"
Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót - Kate Atkinson & Khánh Vân (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót - Kate Atkinson & Khánh Vân (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
Ebooks
Nhóm Zalo
Những Chú Chim Chưa Bao Giờ Được Hót —★—
Tác giả: Kate Atkinson
Người dịch: Khánh Vân
Phát hành: Đinh Tị
Nhà xuất bản Lao Động 2019
ebook©vctvegroup
Dành tặng Reuben
“Mỗi con người là một vị thần đã nhuốm bụi trần. Khi con người ngây thơ, cuộc đời sẽ dài hơn, và sẽ hóa thành vĩnh cửu, nhẹ nhàng như khi ta tỉnh giấc từ những cơn mơ.”
- Ralph Waldo Emerson, Thiên nhiên
“Mục đích của Nghệ thuật là chuyển tải tính chân xác của một sự vật, chứ không phải hóa thân thành cái tính chân xác ấy.”
- Sylvie Beresford Todd
Có lần, (Thánh George) tới một thành phố có tên là Salem. Gần đó có một con rồng sinh sống. Hằng ngày, các cư dân của thành phố phải bốc thăm để cúng tiến một người cho nó ăn thịt.
Vào ngày Thánh George đến đó, lá thăm rơi vào tay con gái của nhà vua, là nàng Cleolinda. Thánh George không muốn cô gái phải chết nên đã quyết tâm đi tiêu diệt con rồng - nó sống ở một đầm lầy ngay gần đó - và ngài đã thành công.
Khi ngài gặp phải một khó khăn hay nguy hiểm, dù nó có vẻ lớn lao thế nào - kể cả là một con rồng - ngài cũng không trốn tránh hay sợ hãi, mà sẵn sàng đối mặt với nó bằng tất cả sức mạnh mà ngài có. Mặc dù trong tay chẳng có vũ khí gì ngoài một cây giáo, ngài vẫn xông xáo, nỗ lực hết sức mình và cuối cùng đã vượt qua được một khó khăn mà chẳng ai dám đối mặt.
Đây chính là cách để một hướng đạo sinh đối mặt với một khó khăn hay nguy hiểm, bất kể nó có vẻ lớn lao và đáng sợ thế nào, hay hướng đạo sinh ấy được trang bị thiếu thốn ra sao trước cuộc chiến đấu ấy. - Robert Baden Powell, Hướng đạo cho trẻ em nam
30 tháng 3 năm 1944
Chuyến bay cuối cùng
Naseby
A
nh thả bước tới tận hàng rào đánh dấu điểm tận cùng của phi trường. Chuyến đi “vụt cột mốc ranh giới”[1]. Cánh đàn ông gọi nó là “chuyến bách bộ thường nhật” của anh và bực bội khi anh không chịu thừa nhận. Họ là những kẻ mê tín. Ai cũng mê tín.
Phía bên kia hàng rào là những cánh đồng trơ trụi vừa được cày vào mùa thu vừa rồi. Anh không mong được nhìn thấy “thuật giả kim” của mùa xuân biến những khoảnh đất nâu xỉn thành màu xanh mơn mởn rồi sau đó là màu vàng kim nhạt. Người ta có thể dựa vào những vụ mùa được thu hoạch để tính cuộc đời mình. Anh đã thấy đủ rồi.
Phi trường của họ nằm lọt thỏm giữa vùng đất canh tác bằng phẳng của một nông trại. Ngôi nhà trại vuông vắn và vững chãi nằm chếch về phía bên trái. Vào ban đêm, một ngọn đèn màu đỏ tỏa sáng rực rỡ trên mái nhà để ngăn họ đâm vào nó. Nếu họ bay qua nó khi chuẩn bị hạ cánh, họ biết là mình đã bay quá trớn và sẽ gặp rắc rối.
Từ đây, anh có thể nhìn thấy cô con gái của người nông dân đang cho ngỗng ăn ở trong sân. Hình như có một bài hát thiếu nhi về hình ảnh này thì phải? Không phải, đó là bài hát về người vợ của ông nông dân, đúng không nhỉ? - cắt những cái đuôi bằng con dao lạng thịt[2]. Một hình ảnh ghê rợn. Lũ chuột tội nghiệp, anh đã nghĩ như vậy hồi anh còn nhỏ. Giờ đã trưởng thành rồi mà anh vẫn nghĩ như thế. Những bài hát thiếu nhi là những câu chuyện bạo lực.
Anh chưa bao giờ gặp cô con gái của người nông dân, cũng không biết tên cô, nhưng anh vẫn quý mến cô. Cô luôn vẫy tay chào tạm biệt họ. Thi thoảng cha cô cùng đứng vẫy chào với cô, đôi lần có cả mẹ cô, nhưng cô gái luôn có mặt ở sân nông trại mỗi lần họ xuất kích.
Giờ thì cô đã nhìn thấy anh và vẫy tay. Thay vì vẫy tay đáp lại, anh giơ tay chào cô theo kiểu nhà lính. Anh nghĩ cô sẽ thích điều này. Đương nhiên, từ khoảng cách này, anh chỉ là một bộ quân phục. Cô không biết anh là ai. Teddy chỉ là một trong nhiều người lính.
Anh huýt sáo gọi con chó.
1925
Alouette[3]
“C
ô nhìn kìa!” Cậu nói. “Đó - một con chim. Một con chim chiền chiện.” Cậu ngước nhìn cô và thấy rằng cô đang nhìn sai hướng. “Không, ở đằng kia cơ ạ.” Cậu vừa nói vừa chỉ. Cô vẫn chưa nhìn ra.
“Ồ!” Cuối cùng, cô nói. “Kia rồi, cô thấy rồi! Lạ nhỉ - nó đang làm gì vậy?”
“Nó đang bay lơ lửng tại chỗ, có lẽ tí nữa nó sẽ lại bay lên.” Con chim chiền chiện bay vọt lên cao giữa tiếng hót mê ly của chính nó. Cú vút bay và tiếng hót tuyệt diệu của con chim đã khơi lên một mối cảm xúc sâu sắc trong cậu mà ngay đến bản thân cậu cũng không ngờ đến. “Cô có nghe thấy không?”
Cô của cậu khum bàn tay bên tai một cách khoa trương ra vẻ lắng nghe. Trông cô lạc quẻ như một con công khi đội chiếc mũ kỳ quặc có màu đỏ chót như cái hòm thư hình cột trụ, nó lại còn được đính hai cái lông đuôi chim trĩ to tướng, chúng cứ rung rinh, ve vẩy theo từng cử động dù là nhẹ nhất của đầu cô. Cậu sẽ không ngạc nhiên nếu ai đó nhắm bắn cô. Giá mà có người làm thế thật, cậu nghĩ. Teddy được phép - cậu tự cho phép mình - có những ý nghĩ xấu xa như vậy, miễn là chúng được giữ kín trong đầu. (“Sự lễ phép…” Mẹ cậu dạy. “… Là chiếc áo giáp mà người ta phải khoác lên người vào mỗi buổi sáng.”)
“Nghe thấy cái gì cơ?” Cuối cùng, cô của cậu nói.
“Tiếng hót.” Cậu dồn hết kiên nhẫn để nói. “Tiếng hót của con chim chiền chiện. Giờ thì hết rồi.” Cậu nói thêm khi cô tiếp tục tỏ ra như đang lắng nghe.
“Nó có thể hót lại mà.”
“Không. Nó sẽ không hót lại đâu ạ. Nó không thể. Nó đi rồi. Nó bay mất rồi.” Cậu vỗ vỗ hai cánh tay như chim vỗ cánh để minh họa cho lời
ẳ
mình. Mặc dù đính lông vũ trên mũ nhưng rõ ràng cô chẳng biết gì về loài chim. Hoặc bất cứ loài động vật nào. Cô thậm chí còn chẳng nuôi mèo. Cô dửng dưng với Trixie, con chó lóc[4] của họ, hiện đang hăng hái sục sạo dưới cái mương cạn khô bên vệ đường. Trixie là người bạn đồng hành đáng tin cậy nhất của cậu và đã ở bên cậu từ lúc nó còn là một con chó con nhỏ xíu, nhỏ đến mức nó có thể len qua cánh cửa ngôi nhà búp bê của các chị gái cậu.
Cậu tự hỏi, phải chăng cô của cậu cần cậu chỉ dạy? Phải chăng đó là lý do họ có mặt ở đây? “Chim chiền chiện nổi tiếng vì tiếng hót của mình.” Cậu giảng giải. “Tiếng hót của nó rất hay.” Đương nhiên, không thể giải thích thế nào là hay được. Hay chỉ đơn giản là hay thôi. Ta có thể rung động bởi tiếng hót ấy hoặc không. Các chị Pamela và Ursula của cậu thì có. Anh cả Maurice của cậu thì không. Em trai Jimmy của cậu còn quá nhỏ nên chưa cảm nhận được, còn bố cậu có lẽ đã quá già. Bố cậu, Hugh, có một cái đĩa hát mang tên Chim chiền chiện vút bay, thi thoảng họ lại mở nó lên nghe vào những buổi chiều Chủ nhật mưa gió. Nó cũng hay nhưng không thể sánh bằng tiếng hót của con chim chiền chiện thực thụ được. “Mục đích của Nghệ thuật…” Mẹ cậu, Sylvie, nói - hay đúng hơn là dạy bảo - “… Là chuyển tải tính chân xác của một sự vật chứ không phải hóa thân thành cái tính chân xác ấy.” Cha của bà, ông ngoại của Teddy, từng là một họa sĩ nổi tiếng nhưng đã mất từ lâu, vì có người cha là họa sĩ như vậy nên mẹ cậu mới cho rằng mình có quyền mạnh miệng về chủ đề nghệ thuật. Và Teddy cho rằng cả vấn đề thẩm mỹ nữa. Tất cả những thứ này - Nghệ thuật, Tính chân xác, Thẩm mỹ - đều được mẹ cậu ngầm viết hoa khi nói về chúng.
“Khi chim chiền chiện bay cao…” Cậu tiếp tục nói với cô Izzie, vẻ vô vọng. “… Thì có nghĩa là thời tiết đẹp đấy ạ.”
“Ôi dào, chả cần đến một con chim người ta cũng biết thời tiết có đẹp hay không, người ta chỉ việc nhìn xung quanh thôi.” Izzie nói. “Và tiết trời chiều nay thật rực rỡ. Cô yêu ánh mặt trời biết bao.” Cô nói thêm, nhắm mắt và ngửa khuôn mặt tô son trát phấn lên bầu trời.
Có ai mà không yêu ánh mặt trời cơ chứ? Teddy ngẫm nghĩ. Có lẽ là bà nội cậu. Bà luôn ở lì trong một căn phòng khách âm u ở Hampstead. Căn phòng ấy luôn được che rèm kín mít để ngăn ánh sáng từ bên ngoài lọt vào trong nhà. Hoặc có lẽ để ngăn bóng tối từ trong nhà thoát ra ngoài.
Vào những lúc do dự, thiếu tự tin, cậu thường tìm đến cuốn Hướng đạo cho trẻ em nam, mặc dù bây giờ cậu đã “tự trục xuất mình” ra khỏi phong trào hướng đạo ấy. “Quy tắc Hiệp sĩ” mà cậu thuộc nằm lòng trong cuốn sách đó đòi hỏi rằng “thanh thiếu niên nên được rèn luyện để làm những công việc khó nhọc và hèn mọn nhất với tinh thần vui vẻ và lịch thiệp.” Cậu cho rằng giải khuây cho cô Izzie là một trong những việc như vậy. Đây chắc chắn là một công việc vô cùng nặng nhọc.
Cậu che mắt trước ánh dương chói lọi và quét mắt khắp bầu trời để tìm con chim chiền chiện. Nó không quay lại nên cậu đành tiêu khiển bằng cách dõi nhìn theo những động tác bay lượn trên không của lũ chim nhạn. Cậu nghĩ về Icarus[5] và tự hỏi từ dưới đất nhìn lên trông cậu ta sẽ như thế nào. Chắc là to lắm. Icarus là một nhân vật hư cấu trong truyện thần thoại đúng không nhỉ? Sau kỳ nghỉ hè, Teddy sẽ đi học ở trường nội trú và cậu phải bắt đầu tìm hiểu về cậu ta mới được. “Con sẽ phải trở thành một người chín chắn, khắc kỷ.” Bố cậu khuyên. “Đó sẽ là một thử thách khó khăn, nhưng mục đích của việc đi học nội trú là như vậy. Tốt hơn hết là con nên tránh xa mọi rắc rối.” Ông nói thêm. “Đừng chìm quá nhưng cũng đừng nổi quá, cứ bình bình thôi.”
Bà nội cậu ở Hampstead (giờ cậu chỉ còn duy nhất người bà này, mẹ của Sylvie đã mất từ lâu) nói rằng “tất cả những người đàn ông trong gia đình” đều đi học ở ngôi trường ấy, như thể đó là một luật lệ được viết ra từ thời xa xưa vậy. Teddy cho rằng con trai cậu rồi cũng sẽ đi học ở đó, mặc dù đứa bé ấy tồn tại ở một tương lai mà bây giờ Teddy thậm chí còn chưa bắt đầu tưởng tượng ra. Đương nhiên, cậu không cần tưởng tượng làm gì, vì trong cái tương lai đó, cậu sẽ chẳng có đứa con trai nào cả, chỉ có duy nhất một cô con gái thôi, là Viola, đây sẽ là một nỗi buồn đối với cậu mặc dù cậu chẳng bao giờ nói ra, nhất là nói với Viola, vì cô chắc chắn sẽ nổi cơn tam bành.
Teddy sửng sốt khi Izzie bất ngờ cất tiếng hát và - đáng kinh ngạc hơn - đung đưa nhún nhảy. “Alouette, gentille Alouette[6].” Cậu không biết tiếng Pháp mấy và nghĩ là cô đang hát từ “jaunty[7]”, một từ mà cậu khá thích, chứ không phải là “gentille”. “Cháu có biết bài hát đó không?” Cô hỏi cậu.
“Không ạ.”
“Nó là một bài hát từ thời chiến tranh. Những người lính Pháp đã hát nó.” Trên mặt cô thoáng hiện một nét u ám - có lẽ là nỗi buồn - nhưng rồi cô bất ngờ tươi cười nói: “Lời bài hát khá ghê rợn. Chỉ toàn nói về việc vặt mọi thứ của con chim tội nghiệp ấy. Mắt nó, lông nó, chân nó, vân vân…”
Trong cuộc chiến tranh không ai ngờ nổi nhưng không thể tránh khỏi sẽ đến trong tương lai - cuộc chiến tranh của Teddy - Alouette là tên của Phi đoàn 425, bao gồm những người Canada gốc Pháp. Vào tháng Hai năm 1944, trước chuyến bay cuối cùng của Teddy không lâu, cậu sẽ hạ cánh khẩn cấp xuống căn cứ của họ ở Tholthorpe vì máy bay của cậu bị bắn khi đang băng qua eo biển Anh khiến hai động cơ bốc cháy. Những người Quebec ấy sẽ mời tổ bay của cậu rượu brandy khiến cậu và đồng đội của mình vô cùng cảm kích. Phù hiệu của họ có hình một con chim chiền chiện, bên dưới con chim ấy là khẩu hiệu Je te plumerai[8], và cậu sẽ nghĩ về ngày hôm nay, khi cậu ở bên cô Izzie. Đó là một ký ức dường như thuộc về ai khác.
Izzie xoay tròn một vòng trên đầu ngón chân. “Chiền chiện ơi, vui quá!” Cô cười nói. Cậu tự hỏi đây có phải là lý do khiến bố cậu nói Izzie là người có “tâm thần bất ổn” không.
“Cô nói gì vậy ạ?”
“Chiền chiện ơi, vui quá!” Izzie lặp lại. “Đó là một câu trong truyện Những kỳ vọng lớn lao. Cháu chưa đọc truyện đó à?” Trong một khoảnh khắc đáng kinh ngạc, giọng điệu cô nghe giống hệt mẹ cậu. “Nhưng đương nhiên là cô chỉ đang pha trò thôi. Bởi vì chẳng còn con nào nữa. Ý cô là con chim chiền chiện. Bay zồi. Đi mất zồi.” Cô nhái giọng khu Đông London nghe đến là ngớ ngẩn. “Cô từng ăn thịt chim chiền chiện.” Cô vô tư nói thêm. “Ở Ý. Ở đó, chúng được coi là đặc sản. Đương nhiên, chim chiền chiện chẳng có nhiều thịt. Tợp một miếng là hết.”
Teddy rùng mình. Ý nghĩ con chim nhỏ bé tuyệt vời ấy bị “vặt” khỏi bầu trời và tiếng hót tuyệt diệu của nó bị ngưng lại giữa chừng khiến cậu cảm thấy thật khủng khiếp. Rất nhiều năm sau, vào đầu những năm bảy mươi, Viola phát hiện ra nhà thơ Emily Dickinson trong môn Hoa Kỳ học của cô. Cô nguệch ngoạc chép lại khổ đầu tiên của một bài thơ mà cô nghĩ là bố cô sẽ thích (cô lười đến nỗi cả bài thơ rõ là ngắn ngủn nhưng cô vẫn chẳng chịu chép lại đầy đủ). “Xẻ đôi con chim chiền chiện/ Sẽ tìm thấy
tiếng hót ca/ Từng mẩu bọc trong lớp bạc/ Cứ thế cứ thế lăn ra.” Teddy sẽ ngạc nhiên vì con gái nghĩ đến mình. Cô hiếm khi như vậy. Văn chương là một trong vài sở thích chung ít ỏi giữa họ mặc dù họ hiếm khi - nếu có bao giờ - bàn về nó. Teddy cân nhắc xem nên gửi thứ gì đáp lại - một bài thơ, thậm chí là một vài câu thơ được lựa chọn - như một cách giao tiếp với con gái mình. “Chào mi, tâm hồn vô tư lự/ Mi chưa bao giờ là một con chim” hoặc “Kìa, lắng tai nghe lũ chim rộn rã cất cao tiếng hót/ Ríu rít ca ngợi tình yêu” hoặc “Hỡi kẻ hát rong trên tầng không cao vợi! Hỡi kẻ hành hương dọc ngang khắp bầu trời! Mi căm ghét chăng mặt đất đầy phiền não?” (Có nhà thơ nào không viết về chim chiền chiện không nhỉ?) Cho rằng con gái sẽ nghĩ mình đang lên mặt với nó, bởi nó vốn ghét học bất cứ điều gì từ cha nó, hay có lẽ là từ tất cả mọi người, cuối cùng Teddy sẽ chỉ đơn giản hồi đáp bằng một câu: “Cảm ơn con, con thật sâu sắc.”
Trước khi cậu kịp ngăn mình lại - chiếc áo giáp lễ phép đã bị rơi mất - cậu buột miệng nói: “Thật là ghê tởm khi ăn thịt chim chiền chiện, cô Izzie.”
“Sao lại ghê tởm? Cháu chẳng ăn thịt gà với đủ thứ thịt khác đấy ư? Suy cho cùng, có gì khác biệt chứ?” Izzie từng lái một chiếc xe cứu thương trong cuộc Đại Chiến. Một con chim chết chẳng thể làm cô mảy may xúc động.
Khác nhau một trời một vực, Teddy nghĩ, mặc dù cậu không thể thôi băn khoăn thịt chim chiền chiện sẽ có vị thế nào. May thay, tiếng sủa dữ dội của Trixie đã kéo cậu ra khỏi ý nghĩ ấy. Cậu cúi xuống kiểm tra xem nó sủa cái gì. “Ồ, nhìn này, một con rắn thủy tinh.” Cậu tán thán, tạm thời quên bẵng con chim chiền chiện. Cậu dùng cả hai tay nhẹ nhàng nhặt con rắn thủy tinh lên và giơ ra cho Izzie xem.
“Rắn à?” Cô nhăn mặt nói, những con rắn dường như không có sức hấp dẫn nào đối với cô.
“Không ạ, nó là rắn thủy tinh.” Teddy nói. “Không phải rắn. Cũng không phải giun. Nó thực chất là một loại thằn lằn.” Những cái vảy màu vàng kim và màu đồng của nó ánh lên rực rỡ dưới bóng nắng. Đây cũng là cái đẹp. Có thứ gì trong tự nhiên mà không đẹp cơ chứ? Ngay cả một con sên cũng cần được chào đón, mặc dù mẹ cậu không đời nào làm vậy.
“Cháu quả là một cậu bé thú vị.” Izzie nói.
Teddy không coi mình là một “cậu bé”. Cậu cho rằng cô mình - em gái út của bố cậu - không những chẳng biết gì mấy về động vật mà còn chẳng biết gì mấy về trẻ con. Cậu không biết tại sao cô lại “bắt cóc” cậu. Hôm ấy là thứ Bảy, sau khi ăn trưa xong, cậu đang tha thẩn quanh vườn, gấp máy bay giấy với Jimmy thì Izzie sà tới chỗ cậu và dụ dỗ cậu đi dạo với cô ở “vùng đồng quê”, hình như “vùng đồng quê” với cô là con đường mòn chạy từ Góc Cáo tới nhà ga chứ không phải thiên nhiên hoang dã nơi núi đá và sông ngòi. “Một cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Và tán gẫu một chút. Điều đó không thú vị sao?” Giờ thì cậu thấy mình đã trở thành con tin cho sự đồng bóng của cô khi cô vừa thơ thẩn bước đi vừa hỏi cậu những câu hỏi kỳ lạ - “Cháu đã bao giờ ăn một con sâu chưa? Cháu có chơi trò đóng giả làm cao bồi và người da đỏ không? Khi lớn lên, cháu muốn làm gì?” (Chưa ạ. Có ạ. Một người lái tàu.)
Cậu cẩn thận đặt con rắn thủy tinh trở lại bãi cỏ và để bù đắp cho sự thất bại của cô trong việc cảm nhận cái đẹp của chim chiền chiện, cậu rủ Izzie đi ngắm những bông hoa chuông xanh. “Chúng ta phải băng qua cánh đồng để tới khu rừng.” Cậu nói rồi nhìn đôi giày của cô với ánh mắt nghi ngại. Chúng có vẻ được làm từ da cá sấu và nhuộm màu xanh lét, thứ màu mà không một con cá sấu có lòng tự tôn nào chấp nhận nổi. Chúng còn mới toanh và rõ ràng không phù hợp với việc băng qua những cánh đồng. Giờ là xế chiều và may mắn thay, đàn bò sữa, “chủ nhân” của cánh đồng này, không có mặt ở đây. Lũ bò với thân hình đồ sộ núng nính và đôi mắt tò mò dịu dàng sẽ ngơ ngác không hiểu Izzie là cái thứ gì mất.
Một bên tay áo của cô bị rách toạc lúc cô leo qua cái bục trèo, rồi sau đó cô tiếp tục giẫm phải một bãi phân bò mà nếu là người khác thì họ chắc chắn sẽ nhìn thấy và tránh được. Cô cứu vãn được chút hình ảnh của mình trong mắt Teddy khi vẫn tỏ ra vui vẻ một cách đáng ngưỡng mộ trước cả hai rủi ro đó. (“Mẹ hy vọng…” Mẹ cậu nói sau đó. “… Cô ấy sẽ vứt cả hai cái vật chướng mắt đó đi.”)
Tuy nhiên, thật đáng thất vọng, cô chẳng mảy may ấn tượng với những bông hoa chuông xanh. Ở Góc Cáo, mỗi dịp hoa nở hằng năm là mọi người lại hân hoan chào đón với niềm sùng kính như thể chào đón các họa sĩ bậc thầy vĩ đại. Họ hãnh diện dẫn các vị khách tới khu rừng để chiêm ngưỡng tấm thảm hoa màu xanh lam trải dài ngút tầm mắt. “Nhà thơ Wordsworth có những bông thủy tiên hoa vàng…” Sylvie nói. “… Còn chúng ta có
những bông hoa chuông xanh.” Chúng không phải là hoa của họ, hoàn toàn không phải, nhưng mẹ cậu có tính sở hữu rất cao.
Lúc đi bộ về theo con đường mòn, Teddy bỗng cảm thấy trái tim mình bất ngờ rung lên niềm hân hoan vui sướng. Ký ức về tiếng hót của con chim chiền chiện kết hợp với mùi hương thơm ngát của bó hoa chuông xanh mà cậu hái về cho mẹ đã tạo nên một khoảnh khắc lâng lâng thuần khiết, một cảm giác phấn khích như thể mọi bí ẩn sắp được hé lộ. (“Có một thế giới ánh sáng…” Chị gái Ursula của cậu nói. “… Nhưng chúng ta không thể nhìn thấy nó vì nó đã bị bóng tối che khuất.” “Tín đồ Mani giáo[9] bé bỏng của chúng ta.” Hugh trìu mến nói.)
Đương nhiên, trường nội trú không phải là nơi xa lạ với cậu. Anh trai Maurice của Teddy giờ đang học ở trường Oxford, nhưng hồi anh còn học ở ngôi trường nội trú ấy, Teddy thường đi theo mẹ (“người hộ tống bé nhỏ của mẹ”) tới các buổi lễ trao thưởng, ngày thành lập trường và một dịp được gọi là “ngày thăm viếng” - mỗi học kỳ phụ huynh sẽ được phép (nhưng không được khuyến khích lắm) đến thăm con cái vào một ngày nhất định. “Giống như nhà tù hơn là trường học.” Mẹ cậu nhạo báng. Sylvie không mặn mà với những lợi ích của giáo dục như đáng lẽ phải thế.
Mặc dù có tình cảm gắn bó với ngôi trường cũ của mình nhưng bố cậu tỏ rõ vẻ miễn cưỡng đối với bất cứ “loại thăm viếng” nào liên quan đến “chốn xưa”. Hugh thường viện đủ mọi lý do để vắng mặt trong những dịp như vậy, nào là bận rộn với các công việc ở ngân hàng, bị vướng các cuộc họp quan trọng, đối phó với các cổ đông cáu kỉnh. “Vân vân và vân vân.” Sylvie lẩm bẩm. “Quay trở lại thường khó khăn hơn là tiến về phía trước.” Bà nói thêm khi tiếng đại phong cầm của nhà nguyện vang lên khúc dạo đầu của bài Lạy Đức Chúa, vị cha của nhân loại.
Đó là hai năm trước, trong buổi lễ trao thưởng vào học kỳ cuối của Maurice. Maurice lúc ấy là Phó chủ tịch Hội Học sinh, từ “phó” trong danh hiệu của anh khiến anh cáu kỉnh. “Chủ tịch thứ hai.” Anh đã tức tối khi được bổ nhiệm vào vị trí đó hồi đầu năm học cuối. “Con tự coi mình là một chủ tịch, không phải phó phiếc gì cả.” Maurice tin rằng mình có tố chất của một người hùng, là người nên dẫn dắt những người đàn ông khác xông pha nơi trận mạc, mặc dù trong cuộc chiến tiếp theo anh sẽ ngồi ngoài cuộc, theo đúng nghĩa đen, đằng sau một chiếc bàn quan trọng ở Whitehall[10], ở nơi đó, những người chết chỉ đơn giản là những bảng số
liệu phiền phức đối với anh. Trong số những người có mặt ở nhà nguyện của ngôi trường ấy vào cái ngày tháng Bảy nóng nực của năm 1923 đó, không một ai tin rằng một cuộc chiến tranh nữa có thể bám gót cuộc chiến trước kia chóng vánh đến vậy. Lớp vàng mạ ở tên của các cựu học sinh (“Các liệt sĩ”) trên những tấm biển bằng gỗ sồi quanh nhà nguyện vẫn còn mới. “Sự tôn vinh ấy có ý nghĩa gì với họ khi họ đã chết rồi chứ!” Sylvie cáu kỉnh thì thầm vào tai Teddy. Cuộc Đại Chiến đã biến Sylvie trở thành người yêu hòa bình, dẫu có hơi cực đoan.
Nhà nguyện của trường lúc ấy vô cùng ngột ngạt, sự uể oải giống như một lớp bụi phủ khắp các hàng ghế khi giọng nói của thầy hiệu trưởng ề à mãi không dứt. Ánh mặt trời được lọc qua những ô cửa sổ kính màu, biến thành các đốm màu hình thoi giống như những viên đá quý lấp lánh, một tạo tác chẳng thể thay thế nổi cho vật thật ở ngoài kia. Và Teddy cũng sắp phải chịu chung số phận đó. Một viễn cảnh u ám về những gì cậu sẽ phải chịu đựng.
Khi thời điểm ấy đến, cuộc sống ở trường học cũng không đến nỗi quá tồi tệ như cậu đã lo sợ. Cậu có nhiều bạn bè và giỏi thể thao, đây vốn là điều giúp người ta có được một mức độ nổi tiếng nhất định. Cậu còn là một chàng trai tốt bụng, không tha thứ cho những kẻ bắt nạt bạn bè, và điều này cũng khiến cậu nổi tiếng. Tuy nhiên, đến lúc cậu tốt nghiệp và vào học ở trường Oxford, cậu đã kết luận rằng ngôi trường ấy là một nơi đầy bạo lực và kém văn minh, và cậu sẽ không bắt các con trai mình phải tiếp nối cái truyền thống tàn nhẫn ấy. Cậu đã mong đợi có thật nhiều cậu con trai - những chàng trai vui vẻ, trung nghĩa và mạnh mẽ - nhưng niềm hy vọng của cậu sẽ được chắt lọc (hoặc có lẽ là thu gọn lại) thành Viola.
“Kể cho cô nghe thêm về cháu đi!” Izzie nói, bứt một bông nga sâm trên hàng rào và phá hủy khoảnh khắc lâng lâng của cậu.
“Cô muốn biết điều gì ở cháu ạ?” Cậu hỏi, tâm trạng phấn khích biến mất, những bí ẩn lại được che kín. Sau này, ở trường, cậu sẽ được học bài thơ Giọng nói của Brooke - trong đó có câu “Khoảnh khắc nhiệm mầu tan biến, chìa khóa nào thấy được đâu” rất phù hợp để miêu tả khoảnh khắc này, nhưng lúc đó thì cậu đã quên mất những cảm giác phù du của ngày hôm nay rồi.
“Bất cứ điều gì.” Izzie nói.
“Ờ, cháu mười một tuổi.”
“Cô biết điều đó rồi, đồ ngốc.” (Không hiểu sao cậu lại nghi ngờ điều này.) “Cháu là người thế nào? Cháu thích làm gì? Bạn bè cháu là những ai? Cháu có cái… cái gì ấy nhỉ…” Cô nói, cố gắng tìm một từ vốn xa lạ với cô. “Cái vật xuất hiện trong câu chuyện về David và Goliath ấy - cái gì cao su ấy nhỉ?”
“Súng cao su phải không ạ?”
“Đúng rồi! Để mang đi bắn người ta và giết các con vật, đại loại vậy.” “Giết các con vật ạ? Không! Cháu sẽ không bao giờ làm điều đó. (Anh trai Maurice của cậu thì có.) Cháu còn chẳng biết bây giờ nó đang ở đâu. Cháu từng dùng nó để bắn những quả dẻ ngựa trên cây.”
Cô tỏ vẻ thất vọng trước lòng bác ái của cậu nhưng vẫn không sao lãng bảng câu hỏi của mình. “Còn những trò dại dột thì sao? Hẳn là cháu đã từng làm vô số trò dại dột nhỉ, cậu bé nào cũng vậy, đúng không? Những trò dại dột và những trò chơi khăm.”
“Những trò dại dột ạ?” Cậu kinh hãi nhớ lại sự cố với thùng sơn màu xanh lá cây.
“Cháu có phải là hướng đạo sinh không?” Cô hỏi, giả vờ đứng nghiêm và giơ tay chào. “Cô cá rằng cháu là một hướng đạo sinh. Dyb, dyb, dob[11], đại loại thế.”
“Cháu đã từng ạ.” Cậu lẩm bẩm. “Đã từng là một Sói con[12].” Đây không phải là chủ đề mà cậu muốn cùng cô đi sâu vào nhưng thực sự cậu không thể nói dối, như thể cậu đã bị yểm một loại bùa phép nào đó ngay từ lúc mới chào đời. Cả hai chị gái của cậu - và thậm chí cả Nancy - có thể nói dối trơn tru nếu cần thiết, còn Maurice hầu như chẳng biết sự thật (hoặc Sự thật) là cái gì, nhưng Teddy thì lại thật thà quá mức.
“Cháu đã bị đuổi ra khỏi hội à?” Izzie háo hức hỏi. “Bị trục xuất? Cháu đã gây ra vụ bê bối khủng khiếp nào chăng?”
“Đương nhiên là không ạ.”
“Kể cho cô nghe đi. Chuyện gì đã xảy ra?”
Đó là vì Bộ tộc Kibbo Kift[13] xuất hiện, Teddy nghĩ. Nếu cậu nhắc đến mấy từ đó, có lẽ cậu sẽ phải mất đến hàng tiếng đồng hồ để giải thích cho Izzie hiểu.
“Kibbo Kift ư?” Cô nói. “Nghe như tên của một chú hề ấy nhỉ!”
*
“Còn kẹo thì sao? Cháu có thích kẹo lắm không, và nếu có thì là loại nào?” Một cuốn sổ nhỏ xuất hiện trên tay Izzie làm Teddy cảnh giác. “Ồ, đừng để ý đến cái này.” Cô nói. “Thời buổi bây giờ ai mà chả ghi chép chứ. Thế nào… kẹo thì sao?”
“Kẹo ạ?”
“Kẹo.” Cô xác nhận rồi thở dài, nói. “Cháu biết đấy, Teddy thân yêu, cô không biết đứa bé trai nào cả, trừ cháu. Cô vẫn thường tự hỏi một cậu bé được tạo nên từ những thứ gì, dĩ nhiên là ngoại trừ những thứ quen thuộc như sên trần, ốc sên và đuôi chó con[14]. Và một cậu bé…” Cô tiếp tục. “…
Chính là một người đàn ông đang được nhào nặn. Cậu bé trong lốt người đàn ông, người đàn ông trong lốt cậu bé, kiểu vậy.” Câu cuối cùng này cô nói với vẻ khá lơ đãng khi đang ngắm nhìn bông nga sâm. “Cô tự hỏi khi lớn lên, liệu cháu có giống bố cháu không?”
“Cháu hy vọng là có.”
“Ồ, cháu không được an phận với những điều bình thường, cô chắc chắn cô sẽ chẳng bao giờ như vậy. Cháu phải giống như một tên cướp biển!” Cô bắt đầu ngắt từng cánh hoa nga sâm. “Đàn ông nói phụ nữ là giống loài bí ẩn, nhưng cô nghĩ đó là một thủ đoạn của họ để khiến phụ nữ bọn cô không nhìn ra sự khó hiểu tuyệt đối của họ mà thôi.” Mấy từ “sự khó hiểu tuyệt đối” được cô nói khá to và giận dữ như thể cô đang nghĩ đến một người cụ thể trong đầu. (“Lúc nào quanh cô ấy cũng có một người đàn ông nào đó.” Cậu từng nghe mẹ mình nói.) “Còn về các cô bé thì sao?” Izzie nói.
“Điều gì ở họ ạ?” Cậu thắc mắc.
“À, cháu có “người bạn đặc biệt” nào không - cháu biết đấy, một cô bé mà cháu rất thích?” Cô nở nụ cười điệu đà ngớ ngẩn như thể đang cố gắng ám chỉ sự lãng mạn hoặc mấy chuyện tào lao như vậy (nhưng không thành công lắm).
Cậu đỏ bừng mặt.
“Có con chim nhỏ mách với cô rằng…” Cô kiên trì tiếp tục. “… Cháu đang “trồng cây si” một cô bé hàng xóm.”
Con chim nhỏ nào? Cậu tự hỏi. Nancy và các chị em gái của cô ấy - Winnie, Gertie, Millie và Bea - sống trong một ngôi nhà ngay bên cạnh Góc Cáo có tên là Quạ Gáy Xám. Loài chim này sinh sống ở trong rừng với số lượng lớn và chúng tỏ ra rất thích bãi cỏ nhà Shawcross, vì bà Shawcross thường ném những mẩu bánh mì nướng đã nguội ra đó vào mỗi sáng.
Teddy sẽ không tiết lộ với Izzie về Nancy dù trong bất cứ tình cảnh nào, dù bị tra tấn, hành hạ như thế nào (như lúc này chẳng hạn). Cậu sẽ không nói ra tên của cô bé để cho nó bị hoen ố qua đôi môi của Izzie và bị đem ra làm trò cười. Nancy là bạn của cậu, là tri kỷ của cậu, không phải là kiểu yêu đương ủy mị ngớ ngẩn mà Izzie đang ám chỉ. Dĩ nhiên, một ngày nào đó cậu sẽ cưới Nancy và cậu sẽ yêu cô, đúng thế, nhưng đó sẽ là thứ tình yêu hào hiệp thuần túy của một chàng hiệp sĩ. Thực ra cậu cũng chẳng hiểu gì về bất cứ kiểu tình yêu nào khác. Cậu từng nhìn thấy con bò đực làm chuyện yêu đương với những con bò cái và Maurice nói con người cũng làm như vậy, bao gồm cả bố mẹ họ, rồi cười rinh rích. Teddy chắc chắn anh cậu nói dối. Hugh và Sylvie quá trang nghiêm, cao quý nên sẽ không thể nào làm mấy trò giống diễn viên nhào lộn như thế được.
“Ôi trời ơi, cháu đang đỏ mặt đấy à?” Izzie reo lên. “Cô tin rằng cô đã khám phá ra bí mật của cháu rồi!”
“Kẹo lê.” Teddy nói, cố gắng chấm dứt cuộc điều tra này. “Kẹo lê làm sao?” Izzie nói. (Cô dễ dàng bị đánh lạc hướng.) Bông nga sâm trụi thùi lụi bị ném xuống đất. Cô chẳng quan tâm gì đến thiên nhiên. Sự lơ đễnh của cô sẽ khiến cô giẫm nát đồng cỏ, đá bay tổ chim te te, làm kinh động lũ chuột đồng. Cô là người thuộc về thị thành, thuộc về thế giới của những cỗ máy.
“Đó là loại kẹo cháu yêu thích.” Cậu nói.
Khi quành ở góc rẽ, họ chạm trán đàn bò sữa đang chen lấn xô đẩy nhau dọc theo con đường mòn để trở về chốn nghỉ ngơi sau khi bị vắt sữa. Hẳn là muộn rồi, Teddy nghĩ. Cậu hy vọng mình không bỏ lõ bữa trà.
*
“Ồ, hoa chuông xanh, đẹp quá!” Mẹ cậu nói khi cậu và Izzie đi qua cửa. Bà đang mặc bộ váy dài buổi tối và trông bà rất đẹp. Theo lời Maurice, ở
ngôi trường mà Teddy sắp theo học, mẹ cậu có khá nhiều người ngưỡng mộ. Teddy cảm thấy hãnh diện về nhan sắc của mẹ mình. “Con đã đi đâu, làm gì cả ngày nay thế hả?” Sylvie hỏi. Câu hỏi dành cho Teddy nhưng lại nhắm vào Izzie.
*
Sylvie khoác trên người bộ áo choàng lông, ngắm nghía hình ảnh phản chiếu của mình qua tấm gương trong phòng ngủ. Bà dựng cổ chiếc áo choàng ngắn không tay mặc buổi tối lên rồi áp vào mặt mình. Một sự kiểm tra kĩ lưỡng. Tấm gương từng là người bạn của bà, nhưng bây giờ bà cảm thấy nó thật dửng dưng, lạnh nhạt với bà.
Bà đưa tay lên tóc, “niềm hãnh diện” của bà, nó được tô điểm bằng một lô lược cài và kẹp tóc. Bây giờ thì kiểu tóc này đã lỗi mốt rồi, nó là dấu hiệu của một bà mệnh phụ không theo kịp thời đại. Bà có nên cắt tóc không? Hugh sẽ cảm thấy hụt hẫng. Bà chợt nhớ đến một ký ức - một bức chân dung được cha bà vẽ bằng chì than trước khi ông mất không lâu. Ông đã gọi bức tranh ấy là Sylvie tạo dáng thiên thần. Hồi ấy bà mười sáu tuổi, e lệ trong chiếc váy dài màu trắng - thực ra là một chiếc váy ngủ khá mỏng manh - và quay nửa người đi để phô bày suối tóc diễm lệ. “Hãy tỏ ra thật u sầu.” Cha bà hướng dẫn. “Hãy nghĩ về Sự sa ngã của loài người[15].” Sylvie lúc đó còn cả cuộc đời tươi đẹp đầy ẩn số ở trước mắt nên cảm thấy khó mà nhập tâm vào chủ đề ấy, nhưng bà vẫn duyên dáng bĩu môi và nhìn lơ đãng vào bức tường đối diện trong phòng vẽ rộng thênh thang của cha bà.
Giữ nguyên tư thế đó không hề dễ dàng và bà nhớ mạng sườn bà đã đau đớn thế nào khi phải chịu đựng vì nghệ thuật của cha bà. Llewellyn Beresford vĩ đại, họa sĩ chuyên vẽ tranh chân dung cho những người giàu có và nổi tiếng, một người đàn ông chẳng để lại gì ngoài những món nợ khi qua đời. Sylvie vẫn cảm thấy hụt hẫng, không phải vì mất đi cha bà mà là vì mất đi cái cuộc sống mà ông đã xây lên trên một nền tảng bấp bênh.
“Gieo nhân nào…” Mẹ bà lặng lẽ than khóc. “… Sẽ gặt quả ấy. Nhưng người gieo là ông ấy mà người gặt quả đắng lại là mẹ con mình.”
Một buổi phát mãi tài sản đáng xấu hổ đã diễn ra sau cái chết của ông, và mẹ của Sylvie đã khăng khăng đòi được tham gia, như thể bà cần chứng kiến từng món đồ mà họ đã bị tước mất được đem đi trước mắt họ. Họ ngồi kín đáo (họ hy vọng như vậy) ở hàng ghế sau cùng và ngẩn ngơ nhìn những món của cải của mình bị diễu qua diễu lại cho tất cả mọi người cùng thấy. Gần cuối buổi phát mãi ô nhục này, bức chân dung của Sylvie được đem ra bán. Họ công bố đây là “lô 182. Bức chân dung bằng chì than của con gái ông họa sĩ”, dường như họ không nhận ra Sylvie đang tạo dáng thiên thần. Đáng lẽ cha bà nên vẽ thêm cho bà một vầng hào quang và đôi cánh, như thế mục đích của ông sẽ rõ ràng hơn. Vì không có hai thứ ấy nên trông bà chỉ giống như một cô gái xinh đẹp mặc váy ngủ đang ủ rũ.
Một gã béo với thái độ khá chướng mắt đã giơ điếu xì gà của mình lên ở mỗi vòng đấu giá và cuối cùng bức chân dung của Sylvie được bán cho hắn với giá ba bảng mười si linh sáu xu. “Rẻ quá!” Mẹ bà lẩm bẩm. Có lẽ bây giờ còn rẻ mạt hơn, Sylvie nghĩ. Sau chiến tranh, những bức họa của cha bà đã trở nên khá lỗi thời. Bà tự hỏi bây giờ bức tranh ấy ở đâu nhỉ? Bà muốn lấy lại nó. Ý nghĩ ấy khiến bà bực tức, một nét cau mày hiện ra trong gương. Khi cuộc phát mãi cuối cùng cũng kết thúc (“Một lô tạp nham bao gồm một cặp vỉ lò bằng đồng, một cái lò hâm bằng bạc ố bẩn, một cái bình to bằng đồng”), họ đã nhanh nhanh chóng chóng rời khỏi căn phòng ấy cùng với đám đông và tình cờ nghe thấy gã đàn ông nhớp nhúa kia nói oang oang với bạn mình: “Tao sẽ nhìn trái đào to chín mọng này trong lúc tự làm mình thỏa mãn.” Mẹ Sylvie khẽ rít lên - bà không phải là kiểu người gây ồn ào - và kéo thiên thần ngây thơ của mình ra khỏi tầm nghe.
Ô uế, tất cả mọi thứ đều ô uế, Sylvie nghĩ. Ngay từ lúc khởi đầu, ngay từ Sự sa ngã của loài người. Bà chỉnh lại cổ chiếc áo choàng không tay. Trời nóng quá mức, không phù hợp để mặc nó, nhưng bà tin rằng trông bà xinh đẹp nhất khi mặc đồ lông thú. Chiếc áo choàng không tay này được may từ lông cáo trắng Bắc Cực, điều này khiến bà khá buồn vì bà vốn thích những con cáo thường đến thăm khu vườn của họ - bà đã lấy tên chúng để đặt tên cho ngôi nhà. Phải giết bao nhiêu con cáo mới làm được một cái áo choàng không tay nhỉ? Bà tự hỏi. Ít nhất thì cũng không nhiều bằng số cáo bị giết để làm một cái áo choàng dài. Trong tủ quần áo của bà vẫn treo một cái áo khoác lông chồn vizon, đó là món quà mà Hugh đã tặng bà nhân dịp kỷ niệm mười năm ngày cưới của họ. Bà phải đem nó đến tiệm
bán đồ lông thú mới được, nó cần được sửa chữa thành thứ gì đó hiện đại hơn. “Mình cũng vậy.” Bà nói với tấm gương.
Izzie có một cái áo choàng mới hình tổ kén. Bằng lông chồn zibelin. Làm thế nào mà Izzie mua được áo lông thú khi không có tiền? “Một món quà.” Cô nói. Từ một người đàn ông, đương nhiên, và chẳng người đàn ông nào tặng áo lông thú cho ta mà không mong nhận được thứ gì đáp lại. Trừ khi đó là chồng của ta, dĩ nhiên rồi, người chồng ấy sẽ chẳng mong đợi gì ngoài lòng biết ơn đơn thuần.
Sylvie muốn phát ngát vì lượng nước hoa mà bà lỡ tay xức quá nhiều lên người trong lúc hồi hộp, mặc dù bình thường bà vốn không dễ xúc động đến thế. Tối nay bà sẽ lên London. Trên tàu sẽ nóng bức và ngột ngạt, thậm chí trong thành phố còn nóng bức và ngột ngạt hơn, bà sẽ phải hy sinh chiếc áo choàng lông. Giống như lũ cáo đã phải hy sinh vì bà vậy. Nghe cứ như một câu pha trò ấy, nhưng là kiểu pha trò của Teddy chứ không phải của Sylvie. Sylvie không có khiếu hài hước. Đó là một khiếm khuyết tai hại trong tính cách của bà.
Đôi mắt bà vô tình liếc phải bức ảnh trên bàn trang điểm, một bức chân dung được chụp trong hiệu ảnh sau khi bà sinh Jimmy. Sylvie đang ngồi. Đứa bé mới sinh mặc áo choàng rửa tội - một chiếc áo rộng thùng thình mà tất cả những đứa trẻ nhà Todd đều đã mặc qua - trông nó như sắp tuột khỏi cánh tay bà trong khi những đứa trẻ còn lại được sắp xếp một cách nghệ thuật quanh bà, trông như thể đang ngưỡng mộ bà. Sylvie lướt một ngón tay lên cái khung bằng bạc của bức ảnh với vẻ trìu mến nhưng lại thấy nó bám đầy bụi. Bà phải nói chuyện với Bridget mới được. Con bé ấy đã trở nên nhếch nhác rồi. (“Cuối cùng, tất cả tôi tớ đều quay lưng lại với chủ.” Mẹ chồng Sylvie đã khuyên khi Sylvie mới cưới Hugh.)
Tiếng ồn ào dưới nhà chỉ ra rằng Izzie đã về. Sylvie miễn cưỡng cởi chiếc áo choàng lông và bận vào cái áo khoác ngoài buổi tối nhẹ nhàng. Để làm ra cái áo này thì chỉ có những con tằm siêng năng bị hy sinh mà thôi. Bà đội mũ lên đầu. Mái tóc lỗi mốt của bà không phù hợp với những cái mũ tròn không vành gọn gàng và những cái mũ bê rê phổ biến dạo gần đây, vì vậy bà vẫn đang đội một cái mũ thường. Bà chẳng may đâm cái ghim cài mũ bằng bạc dài thoòng vào tay mình. (Ta có thể giết ai đó bằng ghim cài mũ không nhỉ? Hay chỉ làm họ bị thương thôi?) Bà lẩm bẩm nguyền rủa các đấng tối cao vì họ đã khiến cho những khuôn mặt trắng trẻo ngây thơ
ẳ
của các con bà từ trong bức ảnh nhìn bà với vẻ quở trách. Cũng chẳng có gì lạ, bà nghĩ. Bà sắp bốn mươi tuổi và viễn cảnh ấy khiến bà bất mãn với chính mình. (“Bất mãn hơn.” Hugh nói.) Bà có thể cảm thấy sự nóng vội đeo bám ở đằng sau và sự bốc đồng lù lù ở đằng trước bà.
Bà ngắm mình lần cuối cùng. Tạm ổn rồi, bà nghĩ, đây vốn không phải là lời đánh giá mà bà thường dễ dàng chấp nhận. Bà đã quen ông được hai năm. Liệu ông có còn nghĩ bà là một người đẹp không? Ông từng gọi bà như vậy. Có người phụ nữ nào trên đời này cưỡng lại được khi một người đàn ông gọi mình là người đẹp chứ? Nhưng Sylvie đã cưỡng lại và đã giữ gìn tiết hạnh. “Em là phụ nữ có chồng.” Bà đã nghiêm khắc lặp đi lặp lại. “Vậy thì em không nên đắm chìm trong trò chơi này, em yêu.” Ông nói. “Hậu quả có thể rất khủng khiếp đối với em - đối với chúng ta.” Ông cười trước ý kiến này như thể nó rất hấp dẫn. Thực vậy, bà đã chơi trò mèo vờn chuột với ông và rồi nhận ra rằng trò chơi này đã rơi vào bế tắc.
Ông đã ra nước ngoài, tới các thuộc địa, làm những công việc quan trọng cho đế chế, nhưng bây giờ ông đã trở về và cuộc đời của Sylvie đang trôi tuột qua các kẽ ngón tay như nước chảy, bà không còn muốn làm người đức hạnh nữa.
*
Bà được chào đón bởi một bó hoa chuông xanh to tướng. “Ồ, hoa chuông xanh, đẹp quá!” Bà nói với Teddy. Con trai bà. Bà còn hai đứa con trai khác nữa nhưng thi thoảng bà không tính đến chúng. Mấy cô con gái của bà không phải là đối tượng bà yêu mến, chúng giống như những rắc rối cần được giải quyết hơn. Chỉ có một đứa con duy nhất giữ được trái tim bà trong nắm tay khá dơ dáy của nó. “Nhớ rửa tay trước khi dùng bữa trà nhé, con yêu.” Bà nói với Teddy. “Con đã đi đâu, làm gì cả ngày nay thế hả?”
“Tìm hiểu về nhau.” Izzie nói. “Đúng là một cậu bé đáng yêu. Này, trông chị lộng lẫy quá, Sylvie. Và em có thể ngửi thấy mùi của chị từ cách xa cả trăm thước. Quả là femme séduisante[16]. Chị có kế hoạch gì à? Nói cho em biết đi!”
Sylvie trừng mắt với Izzie nhưng bà còn chưa kịp trả lời thì đã nhìn thấy đôi giày da cá sấu màu xanh lá cây lấm lem bẩn thỉu giẫm trên tấm thảm Voysey trải ở tiền sảnh. “Biến đi!” Bà nói, xua Izzie về phía cửa, rồi lại nói. “Biến đi!”
“Vết nhơ đáng nguyền rủa[17].” Hugh lẩm bẩm, thơ thẩn bước từ phòng làm việc ra tiền sảnh khi Izzie đùng đùng đi ngược trở lại lối dẫn vào nhà. Ông quay sang Sylvie và nói: “Trông em đẹp lắm, em yêu.”
Họ nghe tiếng động cơ chiếc xe Sunbeam của Izzie khởi động và tiếng nó gầm rú đinh tai nhức óc khi cô tăng tốc lao vút đi. Cô lái xe theo kiểu của nhân vật Cóc trong truyện Gió qua rặng liễu, bấm còi inh ỏi và ít khi nhấn phanh. “Sớm muộn gì cô ấy cũng sẽ đâm chết ai đó mất.” Hugh nói, ông vốn là một người lái xe nghiêm chỉnh. “Vậy mà anh cứ nghĩ cô ấy đang không xu dính túi. Cô ấy đã làm gì để có đủ tiền mua một chiếc xe khác vậy?”
“Chẳng phải việc gì đứng đắn, anh có thể chắc chắn điều đó.” Sylvie nói.
*
Cuối cùng thì Teddy cũng thoát khỏi những lời huyên thuyên khủng khiếp của Izzie, nhưng cậu vẫn phải chịu đựng sự chất vấn thường lệ từ mẹ cậu trước khi bà yên tâm rằng con trai bà không bị hư hỏng trong chừng mực nào đó bởi sự tiếp xúc với Izzie. “Cô ta làm gì cũng có động cơ cả.” Bà rầu rĩ nói. Cuối cùng thì cậu cũng được tự do để đi tìm bữa trà của mình, đó là món bánh mì nướng ăn kèm cá mòi đã được chuẩn bị sẵn từ trước vì tối hôm đó bà Glover nghỉ phép.
“Cô ấy đã ăn thịt chim chiền chiện.” Teddy nói với hai chị bên bàn trà. “Ở Ý. Mặc dù ở đâu thì cũng chẳng có gì khác biệt.”
“Một con chiền chiện bị thương ở cánh.” Ursula nói, và khi Teddy ngây ngốc nhìn cô, cô nói tiếp: “Thơ của Blake. Một con chiền chiện bị thương ở cánh/ Một tiểu thiên sứ đã ngừng hát ca.”
“Hãy hy vọng có ngày thứ gì đó sẽ ăn cô ấy.” Pamela, một người trần tục hơn, vui vẻ góp lời.
Pamela sắp học ngành Khoa học ở trường Đại học Leeds. Cô đang trông chờ được tới “miền Bắc trong lành”, với những con người “thực thụ”. “Chúng ta không đủ “thực” sao?” Teddy càu nhàu với Ursula và Ursula cười nói: “Thực là gì?” Câu hỏi ấy có vẻ ngớ ngẩn đối với Teddy vì cậu chưa có dịp nào để thắc mắc về thế giới hiện tượng. “Thực” là những gì mà ta có thể nhìn thấy, ngửi thấy và sờ thấy. “Em đang thiếu mất ít nhất là hai giác quan.” Ursula chỉ ra. “Thực” là khu rừng và hoa chuông xanh, con cú và con cáo, một đoàn tàu đồ chơi của hãng Homby lăn bánh quanh sàn phòng ngủ của cậu, mùi một chiếc bánh ngọt đang nướng trong lò. Con chim chiền chiện vừa bay vút lên vừa cất cao tiếng hót.
*
Bóng chiều tà phủ xuống Góc Cáo. Sau khi Hugh lái xe chở Sylvie tới nhà ga, ông lại lui về phòng riêng của mình với một ly whisky nhỏ và điếu xì gà hút dở. Ông là người đàn ông có chừng mực, đó là bản năng hơn là sự lựa chọn có ý thức của ông. Sylvie hiếm khi lên thành phố. “Tới rạp hát và ăn tối với bạn bè.” Bà nói. “Em sẽ ở lại qua đêm.” Bà là người có tư tưởng xê dịch, đó là điều không nên có ở một người vợ, nhưng ông phải tin tưởng bà trong tất cả mọi chuyện, nếu không, toàn bộ cuộc hôn nhân này sẽ sụp đổ và tan thành tro bụi.
Pamela đang ở trong phòng sinh hoạt ban ngày, chúi mũi vào cuốn sách giáo khoa Hóa học. Cô đã thi trượt trường Girton và không thực sự muốn mạo hiểm tới “miền Bắc trong lành”, nhưng “buộc phải” làm vậy, đó là một từ mà Sylvie thường nói và khiến người khác bực bội. Pamela đã (âm thầm) hy vọng sẽ có những giải thưởng lấp lánh và một sự nghiệp xán lạn, nhưng bây giờ cô e rằng cô sẽ không phải là người phụ nữ táo bạo như cô hằng mong ước.
Ursula nằm xoài trên thảm dưới chân Pamela, liệt kê ra tất cả các biến cách của các động từ Latin bất quy tắc. “Ôi trời!” Cô nói với Pamela. “Cuộc đời từ đây chắc chắn chỉ có thể tốt đẹp hơn.” Và Pamela cười nói: “Đừng quá chắc chắn như thế.”
Jimmy đang mặc bộ pyjama, ngồi ở cái bàn trong bếp, thưởng thức sữa và bánh quy trước khi đi ngủ. Bà Glover, đầu bếp của nhà họ, vốn ghét cay ghét đắng truyện thần thoại hay truyện ngụ ngôn, vì thế nhân dịp không có
sự giám sát của bà, Bridget đã giải khuây cho Jimmy bằng một câu chuyện đã được rút gọn nhưng vẫn còn rất ghê rợn về “yêu tinh Pooka[18]” trong lúc cô cọ rửa nồi niêu xoong chảo. Bà Glover giờ này đang ngủ gà ngủ gật ở nhà mình, chân gác lên thanh chắn lò sưởi, tay vẫn cầm một cốc bia đen nhỏ.
*
Trong khi đó, Izzie đang ở trên con đường thênh thang, vừa lái xe vừa hát bài Alouette. Giai điệu ấy giờ đã hằn sâu trong trí óc cô. Je te plumerai, cô hét lên, Je te plumerai. Ta sẽ vặt mi. Cuộc chiến ấy thật đáng sợ, cô ước gì mình chưa từng nhớ đến nó. Cô đã là một FANY. Theo Izzie, đó là một từ viết tắt khá ngớ ngẩn. Đội quân Y tá và Cứu thương[19]. Cô đã xung phong lái những chiếc xe cứu thương, mặc dù trước đó cô chưa từng lái một cái xe nào, nhưng cuối cùng cô phải làm đủ mọi loại việc khủng khiếp. Cô nhớ đến cảnh mình lau chùi những cái xe cứu thương vào cuối ngày, chúng dính đầy máu me, các loại chất lỏng và chất thải. Cô cũng nhớ đến những người què cụt, những bộ xương cháy đen, những ngôi làng bị phá hủy, những cánh tay, ống chân thòi lên khỏi bùn đất. Những cái xô đựng gạc bẩn và băng quấn đầy mủ, những vết thương rỉ máu gớm ghiếc của những chàng trai tội nghiệp. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người ta muốn quên hết về nó. Nhưng cũng có chút thú vị, vì Chúa. Cô đã được thưởng một tấm huân chương Croix de Guerre. Cô chưa bao giờ kể với ai ở nhà về nó. Cô đã cất nó trong một cái ngăn kéo lúc cô trở về. Nó chẳng có ý nghĩa gì cả khi ta nghĩ đến những điều mà các chàng trai tội nghiệp kia đã trải qua.
Cô đã đính hôn hai lần trong cuộc chiến, cả hai người đàn ông đó đều chết chỉ trong vòng vài ngày sau khi cầu hôn cô, trước cả khi Izzie kịp viết thư về nhà để báo tin vui. Cô đã ở bên người đàn ông thứ hai khi anh ta chết. Cô đã tình cờ phát hiện anh ta trong một bệnh viện dã chiến khi cô chở người bị thương tới đó. Lúc đầu, cô không nhận ra anh ta, anh ta đã bị lửa pháo làm cho biến dạng. Vì thiếu y tá và hộ lý nên nữ y tá trưởng đã động viên cô ở lại với anh ta. “Nào, nào.” Izzie an ủi, canh chừng bên cạnh lúc anh ta hấp hối dưới ánh đèn vàng vọt của một ngọn đèn dầu Tilley. Vào
phút cuối, anh ta đã gọi tên mẹ mình, tất cả bọn họ đều thế. Izzie không thể hình dung ra cảnh mình gọi tên mẹ là bà Adelaide lúc cô lâm chung. Cô vuốt phẳng những tấm chăn của vị hôn phu, hôn tay anh ta vì khuôn mặt anh ta không còn nguyên vẹn rồi thông báo với một hộ lý rằng anh ta đã chết. Cô không dùng uyển ngữ nào cả. Sau đó, cô quay lại chỗ chiếc xe cứu thương của mình và tiếp tục đi tìm kiếm những người thương vong khác.
Cô né tránh khi người thứ ba, một chàng trai khá nhút nhát, một đại úy tên là Tristan ngỏ ý muốn buộc một sợi dây quanh ngón tay cô[20]. (“Xin lỗi em, đây là tất cả những gì mà anh có. Anh sẽ tặng em một chiếc nhẫn kim cương thật lộng lẫy khi nào cuộc chiến này kết thúc. Em không nhận ư? Em chắc chứ? Nếu nhận lời là em đang ban ân huệ lớn cho một chàng trai đấy!”) Izzie nghĩ cô là kẻ mang vận xui nên không muốn truyền nó sang cho anh ta - lòng vị tha này thật trái ngược với tính cách của cô - nhưng ý nghĩ ấy thật kỳ cục vì dù có dính dáng đến cô hay không thì tất cả những anh chàng sĩ quan cấp úy dễ thương đó đều sẽ phải chịu số phận bi đát.
Sau khi từ chối Tristan, Izzie không bao giờ gặp lại anh ta nữa và cô đoán rằng anh ta đã chết (cô đoán rằng tất cả bọn họ đều đã chết), nhưng sau khi chiến tranh kết thúc một năm, trong lúc đang lật giở những trang báo tin tức xã hội, cô bắt gặp bức ảnh anh ta đang bước ra từ nhà nguyện St Mary Undercroft. Bây giờ anh ta là một thành viên của quốc hội, và hóa ra, giàu nứt đố đổ vách nhờ tiền bạc của gia đình. Anh ta đang cười rạng rỡ với cô dâu trẻ quá mức đang bám vào cánh tay anh ta, nếu dùng kính lúp để soi thì có thể thấy trên tay cô ta đang đeo một chiếc nhẫn kim cương trông thực sự lộng lẫy. Izzie cho rằng cô đã cứu được anh ta, nhưng buồn thay, cô đã không cứu được chính mình. Lúc cuộc Đại Chiến kết thúc, cô hai mươi tư tuổi và nhận ra rằng mọi cơ hội của mình đã hết.
Vị hôn phu đầu tiên của cô tên là Richard. Cô chẳng biết gì mấy về anh ta trừ cái tên đó. Cô nhớ hình như anh ta từng tham gia đội săn Beaufort[21]. Cô đã nhận lời cầu hôn của anh ta trong một phút bốc đồng. Còn vị hôn phu thứ hai, người đã chết trong bệnh viện dã chiến trước sự chứng kiến của cô, mới là người mà cô yêu điên dại. Cô yêu anh ta và anh ta cũng yêu cô. Họ đã dành những giây phút ngắn ngủi bên nhau để cùng hình dung ra một tương lai tươi đẹp - bơi thuyền, cưỡi ngựa, khiêu vũ. Thức ăn, tiếng cười, ánh nắng. Sâm banh để chúc mừng vận may của họ. Không có bùn
lầy, không có cảnh giết chóc khủng khiếp kéo dài bất tận. Anh ta tên là Augustus. Bạn bè gọi anh ta là Gussie. Vài năm sau, cô phát hiện ra rằng tiểu thuyết chính là một phương tiện phục sinh và bảo tồn. “Khi tất cả mọi thứ khác đều biến mất, nghệ thuật vẫn tồn tại.” Cô nói với Sylvie như vậy trong cuộc chiến tiếp theo. “Những cuộc phiêu lưu của Augustus là nghệ thuật ư?” Sylvie nói, nhướng một bên lông mày mảnh mai. Trong lời nói của bà, từ Augustus không được viết hoa. Đương nhiên, định nghĩa của Izzie về nghệ thuật rộng hơn định nghĩa của Sylvie nhiều. “Nghệ thuật là bất cứ thứ gì mà người này sáng tạo ra để người khác thưởng thức.”
“Kể cả Augustus?” Sylvie nói và bật cười.
“Kể cả Augustus.” Izzie nói.
*
Những chàng trai tội nghiệp đã chết trong cuộc Đại Chiến chỉ lớn hơn Teddy có vài tuổi. Lúc ở cùng cậu cháu trai trong ngày hôm nay, đã có giây phút cô trở nên yếu lòng. Giá mà cô có thể bảo vệ cậu khỏi mọi mối nguy hại, khỏi nỗi đau mà thế giới (chắc chắn) sẽ mang đến cho cậu. Đương nhiên, cô cũng từng có con, nó được sinh ra khi cô mười sáu tuổi và lập tức được đem cho làm con nuôi, một sự cắt đứt quá nhanh gọn đến nỗi cô chẳng bao giờ nghĩ về thằng bé. Cũng may là khi cô xúc động định giơ tay ra vuốt tóc Teddy, cậu đột nhiên cúi đầu xuống và nói “Ồ, nhìn này, một con rắn thủy tinh” khiến bàn tay Izzie chỉ chạm vào không khí. “Cháu quả là một cậu bé thú vị.” Cô đã nói, và trong một thoáng, cô chợt nhìn thấy khuôn mặt biến dạng của Gussie khi anh nằm hấp hối trên cái giường xếp. Và rồi khuôn mặt của tất cả những chàng trai tội nghiệp đã chết hiện ra, tầng tầng lớp lớp, trải dài bất tận. Những người chết.
Cô tăng tốc hết mức có thể để dứt khỏi ký ức này, rồi lạng xe kịp lúc để tránh một người đi xe đạp, khiến cậu ta lảo đảo dạt vào bên vệ đường và hét toáng lên những lời chửi rủa đằng sau thanh hãm xung của chiếc Sunbeam ẩu tả đang lao đi vun vút. Khẩu hiệu của FANY là Arduis invictus. Không khuất phục trước khó khăn. Cực kì tẻ nhạt. Izzie đã có đủ khó khăn rồi, xin cảm ơn.
Chiếc xe lao như bay trên những con đường. Mầm mống của Augustus trong đầu Izzie đã nảy nở.
*
Maurice lúc này không có nhà, anh ta hiện đang bó mình trong chiếc áo đuôi tôm và cài nơ bướm màu trắng, chuẩn bị cho một bữa tối của Câu lạc bộ Bullingdon[22] ở trường Oxford. Trước khi tiệc tàn, theo truyền thống của Câu lạc bộ Bullingdon, nhà hàng này sẽ bị phá hoại. Mọi người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng bên trong lớp mai cứng ngắc này có một sinh vật mềm mại đang quằn quại đầy hoài nghi và đau đớn. Maurice hạ quyết tâm rằng sinh vật ấy sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày và trong tương lai không quá xa, anh ta sẽ hợp nhất với lớp mai, như một con ốc sên không bao giờ thoát được khỏi cái vỏ của nó.
*
Một “cuộc hẹn hò”. Từ đó nghe thật tội lỗi. Ông đã đặt trước hai phòng ở khách sạn Savoy. Họ từng gặp nhau ở đó trước khi ông lên đường đi xa, nhưng chỉ gặp gỡ một cách (tương đối) trong sáng ở những không gian công cộng.
“Phòng liền kề.” Ông nói. Nhân viên khách sạn sẽ biết mục đích của từ “liền kề”, đúng không nhỉ? Thật đáng xấu hổ. Trái tim Sylvie đập thình thịch trong lồng ngực khi bà bắt một chiếc tắc xi từ nhà ga tới khách sạn. Bà là một phụ nữ sắp sửa sa ngã.
*
Sự cám dỗ đối với Hugh.
“Vầng dương rạng rỡ với những tia nắng huy hoàng bất diệt.” Hugh đang hát một mình trong vườn. Ông đã ra khỏi phòng riêng để đi dạo một lát sau bữa tối (nếu có thể gọi đó là bữa tối). Từ phía bên kia hàng rào nhựa ruồi ngăn cách Góc Cáo với Quạ Gáy Xám, ông nghe thấy một tiếng hát đáp lại. “Ngắm nhìn ánh hồng rực lửa của chàng là nàng mệnh phụ an
nhiên, thiên hậu mặt trăng. “Dường như chính điều này đã xui khiến ông len qua lỗ hổng trên hàng rào mà bọn trẻ con tạo ra sau nhiều năm chui qua chui lại và thấy mình choàng tay quanh người Roberta Shawcross trong nhà kính của gia đình Shawcross. (Mới đây cả ông và bà Shawcross đều tham gia vở opera nghiệp dư của làng có tên là Nhật hoàng. Họ khiến cho cả bản thân và đối phương phải ngạc nhiên vì màn trình diễn xuất thần của mình trong vai Ko-Ko và Katisha.)
Mặt trời và mặt trăng, Hugh nghĩ, những thực thể tượng trưng cho giống đực và giống cái. Ông sẽ nghĩ gì nếu biết rằng một ngày kia, đây sẽ là tên các chắt của ông? “Chị Shawcross.” Ông nói khi sang tới phía bên kia của hàng rào, cơ thể có chút xây xước vì bị những cành nhựa ruồi cọ phải. Ông nhận ra rằng bọn trẻ dùng lối tắt này nhỏ hơn ông rất nhiều.
“Ồ, làm ơn gọi tôi là Roberta, Hugh à.” Tên ông nghe thân mật đến đáng ngại khi phát ra trên môi bà. Đôi môi mềm mại, ướt át luôn khen ngợi và động viên mọi người.
Khi ông chạm vào bà, ông thấy bà thật ấm áp. Và bà không mặc coóc xê. Bà ăn mặc khá giống phong cách Bohemian, nhưng bà là người ăn chay, yêu hòa bình, và, đương nhiên, tích cực tham gia phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Người phụ nữ này là một nhà lý tưởng tuyệt vời. Ta không thể không ngưỡng mộ bà. (Ít nhất cũng ở một mức độ nào đó.) Bà có những đức tin và niềm đam mê bên ngoài bản thân bà. Còn những niềm đam mê của Sylvie lại là những cơn bão cuồng nộ ở trong lòng.
Ông khẽ siết chặt vòng tay quanh người bà Shawcross và cảm thấy bà cũng đáp lại ông.
“Ôi trời!” Bà nói.
“Tôi biết…” Hugh nói.
Điều đặc biệt ở bà Shawcross - Roberta - là bà hiểu về chiến tranh. Không phải là ông muốn nói chuyện về nó - Chúa ơi, không - nhưng có cảm giác thật an yên khi ở bên một người thấu hiểu. Dù chỉ một chút. Thiếu tá Shawcross đã mắc phải chút vấn đề khi ông từ tiền tuyến trở về và vợ ông đã rất thông cảm. Người ta đã nhìn thấy vài chuyện khủng khiếp, đó là những chuyện không phù hợp để nói ở nhà, và đương nhiên Sylvie không có ý định bàn luận về chiến tranh. Nó đã là một vết rách trên tấm vải cuộc đời họ và bà Shawcross đã khâu nó lại một cách tài tình.
“Ồ, đó là một cách ví von rất hay, Hugh à.” Bà Shawcross - Roberta - nói. “Nhưng, anh biết đấy, trừ phi anh khâu khéo đến mức những vết khâu dường như vô hình, nếu không, sẽ luôn có dấu vết, đúng không?”
Ông hối hận vì đã khơi lên phép ẩn dụ liên quan đến việc khâu vá. Căn nhà kính oi bức chứa đầy những cây phong lữ thơm ngát, đối với Hugh, mùi của chúng khá ngột ngạt. Bà Shawcross áp tay lên má ông rất nhẹ nhàng như thể ông là thứ gì mong manh dễ vỡ. Ông ghé môi gần môi bà hơn. Đây là một tình huống nguy hiểm, ông nghĩ. Ông đang ở trong một lãnh địa chưa từng được khám phá.
“Chỉ là Neville…” Bà bẽn lẽn cất tiếng. (Neville là ai? Hugh tự hỏi.) “Neville không thể… nữa. Từ hồi chiến tranh, anh biết chứ?” “Thiếu tá Shawcross?”
“Vâng, Neville đấy. Và chẳng ai muốn…” Bà đỏ mặt.
“Ồ, tôi hiểu.” Hugh nói. Những cây phong lữ bắt đầu khiến ông cảm thấy hơi nôn nao. Ông cần chút không khí trong lành. Ông bắt đầu cảm thấy hoảng loạn. Khác với vài người đàn ông mà ông biết, ông đã nghiêm túc tuân thủ những lời thề hôn nhân của mình. Ông tin rằng hôn nhân là sự thỏa hiệp, ông chấp nhận những giới hạn của nó. Và bà Shawcross - Roberta - sống ngay bên cạnh nhà ông, vì Chúa. Giữa họ có mười đứa trẻ - đây không phải là nền tảng tốt cho một cuộc ngoại tình. Không, ông phải thoát ra khỏi tình huống này, ông nghĩ, nhưng đôi môi ông lại tiến gần môi bà hơn nữa.
“Ôi, Chúa ơi!” Bà thốt lên, bất ngờ lùi lại một bước. “Đến giờ rồi sao?”
Ông nhìn quanh tìm một cái đồng hồ nhưng không thấy cái nào cả. “Đêm nay là đêm của Kibbo Kift.” Bà nói.
“Kibbo Kift?” Hugh lặp lại, lúng túng.
“Vâng, tôi phải đi rồi, bọn trẻ đang đợi tôi.”
“Vâng, dĩ nhiên rồi.” Ông nói. “Bọn trẻ.” Ông bắt đầu lùi lại. “Chà, lúc nào chị cần nói chuyện, chị biết tôi ở đâu rồi đấy. Ngay kế bên.” Ông vu vơ nói thêm.
“Vâng, dĩ nhiên rồi.”
Ông đã thoát được khỏi tình huống ấy và trở về theo con đường vòng, đi qua cánh cửa thay vì cái lỗ hổng nguy hiểm trên hàng rào. Mình suýt thì mắc sai lầm, ông nghĩ khi đã lui về chốn an toàn trong thư phòng của mình, tuy nhiên ông không thể không kìm được chút hân hoan. Ông bắt đầu huýt sáo bài Ba cô gái nhỏ ở trường. Ông cảm thấy khá vui vẻ.
*
Còn về Teddy thì sao?
Teddy đang đứng trong một vòng tròn ở một cánh đồng gần đó mà Quý bà Daunt ở Lâu đài Ettringham tốt bụng cho phép họ sử dụng. Các thành viên của vòng tròn, chủ yếu là trẻ con, đang di chuyển theo chiều kim đồng hồ, họ đang nhảy lò cò một điệu kỳ cục theo những gì mà bà Shawcross tưởng tượng về điệu nhảy của người Saxon. (“Người Saxon cũng nhảy sao?” Pamela hỏi. “Ai mà ngờ họ lại nhảy chứ.”) Họ cầm những cây quyền trượng bằng gỗ - những cành cây mà họ lượm được trong rừng - và chốc chốc lại dừng lại và dộng những cây gậy này xuống đất. Teddy đang mặc “đồng phục” - áo choàng không tay, quần soóc và mũ trùm đầu - do đó trông cậu giống như sinh vật lai giữa một yêu tinh lùn và một người trong nhóm Những Người Đàn Ông (không) Vui Vẻ (lắm) của Robin Hood. Chiếc mũ trùm đầu trông thật rúm ró vì cậu đã buộc phải tự khâu nó. Thủ công là một trong những thứ mà Kibbo Kift chú trọng. Bà Shawcross, mẹ của Nancy, lúc nào cũng bắt họ thêu những tấm phù hiệu, băng tay và băng rôn. Điều đó thật đáng xấu hổ. “Các thủy thủ vẫn khâu vá mà.” Pamela nói để động viên cậu. “Còn ngư dân thì đan lát.” Ursula nói thêm. “Cảm ơn hai chị.” Cậu chán nản nói.
Bà Shawcross đang ở giữa vòng tròn, dẫn dắt các vũ công nhỏ bé. (“Giờ thì nhảy lò cò bằng chân trái và cúi đầu với người ở bên phải của các con.”) Chính bà Shawcross đã khuyên cậu tham gia Kibbo Kift. Vào đúng lúc cậu bắt đầu mong muốn rời khỏi đội Sói con để tham gia đội Hướng đạo đích thực, bà đã dụ dỗ cậu với mồi nhử là Nancy. (“Lẫn cả con trai và con gái ư?” Sylvie ngờ vực nói.)
Bà Shawcross rất nhiệt huyết với Bộ tộc Kibbo Kift. Bà giải thích rằng Kibbo Kift là một tổ chức theo chủ nghĩa quân bình và yêu hòa bình, là lựa chọn thay thế cho tổ chức Hướng đạo theo hình thức quân phiệt. Lãnh đạo của tổ chức này là một người đã ly khai khỏi tổ chức Hướng đạo. (“Phản bội hả?” Sylvie nói.) Emmeline Pethick-Lawrence[23], một trong những nữ anh hùng của bà Shawcross, là một thành viên của tổ chức ấy. Bà Shawcross từng tham gia phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. (“Rất dũng cảm.” Thiếu tá Shawcross trìu mến nói.) Bà Shawcross giải thích rằng các em nhỏ vẫn được học về kỹ năng đi rừng, cắm trại và đi bộ đường dài, vân vân, nhưng chương trình của họ còn nhấn mạnh vào việc “phục hưng tinh thần của tuổi trẻ Anh.” Cho dù điều này chẳng thể hấp dẫn Teddy nhưng nó đã thuyết phục được Sylvie. Tuy Sylvie thường chống đối lại bất cứ ý kiến nào của bà Shawcross nhưng lần này, bà quyết định đây sẽ là “một điều tốt” đối với Teddy. “Bất cứ thứ gì không khuyến khích chiến tranh đều tốt cho nó.” Bà nói. Teddy không nghĩ tổ chức Hướng đạo là một tổ chức khuyến khích chiến tranh, nhưng những lời phản đối của cậu đều vô hiệu.
Bà Shawcross không những không nhắc đến việc bọn trẻ sẽ phải khâu vá khi tham gia tổ chức này, mà còn chẳng đề cập đến việc họ sẽ phải nhảy nhót, hát nhạc dân gian, nhảy theo vòng tròn trong rừng và tham gia những cuộc trò chuyện liên tu bất tận. Họ được chia thành các thị tộc và bộ lạc, vì có rất nhiều tập tục (được cho là) của người da đỏ trộn lẫn với những nghi thức (được cho là) của người Saxon, tạo nên một mớ hổ lốn không chắc có thực. “Có lẽ bác Shawcross đã tìm thấy một trong những bộ tộc bị thất lạc của Israel[24].” Pamela cười.
Họ đều chọn những cái tên của người da đỏ cho mình. Teddy là Cáo Con (“Đương nhiên rồi.” Ursula nói). Nancy là Sói Con (“Honiahaka” trong tiếng của thổ dân Cheyenne, bà Shawcross nói. Bà có một cuốn sách để tham khảo). Bà Shawcross gọi mình là Đại Bàng Trắng Lớn (“Ồ, vì Chúa!” Sylvie nói. “Đúng là ngạo mạn!”).
Tham gia tổ chức này cũng có vài điểm tốt - chẳng hạn như được ở cùng Nancy. Và họ học bắn cung bằng cung và tên thật, chứ không phải bằng những thứ mà họ phải tự làm bằng cành cây hay đại loại thế. Teddy thích bắn cung, cậu nghĩ kỹ năng này có thể trở nên hữu ích vào một ngày nào đó - nếu cậu trở thành một kẻ sống ngoài vòng pháp luật chẳng hạn.
Liệu cậu có nỡ lòng nào bắn một con hươu không? Lũ thỏ, lửng, cáo, thậm chí là sóc, chiếm cứ một nơi chốn mềm yếu trong trái tim cậu. Cậu cho rằng mình sẽ buộc phải bắn chúng nếu đối mặt với vấn đề sống còn, nếu cậu sắp chết đói. Nhưng cậu vẫn sẽ vạch ra một giới hạn. Chó, chim chiền chiện.
“Tổ chức này nghe có vẻ khá ngoại giáo.” Hugh ngờ vực nói với bà Shawcross. (“Làm ơn gọi tôi là Roberta.”) Cuộc trò chuyện này diễn ra trước “sự kiện” của họ trong nhà kính, trước khi ông nghĩ về bà với tư cách một người phụ nữ.
“Chà, gọi nó là “xã hội lý tưởng” thì đúng hơn.” Bà nói.
“À, xã hội lý tưởng.” Hugh chán chường nói. “Đó quả là một ý tưởng vô bổ.”
“Chẳng phải Oscar Wilde đã viết rằng…” Bà Shawcross nói. “… Sự tiến bộ là việc nhận thức được xã hội lý tưởng sao?”
“Tôi sẽ không nghe theo các quan điểm của người đàn ông đó.” Hugh nói, khá thất vọng với bà Shawcross - Sau này, mỗi khi những ý nghĩ của ông thơ thẩn trở lại với mùi hoa phong lữ và thân hình không mặc coóc xê của bà Shawcross, ông sẽ tự nhắc nhở mình về nhược điểm này của bà.
Xã hội lý tưởng trong mắt Teddy sẽ không bao gồm Kibbo Kift. Nó sẽ bao gồm những gì? Một con chó, chắc chắn rồi. Có lẽ không chỉ một con. Nancy và các chị em gái của cô ấy cũng sẽ có mặt ở đó - cả mẹ cậu nữa, cậu cho là vậy - và họ sẽ sống chung trong một ngôi nhà xinh đẹp giữa vùng đồng quê xanh ngát bao quanh London và ăn bánh ngọt mỗi ngày. Thực ra, đó chính là cuộc sống thực của cậu.
Đến lượt mình, Kibbo Kift lại sinh ra một phong trào ly khai, đó là Người Đi Rừng, một tổ chức ít kỳ dị hơn, nhưng lúc đó Teddy đã xoay xở né tránh tất cả những hội nhóm như vậy. Ở trường, cậu tham gia Đơn vị Huấn luyện Sĩ quan[25] và tận hưởng sự vắng bóng của chủ nghĩa hòa bình. Suy cho cùng, cậu là một chàng trai. Cậu sẽ ngạc nhiên nếu biết rằng khi cậu sáu mươi tuổi, khi các cháu của cậu đến sống với cậu ở York, cậu sẽ dành vài tháng để tới tới lui lui hội trường lạnh lẽo của một nhà thờ để Bertie và Sunny có thể tham dự cuộc họp hằng tuần của một nhóm thuộc tổ chức Người Đi Rừng mà chúng là thành viên. Teddy nghĩ có lẽ sự tham gia liên tục như thế sẽ tốt cho các cháu, đó là điều mà Viola, mẹ chúng, chẳng
mấy khi đem lại được cho chúng. Teddy nhìn chằm chằm vào khuôn mặt ngây thơ của các cháu trong lúc chúng ê a những lời lẽ đầy lạc quan theo “tín điều” của hội vào lúc bắt đầu cuộc họp - “Chúng ta sẽ ngợi ca sự kiến tạo một thế giới mới.”
Teddy thậm chí còn đi cắm trại với chúng và được người trưởng nhóm khen ngợi về “kỹ năng đi rừng” của mình. Mặc dù người trưởng nhóm ấy còn trẻ, to lớn và da đen nhưng cô ấy vẫn khiến Teddy nhớ đến bà Shawcross. “Bác đã học được kỹ năng đó hồi tham gia hội Hướng đạo.” Teddy nói. Cho dù bao năm trôi qua, Teddy vẫn sẽ không sẵn sàng thừa nhận rằng mình học được thứ gì từ Kibbo Kift.
*
Sylvie trả tiền cho tài xế tắc xi và người gác cổng khách sạn mở cửa xe, lẩm nhẩm: “Mời bà.” Bà ngập ngừng trên vỉa hè. Một người gác cổng khác đã mở cửa khách sạn cho bà. “Mời bà.” Anh ta lại nói.
Bà chầm chậm tiến lại gần hơn tội ngoại tình. “Mời bà!” Người gác cổng lại nói, vẫn giữ cửa, lúng túng vì sự chậm chạp của bà. Khách sạn đang vẫy tay mời gọi bà. Bà có thể nhìn thấy những sắc màu lộng lẫy của tiền sảnh, hứa hẹn sự xa hoa. Bà tưởng tượng ra rượu sâm banh lóng lánh trong cái ly Bohemian chạm khắc tinh xảo, rồi gan ngỗng, chim trĩ. Ánh đèn lờ mờ trong phòng, chiếc giường với ga trải giường được hồ cứng. Hai gò má bà đỏ ửng. Ông đang đợi bà ở bên trong, phía bên kia cánh cửa. Có lẽ ông đã nhìn thấy bà, có lẽ ông đang đứng dậy để tới đón bà. Bà lại chần chừ, cân đo đong đếm những gì bà sắp sửa nhận được với những gì bà sắp sửa vứt bỏ. Hoặc - có lẽ đây là một kết quả tồi tệ hơn - mọi thứ vẫn sẽ giữ nguyên như cũ. Và rồi bà nghĩ tới các con, nghĩ tới Teddy, đứa con trai tuyệt vời nhất của bà. Bà có nên mạo hiểm đánh đổi cuộc sống được là mẹ của cậu để nhận lấy một cuộc phiêu lưu tình ái? Một nỗi kinh hoàng lạnh lẽo ập tới, dập tắt những ngọn lửa tội lỗi. Vì đây chính là tội lỗi, bà nghĩ, đừng mắc sai lầm. Chẳng cần đến một vị Chúa người ta cũng biết thế nào là tội lỗi (Sylvie vốn là một người vô thần thầm kín). Bà khó nhọc lấy lại bình tĩnh và nói với người gác cổng với vẻ khá kiêu kỳ: “Ồ, rất xin lỗi. Tôi vừa nhớ ra là mình có một cuộc hẹn ở nơi
khác.”
Bà chạy trốn, bước hối hả, đầu ngẩng cao, như một người phụ nữ chủ định đến một nơi đứng đắn, văn minh - một ủy ban từ thiện, thậm chí một cuộc họp chính trị, bất cứ thứ gì trừ một cuộc hẹn với tình nhân.
Một buổi hòa nhạc! Lối vào sáng rực ánh đèn ở Phòng hòa nhạc Wigmore xuất hiện trước mặt bà - một cái đèn hiệu ấm áp, một bến cảng an toàn. Tiếng nhạc nổi lên gần như ngay lập tức, một trong những bản tứ tấu Haydn[26] của Mozart, Cuộc đi săn. Phù hợp làm sao, bà nghĩ. Bà đã là con hươu, còn ông là thợ săn. Nhưng bây giờ con hươu đã thoải mái cao chạy xa bay. Có lẽ cũng không thoải mái lắm, vì bà đang ngồi ở một chỗ khá tệ cuối phòng hòa nhạc, bị chèn ép giữa một cậu thanh niên ăn mặc hơi xoàng xĩnh và một bà cụ. Nhưng người ta luôn phải trả một cái giá để được tự do, không đúng sao?
Trước kia bà rất hay đi xem hòa nhạc với cha mình và đã quá quen thuộc với tứ tấu Haydn, nhưng vì vẫn còn bối rối bởi cuộc chạy trốn trong gang tấc vừa rồi nên bà chẳng có tâm trạng đâu mà nghe nhạc của Mozart. Sylvie biết chơi piano nhưng dạo này bà thường tránh tham gia những buổi độc tấu, chúng khiến bà nhớ đến quay quắt cái cuộc sống mà đáng lẽ bà đã có được. Hồi bà còn nhỏ, giáo viên của bà đã nói với bà rằng bà có thể tiến bộ đến mức có thể “biểu diễn ở phòng hòa nhạc”, nếu bà học tập nghiêm túc, nhưng rồi sau đó, dĩ nhiên, vụ vỡ nợ xảy ra, gia cảnh sa sút, cây đàn Bechstein của bà bị lôi đi xềnh xệch và bị bán mất. Điều đầu tiên mà bà làm khi chuyển đến Góc Cáo là mua một cây đàn Bosendorfer, đó chính là món quà cưới Hugh dành tặng bà. Một niềm an ủi lớn trong cuộc hôn nhân của bà.
*
Sau giờ giải lao là đến bản Nghịch âm. Khi những giai điệu mở đầu gần như lặng lẽ cất lên, bà thấy mình đang khóc thầm. Bà cụ bên cạnh đưa cho bà một chiếc khăn tay (sạch sẽ và được là phẳng, ơn Chúa) để lau nước mắt. Sylvie mấp máy môi cảm ơn bà ấy. Cuộc trao đổi không lời này giúp tinh thần bà khá hơn một chút. Vào cuối buổi hòa nhạc, bà cụ khăng khăng bảo Sylvie cứ giữ lấy chiếc khăn tay. Chàng thanh niên ăn mặc xoàng xĩnh
ngỏ ý đưa bà tới một chiếc tắc xi. Những người lạ mới tử tế làm sao, bà nghĩ. Bà lịch sự từ chối chàng thanh niên rồi sau đó lại hối hận vì trong tâm trạng bối rối, bà đã rẽ nhầm ở đường Wigmore, rồi lại rẽ nhầm một lần nữa và thấy mình đang ở một khu vực không được an toàn lắm, trên người chỉ có duy nhất một cái ghim cài mũ để tự vệ.
Bà đã từng coi London là nhà, nhưng bây giờ nó lại là một thành phố xa lạ với bà. Một nơi kinh hoàng, bẩn thỉu giống như trong ác mộng, vậy mà bà lại sẵn lòng hạ cánh xuống tầng địa ngục này. Hẳn là bà bị điên rồi. Tất cả những gì bà muốn là trở về nhà, vậy mà bà vẫn đang ở đây, lang thang qua các con phố như một kẻ mất trí. Khi bà cuối cùng cũng tìm được đường trở lại con phố Oxford nhộn nhịp rực rỡ ánh đèn, bà đã òa khóc vì nhẹ nhõm. Sau một chuyến tắc xi, bà đã ngồi nghiêm trang trên một băng ghế ở sân ga, như thể đang về nhà sau một chuyến đi mua sắm và ăn trưa với bạn bè.
*
“Chúa ơi!” Hugh nói. “Anh cứ tưởng em là kẻ trộm. Em nói sẽ qua đêm trên thành phố cơ mà.”
“Ồ, ở đó chán chết đi được.” Sylvie nói. “Em đã quyết định thà về nhà còn hơn. Ông trưởng ga Wilson đã cho em đi nhờ trong chiếc xe xập xệ của ông ấy.”
Hugh chăm chú nhìn khuôn mặt đỏ bừng của vợ mình, ánh mắt bà hoang dại như ánh mắt của một con ngựa đua bị vắt kiệt sức. Bà Shawcross, trái lại, giống một con ngựa cày Dobbin tuy không ưu tú bằng nhưng lại thân thiện hơn. Theo ý Hugh, đôi khi điều đó lại khiến người ta ưa chuộng. Ông hôn nhẹ lên má Sylvie và nói: “Anh rất tiếc vì những kế hoạch của em cho buổi tối nay không thành hiện thực, nhưng anh rất vui vì có em ở nhà.”
*
Khi Sylvie ngồi trước gương, gỡ búi tóc ra, một nỗi thất vọng phủ xuống bà. Bà đã là một kẻ hèn nhát và bây giờ bà bị xiềng xích trong cuộc
đời này mãi mãi. Hugh tiến tới từ đằng sau bà và đặt tay lên vai bà. “Đẹp quá!” Ông lẩm bẩm, vuốt tóc bà. Bà phải kìm nén ý muốn rụt người lại tránh ông. “Lên giường thôi, nhé?” Ông nói, trông có vẻ tràn đầy hy vọng. “Lên giường thôi.” Bà rạng rỡ đồng ý.
*
Nhưng không chỉ riêng con chim đó thôi, đúng không? Teddy ngẫm nghĩ khi cậu nằm trên giường, đợi giấc ngủ đến, nhưng nó mãi chưa tới bởi cậu cứ nghĩ vơ vẩn. Không chỉ riêng con chim chiền chiện bị Izzie tước đi sinh mạng và tiếng hót. (Tợp một miếng.) Còn biết bao thế hệ sau của nó sẽ không bao giờ được sinh ra. Biết bao tiếng hót tuyệt vời sẽ không bao giờ được cất lên. Sau này, cậu sẽ học được từ “lũy thừa”, và tiếp đó là từ “bội phân”, nhưng bây giờ trước mắt cậu chỉ là hình ảnh một đàn chim cứ càng ngày càng đông dần lên, biến mất vào một tương lai sẽ không bao giờ tồn tại.
Trên đường về giường đi ngủ, Ursula ngó vào phòng cậu và thấy cậu còn thức, đang đọc cuốn Hướng đạo cho trẻ em nam. “Không ngủ được à?” Cô nói với sự đồng cảm tự nhiên của một người cùng mắc chứng mất ngủ. Tình cảm Teddy dành cho chị gái cũng chân thành và thuần khiết như tình cảm cậu dành cho Trixie vậy. Trixie đang nằm ở chân giường, rên khe khẽ trong giấc ngủ. “Chị cho là vì lũ thỏ.” Ursula nói.
Ursula thở dài. Cô mười lăm tuổi và có xu hướng bi quan. Mặc dù mẹ họ sẽ kịch liệt phủ nhận, nhưng đó cũng là tính cách của bà. Chị cậu ngồi lên giường cậu và đọc to: “Luôn sẵn sàng với áo giáp mặc trên người, trừ khi bạn đang nghỉ ngơi vào ban đêm.” (Có lẽ đây chính là “chiếc áo giáp lễ phép” của mẹ, Teddy nghĩ.) “Chị cho rằng đây là một phép ẩn dụ.” Ursula nói. “Làm sao mà các hiệp sĩ có thể mặc áo giáp suốt cả ngày dài được chứ! Mỗi khi nghĩ đến các hiệp sĩ, chị lại nghĩ đến nhân vật Người Thiếc trong truyện Phù thủy xứ Oz.” Đó là một cuốn sách mà cả hai chị em họ đều thích nhưng Teddy ước gì chị cậu đừng nhét hình ảnh đó vào đầu cậu, những gì cậu đã đọc trong Những thi khúc về Quân vương và Cái chết của Vua Arthur lập tức tan thành mây khói.
Một con cú kêu lên một tiếng to tướng, gần như hung hăng. “Nghe tiếng kêu thì hình như nó đang ở trên mái nhà.” Teddy nói. Họ cùng nhau lắng nghe một lúc.
“Thôi, chúc em ngủ ngon.” Cuối cùng, Ursula nói. Cô hôn lên trán cậu. “Chúc chị ngủ ngon.” Cậu nói, nhét cuốn Hướng đạo cho trẻ em nam xuống dưới gối. Mặc kệ con cú vẫn đang tiếp tục cất lên khúc hát ru gớm ghiếc, cậu chìm sâu vào giấc ngủ ngây thơ của những kẻ lạc quan.
Những cuộc phiêu lưu của Augustus - Những hậu quả khủng khiếp -
V
iệc đó ban đầu vốn vô hại, ít nhất là theo ý kiến của Augustus. “Việc nào ban đầu chẳng vô hại.” Ông Swift thở dài, mặc dù ông ngờ rằng định nghĩa của Augustus về sự vô hại không giống với những người khác.
“Nhưng đó không phải là lỗi của con!” Augustus kịch liệt phản đối. “Điều đó sẽ được ghi lại trên bia mộ của con, con yêu.” Bà Swift nói, ngẩng đầu lên khỏi chiếc tất mà bà đang mạng. Khỏi cần nói cũng biết đó là một trong những chiếc tất của Augustus. (“Nó làm gì với chúng vậy?” Bà thường băn khoăn tự hỏi.)
“Dù sao đi nữa, làm sao con biết chuyện gì sẽ xảy ra chứ?” Augustus nói.
“Chẳng có hành động nào là không gây ra hậu quả.” Cha Augustus nói. “Chỉ có kẻ thiển cận mới không cân nhắc đến các hậu quả.” Ông Swift là một luật sư và ông thường dành cả ngày ở tòa án để truy tố kẻ phạm tội, tận hưởng thế trận giằng co chao qua đảo lại của cuộc chiến trong phòng xử án. Cuộc sống ở tòa án đã tràn một phần nào sang cuộc sống riêng tư của ông, và con trai ông nghĩ rằng điều đó sẽ đặt cha mình vào thế bất lợi.
“Con vô tội cho đến khi nào được chứng minh là có tội.” Augustus lẩm bẩm.
“Con đã bị bắt quả tang với đôi bàn tay màu đỏ[27].” Ông Swift ôn tồn nói. “Chẳng phải đó là bằng chứng về tội lỗi của con sao?” “Tay con có đỏ đâu.” Augustus phẫn nộ nói. “Và, dù sao đi nữa, thùng sơn ấy màu xanh lá cây mà. Thưa ngài.” Cậu nghiêm trang nói thêm. “Ôi làm ơn đi!” Bà Swift lẩm bẩm. “Hai người đang tặng tôi cơn đau đầu đấy.”
“Sao con có thể tặng mẹ cơn đau đầu được?” Cậu hỏi, cảm thấy bị tổn thương bởi lời buộc tội này. “Để tặng mẹ cơn đau đầu, con phải có cơn đau đầu trước đã. Ta không thể tặng ai thứ gì mà ta không có. Mà con có bị đau đầu đâu. Vĩ lẽ đó…” Cậu nghiêm cẩn nói, lôi cái từ trang trọng ấy ra từ một góc kiến thức xa xôi nào đó. “… Không thể nói là con tặng mẹ cơn đau đầu được.” Cơn đau đầu của bà Swift càng tồi tệ hơn bởi tràng lý luận này. Bà phẩy tay với con trai như thể đang cố xua đuổi một con ruồi cực kì phiền phức và quay trở lại với việc mạng tất. “Thi thoảng…” Bà lẩm bẩm. “… Mẹ tự hỏi mẹ đã làm gì xúc phạm đến các vị thần.”
Augustus, trái lại, cảm thấy khá hài lòng với bản thân mình. Cậu đang bào chữa đầy khí thế. Cậu là một bị cáo vô tội đang đấu tranh vì quyền lợi của mình. Chị gái cậu - Phyllis - một “nữ học giả” (theo lời mẹ cậu) luôn diễn thuyết về “quyền lợi của dân thường”. Và mình đây, Augustus nghĩ, mĩnh cũng là dân thường như họ. “Con có quyền, mẹ biết đấy.” Cậu hăng hái nói. “Con đã bị bạc đãi.” Cậu hùng hồn nói thêm. Cậu đã nghe anh trai Lionel (“Một kẻ hợm hĩnh.” Theo lời Phyllis) nói ra điều này khi đang “trồng cây si” một cô gái.
“Ôi, vì Chúa!” Cha cậu nói. “Con đâu phải là Edmond Dantès[28] chứ.”
“Đó là ai ạ?”
“Dường như con không bao giờ suy nghĩ.” Cha cậu nói. “Bất cứ ai dù chỉ có một chút xíu lý trí thôi cũng có thể đoán được chuyện gì sẽ xảy ra.” “Lúc đó con đang nghĩ là con muốn xem ở ngoài kia có thứ gì.” Augustus nói.
“Ôi chà, câu nói đó đã được thốt ra bao nhiêu lần để biện bạch cho một thảm họa?” Ông Swift chẳng nói với riêng ai.
“Vậy ở ngoài kia có thứ gì?” Bà Swift hỏi, không nén nổi lòng hiếu kỳ. “À!” Augustus nói, đẩy cái kẹo lê từ khoang miệng bên này sang khoang miệng bên kia để cho mình thời gian cân nhắc ngẫm nghĩ. “Có khi nào đó là mái tóc giả của bà Brewster chăng?” Ông Swift hỏi bằng giọng điệu mà ông sử dụng trong phòng xử án, ám chỉ rằng ông đã biết câu trả lời.
“Làm sao con biết bà ấy đội tóc giả chứ? Nó có thể là bất cứ bộ tóc giả cũ nào! Chỉ là một bộ tóc giả bị vứt lung tung thôi. Và làm sao con biết bà
Brewster bị hói chứ? Bố đội tóc giả nhưng bố không hói.” “Ở tòa án. Bố đội tóc giả ở tòa án.” Ông Swift phẫn nộ nói. “Mẹ không nghĩ là con biết con chó đã tha bộ tóc giả đó đi đâu, đúng không?” Bà Swift hỏi con trai.
Jock, lấm lem vết sơn xanh và kêu ăng ẳng đầy phấn khích, đã lựa chọn đúng khoảnh khắc ấy để bước vào phòng và bà Swift…
*
“Ôi Chúa ơi!” Teddy rên rỉ, thả cuốn sách xuống sàn nhà. Izzie đã đánh cắp cuộc đời cậu. Sao cô ấy có thể làm vậy chứ? (Vụ thùng sơn ấy thực chất không phải là lỗi của cậu.) Cô đã lấy cuộc đời cậu rồi bóp méo nó đi và biến cậu thành một thằng bé hoàn toàn khác, một thằng bé ngu ngốc, có những cuộc phiêu lưu ngớ ngẩn. Với một con chó vô cùng, vô cùng, vô cùng đần độn - đó là một con chó sục vùng cao nguyên phía Tây có khuôn mặt choắt và đôi mắt tròn xoe đen láy. Cuốn sách còn có tranh minh họa khiến mọi thứ càng tồi tệ hơn nhiều. Augustus là một cậu học sinh nghịch ngợm, lôi thôi lếch thếch, suốt ngày đội mũ sùm sụp, tóc tai xõa lòa xòa xuống mắt, và luôn có một cây súng cao su thòi ra từ túi quần. Cuốn sách có bìa màu xanh lá cây với chữ màu vàng kim, và trên mặt trước của nó viết Những cuộc phiêu lưu của Augustus, tác giả Delphie Fox, hình như đây là “bút danh” của Izzie. Ở bên trong có một lời đề tựa: “Dành tặng cháu trai tôi, Teddy. Augustus thân yêu của tôi. “Vớ vẩn! Điều khiến cậu khó chịu hơn hết chính là con chó sục. Không phải là cô miêu tả sai về con chó, mà là nó gợi cho cậu nhớ đến mất mát khủng khiếp của cậu, vì Trixie đã chết ngay trước lễ Giáng sinh. Teddy chưa bao giờ nghĩ đến chuyện nó sẽ chết trước cậu, vì thế cậu vừa bàng hoàng vừa đau lòng. Khi cậu về nhà sau học kỳ đầu tiên ở trường nội trú, cậu thấy nó đã chết và được chôn bên cạnh Bosun dưới những gốc táo. “Bố mẹ đã cố giúp nó cầm cự cho đến lúc con về, con trai.” Hugh nói. “Nhưng nó không thể gắng gượng được nữa.”
Teddy nghĩ cậu sẽ không bao giờ vượt qua được nỗi mất mát này, và có lẽ cậu không bao giờ làm được, nhưng sau khi Những cuộc phiêu lưu của Augustus xuất bản được vài tuần, Izzie xuất hiện với một món quà khác,
một con chó con nhỏ xíu thuộc giống chó sục vùng cao nguyên miền Tây với cái tên “Jock” được khắc trên chiếc cổ dề đắt tiền của nó. Teddy đã rất cố gắng để không thích nó, vì đó không chỉ là sự phản bội tình yêu dành cho Trixie, mà còn là dấu hiệu cho thấy cậu đã chấp nhận việc làm khủng khiếp của Izzie là tiểu thuyết hóa cuộc đời cậu. Nhưng dĩ nhiên, việc không thích con chó là điều bất khả thi, và chẳng mấy chốc con chó nhỏ đã tìm được đường chui sâu vào những ngóc ngách trong trái tim cậu.
Tuy nhiên, Augustus sẽ quấy rầy cậu bằng cách này hay cách khác trong suốt quãng đời còn lại của cậu.
Ursula vào phòng, nhặt cuốn sách trên sàn lên và bắt đầu đọc to: ““Chẳng phải đó là Augustus sao?” Cô Slee thì thầm vào tai ông Swift. Tiếng thì thầm rất to, đủ khiến cho những người ngồi xung quanh quay lại nhìn chăm chú.””
*
Thứ gì đã tạo nên Teddy? Đúng là không phải sên trần và Ốc sên, mà là tinh hoa được chắt lọc từ hết thế hệ này đến thế hệ khác của nhà Beresford và nhà Todd, sau cùng kết hợp lại trên một cái giường lạnh lẽo trong bầu không khí buốt giá của một đêm thu, khi cha cậu nắm chặt bím tóc vàng của mẹ cậu và không chịu buông ra cho đến khi ông đưa cả hai người họ tới bờ biển xa xăm (họ có rất nhiều uyển ngữ để gọi hành động đó). Khi họ nằm giữa chiếc giường hôn nhân lộn xộn, họ đều có chút ngơ ngẩn bởi sự nồng nhiệt bất ngờ của đối phương. Hugh hắng giọng và thì thầm: “Một chuyến hành trình xuống lòng đại dương sâu thẳm, đúng không?” Sylvie không nói gì vì bà cảm thấy phép ẩn dụ liên quan đến việc đi biển đã bị lạm dụng quá mức.
Nhưng hạt cát đã chui được vào trong vỏ (phép ẩn dụ của chính Sylvie), và viên ngọc trai Edward Beresford Todd bắt đầu lớn dần lên cho đến khi cậu chui ra dưới ánh mặt trời trước khi cuộc Đại Chiến xảy ra, bình yên nằm hàng tiếng đồng hồ trên cái xe đẩy với duy nhất một con thỏ rừng bằng bạc treo toòng teng trên mui xe làm bầu bạn.
Mẹ cậu giống như một con sư tử cái vĩ đại nhẹ nhàng bước đi quanh nhà, che chở cho tất cả bọn họ. Cha cậu giống như một bí ẩn, ban ngày
luôn biến mất vào một thế giới khác (“Ngân hàng”), rồi thình lình đi tới một thế giới còn rộng lớn và xa xôi hơn (“Cuộc chiến”). Các chị của cậu rất yêu quý cậu, luôn đung đưa, tung hứng và hôn hít cậu. Anh trai cậu đang đi học xa nhà và đã rèn luyện được sự khắc kỷ cần thiết, anh thường chế nhạo cậu mỗi khi anh về nhà vào những kỳ nghỉ. Mẹ cậu thường áp má vào má cậu và thì thầm “Trong số tất cả các con, con là đứa mẹ cưng nhất”. Cậu biết điều này là thật và cảm thấy áy náy với các anh chị. (Quả là nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng biết tình yêu là gì, Sylvie nghĩ.)
Họ đều hạnh phúc, ít nhất thì cậu cũng chắc chắn điều này. Sau đó, cậu nhận ra mọi chuyện không bao giờ đơn giản như thế. Hạnh phúc, giống như cuộc sống, mong manh như nhịp tim của một chú chim, sớm nở tối tàn như những bông hoa chuông xanh trong rừng, nhưng khi nó tồn tại, Góc Cáo chính là một giấc mộng êm đềm, yên ả.
1980
Những đứa con của Adam
“M
ẹ ơi, con đói.”
Viola đang mải nhìn ra biển nên chẳng nghe thấy lời kêu ca ấy. Lúc đó đã là xế chiều của một ngày nóng như đổ lửa. “Một ngày ở biển!” Dominic đã hồ hởi tuyên bố vào sáng hôm đó. Hồ hởi quá mức, như thể việc đi ra biển có thể làm biến đổi cuộc đời họ theo một cách mơ hồ nào đó. Hầu như không ngày nào là anh ta không nghĩ ra ý tưởng thú vị này hay ý tưởng thú vị nọ, phần lớn trong số đó đều sẽ khiến Viola mệt bở hơi tai. (“Cháu thề rằng hôm nào Dominic cũng nghĩ ra được sáu điều bất khả thi trước bữa sáng!” Dorothy cất tiếng cười thán phục, như thể đó là một điều tốt.) Theo Viola, thế giới sẽ tốt hơn biết bao nếu không có quá nhiều ý tưởng. Cô hai mươi tám tuổi nhưng đã rệu rã quá mức. Hai mươi tám có vẻ là cái tuổi cực kì bất mãn. Cô không còn trẻ nhưng dường như chẳng có ai thực sự coi cô là một người trưởng thành. Lúc nào người ta cũng bảo cô phải làm thế này thế nọ, điều đó mới đáng bực làm sao! Cô dường như chỉ có quyền lực với các con, nhưng ngay cả cái quyền lực ấy cũng bị giới hạn bởi vô số cuộc đàm phán bất tận.
Họ đã mượn chiếc xe bán tải của Dorothy cho cuộc hành trình dài năm dặm này và nó bị hỏng (chẳng có gì đáng ngạc nhiên) khi còn cách bãi biển một dặm.
Một người lái ô tô đi ngang qua, đó là một ông lão trông khá hom hem đang điều khiển một chiếc xe hơi Morris Minor cũ kĩ. Ông đã dừng lại, làm một thao tác đơn giản dưới mui xe và - a lê hấp - chiếc xe bán tải đã được sửa xong. Vị cứu tinh của họ là một người nông dân địa phương, một trong những người hàng xóm của họ, và cả ông ta lẫn chiếc Morris Minor đều khỏe khoắn hơn vẻ bề ngoài. Chỉ có lũ trẻ nhận ra ông ta nhưng chúng không tỏ dấu hiệu gì, chúng đang choáng váng vì quá nóng nực và rầu rĩ khi chiếc xe bán tải của Dorothy bị hỏng lần thứ ba trong tháng.
“Cậu vẫn cần đưa nó đến một xưởng sửa chữa.” Ông nông dân nói với họ. “Những gì tôi làm chỉ là tạm thời thôi.”
Dominic thốt lên một câu triết lý: “Ôi dào, tất cả mọi thứ đều chỉ là tạm thời.”
Trong đầu ông nông dân hiện lên hình ảnh những ngọn núi sừng sững không thể di dời và những ngôi sao di chuyển tuần hoàn trên bầu trời, chưa kể khuôn mặt của Chúa, nhưng ông không muốn tranh cãi. Ông ngẩn ngơ bởi lũ trẻ lôi thôi lếch thếch (phảng phát bóng dáng của những người nghèo thời Nữ hoàng Victoria) đang ngồi rầu rĩ bên vệ đường cùng với mẹ chúng, trông cô giống như Đức mẹ Đồng trinh trẻ tuổi đầu bù tóc rối trong bộ đồ có vẻ vừa được lôi ra từ một cái rương quần áo.
Cô đã vội vội vàng vàng mặc lên người bộ trang phục nhái dân gypsy - khăn quấn đầu kiểu nông dân, đôi bốt DM, váy nhung dài, áo jacket thêu kiểu Anh Điêng đính những mảnh gương nhỏ xíu - mà không nghĩ đến cái thực tế rằng họ sẽ tới một bãi biển trong thời tiết nóng bức và trời sẽ càng lúc càng nóng bức hơn nữa. Cô đã sấp sấp ngửa ngửa thu thập mọi thứ cần thiết cho chuyến xuất hành này - thức ăn, nước uống, khăn tắm, đồ bơi, rồi lại thêm thức ăn, thêm khăn tắm, đổi bộ quần áo này lấy bộ quần áo khác, xô, xẻng, lại thêm thức ăn, thêm quần áo, lưới đánh cá, một quả bóng nhỏ, thêm đồ uống, một quả bóng to, kem chống nắng, mũ, những miếng vải flannel ướt được vắt và nhét vào trong một cái túi bóng, một tấm thảm để trải ra ngồi - thế nên cô chỉ đơn giản khoác lên người bộ quần áo đầu tiên mà cô có thể tìm thấy.
“Chúc một ngày tốt lành.” Ông lão nói, nghiêng chiếc mũ vải tuýt với Viola.
“Ngày hôm nay có thể tốt lành được sao?” Cô nói.
Trong lúc đó, người chủ gia đình chẳng biết gì về máy móc đang hành động như một thằng ngốc, anh ta cứ nhảy nhót loanh quanh trên đường như một chú hề. Anh ta đang mặc một cái áo phông màu loang và chiếc quần jean vá chằng vá chịt, ngay cả ở những chỗ không cần vá, Viola rất ghét chiếc quần này vì cô chính là người phải làm cái việc khâu vá ấy. Ngay đến ông nông dân cũng cảm nhận được phong cách của cả gia đình họ đã lỗi thời đến vô phương cứu chữa. Ông đã nhìn thấy bộ mặt của cái tương lai nổi loạn này - các thanh niên địa phương diễu hành ở vùng ngoại ô, quần áo te tua rách rưới, xỏ khuyên và cài kim băng, bám sát gót họ là
những đứa trẻ vị thành niên theo chủ nghĩa khoái lạc hóa trang thành cướp biển, những kẻ ngoài vòng pháp luật và những người thuộc phe Bảo hoàng trong cuộc Nội chiến. Khi ông nông dân ở độ tuổi của họ, ông đã ăn mặc như cha mình và chưa bao giờ phải đắn đo về chuyện đó.
“Chúng tôi là những đứa con của thập niên sáu mươi.” Viola thường nói vậy trong những năm sau này, như thể điều đó khiến cô trở nên thú vị hơn. “Những đứa con của hoa[29]!” Mặc dù khi thập niên sáu mươi kết thúc, Viola vẫn còn mặc bộ đồng phục màu xám của trường Quaker[30], và thi thoảng lắm mới đội lên đầu vòng hoa cúc đầy vẻ trẻ con mà cô bện từ những bông hoa bứt ở rìa sân bóng vợt của trường.
Cô châm một điếu thuốc cuốn mỏng manh và rầu rĩ ngẫm nghĩ về nghiệp chướng dường như đang bám lấy số mệnh của cô. Cô rít mạnh một hơi thuốc lá rồi hếch cằm lên để khói không phả xuống đầu bọn trẻ, ra vẻ rằng mình là một bà mẹ có trách nhiệm. Khi Viola mang thai lần đầu (đứa bé trong bụng cô lúc đó là Sunny), cô đã không biết thiên chức làm mẹ sẽ đòi hỏi ở cô những gì trong tương lai. Cô không chắc mình từng nhìn thấy một đứa trẻ, nói gì đến việc bế ẵm nó, và hình dung rằng việc đó sẽ giống như nuôi một con mèo hay cùng lắm là một con chó con. (Hóa ra nó chẳng giống cả hai điều đó.) “Quán tính” là lời biện minh duy nhất của cô khi một năm sau, cô lại thấy mình mang thai, đứa trẻ lần này là Bertie.
“Đúng là vị cứu tinh của chúng tôi!” Dominic cười toe toét khi động cơ kêu lên khùng khục. Anh ta quỳ xuống trước mặt ông nông dân, hai bàn tay chắp lại cao quá đầu trong tư thế vái lạy và dập đầu xuống mặt đường trải đá răm. Viola tự hỏi phải chăng anh ta đã dùng LSD[31]- không phải lúc nào cũng dễ dàng nhận ra điều đó vì cuộc sống của anh ta giống như một chuyến phiêu du dài bất tận, khi thì hưng phấn, như lơ lửng trên chín tầng mây, lúc lại trầm lặng như vừa rơi xuống đáy vực thẳm.
Chỉ đến khi giai đoạn này của cuộc đời cô kết thúc, Viola mới nhận ra rằng anh ta là một người mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Thuật ngữ “lưỡng cực” xuất hiện quá muộn đối với Dominic. Lúc đó anh ta đã chết rồi. “Đi bộ trước mặt một đoàn tàu có thể gây ra cái chết cho ta.” Viola cợt nhả nói với nhóm nhạc công nữ chuyên chơi trống ở Leeds, nơi cô đang nghiên cứu về chủ đề “nữ quyền thời kỳ hậu phản văn hóa” để lấy tấm bằng thạc sĩ ngành Phụ nữ học theo một chương trình học bán thời gian. (“Hả?”
Teddy nói.) Miền Bắc ở thập niên tám mươi là môi trường thuận lợi cho sự nổi loạn.
“Một thằng ngốc nhăn nhăn nhở nhở.” Ông nông dân kể với vợ khi về đến nhà. “Nhưng cũng có vẻ quý phái. Cứ tưởng người giàu phải khôn ngoan chứ.”
“Chẳng phải cứ giàu có là khôn ngoan đâu.” Bà vợ ông nông dân nói với vẻ từng trải.
“Tôi đã muốn mang cả nhà họ về đây, đãi họ một đĩa giăm bông với trứng và mời họ tắm nước nóng.”
“Chắc họ đến từ công xã.” Bà vợ nói. “Tội nghiệp bọn trẻ.” “Bọn trẻ” từng xuất hiện ở cửa nhà họ hồi mấy tuần trước. Lúc đầu, bà vợ ông nông dân tưởng chúng là dân gypsy đến để ăn xin nên đã định đuổi chúng đi, thế rồi bà nhận ra chúng là lũ trẻ sống ở trang trại bên cạnh. Bà đã mời chúng vào nhà, đãi chúng sữa với bánh, dạy chúng rải thức ăn cho ngỗng rồi dẫn chúng đi tham quan khu vắt sữa bò Red Devons.
“Tôi nghe nói họ hút ma túy và khỏa thân nhảy nhót dưới ánh trăng.” Ông nông dân nói. (Đúng vậy, nhưng điều đó không thú vị như ta tưởng đâu.)
*
Trước lúc lái xe đi, ông nông dân không hề nhìn thấy Bertie. Cô bé vẫn đang ngồi bên vệ đường, lịch sự vẫy tay với cái đuôi xe Morris Minor đang rời xa.
Bertie ước gì ông ta mang theo mình về nhà. Cô bé từng nhìn trộm qua cánh cổng có năm thanh chắn và ngưỡng mộ những cánh đồng ngay hàng thẳng lối của ông ta - những con bò bóng mẩy và những con cừu trắng mịn như thể chúng vừa mới được tắm rửa. Cô bé cũng từng nhìn thấy ông nông dân đội chiếc mũ nỉ mềm tả tơi, ngồi trên cái máy kéo màu đỏ giống như trong truyện, rì rì lăn bánh xuôi ngược khắp những cánh đồng ngay hàng thẳng lối ấy.
Có một lần, khi không bị giám sát, cô bé và Sunny từng tha thẩn đi vào sân trại của họ. Bà vợ ông nông dân đã cho chúng ăn bánh, uống sữa và gọi chúng là “những đứa trẻ tội nghiệp”. Bà ấy đã dẫn chúng đi xem những con
bò màu đỏ to lớn đang được vắt sữa (quả là một điều kỳ diệu!), rồi chúng được uống sữa vẫn còn ấm ngay ở khu vắt sữa đó. Sau đó, bà vợ ông nông dân dẫn chúng đi cho ngỗng ăn, những con ngỗng trắng to lớn cứ kêu quàng quạc đầy kích động quanh chân Bertie và Sunny khiến chúng bật cười khanh khách. Mọi chuyện đã rất tuyệt vời cho đến khi Viola xuất hiện như một đám mây đen để đưa chúng về nhà và bộc phát chứng thở gấp khi nhìn thấy lũ ngỗng. Cô ghét ngỗng, vì một lý do bí ẩn nào đó.
Bertie đã nhanh tay nhặt được một chiếc lông ngỗng và mang nó về nhà để làm bùa may. Chuyến viếng thăm này giống như một câu chuyện cổ tích đối với cô bé, và cô bé luôn ước ao rằng mình có thể tìm được đường trở lại ngôi nhà trại kỳ diệu ấy. Hoặc được chở đến đó trong một chiếc Morris Minor cũ kỹ.
*
“Đói lắm rồi, mẹ ơi.”
“Con lúc nào chẳng đói.” Viola tươi tỉnh nói, cố gắng làm gương để chứng minh cho con trai thấy rằng không nhất thiết lúc nào cũng phải rên rỉ. “Thử nói lại mẹ nghe xem nào: “Mẹ ơi! con đói rồi ạ, mẹ có gì để ăn không ạ, thưa mẹ?” Ngài Lễ Độ sẽ nghĩ gì nào?”
Ngài Lễ Độ, cho dù ngài ta là ai, luôn bám sát cuộc sống của Sunny, đặc biệt là trong chuyện ăn uống.
Sunny lúc nào cũng kêu ca, Viola nghĩ, cái tên của thằng bé cứ như một biệt danh châm biếm vậy. Cô vẫn đang cố gắng giúp thằng bé có giọng điệu tươi vui hơn. “Con hãy rạng rỡ lên!” Cô thường nói, hoa tay múa chân và khuôn mặt tỏ ra vui vẻ quá mức. Hồi cô còn đi học trường Mount ở York, giáo viên kịch nghệ của họ thường làm điều này. Họ đã nghĩ đó là một ý tưởng kỳ quặc, nhưng bây giờ Viola có thể thấy được giá trị của việc tỏ ra vui vẻ ngay cả khi ta không muốn. Trước hết, ta có nhiều khả năng đạt được những gì ta muốn hơn. Thứ hai, mẹ ta sẽ không muốn bóp cổ ta sau mỗi năm phút. Tuy nhiên, thế không có nghĩa là cô tuân theo lời khuyên của giáo viên kịch nghệ kia. Đã lâu lắm rồi Viola không tỏ ra rạng rỡ. Nếu cô từng có khi nào làm vậy.
“Con đói.” Sunny kêu ca dữ dội hơn. Cậu có cái thói quen khủng khiếp là cắn răng khi tức giận. Cậu còn cắn người khi thực sự kích động. Viola vẫn co rúm lại vì kinh hãi khi nhớ đến chuyến viếng thăm cha cô ở miền Bắc vào năm ngoái nhân dịp sinh nhật Sunny. Chuyến đi ấy không có Dominic, đương nhiên, anh ta không làm những việc gì liên quan đến gia đình. “Gia đình ư?” Cha cô hỏi. “Nó không làm “những việc gì” liên quan đến gia đình ư? Nhưng nó có một gia đình đấy thôi. Con này. Các con của nó này. Chưa kể cha mẹ, anh chị em của nó.” Dominic bị cha mẹ mình “từ mặt”, đây là điều khiến Teddy lo lắng.
“Không, ý con là những việc truyền thống trong gia đình.” Viola nói. (Phải, Viola đang quá lạm dụng từ “gì” và nói năng quá vắn tắt). Nếu Dominic không phải là cha của các con cô, chắc Viola đã ngưỡng mộ anh ta vì anh ta có thể dễ dàng phủi bỏ hết mọi trách nhiệm, với cái cớ là anh ta có quyền theo đuổi những ước mơ và thú vui của riêng mình.
Sunny đã cáu um lên lúc ông ngoại giúp cậu thổi nến trên bánh sinh nhật. Viola đã làm cái bánh ấy vào buổi sáng hôm đó trong căn bếp của cha mình, rồi xếp dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật, Sunny” bằng những viên kẹo Smarties trên mặt bánh. Nhưng cô vụng về đến nỗi khiến cha cô tưởng rằng Bertie mới là người trang trí cái bánh.
“Khi nào chúng ta mới được ăn bánh vậy?” Sunny mè nheo. Cậu đã phải chịu đựng (tất cả bọn họ đều phải chịu đựng) món mì ống (làm từ bột chưa rây) kèm pho mát khó tiêu mà Viola đã làm. Đối với Sunny, món mì ống không phải dành cho ngày sinh nhật. Hơn nữa, đây là cái bánh của cậu mà.
“Ngài Lễ Độ sẽ không thích nghe giọng điệu đó đâu.” Viola nói. Ngài Lễ Độ ấy là ai nhỉ? Teddy tự hỏi. Ông ta có vẻ đã tiếm quyền làm mẹ của Viola.
Viola cắt bánh và đặt một miếng trước mặt Sunny, cô chẳng hiểu tại sao thằng bé lại lao bắn về phía trước như một con rắn hổ lục và ngoạm vào cánh tay cô. Chẳng kịp nghĩ ngợi gì, cô dang tay tát thẳng vào mặt thằng bé. Cú sốc khiến thằng bé im bặt, chỉ trong một giây mà như kéo dài bất tận, cả căn phòng nín thở, chờ đợi tiếng kêu gào đinh tai nhức óc vang lên. Như thường lệ.
“Hừ, nó cắn con đau.” Viola chống chế khi nhìn thấy vẻ mặt của cha mình.
“Thằng bé mới năm tuổi, vì Chúa, Viola.”
“Nó phải học cách tự kiểm soát bản thân.”
“Con cũng vậy.” Cha cô nói, bế Bertie lên như thể cô bé cũng cần được bảo vệ trước hành vi bạo lực của mẹ mình.
“Hừ, con mong đợi gì chứ?” Viola gắt gỏng với Sunny, che giấu nỗi xấu hổ và hối hận về hành vi đáng trách của mình. Tiếng gào giờ đã biến thành tiếng rú, những giọt nước mắt đau đớn và buồn tủi nhoe nhoét trên khuôn mặt dính bánh kem sô cô la của Sunny. Cô cố gắng bế thằng bé, nhưng khi cô vừa choàng hai tay quanh người nó và nhấc nó lên, cơ thể nó liền gồng cứng lại khiến cô không thể nào giữ nổi nó. Khi cô đặt nó trở lại mặt đất, nó bắt đầu đá cô.
“Con không thể đá và cắn người khác mà không nghĩ đến hậu quả.” Viola nói, nghiêm khắc như một bà vú thời cổ, không để lộ chút dấu hiệu nào của mớ cảm xúc hỗn độn đang chiếm ngự trong lòng cô. Cô cảm thấy có một con quỷ đang quằn quại bên trong cô. Con quỷ ấy thường nói qua đôi môi nhăn nheo của Bà Vú Nghiêm Khắc. Ông Lễ Độ rụt rè ngồi xuống đằng sau Bà Vú Nghiêm Khắc ấy.
“Có, con có thể!” Sunny rống lên.
“Không, con không thể.” Bà Vú Nghiêm Khắc điềm tĩnh nói. “Bởi vì một ông cảnh sát to lớn sẽ đến nhà và bắt con đi, tống con vào tù, nhốt con ở đó đến hết đời.”
“Viola!” Cha cô nói. “Vì Chúa, hãy kiềm chế! Nó còn nhỏ mà.” Ông giơ tay ra với Sunny và nói: “Nào, đi với ông đi, ông sẽ kiếm cho cháu một chiếc kẹo.”
Chẳng phải ông vẫn luôn là tiếng nói của lý trí sao? Hay đúng hơn là “Tiếng nói của Lý trí”, Viola thầm viết hoa biệt danh của cha mình như trong kinh Cựu ước. Cái Tiếng nói của Lý trí ấy vẫn luôn cằn nhằn sau lưng cô. Cô cố tình không thừa nhận rằng nó cũng là tiếng thì thầm lo lắng của chính lương tâm cô.
Khi chỉ còn lại một mình ở bàn, Viola bật khóc. Tại sao mọi chuyện luôn kết thúc như thế này? Và tại sao người có lỗi luôn là cô? Chưa từng có ai quan tâm đến cảm giác của cô, đúng không? Ví như chẳng ai làm
ẳ
bánh sinh nhật cho cô. Chẳng ai còn làm bánh sinh nhật cho cô nữa. Trước kia, cha cô vẫn làm bánh cho cô, nhưng cô đã không vui vẻ đón nhận những món quà ông tự tay làm, mà lại thèm loại bánh sinh nhật trong ô kính bày hàng của tiệm Terry’s hoặc Betty’s, hai tiệm bánh nằm đối diện nhau ở hai mặt của quảng trường St Helen, giống như một cặp đối thủ đang nghênh chiến.
Sau này, vào ngày sinh nhật lần thứ năm mươi, Viola tự đặt bánh cho mình ở tiệm Betty’s, khi ấy tiệm Terry’s đã rời khỏi “cuộc chiến” từ lâu. Dòng chữ “Chúc mừng sinh nhật lần thứ năm mươi, Viola” màu tím hoa cà mỏng manh uốn lượn trên nền kem màu trắng. Viola tự mua nó vì bất chấp những lời bóng gió xa gần của bà, Bertie đã không hiểu được tầm quan trọng của việc bà đã sống được một nửa thế kỷ. Khi ấy, Viola đã sống lâu hơn mẹ bà ba năm, nhưng đó không phải là cuộc đua tranh mà bà muốn thắng. Khi ấy, mẹ bà đã lùi vào quá vãng xa xăm. Càng quên lãng mẹ mình bao nhiêu, Viola càng nhớ mong bà bấy nhiêu.
Bà không nói với ai về chiếc bánh sinh nhật lần thứ năm mươi ấy và ăn hết một mình. Nó được để đến hàng tuần lễ mặc dù vào những ngày cuối cùng, nó đã rất chua. Viola tội nghiệp!
*
Cô nhặt tất cả những viên kẹo Smarties màu cam ra khỏi chiếc bánh của Sunny. Chúng được sản xuất trong một nhà máy ở phía bên kia thành phố - tất cả các viên kẹo, không chỉ riêng những viên kẹo màu cam. Viola từng đi tham quan nhà máy Rowntree’s cùng trường học và nhìn thấy những màu sắc được trộn lẫn vào nhau trong thứ gì đó trông giống như máy trộn bê tông bằng đồng sáng loáng. Vào cuối chuyến tham quan, tất cả bọn họ đều được tặng một hộp sô cô la miễn phí. Hộp sô cô la của Viola chẳng bao giờ được ăn, bởi vì khi cô về đến nhà, cô đã ném nó vào cha cô. Cô không nhớ lý do tại sao. Có lẽ là vì ông không phải là mẹ cô.
Cô mang những cái đĩa bẩn vào bếp và bỏ chúng vào bồn rửa. Qua cửa sổ, cô thấy Sunny và Bertie đang ở trong vườn cùng ông ngoại, ông đang chỉ cho chúng xem những bông thủy tiên hoa vàng. (“Có đến hàng triệu bông hoa!” Sunny hồ hởi nói khi cậu chạy vào nhà.) Viola chăm chú nhìn các con, chúng đang quỳ gối giữa những bông hoa, khuôn mặt bừng lên ánh
vàng. Chúng đang cười nói với cha cô. Cảnh tượng ấy khiến cô vô cùng buồn bã. Cô cảm thấy dường như mình đã sống ngoài lề hạnh phúc suốt cả cuộc đời.
*
“Đói!” Sunny gào lên với cô. Vẫn chăm chú nhìn ra biển như người gác ngọn hải đăng đang tìm kiếm một con tàu đắm, Viola quờ tay ra sau, thò vào trong ba lô và mò mẫm lục lọi trong đó một lúc trước khi lôi ra cái túi giấy đựng những chiếc sandwich còn thừa từ sáng - chúng được làm từ bột lúa mạch nhào chua và nhân là patê Tartex với dưa chuột héo. Sunny nổi khùng vì sự xuất hiện trở lại của món ăn chẳng chút hấp dẫn này. “Con không muốn thứ đó.” Cậu hét lên, ném trả chiếc sandwich cho cô. Cậu nhắm đích không chuẩn và một con chó Labrador tình cờ đi ngang qua đã tợp lấy chiếc bánh, nhai ngấu nghiến trong niềm ngạc nhiên thích thú.
“Xin lỗi, mẹ nghe không rõ?” Viola nói, giọng điệu cô chỉ ra rằng cô chẳng có ý xin lỗi chút nào.
“Con muốn thứ gì đó ngon lành.” Sunny nói. “Mẹ chẳng bao giờ cho chúng con thứ gì ngon lành cả.”
“Cứ đòi hỏi thiếu lễ phép thì chẳng bao giờ được.” Viola nói. (Điều này không đúng với con chó Labrador, Sunny nghĩ.) Dường như Bà Vú Nghiêm Khắc đã cùng đi với họ tới bãi biển. Viola đưa sandwich cho Bertie, cô bé vẫn đang mải mê đào một loạt những cái hố. Bertie nói “Cảm ơn mẹ” vì biết rằng sự lễ phép sẽ khiến mẹ dịu dàng với mình và cô bé thích điều đó. “Không có gì.” Viola nói. Sunny hằm hè trước màn kịch về sự lễ phép này, rõ ràng họ làm vậy chỉ để khiến cậu cảm thấy bẽ mặt. Giống như khi họ chơi trò Các gia đình hạnh phúc (cậu còn quá nhỏ nên chưa hiểu được tính châm biếm của nó), hễ lần nào ta không nói “ạ” và “cảm ơn”, ta sẽ mất Ông Chuột hoặc Bà Chim Cổ Đỏ, ngay cả khi ta chỉ đơn giản là quên mất. “Con ghét mẹ!” Cậu lầm bầm với Viola. Tại sao mẹ không bao giờ dịu dàng với cậu? “Dịu dàng” là lý tưởng của Sunny. Một ngày kia, vốn từ vựng về xã hội lý tưởng của cậu sẽ mở rộng hơn, nhưng bây giờ, cậu chỉ biết dùng từ “dịu dàng”. “Ghét lắm!” Cậu lại nói, với chính mình hơn là với mẹ cậu.
“La la la…” Viola nói. “Mẹ e rằng mẹ không thể nghe thấy lời con.” Cậu hít sâu một hơi và hét to hết cỡ: “Con ghét mẹ!” Mọi người đều quay lại nhìn.
“Mẹ nghĩ có vài người ở ngoài biển không nghe thấy lời con đâu.” Viola nói với vẻ giả vờ điềm tĩnh khiến Sunny muốn phát điên. Thứ vũ khí mỉa mai lạnh lùng ấy là một mánh khóe độc ác của mẹ cậu mà cậu không có cách nào chống đỡ được. Một cơn bão kéo đến trái tim dông gió của cậu. Cậu như chực nổ tung. Như thế mẹ cậu mới biết mùi.
Hãy nhượng bộ mẹ đi, Sunny, Bertie nghĩ. Anh không bao giờ thắng được đâu. Không bao giờ. Cô bé tiếp tục bình thản đào hố, một tay điều khiển cái xẻng nhỏ cán ngắn, tay kia cầm chiếc bánh sandwich mà cô bé không có ý định ăn. Sau khi lặng lẽ đào được một lúc, cô bé dịch mông sang bên cạnh và bắt đầu đào một cái hố khác, như thể cô bé đã dự tính một kế hoạch trong đầu, mặc dù kế hoạch ấy không nằm ngoài việc đào thật nhiều cái hố trước khi hết ngày.
Bertie được đặt tên thánh là “Moon” - không phải tên thánh, chỉ là “tên” thôi - trong một “nghi lễ đặt tên” do Dorothy bày ra và tổ chức vào ban đêm trong khu rừng đằng sau nhà với sự có mặt của cả công xã. Viola trao đứa con mới sinh đang ngủ yên bình cho Dorothy. Bà ta giơ Bertie lên về phía mặt trăng như thể cô bé là một lễ vật. Trong một thoáng giây kinh ngạc, Viola đã tự hỏi phải chăng con gái cô sắp bị hiến tế. Dorothy nói Bertie có “đặc ân” là đứa trẻ đầu tiên sinh ra trong công xã. “Chúng tôi trao tương lai này cho người.” Bà ta nói với mặt trăng, nhưng mặt trăng vẫn dửng dưng với món quà này. Trời bắt đầu mưa, Bertie tỉnh giấc và òa khóc.
“Giờ thì chúng ta phải ăn mừng!” Dorothy tuyên bố khi họ đi vào trong nhà. Họ ăn dây nhau của đứa bé, đã được Jeanette rán lên với hành tây và mùi tây. Viola từ chối phần ăn của mình - cứ như là ăn thịt người vậy, cực kì đáng ghê tởm.
Và tên của các con cô quả thật là Sun và Moon[32].
May thay, Bertie còn được đặt tên lót theo tên của cụ cô bé. “Moon Roberta ư?” Teddy nói, cố gắng giữ giọng bình thản khi được thông báo tin này trên điện thoại. “Nghe lạ quá!”
“Chà, bố cũng không muốn tên mình trùng với tên người khác, đúng không ạ?” Viola nói. “Đã có quá đủ Sophie và Sarah trên đời này rồi. Con
muốn con bé có một cái tên nổi bật và khác biệt.” Teddy thì nghĩ ngược lại, nhưng ông giữ kín suy nghĩ ấy trong lòng. Việc này không kéo dài lâu. Chẳng mấy chốc Sun đã trở thành Sunny, còn Bertie thì tránh bị gọi là Moony bằng cách từ chối đáp lời mỗi khi bị gọi bằng bất cứ cái tên nào liên quan đến mặt trăng, cho đến khi hầu hết mọi người đều quên mất rằng nó là cái tên nằm trong giấy khai sinh của cô bé. Dominic đã rất miễn cưỡng khi đăng ký khai sinh cho cô bé, vì anh ta nghĩ đó là yêu cầu của một “bộ máy quan liêu chuyên chế”, đây cũng chính là lý do anh ta và Viola không kết hôn với nhau.
Người duy nhất Bertie cho phép nhớ đến ý tưởng điên rồ này của cha mẹ cô bé là ông ngoại. Thi thoảng ông gọi cô bé là Bertie Moon, và Bertie cảm thấy cách gọi đó trìu mến lạ thường.
Cô bé “hoàn thành” một cái hố khác, nếu ta có thể nói là “hoàn thành một cái hố”, và thả chiếc bánh sandwich vào trong đó.
Viola đưa cho Sunny cái ba lô và nói: “Ở trong đó có một quả quýt. Đâu đó thôi.” Con trai cô càu nhàu khi nghe nói đến quả quýt. “Ồ, con ngừng kêu ca đi, được không?” Viola lẩm bẩm, cô vẫn đang mải nhìn ra biển nên không nổi cáu với cậu.
(Tại sao mẹ lại sinh con?” Sau này, Bertie đã hỏi mẹ mình. “Mẹ sinh con chỉ để duy trì nòi giống thôi sao?”
“Đó là lý do người ta sinh con đẻ cái.” Viola nói. “Họ chỉ khoác cho việc đó một ý nghĩa cảm động hơn mà thôi.”)
Viola ước gì cô có ống nhòm. Ánh mặt trời lấp lánh trên mặt nước khiến cô khó nhìn rõ thứ gì. Có rất nhiều người trên biển và từ khoảng cách này, trông họ rất khó phân biệt, người nào người nấy chỉ là những bóng dáng bập bềnh trên mặt nước màu xanh lam như những con hải cẩu lười biếng. Cô bị cận thị nặng nhưng quá tự kiêu nên không chịu đeo kính.
Sunny tạm thời rút khỏi cuộc chiến và trở lại với trò nhặt sỏi. Cậu yêu những hòn sỏi. Cậu thích tất cả các loại đá sỏi, nhưng những hòn sỏi được biển bào nhẵn là tuyệt vời nhất. Cậu không thể tin nổi bãi biển này lại có nguồn sỏi phong phú đến thế. Có lẽ cậu sẽ không thể nhặt được hết sỏi ở đây mất.
“Bố đâu ạ?” Bertie đột nhiên ngẩng lên hỏi.
“Đang bơi.”
Ở
“Ở đâu ạ?”
“Đương nhiên là ngoài biển.”
*
Viola nhận thấy gần chỗ cô đang ngồi có một khúc gỗ trôi dạt trắng ởn và khô giòn, nó thòi lên khỏi mặt cát như một tấm bảng chỉ đường mảnh mai. Cô nhặt nó lên và bắt đầu vơ vẩn vẽ những ký hiệu trên nền cát khô - những ngôi sao năm cánh, những mặt trăng hình lưỡi liềm và những chữ thập ngoặc xấu xa. Cô vừa bắt đầu nghiên cứu về phép thuật. Hay “Ma thuật”[33].
“Ý con là gì - giống như cưa một người phụ nữ làm đôi à?” Teddy ngơ ngác hỏi.
“Là phép thuật bố ạ. Không phải ảo thuật. Mấy thứ đại loại như phép phù thủy, huyền thuật, Pagan giáo. Bài Tarot. Đó không phải là những trò bịp bợm, đó là những gì huyền bí.”
“Bùa chú?”
“Thi thoảng ạ.” Cô khẽ nhún vai.
Đêm qua cô đã xem bài Tarot với Jeanette. Mặt trời, Mặt trăng, Chàng khờ, các lá bài cứ nối tiếp nhau - chúng ám chỉ gia đình của cô. Nữ thượng tế - hiển nhiên là Dorothy. Tòa tháp - một thảm họa, một sự khởi đầu mới chăng? Ngôi sao - một đứa con nữa ư? Lạy trời không phải là như vậy, mặc dù Star[34] là một cái tên đẹp. Dominic đi bao lâu rồi nhỉ? Anh ta vốn bơi giỏi nhưng không giỏi đến mức có thể ở ngoài đó lâu đến thế.
Mặt trời tỏa sáng chói chang. Muốn thi triển ma thuật, ta cần tiến hành vào ban đêm, với một ngọn nến lập lòe trong bóng tối, chứ không phải trong tình trạng phơi nắng quá lâu như thế này. Viola ném khúc gỗ đi và thở dài trước sự nóng bức. Lúc này cô đã cởi giày, áo khoác, váy và khăn trùm đầu nhưng vẫn đang mặc nhiều quần áo hơn bất cứ ai trên bãi biển. Cô chỉ còn mặc một cái váy lót kiểu cổ và một cái áo chẽn dài tay lạc quẻ mà cô kiếm được trong một cửa hàng đồ cũ, chúng đều được thắt ruy băng cầu kỳ và được viền đăng ten. Viola không biết rằng chiếc váy lót này vốn là y phục của một cô nhân viên bán hàng đã chết vì bệnh lao phổi, cô ta hẳn
ẳ
sẽ rất sốc và chẳng hài lòng chút nào khi thấy bộ đồ lót của mình bị phơi bày trên một bãi biển ở Devon.
Viola thôi nhìn ra biển và cuốn một điếu thuốc khác. Cô ghét bãi biển. Hồi cô còn nhỏ, khi gia đình cô vẫn còn là một gia đình đủ đầy, mùa hè nào họ cũng tới những bãi biển ướt át, lạnh lẽo để nghỉ hè. Đó là một sự tra tấn đối với Viola. Đó hẳn là ý kiến của cha cô. Có lẽ mẹ cô sẽ muốn đến một nơi ấm áp và ngập tràn ánh nắng để hưởng thụ, nhưng cha cô có tính cách của một người Thanh giáo, ông coi một bãi biển bên biển Bắc là nơi có lợi cho một đứa trẻ. Cô giận dữ rít điếu thuốc. Tuổi thơ của cô đã bị phá hỏng bởi sự vô lý của ông. Cô nằm ngửa trên cát, nhìn chằm chằm lên bầu trời không một gợn mây, suy ngẫm về sự tẻ nhạt khôn kham của cuộc đời mình. Việc này chẳng mấy chốc cũng trở nên tẻ nhạt, vì vậy cô ngồi dậy và lôi một cuốn sách ra khỏi cái ba lô “không đáy”.
Theo những gì cô còn nhớ, lúc nào cô cũng mang theo bên mình một cuốn sách. Một đứa con một bao giờ cũng thế. Văn chương đã rót vào tuổi thơ cô những mộng tưởng, và thuyết phục cô tin rằng một ngày nào đó cô sẽ là nữ chính trong câu chuyện do chính cô kể. Suốt lứa tuổi hoa niên, cô đã đắm mình vào cuộc sống của thế kỷ mười chín, đi lang thang qua các trảng đất hoang với chị em nhà Brontê, bực tức trước sự tù túng nơi những căn phòng khách của Austen. Dickens là người bạn - khá đa cảm - của cô, George Eliot là người bạn nghiêm khắc hơn. Viola hiện đang đọc lại tác phẩm Cranford. Bà Gaskell sẽ cảm thấy không thoải mái khi ở Cánh Đồng Của Adam, nơi mọi người chỉ đọc những thể loại sách như sách của Hunter S. Thompson hay những cuốn kinh yoga của Patanjali. Viola ngồi trên cát nóng, quấn một lọn tóc quanh ngón tay - đây là một thói quen cố hữu của cô khiến tất cả mọi người khó chịu trừ chính bản thân cô - và tự hỏi tại sao cô không học hành chăm chỉ hơn ở trường đại học thay vì để cho Dominic dẫn dắt lầm đường lạc lối đến nỗi giờ đây chỉ suốt ngày nằm ườn hút ma túy. Đáng lẽ bây giờ cô đã có thể trở thành một giảng viên. Thậm chí là một giáo sư. Ánh mặt trời lóe lên trên những trang sách trắng tinh của bà Gaskell và Viola ngờ rằng cô sắp bị đau đầu. Mẹ cô, về cơ bản, đã chết vì chứng đau đầu.
“Hiệp ước thân thiện” ngắn ngủi giữa họ bị Sunny phá vỡ khi cậu đổi ý về chuyện quả quýt, nhưng thay vì ăn nó, cậu lại ném nó vào Bertie. Hành động này đã dẫn đến một cuộc chiến la hét dữ dội giữa hai đứa trẻ, và cuộc
chiến chỉ tạm ngưng khi Viola sử dụng chiến thuật đánh lạc hướng là cho chúng tiền để đi mua kem. Có một chiếc xe bán kem trên lối đi bộ và Viola dõi theo hai đứa trẻ đi về phía đó cho đến khi không còn nhìn thấy chúng nữa. Cô nhắm mắt lại. Năm phút bình yên, liệu đây có phải là sự đòi hỏi quá đáng không?
*
Viola đang học năm đầu tiên ở một ngôi trường đại học xây bằng bê tông và kính thì gặp Dominic Villiers, một cựu sinh viên trường mỹ thuật. Tuy đã bỏ học nhưng anh ta vẫn còn loanh quanh luẩn quẩn bên lề đời sống học thuật. Anh ta là con dòng cháu giống (Viola phải tra cứu cụm từ này) của một gia đình bán quý tộc. Thói nghiện ngập nổi tiếng, quá khứ từng học trường tư và việc anh ta có cha mẹ giàu có nhưng tuyệt giao với họ để sống cuộc đời của một họa sĩ nghèo khổ, tất cả những điều ấy đã tạo cho anh ta một dấu ấn đặc biệt. Viola, với khát khao nổi loạn và vứt bỏ những xiềng xích của tầng lớp trung lưu tỉnh lẻ - thông qua mối quan hệ với người khác - đã bị thu hút bởi tiếng tăm của anh ta.
Dominic cũng rất điển trai và cô cảm thấy hãnh diện khi anh ta cuối cùng cũng “vồ chụp” lấy cô (dù cho có chút lờ vờ, nếu người ta có thể vồ chụp một cách lờ vờ) sau vài tuần lượn lờ quanh cô và nói “Tới nhà anh chứ?”. Trong căn hộ dơ dáy của anh ta không có bức tranh khắc axít nào, nhưng có rất nhiều tấm toan lớn trông như bị vẩy những màu sắc căn bản lên. “Em có thể nhận ra ư?” Anh ta nói, cảm động vì cô hiểu được kỹ thuật của anh ta. Viola, vốn chẳng hiểu gì về nghệ thuật, không thể ngừng nghĩ rằng “Nhưng ngay cả mình cũng có thể làm được điều đó mà”.
“Chúng có bán được không?” Cô ngây thơ hỏi và nhận được một bài giảng kiên nhẫn về việc “làm biến chất mối quan hệ trao đổi giữa nhà sản xuất và người tiêu thụ”.
“Ý anh là cho không?” Cô ngơ ngác nói. Vì là con một nên cô chẳng bao giờ cho đi thứ gì.
“Ơ!” Sau một hồi mải mê chiêm ngưỡng tác phẩm của mình, anh ta ngoảnh lại và kêu lên một tiếng khi thấy cô đang nằm lõa thể trên tấm ga cáu bẩn.
Anh ta sống nhờ tiền trợ cấp và nói rằng điều đó thật là tuyệt, bởi vì như thế có nghĩa là nhà nước đang trả tiền cho anh ta để sáng tác nghệ thuật.
“Ý cậu là, người đóng thuế?” Teddy nói. Viola lần lữa mãi mới mang “bồ” của mình về nhà (cách gọi của Teddy, ông đã tìm kiếm một từ vô thưởng vô phạt) vì sợ rằng quan điểm bảo thủ thầm kín của cha cô và sự ngăn nắp gò bó của ngôi nhà ở York sẽ ảnh hưởng xấu đến cô. Cô cảm thấy chán ghét khi nghĩ đến mảnh vườn của cha mình. Ông đã trồng những luống hoa ngay hàng thẳng lối, gồm hoa xô đỏ, hoa ngàn sao và hoa lỗ bình với những sắc màu đỏ, trắng và xanh lam. Tại sao ông không trồng chúng thành hình quốc kỳ Anh chứ? “Bố trồng chúng không phải vì lòng yêu nước.” Ông phản đối. “Bố chỉ nghĩ rằng mấy màu đó hợp với nhau thôi.”
“Những khu vườn…” Dominic nói.
Teddy chờ anh ta nói hết câu nhưng anh ta chẳng nói gì nữa. “Cậu thích chúng ư?” Ông nhắc anh ta.
“Vâng, chúng thật tuyệt vời. Người nhà cháu có một mê cung.” “Mê cung?”
“Vâng.” Dominic có một điều đáng khen là luôn tự hào về tư tưởng tuân theo chủ nghĩa quân bình của mình. “Công tước hay công nhân vệ sinh…” Anh ta nói. “… Với cháu đều như nhau cả.” Mặc dù Viola ngờ rằng anh ta quen biết nhiều công tước hơn là công nhân vệ sinh. “Người nhà” của anh ta, như cách anh ta gọi họ, sống ở sâu trong lòng Norfolk và thuộc về một dòng họ chuyên nghề săn bắn và chài lưới, có chút dây mơ rễ má với hoàng gia “một cách không chính thống”. Viola chưa bao giờ gặp họ. Ngay cả sau khi cô sinh Sunny và Bertie, họ vẫn kiên quyết cắt đứt liên lạc với Dominic. “Họ không muốn gặp cháu nội của họ ư?” Teddy nói. “Buồn thật đấy.”
Viola đã cảm thấy nhẹ nhõm. Cô ngờ rằng cô sẽ không bao giờ vừa mắt “người nhà” của anh ta. Teddy hỏi nguyên nhân chính xác khiến anh ta bị gia đình từ mặt là gì. “Ồ, bác biết đấy, toàn lý do quen thuộc - ma túy, hội họa, chính trị. Họ nghĩ cháu là kẻ rác rưởi, còn cháu nghĩ họ thật phát xít.”
Khi Teddy và Viola cùng nhau rửa ráy nồi niêu xoong chảo sau bữa ăn gồm món sa lát giăm bông và bánh táo vụn mà ông đã làm vào sáng hôm
đó, ông nói “Chà, dù sao đi nữa, trông cậu ta cũng điển trai” sau khi tìm kiếm một ưu điểm đáng khen ngợi ở anh ta. Teddy rất “khéo tay” trong chuyện bếp núc. (“Bố phải tự công nhận như vậy.”) Dominic đang “chợp mắt” trong phòng khách. “Nó mệt quá hả?” Teddy nói. Viola chưa bao giờ nhìn thấy bố mình ngủ, dù là ngủ gà gật hay ngủ trên ghế tắm nắng.
Khi Dominic tỉnh giấc, vì Teddy không thể nghĩ ra điều gì khác (không hiểu sao ông không thể tưởng tượng ra cảnh Dominic chơi cờ), ông đã lấy ra cuốn album ảnh chứa đựng những hình ảnh ngây ngô của con gái ông ở nhiều độ tuổi và nhiều góc độ khác nhau. Viola chưa bao giờ tự nhiên khi đứng trước một cái máy ảnh. “Ở ngoài, trông con bé xinh đẹp hơn nhiều.” Teddy nói.
“Vâng, rất gợi cảm.” Dominic nói, thậm chí còn liếc mắt đưa tình với cô. Viola có chút hãnh diện. Cô nhận thấy cha cô cau mặt trước câu nói và những ẩn ý của Dominic. Bố hãy quen với việc đó đi, cô nghĩ. Bây giờ con đã là một người phụ nữ trưởng thành rồi. (“Tôi làm tình, do đó tôi tồn tại.” Cô đã viết vào trang đầu cuốn Luận bàn về phương pháp của Descartes, bản in của Penguin Classics, và hài lòng về tư tưởng đả phá của mình.)
Cô là người tiếp theo trong cả một hàng dài những cô bạn gái của Dominic, và không bao giờ hiểu được tại sao anh ta dừng lại ở cô. Nhưng hóa ra không phải dừng hẳn - chỉ là tạm dừng mà thôi. “Tuy nhiên em là người duy nhất khiến anh luôn trở về nhà.” Anh ta nói. Giống như một con chó, cô nghĩ, nhưng không phải là không có chút mãn nguyện.
Về cơ bản, họ đều là những người rất lười biếng nên ở bên nhau sẽ dễ dàng hơn là tách nhau ra.
Viola chật vật vượt qua kỳ thi tốt nghiệp và ra trường với tấm bằng hạng ba xoàng xĩnh về Triết học, Hoa Kỳ học và Văn học Anh. “Dù sao thì nó cũng không cần thiết.” Cô nói. “Điều quan trọng ở đời là sống thế nào chứ không phải là bằng cấp giấy tờ ra sao.” Cô không nói với ai về sự thất vọng khôn cùng của mình về kết quả ấy và đã không dự lễ tốt nghiệp, cô nói nó chỉ mang tính hình thức mà thôi.
“Sau này con có thể hối tiếc đấy.” Teddy nói.
“Bố chỉ muốn có một tấm ảnh con đội mũ và mặc áo choàng để treo lên tường nhằm khoe khoang chứ gì.” Cô cáu kỉnh nói.
Chà, điều đó thì có gì sai trái chứ? Teddy tự hỏi.
*
“Vậy là con sẽ không kết hôn?” Teddy đã ướm hỏi khi Viola nói với ông rằng cô đang mang thai Sunny.
“Thời buổi này chẳng còn ai kết hôn nữa đâu.” Cô tùy tiện nói. “Đó là một quy tắc lỗi thời của giai cấp tư sản. Tại sao con lại muốn bị còng tay với ai đó suốt phần đời còn lại chỉ vì cái xã hội độc đoán yêu cầu con phải làm thế chứ?”
“Ồ, hôn nhân không tệ đến mức ấy đâu.” Teddy nói. “Con sẽ dần quen với cái “còng tay” ấy, như cách con gọi nó.”
*
Khi Sunny ra đời, họ đang sống trong một ngôi nhà chiếm dụng bất hợp pháp ở London với mười người khác. Họ dùng chung bếp, phòng tắm với những người còn lại, và có một căn phòng mà họ có thể gọi là phòng riêng của mình. Căn phòng ấy được nhồi nhét chật ních những bức tranh của Dominic và tất cả các vật dụng cá nhân của trẻ con. Teddy đã tài trợ cho họ những vật dụng ấy khi ông nhận ra sẽ chẳng có ai khác mua chúng. Ông sợ rằng Viola sẽ chẳng biết một đứa trẻ cần những gì. “Con sẽ cần một cái nôi.” Ông nói với cô. “Và một cái chậu tắm cho trẻ con.”
“Nó có thể ngủ trong một cái ngăn kéo.” Viola nói. “Và con có thể tắm cho nó trong bồn rửa.” (“Vâng.” Dominic đồng tình. “Người nghèo vẫn làm vậy mà.”) Đặt nó nằm trong một cái ngăn kéo ư? Nó ư? Teddy bèn rút tiền tiết kiệm và gửi cho họ một cái nôi, một cái xe đẩy và một cái chậu tắm.
Dominic hầu như chẳng bao giờ hoàn thiện nổi một bức tranh. Thi thoảng, bất chấp sự cự tuyệt nền kinh tế tư bản một cách công khai, anh ta cố gắng bán một bức, nhưng những bức tranh của anh ta đem cho còn chẳng ai lấy. Viola tự hỏi liệu một ngày nào đó họ có bị chôn vùi dưới cả núi toan của anh ta không. Kết quả là họ không có tiền. Dominic từ chối hỏi xin gia đình mình bất cứ thứ gì. “Anh ấy có lòng tự trọng rất cao và luôn tuân thủ tuyệt đối những nguyên tắc của mình như thế." Cô nói với cha. “Đúng vậy.” Teddy đồng ý.
Cô giải thích với cha mình rằng chiếm dụng nhà bất hợp pháp là một việc làm hợp lý. “Tại sao lại coi đất đai là vật sở hữu trong khi đó là tài sản chung của tất cả chúng ta chứ…” Lý lẽ ấy - của ai khác, chứ không phải của cô - bất chợt tuôn ra. Cô đã không được ngủ một cách đúng nghĩa suốt hàng tuần lễ. Sunny cứ khóc tựa mèo gào suốt nửa đêm về sáng như thể đang bộc phát nỗi đau vì bị mất đi những đám mây huy hoàng[35]. (Cậu sẽ không bao giờ thực sự nguôi ngoai sau nỗi mất mát này.) Một ngày nọ, cha cô xuất hiện trên ngưỡng cửa căn hộ chiếm dụng bất hợp pháp của họ và nói: “Bố không đợi đến lúc được mời, vì nếu đợi thì chẳng biết đến khi nào bố mới được giới thiệu với cậu nhóc này.” Hiển nhiên là ông đang trách móc cô không mang đứa bé và đồ đạc của nó lên một chuyến tàu để về nhà với ông, trong khi thực tế cô hầu như chẳng bước nổi một bước.
Teddy đã mang đến một bó hoa, một hộp sô cô la và một bọc áo liền quần dành cho trẻ em. “Của hãng Mothercare đấy.” Ông nói. “Nó là một hãng mới, con đã mua ở đó bao giờ chưa? Giá mà chúng ta có loại quần áo như thế này hồi con còn nhỏ. Hồi đó chỉ toàn là áo khoác sơ sinh và giày sơ sinh chẳng có tí tính thiết thực nào. Ngày trước, thế hệ bố gọi thứ này là quần áo lót. Con định để bố đứng ngoài này mãi à?”
“Vậy ra đây là một “ngôi nhà chiếm dụng bất hợp pháp” hả?” Ông hỏi khi họ len qua những chiếc xe đạp hầu hết đã hỏng và những hộp các tông ở tiền sảnh. (“Ồ, tôi từng là một người cấp tiến, thậm chí là một kẻ vô chính phủ.” Sau này, Viola đã tuyên bố như vậy. “Sống trong một căn nhà chiếm dụng bất hợp pháp ở London - một khoảng thời gian thú vị.” Trong khi thực tế thì phần lớn thời gian cô phải chịu đựng sự lạnh lẽo, khốn khổ và cô đơn, chưa kể còn như bị trói tay trói chân, chẳng làm được trò trống gì vì phải thực hiện thiên chức làm mẹ.)
Teddy bắt tàu quay về miền Bắc ngay trong ngày và nằm thao thức cả đêm, lo lắng cho đứa con gái duy nhất và đứa cháu duy nhất của mình. Viola từng là một đứa trẻ đáng yêu, tuyệt vời. Nhưng ông cho rằng đứa trẻ nào chẳng tuyệt vời chứ. Kể cả Hitler.
*
“Một công xã ở nông thôn?” Teddy nói khi Viola kể với ông về nơi ở tiếp theo của cô.
“Vâng. Sống chung với những người khác. Để tránh những tác động tiêu cực của hệ thống tư bản chủ nghĩa và cố gắng tìm một lối sống mới.” Cô nói, lặp lại lời Dominic. “Và chống lại chủ trương chính thức hóa nhà thờ.” Cô nói thêm. Đó là từ dài nhất mà cô biết. Cô đã nghe người ta bàn tán về từ ấy ở khắp nơi trong trường đại học, mặc dù vẫn còn mơ hồ về ý nghĩa của nó. (“Nhà thờ ư?” Teddy thắc mắc.) “Xã hội truyền thống đang bị băng hoại về đạo đức và tài chính. Bọn con sẽ sống cuộc sống tự cung tự cấp.” Cô hãnh diện nói.
““Tự do thực sự là khi người ta sử dụng đất đai để tự nuôi dưỡng và bảo vệ bản thân.”” Teddy nói.
“Cái gì ạ?” (Con không biết sao? Teddy nghĩ. Đó là điều mà cô đã được dạy hồi còn nhỏ mà.) “Đây là câu nói của Gerrard Winstanley[36].” Ông nói. “Những người chủ trương Cào bằng Đích thực. Phái Đào sâu[37]. Con không biết thật ư?”
Ông tự hỏi còn những gì mà Viola không chịu học nữa. Teddy bị hấp dẫn bởi tất cả các phong trào duy tâm cấp tiến nảy sinh quanh cuộc Nội Chiến, ông tự hỏi nếu ông sống ở thời đó, liệu ông có gia nhập một phong trào như vậy không. Ta thấy thế giới đảo ngược. (“Đó là một khúc bi ca, không phải hoan ca.” Ursula đã trách cứ ông từ lâu lắm rồi.) Có lẽ họ đều phun ra những điều nhảm nhí giống như Viola. Ông cho rằng Kibbo Kift là “kẻ thừa kế” tự nhiên của họ. “Vương quốc yêu chuộng hòa bình và những thứ tương tự như thế.” Ông nói với Viola. “Khao khát khôi phục lại thiên đường trên mặt đất.” Ông khăng khăng. “Niềm tin về một thời đại hoàng kim.”
“Ồ, điều đó ạ…” Cô nói, cuối cùng cũng nghe thấy gì đó mà cô hiểu được. Cô đã nhìn thấy cuốn Sự theo đuổi thời đại hoàng kim trên giá sách của ai đó. Cô căm ghét việc cha cô biết quá nhiều thứ. “Bọn con quan tâm đến sự tiến hóa của vũ trụ.” Cô vui vẻ nói. Cô không biết điều đó có nghĩa là gì.
“Nhưng con có bao giờ thích vùng đồng quê đâu.” Teddy thắc mắc. “Con vẫn không thích mà.” Viola nói. Cô chẳng vui vẻ gì với cuộc sống mới này, nhưng bất cứ thứ gì cũng tốt hơn ngôi nhà chiếm dụng bất hợp
pháp bẩn thỉu, bừa bộn giống như một cái lò mổ kia.
Công xã chiếm cứ một ngôi nhà trại cũ xập xệ ở Devon, hầu hết diện tích gieo trồng đã bị bán đi, nhưng phần còn lại đủ để họ trồng lương thực và nuôi dê, gà. Ít nhất là trên lý thuyết. Từ thời Trung cổ, nó được gọi là Trang trại Long Grove, nhưng khi Dorothy mua nó ở một cuộc bán đấu giá “với cái giá rất hời” - chủ yếu là vì phần diện tích còn lại là đầm lầy, những phần đất tốt đã bị ông nông dân ở trang trại bên cạnh mua mất (phải, chính là người chủ của chiếc xe bán tải Morris Minor và cái sân đầy ngỗng) - Dorothy đã đặt lại tên cho nó là Cánh Đồng Của Adam. Một tấm biển sơn cái tên mới này bằng các màu bảy sắc cầu vồng được đóng đinh vào cánh cổng ở lối vào sân trại. Không một ai ở khu vực này gọi nó bằng cái tên mới ấy.
Khi họ tới, công xã đã tồn tại được năm năm, với ba cặp đôi khác đều ở độ tuổi ngoài hai mươi - Hilary và Matthew, Thelma và Dave (người Scotland), Theresa và Wilhelm (người Hà Lan). Viola mãi không nhớ nổi tên bọn họ. Ngoài Dorothy, còn có ba người độc thân khác nữa - một phụ nữ người Mỹ ở độ tuổi ba mươi tên là Jeanette; Brian, một cậu thiếu niên có vẻ đã bỏ nhà ra đi. (“Tuyệt!” Dominic nói.)
Và cuối cùng là Bill, một ông lão trạc ngũ tuần. Ông ta từng là thợ máy trong Lực lượng Không quân Hoàng gia Anh RAF. Viola nói: “Ồ, hồi chiến tranh bố cháu cũng thuộc lực lượng RAF đấy.” Ông ta đáp lại: “Ồ, thật sao? Phi đoàn nào?”
“Cháu không biết.” Cô nhún vai. Cô chưa bao giờ nói chuyện với cha mình về chiến tranh, và dù sao đi nữa đó đã là chuyện lâu lắm rồi. Sự thờ ơ của cô có vẻ làm Bill thất vọng. “Cháu là người yêu chuộng hòa bình.” Cô nói với ông ta.
“Tất cả chúng ta đều như vậy, cô gái thân mến ạ.” Ông ta nói. Cô thực sự là người yêu chuộng hòa bình, cô giận dữ nghĩ. Cô đã theo học ở một trường Quaker, vì Chúa, và đã tham gia một cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc biểu tình đó, cô đã cố gắng hết sức để bị bắt. Những năm tháng huy hoàng của cô vẫn còn ở phía trước - Greenham, Upper Heysford[38]- nhưng từ lâu cô đã giẫm chân lên con đường của sự phẫn nộ chính đáng. Cha cô đã lái máy bay, thả bom xuống những người khác. Có lẽ ông chính là người phải chịu trách nhiệm với việc
thả bom lửa xuống Dresden - trong chương trình học của cô ở trường đại học có tác phẩm Lò sát sinh số Năm. (“Chỉ có những chiếc máy bay Lancaster mới thả bom xuống Dresden thôi.” Teddy nói. “Thì sao? Thì sao?” Con gái ông nói. “Bố nghĩ điều đó xóa được tội cho bố sao?” “Bố không đòi hỏi được xóa tội.” Teddy nói.) Chiến tranh là tội ác, Viola nghĩ, nhưng khá cụt hứng bởi sự hờ hững của Bill trước ý kiến của cô. Dường như ông ta cũng không muốn được xóa tội.
Dominic sướng rơn vì anh ta có một phòng vẽ, đó là một cái chuồng bò cũ quét vôi trắng nằm ở đằng sau. Còn Viola nhẹ nhõm vì cô không còn phải sống chung với những bức tranh của anh ta nữa.
Số lượng người ở đó tăng lên bởi dòng người liên tục đổ về vào cuối tuần, chủ yếu là từ London. Lúc nào cũng có những người hoàn toàn xa lạ ngủ trên sàn nhà và sofa hoặc ngồi quây quần bên nhau, hút ma túy và trò chuyện. Và trò chuyện. Và trò chuyện. Và trò chuyện. Họ có bổn phận “đóng góp” bằng cách phụ giúp làm vườn hoặc làm những việc sửa chữa nói chung, nhưng điều đó hiếm khi xảy ra.
Dorothy là nữ chúa ở đây, đương nhiên rồi. Mọi thứ đều phải chia sẻ và giữ làm của chung, nhưng bà ta vẫn nắm giữ các giấy tờ của ngôi nhà trại và sở hữu chiếc xe bán tải, phương tiện đi lại duy nhất của họ. Toàn bộ công trình này là ý tưởng của bà ta. Bà ta đã ngoài sáu mươi tuổi, thường mặc áo dài và trùm khăn lụa trên đầu, đi loanh quanh với nụ cười viên mãn trên mặt, nụ cười đó rất dễ khiến người ta bực tức nếu bản thân họ không cảm thấy viên mãn. Bà ta là một con cừu già trong mắt Viola, chắc cũng gần già bằng cha cô. Bà ta từng là một nữ diễn viên không thành công, nhưng sau đó đã “theo một người đàn ông” tới Ấn Độ rồi trở về một mình và mang theo “sự khai sáng”. (“Bà ấy đã được khai sáng như thế nào?” Viola thì thầm với Dominic. “Em không thấy bất cứ dấu hiệu nào của việc đó. Bà ấy giống tất cả những người khác, nhưng tệ hơn.”)
Dominic đã bị bà ta kiểm tra một cách nghiêm ngặt xem có phù hợp với công xã không, còn Viola mãi tới khi chuyển đến đây mới gặp Dorothy. Cô nhận thấy Dorothy tự thích giọng nói của chính mình, và bà ta khiến Viola có cảm giác như thể mình đang trở lại trường đại học. “Cánh Đồng Của Adam…” Dorothy nói một cách khoa trương. “… Là nơi biến tất cả những gì có thể xảy ra thành hiện thực. Nơi chúng ta có thể khám phá bản chất nghệ sỹ của chúng ta và giúp những người khác khám phá bản chất nghệ sỹ
của họ. Chúng ta luôn di chuyển về phía ánh sáng. Cô uống trà nhé?” Bà ta hỏi với phong thái của một nữ công tước khiến Viola giật mình, cô đã bắt đầu gà gật như hồi nghe giảng trên giảng đường.
Dorothy đưa cho Viola một cái cốc dày đựng thứ nước đặc quánh, đắng ngắt. “Tôi cho rằng đây không phải loại trà mà cô biết.” Dorothy nói và Viola tự hỏi phải chăng bà ta đang cố gắng chuốc thuốc mê cho cô hay đầu độc cô. (“Em hoang tưởng quá đấy!” Dominic nói.) Cô lắc đầu khi Dorothy hỏi “Ăn bánh nướng không?” và chìa ra một cái đĩa xếp chồng chất những thứ trông như những viên đá cuội. Không gian tạm thời yên ắng trong lúc Dorothy nhai nhồm nhoàm một trong những “viên đá” ấy. “Cô sẽ thấy rằng…” Cuối cùng, bà ta tiếp tục nói. “… Chúng ta là một cấu trúc lỏng lẻo được cấu thành từ những cá nhân mạnh mẽ tình cờ đi về cùng một phía. Hướng tới một sự thấu hiểu siêu việt.”
“Vâng.” Viola cẩn trọng nói, cô không biết những lời nói tuôn ra từ đôi môi bám đầy vụn bánh của Dorothy có ý nghĩa gì. Hiển nhiên là có một thứ được gọi là thiền siêu việt[39], cô đã từng tập loại thiền đó, và cô cũng đã được học về phong trào Siêu nghiệm trong văn học Mỹ, đã cần mẫn đọc hết cuốn Walden và cuốn Thiên nhiên của Emerson, nhưng chúng có vẻ chẳng liên quan mấy đến việc đốt lá xô thơm và lầm rầm tụng niệm nghe rợn cả người (giống như một con khỉ đột trầm uất) của Dorothy.
“Để làm được như vậy, tất cả chúng ta đều phải góp sức.” Dorothy nói. Chúng ta phải làm thế sao? Viola mệt mỏi nghĩ. Cô đang bụng bầu vượt mặt và còn phải bế Sunny trên tay.
Vì chẳng có kỹ năng gì đặc biệt nên cô được giao cho những công việc bình thường - nấu nướng, lau dọn nhà cửa, nướng bánh mì, làm vườn, vắt sữa dê, “vân vân”… “Về cơ bản toàn là việc nội trợ.” Viola nói. Cô từng tham gia biểu tình đòi lương cho người nội trợ hồi cô còn học đại học, cho dù cô chưa từng mó tay vào mấy việc ấy, và bây giờ cũng chẳng vui vẻ gì khi phải làm những việc đó. Hoặc nói cho đúng hơn là cô chẳng vui vẻ gì khi phải làm những việc đó cho những người khác thay vì làm cho chính mình. Sống trong một công xã là như vậy đấy. Ngoài ra còn có “những việc vườn tược nhẹ nhàng”, nghĩa là đào xới đám đất đỏ rắn đanh đầy cây kế ở các dải đất dọc theo lề bãi cỏ đằng sau. Cô được miễn “làm nông”, tức là trồng những loại rau lấy củ và những cây bắp cải bị sâu đục. Phong trào Đào sâu, cô khốn khổ nghĩ khi đứng dưới mưa, cố gắng đào xới lớp bùn
bằng một cái xẻng lung lay. Cô đã trở thành một kẻ Đào sâu đơn độc vì có vẻ như chưa từng có ai phải dính dáng đến công việc chẳng nhẹ nhàng tí nào này - các bờ cỏ đều rất rộng.
Và họ đang ở giữa nơi đồng không mông quạnh. Viola chưa bao giờ thích vùng đồng quê, đó là một nơi lạnh lẽo, bùn lầy, thiếu thốn tiện nghi. Hồi cô còn nhỏ, gia đình cô cũng từng sống trong một trang trại cũ, xung quanh vô cùng trống trải. Cô nhớ hồi đó cha cô liên tục giục giã cô ra ngoài để “tận hưởng chút không khí trong lành”, để theo ông đi dạo, tìm kiếm những con chim, những cái cây, những tổ chim, những “khối đá”. Tại sao lại có người muốn tìm kiếm một khối đá chứ? Cô nhớ mình đã vui mừng thế nào khi chuyển tới một ngôi nhà chung tường có hệ thống sưởi tập trung và những tấm thảm vừa khít ở York. Đương nhiên, niềm vui ấy không kéo dài lâu, vì một ngôi nhà đâu còn là một ngôi nhà khi không có bóng dáng của người mẹ!
Công xã có một sạp hàng trong một phiên chợ diễn ra hằng tháng ở thị trấn, ở đó họ bán những mặt hàng mà họ tự làm - những ổ bánh mì nặng trịch trông như những viên đạn được bắn ra từ máy lăng đá. Những ngọn nến nhiều màu sắc có mùi khó ngửi, khi chảy thì biến thành những cái vũng đáng ghê tởm. Và dĩ nhiên cả đồ gốm nữa. Wilhelm có một lò gốm, đó chính là nơi xuất xứ của những cái cốc và đĩa dày cộp mà họ thường dùng. Ngoài ra họ còn bán những cái giỏ liễu gai mà tất cả bọn họ đều phải đan. Giống như người mù, Viola đã nghĩ khi được đề nghị học đan những cái giỏ ấy. Đây đúng là cuộc sống của một người hầu không được trả lương vào thế kỷ mười tám, phải kiêm thêm cả việc đan giỏ. Và cô còn phải chăm sóc bọn trẻ, bởi vì dù mọi người đều nói việc của cá nhân cũng là việc chung nhưng chẳng ai tỏ ra quý mến, vồ vập Sunny, tuy vậy cô cũng chẳng trách bọn họ. Tiền được giữ trong một quỹ chung, và cô không thể lấy ra được một xu nếu không giải trình được mình chi tiêu vào việc gì. Viola nghĩ, một ngày nào đó cô sẽ ôm cái quỹ chung đó mà bỏ trốn và dùng nó để mua Coca-Cola, sô cô la, tã lót dùng một lần và tất cả những món đồ mà công xã cấm sử dụng.
Dorothy có vẻ dành nhiều thời gian để “cân bằng trung khu tập trung năng lượng tinh thần trong cơ thể” (Vài người sướng thật đấy, Viola nghĩ), và nhờ Jeanette xem bài Tarot cho bà ta. Bà ta thi thoảng đan giỏ và Viola
chưa từng thấy bà ta vắt sữa dê. Đó là một con dê Toggenburg thô lỗ, nó ghét Viola nhiều như Viola ghét nó vậy.
Khoảng thời gian duy nhất mà cô cảm thấy bình yên ở Cánh Đồng Của Adam là khi cô đi ra ngoài, giả vờ tìm trứng. Lũ gà đẻ ở bất cứ chỗ nào chúng muốn. Thật kỳ cục! Teddy cũng nuôi gà, nhưng lũ gà của Teddy rất có kỷ luật, chúng chỉ đẻ trong ổ của mình mà thôi. Tuy nhiên, ngay cả trong một buổi đi tìm trứng một cách vô định như vậy, cô cũng không thoát khỏi “cuộc đột kích” của Dorothy (Bà ta thình lình xuất hiện như một con dơi vậy). “Cô là Viola Todd, đúng không?” Có lần, bà ta đột ngột đứng chắn trước mặt cô như thể quý cô Jessel[40] khi cô đang đi trên đường và hỏi cô như vậy với giọng nói chê trách. Bertie lúc ấy đang ngủ trong chiếc xe đẩy Maclaren, một vật thể quá mỏng manh đối với loại địa hình nhiều vết lún này (bánh xe luôn bị long ra). Cô đã để Sunny ở với bố nó, một hành động tương đương với việc bỏ rơi con trẻ.
Bertie cựa mình trong giấc ngủ và giơ tay lên như thể né tránh sự xuất hiện không mong muốn của Dorothy. Viola thì giật mình hoảng hốt vì cô đang tha thẩn dọc theo các hàng rào, mơ màng nghĩ đến những chiếc bánh mì nướng phết bơ nóng hổi và Đại úy Wentworth trong cuốn tiểu thuyết Thuyết phục.
“Vâng, cháu đúng là Viola Todd.” Viola dè dặt nói. Cô đã sống dưới một mái nhà với Dorothy hơn một năm nay, vậy mà bà ta vẫn không biết tên cô sao? “Không sai.”
“Có phải mẹ cô tên là Nancy không? Nancy Shawcross?” “Có lẽ thế." Viola càng thận trọng hơn. Cô không thích tên của mẹ mình được phát ra qua đôi môi của Dorothy. Mẹ cô là một hình tượng thiêng liêng.
“Sao, bà ấy có đúng là Nancy không?” Dorothy nói.
“Bà ấy đúng là Nancy.” Viola nói, không muốn dùng thì quá khứ khi nhắc đến mẹ mình.
“Bà ấy là một trong các chị em gái nhà Shawcross phải không?” “Bà ấy đúng là người nhà Shawcross.” Thật là tuyệt khi nói chuyện về mẹ cô như thể bà vẫn còn sống.
“Tôi biết mà!” Dorothy thốt lên vẻ kịch cỡm. “Tôi biết chị gái bà ấy - Millie. Chúng tôi từng diễn chung một sân khấu với nhau hồi còn là những
diễn viên trẻ. Nhưng chúng tôi đã mất liên lạc với nhau hàng năm trời rồi. Bác gái cô thế nào?”
“Đã mất rồi.” Viola thẳng thừng đáp, sẵn sàng đưa Millie vào thì quá khứ.
Khuôn mặt Dorothy co rúm lại vẻ đau khổ. Bà ta đưa tay lên trán như thể thất vọng. “Mất rồi ư!”
“Cháu hầu như không biết bác ấy.” Viola thản nhiên nói. “Hình như bác ấy luôn ở nước ngoài.”
“Hừm.” Dorothy nói, như thể bực tức bởi thông tin này. Bà ta cau mày. “Mà cô đang làm gì đấy?”
“Tìm trứng ạ.” Viola nói dối trơn tru. Ở đây ta luôn phải để cho người khác nhìn thấy mình đang làm gì đó hữu ích. Thật là mệt mỏi. “Sao không đội cho đứa trẻ đó (chúng luôn được gọi là “đứa trẻ đó” hoặc “những đứa trẻ đó”) một cái mũ bonnet che nắng?”
“Mũ bonnet?” Viola nói, ngạc nhiên khi nghe thấy một từ cổ lỗ như thế. Đại úy Wentworth vẫy tay ra hiệu cho cô. “Cháu phải đi tiếp đây.” Cô nói. “Cháu phải đi tìm trứng.”
*
Khi Viola mang thai Bertie, Dorothy đã chủ trương một “cuộc sinh nở thuận tự nhiên” cho đứa trẻ mới ở Cánh Đồng Của Adam. Viola không thể nghĩ ra điều gì tệ hơn. Sunny đã được sinh ra trong một bệnh viện thực hành[41] rộng lớn và nhộn nhịp ở London, lần đó Viola đã say thuốc Pethidine[42]. Vào ban đêm, bọn trẻ được mang tới phòng chăm sóc trẻ và các bà mẹ được cho uống thuốc ngủ. Sung sướng làm sao! Họ được giữ lại đó một tuần và được phục vụ các bữa ăn chính, bữa ăn nhẹ và sữa, không phải làm gì nhiều ngoài việc cho con bú và thay tã cho con, thậm chí nhiều khi họ còn chẳng phải ra khỏi giường. Viola không có ý định từ bỏ tất cả những điều tốt đẹp đó để đổi lấy một cuộc vượt cạn cam go khốn khổ do Dorothy (một người không có con cái) sắp đặt. Viola bất giác nghĩ đến cuốn tiểu thuyết kinh dị Đứa con của Rosemary.
Cô gần như là một tù nhân. Ở trang trại không có điện thoại, và cô không biết làm thế nào để tới được bệnh viện nếu không có ai chở cô đến
đó bằng chiếc xe bán tải của Dorothy. Bây giờ cô mới thấy hối hận vì hồi còn ở nhà cô đã không kiên trì học lái xe với cha mình. Cô đã không muốn bị ngồi chết gí trong một cái xe với cha cô, nghe ông chỉ dạy những thứ ông biết còn cô thì không (hầu như là tất cả mọi thứ). Ông là một giáo viên nhẫn nại đến mức khiến người khác phải bực mình. Cô đột nhiên nhớ ra một chuyện. Đó là cha cô từng mất một năm kèm cặp cô vào mỗi sáng thứ Bảy để cô có thể vượt qua môn Toán ở kỳ thi tốt nghiệp cấp hai. Ông đã dùng đúng một cây bút chì suốt cả năm - một cây bút chì mềm ngắn ngủn. Viola thì không thể giữ nổi một cây bút chì hay bút mực quá một ngày. Cô rất hay đánh mất chúng. Cô cảm thấy hoa mắt chóng mặt khi nghĩ đến môn Đại số và các phương trình, nhưng cha cô vẫn nhẫn nại giảng giải cho đến khi cô hiểu (dù cô chỉ nhớ được trong một thời gian ngắn). Dĩ nhiên, bây giờ tất cả các kiến thức đó đã bị quên lãng, vậy thì ông giúp cô học chúng để làm gì? Và sự nhẫn nại của cha cô chỉ giúp cô trầy trật vượt qua kỳ thi ấy với một mức điểm thấp, sau đó là đạt kết quả trung bình ở tất cả các môn trong kỳ thi tốt nghiệp cấp ba ngoại trừ môn Anh văn, rồi đặt được chân vào cửa một trường đại học hạng xoàng, và ra trường với một tấm bằng kém cỏi. Hãy xem điều đó đã đẩy cô tới đâu. Tới nơi đây chứ còn đâu nữa. Không tiền bạc, không nghề ngỗng, hai đứa con, một người bạn trai vô dụng. Thà rằng cô bỏ học ở tuổi mười lăm và học nghề cắt tóc còn hơn.
Đương nhiên, cuối cùng cô đã sinh Bertie ở bệnh viện và quỷ sứ đã không tới giành giật cô bé. Hắn không có nhu cầu, hắn đã có Sunny.
*
Hẳn là cô đã ngủ thiếp đi. Cô giật mình tỉnh giấc và cảm thấy mặt mình bỏng rát vì bị mặt trời chiếu rọi. Mất vài giây cô mới nhớ ra các con. Chúng đi mua kem bao lâu rồi? Cô cuống cuồng đứng dậy và nhìn quanh bãi biển. Không thấy bóng dáng chúng đâu. Liệu chúng có bị bắt cóc, chết đuối, ngã khỏi vách đá? Các viễn cảnh xấu nhất cứ thế hiện ra trong đầu cô, kết tội cô là một bà mẹ tồi tệ.
Cuối cùng thì cô cũng tìm thấy chúng, chúng đang kiên nhẫn nhưng có chút ủ rũ chờ đợi ở lều Trẻ Lạc. Viola thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của cái lều này. “Con cố tình phải không?” Cô nói với Sunny khi họ
chạy đua với thủy triều để thu thập những đồ đạc ướt át dính đầy cát của mình và nhét vào những cái túi. (Đây chính là lý do mình không nên tới bãi biển, cô nghĩ.)
Sunny phẫn nộ đến mức không nói nên lời. Cậu đã sợ đến mất hồn mất vía khi nhận ra mình không thể tìm được đường về từ chỗ xe bán kem. Bãi biển rộng mênh mông và gần như tất cả mọi người ở đó đều cao lớn hơn cậu. Cậu đã tưởng tượng rằng hai anh em cậu sẽ bị sóng biển cuốn đi hoặc sẽ phải ngồi lại trên bãi cát cả đêm khi xung quanh tối om, không một bóng người. Cái áp lực là người có bổn phận chăm sóc Bertie khi mẹ vắng mặt khiến cậu cuống quýt đến quẫn trí, vì thế khi một quý bà dịu dàng tốt bụng tới chỗ cậu và nói “Kìa, hai cháu đang tha thẩn ở đây làm gì vậy? Hai cháu bị lạc mẹ à?”, cậu liền cảm thấy nhẹ cả người và òa khóc. Cậu thực lòng yêu mến người phụ nữ đó biết bao.
“Đừng bao giờ làm thế nữa nhé!” Viola nói.
“Con chẳng làm gì cả.” Cậu khẽ nói. Cậu chẳng có tâm trạng để cự cãi. Sáng hôm đó, cậu giống như một cái đồng hồ bị lên dây cót quá căng. Còn bây giờ cậu chỉ khẽ kêu tích tắc.
“Bố đâu ạ?” Bertie hỏi.
“Đang bơi.” Viola cấm cảu.
“Bố bơi hàng tiếng đồng hồ rồi.”
“Ừ, đúng vậy.” Viola nói. Cô không có đồng hồ đeo tay. Teddy đã tặng cô một chiếc Timex nhỏ xinh khi cô vượt qua kỳ thi tốt nghiệp cấp hai, nhưng cô đã đánh mất nó từ lâu rồi. Cầu trời cho Dominic chết đi, cô nghĩ.
Nếu anh ta chết đuối ngoài khơi, cô có thể bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là một cách dễ dàng để chấm dứt mối quan hệ với anh ta, dễ dàng hơn nhiều so với việc gói ghém đồ đạc và bỏ đi. Hơn nữa, cô biết đi đâu chứ? Lại còn tiền bạc nữa. Dominic có một món tài khoản ủy thác. Cô không biết nó là cái gì, nhưng anh ta đã “bất ngờ nhận” được nó từ vài tuần trước. (Anh ta nói) có một lý do phức tạp liên quan đến luật pháp khiến anh ta không thể dứt bỏ số tiền này giống như anh ta dứt bỏ “người nhà” anh ta. Nhưng anh ta có cho cô hay các con cô ít tiền nào không? Không, anh ta sẽ nộp tiền cho công xã, sẽ chuyển số tiền ấy cho Dorothy! Và tệ hơn - không, không phải là tệ hơn, mà là bớt tệ hơn một chút - cô đã phát hiện ra một lá thư từ mẹ anh ta. Bà đã thuê một thám tử tư để tìm anh ta, và trong
thư, bà đã năn nỉ anh ta “hàn gắn rạn nứt” giữa họ và để cho bà gặp các cháu của bà “với mẹ của chúng, mẹ chắc chắn đó là một người phụ nữ tuyệt vời”.
Nếu Dominic chết đi, Viola sẽ được thừa hưởng tài khoản ủy thác kia thay vì Dorothy (Tại sao lại không chứ?). Rồi sau đó cô có thể chuyển đến sống trong một ngôi nhà thực thụ và có một cuộc sống bình thường. Giá mà cô đã kết hôn với Dominic và đảm bảo được quyền của mình đối với tài sản thừa kế của anh ta. Nếu vậy thì giờ cô sẽ là một góa phụ trẻ đáng thương và người ta sẽ phải đối xử tốt với cô. Thậm chí cô có thể đến sống với những người nhà chồng thuộc về một dòng họ chuyên săn bắn và chài lưới mà cô chưa từng gặp mặt kia. Suy cho cùng, họ đã nghĩ rằng cô là người phụ nữ tuyệt vời. Dĩ nhiên, khi họ gặp cô, có lẽ họ sẽ rút lại lời nhận xét ấy, nhưng ai mà biết được chứ, có lẽ dần dà cô có thể được chấp nhận vào gia tộc của họ và trở thành “người nhà” họ. Cô có thể mang họ của họ. Viola Villiers, hơi líu lưỡi một chút, giống như một bài luyện diễn thuyết, tuy nhiên cái tên đó vẫn có chút sang trọng, giống như những nữ diễn viên của thế kỷ mười tám làm nhân tình của những người đàn ông thuộc giới quý tộc và cuối cùng thường trở thành công tước phu nhân.
Có lẽ Sunny là người thừa kế của một điền trang hoặc thứ gì đó đại loại thế. Và trong một thoáng giây, cô cho phép mình tưởng tượng ra những con thiên nga đang bơi trên mặt hồ và những con công múa trên thảm cỏ. Cô không ngại chuyện họ có tính phát xít, cô thực sự không ngại điều đó, miễn là họ có hệ thống lò sưởi tập trung, máy sấy khô quần áo, bánh mì trắng thay vì bánh mì làm bằng bột lúa mạch chua, và những tấm đệm mềm mại thay vì những chiếc đệm cứng trải trên sàn nhà.
*
Cô có nên báo cho ai đó không? Cả ba người họ đều đã quá mệt mỏi, họ chắc chắn sẽ không đủ sức để đối mặt với những việc sẽ diễn ra sau khi họ thông báo có người mất tích. Nhưng họ sẽ về nhà bằng cách nào? Cô không biết lái xe. Cô thở dài thườn thượt.
“Mẹ ơi?” Bertie nói. Bertie nắm bắt rất tốt tâm trạng của Viola.
Họ chậm chạp lê bước trở lại lều Trẻ Lạc. Người phụ nữ hiền dịu vẫn ở đó. Sunny lao đến ôm chầm lấy bà, bám chặt vào bà.
“Cô lại lạc ai nữa à?” Bà tươi cười nói với Viola.
*
Sunny, Bertie, Viola và hai viên cảnh sát vạm vỡ chen chúc trong một chiếc xe tuần tra, đi thẳng về Cánh Đồng Của Adam. (“Đó là trang trại Long Grove, đúng không?” Một viên cảnh sát hỏi.) Lũ trẻ, ngồi ở băng ghế sau với Viola, lập tức ngủ thiếp đi. Da chúng trơn bóng vì lớp kem chống nắng cũ, ngoại trừ đôi chân bám đầy cát. Chúng vẫn đi chân không, Viola chẳng còn sức đâu để ép chúng đi xăng đan vào. Chúng đang bắt đầu bốc ra thứ mùi của loại quả chín nẫu.
Có lẽ các con của cô sẽ sống tốt hơn nếu không có cô. Đáng lẽ cô nên để chúng ở lại với bà vợ của ông nông dân, cô nghĩ, khéo léo biến sự ích kỷ thành lòng vị tha. Cô chợt nhớ đến những con ngỗng trong sân và rùng mình. Hồi nhỏ, cô từng bị một con ngỗng rượt theo và mổ tới tấp, kể từ đó cô rất sợ chúng. Cha mẹ cô - lúc đó cô vẫn còn đủ cả cha lẫn mẹ - đã cười cợt cô. Lũ ngỗng luôn cảm nhận được nỗi sợ hãi của cô, chúng thường chạy về phía cô như một lũ du thủ du thực, xúm đen xúm đỏ xung quanh cô, vừa mổ vào cô vừa kêu quang quác. “Đừng tỏ ra mình là một con ngỗng ngu ngốc, Viola.” Teddy thường nói với cô như vậy. Ông luôn bảo cô phải như thế này, đừng có thế kia. (Tiếng nói của Lý trí.) Mẹ cô từng kể cho cô nghe một câu chuyện có tên là Cô gái chăn ngỗng. Theo những gì Viola còn nhớ, trong câu chuyện có một con ngựa biết nói bị chặt đầu.
Có lẽ cô nên đề nghị viên cảnh sát cứ tiếp tục lái xe đến tận York và thả cô ở nhà cha cô. Cô ngạc nhiên khi thấy mình nhớ nhà. Cô không chỉ nhớ những con phố hẹp và những nhà thờ thời Trung cổ, nhớ bức tường bao và thánh đường lớn, mà còn nhớ ngôi nhà chung tường ở vùng ngoại ô mà cô đã dành nửa cuộc đời mình để cười nhạo.
“Bà Todd?” Cô đã bảo mấy viên cảnh sát cứ gọi cô là “chị Todd” nhưng họ chẳng buồn đoái hoài đến ý tưởng mới mẻ này. Vì cô đã là mẹ trẻ con nên họ sẽ không gọi cô là “Cô”.
“Chúng ta đến nơi rồi, bà Todd. Bà đã về đến nhà rồi.”
ẳ
Không hẳn, cô nghĩ.
*
Viola đã kể về tình cảnh khốn khổ của mình với người phụ nữ ở lều Trẻ Lạc. Bà ấy lập tức lo liệu mọi việc: thông báo với lực lượng bảo vệ bờ biển, tàu cứu đắm địa phương, cảnh sát và vài người khác, phần lớn là những người đang thơ thẩn quanh lối đi dạo bên bờ biển, hứng thú với “vở kịch” này nhưng thất vọng vì chẳng có gì để xem mấy. Có vẻ như quá nhiều nhân lực, vật lực đã được huy động chỉ để tìm kiếm duy nhất một người bị mất tích khi đang bơi trên biển.
Viola đã thuật lại mọi việc. Cũng không có gì nhiều. Dominic đã nói “Anh đi bơi đây” rồi chạy xuống biển, lao mình vào trong làn nước, tay chân vẫy vùng và chẳng thấy quay lại nữa. Chẳng khai thác được gì thêm từ lời khai này, vì vậy hai viên cảnh sát lực lưỡng bèn đưa họ trở lại Cánh Đồng Của Adam. Sunny bướng bỉnh bám chặt vào người phụ nữ ở lều Trẻ Lạc như con sao sao bám vào tảng đá, mẹ cậu phải cạy mãi mới tách cậu ra được. “Cậu bé tội nghiệp!” Người phụ nữ thốt lên. Viola liền nói: “Bà có thể giữ nó nếu bà muốn.” Hiển nhiên là người phụ nữ ở lều Trẻ Lạc nghĩ rằng đó là một lời nói đùa.
*
Cánh cửa ngôi nhà trại bật mở khi chiếc xe cảnh sát dừng lại và Dorothy bước ra, trừng mắt với Viola và nói: “Cô dẫn lũ heo đến cửa nhà tôi sao?” Hai viên cảnh sát phẫn nộ thấy rõ khi bị gọi xách mé như vậy bởi một người phụ nữ tuy mặc váy dài nhưng rõ ràng là một bà cụ đã nghỉ hưu và đáng lẽ phải cư xử có hiểu biết hơn.
“Các người không thể vào nhà nếu không có giấy khám nhà.” Dorothy hống hách nói.
“Chúng tôi không có ý định vào nhà.” Một viên cảnh sát nói, hít ngửi không khí một cách khoa trương. Mặc dù trong nhà có rất nhiều ma túy nhưng thứ mùi duy nhất có thể ngửi thấy lại là mùi dầu thơm hoắc hương nồng nặc của Dorothy.
Lúc này, Dorothy đã bước ra sân trại và đứng chống nạnh, bảo vệ lãnh địa của mình. “Các người sẽ không được bước qua đây.” Bà ta nói như thể đang bảo vệ một rào chắn.
“Ồ, vì Chúa!” Viola nói. Cô đã quá mệt mỏi với chuyện nhảm nhí này. “Cô đã ở nơi quái quỷ nào vậy, Viola? Chúng tôi cứ thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với cô. Dominic đang ở trong phòng vẽ, cậu ta đã về hàng tiếng đồng hồ rồi.”
“Anh ấy đã về ư? Về đây?” Viola hỏi.
“Hừ, còn ở đâu được chứ?”
“Đó là ông Villiers mà chúng ta đang nói đến ư?” Một viên cảnh sát xen vào. “Ông Dominic Villiers?”
“Quý ông đã khiến chúng ta phải mở một cuộc tìm kiếm quy mô lớn ngoài biển?” Người kia nói. “Người đã khiến chúng ta phải huy động cả một chiếc trực thăng cứu hộ của lực lượng RAF để tìm kiếm?”
*
“Vậy là sau một hồi ngụp lặn trên biển, cậu ta lên bờ nhưng không thể tìm thấy cô nên cứ thế lái xe về nhà?” Người nông dân hỏi. “Chỉ mặc độc cái quần bơi?” Bà vợ của ông nông dân nói, lắc đầu vẻ không tin trước sự thật này. Viola có thể thấy rằng cô đã đẩy hai vợ chồng họ tới giới hạn của trí tưởng tượng. Họ sẽ không bao giờ hành xử như Dominic bởi vì họ là người bình thường.
Cô đã gói ghém đồ đạc vào trong một cái túi, lấy hết số tiền từ quỹ chung nhân lúc không ai để ý rồi đi bộ sang trang trại kế bên. Thậm chí chẳng ai nhận ra cô đã bỏ đi. Cô đã chuẩn bị tinh thần để đương đầu với lũ ngỗng nhưng dường như chúng đã đi ngủ.
“Ồ, là cô à!” Ông nông dân đã nói. Chuyện xảy ra lúc sáng nay dường như đã quá xa xôi đối với tất cả bọn họ.
Bà vợ của ông nông dân tắm táp cho bọn trẻ. Khi chúng từ phòng tắm đi ra, quấn khăn tắm quanh người, trông chúng sạch sẽ, tinh tươm như chưa bao giờ lấm bẩn. Sau đó, chúng được mặc cho bộ pyjama mà bà vợ ông nông dân để dành cho các cháu của bà khi chúng về thăm bà. Bà đã
hâm nóng món hầm và khoai tây. Viola cùng các con ngầm nhất trí rằng họ sẽ không nhắc đến việc mình là người ăn chay. Viola cảm thấy cô đã có đủ rắc rối rồi (ha!), không cần phải làm phức tạp mọi chuyện thêm nữa (họ đang ở trong một trang trại, cô tự biện minh). Sau đó, khi bà vợ của ông nông dân lấy ra món tráng miệng mà bà làm có kem chế biến từ sữa của những con bò có bộ lông màu đỏ bóng mẩy, Viola không nói “Đừng ăn thứ đó! Thành phần của nó có men dịch vị tiết ra từ một enzyme trong dạ dày của bò!”, giống như cô thường nói về pho mát. Thay vì thế, cô lặng lẽ nuốt nó xuống. Thật là ngon!
Họ ngủ lại ở đó, trên những tấm ga giường cũ sạch sẽ, lũ trẻ ngủ trên một chiếc giường đôi. Ngay từ khi còn rất nhỏ, trước cả khi biết nói, Bertie đã có thói nói mê khi ngủ, cô bé cứ ú ớ suốt đêm, nhưng đêm nay, Sunny nhẹ nhõm khi thấy cô bé ngủ im. Cậu đặt một hòn sỏi dưới gối để tạo cảm giác an tâm. Khi cậu tỉnh dậy vào sáng hôm sau, đó là vật đầu tiên mà cậu tìm. “Ôi trời ơi!” Viola nói khi cậu đặt nó bên cạnh đĩa ăn sáng của cậu.
Họ ăn món trứng bác vàng ruộm như vầng mặt trời. Rồi bà vợ của ông nông dân lại mặc cho bọn trẻ bộ đồ mới mà bà định để dành cho cháu của bà. Sunny diện chiếc quần soóc sạch sẽ và cái áo Aertex nhỏ xíu, trong khi Bertie mặc chiếc váy in hoa với phần thân trên may kiểu xếp nếp hình tổ ong và cổ áo kiểu Peter Pan màu trắng. Trông chúng cứ như con cái của nhà khác vậy.
Ông nông dân chở họ tới nhà ga, từ đó họ bắt một chuyến tàu tới London, và từ ga King’s Cross ở London, họ lại bắt một chuyến tàu khác tới York.
“Chào các con!” Teddy nói khi ông mở cửa và nhìn thấy “nhóm người tị nạn” nhỏ bé đang đứng trên bậc thềm. “Quả là một điều bất ngờ tuyệt diệu!”
1947
Mùa đông khắc nghiệt này
Tháng Hai
Bông giọt tuyết với sắc trắng tinh khôi nhất
Ngóc đầu lên lần đầu vào ngày lễ Nến Candlemas. “T
ôi suýt thì bỏ lỡ khóm hoa nhỏ bên con mương ở chân một hàng rào. Nước trong mương vẫn đóng băng “cứng như đá”, giống như nước ở mọi cái hồ và kênh rạch khác trên hòn đảo này. Vì vậy, năm nay tôi đã không mong đợi “loài hoa báo xuân quả cảm[43]” của Wordsworth xuất hiện đúng thời điểm. Theo truyền thống, hoa giọt tuyết nở vào ngày lễ Nến Candlemas (ngày mồng Hai tháng Hai). Ở một số vùng, nó được gọi tên là “hoa chuông Candlemas”, nhưng giữa mùa đông dài và ảm đạm chưa từng có này, chúng ta chắc chắn phải thứ lỗi cho chúng nếu chúng xuất hiện hơi muộn một chút.”
Nancy kìm nén một cú ngáp, Teddy bắt gặp nhưng không nói năng gì. Cô đang chăm chú với món đồ đan dở bên ngọn đèn tù mù. Vì thời tiết tệ hại này mà khắp nơi đều bị cắt điện, nhưng ngôi nhà của họ không bị ảnh hưởng gì, bởi lẽ ngay từ đầu nó đã không mắc điện rồi. Ở dưới nhà, họ thắp đèn dầu và đèn dầu hỏa, còn trên gác thì thắp nến. Họ túm tụm xung quanh ngọn lửa lò sưởi vốn là ngọn nguồn ấm áp duy nhất của họ, nếu không kể đến bản thân họ. Teddy cúi người để khều một khúc củi bằng thanh cời lửa rồi liếc lên nhìn Nancy, thầm nghĩ: Cô ấy sẽ tự làm hỏng mắt mình dưới ánh sáng này mất. Cô đang đan một cái áo len chui đầu không tay kiểu Fair Isle[44] phức tạp cho anh. Cô nói trong mẫu đan có Toán học. Các khuôn mẫu có trong mọi thứ. Theo Nancy, Toán học là “điều duy nhất chân thực”.
“Không phải là tình yêu sao?” Teddy nói.
“Ồ, tình yêu, đương nhiên rồi.” Nancy cộc lốc nói. “Tình yêu là điều thiết yếu, nhưng nó là một thứ trừu tượng, còn các con số là tuyệt đối. Các con số không thể bị bóp méo.” Một câu trả lời không thỏa đáng, hẳn rồi, Teddy nghĩ. Đối với anh, tình yêu mới là tuyệt đối, hơn hẳn tất cả mọi thứ. Đúng không? Với anh?
Họ đã cưới nhau vào mùa thu năm 1945 ở Phòng Hộ tịch Chelsea, mỗi bên chỉ có một người chị em gái - Ursula và Bea - để làm chứng. Teddy lúc ấy mặc quân phục nhưng không đeo huân chương. Còn Ursula đã nài nỉ Izzie cho cô mượn một bộ váy đầm mà bà mua ở Paris hồi trước chiến tranh nhưng không nói lý do tại sao. Bea đã giúp Nancy chỉnh sửa bộ váy đầm ấy để nó bớt lộng lẫy và phù hợp với cuộc sống khổ hạnh thời bây giờ hơn. Sáng hôm đó, Bea đã tới Covent Garden để mua một ít cúc đại đóa, những bông cúc to tướng lòe xòe màu gỉ sắt được cô khéo léo bó lại để tạo thành một bó hoa cưới. Bó hoa rất hợp với chiếc váy lụa màu thịt hàu. Hồi trước chiến tranh, Bea từng là sinh viên của trường St Martin, là người có tính nghệ sỹ nhất trong số tất cả các cô gái nhà Shawcross, mặc dù Millie sẽ khó lòng chấp nhận điều đó. Teddy vẫn nghĩ họ là các cô gái, mặc dù Winnie, cô chị cả, giờ đã bốn mươi tuổi rồi.
Cả Teddy lẫn Nancy đều không thể tính đến một đám cưới hoành tráng khi mà chiến tranh chỉ vừa mới kết thúc chưa lâu. “Và ai sẽ trao em cho chú rể?” Nancy nói. “Sẽ rất buồn nếu không được bố dắt đi trên lễ đường.” Thiếu tá Shawcross đã mất vài tuần trước, điều này cũng không bất ngờ lắm.
Teddy nghĩ anh hiểu Nancy - trước chiến tranh, anh thực sự hiểu cô - nhưng bây giờ cô luôn khiến cho anh bất ngờ. Anh đã cho rằng khi kết hôn, anh và Nancy sẽ dính chặt lấy nhau và hòa làm một - theo ý nghĩa trong Kinh thánh của từ này - trong khi thực tế anh liên tục nhận ra sự khác biệt giữa họ. Cô thường làm anh chao đảo khi mà anh mong đợi - hy vọng - cô giúp anh đứng vững.
Họ từng là thanh mai trúc mã của nhau, hay đúng hơn là mọi người thường gọi họ như thế. “Em ghét lối ví von đó lắm.” Nancy nói vào cái đêm trước đám cưới giản dị của họ. Họ đang uống rượu trong một quán rượu tồi tàn, gần như vắng tanh ở một con hẻm trên đường Piccadilly. Họ chọn nơi này vì nó gần ngôi trường mà cả hai người đều đang học để lấy chứng chỉ dạy học cấp tốc.
Dạy học đã là một phần trong viễn cảnh về cuộc sống toàn vẹn của họ sau chiến tranh. Thực ra đó là viễn cảnh của Nancy, Teddy chỉ đơn giản làm theo cái viễn cảnh đó vì anh không thể nghĩ ra việc gì khác. Anh không có ý định trở lại ngành ngân hàng - cái nghề khiến anh không thể chịu đựng nổi hồi trước chiến tranh - và anh cũng không thể làm phi công được nữa. Không quân Hoàng gia Anh không có lời kêu gọi nào đối với hàng tá người - có lẽ phải hàng trăm mới đúng - muốn ở lại và tiếp tục bay sau khi chiến tranh kết thúc. Đất nước đã xong việc với họ rồi. Họ đã cống hiến tất cả những gì mình có rồi đột nhiên bị thả trôi. Lòng biết ơn không còn là tôn chỉ nữa. Trong tình cảnh này, dạy học dường như là một lựa chọn tốt đối với anh. Thơ, kịch, tiểu thuyết kinh điển, đó là lĩnh vực anh từng yêu thích. Hẳn là anh có thể nhen nhóm lại tình yêu ấy và truyền tải nó đến với thế hệ sau. Đó là một việc làm tốt đẹp, đúng không?
“Em cũng nghĩ vậy.” Nancy hồ hởi nói. “Bây giờ thế giới cần nghệ thuật hơn lúc nào hết. Nó có thể dạy cho chúng ta những điều mà con người rõ ràng không thể.” Không phải là Toán học sao? “Không, Toán học chẳng thể dạy chúng ta điều gì cả. Nó chỉ là chính bản thân nó thôi.”
Teddy không nghĩ rằng nghệ thuật (“Nghệ thuật.” Anh nghĩ, nhớ đến mẹ mình) nên được dùng để làm công cụ giáo dục, nó nên là ngọn nguồn của niềm vui và sự an ủi, sự thăng hoa và sự thấu hiểu. (Thực ra, nó chỉ nên là chính “bản thân nó”.) Đối với anh, nó đã từng là tất cả những thứ như trên. Tuy nhiên, Nancy lại có xu hướng nghiêng về tính giáo dục của nó.
Người giáo viên đáng kính là người truyền đạt kiến thức, Nancy nói, có vẻ tâm đắc với ý kiến này. Họ chính là những người sẽ tạo nên tương lai tốt đẹp hơn cho thế giới bằng đóng góp nhỏ bé của họ. Cô đã gia nhập Đảng Lao động và tham dự đều đặn những cuộc họp nghiêm túc, ảm đạm. Kibbo Kift đã tạo cho cô một nền móng rất tốt.
Họ đến quán rượu vì Nancy nói cô muốn đảm bảo rằng Teddy không mắc chứng “lo lắng trước đám cưới” và “hoàn toàn chắc chắn” rằng anh muốn tiến hành đám cưới này. Anh tự hỏi liệu có phải chính cô mới là người không chắc chắn, và cô đang hy vọng anh sẽ giải thoát cho cô vào phút chót không. Họ đang uống một ly cognac ngon bất ngờ. Chủ quán đã lấy chai rượu này từ dưới quầy để dành cho “đôi uyên ương” khi ông ta biết được rằng họ sẽ kết hôn vào ngày mai. Có vẻ như nó không có nguồn
gốc hợp pháp. Thi thoảng Teddy lại tự hỏi phải chăng tất cả mọi người đều kiếm được tiền từ chiến tranh, ngoại trừ những người đã chiến đấu trong lòng của nó?
“Courage, mon ami[45]!” Nancy nâng ly, tỏ lòng tôn kính với quê hương của loại rượu này. Cô cảm thấy họ cần can đảm ư? “Vì tương lai…” Anh đáp, cụng ly với cô. Trong chiến tranh, suốt một thời gian dài anh đã không tin vào tương lai - nó đã có vẻ là một ý niệm kỳ quặc - và bây giờ khi anh đang sống trong cái “sau này” đó, như cách anh nghĩ về nó trong chiến tranh, nó phần nào càng có vẻ giống một ý niệm kỳ quặc hơn. “… Và hạnh phúc.” Anh nói thêm như thể vừa chợt nghĩ ra, bởi vì đó là điều mà người ta nên nói, dẫu chỉ để lấy may.
“Cứ như cái chuyện “Anh ấy đã cưới cô hàng xóm” ấy nhỉ!” Nancy tiếp tục rủ rỉ. “Như thể chúng ta không có lựa chọn nào trong vấn đề này, như thể đó là định mệnh của chúng ta vậy.”
“Nhưng em từng là cô hàng xóm của anh đấy thôi.” Anh nói. “Và anh đang sắp cưới em còn gì.”
“Vâng.” Cô kiên nhẫn nói. “Nhưng chúng ta đang lựa chọn. Đó là điều quan trọng. Chúng ta không chỉ nhắm mắt đưa chân bước vào một thứ gì đó.” Teddy nghĩ có lẽ anh thì có.
Họ đã biết nhau từ thuở ấu thơ, nếu không phải là người yêu của nhau thì chắc chắn cũng là đôi bạn thân thiết nhất. Khi Teddy rời Góc Cáo để đi học ở trường nội trú, Nancy là người duy nhất không phải thành viên trong gia đình được anh nhắc đến trong những lời cầu nguyện hằng đêm. Xin hãy che chở cho phụ mẫu con (anh đã học được rằng ở trường nội trú, chẳng ai gọi cha mẹ mình là “bố” và “mẹ”, ngay cả trong những lời khấn nguyện trong lòng) và Ursula, Pamela, Jimmy, Nancy và Trixie. Sau khi Trixie chết và được thay thế bằng Jock, lời cầu nguyện của anh được sửa thành và Jock và Trixie trên thiên đường. Phải, những chú chó cũng được coi là thành viên trong gia đình. Maurice chỉ được đưa vào danh sách nếu có khi nào anh chợt nghĩ đến anh ta và cảm thấy có lỗi.
“Em không cần phải kết hôn một cách miễn cưỡng.” Anh nói với cô. “Anh sẽ không ràng buộc em. Suy cho cùng, ai chả đính hôn trong chiến tranh chứ.”
“Ồ, anh đúng là đồ ngốc.” Cô nói. “Đương nhiên em muốn lấy anh. Anh có chắc là anh muốn lấy em không? Đó mới là vấn đề. Và anh chỉ được trả lời là “có” hoặc “không” thôi. Không được vòng vo.”
“Có.” Anh nói nhanh và khá to khiến hai vị khách khác của quán rượu - một ông lão và một con chó trông còn già hơn cả ông ta - vốn đang lờ đờ uể oải liền giật mình nhìn sang.
Chiến tranh đã là một vực thẳm lớn và không còn đường nào để trở lại bờ bên kia, trở lại với cuộc sống trước đây của họ, trở lại với con người họ khi ấy. Điều này không chỉ đúng với riêng họ mà còn đúng với cả châu Âu hoang tàn tội nghiệp. Chị gái Ursula của anh nói: “Người ta nghĩ về những ngọn tháp lớn bị lung lay, những Altstadt[46] với những con đường trải sỏi nhỏ hẹp, những tòa nhà thời Trung cổ, những Rathaus[47] và thánh đường, những trường học lớn, tất cả đều đã biến thành đống đổ nát.”
“Do em.” Teddy nói.
“Không, do Hitler.” Ursula nói. Cô luôn thích đổ lỗi cho Adolf thay vì người Đức nói chung. Cô từng đến đất nước ấy hồi trước chiến tranh, cô có bạn bè ở đó và vẫn đang cố gắng tìm kiếm vài người trong số họ. “Người Đức cũng là nạn nhân của Đảng Quốc xã, nhưng đương nhiên họ không thể nói ra điều đó một cách công khai.”
Khi cuộc chiến kết thúc, Ursula từng tham gia một chuyến bay thị sát và đã chứng kiến tận mắt cảnh điêu tàn cùng những đống đổ nát vẫn còn cháy âm ỉ của nước Đức. “Nhưng rồi người ta nghĩ đến những lò hỏa thiêu.” Cô nói. “Người ta nghĩ đến Hannie tội nghiệp. Cuộc tranh cãi kiểu ấy dường như luôn kết thúc ở những trại tập trung, không phải sao? Auschwitz, Treblinka. Tội ác khủng khiếp. Chúng ta đã phải chiến đấu. Nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục tiến bước. Và dù có chiến tranh hay không thì chúng ta cũng không bao giờ có thể quay đầu lại.” (Cô là triết gia trong gia đình.) “Chúng ta chỉ có thể bước vào tương lai, nỗ lực hết sức mình, đại loại thế.” Đây là khi người ta vẫn tin vào tính khả tín của thời gian - quá khứ, hiện tại, tương lai - các thời mà người ta dựa vào để xây dựng nên nền văn minh phương Tây. Trong những năm sau này, Teddy cố gắng tìm hiểu về vật lý lý thuyết theo kiểu nghiệp dư thông qua các bài báo trên tờ Telegraph và một cuộc vật lộn quả cảm với các cuốn sách của Stephen Hawking vào năm 1996, nhưng đành chịu thất bại khi gặp lý
thuyết dây[48]. Từ đó, Teddy cứ thong thả đối mặt với từng ngày, từng giờ một.
Bấy giờ Ursula đã qua đời được mấy chục năm, đã bị loại trừ hoàn toàn khỏi thời gian. Nhưng vào năm 1947, thời gian vẫn là chiều thứ tư của không gian, người ta vẫn dựa vào nó để tạo nên cuộc sống thường ngày. Đối với Ursula, cuộc sống thường ngày của cô là làm việc trong ngành dân chính, và cô sẽ làm công việc đó trong hai mươi năm nữa, sống cuộc sống đường hoàng, bình lặng của một người phụ nữ độc thân có nghề nghiệp ổn định ở London thời hậu chiến. Rạp hát, các buổi hòa nhạc, triển lãm. Teddy đã luôn nghĩ chị gái mình sẽ có một niềm đam mê lớn lao nào đó - một sự nghiệp, một người đàn ông, một đứa bé (hẳn rồi). Anh còn mong được làm cậu đứa con của Ursula hơn là mong được làm cha đứa con của riêng mình (thành thật mà nói, anh có chút căng thẳng khi đối mặt với thiên chức ấy), nhưng chị gái anh đã gần bốn mươi, vì vậy anh cho rằng cô sẽ không bao giờ được làm một người mẹ.
Teddy nghĩ vợ và chị gái mình giống như hai mặt của một đồng xu sáng lóa. Trong khi Nancy là người mơ mộng thì Ursula lại là người thực tế; trong khi Nancy là người lạc quan với trái tim sôi nổi thì tâm hồn Ursula lại nặng trĩu nỗi đau thương của lịch sử. Trong khi Ursula cố gắng chấp nhận hoàn cảnh nếu bị đuổi khỏi vườn Địa Đàng vĩnh viễn thì Nancy, vẫn vui vẻ và ngoan cường, sẽ tìm cho bằng được cánh cổng để trở lại khu vườn ấy.
Teddy tìm kiếm hình tượng có liên quan như “một con chó săn lùng sục một con cáo” (trích lời Bill Morrison).
*
Đang cắm cúi vào chiếc áo đan kiểu Fair Isle, Nancy ngẩng lên và nói: “Anh đọc tiếp đi. Đọc tiếp về những bông hoa giọt tuyết của anh đi.” “Em chắc chứ?” Anh nói vì cảm nhận được sự thiếu hào hứng ở cô. “Vâng.” Cô nói một cách dứt khoát, có lẽ là nghiêm nghị. “Bạn bè tôi ở miền Nam nước Anh vẫn chưa thấy bông giọt tuyết nào nở cả, vậy mà ngược lại, ở miền Bắc khắc nghiệt này, “niềm vui thú đầu tiên trong năm[49]” của Keble đã bắt đầu nhô những cái đầu ẻo lả của
"""