm loa dẫn đi bộ nhanh qua các ngõ hẻm của Đại Lý. Họ ghé thăm các địa điểm như nhà của Đỗ Văn Tú trong vài phút và tạo dáng chụp ảnh trước khi được dẫn đến địa điểm tiếp theo. Các đền chùa Nam Chiếu được phục dựng ở Đại Lý Cổ Thành và các điểm hành hương Phật giáo quanh hồ đáp ứng nhu cầu du lịch của những du khách đi về trong ngày không nghỉ lại qua đêm. Tuy nhiên, những dòng du khách ồn ào giờ đi ngang qua nhà nghỉ của Fang đã quấy rầy sở thích của Shi cũng như mong muốn thư giãn của khách nghỉ ở đây. Buổi tối âm thanh ầm ầm từ một dãy 20 hộp đêm trong con hẻm bên cạnh ầm ĩ nhạc sống tràn vào các nhà nghỉ. Shi Laoshan nói nhà nghỉ vẫn có rất nhiều khách, nhưng “những người năm nào cũng đến nói rằng cảm xúc tự do trước đây không còn nữa. Có quá nhiều người ở Cổ Thành. Giờ nhiều người chọn trọ ở các nhà nghỉ dọc bờ hồ Nhĩ Hải. Họ muốn một nơi yên tĩnh”. Ngành du lịch mang lại nhiều nguồn thu nhập mới cho Đại Lý và đã giúp gần như toàn bộ cư dân Đại Lý thoát nghèo. Nhiều người đã rời Cổ Thành, cho những người mới đến như Fang Lijun thuê nhà. Trong chuyến đến Đại Lý gần nhất vào cuối năm 2015, tôi gặp người bạn cũ, Ahzhao, người gốc Đại Lý đã thúc đẩy thành công làn sóng du lịch nơi đây. Ahzhao là người sắc tộc Bạch, và anh bắt đầu làm việc trong ngành du lịch vào năm 2005, bán vé xe buýt và lái cabin cáp treo lên xuống núi ngay phía nam thành cổ. Năm 2009, anh và vợ vay tiền của người thân mua một trong những căn nhà xây bình thường mà tôi đã thấy ngay bên ngoài thành cổ năm 1999. Gia đình anh biến nó thành một nhà nghỉ và nhà hàng hiện nổi tiếng với món xúp làm từ cá chép đánh bắt ở hồ Nhĩ Hải và món chân giò lợn kho tộ nổi tiếng khắp thung lũng Nhĩ Hải. Quy định địa phương yêu cầu anh sơn trắng khu nhà và trang trí phần trên bên ngoài các bức tường với cảnh Cổ Thành, hồ Nhĩ Hải, và núi Thương Sơn. Tự hào về truyền thống sắc tộc Bạch, Ahzhao cũng đưa kiến trúc Bạch xưa vào trong nhà nghỉ. Trong chuyến đi đó, tôi và Ahzhao ngồi uống trà trò chuyện về tác động của du lịch đối với Đại Lý. Anh lưu ý nhiều chủ doanh nghiệp từ các tỉnh khác đến kiểm soát phần lớn ngành du lịch Đại Lý chỉ tuân thủ những yêu cầu tối thiểu bảo tôn vẻ ngoài của kiến trúc Bạch. Điều đó làm phai nhạt các giá trị văn hóa bản địa. “Chúng ta không thể tìm ra một nhà hàng Bạch tốt ở Cổ Thành nữa”, anh nhận xét, và tôi hoàn toàn đồng ý. “Mười năm trước, chúng tôi chào đón tất cả những thứ mới mẻ này vì chúng tôi chưa từng nhìn thấy chúng, nhưng giờ chúng tôi cần phải tự hào về di sản và truyền thống của chúng tôi.” Anh than thở về đám nhà hàng lởm khởm, quán xá ồn ào trên đường phố Đại Lý, cùng những dãy cửa hàng bán trống Congo, đồ trang sức linh tinh lấn át các sản phẩm thủ công độc đáo của văn hóa Bạch. Tuy thế, vẫn có thể tìm thấy các thợ bạc và những người bán rong quần áo nhuộm nghệ thuật, đồ mỹ nghệ treo tường, nhưng họ thường bị chìm khuất trong đống cửa hàng bán đồ lưu niệm rẻ tiền sản xuất tại các xưởng ở tỉnh Quảng Đông xa xôi. “Nếu chúng tôi đánh mất di sản của mình, Đại Lý sẽ chỉ là nơi nổi tiếng về cảnh quan tuyệt đẹp của nó”, Ahzhao nói. Giống Shi Laoshan, anh kể chuyện nhiều du khách chọn ở tại các nhà nghỉ dọc theo bờ hồ cách Cổ Thành vài kilomét. Anh cho biết một số nhà nghỉ nhìn ra hồ cho thuê phòng với giá cắt cổ. Một số phòng ở phía bên kia hồ có thể nhìn toàn cảnh hồ và núi Thương Sơn tuyết phủ hiện cho thuê với giá một đêm hơn 3.000 nhân dân tệ (500 đô-la). Anh nói hiện có một dòng du khách thành phố giàu có thường xuyên đặt kín những phòng này. Trước khi chia tay, Ahzhao nói đến một thách thức khác đối với tương lai của Đại Lý Cổ Thành, một thách thức lớn hơn hết thảy: quản lý nước. “Tháng 3 và tháng 4 nào thành phố cũng hết nước. Anh không thấy chuyện này được đề cập trên mạng, nhưng du khách đến vào mùa xuân thường không được tắm rửa trong nhiều ngày. Tất nhiên họ không ở lại lâu.” Anh cũng nhận xét vì sao mùa xuân Đại Lý ấm hơn bình thường và thung lũng giờ ít mưa hơn. “Khi không còn tuyết tan từ núi Thương Sơn, và những con suối cạn khô, nước hồ được bơm để tưới cho đồng ruộng ven hồ, nhưng người không dùng được nước đó.” Ahzhao kể khi anh còn nhỏ, các con suối từ Thương Sơn chảy qua Cổ Thành đầy nước quanh năm. Giờ một cơ sở sản xuất nước uống đã đóng chai gần hết nước ở đó để bán tại các chợ vùng này trước khi nước chảy đến Cổ Thành. Ngoài ra, sự phát triển không ngừng khu nhà sang trọng nhìn ra hồ từ phía sườn thấp của núi Thương Sơn đã làm đổi hướng dòng nước trước đây chảy đến Cổ Thành và các khu vực thấp hơn. “Hầu hết khách sạn giờ đào giếng lấy nước ngầm, nhưng nước cũng bắt đầu cạn kiệt. Một vài khách sạn còn có cả tắm hơi! Khi còn nhỏ chúng tôi chưa từng thấy tắm hơi ở Đại Lý”, Ahzhao nói. *** Đồng bằng phì nhiêu dài 40km nằm giữa hồ Nhĩ Hải và 18 đỉnh của núi Thương Sơn này có thể nuôi sống một vương quốc cổ, nhưng đáp ứng nhu cầu hiện nay của hàng chục triệu du khách mỗi năm đòi hỏi một lượng lớn phân bón, thuốc trừ sâu và nước. Số du khách này làm phát sinh lượng nước thải cực lớn. Nước thải đó, cùng với phân bón, thuốc trừ sâu và chất thải động vật, tất cả chảy vào hồ, đe dọa hệ sinh thái của hồ Nhĩ Hải. Sau nhiều thập niên ưu tiên giảm nghèo và hàng tỷ nhân dân tệ đổ vào các chính sách quản lý nước thất bại, tương lai hồ này hết sức nguy ngập. Năm 2001, chính quyền Đại Lý nhận thấy họ gặp vấn đề khi phải mất hơn hai năm để chấm dứt tình trạng tảo sinh sôi liên tục. Trong những tháng hè, loài tảo này đe dọa chất lượng nước và đời sống thủy sinh trong hồ. Một thập niên trước tình trạng thâm canh trên đồng bằng phì nhiêu """