"Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại - Jodi Picoult & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại - Jodi Picoult & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup Jodi Picoult Những Điều Nhỏ Bé Vĩ Đại Trương Hoàng Uyên Phương dịch Phát hành: NXB Trẻ 2019 Dành tặng Kevin Ferreira, Nhờ có những ý tưởng và hành động của con mà thế giới này sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Con đã giúp cô nhận ra rằng tất cả chúng ta đều là tác phẩm đang trong quá trình hoàn thiện. Mừng con trở thành một phần của gia đình mình. giai đoạn một Chuyển dạ (pha tiềm tàng) “Công lý không thể được thực thi khi mà kẻ vô can còn chưa phẫn nộ như người bị hại.” —Benjamin Franklin Ruth Phép màu xảy ra tại nhà số 74 phố Tây Thượng Manhattan, chỗ má tôi làm việc. Đó là một tòa nhà đồ sộ ốp đá cát nâu có cổng sắt rèn, hai bên cánh cửa cầu kỳ là miệng máng xối hình đầu thú, bộ mặt đá granite của chúng như được tạc từ những cơn ác mộng của tôi. Chúng làm tôi khiếp hãi, nên tôi không ngại khi chúng tôi luôn phải vào nhà qua lối cửa hồng kém uy nghi, chìa khóa cửa được má buộc ruy băng giữ trong ví. Má đã giúp việc cho Sam Hallowell và gia đình ông từ trước khi chị em tôi có mặt trên đời. Bạn có thể không biết cái tên này, nhưng chỉ cần ông ấy cất giọng chào là bạn nhận ra ngay. Không lẫn vào đâu được, đó là giọng nói mà hồi giữa thập niên 1960, cứ mở đài lên là bạn nghe nó thông báo: Tiếp theo mời các bạn theo dõi một chương trình sống động đây màu sắc do NBC mang lại! Vào năm 1976, khi phép màu xảy ra, ông Hallowell đang là giám đốc sản xuất chương trình của đài này. Cái chuông bên dưới đám đầu thú chính là tiếng nhạc hiệu ba nốt nổi tiếng mà ai nghe cũng liên tưởng ngay tới NBC. Thỉnh thoảng, trong lúc theo má đi làm, tôi lại len lén ra ngoài, bấm chuông và ngâm nga theo giai điệu đó. Hôm ấy, chị em tôi theo má vì trời đổ tuyết. Trường học đóng cửa, mà bọn tôi còn quá nhỏ để ở nhà một mình lúc má đi làm - bà cứ xăm xăm đi, băng qua tuyết, mưa đá và có lẽ cả động đất cùng tận thế. Vừa tròng lên người chúng tôi nào ủng nào áo khoác, bà vừa lẩm bẩm, có phải vượt bão tuyết cũng chẳng xá gì, nhưng lạy Chúa đừng để cô Mina phải tự phết bơ đậu phông lên lát bánh sandwich của cổ. Thực ra, tôi nhớ má chỉ nghỉ việc một lần duy nhất vào 25 năm sau đó, khi bà phải thay toàn bộ khớp háng, viện phí do nhà Hallowell hào phóng trả. Bà ở nhà một tuần, chưa khỏe hẳn đã nằng nặc đi làm lại, cô Mina đành tìm cho bà vài việc không phải động chân. Thế nhưng lúc tôi còn nhỏ, trong những kỳ nghỉ, giữa cơn sốt ngầy ngật hay ngày tuyết phủ như hôm ấy, má sẽ đưa chị em tôi lên chuyến tàu B xuống phố. Hôm ấy nhằm vào tuần lễ ông Hallowell đi California, không có ở nhà - ông thì cứ đi suốt, mà thế thì cô Mina và Christina còn cần má nhiều hơn. Chị Rachel với tôi cũng cần má chứ, nhưng hẳn là chúng tôi tự chăm sóc cho mình tốt hơn cô Mina. Khi mẹ con tôi ra đến phố 72, thế giới đã ngập trong một màu trắng xóa. Một quả cầu tuyết chụp lên cả khu Manhattan. Gương mặt những người đàn ông và phụ nữ run rẩy vượt bão táp đi làm trông chẳng có chút gì giống tôi, anh chị em họ hay hàng xóm của tôi. Tôi chưa từng đặt chân vào ngôi nhà nào ở Manhattan ngoài nhà Hallowell, nên chẳng biết chuyện một gia đình có riêng một cơ ngơi đổ sộ thế này thì khác thường đến mức nào. Nhưng tôi nhớ mình đã thấy thật vô lý khi Rachel và tôi phải nhét áo với ủng vào cái buồng tin hin, chật ních trong bếp, trong khi chỗ Christina và cô Mina treo áo khoác bên cửa chính thì còn bao nhiêu là móc và khoảng trống. Má cũng cất đi áo khoác và khăn choàng may mắn - cái khăn mềm ơi là mềm, lại có mùi má. Ở nhà, chị Rachel với tôi thường tranh nhau khoác nó, cảm giác cứ như được vỗ về một chú chuột lang hay chú thỏ trong tay. Tôi chờ má lướt qua những căn phòng tối om như nàng tiên Tinkerbell, đáp lại trên từng cái công tắc, nắm đấm cửa hay tay vịn, để con quái thú đang say ngủ là ngôi nhà từ từ rùng mình tỉnh giấc. “Hai đứa im lặng nhé,” má bảo chị em tôi, “rồi má sẽ làm cho mấy đứa con chút chocolate nóng của cô chủ Mina.” Cái món ấy là hàng nhập từ Paris, và nó có vị tựa thiên đường. Thế nên trong khi má buộc lên người tạp dề trắng, tôi lấy một tờ giấy từ tủ bếp và hộp bút màu mang theo từ nhà, bắt đầu ngôi im vẽ. Tôi phác một ngôi nhà to ngang tòa nhà Hallowell. Tôi đặt vào đó một gia đình: tôi, má, chị Rachel. Tôi thử vẽ tuyết, nhưng không ra gì hết. Bông tuyết nguệch ngoạc bằng bút trắng chìm nghỉm trên tờ giấy. Cách duy nhất để thấy chúng là nghiêng giấy về phía ánh đèn chùm, có thế tôi mới thấy vệt sáng lờ mờ bút màu đã vạch nên. “Tụi con chơi với Christina được không?” chị Rachel hỏi. Christina mới lên sáu, lọt đúng vào giữa tuổi Rachel với tuổi tôi. Christina có cái phòng ngủ lớn nhất tôi từng thấy và nhiều đồ chơi hơn tất cả những người tôi biết. Nếu chị ấy có ở nhà đúng lúc Rachel với tôi theo mẹ đi làm, bọn tôi sẽ chơi trò cô giáo dạy học cùng lũ gấu bông của chị, uống nước từ những chiếc tách tí hon bằng sứ Trung Hoa thực thụ và đánh bím mái tóc lụa óng vàng cho bầy đoàn búp bê cũng của chị ấy nốt. Nhằm bữa Christina có bạn đến nhà, chị em tôi sẽ ở yên trong bếp mà tô tô vẽ vẽ. Trước khi má kịp trả lời, có ai đó thét váng lên, tiếng thét chói lói và khản đặc như xuyên thấu ngực tôi. Tôi biết nó cũng tác động đến má tôi y hệt, vì bà suýt đánh rơi ấm nước đang mang lại chỗ bồn. “Ở yên đây,” bà dặn, giọng nói rớt lại phía sau khi bà hấp tấp chạy lên lầu. Rachel là người đầu tiên bật ra khỏi ghế; chị ấy không phải kiểu bảo sao nghe vậy. Tôi bị cuốn theo, như một quả bóng bay bị buộc vào tay chị. Bàn tay tôi lướt trên lan can cầu thang uốn lượn, không dám chạm vào. Cửa phòng ngủ của cô Mina mở toang, cô đang quằn quại trên giường, giữa vũng lầy satin khăn trải. Bụng cô căng phồng, tròn như mặt trăng; tia sáng trắng trong mắt cô làm tôi hên tưởng tới lũ ngựa trên vòng đu quay, đông cứng trong khi trốn chạy. “Sớm quá, Lou à,” cô hổn hển. “Cô đi mà nói với đứa bé này này,” má đáp lại. Cô Mina ghì cứng tay má như kẻ chết đuối bíu vào phao. “Đừng rặn nữa,” má bảo cô. “Xe cấp cứu sẽ tới ngay.” Tôi chẳng biết xe cấp cứu có thể tới ngay kiểu gì, khi mà đường đầy tuyết. “Mẹ ơi?” Mãi đến khi nghe tiếng Christina, tôi mới nhận ra tiếng ồn đã đánh thức chị ấy. Chị tới đứng giữa Rachel và tôi. “Ba đứa, về phòng cô Christina đi,” má ra lệnh, giọng đanh thép. ”Đi ngay.” Thế nhưng chúng tôi cứ chôn chân tại chỗ, má cũng mau chóng quên khuấy bọn nhóc chúng tôi. Bà đã lạc vào một thế giới dựng nên từ cơn đau và nỗi sợ của cô Mina, cố gắng trở thành tấm bản đồ cho cô bám víu vào mà lần ra khỏi đó. Tôi trân trối nhìn dây thanh quản nổi lên cổ cô Mina khi cô rên siết; tôi thấy má quỳ xuống trên giường, giữa hai chân cô, và vén váy qua khỏi gối cô. Tôi thấy cánh môi hồng giữa hai chân cô Mina cau lại, sưng lên rồi tách ra. Một cái gò tròn - đỉnh đầu, một cái khớp - bờ vai, máu và dịch trào ra, rồi đột nhiên, một đứa nhỏ nằm gọn lỏn trong lòng bàn tay nâng niu của má. “Coi nhóc kìa,” má nói, tình yêu thương tỏa rạng nét mặt bà. “Sốt ruột muốn chào đời quá hả?” Rồi cùng lúc, hai chuyện xảy ra: chuông đổ, Christina òa lên khóc. “Ôi, con yêu,” cô Mina thốt lên yếu ớt, cô chẳng còn đáng sợ nhưng vẫn đẫm mồ hôi và mặt đỏ bừng. Cô chìa tay ra, nhưng sự việc vừa chứng kiến đã khiến Christina hồn vía lên mây, chị ấy không lại chỗ cô mà dịch sát vào tôi. Chị Rachel, vẫn thực tế như mọi khi, lo đi mở cửa. Chị trở vào với hai nhân viên cấp cứu, họ ào vào tiếp quản, thế là việc má vừa làm cho cô Mina cũng lại như tất cả những việc bà đã làm cho nhà Hallowell: nó trôi tuột đi, vô hình. Nhà Hallowell đặt tên bé là Louis, theo tên của má tôi. Thằng bé vẫn khỏe dù ra đời sớm gần một tháng, nạn nhân của đợt giảm khí áp đến cùng cơn bão, dẫn đến PROM - hiện tượng vỡ ối non. Dĩ nhiên là lúc đó tôi chưa biết tới khái niệm này. Tôi chỉ biết rằng, vào một ngày tuyết trắng trời Manhattan, tôi đã chứng kiến một sinh mệnh chào đời. Tôi đã ở bên đứa bé trước lúc mọi người, mọi vật trên thế gian này có cơ hội làm bé thất vọng. Cùng chứng kiến Louis ra đời nhưng trải nghiệm đó tác động đến mỗi người chúng tôi một cách khác nhau. Christina sinh mổ. chị Rachel vượt cạn đến năm lần. Tôi thì trở thành y tá hộ sinh. Khi tôi kể lại câu chuyện này, người ta cho rằng phép màu trong cơn bão xa xưa kia là sự ra đời của một đứa bé. Đúng, chuyện đó thật phi thường. Thế nhưng hôm đó tôi còn được chứng kiến một kỳ quan vĩ đại hơn. Khi Christina nắm lấy tay tôi và cô Mina ghì tay má, có một khoảnh khắc - một nhịp tim, một hơi thở - khi tất cả những khác biệt về trường lớp, tiền bạc và màu da đều tan biến như ảo ảnh trên sa mạc. Ở đó, tất cả mọi người đều bình đẳng, chỉ là một người phụ nữ giúp đỡ một phụ nữ khác mà thôi. Phép màu đó, tôi đã trải 39 năm ròng chờ ngày tái kiến. giai đoạn một Chuyển dạ (pha tích cực) “Đối mặt chưa chắc đã thay đổi được tình hình. Nhưng sẽ chẳng có gì thay đổi nếu chúng ta cứ ngoảnh mặt đi.” —James Baldwin Ruth Đứa bé xinh đẹp nhất mà tôi từng thấy đã chào đời mà không có gương mặt. Từ cổ trở xuống, thằng bé thật là hoàn hảo: mười ngón tay, mười ngón chân, cái bụng núng nính. Nhưng chỗ lẽ ra phải có tai, bé lại có cặp môi méo xệch và một cái răng duy nhất. Thay vì gương mặt, da bé xoáy lại, chẳng ra diện mạo gì. Mẹ bé - bệnh nhân của tôi - là một phụ nữ 30 tuổi G1P1[1], trước khi lâm bồn đã được khám thai, kể cả siêu âm, nhưng tư thế của bé đã che khuất dị dạng nơi khuôn mặt. Cột sống, tim và các cơ quan khác trông đều ổn cả, cho nên chẳng ai ngờ tới chuyện này. Có lẽ cũng vì thế mà mẹ bé chọn sinh ở Mercy West Haven, bệnh viện làng nhỏ của chúng tôi, chứ không phải Yale-New Haven, vốn được trang bị để xử lý tình huống khẩn cấp tốt hơn. Người mẹ mang thai đủ ngày đủ tháng, chuyển dạ mười sáu giờ rồi sinh. Bác sĩ bế đứa bé lên, và chẳng có gì ngoài im lặng. Im lặng ong ong bên tai, trắng toát. “Con tôi có sao không?” mẹ bé hỏi, hoảng hốt. “Sao thằng bé không khóc?” Bấy giờ có một sinh viên y tá đang theo tôi học hỏi kinh nghiệm, trông thấy đứa nhỏ, cô gái này thét lên. “Ra ngoài,” tôi nghiêm giọng nói, đẩy cô bé thiếu kinh nghiệm ra. Rồi tôi đỡ đứa nhỏ từ tay bác sĩ, để bé lên giường sưởi ấm và lau sạch bã nhờn trên tay chân bé. Bác sĩ xem qua tình hình, im lặng đáp lại ánh mắt tôi, rồi quay sang cha mẹ bé, lúc này họ đã biết có chuyện gì đó cực kỳ tồi tệ. Bằng lời lẽ nhẹ nhàng, bác sĩ thông báo rằng con họ bị dị tật nghiêm trọng, không thể duy trì sự sống. Tại bệnh viện phụ sản, Cái Chết là bệnh nhân thường xuyên có mặt hơn bạn nghĩ. Khi gặp phải những ca sinh ra thiếu một phần não hay trẻ chết non, chúng tôi biết cha mẹ vẫn phải gắn kết với bé và khóc thương bé. Đứa trẻ sơ sinh này - còn sống, bất kể được bao lâu - vẫn là con của cặp đôi này. Vậy nên tôi lau chùi và quấn khăn cho thằng bé, như sẽ làm với tất cả những đứa trẻ sơ sinh khác, trong khi cuộc trò chuyện giữa cha mẹ bé với bác sĩ cứ tắt nghẹn rồi lại bật ra, như một chiếc xe ngộp hơi chật vật băng qua đông giá. Tại sao? Làm thế nào? Nếu như...? Còn bao lâu nữa...? Những câu hỏi chẳng ai muốn nói ra và chẳng ai muốn phải trả lời. Người mẹ vẫn còn khóc khi tôi đặt đứa nhỏ tựa lên chỗ khuỷu tay cô gập lại. Bàn tay bé xíu của thằng bé khẽ xoay. Người mẹ cúi xuống mỉm cười với bé, bao điều chất chứa trong tim dâng cả lên ánh mắt. “Ian,” cô thì thầm. “Ian Michael Barnes.” Cô có nét mặt mà trước đó tôi chỉ thấy trong tranh ở bảo tàng, nét mặt mang tình yêu thương và nỗi đớn đau mãnh liệt đến độ chúng hòa vào nhau, luyện thành một thứ cảm xúc mới, trần trụi, dữ dội. Tôi quay sang người cha. “Anh có muốn bế con trai không?” Anh trông như đang muốn bệnh. “Tôi không thể,” anh ta lẩm bẩm, rồi chạy bổ ra ngoài. Tôi theo anh, nhưng bị chặn lại bởi y tá thực tập, cô có vẻ áy náy và bối rối. “Em xin lỗi,” cô lên tiếng. “Chỉ là... nó là một con quái vật.” “Đó là một đứa bé,” tôi sửa lại và gạt cô ra. Tôi chặn đường người cha ở phòng nghỉ dành cho bố mẹ. “Vợ và con trai đang cần anh đấy” “Nó không phải con trai tôi,” anh ta gắt. “Thứ... đó...” “Sẽ chẳng còn trên thế gian này bao lâu nữa. Tất cả yêu thương mà anh đã gom góp để trao cho con suốt cả đời, tốt hơn là bây giờ hãy dốc cả ra đi.” Tôi chờ đến khi anh đáp lại ánh mắt tôi, rồi quay gót. Tôi không cần nhìn lại mới biết anh ta đang theo mình. Khi chúng tôi trở lại phòng sinh, vợ anh vẫn đang dụi mũi vào đứa trẻ sơ sinh, môi cô thơm lên vầng trán phẳng mượt của bé. Tôi đỡ cái gói bé xíu từ tay cô, trao bé cho người chồng. Anh hít vào một hơi rồi vén khăn lên, để lộ phần lẽ ra là gương mặt bé. Hành động như vậy, tôi cũng rất đắn đo. Buộc người cha đối mặt với đứa con chỉ còn thoi thóp của anh ta có phải việc làm đúng đắn? Tôi có làm đúng phận sự y tá của mình? Nếu lúc đó người giám sát hỏi tôi, tôi sẽ trả lời rằng mình đã được huấn luyện để giúp những người cha, người mẹ đau khổ có thể khép lại chuyện này và sống tiếp. Nếu người đàn ông này không thừa nhận đã có chuyện tồi tệ xảy ra - hoặc tệ hơn, nếu từ rày đến cuối đời anh ta cứ vờ như chưa hề có gì như thế - một cái hố sẽ mở ra trong anh. Ban đầu thì nhỏ thôi, rồi nó sẽ toác ra, lớn dần, lớn mãi, cho đến một ngày khi anh không ngờ đến, anh sẽ bất thần nhận ra mình hoàn toàn trống rỗng. Khi người cha bắt đầu khóc, tiếng nấc làm cả người anh rung lên, như cuồng phong quật thân cây gập lại. Anh thụp xuống bên vợ trên giường bệnh, cô đặt một tay lên lưng chồng và một tay lên đầu đứa con. Họ luân phiên bồng con trai liên tục mười giờ. Người mẹ, cô ấy còn thử để chồng cho con bú. Tôi không thể rời mắt được - chẳng phải vì nó xấu xa hay sai trái, mà vì đó là cảnh tượng phi thường nhất tôi từng chứng kiến. Như thể vừa nhìn thẳng vào gương mặt vầng dương: khi quay đi, đôi mắt quáng lòa của tôi chẳng thể thấy gì khác nữa. Sau đó, tôi bắt cái cô sinh viên ngốc nghếch kia vào phòng, ngoài mặt là để kiểm tra dấu hiệu sinh tồn của người mẹ, nhưng thật ra là để cô tận mắt thấy tình yêu thương thực ra chẳng liên quan gì tới cái ta nhìn vào, mà là ánh mắt của ai đang nhìn vào đấy. Đứa bé sơ sinh ra đi yên bình. Chúng tôi đúc khuôn tay chân bé để cặp vợ chồng lưu lại. Tôi nghe nói hai năm sau họ lại đến, chào đón một bé gái hoàn toàn khỏe mạnh, mặc dù khi đó không phải là ca trực của tôi. Điều đó chứng tỏ rằng: đứa trẻ nào sinh ra cũng xinh xắn. Chính cái ta phóng chiếu vào bọn trẻ biến chúng thành xấu xí. Ngay sau khi hạ sinh Edison vào mười bảy năm trước, cũng ở chính bệnh viện này, tôi không lo cho sức khỏe con tôi, không lo làm thế nào một mình nuôi con khi chồng ở nước ngoài hay cuộc sống sẽ thay đổi ra sao khi giờ tôi đã là một người mẹ. Điều khiến tôi bận tâm là mớ tóc của tôi. Thường thì cái điều cuối cùng bạn nghĩ tới khi đang đau đẻ là bộ dạng của mình, nhưng nếu bạn giống như tôi, đó sẽ là thứ đầu tiên hiện ra trong trí bạn khi đứa bé ra đời. Thứ mồ hôi khiến mái tóc tất cả các bệnh nhân da trắng của tôi dính bết vào trán lại làm mớ đuôi tóc của tôi xoăn lại và xù lên. Nhờ tối nào cũng chải cho tóc xẹp xuống, cuộn quanh đầu như bánh ốc quế, rồi trùm khăn lên quấn lại mà hôm sau tóc tôi mới tương đối thẳng khi để xõa. Nhưng mấy cô y tá da trắng làm sao biết, làm sao hiểu được rằng chai xà phòng nhỏ miễn phí mà hiệp hội Hỗ trợ Bệnh viện cung cấp chỉ tổ khiến tóc tôi đã xù còn xù hơn? Tôi chắc rằng khi những người đồng nghiệp có ý tốt đến thăm Edison, họ sẽ sốc nặng khi thấy cái đống bờm xờm trên đầu tôi. Rốt cuộc, tôi phải lấy khăn tắm quấn tóc lại và giải thích với những người đến thăm rằng mình vừa mới gội đầu. Tôi có quen các y tá làm ở tầng phẫu thuật, họ kể với tôi về những người đàn ông vừa được đẩy ra phòng hồi sức sau khi mổ mà cứ khăng khăng đòi dán bộ tóc giả lại chỉn chu trước khi bà xã tới. Và tôi không thể nói hết đã bao lần các nữ bệnh nhân xua chồng ra khỏi phòng hậu sinh để tôi có thể giúp họ khoác vào người một bộ váy ngủ cùng áo choàng đẹp đẽ, dù mới đó họ đã dành cả buổi tối kêu rên và gào thét và ráng sức rặn đẻ khi chồng đứng cạnh bên. Tôi hiểu được vì sao người ta có nhu cầu trưng ra một bộ mặt thế nào đó cho phần còn lại của thế giới. Đó là lý do mà - khi mới đến nhận ca trực vào lúc 6:40 sáng - tôi thậm chí không vào phòng nhân viên, nơi chúng tôi sẽ sớm được y tá phụ trách cập nhật tình hình ca tối. Thay vào đó, tôi lẳng lặng theo hành lang đến gặp bệnh nhân tôi đã chăm sóc hôm qua, trước khi tan ca. Tên cô là Jessie, cô gái nhỏ nhắn đã tìm đến khoa sản trong bộ dạng giống một Đệ Nhất Phu Nhân đang tham gia chiến dịch gì đó hơn là một phụ nữ đang đau đẻ: tóc tạo kiểu hoàn hảo, mặt trang điểm kỹ càng, cả bộ đồ bầu cũng vừa vặn và hợp mốt. Tất cả đã “tố cáo” cô, vì hầu hết những người-sắp-làm-mẹ mang thai tuần thứ bốn mươi sẽ vui lòng mặc một cái lều. Tôi lướt qua hồ sơ của cô - G1, giờ là P1 - và nhăn răng cười. Điều cuối cùng tôi nói với Jessie trước khi đổi ca với người đồng nghiệp trực đêm và ra về là lần tới chúng tôi gặp nhau, cô sẽ có một đứa nhỏ, và chắc chắn rồi, tôi sẽ có một bệnh nhân mới. Khi tôi đang ngủ, Jessie hạ sinh một bé gái khỏe mạnh nặng ba ký ba. Tôi mở cửa và thấy Jessie đang chợp mắt. Đứa bé được quấn khăn nằm trong chiếc nôi cạnh giường; chồng của Jessie nằm dài trên ghế, đang ngáy. Jessie cựa mình khi tôi đi vào, và tôi lập tức đưa một ngón tay lên môi. Đừng lên tiếng. Từ trong ví, tôi lấy ra chiếc gương cầm tay và một thỏi son đỏ. Một phần của quá trình thai sản là đối thoại; đó là sự xao lãng giúp cơn đau dịu đi và là chất keo gắn kết bệnh nhân và y tá. Bạn thử nghĩ xem, còn tình huống nào mà một chuyên viên y tế dành ra đến mười hai tiếng trò chuyện với một người duy nhất không? Vì lẽ đó, mối liên hệ chúng tôi xây dựng được với những người phụ nữ này nảy sinh rất nhanh và sâu sắc. Chỉ với vài giờ ngắn ngủi, tôi biết được nhiều điều về họ mà cả những người bạn thân thiết nhất cũng chưa chắc biết: chuyện cô ấy gặp bạn đời ở quán rượu khi quá chén; chuyện bố cô đã không chờ được đến ngày trông thấy cháu ngoại; nỗi lo của cô khi trở thành mẹ vì hồi thiếu nữ cô ghét trông trẻ biết bao. Tối hôm trước, vào cái giờ chập choạng trong giai đoạn chuyển dạ của Jessie, khi cô đang kiệt sức, mắt mờ lệ và cáu gắt với chồng, tôi đã nhủ anh ra căn-tin uống một cốc cà phê. Người chồng vừa đi là không khí trong phòng trở nên dễ thở hẳn ra, và Jessie buông mình tựa vào đống gối nhựa kinh khủng của khoa sản. “Lỡ như đứa bé làm mọi thứ thay đổi thì sao?” cô thổn thức. Người mẹ trẻ thổ lộ rằng cô chưa bao giờ đi đâu mà không mang “bộ mặt ra trận” của mình, rằng ông xã chưa bao giờ thấy cô không chải mascara; và giờ khi đã thấy cơ thể cô quằn quại như muốn lộn ngược từ trong ra ngoài, làm sao anh có thể nhìn cô như trước nữa? Nghe này, tôi bảo Jessie. Việc đó để chị lo. Tôi thích nghĩ rằng chính nhờ cất được gánh nặng đó mà cô ấy có sức mạnh đi đến giai đoạn chuyển tiếp. Thật buồn cười. Khi tôi kể mình đã có hơn hai mươi năm làm y tá hộ sinh, người ta thường bị ấn tượng vì tôi từng hỗ trợ bác sĩ mổ tử cung, vì tôi có thể chuẩn bị truyền dịch vào tĩnh mạch cả khi đang ngủ, vì tôi phân biệt được nhịp tim thai nhi giảm ở mức nào là bình thường và chừng nào cần can thiệp. Thế nhưng với tôi, điều quan trọng khi làm một y tá hộ sinh là hiểu bệnh nhân và biết cô ấy cần gì. Xoa lưng. Gây tê ngoài màng cứng. Một chút Maybelline. Jessie nhìn thoáng qua người chồng, vẫn ngủ say như chết. Rồi cô đón lấy thỏi son từ tay tôi. “Cảm ơn chị,” cô thì thầm, và ánh mắt chúng tôi giao nhau. Tôi giơ chiếc gương soi để cô một lần nữa tái tạo con người mình. Ở Vào thứ Năm, ca của tôi kéo dài từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối. Ở bệnh viện Mercy South Haven, vào ban ngày, chúng tôi thường có hai y tá trực ở khoa sản - con số sẽ là ba nếu hôm đó chúng tôi thừa nhân lực. Khi đi qua khoa, tôi lơ đãng ghi nhận có bao nhiêu phòng sinh đang bận - lúc này là ba, một khởi đầu thư thả và dễ chịu cho ngày mới. Marie, y tá phụ trách, đang ở trong phòng họp sáng khi tôi bước vào, nhưng Corinne - y tá cùng trực với tôi - thì không thấy đâu. “Chẳng biết hôm nay cô ấy lại có chuyện gì nữa?” Marie hỏi trong khi lật giở tờ báo sáng. “Xẹp bánh xe,” tôi đáp. Trò đoán chừng này đã thành thông lệ: Hôm nay Corinne sẽ viện lý do gì để đi trễ đây? Bấy giờ là một ngày mùa thu tháng Mười trời đẹp, nên cô bạn không thể đổ cho thời tiết. “Đó là tuần trước rồi. Tôi chọn bệnh cúm.” “Nhân tiện,” tôi hỏi thăm. “Ella sao rồi?” Đứa con gái tám tuổi của Marie bị cúm dạ dày, căn bệnh đang rộ lên lúc đó. “Hôm nay con bé đi học lại rồi, ơn Chúa,” Marie trả lời. “Giờ thì tới nhóc Dave bị bệnh. Tôi cho là mình có hai mươi bốn giờ trước khi ngã gục.” Cô rời mắt khỏi mục tin địa phương trên báo và nhìn lên. “Tôi vừa thấy tên Edison trong đây lần nữa,” cô thông báo. Kể từ khi lên cấp ba, học kỳ nào con trai tôi cũng được nêu tên trong bảng danh dự. Thế nhưng như tôi thường bảo thằng bé, đó chẳng phải lý do để ba hoa khoác lác. “Bọn trẻ ở thành phố này nhiều đứa sáng dạ lắm,” tôi tỏ ý dè dặt. “Dẫu có vậy đi nữa,” Maria tiếp lời. “Một thằng bé như Edison mà thành công thì... ừm. Cô nên tự hào, vậy thôi. Tôi chỉ ước gì Ella cũng học giỏi vậy.” Một thằng bé như Edison. Tôi biết ý cô ấy, dù Maria cẩn thận không nói trắng ra. Trường cấp ba không có nhiều học sinh là trẻ da đen, và theo như tôi biết, Edison là đứa duy nhất lọt vào bảng danh dự. Những lời bình luận kiểu này làm tôi cảm giác như bị giấy cứa đứt tay, nhưng đến bây giờ, đã làm việc với Marie hơn mười năm, tôi cố lờ đi cái đau nhói đó. Suy cho cùng, cô ấy vẫn là bạn tôi - dịp lễ Phục sinh năm ngoái gia đình cô từng tới nhà tôi ăn cơm tối cùng với vài y tá nữa, chúng tôi từng ra ngoài uống cocktail hoặc xem phim và có lần đã tụ tập hội chị em phụ nữ đi spa cuối tuần. Dẫu vậy, Marie đâu biết bao nhiêu lần tôi phải nén lòng hít một hơi sâu, rồi bỏ qua mọi chuyện. Người da trắng không thật sự có ý nói một nửa những lời xúc phạm tuôn ra từ miệng họ, và vì vậy tôi cố gắng không để trong lòng. “Có lẽ cô nên hy vọng Ella qua được ngày học hôm nay mà không phải ghé phòng y tế nữa,” tôi đùa, và Marie phá lên cười. “Cô nói đúng đấy. Phải lo chuyện trước mắt đã.” Lúc đó, Corinne xông vào phòng. “Xin lỗi em đến trễ,” cô vội nói, và Marie cùng tôi đưa mắt nhìn nhau. Corinne luôn luôn đến trễ. Cô trẻ hơn tôi mười lăm tuổi, và bao giờ cô cũng mắc chuyện đột xuất nào đó - bộ chế hòa khí chết, một trận cãi cọ với bạn trai, vụ đâm xe trên đường 95N. Corinne là kiểu người mà với họ, cuộc đời chỉ là khoảng giữa các cơn khủng hoảng. Cô cởi áo khoác và xoay xở sao mà đánh đổ một chậu cây đã chết hàng tháng trước, chẳng ai buồn dẹp đi. “Khốn thật,” cô lầm bẫm, dựng lại cái chậu và gạt đất vào lại bên trong. Cô chùi tay lên bộ đồng phục rồi ngồi xuống với đôi tay chắp lại. “Em xin lỗi, chị Marie. Cái lốp xe ngớ ngẩn em mới thay tuần trước bị rò hay sao đó; cả con đường tới đây em phải chạy ba mươi cây số giờ.” Marie thò tay vào túi áo và lấy ra đồng một đô, rồi búng nó qua bàn cho tôi. Tôi phá lên cười. “Được rồi,” Marie nói, “Báo cáo tình hình tầng. Phòng 2 là một cặp mẹ con. Jessica Myers, G1P1, 40+2/7[2] tuần. Cô ấy sinh thường vào 3 giờ sáng hôm nay, không có biến chứng phức tạp, không dùng thuốc giảm đau. Bé gái uống sữa mẹ tốt; bé đã tiểu được nhưng chưa đi nặng.” “Tôi sẽ nhận ca đó,” Corinne và tôi đồng thanh lên tiếng. Ai cũng muốn tiếp nhận bệnh nhân đã sinh xong; đó là phần việc nhẹ nhàng hơn. “Tôi đã chăm sóc cô ấy hồi chuyển dạ,” tôi chỉ ra. “Phải rồi,” Marie đồng tình. “Ruth, bệnh nhân là của cô đấy.” Marie đưa tay đẩy cặp kính trên sống mũi. “Phòng 3 là Thea McVaughn, G1P0, 41+3/7 tuần, cô ấy đang chuyển dạ pha tích cực, tử cung nở 4cm, chưa vỡ ối. Theo máy đo thì nhịp tim thai có vẻ ổn, đứa bé cử động nhiều. Bệnh nhân đã đề nghị được gây tê và đang truyền dịch thuốc.” “Đã chuẩn bị gây mê chưa?” Corinne hỏi. “Rồi.” “Em nhận cô ấy.” Một lần chúng tôi chỉ nhận một bệnh nhân chuyển dạ tích cực, nếu có thể, thế tức là bệnh nhân thứ ba, người cuối cùng của sáng này - sẽ thuộc về tôi. “Phòng 5 là hồi sức. Brittany Bauer, G1P1, 39+1/7 tuần; được gây tê và sinh thường lúc 5:30 sáng. Đứa bé là con trai; họ muốn cắt bao quy đầu. Mẹ bị đái tháo đường thai kỳ loại Al; đứa bé cứ ba giờ kiểm tra đường huyết một lần trong vòng 24 giờ. Người mẹ rất muốn cho con bú. Người mẹ vẫn còn ấp con da tiếp da.” Chăm sóc phục hồi cũng rất vất vả - khi đó, quan hệ giữa y tá với bệnh nhân sẽ là một kèm một. Đúng là cái phần sinh nở đã xong, nhưng vẫn còn việc dọn dẹp phải làm, thăm khám lâm sàng đứa trẻ sơ sinh và giải quyết một chồng giấy tờ các loại. “Hiểu rồi,” tôi nói gọn và đẩy mình đứng dậy khỏi bàn đi tìm Lucille, y tá trực đêm đã đỡ cho Brittany. Cô ấy tìm thấy tôi trước, trong phòng nhân viên, lúc tôi đang rửa tay. “Bắt được rồi nhé, tới lượt cô bị đấy,” Lucille nói và đưa tôi hồ sơ của Brittany Bauer. “26 tuổi, G1 và giờ là P1, sinh thường vào sáng nay lúc 5:30 sáng, không bị rách đáy chậu. Bệnh nhân mang nhóm máu O+, miễn nhiễm sởi, không bị viêm gan B và HIV, không hội chứng Guillain-Barré[3]. Đái tháo đường thai kỳ, chỉ số đường huyết đã được kiểm soát, ngoài ra không có biến chứng khác. Bệnh nhân còn đang được truyền dịch trên cẳng tay trái. Tôi đã cho ngừng gây tê nhưng bệnh nhân vẫn chưa ra khỏi giường nên hãy hỏi xem cô ấy có cần phải dậy đi tiểu không. Không chảy máu, phần trên tử cung chỗ rốn co chắc.” Tôi mở tập hồ sơ và xem các ghi chép, lưu giữ chi tiết vào bộ nhớ. “Davis,” tôi đọc. “Tên em bé à?” “Ừ. Dấu hiệu sinh tồn của thằng bé bình thường nhưng chỉ số đường huyết sau một giờ của nó là bốn mươi, vì vậy chúng tôi đã cho nó tập bú. Thằng bé bú được mỗi bên một ít nhưng nó cứ nhè ra, buồn ngủ và chưa ăn uống được gì mấy.” “Có tiêm vitamin K và bôi thuốc mỡ kháng sinh mắt cho bé chưa?” “Rồi, thằng bé cũng đã đi nhẹ được, nhưng chưa đi nặng. Tôi vẫn chưa tắm hay khám lâm sàng cho bé.” “Không sao,” tôi nói. “Hết rồi à?” “Cha của bé tên Turk,” Lucille đáp, hơi ngần ngừ. “Anh ta có cái gì đó hơi... kỳ lạ.” “Giống như cái ông dê xồm hồi trước ấy hả?” tôi hỏi dò. Năm ngoái, chúng tôi từng có một bệnh nhân mà chồng của cô ấy cứ lo tán tỉnh y tá thực tập trong phòng khi vợ đang vượt cạn. Khi vợ phải mổ, thay vì đứng sau tấm màn che cạnh chỗ vợ tựa đầu, anh ta lại thủng thẳng lượn qua bên kia phòng mổ để tán cô bé sinh viên, Trong này nóng quá, hay chỉ vì em quá nóng bỏng thôi? “Không phải kiểu đó,” Lucille giải thích. “Anh ta đối xử với vợ cũng đàng hoàng lắm. Chỉ là hơi đểu đểu thế nào. Tôi cũng không biết nói sao cho rõ nữa.” Tôi luôn nghĩ rằng nếu không làm y tá hộ sinh thì mình đi đóng giả bà đồng cũng đạt lắm. Chúng tôi rất thạo cái khoản đọc vị bệnh nhân, họ còn chưa nhận ra mình cần gì thì chúng tôi đã biết rồi. Chúng tôi còn có khiếu cảm nhận được khi có gì đó “sai sai”. Mới tháng trước đây, tôi bắt được tín hiệu khác thường khi một bệnh nhân bị thiểu năng trí tuệ của tôi vào viện cùng với một phụ nữ Ukraine lớn tuổi hơn, người này đã kết bạn với cô tại cửa hàng tạp hóa chỗ cô làm việc. Có cái gì rất lạ về mối quan hệ giữa hai người họ, thế là tôi theo linh tính mách bảo và gọi cảnh sát. Hóa ra người đàn bà Ukraine đã từng đi tù ở Kentucky vì bắt trộm con của một người mẹ bị Hội chứng Down. Vì vậy, khi bước vào phòng Brittany Bauer lần đầu tiên, tôi không lo lắng gì hết. Tôi nghĩ: mình sẽ làm tốt thôi mà. Tôi gõ nhẹ và đẩy cửa ra. “Tên tôi là Ruth,” tôi giới thiệu. “Tôi là y tá chăm sóc cho cô hôm nay.” Bước thẳng đến chỗ Brittany, tôi cúi xuống mỉm cười với đứa bé nằm gọn trong vòng tay cô gái. “Thằng bé đáng yêu làm sao! Tên bé là gì vậy?” tôi vẫn hỏi dù đã biết. Đó là cách để bắt chuyện; để kết nối với bệnh nhân. Brittany không trả lời. Cô này quay sang nhìn chồng, một gã to lớn và vụng về đang ngồi trên mép ghế. Anh ta có bộ tóc ngắn kiểu quân đội và đang nhịp nhịp gót giày như không thể ngồi yên. Tôi biết Lucille thấy gì ở người này. Turk Bauer làm tôi nghĩ đến một đường dây điện bị đứt trong cơn bão, đang vắt ngang đường chờ thứ gì đó quẹt vào để nó có thể nẹt ra lửa điện. Bạn là người rụt rè hay khiêm tốn cũng vậy, chẳng ai im lặng được lâu khi vừa chào đón sự ra đời của con mình. Họ muốn sẻ chia khoảnh khắc cuộc đời bước sang trang mới. Họ muốn sống lại giờ phút chuyển dạ, lúc hạ sinh, vẻ xinh xẻo của con mình. Thế mà Brittany, ừm, có vẻ như cô ấy chỉ được nói khi chồng cho phép. Bạo lực gia đình ư? Tôi tự hỏi. “Davis,” Brittany buột miệng. “Tên thằng bé là Davis.” “Ồ, xin chào, Davis,” tôi thì thầm, tiến lại gần giường. “Cô có phiền không nếu tôi nghe tim, phổi và kiểm tra nhiệt độ của bé?” Tay người mẹ bất giác siết chặt hơn quanh đứa bé sơ sinh, ôm con sát vào lòng. “Tôi có thể thăm khám ở ngay đây,” tôi giải thích. “Cô không cần phải rời thằng bé.” Bạn phải thông cảm với người mới làm cha mẹ, đặc biệt là khi họ vừa nghe nói chỉ số đường huyết của con quá thấp. Vì vậy tôi nhét cặp nhiệt độ vào dưới tay Davis và nhận được kết quả bình thường. Tôi nhìn lên xoáy tóc thằng bé - một mảng trắng có thể biểu thị tình trạng mất thính lực; sự xuất hiện luân phiên nhiều kiểu tóc có thể là tín hiệu cho vấn đề trao đổi chất. Tôi áp ống nghe vào lưng đứa bé, nghe phổi. Tôi len tay vào giữa thân hình bé với người mẹ, nghe tim. Vút. Âm thanh đó khẽ quá, khẽ đến nỗi tôi tưởng mình nghe lầm. Tôi nghe lại lần nữa, cố gắng đảm bảo rằng nó không phải tiếng gì vô tình lọt vào ống nghe, nhưng tiếng rung nhẹ, đều đều quả có ở đó, đằng sau phách nặng của mạch. Turk đứng dậy, cao vượt lên trên tôi, tay khoanh lại. Ở những ông bố, trạng thái căng thẳng biểu hiện ra khác hẳn. Thỉnh thoảng, họ trở nên hiếu chiến. Như thể họ phừng phừng đe dọa là những cái không ổn sẽ biến đi. “Tôi nghe tiếng rì rầm rất khẽ,” tôi cẩn trọng nói. “Nhưng có lẽ chẳng vấn đề gì đâu. Sớm thế này, tim bé vẫn còn nhiều phần đang phát triển. Dù đúng là có tiếng rì rầm, nó có thể biến mất trong vài ngày. Dù vậy, tôi vẫn sẽ ghi nhận, tôi sẽ yêu cầu bác sĩ nghe tim.” Cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhất có thể, tôi vừa nói vừa đo đường huyết lần nữa. Phép đo dùng máy Accucheck, nghĩa là chúng tôi có được kết quả ngay - và lần này, chỉ số của thằng bé là 52. “Đây là tin rất tốt,” tôi lên tiếng, cố gắng cho vợ chồng Bauers cái gì đó tích cực để bám víu vào. “Chỉ số đường huyết của bé tốt hơn rồi.” Tôi bước lại bồn rửa và vặn nước ấm, đổ đẩy một cái tô nhựa, rồi đặt lên máy làm nóng. “Davis chắc chắn đang mạnh dần lên, và thằng bé hẳn sẽ sớm ăn được thôi. Tôi lau rửa và sưởi ấm cho bé một chút nhé, rồi chúng ta có thể thử cho cậu nhỏ bú?” Tôi đưa tay bế đứa bé lên. Quay lưng lại cặp bố mẹ, tôi đặt Davis nằm trên máy sưởi và bắt đầu thăm khám. Tôi có thể nghe Brittany và Turk xì xầm bàn tán gay gắt khi tôi kiểm tra thóp đầu của bé, xem đường nối để đảm bảo không có sự chồng khớp sọ. Bố mẹ bé lo lắng, và thế cũng bình thường. Nhiều bệnh nhân không muốn tiếp thu ý kiến của y tá về các vấn đề y học; họ cần phải nghe từ miệng bác sĩ mới chịu tin - mặc dù y tá hộ sinh thường là người đầu tiên phát hiện một dị tật hay triệu chứng. Bác sĩ nhi phụ trách cặp đôi này là Atkins; tôi sẽ nhắn tin cho cô ấy sau khi kiểm tra xong và đề nghị cô ấy nghe tim đứa bé. Nhưng lúc này, sự chú ý của tôi dành trọn cho Davis. Tôi tìm vết thâm trên mặt, chỗ tụ máu, hoặc sự bất thường ở hình thù hộp sọ. Tôi kiểm tra đường chỉ trên đôi tay bé xíu của bé, và vị trí tai so với mắt. Tôi đo chu vi vòng đầu và chiều dài cơ thể đang cựa quậy liên hồi. Tôi kiểm tra xem bé có bị hở hàm ếch hay hở tai không. Tôi sờ nắn xương đòn và đặt ngón út vào miệng bé để thử phản xạ mút. Tôi quan sát lồng ngực nhỏ xíu phồng lên xẹp xuống, để đảm bảo bé thở không nặng nhọc. Ấn bụng bé để biết chắc chắn nó được mềm, xem xét ngón tay rồi ngón chân, dò tìm đốm phát ban hoặc tổn thương hay vết bớt. Tôi kiểm tra để xem tinh hoàn đã xuống bìu chưa, xem bé có bị lỗ đái lệch thấp không và đảm bảo niệu đạo nằm đúng chỗ. Rồi tôi lật bé úp xuống và xem phía cuối xương sống có bị lõm, có túm lông hay một dấu hiệu nào của dị tật ống thần kinh không. Tôi nhận ra tiếng xì xầm sau lưng mình đã tắt. Nhưng thay vì thấy thoải mái, tôi lại có cảm giác lo ngại hơn. Họ nghĩ mình đang làm gì sai chứ? Khi tôi trở bé nằm ngửa lên, mắt Davis bắt đầu díp lại. Trẻ sơ sinh thường rơi vào trạng thái buồn ngủ vài giờ sau khi lọt lòng, đó là một lý do để tắm bé ngay - được tắm táp, bé sẽ tỉnh táo đủ lâu để thử bú lần nữa. Có một chồng giấy vệ sinh trên máy sưởi; với từng động tác thuần thục, tự tin, tôi nhúng một miếng vào trong nước ấm và lau cho bé từ đầu xuống chân. Tiếp theo, tôi mặc tã cho bé, nhanh tay lấy khăn quấn quanh cậu nhỏ như cuộn một cái bánh burrito và gội đầu cho bé dưới vòi nước bằng dầu gội Johnson’s. Việc cuối cùng tôi làm là gắn cho cu cậu thẻ ID khớp với thẻ của cha mẹ, và đeo lên cổ chân tròn trịa một chiếc vòng an ninh, nó sẽ phát còi báo động nếu đứa bé đến gần các lối ra vào. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt cặp bố mẹ, nóng hổi trên lưng mình. Tôi quay lại, một nụ cười dán trên gương mặt. “Bé con của cô đây,” tôi nói, đưa thằng bé lại cho Brittany. “Thơm tho sạch sẽ. Nào, để xem chúng ta có thể cho cu cậu bú được không.” Tôi đưa tay định giúp điều chỉnh tư thế đứa bé, nhưng Brittany bất giác rụt lại. “Tránh xa cô ấy ra,” Turk Bauer giật giọng. “Tôi muốn nói chuyện với sếp của cô.” Đó là những từ đầu tiên tôi nghe được từ miệng gã đàn ông đó trong suốt hai mươi phút ở cùng phòng với gia đình anh ta, và tôi đọc được sự bất mãn ngầm trong chúng. Tôi khá chắc rằng anh ta không muốn gặp Marie để khen ngợi cách làm việc tận tụy xuất sắc của y tá là tôi. Thế nhưng tôi chỉ gật đầu thật gọn và bước ra ngoài, thầm tái hiện lại trong đầu từng khoảnh khắc, từng lời lẽ, từng cử chỉ tôi đã thực hiện kể từ khi giới thiệu mình với Brittany Bauer. Tôi tới chỗ bàn y tá và thấy Marie đang điền vào bảng biểu gì đó. “Chúng ta có chút vấn đề ở phòng 5,” tôi thông báo, cố gắng giữ cho giọng đều đều. “Người cha muốn gặp chị.” “Có chuyện gì xảy ra vậy?” Marie hỏi. “Không có gì,” Tôi đáp, và tôi biết mình nói đúng. Tôi là một y tá giỏi. Có khi là một y tá xuất sắc. Tôi đã chăm sóc cho đứa bé sơ sinh đó như chăm sóc cho mọi đứa trẻ khác sinh ra ở khoa này. “Tôi bảo họ tôi nghe có âm thanh gì như tiếng rì rầm, và tôi sẽ thông báo cho bác sĩ nhi. Sau đó tôi tắm đứa bé rồi thăm khám lâm sàng.” Thế nhưng hẳn là tôi đã không giấu nổi cảm xúc của mình, vì Marie nhìn tôi đầy thông cảm. “Có lẽ họ lo lắng về trái tim em bé,” cô trấn an tôi. Khi chúng tôi bước vào phòng, chỉ theo sau Marie một bước nên tôi thấy rõ vẻ nhẹ nhõm trên gương mặt cặp cha mẹ khi họ thấy cô. “Tôi hiểu rằng anh muốn nói chuyện với tôi, phải không anh Bauer?” cô mở lời. “Y tá đó,” Turk nói ngay. “Tôi không muốn cô ta động tới con tôi nữa.” Tôi nghe hơi nóng từ cổ áo dâng lên da đầu. Chẳng ai thích bị bệnh nhân phàn nàn về họ với cấp trên cả. ẳ Marie thẳng người lên, sống lưng căng cứng. “Tôi có thể đảm bảo với anh rằng Ruth là một trong những y tá giỏi nhất ở đây, anh Bauer. Nếu có điều gì phàn nàn...” “Tôi không muốn cô ta hay kẻ giống cô ta đụng vào con trai tôi,” người cha cắt ngang, và anh ta khoanh tay lại ngang ngực. Turk đã xắn tay áo lên trong lúc tôi ra ngoài. Chạy từ cổ tay đến khuỷu tay anh ta là hình xăm lá cờ Liên minh miền Nam. Marie ngừng lời. Trong một lúc, tôi thật sự không hiểu. Và rồi tôi vỡ ra, sự thật giáng vào tôi như một cú đấm: họ không có vấn đề gì với việc tôi làm. Chỉ có vấn đề với con người tôi. Turk Tên da đen đầu tiên tôi gặp đã giết chết anh trai tôi. Tôi ngồi giữa bố mẹ trong phòng xử án ở Vermont, cổ áo sơ mi thít chặt muốn nghẹt thở, trong lúc những người đàn ông mặc vét tranh cãi và chỉ trỏ vào các loại biểu đồ xe hơi cùng dấu bánh xe. Tôi mười một tuổi còn anh Tanner mười sáu. Anh vừa lấy bằng lái xe hai tháng trước. Để ăn mừng, mẹ tôi đã nướng cho anh cái bánh, trang trí hình đường cao tốc làm bằng kẹo dẻo Fruit Rolls-Up và một cái xe đồ chơi Matchbox cũ của tôi. Kẻ giết anh đến từ Massachusetts và già hơn cả bố. Da hắn tối hơn cả màu gỗ ở bục nhân chứng, chỗ hắn ngồi gần suốt phiên tòa, và đối lại thì răng hắn gần như trắng lóa. Tôi không thể rời mắt khỏi hắn. Bồi thẩm đoàn không đi đến được một phán quyết chung - “treo”[4], họ bảo vậy - và thế là tên đó được tự do. Mẹ tôi như phát cuồng, bà rít lên, lảm nhảm về đứa con bé bỏng của bà và công lý. Kẻ giết người bắt tay với luật sư của hắn rồi quay lại, bước về phía chúng tôi, đến khi hai bên chỉ cách nhau một thanh rào chắn. “Bà Bauer,” hắn lên tiếng. “Tôi rất xin lỗi vì mất mát của bà.” Làm như chuyện không có gì liên can tới hắn vậy. Mẹ tôi ngừng thổn thức, mím môi, và nhổ nước bọt. Brit và tôi, chúng tôi đã chờ đợi giây phút này từ lâu lắm. Tôi ngồi ghế tài xế, một tay đặt trên bánh lái chiếc xe tải nhỏ còn một tay để trên ghế giữa chúng tôi; cô ấy siết lấy nó mỗi khi cơn co thắt ập tới. Tôi biết là đau kinh khủng lắm, nhưng Brit chỉ nheo mắt lại và đưa cằm ra, vẻ cương quyết. Cũng không có gì ngạc nhiên - ý tôi là, tôi từng thấy cô ấy đấm gãy răng một thằng Mexico đẩy xe mua hàng đụng méo xe cô ấy ở siêu thị Stop & Shop - nhưng tôi nghĩ mình chưa bao giờ thấy cô ấy đẹp như lúc này, mạnh mẽ và im lặng. Tôi nhiều lần trộm ngắm gương mặt nhìn nghiêng của cô ấy khi chúng tôi chờ đèn đỏ. Chúng tôi lấy nhau đã được hai năm, thế mà tôi vẫn chưa tin được Brit là của mình. Brit là cô gái xinh đẹp nhất tôi từng thấy, với tôi là vậy, và trong phong trào, cô ấy gần như là công chúa. Mái tóc sẫm màu của cô ấy phủ xuống lưng từng lọn xoăn dày; gò má thì ửng đỏ. Cô ấy thở hổn hển, từng hơi ngắn, như thể đang chạy marathon. Rồi đột nhiên cô ấy quay sang tôi, cặp mắt sáng xanh, như ánh sắc trong lòng ngọn lửa. “Không ai nói là sẽ đau thế này,” Brit nói giữa những hơi thở gấp. Tôi siết lấy tay vợ, làm được thế cũng đáng kể, vì cô ấy đang nắm chặt tay tôi đến phát đau rồi. “Chiến binh này,” tôi bảo Brit, “cũng sẽ mạnh mẽ hệt như mẹ nó.” Từ lâu, tôi đã được dạy rằng Chúa cần những người chiến sĩ. Rằng chúng ta là những thiên sứ trong cuộc chiến chủng tộc này và nếu không có ta, thế giới cũng sẽ chịu chung số phận với Sodom và Gomorrah[5]. Francis - ông bố huyền thoại của Brit - sẽ đứng lên và rao giảng cho tất cả những người mới nhập hội hiểu rõ sự cần thiết của việc gia tăng lực lượng, để chúng ta có thể phản công. Thế mà giờ khi Brit và tôi ở đây, trong khoảnh khắc này, sắp đưa vào đời một sinh linh mới, một nửa trong tôi mừng vui chiến thắng nhưng nửa kia lại lấy làm kinh hoảng. Bởi vì dẫu tôi đã cố gắng hết sức, chốn này vẫn là một cái hố phân. Lúc này đây, con tôi hoàn hảo. Nhưng từ khoảnh khắc chào đời, sớm muộn nó cũng sẽ bị ô uế. “Anh Turk!” Brittany thét lên. Giật mình, tôi bẻ lái sang trái, suýt nữa là chạy lố qua cổng bệnh viện. “Em thấy cái tên Thor có được không?” tôi hỏi, chuyển cuộc đối thoại sang chủ đề đặt tên con, hết lòng muốn làm Brit xao nhãng mà quên đau đớn. Một gã tôi biết trên Twitter vừa có con và đặt tên thằng nhỏ là Loki. Nhóm mấy tay già già trong hội rất khoái thần thoại Bắc Âu và mặc dù giờ họ đã tách thành nhiều phe nhỏ, thói quen cũ vẫn không dễ bỏ. “Sao không là Người dơi hay Đèn Lồng Xanh luôn đi?” Britney nổi cáu. “Em sẽ không đời nào đặt tên con theo nhân vật truyện tranh đâu.” Cô ấy cau mặt vì một cơn co thắt khác. “Nếu như nó là con gái thì sao?” “Wonder Woman,” tôi gợi ý. “Giống như mẹ của nó.” Sau khi anh tôi chết, tất thảy đều sụp đổ. Như thể phiên tòa đã bóc hết lớp da ngoài và phần còn lại của gia đình tôi chỉ là một đống máu lẫn nội tạng mà không có gì giữ chúng lại với nhau nữa. Bố tôi tách ra và chuyển tới sống trong một căn hộ toàn màu xanh lục - vách tường, thảm trải, toilet, bếp lò - nơi mà lần nào đến thăm, tôi cũng không khỏi thấy buồn nôn. Mẹ tôi bắt đầu uống rượu - một ly vang vào bữa trưa và sau đó là nguyên chai. Bà mất việc phụ tá ở một trường tiểu học vì ngất xỉu ở sân chơi và đứa trẻ bà phải trông nom - con bé bị Hội chứng Down - bị gãy cổ tay khi té xuống từ trên thang khỉ. Một tuần sau chúng tôi chất tất cả những gì mình có lên một chiếc xe của dịch vụ chuyển nhà U-Haul và chuyển vào sống với ông ngoại tôi. Ông ngoại là một cựu binh chưa bao giờ ngừng chiến đấu. Lúc trước tôi không biết ông rõ lắm, vì ông chẳng ưa gì bố tôi, nhưng khi chướng ngại đó đã không còn, ông lãnh lấy trách nhiệm nuôi dạy tôi theo cách ông nghĩ đúng ra phải áp dụng từ đầu. Bố mẹ tôi, ông bảo, quá mềm mỏng với tôi, và tôi là một thằng nhóc ẻo lả. Ông sẽ rèn cho tôi cứng rắn lên. Thế là ông ngoại đánh thức tôi vào tờ mờ sáng những ngày cuối tuần rồi lôi tôi vào rừng để làm cái việc mà ông gọi là huấn luyện cơ bản. Tôi học cách phân biệt quả mọng độc với loại ăn được. Tôi có thể nhận biết loại phân để theo dấu động vật. Tôi có thể xác định giờ giấc từ vị trí của mặt trời. Khóa huấn luyện của ông cũng gần gần như lớp hướng đạo sinh vậy, chỉ khác ở chỗ xen giữa các bài học của ông là chuyện về bọn người ông đã chiến đấu, về những khu rừng sẽ nuốt chửng bạn nếu bạn sơ sẩy, về mùi thịt người bị thiêu sống. Dịp cuối tuần nọ, ông ngoại quyết định đưa tôi đi cắm trại. Việc nhiệt độ ngoài trời chỉ còn bốn độ hay dự báo tuyết rơi cũng không nghĩa lý gì. Chúng tôi lái xe đến rìa Northeast Kingdom, gần biên giới Canada. Tôi đi vệ sinh, và khi tôi trở ra thì ông ngoại đã biến mất. Xe tải của ông, trước đó đậu ở chỗ đổ xăng, cũng không thấy đâu nữa. Dấu hiệu duy nhất cho thấy ông tôi từng ở đó là vết bánh xe trên tuyết. Ông đã bỏ đi, mang theo ba lô của tôi, túi ngủ của tôi và cái lều. Tôi trở vào trạm xăng và hỏi nhân viên ở đó xem cô có biết chuyện gì đã xảy ra với cái ông đi xe tải xanh lam không, nhưng cô này chỉ lắc đầu. “Gì cơ?” cô ta nói, giả vờ như mình không biết nói tiếng Anh mặc dù vẫn còn trên địa phận Vermont. Tôi có áo khoác, nhưng không có nón hay găng tay - chúng đã nằm lại trong xe. Tôi đếm được sáu mươi bảy cent trong túi. Tôi chờ đến khi một người khách ghé lại đổ xăng và rồi, trong lúc nhân viên tính tiền đang bận rộn, tôi liền chôm một đôi găng tay, một cái nón màu cam đi săn và một chai soda. Mất tới năm giờ tôi mới lần tới chỗ ông ngoại - kết hợp giữa việc vắt não nhớ xem sáng đó ông đã lảm nhảm cái gì về phương hướng trong khi tôi gà gật ngái ngủ, và vừa đi trên cao tốc vừa dò tìm manh mối - như giấy gói loại thuốc lá mà ông thích nhai, cùng một chiếc găng của tôi. Đến lúc thấy cái xe tải đậu bên vệ đường và có thể theo dấu chân ông băng tuyết vào rừng, tôi không còn run lập cập nữa. Tôi bốc hỏa. Cơn giận, hóa ra, là một nguồn nhiên liệu tái tạo. Ông ngoại đang cúi người bên đống lửa trại khi tôi bước vào khoảng rừng trống. Không nói một lời, tôi bước thẳng tới và xô ông suýt ngã vào mớ than hồng. “Lão già khốn kiếp,” tôi hét lên. “Ông không thể tự dưng bỏ tôi lại mà đi như vậy.” “Sao lại không? Nếu tao không biến mày thành một thằng đàn ông thì đứa nào sẽ làm thay tao hả?” ông đáp. Mặc dù người ông gấp đôi cái thân tôi, tôi vẫn chộp lấy cổ áo khoác của ông và xách ông dậy. Tôi nắm tay lại, đưa ra sau và định đấm ông nhưng ông chụp được tay tôi trước khi cú đấm giáng tới. “Mày muốn đánh nhau hả?” ông nói, lùi về và vờn quanh tôi. Bố đã từng dạy tôi cách đấm. Ngón cái đặt ngoài nắm tay, và xoay cổ tay cuối cú đấm. Thế nhưng tất cả chỉ là nói suông; tôi chưa bao giờ đánh ai trong đời. Bấy giờ, tôi đưa nắm đấm ra sau và tung nó về phía trước như một mũi tên, chỉ để ông ngoại tóm được và bẻ quặt cánh tay tôi ra sau lưng. Hơi thở của ông nóng hổi bên tai tôi. “Thằng bố dặt dẹo của mày chỉ mày trò đó đó hả?” tôi cố vùng ra, nhưng ông ghìm tôi lại. “Mày muốn biết cách đánh nhau? Hay mày muốn biết cách đánh thắng?” Tôi nghiến răng. “Tôi... muốn... thắng,” tôi gầm ghè. Cuối cùng ông cũng buông lỏng, một tay vẫn kẹp chặt vai trái của tôi. “Mày nhỏ con, nên mày hạ người thật thấp khi áp sát tao. Rồi mày dùng thân mình che mắt tao, và tao đoán mày sẽ từ dưới vung nắm đấm lên. Nếu tao né, nắm đấm của tao sẽ dộng vào mặt mày, nghĩa là tao sẽ đứng thẳng, người không che chắn gì hết. Điều cuối cùng tao nghĩ mày sẽ làm là đấm vòng qua vai như thế này.” Ông giơ nắm tay phải, vung nó lên theo một vòng cung chóng mặt và khựng lại ngay trước khi nó “hun” vào gò má tôi. Rồi ông buông tôi ra và bước lùi lại. “Lên đi.” Tôi chỉ trợn mắt nhìn ông. Cảm giác đánh người nó thế này: như một cọng thun bị kéo căng đến phát đau, và bắt đầu run rẩy. Và rồi khi bạn vung nắm đấm, khi bạn buông cọng thun ra, cú bật tạo cảm giác rất kích thích. Cả người bạn phừng phừng, và bạn thậm chí không nhận ra mình dễ bị kích động đến thế. Máu xịt ra từ mũi ông ngoại vấy xuống tuyết; nó nhuộm đỏ nụ cười của ông. “Thằng cháu tao phải thế chứ,” ông khen ngợi. Mỗi lần Brit ngồi dậy trong khi chuyển dạ, những cơn co thắt trở nên tệ hại đến mức cô y tá - một người phụ nữ tóc đỏ tên Lucille - bảo cô ấy nằm xuống trở lại. Nhưng khi cô ấy làm theo, co thắt ngừng lại, và thế là Lucille bảo cô ấy đứng dậy đi tới đi lui. Đó là một vòng tròn ác nghiệt, lặp đi lặp lại đã bảy giờ liền, và tôi bắt đầu tự hỏi có khi nào tới lúc chào đời, thằng con mình đã là thiếu niên. Nhưng tôi không nói ý nghĩ đó với Brit. Tôi giữ vợ thật chắc khi một bác sĩ gây tê cắm kim truyền dịch - Brit xin làm thế, một việc khiến tôi vô cùng kinh ngạc, vì chúng tôi dự định sẽ sinh con tự nhiên, không dùng thuốc. Người Mỹ da trắng chúng tôi tránh xa mấy thứ đó; đại đa số thành viên Phong trào hết sức coi thường bọn nghiện ngập. Tôi thì thầm vào tai vợ khi cô ấy gập người trên giường, bác sĩ dùng tay kiểm tra sống lưng cô, hỏi xem liệu đó có phải ý hay. Khi anh là người mang thai, Brit nói, anh được quyền quyết định. Và tôi phải thú nhận, cái thứ mà họ truyền vào mạch vợ tôi, dù là gì đi nữa, cũng có tác dụng tốt. Cô ấy bị buộc vào giường, nhưng không lăn lộn quằn quại nữa. Brit nói rằng cô ấy không có cảm giác ở vùng dưới rốn nữa. Rằng nếu không phải vì đã trót lấy tôi, cô ấy sẽ cầu hôn bác sĩ gây tê. Lucille đi vào và kiểm tra dữ liệu in từ cái máy gắn vô người Brit, vốn dùng để đo nhịp tim em bé. “Cô đang làm tốt lắm,” cô y tá động viên, mặc dù tôi cá là cô ta nói thế với tất cả mọi người. Tôi thôi chú ý khi y tá nói chuyện với Brit - không phải vì tôi không quan tâm, mà vì đó chỉ là mấy thông tin cơ học không ai muốn nghĩ tới nếu vẫn còn muốn thấy vợ mình hấp dẫn - và rồi tôi nghe Lucille bảo Brit đã tới lúc rặn. Brit nhìn thẳng vào mắt tôi. “Anh?” cô ấy mở lời, nhưng từ tiếp theo nghẹn trong cổ, và cô ấy không nói được điều mình muốn nói. Tôi nhận ra vợ mình đang sợ hãi. Người phụ nữ dũng cảm này thật sự lo sợ chuyện sắp xảy ra. Tôi đan những ngón tay mình vào tay Brit. “Anh ở đây,” tôi nhủ với vợ, mặc dù bản thân cũng hoảng chẳng kém. Lỡ như chuyện này thay đổi mọi thứ giữa tôi và Brit? Lỡ như đứa bé xuất hiện và tôi chẳng có cảm xúc gì với nó thì sao? Lỡ như tôi hóa ra là một hình mẫu tồi? Một ông bố tệ? “Lần tiếp theo cô cảm thấy cơn co thắt,” Lucille dặn, “tôi muốn cô rặn thật mạnh.” Nữ y tá nhìn lên tôi. “Anh, hãy ra sau cô ấy và khi cô ấy tới cơn co thắt, anh hãy đỡ vợ dậy để cô ấy có thể rặn.” Tôi thật sự biết ơn lời chỉ dẫn. Chuyện này thì tôi làm được. Khi mặt Brit ửng đỏ, khi cơ thể cô ấy cong lên như một cây cung, tôi vòng tay xuống nắm lấy bờ vai vợ. Brit phát ra một thứ tiếng trầm, khàn, như một con thú trong cơn đau hấp hối. “Hít vào sâu,” Lucille hướng dẫn. “Cô đang ở đỉnh cơn co thắt... giờ hãy cúi xuống cho cằm sát ngực và rặn mạnh, đẩy xuống hết...” Sau đó, hít vào một hơi, Brit rũ người xuống, cố giũ tôi ra như thể không chịu nổi cái đụng chạm từ tôi. “Bỏ tay anh ra,” cô ấy cộc lốc. Lucille ra hiệu cho tôi lại gần. “Cô ấy không có ý đó đâu.” “Khốn kiếp, tôi có ý đó đấy,” Brit phun ra, một cơn co thắt khác lại trỗi lên. Lucille nhướng mày nhìn tôi. “Anh đứng đây,” cô đề nghị. “Tôi sẽ giữ chân trái của Brit còn anh giữ chân phải...” Đó là một cuộc chạy bộ đường dài, không phải đua nước rút. Một giờ sau, tóc Brit dính bết vào trán; bím tóc rối nùi. Ngón tay của cô ấy đã cắt lên mu bàn tay tôi những vầng trăng nhỏ, và mấy lời cô ấy phát ra chẳng còn nghĩa lý gì. Tôi không biết hai chúng tôi còn chịu được cảnh này bao lâu nữa. Nhưng rồi vai Lucille gồng lên trong lúc Brit trải qua một cơn co thắt dài, và nét mặt nữ y tá thay đổi. “Chờ một lúc,” Lucille nói, rồi cô nhắn tin cho bác sĩ. “Brit, tôi muốn cô hít thở thật chậm... và chuẩn bị trở thành một người mẹ.” Vài phút sau là bác sĩ sản khoa xông vào phòng và đeo vội một đôi bao tay nhựa latex, nhưng cố giúp Brit không rặn cũng giống như bị bảo phải chặn đứng sóng cồn chỉ với vỏn vẹn một bao cát vậy. “Xin chào cô Bauer,” bác sĩ lên tiếng. “Hãy đón em bé ra đời nào.” Anh ta ngồi xuống một cái ghế trong lúc Brit lại một lần nữa căng cứng người. Khuỷu tay tôi vòng qua đầu gối vợ để cô ấy có thể tì vào đó và khi tôi nhìn xuống, đỉnh đầu bé con của chúng tôi nhú ra như một vầng trăng trong thung lũng giữa chân Brit. Nó xanh nhợt. Mới thoáng trước còn chẳng có gì, giờ ở đó đã có một cái đầu tròn trịa cỡ trái bóng mềm, và nó tái xanh. Hoảng hốt, tôi nhìn mặt Brit, nhưng mắt cô ấy nhắm nghiền trong khi gắng sức. Cơn giận, thứ mà dường như lúc nào cũng âm ỉ cháy trong máu tôi, bắt đầu bốc lên. Bọn chúng đang cố lừa chúng ta. Bọn chúng nói dối. Cái lũ khốn nạn... Và rồi đứa bé cất tiếng khóc. Giữa một dòng máu và dịch nhờn, nó đã trượt vào thế giới này, vừa khóc ré vừa đấm vào không khí bằng hai nắm tay bé xíu, làn da ửng hồng lên. Họ đặt con tôi - con trai tôi - lên ngực Brit và lấy khăn lau cho nó. Vợ tôi đang khóc, và tôi cũng thế. Ánh mắt Brit không rời đứa trẻ. “Hãy xem tác phẩm của chúng ta này, anh Turk.” “Thằng bé thật hoàn hảo,” tôi thì thầm bên làn da vợ. “Em thật hoàn hảo.” Vợ tôi khum tay đỡ quanh mái đầu đứa con bé bỏng của chúng tôi, như thể chúng tôi là một mạch điện mà giờ đã trở nên hoàn chỉnh. Như thể chúng tôi có thể tỏa năng lượng cho toàn thế giới. Năm tôi mười lăm tuổi, ông ngoại sụm xuống trong nhà tắm và chết vì bị đau tim. Trước sự cố đó, tôi phản ứng giống như cách mình vẫn phản ứng với mọi thứ khác lúc bấy giờ - đâm đầu vào rắc rối. Dường như chẳng ai biết phải làm gì với cái thằng tôi - không phải mẹ tôi, người đã nhạt nhòa đi đến độ có lúc bà như hòa lẫn vào bức tường và tôi đi qua trước mặt bà mà không nhận ra mẹ mình đang ở trong phòng; không phải bố tôi, người đang sống ở Brattleboro và bán xe hơi tại đại lý hãng Honda. Tôi gặp Raine Tesco trong một tháng hè ở với bố sau năm đầu học phổ thông. Chú Greg, bạn của bố quản lý một kiểu tiệm thay thế quán cà phê[6] (Chả biết nó là cái giống gì nữa? Quán phục vụ trà hả?) và cho tôi một chân chạy việc bán thời gian. Đúng ra thì tôi chưa đủ tuổi đi làm, nên Greg trả lương không chính thức để tôi làm mấy việc như sắp xếp nhà kho và chạy vặt. Raine là người pha chế cà phê với bắp tay xăm kín và cứ tới giờ nghỉ là ra ngoài sau quán đốt thuốc liên tục. Anh ta có một con chó Chihuahua tên Thịt, con này cũng được chủ dạy cho bập thuốc lá. Raine là người đầu tiên thật sự hiểu tôi. Lần đầu tôi gặp Raine ở sau quán, khi ra ngoài đổ rác, anh đã mời tôi hút - mặc dù lúc đó tôi chỉ là một thằng nhóc. Tôi giả vờ biết rõ mình đang làm gì và khi tôi phá ra ho sặc sụa, anh không chế nhạo tôi. “Anh bạn này, thật tệ khi phải là mày,” anh ta nói, và tôi gật đầu. “Ý tao là, bố mày đấy?” Raine nhăn mặt lại và bắt chước giống hệt bố tôi, đang gọi một ly latte đậu nành nửa cà phê không bọt không béo cỡ vừa. Mỗi lần tôi tới thăm bố, Raine dành thời gian để gặp tôi. Tôi kể anh nghe rằng thật bất công quá thể khi bị phạt ở lại trường sau giờ tan học vì đánh một đứa dám gọi mẹ tôi là thứ ma men. Anh bảo vấn đề không phải ở tôi, mà là ở mấy ông thầy bà cô, không nhận ra tôi có tiềm năng lớn thế nào và tôi thông minh ra sao. Anh đưa sách cho tôi đọc, như quyển The Turner Diaries[7], để cho tôi biết rằng mình không phải là người duy nhất cảm thấy người khác có âm mưu muốn dìm mình xuống. Anh cho tôi mượn CD về nhà, những ban nhạc theo chủ nghĩa dân tộc da trắng với thứ nhịp điệu nghe như tiếng búa đóng đanh. Chúng tôi lái xe đi vơ vẩn và anh sẽ nói những chuyện như chủ tịch của tất cả các đài truyền thông lớn đều có họ Do Thái như Moonves và Zucker và chúng mớm cho ta đủ thứ tin tức, để ta tin bất cứ thứ gì chúng muốn. Những chuyện anh nói có lẽ nhiều người đã nghĩ tới, nhưng chẳng bao giờ đủ dũng cảm để lên tiếng công khai. Nếu có người thấy lạ khi một thanh niên hai mươi muốn đi chơi với một thằng nhóc mười lăm, thì cũng không ai nói năng gì. Có lẽ bố mẹ thấy nhẹ nhõm vì biết lúc tôi đi với Raine, ít ra tôi cũng không đánh đấm ai hay cúp học hay đâm đầu vô rắc rối. Vậy nên lúc anh rủ tôi dự một lễ hội cùng mấy người bạn nữa, tôi chớp lấy ngay cơ hội để đi. “Ở đó có mấy thứ như kiểu ban nhạc không?” tôi hỏi, đoán rằng đó là một trong những lễ hội âm nhạc rộ khắp vùng nông thôn Vermont trong tháng Bảy. “Có, nhưng nó giống như trại hè hơn,” Raine giải thích. “Tao đã thông báo với mọi người là mày sẽ tới. Họ nóng lòng gặp mày lắm đấy.” Chưa bao giờ có ai hào hứng gặp tôi, nên tôi phấn chấn lắm. Thứ Bảy đó, tôi xách ba lô và túi ngủ rồi ngồi vào ghế hành khách với con Chihuahua tên Thịt chồm hỗm trong lòng trong khi Raine đón ba người bạn nữa - tất cả đều biết tên tôi, như thể Raine thật sự đã kể với họ về thằng tôi này. Bọn họ ai nấy đều mặc áo đen, trên ngực có logo TĐBM. “Nó là viết tắt cho cái gì vậy?” tôi hỏi. “Tử đội Bắc Mỹ[8],” Raine đáp. “Một kiểu nhóm của bọn tao ấy mà.” Tôi muốn có một cái như vậy hết sức. “Vậy, ừm, làm sao mới được làm thành viên nhóm đó?” tôi hỏi, làm ra vẻ thật tự nhiên. Một tay trong bọn phá lên cười. “Mày được mời vào,” anh ta trả lời. Ngay lúc đó tôi quyết định mình sẽ làm tất cả để được mời. Chúng tôi lái đi trong khoảng một giờ rồi Raine theo lối thoát, ngoặt về bên trái ở chỗ một tấm biển viết tay cắm cột ghi ngắn gọn hai chữ IE. Sau đó chúng tôi còn gặp nhiều tấm biển như thế, chúng chỉ lối băng những cánh đồng ngô, qua các nông trại xập xệ và cả một cánh đồng rải rác mấy con bò thơ thẩn. Khi chúng tôi lên đến một cái đỉnh hẹp, tôi thấy khoảng trăm chiếc xe đậu trên một cánh đồng bùn lầy. Cảnh tượng trông như một ngày hội lớn. Ở đó có sân khấu và một ban nhạc chơi ầm ĩ đến mức tim tôi đập thình thình như phách nặng. Các gia đình thơ thẩn đó đây ăn xúc xích rán và bánh chiên, bọn con nít vắt vẻo trên vai bố chúng trong những chiếc áo thun đề CHIẾN ĐẤU VÌ TƯƠNG LAI TRẺ EM DA TRẮNG! Con Thịt quấn quýt bên chân tôi trong sợi xích của nó, làm dây xích quấn nhằng nhịt khi nó chén vội mấy vụn bắp rang rơi rớt. Một gã lạ mặt tới vỗ vai Raine và chào đón anh nồng nhiệt kiểu lâu ngày mới gặp, để tôi một mình lảng ra xa vài mét hướng tới một trường bắn súng. Một gã béo có lông mày như sâu bướm bò ngang trán nhăn nhở cười với tôi. “Mày muốn thử không, nhóc?” Có một đứa cỡ tuổi tôi đang bắn một mục tiêu gắn trên đống củi. Nó đưa khẩu Browning bán tự động cho ông già và tới lấy lại hồng tâm. Đó là gương mặt nhìn nghiêng của một người đàn ông với cái mũi khoằm phóng đại. “Có vẻ mày giết được thằng Do Thái rồi đấy, Gunther,” người đàn ông nói, miệng cười nhăn nhở. Rồi ông ta bế con Thịt lên và chỉ tay tới một cái bàn. “Tao giữ con chó,” ông ta bảo tôi. “Mày muốn bắn gì thì chọn đi.” Có một chồng mục tiêu đủ loại: những gương mặt Do Thái nhìn nghiêng, cả mặt người Da Đen nữa, với cặp môi khổng lồ và trán dốc về sau. Họ còn có hồng tâm hình Martin Luther King Jr trên cùng in dòng chữ: GIẤC MƠ CỦA TÔI Đà THÀNH HIỆN THỰC. Trong một thoáng, tôi cảm thấy buồn nôn. Mấy bức ảnh làm tôi nhớ tới những bộ phim hoạt hình chúng tôi xem trong tiết sử, với các kiểu minh họa phóng đại gớm ghiếc đã đưa đến Chiến tranh Thế giới. Tôi tự hỏi cái công ty quái quỷ nào đã sản xuất ra thể loại mục tiêu ngắm bắn này, bởi vì chắc chắn chúng không được bán trong khu vực dụng cụ đi săn của siêu thị Wal-Mart. Như thể ở đây có cả một xã hội bí mật mà tôi chưa từng biết tới, và tôi vừa nghe thì thầm bên tai mật khẩu để được nhận vào. Tôi chộp lấy một mục tiêu có bộ tóc xoăn xù đâm ra lỉa chỉa quanh đường biên hồng tâm. Người đàn ông gắn nó lên một sợi dây phơi đồ. “Chẳng thể nhận ra đó là cái bóng,” gã cười khẩy. Đặt con Thịt lên bàn cho nó ngửi ngửi đám mục tiêu, gã kéo cái của tôi về lại bên rìa đống củi. “Mày biết dùng vũ khí chứ hả?” gã hỏi. Tôi đã vài lần thử bắn bằng súng ngắn của ông ngoại nhưng chưa bao giờ đụng tới cái gì như này. Tôi nghe người đàn ông giải thích cách hoạt động của khẩu súng; rồi tôi đeo tai nghe và kính bảo vệ, tì báng súng vào vai, nheo mắt, và bấm cò. Một loạt đạn khạc ra, như một trận ho khan. Tiếng động thu hút sự chú ý của Raine, và anh vỗ tay, có vẻ rất ấn tượng, khi mục tiêu được kéo lại chỗ tôi với ba phát đạn găm gọn vào trán. “Xem anh bạn kìa,” Raine tấm tắc. “Có khiếu đấy.” Raine gấp mục tiêu lại và nhét nó vào túi sau, để chốc nữa có thể khoe đám bạn rằng tôi là một xạ thủ cừ khôi cỡ nào. Tôi lại cầm lấy dây xích con Thịt, và chúng tôi băng qua khoảng sân tụ tập. Trên sân khấu, một người đàn ông đang thu hút sự chú ý của khán giả. Khí chất của ông quyền uy tới mức giọng nói trở thành một thứ nam châm, và tôi thấy mình bị kéo về phía đó để thấy ông rõ hơn. “Tôi muốn kể với tất cả các bạn một câu chuyện nhỏ,” người đàn ông nói. “Có một thằng da đen ở thành phố New York, vô gia cư, dĩ nhiên. Bấy giờ hắn đang đi bộ qua Công viên Trung tâm và nhiều người nghe hắn nói oang oang, tuyên bố rằng hắn sẽ đấm một thằng da trắng trong giấc ngủ. Nhưng những người này, họ không nhận ra chúng ta đang trong một cuộc chiến tranh. Rằng chúng ta đang chiến đấu bảo vệ dòng giống mình. Vậy nên họ không hành động. Họ lờ đi mối đe dọa và coi đó là lời nói càn của một thằng dở điên dở dại. Và chuyện gì đã xảy ra? Cái thứ quái vật của đất đó tiếp cận một người Mỹ da trắng - một người đàn ông như bạn, có lẽ, hoặc như tôi, một người chẳng làm gì ngoài việc sống cuộc đời Chúa đã định cho anh ta - một người đàn ông đang chăm lo cho bà mẹ già chín mươi tuổi. Con quái vật của đất đã đấm người đàn ông đó, khiến người này ngã xuống, đập đầu vào vệ đường, và chết. Người đàn ông da trắng này, chỉ đang đi dạo công viên, đã bị giáng một vết thương chí mạng. Vậy mà, các bạn đoán thử xem - chuyện gì đã xảy ra với thằng da đen kia? Ồ, những người anh em, chị em của tôi... tuyệt nhiên chẳng có chuyện gì cả” Tôi nghĩ tới kẻ đã giết anh trai tôi, tự do đi khỏi phòng xét xử. Tôi nhìn những người xung quanh gật đầu và vỗ tay, rồi nghĩ: Tôi không đơn độc. “Ông ấy là ai vậy?” tôi hỏi. “Francis Mitchum,” Raine thì thầm, “ông ấy là một trong nhóm thành viên kỳ cựu. Nhưng ổng, ừm, là một huyền thoại.” Anh bạn tôi gọi tên người diễn thuyết như cách một người ngoan đạo gọi Chúa trời - nửa thì thầm, nửa cầu nguyện. “Mày thấy cái mạng nhện trên khuỷu tay ổng không? Mày chỉ được xăm nó khi đã giết người. Mỗi lần giết, mày được thêm một con ruồi.” Raine ngừng lại. “Mitchum, ổng có tới mười con.” “Tại sao bọn da đen không bao giờ bị tuyên phạt vì tội phân biệt chủng tộc?” Francis Mitchum hỏi, một câu hỏi tu từ. “Vì sao chúng được miễn tội? Chúng làm gì có cửa được khai hóa, nếu không nhờ sự giúp đỡ của người da trắng. Hãy xem chúng tới từ đâu, từ châu Phi. Ở đó còn chẳng có chính quyền văn minh. Tất cả bọn chúng đang tàn sát lẫn nhau ở Sudan. Người Hutu giết người Tutsi. Và chúng cũng đang làm chuyện đó trên đất nước chúng ta. Mấy băng nhóm trong các thành phố của ta - đó chỉ là xung đột bộ tộc giữa bọn đen. Và giờ, chúng đang nhắm vào người Mỹ da trắng. Bởi vì chúng biết chúng có thể thoát tội.” Ông cao giọng khi hướng mắt nhìn ra đám đông. “Giết một thằng da đen cũng như giết một con hươu.” Rồi ông ngừng lại. “Thật ra, tôi xin rút lại câu đó. Ít ra thịt hươu còn ăn được.” Nhiều năm sau, tôi nhận ra lần đầu tiên mình đến Trại Đế chế Vô hình - lần đầu tiên tôi nghe Francis Mitchum diễn thuyết - có lẽ Brit cũng đang ở đó, cùng đi với bố mình. Tôi thích nghĩ rằng có khi lúc ấy, Brit đang đứng phía bên kia sân khấu, lắng nghe người diễn giả mê hoặc đám đông. Rằng có khi chúng tôi đã va phải nhau tại quầy kẹo bông gòn, hoặc đứng cạnh bên nhau khi tia lửa từ cây thập giá bốc cháy bắn lên nền trời đêm tăm tối. Rằng chúng tôi đã được trời định cho nhau. Trong một tiếng đồng hồ, Brit và tôi tung ra hết cái tên này đến cái tên khác như ném bóng chày: Robert, Ajax, Will. Garth, Erik, Odin. Mỗi lần tôi nghĩ mình đã nảy ra cái gì đó mạnh mẽ và đúng chất da trắng, Brit lại nhớ tới một đứa nhỏ cùng tên trong lớp cô ấy, cái đứa đã từng xơi hồ dán hay nôn mửa vô cái kèn tuba của nó. Mỗi lần vợ tôi nêu ra một cái tên cô ấy thích, nó lại làm tôi nhớ tới thằng khốn nào đó tôi từng đụng phải. Khi cuối cùng nó cũng đến với tôi, như một tia sét, tôi nhìn xuống gương mặt say ngủ của con trai và thì thầm: Davis. Họ của vị chủ tịch Liên minh miền Nam Hoa Kỳ. Brit nhẩm cái tên này trong miệng. “Nó thật khác biệt.” “Khác biệt là tốt mà.” “Davis thì được, nhưng không được Jefferson à,” vợ tôi gặng lại. “Không, vì thế thì thằng bé sẽ được gọi là Jeff.” “Và Jeff là cái tay hút ma túy và sống trong tầng hầm nhà bà mẹ hắn,” Brit tiếp luôn. “Nhưng Davis,” tôi khẳng định, “Ừm, Davis là đứa trẻ được mấy đứa khác ngưỡng mộ.” “Không phải Dave. Hoặc Davy hay David.” “Đứa nào dám gọi sai tên con mình như vậy sẽ bị nó cho một trận nhớ đời,” tôi hứa. Tôi chạm vào mép tấm chăn quấn con tôi, không muốn đánh thức thằng bé. “Davis,” tôi gọi, thử cái tên. Đôi bàn tay bé xíu của nó mở ra, như thể nó đã biết tên mình. “Chúng ta nên ăn mừng,” Brit nói khẽ. Tôi cúi xuống mỉm cười với vợ. “Em nghĩ họ có bán champagne ở căn tin không nhỉ?” “Anh biết em thật sự muốn món gì không? Chocolate sữa lắc.” “Anh tưởng người ta chỉ thèm ăn trước khi sinh con thôi chứ...” Brit bật cười. “Em khá chắc là mình có thể dùng chiêu bài hormone ít nhất ba tháng nữa...” Tôi đứng dậy, tự hỏi chẳng biết căn-tin có mở cửa lúc bốn giờ sáng không. Thế nhưng tôi thật sự không muốn rời đi. Ý tôi là, Davis chỉ vừa đến đây thôi mà. “Rủi anh bỏ lỡ cái gì thì sao?” Tôi hỏi. “Em biết đấy, một cột mốc quan trọng nào đó chẳng hạn.” “Đâu phải như thằng bé sẽ ngồi dậy, đứng lên đi hay tự dưng nói được đâu anh,” Brit đáp. “Nếu anh có bỏ lỡ cái gì thì đó là lần đầu tiên cu cậu đi ị, và thật ra, đó là thứ mà anh sẽ muốn tránh.” Cô ấy ngước nhìn tôi với cặp mắt xanh lam lúc thì thẫm màu như biển, lúc lại trong vắt như thủy tinh, bao giờ cặp mắt ấy cũng khiến tôi có thể vì vợ mà làm tất cả. “Chỉ năm phút thôi mà,” Brit nài nỉ. “Năm phút.” Tôi nhìn xuống con trai lần nữa, chân chẳng muốn bước đi. Tôi muốn ở đây và đếm đi đếm lại những ngón tay thằng bé, cả những cái móng xíu xiu kia. Tôi muốn ngắm đôi vai nhỏ dâng lên và hạ xuống khi con thở. Tôi muốn nhìn cặp môi hơi chu ra, như thể trong mơ thằng nhỏ đang hôn ai đó. Thật điên rồ khi nhìn vào thằng bé, bằng xương bằng thịt, và biết rằng Brit cùng tôi có thể tạo nên một thứ có thực và chắc chắn từ loại nguyên liệu hư ảo và mơ hồ như tình yêu. “Lấy kem sữa béo và một trái anh đào anh nhé,” Brit nói thêm, phá vỡ cơn mơ mộng của tôi. “Nếu họ có.” Một cách miễn cưỡng, tôi lách ra ngoài hành lang, đi qua khu vực của y tá, xuống thang máy. Căn-tin đang mở cửa, do một người phụ nữ đội lưới trùm tóc đang chơi ô chữ trông nom. “Cô có bán sữa lắc không?” Tôi hỏi. Cô này liếc mắt lên nhìn tôi. “Không.” “Còn kem thì sao?” “Có, nhưng chúng tôi hết rồi. Sáng xe chở hàng mới tới.” Cô này không có vẻ gì là muốn giúp đỡ tôi, và chuyển sự chú ý trở lại cái ô chữ. “Tôi vừa có con,” tôi buột miệng. “Wow,” cô ả đáp lạnh tanh. “Một phép màu y học, ngay trong hàng chờ mua đồ của tôi.” “À không, vợ tôi mới sanh con,” tôi sửa lại. “Và cô ấy muốn uống sữa lắc.” “Tôi muốn trúng số và có được tình yêu bất diệt của diễn viên Benedict Cumberbatch, nhưng thay vào đó tôi phải chấp nhận cái cuộc sống huy hoàng này.” Nữ nhân viên nhìn tôi như thể tôi đang làm mất thời giờ của cô ả; như thể có hàng trăm người đang xếp hàng chờ sau tôi. “Anh muốn nghe lời khuyên của tôi không? Mua kẹo cho cô ấy. Ai cũng thích chocolate hết.” Cô ả thò tay ra sau và lôi xuống một hộp chocolate Ghirardelli vuông. Tôi lật nó úp xuống, xem xét cái nhãn. “Cô chỉ có vậy thôi à?” “Ghirardelli đang giảm giá.” Tôi lật trở lên và thấy biểu tượng vòng tròn có chữ U - chứng tỏ nó là hàng đạt chuẩn Do Thái, rằng bạn phải trả một khoản thuế cho bọn mafia Do Thái. Tôi để nó lại lên kệ và đặt lên quầy một gói kẹo Skittles, với hai đô. “Cô khỏi thối nhé,” tôi bảo ả nhân viên. Sau bảy giờ, cánh cửa mở ra, và ngay sau đó tôi trở nên căng thẳng. Kể từ khi Davis ra đời, Lucille đã vào đây hai lần - để kiểm tra tình trạng Brit và đứa trẻ, và để xem thằng bé bú được chưa. Nhưng lần này - cái thứ này không phải là Lucille. “Tên tôi là Ruth,” cô ta giới thiệu. “Tôi là y tá chăm sóc cho chị hôm nay.” Tất cả những gì tôi nghĩ được khi đó là: Mày phải bước qua xác tao đã. Phải vận hết từng chút khả năng kiềm chế trong người tôi mới không đẩy cô ta xa khỏi vợ tôi, con trai tôi. Nhưng đám bảo vệ chỉ cách đây một tiếng còi báo động, và nếu họ tống tôi ra khỏi bệnh viện, gia đình tôi biết làm sao? Nếu tôi không thể ở đây để bảo vệ người nhà mình, thì thế là tôi đã bại. Vậy nên thay vào đó, tôi ngồi sát ra mép ghế, tất cả cơ bắp trong người chuẩn bị phản ứng. Brit giữ Davis chặt đến độ tôi nghĩ thằng bé sắp ré lên. “Thằng bé đáng yêu làm sao!” nữ y tá da đen tấm tắc. “Tên bé là gì vậy?” Vợ tôi nhìn sang tôi, ánh mắt dò hỏi. Cô ấy chẳng muốn trò chuyện với con mụ y tá này gì hơn với một con dê hay con thú gì khác. Nhưng cũng như tôi, Brit biết người da trắng đã trở thành bộ phận thiểu số ở đất nước này và chúng tôi luôn là đối tượng bị tấn công; chúng tôi phải cố gắng hòa nhập. Tôi gật cằm một lần, khẽ tới nỗi tôi chẳng biết Brit có thấy không. “Tên thằng bé là Davis,” vợ tôi đáp gọn. Nữ y tá đến gần chúng tôi hơn, miệng nói gì đó về việc kiểm tra Davis, và Brit co lại. “Cô không cần phải rời thằng bé,” cô ta nhượng bộ. Thế rồi tay cô ta bắt đầu rờ rẫm khắp người con tôi, như kiểu thầy phù thủy điên chữa bệnh. Cô ta ấn ống nghe lên lưng Davis rồi len nó vào giữa thằng bé và Brit. Cô ta nói gì đó về tim của con tôi, và tôi gần như chẳng nghe được gì vì máu dồn về sôi réo bên tai. Thế rồi cô ta bế thằng bé lên. Brit và tôi rất sốc khi cô ta tự tiện bồng con chúng tôi đi - dù chỉ đến chỗ máy sưởi để tắm - đến nỗi nhất thời cả tôi và vợ đều không nói nên lời. Tôi bước về phía y tá, tới chỗ cô ta đang cúi xuống bên trên con trai tôi, nhưng Brit nắm đuôi áo tôi lại. Đừng làm to chuyện. Chẳng lẽ anh cứ phải đứng đực ở đây? Chứ anh muốn cô ta biết anh khó chịu và trút hết lên đầu con mình hả? Anh muốn Lucille trở lại. Chuyện gì xảy ra với Lucille rồi? Em đâu biết. Có lẽ chị ta đi rồi. Sao cô ta làm vậy được, khi bệnh nhân của cô ta còn ở đây? Em có biết đâu, anh Turk, em đâu phải là người điều hành bệnh viện này. Tôi dõi theo nữ y tá như diều hâu trong lúc cô ta lau chùi cho Davis, gội đầu và lấy khăn quấn thằng bé lại. Cô ta đeo một cái vòng điện tử nhỏ lên cổ chân con tôi - như cái mà bạn thỉnh thoảng vẫn thấy trên các tù nhân đã được thả ra nhưng bị quản chế. Như thể chưa gì thằng nhỏ đã bị hệ thống này trừng phạt. Tôi nhìn nữ y tá da đen trừng trừng, dữ dội đến độ cô ta có bốc cháy thì tôi cũng chẳng thấy ngạc nhiên. Cô ta mỉm cười với tôi, nhưng ánh mắt chẳng có gì là tươi cười cả. “Thơm tho sạch sẽ,” cô ta thông báo. “Nào, để xem chúng ta có thể cho cu cậu bú được không.” Nữ y tá tiến tới mở cổ bộ váy bệnh nhân của Brit, và tôi không đừng được nữa. “Tránh xa cô ấy ra,” tôi nói, giọng trầm và thẳng thừng như một mũi tên. “Tôi muốn nói chuyện với sếp của cô.” Một năm sau ngày tôi đến Trại Đế chế Vô hình, Raine hỏi tôi có muốn gia nhập Tử đội Bắc Mỹ không. Chỉ tin vào điều Raine tin tưởng thôi thì không đủ, rằng da trắng là chủng tộc thượng đẳng. Đã đọc đi đọc lại Mein Kampf[9] đến ba lần cũng không đủ nốt. Để trở thành một trong số họ, đúng nghĩa, tôi phải chứng tỏ bản thân, và Raine hứa rằng tôi sẽ biết ở đâu và khi nào là đến đúng thời điểm. Một đêm nọ khi đang ở nhà bố, tôi tỉnh dậy vì nghe có tiếng đập cửa sổ phòng mình. Tôi không lo ngại họ sẽ đánh thức người trong nhà; bố tôi đã đi dự tiệc tối để bàn chuyện kinh doanh ở Boston, sau nửa đêm mới về. Ngay khi tôi vừa kéo cửa lên, Raine và hai thằng nữa xộc vào, đóng bộ đen thùi như ninja. Raine lập tức vật tôi xuống sàn, cẳng tay chèn lên họng tôi. “Nguyên tắc số một,” anh nói, “không mở cửa nếu mày không biết ai sẽ vào.” Anh ta chờ đến khi tôi nổ đom đóm mắt rồi mới thả tôi ra. “Nguyên tắc số hai: không bắt tù nhân.” “Em không hiểu,” tôi lên tiếng. “Tối nay, Turk,” anh bạn bảo tôi, “chúng ta là những người canh giữ. Chúng ta sẽ dọn sạch rác rưởi ở Vermont này.” Tôi tìm một chiếc quần thể thao đen và một áo len dài tay in lưới mà tôi lộn trái mặc, để đen đồng bộ. Vì tôi không có nón len đen nên Raine đưa tôi đội cái của anh, còn anh cột túm tóc lại thành đuôi ngựa. Chúng tôi lái đi trong xe của Raine, chuyền tay nhau một chai Jägermeister và mở nhạc rock ầm ĩ, lái tới Dummerston. Tôi chưa bao giờ nghe nói tới Rainbow Cattle Company, nhưng vừa tới nơi, tôi đã hiểu ngay đó là chỗ như thế nào. Có những người đàn ông nắm tay nhau khi đi từ bãi đậu xe vào quán bar, và mỗi lần cửa mở, người đứng ngoài lại thoáng thấy một cái sân khấu chiếu đèn sáng trưng và một “nữ hoàng giả hiệu”[10] đang hát nhép. “Làm gì thì làm cũng đừng có cúi xuống,” Raine cười hinh hích. “Chúng ta làm gì ở đây vậy?” tôi hỏi, không rõ tại sao anh lại lôi tôi tới một quán bar cho bọn gay. Vừa lúc đó thì hai người đàn ông bước ra, khoác tay nhau. “Làm cái này này,” Raine đáp, và anh nhảy bổ vào một trong hai gã lạ mặt, đập đầu hắn xuống đất. Bạn hẹn của hắn chạy đi hướng khác, nhưng bị vật ngã bởi một người bạn của Raine. Cánh cửa lại mở ra, và một cặp nam khác loạng choạng bước vào bóng tối bên ngoài. Đầu hai người tựa vào nhau trong khi họ cùng cười vì một trò đùa riêng nào đó. Một người thò tay vào túi lấy chùm chìa khóa, và khi ông ta quay đầu về phía bãi đỗ, gương mặt ông được ánh đèn một chiếc xe chạy ngang chiếu sáng. Lẽ ra tôi phải liên kết được mọi chuyện với nhau sớm hơn - cái dao cạo điện trong tủ thuốc, khi mà bố tôi toàn dùng dao cạo thường; tuyến đường vòng bố thường chọn để ngừng lại mua cà phê mỗi ngày trên đường đi và về từ chỗ làm tại cửa hàng của Greg; cách ông bỏ lại mẹ tôi nhiều năm trước chẳng giải thích một lời; việc ông ngoại chẳng lúc nào ưa bố. Tôi giật mũ xuống thấp hơn và kéo cái đồ bịt mặt Raine đưa lên cao, để mình không bị nhận ra. Thở hồng hộc, Raine tung thêm một cú đá vào nạn nhân của anh rồi để gã đó cuống cuồng bỏ chạy vào màn đêm. Anh đứng thẳng dậy, cười với tôi, và hất đầu, chờ tôi lên trước. Nhờ vậy mà tôi nhận ra rằng trong khi mình chẳng mảy may hay biết, Raine đã biết tỏng chuyện bố tôi từ đầu. Năm tôi bốn tuổi, cái nồi đun nước nóng trong nhà tôi nổ tung đúng lúc nhà chẳng có ai. Tôi nhớ đã hỏi nhân viên đánh giá thiệt hại của công ty bảo hiểm xem cái gì trục trặc, ông ta nói gì đó về van an toàn và sự ăn mòn rồi đung đưa hết chân này tới chân kia, ông bảo khi có quá nhiều hơi nước, mà cấu trúc của vật chứa không đủ mạnh để giữ nó bên trong, chuyện thế này sẽ xảy ra. Suốt mười sáu năm ròng, hơi nước nóng tích tụ trong tôi, vì tôi không phải và sẽ không bao giờ là người anh đã chết; vì tôi không thể giữ bố mẹ lại bên nhau; vì tôi không phải là đứa cháu trai mà ông ngoại muốn có; vì tôi quá ngu ngốc, quá nóng đầu hay kỳ cục. Khi tôi nghĩ lại khoảnh khắc đó, nó nóng đến trắng lòa: túm lấy cổ họng bố và dộng đầu ông xuống vệ đường; bẻ quặt tay ông ra sau lưng và đá lên tấm lưng đó đến khi ông hộc máu. Lật cái thân hình mềm oặt ngửa lên, gọi ông là thằng bóng, trong khi dộng nắm đấm vào mặt ông lần nữa rồi lần nữa. Vùng vẫy kịch liệt trong tay Raine, trong lúc anh kéo tôi đến chỗ an toàn khi tiêng còi cứ lớn dần rồi ánh sáng đỏ xanh nhuộm khắp bãi xe. Câu chuyện truyền đi, như mọi câu chuyện khác, và trong quá trình đó, nó đã bị thổi phồng và biến tướng: Thành viên mới nhất của Tử đội Bắc Mỹ - tức là tôi - đã tấn công sáu thằng cùng lúc. Một tay tôi cầm ống đồng còn một tay múa dao. Tôi đã cắn đứt dái tai một gã và nuốt chửng nó. Dĩ nhiên, không có gì trong đó là sự thật. Nhưng cái này thì đúng: Tôi đã đánh bố mình tàn tệ đến mức ông bị đưa vào viện, và người ta phải cho ông ăn qua ống hút hàng tháng ròng. Và nhờ đó, tôi đã trở thành huyền thoại. “Chúng tôi muốn cô y tá kia trở lại,” tôi bảo cái cô y tá phụ trách tên Mary hay Marie gì đó. “Cái cô ở đây tối qua ấy.” Cô này yêu cầu nữ y tá da đen đi ra, để chúng tôi nói chuyện riêng. Tôi kéo ống tay áo xuống, nhưng mắt cô ta vẫn liếc về phía cẳng tay tôi. “Tôi có thể đảm bảo với anh rằng Ruth có hơn hai mươi năm kinh nghiệm ở đây,” y tá phụ trách nói. “Tôi nghĩ cô và tôi đều biết tôi không phản đối vì kinh nghiệm của cô ta,” tôi đáp. “Chúng tôi không thể đổi một nhân viên y tế đi vì lý do chủng tộc. Đó là hành vi phân biệt đối xử.” “Nếu tôi yêu cầu được chăm sóc bởi một nữ bác sĩ sản khoa thay vì nam bác sĩ, thế có phải là phân biệt đối xử không?” Brit hỏi. “Hoặc một bác sĩ thực thụ thay vì sinh viên thực tập? Nhưng mấy người vẫn đồng ý làm vậy suốt mà.” “Chuyện đó khác,” y tá trả lời. “Khác chỗ nào, hả?” tôi gặng hỏi. “Theo tôi biết, các người đang làm việc trong ngành chăm sóc khách hàng, và tôi chính là khách hàng đây. Các người làm sao cho khách hàng thấy thoải mái thì làm.” Tôi đứng dậy và hít vào một hơi sâu, cao vượt lên trấn áp cô ta, chủ ý đe dọa. “Tôi không tưởng tượng được những ông bố bà mẹ ở đây sẽ bất an đến thế nào, nếu, cô biết đấy, mọi chuyện vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Nếu thay vì trò chuyện một cách bình tĩnh, dễ chịu thế này, chúng ta lại lớn tiếng với nhau. Nếu các bệnh nhân khác đâm ra lo ngại rằng có khi quyền lợi của họ cũng bị phớt lờ.” Nữ y tá mím chặt môi. “Anh đang dọa dẫm tôi đấy à, anh Bauer?” “Tôi không nghĩ việc đó là cần thiết,” tôi đáp gọn. “Cô nghĩ sao?” Sự căm ghét cũng có nhiều cấp độ, và với mỗi người thì thứ tự này lại khác nhau. Cá nhân tôi ghét bọn nói tiếng Tây Ban Nha hơn người châu Á, tôi còn ghét lũ Do Thái hơn, và trên tất cả, tôi khinh đám mọi đen. Thế nhưng hơn cả các nhóm này, người mà ta ghét nhất là cái đám da trắng chống phân biệt chủng tộc. Bởi vì chúng là đồ phản bội. Trong một thoáng, tôi chờ xem Marie có phải một trong số đó không. Một sợi cơ trên cổ cô ta giần giật. “Tôi chắc rằng chúng ta có thể tìm một giải pháp đẹp lòng cả đôi bên,” cô ta lẩm bẩm. “Tôi sẽ ghi chú vào hồ sơ của Davis, nêu rõ... ý muốn của anh chị.” “Tôi cho đó là ý hay đấy,” tôi nhận xét. Khi cô ta căm phẫn rời khỏi phòng, Brit phá ra cười. “Anh yêu, khi bốc lên anh ngầu thật đấy. Nhưng anh biết không, sau chuyện này thể nào họ cũng nhổ nước bọt vào rau câu trái cây trước khi đưa em ăn.” Tôi đưa tay vào nôi và bế Davis ôm vào lòng. Thằng bé nhỏ đến mức có duỗi thẳng người cũng chưa bằng cẳng tay tôi. “Cần gì thứ đó, anh sẽ mang bánh quế từ nhà lên cho em,” tôi bảo Brit. Rồi tôi cúi xuống hôn lên trán con tôi, và thì thầm bên làn da nó, một bí mật của riêng chúng tôi. “Và con,” tôi hứa. “Con, bố sẽ bảo vệ con đến suốt đời.” Vài năm sau khi tôi bắt đầu tham gia phong trào Quyền lực Trắng, khi tôi đang điều hành TĐBM ở Connecticut, gan của mẹ tôi cuối cùng cũng hỏng hẳn. Tôi về nhà để giải quyết chuyện di sản và bán cái nhà của ông ngoại đi. Khi soạn lại đồ đạc của mẹ, tôi tìm thấy biên bản phiên tòa vụ anh tôi. Vì sao mẹ lại có nó, tôi không biết; chắc bà đã phải cố gắng lắm để lấy được nó. Tôi ngồi trên sàn gỗ phòng khách, xung quanh bừa bộn những thùng đồ sẽ đi tới Goodwill[11] và vào bãi rác, đọc hết xấp biên bản - từng trang một. Phần lớn lời khai đều rất mới với tôi, như thể tôi chưa từng ngồi nghe không sót phút nào phần khai nhận hôm đó. Tôi không nói được là mình quá nhỏ nên chẳng nhớ, hay tôi đã cố tình quên đi, nhưng chứng cứ tập trung vào dải phân cách và kết quả kiểm tra thuốc cấm. Không phải của bị đơn - mà của anh tôi. Là xe của Tanner đã chạy vào đường đi xe khác, bởi vì anh đang phê thuốc. Dấu bánh xe đã nói lên tất cả: bằng chứng cho thấy người đàn ông bị xét xử vì vô ý gây chết người đã cố gắng hết sức để tránh chiếc xe đi vào làn của ông ta. Lý do mà bồi thẩm đoàn không thể tuyên bố, không chút nghi ngờ, rằng tai nạn xe hoàn toàn là lỗi của bị cáo. Tôi ngồi đó một lúc lâu với xấp biên bản trên đùi. Đọc đi. Rồi đọc lại. Thế nhưng tôi chỉ thấy thế này: nếu thằng da đen không lái xe đi lung tung đêm đó, anh tôi đã không chết. Ruth Trong hai mươi năm làm việc, tôi từng một lần bị bệnh nhân đuổi đi, trong hai tiếng đồng hồ. Nữ bệnh nhân gào thét điên dại và nhắm đầu tôi ném một cái bình hoa trong cơn đau chuyển dạ. Nhưng cô đã nhận lại tôi khi tôi đem thuốc cho cô. Sau khi Marie bảo tôi ra ngoài, tôi đứng ngoài hành lang một lúc, lắc đầu. “Có chuyện gì vậy chị?” Corinne hỏi, ngước mắt nhìn lên từ một tờ biểu ở bàn y tá. “Một ông bố cực tốt ấy mà,” tôi đáp tỉnh. Corinne nhăn mặt. “Tệ hơn cái Gã Cắt Ống Dẫn Tinh nữa hả chị?” Chuyện là trước đây có lần tôi tiếp nhận một bệnh nhân đang chuyển dạ mà chồng vừa phẫu thuật cắt ống dẫn tinh hai hôm trước đó. Mỗi lần nữ bệnh nhân kêu đau, anh chồng cũng kêu theo. Có bữa, anh ta còn gọi tôi vào nhà vệ sinh và tụt quần xuống để cho tôi thấy cái bìu đang viêm tấy, trong lúc nữ bệnh nhân cáu kỉnh càu nhàu. Tôi đã bảo anh ấy gọi bác sĩ, vợ anh ta nói. Thế nhưng Turk Bauer không ngớ ngẩn và ích kỷ; căn cứ vào cách anh ta phô ra cái hình xăm lá cờ Liên minh đó, tôi đoán gã này không ưa người da màu. “Tệ hơn.” “Không sao đầu chị,” Corinne nhún vai. “Chị Marie rất giỏi xoa dịu mọi người. Em chắc rằng chị ấy có thể dàn xếp ổn thỏa, bất kể vấn đề là gì đi nữa.” Vấn đề này thì không, trừ phi chị ấy có thể biến tôi thành người da trắng, tôi nghĩ. “Chị chạy ra căn-tin năm phút. Có gì thì em làm thay chị nhé?” “Cho em gói kẹo Twizzlers là được,” Corinne đáp. Ở Ở căn-tin tôi đứng im trước quầy cà phê vài phút, nghĩ về hình xăm trên tay Turk Bauer. Tôi không có vấn đề gì với người da trắng. Tôi sống trong một cộng đồng da trắng; tôi có bạn bè da trắng; tôi cho con đi học ở một ngôi trường mà tuyệt đại đa số là người da trắng. Tôi đối xử với họ như cách tôi muốn người ta đối xử với mình - dựa trên những phẩm chất riêng của con người họ, không phải màu da. Thế nhưng dẫu sao những người da trắng cùng tôi làm việc, cùng tôi ăn trưa và dạy học cho con trai tôi không phải là kiểu thể hiện định kiến công khai. Tôi lấy hai gói Twizzlers cho Corinne và một ly cà phê cho mình. Tôi cầm ly tới chỗ để các loại gia vị như sữa, đường, chất làm ngọt không calorie Dplenda. Có một bà lớn tuổi đang loay hoay với cái nắp bình đựng kem, cố mở nó ra. Ví của bà đặt trên quầy, nhưng khi tôi lại gần, bà cầm lên và kẹp nó vào bên hông, tay chặn lấy dây đeo. “Ồ, cái bình đó có hơi khó mở,” tôi lên tiếng. “Cháu giúp bà nhé?” Bà cảm ơn tôi và mỉm cười khi tôi đưa kem cho bà. Tôi chắc rằng bà còn không nhận ra mình đã dời cái ví khi tôi tiến lại. Nhưng tôi thì có. Quên chuyện đó đi, Ruth, tôi tự nhắc mình. Tôi không phải là kiểu nhìn ai cũng thấy xấu xa; đó là kiểu của chị Adisa thôi. Tôi lên thang máy và về lại tầng của mình. Đến nơi, tôi ném mấy gói Twizzlers cho Corinne và đi về phía cửa phòng của Brittany Bauer. Tờ biểu ghi tình trạng của cô và tờ ghi của Davis nhỏ nằm bên ngoài; tôi cầm tờ thông tin của bé lên xem để đảm bảo bác sĩ nhi được lưu ý về tiếng rì rầm lạ ở tim. Thế nhưng khi tôi mở cặp hồ sơ ra, có một tờ giấy ghi chú màu hồng dán trên mặt giấy. KHÔNG ĐỂ NHÂN VIÊN NGƯỜI MỸ GỐC PHI CHĂM SÓC BỆNH NHÂN NÀY. Gương mặt tôi nóng bừng lên. Marie không có mặt ở bàn y tá phụ trách; tôi bắt đầu đi từ phòng này đến phòng khác tìm cho đến khi trông thấy cô ấy đang nói chuyện với một bác sĩ nhi ở phòng trẻ em. “Marie,” tôi gọi, dán lên mặt một nụ cười. “Cô có một phút không?” Marie theo tôi về bàn y tá, nhưng tôi thật sự không muốn nói chuyện này ở chỗ đông người. Thay vào đó, tôi vội kéo cô vào phòng nghỉ. “Cô đùa tôi đó sao?” Marie không giả vờ không hiểu. “Ruth, không có gì đâu. Hãy coi việc này như là phân công người chăm sóc theo tín ngưỡng của gia đình bệnh nhân đi.” “Cô không thể so chuyện này với tín ngưỡng được.” “Chỉ là thủ tục thôi. Người cha quá nóng tính; đây có vẻ là cách dễ nhất để xoa dịu anh ta trước khi anh ta làm gì quá đáng.” “Cách này thì không quá đáng à?” tôi gặng hỏi. “Nghe này,” Marie lý luận. “Tôi đang giúp cho cô đấy. Để cô khỏi phải dính dáng gì tới cái gã đó nữa. Nói thật lòng, chuyện này không phải nhằm vào cô, Ruth à.” “Thật à,” tôi lạnh nhạt đáp. “Có bao nhiêu nhân viên là người Mỹ gốc Phi ở khoa này?” Cả hai chúng tôi đều biết câu trả lời. Một con số không to tướng. Tôi nhìn thẳng vào mắt y tá phụ trách. “Cô không muốn tôi động vào đứa bé đó chứ gì?” tôi nói. “Được. Tốt thôi.” Rồi tôi đóng cửa lại sau lưng mình, mạnh đến nỗi nó rung lên lạch cạch. Có lần, vấn đề tôn giáo đã ảnh hưởng tới việc tôi chăm sóc một đứa bé sơ sinh. Một cặp vợ chồng Hồi giáo đến bệnh viện để sinh con, và người cha giải thích rằng anh ta phải là người đầu tiên nói chuyện với bé. Khi anh ta bảo tôi chuyện này, tôi trả lời rằng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để đáp ứng yêu cầu của anh ta, nhưng nếu có biến chứng gì trong quá trình sinh nở, ưu tiên trước hết của tôi là đảm bảo đứa trẻ được cứu sống - mà như vậy thì bắt buộc phải có sự trao đổi với nhau, tức là khó có khả năng hoặc không thể giữ im lặng trong phòng sinh. Tôi để cho cặp vợ chồng thảo luận riêng với nhau, và cuối cùng người cha gọi tôi trở lại. “Nếu có biến chứng gì,” anh nói với tôi, “tôi hy vọng đấng Allah sẽ hiểu.” Sau cùng, người vợ đã có một ca sinh suôn sẻ. Trước khi đứa trẻ ra đời, tôi nhắc lại yêu cầu của bệnh nhân cho bác sĩ nhi, và bác sĩ đã ngừng thông báo sự xuất hiện của cái đầu, vai phải, vai trái như tường thuật bóng đá. Âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng khóc của bé. Tôi đỡ bé sơ sinh lên, mình bé trơn như một chú cá, và đặt cu cậu vào cái khăn trên tay người cha. Anh này cúi xuống bên cái đầu bé xíu của con trai, và thì thầm với con bằng tiếng Ả Rập. Rồi anh ta đặt con vào vòng tay vợ, và căn phòng lại bùng lên những tiếng động lao xao. Sau đó cùng ngày, khi trở lại kiểm tra tình hình hai bệnh nhân của mình, tôi thấy họ đang say ngủ. Người cha đứng bên nôi, nhìn con không chớp mắt như thể vẫn chưa hiểu chuyện này đã xảy ra như thế nào. Đó là vẻ mặt tôi thường thấy ở những người cha, với họ, việc mang thai sinh con dường như không có thực mãi cho đến giờ phút này. Người mẹ có chín tháng để quen với việc chia sẻ những khoảng trống trong tim; với người làm cha, chuyện đó xảy ra đột ngột, như một cơn bão quét qua thay đổi cảnh vật xung quanh mãi mãi. “Con trai của anh đẹp lắm,” tôi nói, và người cha nuốt vào. Tôi đã học được rằng, có những cảm xúc mà con người chẳng bao giờ sáng tạo được từ ngữ nào để gọi tên. Tôi ngập ngừng, rồi hỏi điều tôi vẫn nghĩ mãi từ lúc vợ anh sinh xong đến giờ. “Nếu không có gì quá tọc mạch, anh có thể cho tôi biết anh đã nói gì với con trai không?” “Lời cầu nguyện,” người cha giải thích. “Thiên Chúa vĩ đại; không có Thiên Chúa nào khác ngoài Allah. Muhammad là thiên sứ của Allah.” Anh ngước nhìn tôi và mỉm cười. “Người Hồi giáo chúng tôi muốn lời đầu tiên một đứa trẻ được nghe là lời cầu nguyện.” Thật là hợp lẽ, vì mỗi đứa trẻ sinh ra đều là một phép màu. Sự khác biệt giữa yêu cầu của người cha Hồi giáo và yêu cầu mà Turk Bauer đưa ra cũng như sự khác biệt giữa ánh ngày và đêm tối. Giữa yêu thương và căm ghét. Đó là một buổi chiều bận rộn nên tôi không có thời gian nói chuyện với Corinne về bệnh nhân mới mà cô phải tiếp nhận, cho đến khi cả hai chúng tôi choàng áo khoác vào và đi về phía thang máy. “Chuyện đó là sao vậy chị?” Corinne hỏi. “Marie không để chị nhận ca đó nữa vì chị là người da đen,” tôi kể. Corinne nhăn mũi. “Nghe không giống Marie gì hết.” Tôi quay lại nhìn cô y tá, tay tôi giữ nguyên trên ve áo. “Vậy ắt là chị nói dối?” Corinne đặt tay cô lên cánh tay tôi. “Dĩ nhiên là không. Em chắc rằng có vấn đề gì khác đó thôi.” Thật không phải khi trút sự ấm ức của mình lên Corinne, người bây giờ phải đối phó với cái gia đình kinh khủng nọ. Tôi thật không phải khi nổi giận với cô ấy, trong khi thực ra người tôi giận là Marie. Corinne, cô ấy luôn là “đồng phạm” giúp đỡ tôi, không phải là kẻ thù. Thế nhưng tôi nghĩ dù mình có nói đến tím tái mặt mày thì cô ấy cũng không hiểu được cảm giác của tôi lúc này. Có lẽ tôi nên nói đến tím tái mặt mày. Có lẽ khi đó tôi sẽ được nhà Bauer chấp nhận. “Sao cũng được,” tôi buông xuôi. “Đứa bé đó không có ý nghĩa gì với chị hết.” Corinne nghiêng đầu. “Chị muốn uống một ly trước khi về nhà không?” Tôi thả lỏng vai. “Không được rồi. Edison đang đợi chị.” Chuông thang máy reo, và cánh cửa mở ra. Buồng thang đầy nhóc người, vì lúc ấy đang là giờ tan sở. Nhìn chòng chọc vào tôi là một biển những gương mặt da trắng vô cảm. Bình thường thì tôi cũng không để ý mấy chuyện này. Nhưng đột nhiên, đó là tất cả những gì tôi thấy. Tôi quá mệt mỏi khi bản thân là y tá da đen duy nhất ở khoa sản. Tôi quá mệt mỏi vì vờ như chuyện đó không thành vấn đề. Tôi mệt lắm rồi. “Em biết gì không,” tôi quay sang Corinne. “Chị nghĩ chị sẽ dùng thang bộ.” Lúc mới lên năm, tôi không thể hòa nhập được. Mặc dù đã biết đọc từ tuổi lên ba - thành quả của việc đêm nào đi làm về má cũng chịu khó dạy kèm cho đứa con nhỏ - nhưng nếu thấy từ “trời” tôi sẽ phát âm là “rời”. Cả họ của mình, Brooks, cũng bị tôi biến thành “rooks”. Má đã đến hiệu sách và mua về một cuốn tập nối phụ âm và tự dạy cho tôi trong cả năm trời. Rồi bà cho tôi thi vào chương trình học năng khiếu, và thay vì đến ngôi trường ở Harlem - chỗ chúng tôi ở - chị em tôi cùng mẹ ngồi xe buýt hết một tiếng mười lăm phút mỗi sáng để tới một trường công ở Upper East Side mà học sinh chủ yếu là người Do Thái. Má để tôi lại ở cửa phòng học, rồi bà đi xe điện tới chỗ làm ở nhà Hallowell. Thế nhưng chị Rachel không học được bằng tôi, và việc ngồi xe buýt đường dài vắt kiệt sức của tất cả. Vậy nên đến cấp hai, chúng tôi chuyển về trường cũ ở Harlem. Trong một năm đó, bao nhiêu khía cạnh sáng láng của tôi bị thui chột hết, khiến má hết sức đau lòng. Khi bà kể lại chuyện đó với chủ, cô Mina đã giúp tôi được phỏng vấn ở Dalton. Đó là trường tư con gái Christina của cô đang theo học, và họ đang muốn môi trường đa dạng hơn. Tôi được học bổng toàn phần, đứng đầu lớp, kỳ tổng kết nào cũng được khen thưởng, và ra sức học như điên để đáp lại niềm tin má đặt vào tôi. Trong lúc chị Rachel kết bạn với bọn con nít trong xóm, tôi lại chẳng quen biết đứa nào. Tôi không thật sự hợp với người ở Dalton, và chắc chắn không hợp với người ở Harlem. Rốt cuộc thì, tôi là một học sinh toàn được điểm A nhưng vẫn chẳng thuộc về đâu cả. Có một vài bạn học mời tôi đến nhà họ - những đứa con gái nói mấy câu kiểu như, “Cậu không nói chuyện giống người da đen!” hoặc “Tớ không coi cậu giống bọn họ!” Dĩ nhiên, không đứa nào trong số đó đến chơi với tôi ở Harlem. Lúc nào họ cũng kẹt một lớp học khiêu vũ, chuyện gia đình, hoặc bận làm bài tập về nhà. Thỉnh thoảng tôi thử mường tượng cảnh mấy đứa con gái này, với mái tóc vàng óng mượt và niềng răng, đi qua chỗ đổi chi phiếu thành tiền mặt ở góc phố nơi tôi sống. Việc đó cũng giống như hình dung ra gấu bắc cực giữa miền nhiệt đới, và tôi không bao giờ để mình nghĩ về nó đủ lâu để tự hỏi phải chăng bọn trẻ kia cũng có cái nhìn giống thế về tôi, đứa da đen ở Dalton. Khi tôi được nhận vào Đại học Cornell, và nhiều đứa khác cùng trường không được, tôi không thể không nghe những lời xì xẩm bàn tán. Bởi vì con nhỏ đó là người da đen. Đâu có nghĩa lý gì cái việc tôi được 3.87 điểm trung bình; kết quả thi SAT của tôi rất tốt. Đâu có nghĩa lý gì cái việc tôi không đủ tiền học ở đó, và thay vào đó sẽ nhận học bổng “trọn gói” do trường Đại học tiểu bang New York ở Plattsburgh cấp cho. “Con yêu,” má tôi nhủ, “cuộc sống không dễ dàng cho một cô gái da đen biết nuôi khao khát. Con phải chứng tỏ cho họ thấy con không phải là một cô gái da đen. Con là Ruth Brooks.” Bà siết chặt tay tôi. “Con sẽ đạt được tất cả những điều tốt đẹp đến với con - không phải vì con xin xỏ, và không phải vì màu da của con. Mà vì con xứng đáng đạt được chúng.” Tôi biết tôi sẽ không trở thành y tá nếu má tôi không làm việc vất vả để cho tôi được học hành tử tế. Tôi cũng biết rằng từ lâu tôi đã quyết định tránh cho con tôi những vấn đề tôi gặp trước nay. Thế nên khi Edison hai tuổi, tôi và chồng tôi đã quyết định chuyển tới sống ở một khu da trắng có trường học tốt hơn, mặc dù điều đó có nghĩa chúng tôi là gia đình da màu duy nhất trong khu vực. Chúng tôi rời căn hộ gần đường sắt ở New Haven, và sau khi làm cho nhiều thông tin liệt kê “biến mất” khi người môi giới phát hiện ra chúng tôi trông ra sao, rốt cuộc vợ chồng tôi cũng tìm thấy một căn nhà nhỏ xíu ở một khu dân cư giàu có hơn ở East End. Tôi đăng ký cho Edison vào một nhà trẻ ở đó, để thằng bé có thể bắt đầu học cùng lúc với những đứa trẻ khác, và không ai có thể coi nó là người ngoài. Thằng bé là một trong số chúng, ngay từ đầu. Khi con trai tôi muốn rủ bạn qua chơi rồi ngủ lại, những bậc phụ huynh khác không thể nói nơi đó quá nguy hiểm cho con họ. Vì suy cho cùng thì đó cũng là nơi họ ở mà. Và việc đó đã có tác dụng. Chao ôi, có tác dụng quá luôn ấy chứ. Ban đầu tôi phải vận động cho thằng bé - đảm bảo con tôi có những thầy cô nhận ra trí thông minh bên cạnh màu da của nó - kết quả là Edison đứng trong tốp ba đầu lớp. Nó đã được công nhận Tài Năng Quốc Gia. Con tôi sẽ vào đại học và trở thành bất cứ cái gì mà nó muốn. Tôi đã dành cả đời mình để đảm bảo điều đó thành hiện thực. Lúc tôi đi làm về, Edison đang làm bài tập ở bàn bếp. “Chào con yêu,” tôi gọi con, cúi xuống hôn lên đầu thằng bé. Tôi chỉ làm được thế lúc này, khi cu cậu đang ngồi. Tôi vẫn còn nhớ khoảnh khắc tôi nhận ra con trai đã cao hơn mình; cảm giác thật lạ khi phải với tay lên thay vì đưa thấp xuống; khi biết rằng người tôi đã nuôi dạy suốt đời giờ đã có thể trở thành chỗ dựa của tôi. Edison không nhìn lên. “Công việc mẹ thế nào?” Tôi dán lên mặt một nụ cười. “Con biết mà. Cũng vậy thôi.” Tôi trút bỏ áo choàng, cầm cái áo khoác đang vắt trên lưng ghế của Edison lên và treo cả hai vào tủ. “Ở đây mẹ không có mở dịch vụ dọn dẹp...” “Vậy thì mẹ cứ để nó đó!” Edison bùng nổ. “Tại sao mọi thứ cứ phải là lỗi tại con?” Thằng bé đẩy bàn bật dậy nhanh đến nỗi suýt xô đổ cái ghế. Để lại máy tính và cuốn tập đang mở, nó phừng phừng đi ra khỏi phòng. Tôi nghe tiếng cửa phòng ngủ của thằng bé đóng sầm. Đó không phải con trai tôi. Con tôi là đứa sẽ mang đồ tạp phẩm lên ba tầng lầu cho bà cụ Laska, chẳng cần bà phải mở miệng nhờ giúp đỡ. Con trai tôi là đứa luôn giữ cửa mở cho phụ nữ, là đứa biết nói làm ơn và cảm ơn, là đứa vẫn còn giữ trong chiếc bàn đầu giường tất cả những tấm thiệp sinh nhật tôi từng viết cho nó. Đôi khi một người mới vừa thành mẹ tìm tới tôi, với đứa bé sơ sinh đang khóc rống trên tay, và hỏi tôi làm sao biết được con họ cần gì. Về nhiều mặt, có một đứa con đang tuổi thiếu niên cũng không khác mấy so với khi con còn ẵm ngửa. Bạn học cách đọc từng phản ứng, vì bọn trẻ không nói được chính xác cái gì làm chúng bị đau. Vì vậy, mặc dù tôi chỉ muốn đi vào phòng Edison, ôm chầm lấy con và đu đưa nó trong vòng tay như khi xưa tôi từng làm lúc nó còn nhỏ xíu và đang bị đau đâu đó, thay vì vậy, tôi hít một hơi thật sâu và đi vào bếp. Edison đã để lại cho tôi bữa tối, một cái đĩa bọc giấy bạc. Thằng bé chỉ làm được đúng ba món: mì ống phô mai, trứng chiên và bánh mì kẹp thịt bò kiểu Mỹ gọi là Sloppy Joes. Những ngày còn lại trong tuần, nó hâm lại món casserole tôi làm trong ngày nghỉ. Món hôm nay là bánh cuốn enchilada, nhưng Edison cũng đã nấu thêm chút đậu, bởi vì nhiều năm trước tôi dạy thằng bé rằng một đĩa thức ăn chưa phải là một món hoàn chỉnh trừ phi có nhiều hơn một màu sắc. Tôi rót cho mình chút vang từ chai rượu nhận được từ Marie Giáng sinh trước đó. Nó có vị chua nhưng tôi bắt mình hớp vào cho đến khi cảm thấy vai hơi thả lỏng, đến khi tôi có thể nhắm mắt mà không thấy bản mặt Turk Bauer. Sau mười phút, tôi gõ nhẹ lên cửa phòng Edison. Căn phòng đã là của thằng bé kể từ khi nó lên mười ba tuổi; tôi ngủ trên cái sofa kéo thành giường ở phòng khách. Tôi xoay nắm đấm cửa và thấy con trai nằm trên giường, hai tay kê dưới đầu. Với chiếc áo thun giãn rộng ở hai bờ vai và cằm hơi hất lên, thằng bé trông giống cha nó đến nỗi trong khoảnh khắc đó, tôi có cảm giác như mình đã rơi ngược thời gian. Tôi ngồi xuống cạnh con trên nệm. “Bây giờ chúng ta có nói về chuyện đó không, hay vờ như chẳng có vấn đề gì cả?” tôi hỏi. Miệng Edison méo đi. “Con có được lựa chọn không?” “Không,” tôi đáp, hơi mỉm cười. “Chuyện này là vì bài kiểm tra giải tích à?” Thằng bé cau mày. “Bài kiểm tra giải tích? Cái đó thì đâu có gì; con được 96 điểm. Chỉ là hôm nay con mới cãi nhau với Bryce.” Bryce là đứa bạn thân nhất với Edison từ dạo lớp năm. Mẹ thằng bé là thẩm phán xử các vấn đề hôn nhân gia đình và người cha là giáo sư văn hóa cổ điển của Yale. Phòng khách của họ có một cái tủ kính, giống kiểu bạn hay thấy ở bảo tàng, trưng một cái bình đựng di cốt Hy Lạp thật. Họ từng đưa Edison đi du lịch Gstadd[12] và Santorini[13]. Thật tốt khi được Edison chia sẻ gánh nặng này, được đắm chìm vào rắc rối của người khác trong chốc lát. Đây là cái làm tôi khó chịu nhất về vụ việc ở bệnh viện: tôi thường được coi là người đi sửa chữa, người tìm ra giải pháp. Tôi không phải là vấn đề. Tôi không bao giờ là vấn đề. “Mẹ chắc là mọi chuyện sẽ qua thôi,” tôi bảo Edison, vỗ vỗ lên tay thằng bé. “Hai đứa con cũng như anh em ruột mà.” Thằng bé lăn qua một bên và kéo gối ụp lên đầu. “Thôi nào,” tôi gọi. “Thôi nào con.” Tôi giật cái gối và nhận ra có một vệt ướt, do nước mắt để lại, làm thẫm thêm vùng da bên thái dương thằng bé. “Con yêu,” tôi thì thầm. “Chuyện gì đã xảy ra?” “Con bảo cậu ấy rằng con sẽ mời Whitney dự lễ hội ở trường.” “Whitney...” tôi lặp lại, cố gắng nhớ ra cô bé là ai trong đám bạn của Edison. “Em gái của Bryce,” thằng bé nhắc. Tôi thoáng nhớ lại một cô bé có bím tóc vàng ánh dầu tôi từng gặp nhiều năm trước khi đón Edison sau một buổi chơi chung của bọn trẻ. “Cô bé mũm mĩm niềng răng ấy à?” “Dạ. Nhưng em ấy không còn đeo niềng nữa. Và em ấy chắc chắn không mũm mĩm. Em ấy có...” ánh mắt của Edison trở nên dịu dàng hơn, và tôi tưởng tượng được con trai tôi đang thấy gì. “Con không phải nói hết câu đó đâu,” tôi nói nhanh. “Dạ, em ấy rất tuyệt vời. Giờ em ấy lớp mười rồi. Ý con là, con đã biết em ấy từ lâu, nhưng gần đây khi con nhìn em ấy, em ấy không chỉ là em gái của Bryce nữa, mẹ hiểu không? Con đã tính hết mọi chuyện rồi, một người bạn của con sẽ chờ ngoài phòng học của em ấy mỗi lần tan tiết, cầm một mảnh giấy. Mảnh giấy đầu tiên sẽ chỉ ghi MỜI EM. Mảnh thứ hai là ĐI. Sau đó là DỰ, LỄ HỘI, rồi tới VỚI. Và rồi khi tan trường, con sẽ chờ với tấm biển đề ANH, để em ấy biết người đang ngỏ lời.” “Giờ có chuyện đó nữa sao?” tôi cắt ngang. “Con không chỉ mời một cô gái đi dự khiêu vũ... con còn phải dựng nguyên vở kịch Broadway để khiến chuyện đó xảy ra à?” “Gì ạ? Mẹ, đó không phải là vấn đề. Vấn đề là con đã nhờ Bryce mang mảnh giấy LỄ HỘI tới đưa Whitney và cậu ấy phản ứng rất kỳ.” Tôi hít vào một hơi. “Ừm,” tôi mở lời, cẩn thận lựa từ, “thỉnh thoảng một thằng con trai rất khó chấp nhận chuyện em gái có thể thành bạn gái của người khác, dù nó có thân với người muốn hẹn hò với cô em cách mấy đi nữa.” Edison đảo tròn mắt. “Không phải vậy mẹ ơi.” “Có lẽ Bryce cần thời gian để làm quen với ý tưởng đó. Có lẽ thằng bé bất ngờ vì con nghĩ về em gái nó, con biết đấy, theo cách như vậy. Bởi vì hai con như người một nhà.” “Vấn đề là... con không phải người một nhà với họ.” Con trai tôi ngồi dậy, chân đung đưa ngoài mép giường. “Bryce phá lên cười. Cậu ấy nói, “Cái thằng này. Chúng ta chơi với nhau là một chuyện. Nhưng mày với Whit ấy hả? Vãi, bố mẹ tao sẽ thất kinh.” Thằng bé đưa mắt nhìn đi chỗ khác. “Xin lỗi mẹ vì nói bậy.” “Không sao, con yêu,” tôi dỗ. “Nói tiếp đi.” “Vậy nên con hỏi cậu ấy tại sao. Thái độ đó làm con không hiểu nổi. Ý con là, con đã đến Hy Lạp với gia đình cậu ấy mà. Và cậu ấy nói, ‘Không có ý xúc phạm gì đâu, nhưng bố mẹ tao sẽ không chịu cho em tao hẹn hò một thằng da đen’ Kiểu như cho một đứa bạn da đen đi chơi với gia đình thì cũng được, nhưng không được để thằng đó dính dáng gì tới con gái họ.” Tôi đã rất cố gắng để Edison không cảm thấy có một giới hạn vạch ra giữa nó và họ, chưa bao giờ tôi nghĩ rằng khi chuyện đó xảy ra - mà, tôi đoán, là điều không thể tránh khỏi - cú sốc sẽ nặng nề và đau đớn hơn, vì thằng bé chưa bao giờ thấy trước chuyện đó. Tôi đưa tay nắm lấy bàn tay con trai và siết chặt. “Con và Whitney sẽ không phải là cặp đôi đầu tiên có một ngọn núi ở giữa ngăn cách hai bên đâu,” tôi nói. “Romeo và Juliet, Anna Karenina và Vronsky. Maria và Tony. Jack và Rose.” Edison trợn mắt nhìn tôi với vẻ kinh hoàng. “Mẹ có nhận ra là trong tất cả các ví dụ mẹ mới kể với con, ít nhất một trong hai người sẽ chết không mẹ?” “Cái mẹ đang cố nói là nếu Whitney thấy được con đặc biệt thế nào, con bé sẽ muốn ở bên con. Và nếu con bé không muốn thì nó cũng không đáng để con tranh đấu.” Tôi choàng tay qua vai con trai; Edison tựa vào tôi. “Thế cũng không khiến chuyện này đỡ tệ hại hơn.” “Cẩn thận lời nói,” tôi nói theo quán tính. “Và không, không đỡ hơn chút nào.” Chẳng phải lần đầu tiên, tôi ước gì Wesley vẫn còn sống. Tôi ước chi anh không trở lại phục vụ ở Iraq lần thứ hai; tôi ước anh không ở trong đoàn xe đó khi mìn phát nổ; tôi ước gì anh được biết không chỉ thằng nhóc Edison ngày đó mà cả cậu thiếu niên trước đây rồi chàng trai trẻ lúc này. Tôi ước anh có mặt ở đây để bảo con trai chúng tôi rằng khi một cô gái làm máu bạn nóng lên, đó chỉ là lần đầu tiên trong nhiều lần khác. Tôi ước có anh ở đây, đơn giản thế thôi. Ước gì anh có thể thấy thành quả của chúng ta, tôi thầm nghĩ. Thằng bé là tất cả những gì tốt đẹp nhất của hai chúng mình. “Chuyện gì đã xảy ra với Tommy Phipps?” tôi đột ngột hỏi. “Tommy Phipps?” Edison cau mày. “Con nhớ là thằng đó đã bị bắt vì bán heroin sau trường học vào năm ngoái. Nó đang ở trong trại cải tạo.” “Con còn nhớ hồi mẫu giáo, khi thằng tội phạm nhỏ đó nói rằng con giống như một miếng bánh mì cháy khét không?” Một nụ cười chậm rãi nở ra trên gương mặt Edison. “Có ạ.” Đó là lần đầu tiên một đứa trẻ bảo với Edison rằng thằng bé khác với những đứa còn lại trong lớp - và làm cho điều đó nghe có vẻ tệ hại. Cháy khét. Cháy đen. Bị hỏng. Trước đó có lẽ Edison cũng đã nhận ra; có lẽ thằng bé chưa hay biết. Thế nhưng đó là lần đầu tiên tôi có Cuộc Nói Chuyện Nghiêm Túc với con trai tôi về màu da của nó. “Con nhớ mẹ đã nói với con cái gì không?” “Rằng màu da con nâu vì con có nhiều melanin hơn tất cả những người khác trong trường.” “Phải. Bởi vì ai cũng biết rằng có một thứ gì đó nhiều hơn thì tốt hơn là có ít hơn. Và melanin bảo vệ da con khỏi bị tổn hại dưới ánh mặt trời và giúp thị lực con tốt hơn, còn Tommy Phipps thì sẽ luôn thiếu sót. Vậy nên trên thực tế, con là người may mắn.” Một cách chậm chạp, như nước đọng trên mặt đường khô nẻ, nụ cười bốc hơi khỏi gương mặt Edison. “Lúc này con chẳng thấy may mắn gì hết,” thằng bé nói. Lúc còn nhỏ, chị gái với tôi trông chẳng giống nhau chút nào. Rachel mang màu của cà phê mới pha, như má vậy. Tôi, cũng là cà phê rót ra từ chung một bình, nhưng đã pha thêm quá nhiều sữa trắng, chẳng còn mùi vị gì nữa. Màu da sáng hơn đã giúp tôi được những ưu ái mà bản thân không hiểu, những ưu ái khiến Rachel phát điên. Người thu ngân ở ngân hàng cho tôi kẹo mút, và rồi, nghĩ ngợi thêm một lúc, mới đưa chị tôi một cái. Giáo viên gọi tôi là đứa xinh xắn, đứa giỏi giang trong hai chị em nhà Brooks. Trong khi chụp ảnh lớp, tôi sẽ được chuyển lên hàng đầu; chị Rachel bị giấu đi tít đằng sau. Chị Rachel bảo tôi rằng cha ruột của tôi là người da trắng. Rằng tôi không phải là một phần của gia đình này. Thế rồi một ngày kia, Rachel và tôi gây gổ và bắt đầu quát thét nhau và tôi nói cái gì đó về việc chuyển đến sống với người cha ruột. Tối đó mẹ bảo tôi ngồi xuống và cho tôi xem ảnh cha mình, cũng là cha của chị Rachel - một người đàn ông với nước da nâu sáng giống tôi - đang bồng tôi đứa nhóc sơ sinh. Ngày ghi trên ảnh là ngày tròn một năm trước khi ông bỏ ba mẹ con ra đi vĩnh viễn. Chị Rachel và tôi lớn lên dần, từng chút trở nên khác nhau hết mức hai chị em có thể. Tôi thấp tủn còn chị thì cao như một nữ hoàng. Tôi say mê học; chị bẩm sinh thông minh hơn, nhưng lại ghét nhà trường. Những năm đôi mươi, chị đón nhận cái mà chị gọi là “nguồn gốc sắc tộc” của chị, chính thức đổi tên thành Adisa, và bắt đầu để tóc loăn xoăn tự nhiên. Mặc dù một phần lớn tên dân tộc là tiếng Swahili, Adisa lại thuộc về ngôn ngữ Yoruba[14], mà theo chị tôi nói là tiếng Tây Phi - “quê hương thật sự của tổ tiên chúng ta vào cái ngày họ bị đưa đến đây làm nô lệ.” Nó có nghĩa là, Người thấu suốt. Thấy không, cả cái tên của chị cũng phê phán những người còn lại chúng tôi vì không biết sự thật mà chị tường tận. Hiện tại, chị Adisa sống gần đường ray xe lửa ở New Haven trong một khu phố nơi các vụ mua bán ma túy diễn ra vào ban ngày ban mặt và bọn trai trẻ bắn nhau suốt đêm thâu; chị có năm đứa con, chị và cha của mấy đứa con chị có công việc mang lại mức lương trung bình và chỉ đủ sống tạm qua ngày. Tôi thương chị chết đi được, nhưng tôi không hiểu lựa chọn của chị cũng như chị chẳng hiểu tôi. Bạn biết đấy, nhiều lần tôi đã tự hỏi mình. Phải chăng động lực thúc đẩy tôi trở thành y tá, khiến tôi khao khát có nhiều hơn, đạt được nhiều hơn cho Edison, tất cả xuất phát từ việc giữa hai chị em da đen, tôi là người có khởi đầu thuận lợi. Tôi tự hỏi phải chăng lý do khiến Rachel biến mình thành Adisa là vì chỉ bằng cách nuôi dưỡng ngọn lửa trong chị, chị mới có nguồn năng lượng cần thiết để tin rằng mình có cơ may bắt kịp đứa em. Vào thứ sáu, ngày nghỉ của tôi, tôi có một cuộc hẹn với chị Adisa ở tiệm làm móng. Chúng tôi ngồi cạnh bên nhau, dưới lỗ thông hơi sấy khô UV. Chị Adisa nhìn lọ màu OPI tôi chọn và lắc đầu. “Chị không tin nổi là em lại chọn cái màu sơn có tên Juice Bar Hopping,” chị bình phẩm. “Đó hẳn phải là cái màu ‘trắng’ nhất trước giờ.” “Nó là màu cam mà,” tôi chỉ ra. “Chị muốn nói về cái tên, Ruth, cái tên ấy. Em có bao giờ thấy một người anh em da đen bước vào quán bar nước ép chưa? Chưa từng. Bởi vì ẳ ai đời lại tới quán bar để uống nước ép. Cũng như chẳng ai gọi uống tequila trong một cái bình nhựa có ống hút vậy.” Tôi đảo tròn mắt. “Thật đấy hả chị? Em vừa kể rằng mình bị cấm chăm sóc một bệnh nhân mà chị lại muốn nói về cái màu em sẽ sơn lên móng tay sao?” “Chị đang nói về cái màu mà em đã chọn để sống cuộc đời mình, cô gái à,” chị Adisa đáp. “Chuyện vừa xảy ra với em xảy ra với bọn chị hằng ngày. Hằng giờ. Em quá quen với việc chơi theo luật của bọn chúng nên quên mất mình cũng có bộ da rồi.” Chị nhếch môi cười, “Ừ thì. Màu da sáng hơn đấy, nhưng cũng vậy thôi.” “Chị nói thế là ý gì vậy?” Chị tôi nhún vai. “Lần cuối cùng em kể với người khác rằng má vẫn còn đi giúp việc là khi nào?” “Giờ má có làm gì mấy đâu. Chị biết mà. Về cơ bản thì má là một chỗ từ thiện mà cô Mina đóng góp vào.” “Em chưa trả lời câu hỏi của chị.” Tôi cau mặt. “Em không biết lần cuối em nhắc đến nó là khi nào. Đó là cái đầu tiên chị nói tới trong một cuộc trò chuyện sao? Thêm nữa, màu da của em thì có liên quan gì. Em làm tốt công việc của mình. Em không đáng bị thải khỏi ca đó.” “Và chị không đáng bị sống ở Church Street South, nhưng sẽ cần nhiều hơn mình chị để thay đổi hai trăm năm lịch sử.” Chị tôi thích đóng vai nạn nhân. Trước đây chúng tôi đã có nhiều cuộc trao đổi khá căng thẳng về chuyện đó. Nếu bạn không muốn phải chịu một thứ định kiến nào đó, thì theo ý tôi, bạn đừng là kiểu người giống y như định kiến của người ta. Thế nhưng theo chị tôi, thế tức là chơi theo luật của người da trắng, và trở thành người mà họ muốn chị phải trở thành, thay vì không thẹn mà sống đúng theo con người thật của chị. Adisa nói từ đồng hóa với sự cay độc đến độ bạn sẽ nghĩ rằng những người lựa chọn cách sống hòa nhập - như tôi đã làm - là đang tự mình nuốt thuốc độc. Đúng là kiểu của chị tôi, chuyên biến những vấn đề của tôi thành cái để chị phàn nàn. “Trong chuyện xảy ra ở bệnh viện, em chẳng có lỗi gì cả,” chị quả quyết, làm tôi ngạc nhiên. Tôi còn tưởng chị sẽ bảo tôi đáng bị như vậy, bởi vì tôi đã giả vờ là một người không phải tôi và trong quá trình lừa mình dối người, tôi đã quên luôn sự thật. “Đó là thế giới của chúng, Ruth à. Chúng ta chỉ sống trong đó thôi. Cũng như nếu em chuyển đến Nhật Bản vậy. Em có thể chọn lờ đi tục lệ và không thèm học tiếng của họ, nhưng em sẽ dễ sống thuận hòa với họ hơn nếu làm thế, phải không? Ở đây cũng vậy thôi. Mỗi lần bật TV hay radio lên, em sẽ thấy và nghe về việc người da trắng đến trường phổ thông và đại học, ăn bữa tối, đính hôn, uống thứ vang đỏ pinot noir của họ. Em học được cách sống của họ, và em nói được ngôn ngữ của họ đủ để trà trộn vào giữa họ. Thế nhưng có bao nhiêu người da trắng em biết bỏ công xem phim Tyler Perry để biết cách đối xử với người da đen sao cho phải?” “Đó không phải là vấn đề...” “Không, vấn đề là em cứ việc nhập gia tùy tục thoải mái, nhưng không có nghĩa là người ta sẽ chấp nhận cho em bước vào nhà người ta.” “Người da trắng không thống trị cả thế giới này, chị Adisa à,” tôi cãi lại. “Có rất nhiều người da màu thành công.” Tôi nêu ra ba cái tên đầu tiên nảy ra trong đầu mình. “Colin Powell, Corey Booker, Beyoncé...” “... và chẳng ai trong số họ có màu da sẫm như chị,” Adisa bẻ lại. “Em biết người ta nói gì rồi đó: càng đào sâu vào dự án, màu da càng sẫm.” “Clarence Thomas,” tôi nói. “Ông ấy có nước da sẫm hơn chị mà vẫn làm việc trong Tòa án Tối cao đấy.” Chị tôi bật cười. “Ruth, ông ta bảo thủ đến mức có chảy máu chắc cũng ra máu trắng.” Điện thoại tôi reo, và tôi cẩn thận rút nó ra từ trong ví để không bị động tới phần móng mới sơn. “Là Edison hả?” chị Adisa hỏi ngay. Nói gì thì nói, chị ấy cũng thương con trai tôi không kém gì tôi. “Không. Là Lucille ở chỗ làm.” Vừa mới nhác thấy tên cô đồng nghiệp nổi lên trên điện thoại thôi là miệng tôi khô khốc; cô ấy là y tá hộ sinh cho Davis Bauer. Nhưng chuyện không liên quan tới gia đình đó. Lucille bị cúm dạ dày; cô ấy cần người trực thay ca tối nay. Cô ấy sẵn lòng đổi với tôi, để thay vì phải làm cả ngày thứ Bảy, tôi có thể về lúc 11 giờ. Thế có nghĩa là tôi phải trực liền hai ca, nhưng chưa gì tôi đã bắt đầu nghĩ xem mình có thể làm gì với khoảng thời gian trống ngày thứ Bảy. Năm nay Edison cần một chiếc áo khoác mùa đông mới - tôi thề là thằng bé đã cao thêm một tấc qua mùa hè. Tôi có thể đưa con đi ăn, sau khi mua sắm. Biết đâu có một bộ phim mới ra mà hai mẹ con có thể đi xem. Gần đây, tôi thường cảm thấy chấn động - ngỡ ngàng nhận ra rằng khi nuôi con đến ngày thằng bé được nhận vào đại học thì cũng là lúc tôi sẽ bị bỏ lại một mình. “Người ta muốn em trực tối nay.” “Người ta là ai? Bọn phát xít hả?” “Không, một cô y tá bị bệnh.” “Một cô y tá da trắng,” chị Adisa chỉ ra. Tôi không buồn trả lời. Chị Adisa ngửa người ra trên ghế. “Theo chị thì người ta không có quyền nhờ vả em gì hết.” Tôi sắp mở miệng bênh Lucille, vốn không can dự gì vào quyết định của Marie khi y tá phụ trách dán cái miếng giấy ghi chú đó lên hồ sơ đứa trẻ, thì thợ làm móng chen vào, kiểm tra móng tay chúng tôi xem sơn đã khô chưa. “Được rồi,” cô này nói. “Đã xong.” Chị Adisa ngúc ngoắc mấy ngón tay, hiện đang bừng lên màu hồng chóe. “Sao chúng ta cứ tới đây hoài vậy nhỉ? Chị ghét cái tiệm này,” chị nhận xét, hạ thấp giọng. “Họ không nhìn thẳng vào mắt chị và không đặt tiền thối vào tay chị đàng hoàng. Họ nghĩ nước da đen của chị sẽ lây sang họ hay sao ấy.” “Họ là người Hàn Quốc,” tôi chỉ ra. “Chị có bao giờ nghĩ rằng có lẽ, theo văn hóa của họ, những việc đó bị coi là bất lịch sự không?” Chị Adisa nhướng mày. “Được rồi, Ruth,” chị nói. “Em cứ việc tự bảo mình rằng chuyện đó không phải là vì em đi.” Chưa đến mười phút vào ca trực ngoài dự kiến của mình, tôi đã hối hận vì đồng ý. Có một cơn bão đang vần vũ ngoài trời mà dự báo thời tiết không thấy trước, và áp suất không khí tụt xuống - thế là dẫn đến tình trạng vỡ ối non, các bà mẹ chuyển dạ sớm, nhiều bệnh nhân vật vã ngoài hành lang vì chúng tôi không có đủ chỗ cho họ. Tôi chạy tới chạy lui loạn cả lên như gà bị mất đầu, thế cũng hay, nhờ vậy mà tôi khỏi nghĩ lan man về Turk và Brittany Bauer và con trai họ. ẳ Thế nhưng bấy nhiêu cũng chẳng đến mức quá bận rộn để tôi không xem qua hồ sơ bệnh nhân lúc mới vào ca trực. Tôi tự nhủ rằng mình chỉ muốn đảm bảo đã có ai đó - một người da trắng - lên lịch cho gia đình được tư vấn bởi một bác sĩ tim mạch nhi trước khi Davis ra viện. Và có đây rồi, trong lịch làm việc, cùng với dòng ghi chú Corinne đã lấy máu ở gót chân bé hôm thứ Sáu để tiến hành xét nghiệm sàng lọc. Thế rồi có ai đó gọi tên tôi và tôi thấy mình bị hút vào quỹ đạo của một phụ nữ đang chuyển dạ, được đẩy lên từ phòng cấp cứu. Bạn đời của cô này trông rất hoảng loạn, kiểu đàn ông đã quen với việc có thể sửa mọi thứ giờ bỗng nhận ra chuyện này vượt ngoài khả năng của anh ta. “Tôi là Ruth,” tôi nói với người phụ nữ, cô gái dường như càng lúc càng co rút lại với mỗi cơn co thắt. “Tôi sẽ ở bên cô suốt khoảng thời gian này.” Tên bệnh nhân là Eliza và những cơn co thắt của cô cách nhau bốn phút, theo lời chồng cô là George. Đây là ca sinh nở đầu tiên của họ. Tôi đưa bệnh nhân vào ổn định trong phòng sinh cuối cùng còn trống chỗ và lấy mẫu nước tiểu, rồi nói cô vào máy theo dõi bệnh nhân, lướt qua các tờ thông tin được in ra. Tôi chụp lấy tờ in dấu hiệu sinh tồn của Eliza và bắt đầu đặt câu hỏi: Các cơn co thắt mạnh đến mức nào? Cô cảm thấy chúng ở đâu - đằng trước hay sau lưng? Cô có bị chảy nước không? Có chảy máu không? Đứa bé di chuyển thế nào? “Nếu cô đã sẵn sàng, Eliza,” tôi nói, “tôi sẽ kiểm tra cổ tử cung để xem đã đến lúc chuyển dạ chưa.” Tôi đeo bao tay vào và đi lại phía cuối giường, chạm vào đầu gối cô gái. Một biểu cảm thoáng qua gương mặt cô khiến tôi ngừng lại. Chuyện là thế này, hầu hết những phụ nữ đang chuyển dạ sẽ làm tất cả để lấy đứa bé ra. Có nỗi sợ vượt cạn, dĩ nhiên, nhưng nó khác với nỗi sợ bị đụng chạm. Và đó là cái tôi đọc được trên nét mặt Eliza. Một tá câu hỏi chen chúc nhau vọt ra đầu lưỡi tôi. Eliza thay quần áo trong nhà vệ sinh với sự giúp đỡ của chồng, thế nên tôi không xem được cô có vết bầm nào báo hiệu bạo lực không. Tôi liếc nhìn George. Anh ta trông giống một người sắp làm cha bình thường - lo lắng, hoang mang - không giống người gặp vấn đề kiểm soát cơn nóng giận. Nói đi cũng phải nói lại, Turk Bauer trông cũng khá bình thường cho đến lúc hắn ta xắn tay áo lên. Lắc đầu xua ý nghĩ đó đi, tôi quay sang George và nở một nụ cười theo bản năng. “Phiền anh đến khu vực nhà bếp và lấy đá viên nhỏ về cho Eliza nhé.” Tôi đề nghị. “Thế thì đỡ cho chúng tôi nhiều lắm.” Mặc dù đó là việc của y tá - George có vẻ vô cùng nhẹ nhõm khi được giao cái gì đó để làm. Anh ta vừa ra khỏi phòng là tôi quay sang Eliza. “Mọi chuyện vẫn ổn chứ?” tôi dò hỏi, nhìn thẳng vào mắt cô. “Có chuyện gì cô cần nói với tôi mà không thể nói khi có mặt George trong phòng không?” Nữ bệnh nhân lắc đầu, và rồi òa khóc. Tôi lột bao tay ra - vụ kiểm tra tử cung có thể đợi sau - và vươn tay nắm lấy tay cô gái. “Eliza, cô có thể nói với tôi.” “Lý do tôi có thai là vì tôi bị cưỡng hiếp,” cô nức nở. “George còn không biết có chuyện như vậy. Anh ấy rất hạnh phúc vì đứa trẻ này... tôi không dám nói với anh rằng có thể bé không phải con anh.” Câu chuyện tuôn ra, thì thầm, vào lúc nửa đêm, khi Eliza đang ngừng ở mức cổ tử cung nở rộng bảy xăng-ti-mét, và George đã đến căn-tin mua đồ ăn vặt. Quá trình sinh nở là thế đấy - một mối dây liên kết nảy sinh từ những tổn thương được sẻ chia, một chất xúc tác làm khắng khít hơn quan hệ con người. Và vì vậy mặc dù với Eliza tôi chỉ hơn người lạ một chút, cô gái vẫn trút cả nỗi lòng gửi gắm cho tôi, như thể cô đã ngã khỏi con tàu và tôi là hình ảnh thoáng qua duy nhất của đất liền ở chân trời. Khi đó cô đang đi công tác, ăn mừng dịp chốt được hợp đồng với một khách hàng quan trọng, khó tính. Khách hàng mời cô đi ăn tối với vài người khác và đưa cô một ly đồ uống, và chuyện tiếp theo Eliza nhớ được là tỉnh dậy trong phòng khách sạn của anh ta, ê ẩm cả người. Khi cô kể xong, hai chúng tôi cùng ngồi im, để những lời thổ lộ ngấm dần. “Tôi không thể cho anh George biết,” Eliza tiếp, hai bàn tay nắm lại trên bộ áo bệnh viện vải lanh thô ráp. “Anh ấy sẽ đến nói chuyện với sếp tôi, và tin tôi đi, họ sẽ không chấp nhận nguy cơ để mất thương vụ này chỉ vì chuyện xảy ra với tôi đâu. Kịch bản tốt nhất là tôi sẽ được cho một món tiền bồi thường thất nghiệp kha khá để ngậm miệng lại.” “Vậy là không ai biết hết sao?” “Cô biết,” nữ bệnh nhân nói. Eliza nhìn tôi. “Lỡ như tôi không thể yêu thương đứa trẻ thì sao? Lỡ như mỗi lần nhìn vào nó, tôi lại thấy chuyện đã xảy ra với mình?” “Có lẽ cô nên xét nghiệm DNA,” tôi gợi ý. “Thế thì có ích gì?” “Ừm,” tôi đáp, “cô sẽ biết.” Bệnh nhân của tôi lắc đầu. “Rồi sao nữa?” Đó là một câu hỏi rất hay, câu hỏi mà tôi cảm thấu từ tận tâm can mình. Sẽ tốt hơn khi cố tình không biết sự thật xấu xa, và giả vờ như nó không tồn tại? Hay sẽ tốt hơn khi đối mặt với nó, mặc dù hiểu biết đó có thể là gánh nặng bạn phải mãi mãi mang theo? Tôi sắp cho cô biết ý kiến của mình thì một cơn co thắt làm Eliza quặn đau. Bỗng nhiên, hai chúng tôi lại quay về giữa chiến hào, chiến đấu bảo vệ một sinh mệnh. Mất ba tiếng đồng hồ, và rồi Eliza đẩy con gái cô vào thế giới. Eliza bắt đầu bật khóc, như nhiều người vừa lên chức mẹ, nhưng tôi biết đó là vì một lý do hoàn toàn khác. Bác sĩ trao bé cho tôi, và tôi cúi xuống nhìn vào biển khơi giận dữ là đôi mắt đứa trẻ. Cô bé đã được hoài thai bằng cách nào cũng không quan trọng. Quan trọng là cô bé đã đến được nơi này. “Eliza,” tôi gọi, đặt đứa bé lên ngực người mẹ, “con gái của cô này.” Ngay cả khi George vươn tay qua vai vợ để vuốt lên cặp đùi loang lổ của bé, Eliza cũng không chịu nhìn con. Tôi đỡ bé lên, đưa cô bé lại gần gương mặt Eliza. “Eliza,” tôi lặp lại, cứng rắn hơn. “Con gái của cô.” Người mẹ trẻ đưa mắt về phía đứa trẻ trong tay tôi. Cô thấy cái mà tôi thấy: cặp mắt xanh của chồng cô. Cái mũi y hệt. Cái cằm chẻ khớp với cằm của người cha. Đứa bé này cũng có thể coi là bản sao của George. Bao nhiêu căng thẳng tan biến khỏi vai Eliza. Cô choàng tay đỡ lấy con gái, ôm bé vào sát trong lòng mình, chẳng còn chỗ đâu cho nhưng lỡ như nữa. “Xin chào, cô bé,” người mẹ thì thầm. Gia đình này, họ sẽ tự tạo nên hiện thực cho riêng họ. Tôi ước chi chuyện đó cũng dễ dàng như thế với phần còn lại chúng tôi. Đến chín giờ sáng hôm sau, tôi có cảm giác như cả New Haven đã đổ xô tới bệnh viện để sinh đẻ. Tôi vừa nốc cà phê, vừa chạy tới chạy lui chăm sóc hậu sản cho ba bệnh nhân và hết lòng cầu mong chúng tôi không có thêm phụ nữ nào chuyển dạ nữa trước khi tôi tan ca lúc mười một giờ. Ngoài ca sinh của Eliza, đêm qua tôi còn có hai bệnh nhân nữa - một ca G3P3, có thể tự mình sinh con được và suýt nữa cô đã làm thế - và một ca G4P1 phải mổ cấp cứu. Con của cô, chỉ mới 27 tuần tuổi, đang trong phòng NICU[15]. Khi Corinne đến nhận ca vào lúc bảy giờ, tôi đang ở phòng mổ với bệnh nhân cần mổ cấp cứu, nên đến chín giờ sáng chúng tôi mới gặp nhau khi tôi ở phòng trẻ. “Em nghe nói chị đã trực hai ca liền,” cô bắt chuyện, đẩy một cái nôi vào phòng. “Chị đang làm gì ở đây vậy?” Phòng trẻ từng là nơi chúng tôi giữ và chăm sóc bọn trẻ để người mẹ được ngủ đủ giấc, trước khi chúng chuyển vào phòng bệnh của mẹ ở hẳn 24/7. Lúc này, nó chủ yếu được dùng để chứa đồ và để thực hiện những ca mổ thông thường như cắt bao quy đầu, vốn là việc chẳng bố mẹ nào muốn xem. “Trốn,” tôi trả lời Corinne, lấy một thanh ngũ cốc ra từ trong túi áo và ngấu nghiến sạch chỉ trong hai lần cắn. Cô đồng nghiệp bật cười. “Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra hôm nay vậy chị? Bộ em bỏ lỡ thông báo ngày tận thế hay sao?” “Chắc chị cũng thế đấy.” Tôi cúi xuống nhìn đứa bé lần đầu tiên và cảm thấy cơn rùng mình chạy dọc sống lưng. BÉ TRAI NHÀ BAUER, thẻ tên trên nôi để như vậy. Không chủ ý, tôi bất giác lùi lại một bước. “Thằng bé sao rồi?” Tôi hỏi. “Ăn uống được chưa?” “Chỉ số đường huyết đã tăng nhưng bé vẫn còn lừ đừ,” Corinne đáp. “Cậu nhóc đã không bú hai tiếng rồi vì Atkins sắp cắt bao quy đầu cho nó.” Như thể được Corinne dùng phép thuật triệu hồi, bác sĩ nhi Atkins bước vào phòng trẻ. “Đúng giờ lắm,” cô ấy nói, mắt nhìn cái nôi. “Thuốc tê đã đủ thời gian ngấm và tôi cũng đã nói chuyện với phụ huynh. Ruth, cô đã cho bé ‘kẹo’ chưa?” ‘Kẹo’ là một ít nước đường, thoa lên nướu trẻ nhỏ để xoa dịu và để các bé quên cảm giác khó chịu. Tôi sẽ cho bé ‘kẹo’ trước một ca cắt bao quy đầu, nếu tôi là y tá của bé. “Tôi không còn là người chăm sóc cho bệnh nhân này nữa,” tôi đáp một cách cứng nhắc. Bác sĩ Atkins nhướng mày và mở hồ sơ bệnh nhân ra. Tôi thấy tờ ghi chú, và khi nữ bác sĩ đọc nó, một sự im lặng khó chịu dâng lên, hút hết không khí trong phòng. Corinne đằng hắng. “Em đã cho bé ‘kẹo’ khoảng năm phút trước.” “Tốt,” bác sĩ Atkins nói. “Vậy thì chúng ta bắt đầu thôi.” Tôi đứng lại thêm một lúc, quan sát trong khi Corinne mở chiếc khăn quấn quanh bé ra và chuẩn bị mổ cho bé. Bác sĩ Atkins quay sang tôi. Đôi mắt cô ánh lên sự cảm thông, và đó là thứ cuối cùng mà tôi muốn thấy. Tôi không cần người ta thương hại vì một quyết định ngu ngốc của Marie. Tôi không cần người ta thương hại vì màu da của mình. Vì vậy tôi mới buông một câu đùa cho qua chuyện. “Nhân thể,” tôi gợi ý, “chị có thể triệt sản cho cậu nhỏ luôn.” Trên đời này chẳng có mấy tình huống đáng sợ hơn một ca sinh mổ cấp cứu. Một khi bác sĩ ra quyết định mổ, bầu không khí trở nên căng thẳng, những lời trao đổi trở nên hiếm hoi và chỉ tập trung vào chuyện cần kíp: Tôi lo truyền thuốc tê, cô chuẩn bị giường nhé? Ai đó lấy hộp thuốc và đặt phòng mổ đi. Bạn nói cho bệnh nhân biết đã có vấn đề, và chúng ta phải khẩn trương lên. Một tin nhắn được gửi đi từ người trực tổng đài bệnh viện đến tất cả nhân viên trong khoa hiện đang ở ngoài, trong khi bạn và y tá phụ trách đưa bệnh nhân đến phòng mổ. Trong lúc y tá phụ trách xé các túi giấy vô trùng lấy dụng cụ và bật thiết bị gây tê, bạn đặt bệnh nhân lên bàn mổ, chuẩn bị vùng bụng, phủ vải che cho bệnh nhân đâu đó sẵn sàng. Giây phút bác sĩ và chuyên viên gây tê chạy qua cửa, một vết rạch được tạo nên, và đứa bé được lấy ra. Tất cả chỉ mất chưa tới 20 phút. Ở các bệnh viện lớn, như Yale-New Haven, họ có thể mổ một ca trong vòng bảy phút. Hai mươi phút sau khi Davis Bauer được cắt bao quy đầu, một bệnh nhân khác của Corinne vỡ ối. Một vòng dây rốn thòi ra giữa hai chân người này, và từ phòng trẻ Corinne nhận được tin nhắn, một ca cấp cứu. “Giám sát tình trạng bé giùm em nhé,” cô đồng nghiệp nói, rồi chạy vội đến phòng chăm sóc bà mẹ. Một lúc sau tôi thấy Marie ở đầu giường bệnh nhân, cùng một hộ lý đẩy giường vào thang máy. Corinne đang gập người trên giường giữa hai chân bệnh nhân, đôi tay bọc găng khuất trong góc tối, cố gắng giữ dây rốn bên trong. Giám sát tình trạng bé giùm em nhé. Cô đồng nghiệp nói rằng cô muốn tôi trông chừng Davis Bauer. Theo thủ tục, bé trai vừa được cắt bao quy đầu phải được kiểm tra thường xuyên để đảm bảo bé không chảy máu. Khi cả Marie và Corinne đều đang bị cuốn vào tâm bão của một ca sinh mổ cấp cứu thì đúng là không còn ai khác để làm nhiệm vụ đó. Tôi bước vào phòng trẻ, nơi Davis đang ngủ cho qua chấn động hồi sáng. Chỉ hai mươi phút là Corinne trở lại thôi mà, tôi tự nhủ, hoặc cho đến khi Marie đổi gác. Tôi khoanh tay lại và nhìn đứa bé sơ sinh. Trẻ con đúng là tờ giấy trắng. Chúng đến với thế giới này, không mang theo những mặc định của cha mẹ, hứa hẹn của nhà thờ, hay khả năng xếp con người vào từng nhóm chúng thích và không thích. Chúng đến với thế giới này chẳng mang theo gì cả, chỉ có khao khát được vỗ về. Và chúng sẽ đón nhận sự vỗ về từ bất cứ ai, không hề đánh giá người trao đi âu yếm. Tôi tự hỏi bao lâu thì lớp tô điểm của tự nhiên sẽ bị gột đi dưới sự đào tạo của con người. Khi tôi nhìn xuống nôi lần nữa, Davis Bauer đã ngừng thở. Tôi khom xuống gần hơn, chắc mẩm rằng mình chỉ để lỡ chuyển động phập phồng nơi lồng ngực bé xíu của đứa nhỏ. Thế nhưng từ góc độ này, tôi có thể thấy da bé tái xanh. Ngay lập tức tôi vươn tay chạm vào Davis, áp ống nghe lên trên tim bé, gõ vào gót, cởi bỏ tấm khăn đang quần quanh người bé. Có rất nhiều trường hợp trẻ sơ sinh bị ngưng thở khi ngủ, nhưng nếu bạn dịch chuyển bé một ít, đổi tư thế từ ngửa sang úp hoặc nghiêng, sự hô hấp sẽ tự động bắt đầu lại. Thế rồi cái đầu tôi bắt kịp đôi tay: Không để nhân viên người Mỹ gốc Phii chăm sóc đứa bé này. Ngoái lại nhìn cánh cửa phòng trẻ, tôi chỉnh góc đứng để nếu có người bước vào, họ chỉ thấy mỗi tấm lưng tôi. Họ sẽ không thấy tôi đang làm gì. Thúc cho bé hoạt động lại có giống như làm bé hồi tỉnh? Chạm vào đứa bé phải chăng là chăm sóc bé? Tôi có bị mất việc vì chuyện này không? Cứ lo chẻ sợi tóc làm đôi, săm soi mấy khác biệt nhỏ nhặt thì được gì chứ? Nếu đứa bé này thở được trở lại thì còn gì quan trọng hơn đâu? Những suy nghĩ trong tôi quay cuồng như bão lốc: Đây hẳn là trường hợp ngừng hô hấp; trẻ sơ sinh không bao giờ bị các chứng tim mạch cấp tính. Một đứa bé có thể ngừng thở từ ba đến bốn phút mà nhịp tim vẫn ở mức 100, bởi vì nhịp tim bình thường của trẻ là 150... có nghĩa là dù cho máu không lên não, nó vẫn đến được phần còn lại của cơ thể và chỉ cần bạn làm cho bé hô hấp lại được, nhịp tim sẽ tăng lên. Vì lý do này, đối với hồi sức tim phổi ở trẻ sơ sinh, biện pháp ấn ngực không quan trọng bằng thổi ngạt. Về mặt này, bạn phải làm ngược lại cách chăm sóc cho người lớn. Thế nhưng ngay cả khi tôi đã gạt đi những đắn đo và cô gắng làm tất cả những gì có thể, ngoài dùng thuốc, thằng bé vẫn không thở lại. Thông thường, tôi sẽ chụp lấy một cái máy đo nhịp tim và nồng độ ô-xy trong máu gắn vào tay bé. Tôi sẽ tìm một cái mặt nạ ô-xy. Tôi sẽ thực hiện các cuộc gọi. Tôi phải làm gì trong tình huống này? Tôi không được làm gì? Giờ phút này, bất cứ lúc nào Corinne hoặc Marie cũng có thể bước vào phòng trẻ. Họ sẽ thấy tôi can thiệp vào việc chăm sóc đứa bé này, rồi sao nữa? Mồ hôi chảy dọc sống lưng khi tôi vội vàng quấn đứa bé lại trong khăn. Tôi nhìn chăm chăm vào thân hình bé xíu của nó. Mạch đập thình thình bên tai tôi, đếm nhịp thất bại. Tôi không rõ là đã qua ba phút, hay chỉ ba mươi giây, khi tôi nghe tiếng Marie đằng sau mình. “Ruth,” y tá phụ trách hỏi, “cô đang làm gì vậy?” “Không gì cả,” tôi đáp lại, người tê liệt. “Tôi không làm gì hết.” Cô nhìn qua vai tôi, thấy làn da tái xanh trên má đứa bé, và trong một khoảnh khắc bỏng rát mắt cô gặp mắt tôi. “Lấy cho tôi cái bóp bóng hỗ trợ hô hấp,” Marie ra lệnh. Cô tháo tấm khăn quấn, gõ lên bàn chân bé xíu của đứa nhỏ, lật nó nằm úp lại. Làm đúng những gì tôi đã làm. Marie úp chiếc mặt nạ lên mũi và miệng của Davis rồi bắt đầu bóp bóng thở, bơm hơi vào phổi đứa bé. “Gọi mã cấp cứu đi...” Tôi theo chỉ thị của cô; bấm số 1500 trên điện thoại phòng trẻ. “Mã xanh[16] ở phòng trẻ sơ sinh,” tôi thông báo, và hình dung cảnh đội cấp cứu được triệu tập trong khi đang thực hiện công việc chính của họ trong bệnh viện - một bác sĩ gây mê, một y tá chăm sóc đặc biệt, một y tá lập biên bản, một trợ lý y tá từ tầng khác. Và bác sĩ Atkins, bác sĩ nhi vừa gặp đứa bé này vài phút trước. “Bắt đầu ấn ngực,” Marie bảo tôi. Lần này tôi không ngần ngại nữa. Bằng hai ngón tay, tôi ấn lên ngực đứa bé, 200 lần một phút. Khi xe dụng cụ cấp cứu được đẩy vào phòng trẻ, tôi dùng tay còn lại với lấy dây dẫn và gắn điện cực lên đứa bé để chúng tôi có thể thấy kết quả những nỗ lực của tôi trên máy đo nhịp tim. Đột nhiên căn phòng nhỏ hẹp trở nên chật kín người, tất cả chen nhau giành một chỗ trước một bệnh nhân dài chưa đầy nửa thước. “Tôi đang cố luồn ống vào khí quản đây,” bác sĩ gây mê gắt lên với y tá hồi sức tích cực đang cố tìm loại kim dùng cho mạch máu nhỏ. “Hừm, tôi thì không dò được mạch máu trước khuỷu,” cô phản ứng lại. “Tôi xong rồi,” bác sĩ gây mê nói rồi lùi lại để nữ y tá rộng chỗ làm việc hơn. Cô chọc dò, và tôi ấn mạnh tay hơn, hy vọng khiến cho một mạch máu - mạch nào cũng được - nổi rõ hẳn lên. Bác sĩ gây mê nhìn máy đo nhịp tim. “Ngừng ấn ngực,” ông gọi, và tôi giơ hai tay lên như đang phạm tội bị bắt quả tang. Tất cả chúng tôi đều hướng về màn hình, nhưng nhịp tim của đứa bé chỉ ở mức 80. “Ấn ngực không hiệu quả,” bác sĩ nói, thế là tôi ấn xuống lồng ngực mạnh hơn. Đó là một lằn ranh rất mong manh. Không có múi cơ nào bảo vệ các cơ quan bên dưới vùng bụng bụ bẫm đó; chỉ cần đè xuống hơi quá tay hoặc chệch đi một chút là tôi có thể làm vỡ gan đứa nhỏ sơ sinh. “Da của bé không hồng lại,” Marie nói. “Ô-xy có mở lên chưa vậy?” “Ai đó có thể xét nghiệm khí máu không?” bác sĩ gây mê hỏi, đề xuất của ông bện vào thắc mắc của Marie trên thân hình đứa bé. Y tá hồi sức tích cực lèn tay vào giữa háng của bé để tìm mạch, cố cắm kim lên động mạch đùi để lấy mẫu máu xem bé có dư a-xít không. Người vận chuyển - một thành viên khác trong đội cấp cứu - vội chạy đi đưa ống máu tới phòng xét nghiệm. Thế nhưng đến lúc kết quả về, sau nửa tiếng nữa, thì nó cũng chẳng còn ý nghĩa gì nữa rồi. Khi đó, đứa bé này đã thở lại được. Hoặc đã ngưng thở vĩnh viễn. “Khốn thật, tại sao đến lúc này chúng ta vẫn chưa thấy nhịp tim tăng?” “Ông muốn thử không?” y tá hồi sức đặc biệt nói. “Cứ tự nhiên đi.” “Ngừng ấn ngực,” bác sĩ gây mê ra lệnh, và tôi làm theo. Nhịp tim trên máy đo là 90. “Lấy cho tôi chút atropine.” Một ống tiêm được chuyền cho bác sĩ, ông này kéo nắp ra, gỡ cái bóp bóng, và truyền thuốc qua ống dẫn vào phổi đứa bé. Rồi ông tiếp tục bóp, đẩy ô-xy và atropine qua phế quản, màng nhầy niêm mạc. Giữa cơn khủng hoảng, thời gian đặc quánh. Bạn bơi qua nó chậm đến nỗi chẳng biết mình đang lần đầu nếm trải hay đang sống lại từng khoảnh khắc tồi tệ đó. Bạn có thể thấy tay mình đang làm việc, chăm sóc bệnh nhân, như thể chúng không thuộc về chính bạn. Bạn nghe những giọng nói cao với lên theo từng nấc thang lo lắng, rồi tất cả hòa thành một nốt nghịch tai, riết róng. “Đưa ống thông rốn thì sao?” y tá hồi sức đặc biệt hỏi. “Từ lúc sinh tới giờ đã quá lâu rồi,” Marie đáp lời. Tình hình trượt dốc nhanh chóng. Theo bản năng, tôi ấn xuống mạnh hơn. “Cô mạnh tay quá,” bác sĩ nhắc tôi. “Nhẹ lại đi.” Thế nhưng cái làm tôi rối trí là tiếng thét. Brittany Bauer đã vào phòng và đang gào khóc. Người mẹ đang bị y tá lập biên bản giữ lại trong khi cố gắng xấn tới để lại gần con. Chồng cô - sững sờ, bất động - nhìn chăm chăm vào ngón tay tôi đang ấn xuống ngực con trai anh ta. “Chuyện gì đang xảy ra với con tôi vậy hả?” Brittany gào lên. Tôi không biết ai đã để họ vào phòng. Thế nhưng đằng nào thì cũng chẳng có ai để mà ngăn họ lại. Khoa sản đã phải làm việc quá sức và thiếu người từ tối hôm qua. Corinne vẫn đang ở phòng phẫu thuật với ca sinh mổ cấp cứu và Marie thì đang ở đây với tôi. Nhà Bauers hẳn đã nghe cuộc gọi khẩn cấp. Họ hẳn đã thấy đội nhân viên y tế vội vã đến phòng trẻ, nơi con họ lẽ ra đang ngủ cho đến khi thuốc mê từ ca mổ thông thường kia tan hẳn. Ở vị trí của họ, ắt là tôi cũng sẽ chạy tới đây. Cánh cửa bật mở và bác sĩ Atkins, bác sĩ nhi, lập tức gạt mọi người ra để đến trước nôi. “Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Không có ai lên tiếng và tôi nhận ra mình là người được trông đợi trả lời. “Lúc đó tôi đang ở đây với đứa bé,” tôi đáp, nhấn trọng âm theo nhịp tay tôi ấn ngực. “Da bé tái xám và hô hấp đã ngừng. Chúng tôi đã cố kích thở cho bé, nhưng bé không có phản ứng há miệng hớp hơi hay thở tự nhiên, thế nên chúng tôi bắt đầu hô hấp nhân tạo.” “Mọi người làm thế được bao lâu rồi?” bác sĩ Atkins hỏi. “Mười lăm phút.” “Được rồi, Ruth, làm ơn ngừng lại một lúc...” bác sĩ Atkins nhìn máy đo nhịp tim. Con số hiển thị trên đó, lúc này, là bốn mươi. “Mộ chí,” Marie thì thào. Đó là từ chúng tôi sử dụng khi thấy nhịp nhanh QRS rộng trên điện tâm đồ - nửa bên phải trái tim phản hồi quá chậm với nửa trái; không còn cung lượng tim. Chẳng còn hy vọng nào nữa. Vài giây sau, nhịp tim ngừng hẳn. “Tôi thông báo đây,” bác sĩ Atkins nói. Cô hít vào một hơi sâu - việc này chẳng bao giờ dễ dàng, nhưng nó còn tệ hơn khi bệnh nhân là một đứa bé - rồi giật bóp bóng khỏi ống vứt vào thùng rác. “Thời gian?” Tất cả chúng tôi nhìn lên đồng hồ. “Không,” Brittany hổn hển và ngã khuỵu. “Xin đừng ngừng lại. Xin đừng bỏ cuộc.” “Tôi rất tiếc, cô Bauer,” bác sĩ nhi nói. “Nhưng chúng tôi không thể làm gì cho con trai cô nữa. Thằng bé đi rồi. Turk giằng khỏi vợ và chụp lấy cái bóp bóng từ thùng rác. Anh ta đẩy bác sĩ gây mê ra và cố gắn nó vào ống thở của Davis trở lại. “Chỉ tôi cách làm đi,” anh ta khẩn nài. “Tôi sẽ làm thay. Các người không phải bỏ cuộc.” “Anh à...” “Tôi có thể làm cho thằng bé thở lại. Tôi biết tôi có thể...” Bác sĩ Atkins đặt tay cô lên vai người cha, và Turk gục xuống, nỗi đau vỡ òa vào trong. “Anh không thể làm gì để đưa Davis trở lại nữa,” nữ bác sĩ nói, và người cha bưng mặt, bắt đầu thổn thức. “Thời gian?” bác sĩ Atkins lặp lại. Theo quy trình báo tử, mọi người trong phòng sẽ nhất trí vẽ thời điểm nó diễn ra. “10:04,” Marie đáp, và tất cả chúng tôi thì thầm, một dàn đồng ca ảo não: Tôi đồng ý. Tôi bước lùi lại, nhìn chăm chăm xuống đôi tay mình. Mấy ngón tay tôi bị chuột rút sau khi ấn ngực. Trái tim tôi đau đớn. Marie đo nhiệt độ đứa bé, một con số 35 lạnh lẽo. Lúc này Turk đã trở lại tựa vào bên vợ, đỡ cô đứng thẳng. Gương mặt cặp vợ chồng trống rỗng, chết lặng vì không tin và chẳng muốn tin. Bác sĩ Atkins đang khẽ khàng khuyên nhủ họ, cố gắng giải thích cái điều không thể. Corinne bước vào phòng trẻ. “Chị Ruth? Chuyện quái gì đã xảy ra vậy?” Marie quấn khăn thật chặt quanh người Davis, và kéo chiếc mũ nhỏ lại trùm lên đầu bé. Dấu hiệu duy nhất cho tổn thương đứa trẻ phải chịu là một cái ống con con, trông như ống hút, thò ra từ cái miệng hơi chu. Nữ y tá khẽ khàng vòng tay bế bé lên, như thể Davis vẫn còn cảm nhận được sự dịu dàng âu yếm. Rối cô đưa bé cho người mẹ. “Cho chị ra,” tôi nói với Corinne, trong khi điều tôi thực sự muốn thốt lên có lẽ là Tha lỗi cho chị. Tôi lách qua cô đồng nghiệp để ra ngoài, tránh người cha người mẹ đang thương khóc cùng đứa hài nhi đã chết và vừa kịp tới nhà vệ sinh thì cảm giác muốn bệnh dữ dội ập tới. Tôi ấn trán vào cái nắp bằng sứ mát lạnh của toilet, nhắm mắt lại, và đến tận lúc bấy giờ, tôi vẫn còn cảm nhận được: lồng ngực nhỏ lún xuống dưới những ngón tay tôi, tiếng reo dòng máu nóng của bé âm âm bên tai tôi, sự thật chua gắt trên lưỡi: nếu tôi không chần chừ, biết đâu đứa nhỏ vẫn còn sống sót. Tôi từng có một bệnh nhân, một cô gái mười mấy tuổi, mà đứa con sinh ra đã chết vì bong nhau non mức độ 3. Nhau thai đã bong ra khỏi màng trong tử cung và đứa bé không có ô-xy; máu chảy nhiều đến độ chúng tôi suýt nữa đã mất cả con lẫn mẹ. Đứa bé được đưa tới nhà vĩnh biệt chờ khám nghiệm tử thi - quy trình bắt buộc ở Connecticut khi xảy ra cái chết của một bé sơ sinh. Mười hai giờ sau, bà của cô gái từ Ohio tìm đến bệnh viện. Bà muốn được ôm đứa cháu cố, dù chỉ một lần. Tôi xuống nhà vĩnh biệt, tới chỗ những đứa bé đã chết được để trong một cái tủ lạnh Amana tầm thường, chất trên kệ trong những chiếc túi đựng thi thể nhỏ xíu. Tôi lấy cậu bé ra khỏi tủ và cởi bỏ cái túi; trong một phút liền tôi ngắm nhìn hình hài bé xinh hoàn hảo của đứa trẻ. Cậu bé trông hệt búp bê. Cậu bé trông như đang say ngủ. Tôi không đành lòng trao cho người bà một đứa cháu lạnh như băng, vậy là tôi quấn cậu bé lại và đến phòng cấp cứu tìm khăn ấm. Trong nhà vĩnh biệt, tôi dùng nhiều lượt khăn bọc lấy thân hình bé, cố đẩy lùi cái lạnh của làn da không còn sự sống. Tôi lấy chiếc nón len thường dùng để đội cho trẻ sơ sinh trùm lên đầu đứa nhỏ này, che khuất vùng da loang lổ tím vì máu đông đặc. Chúng tôi có chính sách thế này, nếu một bé sơ sinh mất: chúng tôi không bao giờ tước bé khỏi tay người mẹ. Nếu người phụ nữ đau khổ đó muốn ôm con suốt hai mươi tư giờ, muốn ngủ với đứa con nhỏ ấp bên tim, muốn chải tóc, tắm cho con và làm cho con những việc mà cô không bao giờ làm được, chúng tôi để cô toại nguyện. Chúng tôi chờ đến khi người mẹ sẵn lòng buông tay. Người bà đó, bà ôm cháu cố suốt cả một buổi chiều. Rồi bà đặt đứa nhỏ lại trong tay tôi. Tôi vắt một chiếc khăn lên vai, như thể đang chăm sóc bé, rồi đi vào thang máy, đưa bé xuống tầng hầm của bệnh viện nơi có nhà vĩnh biệt của chúng tôi. Bạn tưởng rằng phần khó khăn nhất trong trải nghiệm thế này là khoảnh khắc người mẹ trao cho bạn đứa con của cô ấy, nhưng không phải. Bởi vì lúc đó, với cô ấy, nó vẫn là một đứa con nhỏ. Phần khó khăn nhất là cởi bỏ chiếc mũ len bé xíu, chiếc khăn quấn, cái tã. Kéo dây khóa túi xác bọc lấy hình hài đó. Và đóng cửa tủ lạnh lại. Một giờ sau tôi ở phòng nhân viên, đang lấy áo khoác ra từ tủ khóa thì Marie thò đầu vào. “Cô vẫn còn ở đây à? Tốt. Có một phút nói chuyện không?” Tôi gật đầu, ngồi xuống đối diện cô tại bàn. Ai đó đã vung một nắm kẹo cứng trên đó. Tôi nhặt lấy một cái và mở gói, nghe bơ đường tan ra trên lưỡi. Tôi hy vọng nó sẽ ngăn mình nói ra cái điều không nên nói. “Đúng là một buổi sáng vất vả,” Marie thở dài. “Đúng là một đêm nhớ đời,” tôi đáp lại. “Phải rồi, cô trực hai ca liền mà.” Y tá phụ trách lắc đầu. “Gia đình tội nghiệp đó.” “Thật kinh khủng.” Tôi có thể không đồng tình với quan niệm của họ, nhưng điều đó không có nghĩa là tôi cho rằng họ đáng bị mất con. “Chúng tôi phải cho người mẹ thuốc an thần,” Marie bảo tôi. “Đứa bé đã xuống tầng dưới.” Khéo thay, cô ấy không nhắc tôi người cha. Marie vuốt phẳng một tờ đơn trên bàn. “Đây dĩ nhiên chỉ là thủ tục. Tôi cần ghi lại chuyện đã xảy ra khi Davis Bauer ngưng thở. Lúc đó cô đang ở phòng trẻ phải không?” “Tôi đang trông bé thay cho Corinne,” tôi đáp. Giọng tôi nhẹ, đều, mặc dù mỗi âm tiết tạo cảm giác nguy hiểm như một lưỡi dao kề bên họng. “Cô ấy bất ngờ được gọi đến phòng cấp cứu. Đứa trẻ nhà Bauer được cắt bao quy đầu vào lúc chín giờ, và không thể để bé một mình không người coi sóc. Vì cô cũng đang tham gia ca mổ đó, tôi là nhân viên duy nhất có thể giám sát bé thay Corinne.” Ngòi bút của Marie sột soạt trên tờ giấy; không có gì tôi vừa kể mà cô ấy không biết hay chưa nghĩ tới. “Khi nào cô nhận ra bé sơ sinh đã ngừng thở?” Tôi cuộn lưỡi quanh viên kẹo. Đẩy nó lên bên má. “Một chốc trước khi cô tới,” tôi đáp. Marie định nói, nhưng kìm lại. Cô gõ bút hai lần, rồi đặt nó xuống với một tiếng bấm dứt khoát. “Một chốc,” cô lặp lại, như thể đang đong đếm quy mô và kích thước từ đó. “Ruth... khi tôi bước vào, cô chỉ đang đứng đó.” “Lúc đó tôi đang làm việc người ta trông đợi tôi làm,” tôi sửa lại. “Tôi không động vào đứa bé đó.” Tôi đứng dậy khỏi bàn, gài nút áo khoác lại, hy vọng y tá phụ trách không thấy tay mình run rẩy. “Còn gì nữa không?” “Ngày hôm nay vất vả rồi,” Marie nói. “Cô về nghỉ đi.” Tôi gật đầu và rời phòng nghỉ. Tuy nhiên, thay vì đi thang máy xuống tầng trệt, tôi lao xuống lòng bệnh viện. Giữa những món đồ phơi sáng huỳnh quang quá mức của nhà vĩnh biệt, tôi chớp mắt, để mắt mình làm quen. Tôi tự hỏi vì sao sự rõ ràng luôn trắng đến thế. Cậu bé là thi thể trẻ con duy nhất ở đó. Tay chân bé vẫn mềm mại, làn da chưa lạnh hoàn toàn. Má và chân bé có những mảng tím, nhưng đó là dấu hiệu duy nhất cho thấy đứa trẻ không phải như người ta tưởng từ cái nhìn đầu tiên: là đứa con yêu dấu của một ai đó. Tôi tựa vào một cái xe đẩy cáng bằng thép, ấp đứa bé trong tay. Tôi ôm bé theo cách tôi sẽ làm, nếu được người ta cho phép. Tôi thì thầm tên đứa trẻ và cầu nguyện cho linh hồn bé. Tôi đón chào bé vào thế giới đổ nát này, và trong cùng một hơi thở, nói lời từ biệt. Kennedy Đúng là một buổi sáng hết ý. Đầu tiên, cả bọn chúng tôi ngủ quên vì tôi tưởng Micah đã đặt báo thức còn anh cứ nghĩ tôi đã làm việc đó. Thế rồi con gái bốn tuổi của chúng tôi, Violet, không chịu ăn tô ngũ cốc Cheerios và khóc nhè cho đến lúc Micah đồng ý chiên trứng cho nó, tới lúc đó thì lõi lò hạt nhân đã chảy tan, không giữ được năng lượng bên trong nữa nên cô nhóc lại òa ra khóc khi đĩa trứng được đặt xuống. “Con muốn một con dao khốn kiếp!” con bé gào lên, và đó có lẽ là thứ duy nhất có thể khiến cả Micah và tôi ngừng lại trong cái vòng lăng xăng cuống cuồng của mình. “Con bé vừa nói cái mà anh nghĩ nó mới nói phải không?” Micah hỏi. Violet lại rống lên - lẫn này rõ ràng hơn. “Con muốn dao với nĩa[17]!” Tôi phá ra cười, khiến Micah ném cho tôi một cái nhìn chê trách. “Đã bao nhiêu lần anh bảo em thôi chửi thề rồi?” anh nói. “Em thấy chuyện con gái bốn tuổi của mình nói chuyện như một thằng thủy thủ buồn cười lắm hả?” “Chính xác thì con bé đâu có nói bậy. Chính xác thì, anh đã nghe lầm.” “Đừng có ra bộ thầy cãi với anh,” Micah lầm bầm. “Đừng có ra bộ thầy giáo với em,” tôi đốp lại. Vậy là đến lúc chúng tôi rời nhà - Micah đưa Violet đến trường mẫu giáo rồi đi thực hiện liên tục sáu ca mổ, còn tôi lái xe về hướng ngược lại tới văn phòng mình - thành viên duy nhất có tâm trạng vui vẻ trong gia đình tôi là Violet, người đã ăn sáng với đầy đủ dao nĩa và được mang đôi giày búp bê đính kim sa màu mè bởi vì bố mẹ của con bé không còn hơi sức đâu tranh cãi với nó về chuyện đó nữa. Một giờ sau, ngày của tôi đã đi từ tệ tới tệ hơn nữa. Bởi vì dẫu tôi đã học trường luật ở Columbia, tốt nghiệp trong tốp 5% đầu lớp, trải ba năm làm thư ký cho một thẩm phán liên bang, hôm nay sếp tôi - người đứng đầu Đơn vị Dịch vụ Luật sư Công của Tòa án Quận West Haven ở bang Connecticut - đã cử tôi đi đàm phán về áo ngực. Al Wojecwicz, giám đốc trại cải huấn ở cơ sở New Haven, đang ngồi trong một phòng hội nghị ngột ngạt với tôi, phó giám đốc của ông ta, và một luật sư khác bên phía tư nhân, Arthur Wang. Xin được lưu ý với bạn, tôi là người phụ nữ duy nhất trong phòng. Cuộc họp mặt của cái mà tôi gọi là ủy ban Tí Tị Tì Ti đã được tiến hành đột ngột vì hai tháng trước, luật sư nữ chúng tôi bị cấm vào nhà tù nếu mặc áo ngực có gọng. Chúng tôi cứ làm cho máy dò kim loại réo ầm. Nhà tù không bằng lòng với việc dùng tay dò tìm ngoài lớp quần áo, nhất quyết bắt lột đồ ra, một việc vừa bất hợp pháp vừa tốn thời gian. Vốn khéo xoay xở, chúng tôi bắt đầu vào nhà vệ sinh và để lại đồ lót ở đó, để có thể vào tù thăm khách hàng của mình. Thế rồi nhà tù bảo chúng tôi không thể đi vào mà không mặc áo ngực. Al xoa xoa hai bên thái dương. “Cô McQuarrie, cô phải hiểu, việc này chỉ để giảm thiểu nguy cơ thôi.” “Giám đốc à,” tôi đáp lại, “họ cho phép ông vào trong với chìa khóa bên mình kia mà. Ông nghĩ tôi sẽ làm gì chứ? Phá ngục giải thoát cho ai đó bằng đồ lót tạo dáng hả?” Phó giám đốc không dám nhìn vào mắt tôi. Ông húng hắng giọng. “Tôi đã đến tiệm Target và xem các loại áo ngực họ bán ở đó...” Lông mày của tôi nhướng lên đến tận chân tóc, và tôi quay sang Al. “Ông cử phó giám đốc đi nghiên cứu thị trường à?” Trước khi ông kịp trả lời, Arthur ngả người ra trên ghế. “Mọi người biết đấy, việc này đặt ra vấn đề là phải chăng ta cần xem lại toàn bộ chính sách về phục trang,” anh này trầm ngâm. “Năm ngoái vào phút chót tôi phải tới thăm một khách hàng, trước khi đi nghỉ lễ. Tôi đang mang xăng đan, và được bảo rằng mình không thể vào trong tù với chúng. Thế nhưng ngoài đôi đó ra lúc đó tôi chỉ có mỗi giày chơi golf, mà chúng lại được chấp nhận mới ghê chứ.” “Giày chơi golf,” tôi lặp lại. “Cái loại giày thực sự có đinh dưới đế ấy hả? Sao ông lại cho người vào trong với giày chơi golf mà không phải dép tông?” Giám đốc và cấp dưới của ông ta nhìn nhau, “Ừm, bởi vì mấy kẻ liếm ngón chân,” phó giám đốc trả lời. “Các ông sợ có kẻ sẽ mút ngón chân của chúng tôi á?” “Phải,” ông này đáp, lạnh tanh. “Tin tôi đi, cũng là để bảo vệ quý vị thôi. Việc đó cũng giống như chuyến thăm tù cho vợ chồng yêu nhau vậy, có điều là bằng chân quý vị.” Trong một nhịp tim đập ngắn ngủi, tôi hình dung cuộc đời mình có thể sống nếu gia nhập một công ty luật tập đoàn sạch sẽ, trên con đường thăng tiến thành luật sư cộng tác của hãng. Tôi tưởng tượng mình được gặp khách hàng trong phòng hội nghị lắp ván gỗ, thay vì trong kho chứa đồ cũ sửa lại có mùi như thuốc tẩy và nước tiểu. Tôi hình dung việc được bắt tay những khách hàng mà bàn tay không run rẩy - vì lên cơn thèm ma túy hay trong nỗi khiếp sợ đớn hèn trước một hệ thống thực thi công lý mà hắn ta không tin tưởng. Thế nhưng bao giờ mất cái này thì cũng được cái kia. Khi tôi gặp Micah, anh là sinh viên khoa mắt ở Yale-New Haven. Anh kiểm tra cho tôi và nói rằng tôi có kiểu tật khuyết mắt đẹp nhất mà anh từng thấy. Trong buổi hẹn đầu tiên, tôi bảo anh tôi thật sự tin rằng công lý mù lòa, và anh nói đó là vì anh chưa có cơ hội hành nghề thôi. Nếu không kết hôn với Micah, có lẽ tôi đã theo phần còn lại trong nhóm nhân viên của Law Review tới những văn phòng toàn chrome sáng bóng ở các thành phố lớn. Thay vào đó, anh bắt đầu hành nghề, và tôi ngừng công việc thư ký để sinh Violet. Khi tôi đã sẵn sàng trở lại làm việc, Micah là người nhắc tôi nhớ mình từng muốn đấu tranh cho loại luật pháp nào. Nhờ vào đồng lương của anh, tôi có thể thực hành nó. Anh sẽ kiếm tiền, Micah từng nhủ với tôi. Em hãy tạo ra khác biệt. Là một luật sư công, tôi sẽ không bao giờ giàu sụ, nhưng tôi có thể nhìn vào mình trong những tấm gương. Và vì chúng tôi sống ở một đất nước nơi người ta tin là công lý được ban phát một cách công bằng, bất kể bạn có bao nhiêu tiền, bạn bao nhiêu tuổi, bạn thuộc giới tính, chủng tộc hay sắc tộc nào, chẳng phải luật sư công cũng nên thông minh, quyết liệt và sáng tạo không kém luật sư tư nhân sao? Vậy nên tôi áp tay lên bàn. “Ông biết không, giám đốc, tôi không chơi golf. Nhưng tôi có mặc áo ngực. ông biết còn ai nữa như vậy không? Bạn tôi Harriet Strong, một luật sư của Liên đoàn Tự do Dân sự. Chúng tôi từng học chung trường luật, và chúng tôi cố gắng hẹn nhau ăn trưa mỗi tháng một lần. Tôi nghĩ cô ấy sẽ lấy làm thích thú khi được nghe về cuộc họp này, nhất là khi Connecticut cấm phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục và bản dạng giới, và xét cho cùng thì chỉ có nữ luật sư hoặc những luật sư coi mình là nữ giới mới mặc áo ngực khi thăm khách hàng trong cơ sở này. Điều đó có nghĩa là chính sách của các ông vi phạm quyền luật sư và cản trở chúng tôi cung cấp sự tư vấn pháp luật. Tôi cũng khá chắc rằng Harriet sẽ muốn nói chuyện với Hội Phụ nữ Connecticut để xem bao nhiêu nữ luật sư khác đã có phàn nàn tương tự. Nói cách khác, chuyện này rơi đúng vào loại Nếu Báo Giới Được Tin Các Ông Sẽ Biết Thân. Vậy nên lần tới khi đến gặp khách hàng, tôi sẽ mang theo chiếc áo cúp nửa ngực 34C Le Mystere của mình, và - xin thứ lỗi cho ẩn dụ này - tôi tin rằng sẽ không có hậu quả tai hại nào đâu. Có đúng không?” Miệng viên giám đốc mím chặt. “Tôi chắc chắn chúng ta có thể xem lại lệnh cấm áo có gọng.” “Tốt,” tôi nói, thu dọn đồ cho vào cặp hồ sơ. “Cảm ơn vì mọi người đã dành thời gian, nhưng tôi phải ra tòa rồi. Tôi lướt ra khỏi căn phòng nhỏ, Arthur theo gót. Ngay khi chúng tôi ra tới ngoài nhà ngục, dưới ánh nắng chói chang, anh ta toét miệng cười. “Nhắc tôi chớ có mà đối đầu cô trước tòa nhé.” Tôi lắc đầu. “Anh có chơi golf thật không?” “Có, khi tôi phải nịnh đầm một tay thẩm phán,” anh ta đáp. “Cô mặc cỡ 34C thật à?” “Anh chẳng bao giờ biết được đâu, Arthur,” tôi cười, và chúng tôi tiến lại chỗ xe riêng của mỗi người trong bãi đậu, rời đi phục vụ cho hai thế giới rất khác nhau. Chồng tôi và tôi không nhắn cho nhau mấy cái tin khêu gợi. Thay vào đó, các cuộc trò chuyện qua tin nhắn điện thoại của chúng tôi bao gồm một danh sách các quốc tịch: Việt Nam. Ethiopia. Mexico. Hy Lạp. Ấy là để đáp lại câu hỏi, “Tối nay chúng ta mua đồ ăn ở đâu bây giờ?” Thế nhưng khi tôi rời cuộc họp tại nhà tù, có một tin nhắn đang chờ tôi từ Micah: Xin lỗi sáng nay anh là một tên khốn. Tôi tủm tỉm cười và nhắn lại cho anh. Hèn gì mà con của mình chửi bậy. Tối nay hẹn hò nhé? Micah viết. Ngón cái của tôi lướt trên điện thoại. Nói tới chỗ tên khốn là anh đã dụ được em rồi, tôi gõ. Ấn Độ? Anh không chờ nổi tôi vindaloo[18] tối nay nữa, Micah trả lời. Thấy không, đây là lý do tôi không thể nào giận chồng mình lâu được. Mẹ tôi, trưởng thành ở North Carolina từ những dịp hội hè cho các thiếu nữ thượng lưu, tin rằng chẳng có gì mà một chút chất làm mềm móng và kem mắt không sửa được. Vì thế, bà luôn cố gắng bắt tôi chăm sóc bản thân, tức là cố gắng làm cho mình coi được, một điều hết sức phi lý, nhất là khi tôi có một đứa con nhỏ và lúc nào cũng có khoảng một trăm khách hàng cần chăm sóc, tất cả đều xứng đáng với thời gian của tôi hơn là người thợ làm đầu có thể nhuộm vài lọn sáng cho tóc tôi. Năm ngoái, nhân dịp sinh nhật tôi, mẹ tặng tôi một món quà mà tôi đã cố tình né tránh cho đến ngày nay: phiếu quà tặng massage chín mươi phút ở một spa. Tôi có thể làm rất nhiều thứ trong chín mươi phút. Lập một hoặc hai bản tóm tắt, cãi một kiến nghị, nấu cho Violet ăn bữa sáng, thậm chí là (nếu tôi thành thật) tranh thủ có một cuộc lăn lộn vui thú với Micah trong chăn. Nếu tôi có chín mươi phút, điều cuối cùng tôi muốn là dùng nó để nằm trần truồng trên một cái bàn để một người lạ xoa dầu lên khắp người. Thế nhưng, như mẹ tôi chỉ ra, cái phiếu sẽ hết hạn trong một tuần, và tôi vẫn chưa dùng tới nó. Vì vậy - bởi bà biết tôi quá bận để lo mấy thứ nhỏ nhặt như này, mẹ tôi đã tự ý đặt chỗ cho tôi ở spa-ht On, một spa chuyên phục vụ những phụ nữ đi làm bận bịu, theo như logo của họ thì thế. Tôi ngồi trong phòng chờ đến khi được gọi, tự hỏi liệu họ có suy nghĩ kỹ trước khi chọn cái tên đó. Spa-ht on ư? Hay Spat on (phun lên)? Với tôi cả hai đều nghe chẳng hay ho gì cả. Tôi lo lắng không biết có được mặc quần lót bên dưới áo choàng hay không, và rồi loay hoay đã đời mới tìm được cách mở tủ khóa và đóng lại. Có khi đây là kế hoạch lớn của họ - đến lúc được massage thì khách hàng đã quá bực bội nên họ không thể nào không ra về với trạng thái khỏe khoắn hơn lúc bước vào. “Tôi là Clarice,” người trị liệu giới thiệu với tôi, bằng giọng nói dịu dàng như chiêng Tây Tạng. “Tôi sẽ ra ngoài để cô chuẩn bị cho thoải mái.” Căn phòng tối, được thắp sáng bằng ánh nến. Có một bản nhạc tẻ ngắt đang được chơi đều đều. Tôi tụt áo xống với dép ra và chui vào dưới tấm chăn, ướm mặt mình vào cái lỗ nhỏ trên bàn massage. Một lúc sau, có tiếng gõ nhè nhẹ. “Chúng ta sẵn sàng chưa?” Tôi không biết. Chúng tôi sẵn sàng chưa nhỉ? “Nào, chị cứ thư giãn,” Clarice nói. Tôi cố. Ý tôi là, tôi thật sự cố rồi. Tôi nhắm mắt trong khoảng ba mươi giây. Rồi tôi mở mắt ra trở lại và nhìn chăm chăm vào đôi chân của người trị liệu trong kiểu giày thể thao thiết thực qua cái lỗ trên mặt bàn massage. Bàn tay chắc chắn của cô gái bắt đầu chạy dọc xương sống tôi. “Cô làm việc ở đây lâu chưa?” tôi hỏi. “Ba năm rồi.” “Tôi cá là có một vài khách hàng mà cô vừa thấy là sẽ ước gì mình không phải đụng vô nhỉ,” tôi lảm nhảm. “Ý tôi là, như lông lưng ấy? Eo.” Cô gái không trả lời. Chân cô dịch chuyển trên sàn. Tôi tự hỏi có phải cô đang nghĩ tôi cũng là một trong số những khách hàng như thế. Cô có thật sự nhìn cơ thể tôi như cách một bác sĩ nhìn - coi là một phiến gỗ đá để thao tác làm việc lên đó? Hay cô nhìn vào lớp da sần vỏ cam ở mông tôi và đống mỡ tôi thường giấu dưới dây áo ngực và nghĩ rằng bà mẹ yoga mà cô vừa xoa nắn một tiếng trước còn có hình thể đẹp hơn? Clarice, chẳng phải đó là tên nữ nhân vật trong Sự im lặng của bầy cừu sao? “Đậu tằm và một chai vang Chianti hảo hạng[19],” tôi thì thầm. “Chị vừa nói gì đấy?” “Xin lỗi,” tôi nói khe khẽ, cằm ép vào bàn massage. “Thật khó để nói chuyện trong cái máy kỳ khôi này.” Tôi cảm giác mũi mình nghèn nghẹt. Khi nằm úp thế này quá lâu, tôi thường bị thế. Rồi tôi sẽ phải thở bằng miệng và tôi nghĩ rằng người trị liệu nghe được và thỉnh thoảng tôi còn chảy nước dãi qua cái lỗ trên mặt bàn. Thêm lý do để tôi không thích massage. “Thỉnh thoảng tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi bị đâm xe và mình bị kẹt nằm úp như thế,” tôi nói. “Không phải trong xe, cô biết chứ, mà ở bệnh viện trong một cái nẹp cổ chốt vào sọ mình để xương sống không dịch chuyển? Lỡ như bác sĩ lật tôi úp lại, và tôi bị nghẹt như lúc này mà không thể nói cho họ biết thì sao? Hay rủi như tôi bị kiểu hôn mê mà thần trí vẫn tỉnh nhưng bị kẹt cứng trong cơ thể chính mình, không thể nói và tuyệt vọng cần được hỉ mũi.” Đầu tôi đang nện thình thình, vì ở trong tư thế này. “Mà cũng chẳng cần phải phức tạp như thế. Lỡ như tôi 105 tuổi, đang ở nhà dưỡng lão và bị cảm mà không ai nghĩ tới việc nhỏ cho tôi vài giọt thông mũi Afrin?” Chân Clarice di chuyển khỏi tầm nhìn của tôi và rồi tôi nghe một làn hơi lạnh trên chân mình khi cô bắt đầu massage bắp chân trái. “Mẹ tôi tặng tôi buổi trị liệu này nhân dịp sinh nhật,” tôi kể. “Thật tốt...” “Bà là fan cứng của việc dưỡng ẩm. Bà thật sự đã nói rằng không có làn da khủng long thì tôi cũng không chết đâu, nếu tôi muốn giữ chồng. Tôi chỉ ra rằng nếu mỹ phẩm là cái giữ cho cuộc hôn nhân của tôi không sứt mẻ thì tôi có một vấn đề lớn hơn việc có hay không thời gian để lên lịch massage nhiều...” “Cô McQuarrie?” người trị liệu lên tiếng. “Tôi nghĩ mình chưa bao giờ gặp một khách hàng nào cần được massage nhiều như cô.” Vì lý do nào đó, điều này làm tôi hãnh diện. “Và chấp nhận nguy cơ mất tiền boa, tôi cũng nghĩ mình chưa bao giờ gặp khách hàng nào dở việc để người khác massage như cô.” Điều này còn làm tôi hãnh diện hơn. “Cảm ơn,” tôi nói. “Có lẽ cô nên thử... thả lỏng. Ngừng nói. Để tâm trí trống rỗng.” Tôi nhắm mắt lại lần nữa. Và bắt đầu điểm qua danh sách những việc phải làm trong đầu mình. """