"
Nhật Ký Phi Thường - Từ Triệu Thọ full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nhật Ký Phi Thường - Từ Triệu Thọ full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Table of Contents
Lời mở đầu
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
- T
LỜI MỞ ĐẦU
iểu thuyết tâm lý giới tính đầu tiên của sinh viên đại học Trung Quốc đương đại.
- Cuốn sách cần đọc của thanh niên đương đại.
- Một trong mười chủ đề nóng của các trường đại học Trung Quốc năm 2002.
- Một trong các tác phẩm bán chạy được sinh viên yêu thích nhất năm 2002.
- Một trong các gương mặt sách quen thuộc nhất của người Trung Quốc năm 2002.
- Nếu các tác phẩm như thế này ra đời sớm hơn, cùng với sự đánh giá và hướng dẫn của xã hội, những kẻ bi quan, kẻ tự ti, kẻ tự tử, kẻ thủ dâm sẽ giảm đi rất nhiều, trong đó bao gồm cả bản thân tôi, phương pháp giáo dục mở đã phát huy vai trò quan trọng như thế đối với sự hình thành của nhân cách lành mạnh và sự vun đắp thế giới tinh thần cao đẹp. Xét về ý nghĩa này, có lẽ Nhật ký phi thường có thể giúp những con người tự ti lạc quan, yêu đời hơn rất nhiều (Trích trong bài viết Phân tích tiểu thuyết tâm lí giới tính đầu tiên của sinh viên Trung Quốc đương đại - Nhật ký phi thường trên báo Thanh niên Bắc Kinh ra ngày 24 tháng 6 năm 2002).
- Nhật ký phi thường xuất bản tháng 7 năm 2002. Đây là cuốn sách gây tranh cãi, bị nhiều cơ quan quyền lực của Trung Quốc và nhiều người phê phán.
- Nhật ký phi thường được giới xuất bản gọi là “tiểu thuyết tâm lý giới tính đầu tiên của sinh viên Trung Quốc”, Bộ Giáo dục Trung
Quốc gọi nó là “Nỗi đau của chàng Werther mới”1. Tác giả mượn lời của Tiến sĩ Tâm lý học Dư Vĩ mới du học từ Mỹ về, kêu gọi phải nhanh chóng tiến hành giáo dục giới tính cho sinh viên. Sau đó tôi mới đọc cuốn sách này và cảm thấy rất cảm động về sự can đảm và tinh thần trách nhiệm của tác giả. Vấn đề giáo dục giới tính cho sinh viên đại học đã được kêu gọi từ những năm 1980, hiện nay vấn đề này đã được coi trọng hơn, một số trường đại học đã có môn học giáo dục giới tính cho sinh viên. Trong này có công lao của Nhật ký phi thường. (Lời bình của giáo sư Lưu Đạt Lâm - nhà xã hội học, nhà tình dục học nổi tiếng của Trung Quốc).
1 Nỗi đau của chàng Werther (Die Leiden des jungen Werthers) - Tiểu thuyết của Goethe, 1774 - ND.
T
1
iếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất
ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con.
“Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!” Tiếu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi.
“Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài...”
“Anh có thể không nói câu “Hồi anh còn ở nước ngoài” được không, nghe cứ thế nào ấy!” Tiếu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu “anh ở nước ngoài”. Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi thành1, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp:
1 Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Tiền Trung Thư, nhân vật chính Phương Hồng Tiệm là một du học sinh ở châu Âu về - ND.
“Ở nước ngoài, hiện tượng này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh
về tâm sinh lý; do không thể làm chủ được mình nên đã hành động như vậy.”
“Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là do họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật.”
“Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm - thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục - em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyên để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới.
Tiếu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ đến giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho các bạn gái như Tiếu Nhân nghe. Bọn họ nói hay gặp mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê tởm! Đám con gái rất hiếu kỳ; họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiếu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiếu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích.
Dư Vĩ cho rằng không nên có thái độ đối địch với những người đó; do bị mọi người xung quanh kì thị, khinh bỉ, do tính cách tự ti, và còn do cuộc sống bất hạnh trong gia đình nên họ mới như vậy. Đây không chỉ là lỗi của riêng họ.
Nói thì như vậy, nhưng Tiếu Nhân vẫn cảm thấy rất bất bình. Nếu chuyện này xảy ra với người khác thì đã đi một nhẽ, đằng này lại xảy ra với chính cô, nên cô vẫn cảm thấy ấm ức.
Để thuyết phục Tiếu Nhân, Dư Vĩ lại kể cho cô nghe các câu chuyện biến thái, ngông cuồng mà anh từng gặp; càng nghe Tiếu Nhân càng sợ. Cuối cùng, cô đã hiểu ra vấn đề, nhưng cô không dám tiếp tục ở trong ký túc xá nữa.
Buổi tối, bố mẹ Tiếu Nhân muốn gặp Dư Vĩ. Dư Vĩ mời họ đến Trung tâm Âu Á ăn cơm. Bố Tiếu Nhân là một nhà văn, thuộc mẫu nhà văn nghiêm túc. Thời còn trẻ ông từng viết rất nhiều thơ trữ tình đậm màu sắc chính trị, sau đó ông còn sáng tác tiểu thuyết, chủ yếu viết về thời Cách mạng Văn hóa, về nông thôn lao động, tức là loại tiểu thuyết kết hợp cả đề tài nông thôn và đề tài thành thị. Ông luôn nghĩ mình có mặt trên thế gian này là để gánh vác một trách nhiệm nặng nề; mặc dù bản thân ông không có tác phẩm gì thực sự nổi tiếng, nhưng tinh thần của ông vẫn khiến Dư Vĩ cảm động. Ông là một người ôn hòa, nói nhiều, thích chuyện trò. Mục đích của câu chuyện cũng rất rõ ràng, đó là phát biểu ý kiến về mọi vấn đề của xã hội. Bố Tiếu Nhân rất phấn khởi, ông từng đọc khá nhiều bài viết của Dư Vĩ, kể cả luận văn Tiến sĩ Tâm lý học của anh. Dư Vĩ cũng là một người yêu văn học; thời đại học, anh theo khoa Văn, đã từng được đăng một số tác phẩm. Khi còn học tiến sĩ ở nước ngoài, anh cũng gửi rất nhiều bài cho các tạp chí trong nước và đều được đăng. Chỉ có điều những bài đó viết theo lối phát biểu cảm nghĩ, giá trị tư tưởng lớn hơn giá trị nghệ thuật.
Trong bữa ăn, bằng một giọng hài hước, Tiếu Nhân đã kể cho bố mẹ nghe chuyện xảy ra trong ký túc xá của mình. Mẹ Tiếu Nhân phát hoảng, chỉ sợ sẽ có chuyện xảy ra với con gái. Bà là một công chức nhà nước, chưa nghe thấy những chuyện như vậy bao giờ.
Tiếu Nhân kể xong, ông bố liền lớn tiếng chỉ trích đạo đức xã hội xuống cấp. Ông cho rằng không thể tha thứ hành vi đó, nhưng xét cho cùng là do xã hội gây ra. Ông nói:
“Thời còn lao động ở nông thôn, tôi đã từng nghe vài chuyện tương tự. Cũng do môi trường xã hội dạo ấy không tốt, những kẻ làm việc đó đều là người chẳng ra gì. Nhưng khi lên đại học, tôi không còn nghe thấy những chuyện như vậy nữa. Làm sao chuyện này có thể xảy ra trong học đường? Mọi người cùng vùi đầu vào sách vở, học hành bận rộn, quý trọng thời gian, đâu như sinh viên bây giờ, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện yêu đương, lãng phí tuổi trẻ. Bà xem, thật không thể ngờ lại có chuyện như vậy!”
“Ông thì lúc nào chẳng nói thời đó tốt; môi trường xã hội bây giờ khác xưa rồi, đầu óc ông vẫn cổ hủ quá.” Mẹ Tiếu Nhân trách.
Nghe vậy, bố Tiếu Nhân càng bực mình hơn.
“Ông Chu, hàng xóm nhà mình – cái ông diễn viên kịch nói có thời đoạt giải Hoa Mai gì gì ấy, có một đứa cháu gái mới chín tuổi. Một hôm, ông bực tức kể đã gặp mấy đứa trẻ đứng ở cửa cầu thang đang bắt chước cảnh làm tình trên tivi, ông ấy không dám tin vào mắt mình. Ông ấy bảo rất lo cho đứa cháu gái, chỉ sợ xảy ra chuyện gì. Nhưng phòng tránh thế nào? Mình không thể theo sát nó ngày ngày, cũng không thể cấm nó tiếp xúc với xã hội. Thật đáng ngại quá!”
Dư Vĩ nói: “Ở nước ngoài thì khác; ngay từ nhỏ người ta đã tiến hành giáo dục giới tính cho trẻ. Không chỉ nhà trường dạy các kiến thức đó, mà cả phụ huynh cũng không né tránh; thế nên suy nghĩ của họ rất cởi mở, không thần bí hóa, cũng không kiêng kị nó như chúng ta ở đây. Cần phải hiểu một tâm lý phổ biến của con người là: càng cấm lại càng muốn lao đến.”
Dư Vĩ kể cho bố mẹ Tiếu Nhân nghe những chuyện mình được tận mắt chứng kiến ở nước ngoài, nhưng chắc bố Tiếu Nhân đã mất hứng từ lâu, ông ngắt khéo lời Dư Vĩ:
“Thanh niên bây giờ, động một tí là lại nói nước ngoài, cứ như nước ngoài cái gì cũng tốt, còn ta cái gì cũng xấu.”
Tiếu Nhân cũng lườm Dư Vĩ một cái. Dư Vĩ vừa ấm ức vừa ân hận, vội giải thích: “Dạ không phải thế, ý cháu muốn nói rằng, chuyện này ở nước ngoài là rất bình thường, nhưng ở trong nước thì mãi gần đây mới được mọi người chú ý. Thực tế ở nước mình, chuyện này không hiếm. Tuy nhiên từ trước tới nay, người ta mới chỉ nói về nó một cách bông đùa chứ chưa chú trọng nghiên cứu.”
“Nghiên cứu thì được, để cho thoải mái thì không được. Lấy ví dụ ở nước ngoài nhé, từ nhỏ đã coi những chuyện đó như chuyện thường nhật, thanh thiếu niên mới tí tuổi đầu đã có quan hệ tình dục. Cháu bảo như thế có hay không? Nước ngoài có rất nhiều người đang nghiên cứu về vấn đề này, kết quả nghiên cứu ra sao? Càng mở cửa thì càng nảy sinh nhiều vấn đề.” Rõ ràng bố Tiếu Nhân cũng đang cố gắng kìm chế mình.
“Nhưng mở cửa còn tốt hơn là không mở cửa.” Tiến sĩ Tây học không chịu nhường lời.
“Chưa chắc. Việc gì cũng phải có cái “độ”’ của nó. Đạo trung dung mà tổ tiên chúng ta nói chính là ám chỉ ý đó.”
“Chính vì phải chú trọng cái “độ” đó nên mới cần người nghiên cứu.”
Không khí có phần căng thẳng. Cả hai người phụ nữ đều cảm thấy khó xử. Lần đầu gặp nhau đã tranh cãi, bảo vệ ý kiến của mình, có thể thấy tư tưởng không phải là thứ hay. Nhưng hình như đàn ông lại không nghĩ như thế, cứ đòi phải thắng bằng được đối phương về mặt tư tưởng.
Hai người tranh luận rất lâu, mặc cho mẹ Tiếu Nhân hòa giải thế nào, cả hai vẫn không chịu dừng. Cuối cùng họ còn tranh luận cả phong trào ly hôn ở Anh, phong trào bước ra nhà bếp do phụ nữ Mỹ phát động... Có lẽ phụ nữ không thể hiểu tại sao đàn ông lại thích tranh hơn thua về mặt tư tưởng. Đồ ăn chẳng gắp bao nhiêu, trong khi lời nói ra thì không ít, mặt cũng đã đỏ gay từ lâu rồi. Tiếu Nhân ra sức lườm Dư Vĩ, nhưng anh chẳng hề đếm xỉa. Hai người phụ nữ
sợ hai người đàn ông vì tranh luận mà mâu thuẫn với nhau, thế là họ đòi về nhà. Cuộc hội ngộ đầu tiên đến đây mới kết thúc.
Trên đường quay về trường, cả hai đều im lặng. Đến điểm đỗ ở trường Đại học Phương Bắc, Dư Vĩ nhìn Tiếu Nhân, nói: “Về chỗ anh nhé!”
Tiếu Nhân nín lặng, chần chừ một lát rồi cũng hậm hực xuống xe. Xuống xe có nghĩa là làm hòa.
Tiếu Nhân hỏi Dư Vĩ tại sao lại phải tranh luận ngay từ lần gặp đầu tiên? Sau này thiếu gì cơ hội. Dư Vĩ nói, anh không thể chịu nổi, hơn nữa, nếu anh không thể hiện bản lĩnh và phong độ của mình trước mặt bố vợ tương lai, thì chắc chắn ông cũng không thích anh, bây giờ ít nhất cũng đã hòa một đều. Cuối cùng Tiếu Nhân đã cười. Cô cảm thấy gã mọt sách này cũng rất đáng yêu. Thấy vui, Tiếu Nhân liền ở lại. Tối hôm đó, họ đã không giữ nổi mình và làm chuyện đó với tất cả sự hưng phấn. Dư Vĩ hỏi Tiếu Nhân, tại sao lần đầu tiên hôn cô, anh đòi hỏi thì cô lại từ chối. Tiếu Nhân nói, thực ra cô rất bảo thủ. Dư Vĩ bảo, anh thích các cô gái có phần bảo thủ.
Sáng hôm sau, bạn cùng phòng Tiếu Nhân hỏi tối qua cô đi đâu. Tiếu Nhân bảo về nhà. Bọn họ cười phá lên. Tiếu Nhân hỏi cười gì. Họ bảo: “Cậu thử đoán xem!” Tiếu Nhân đỏ bừng mặt, lúng búng đáp: “Thì về nhà chứ sao.” Có người tủm tỉm bảo: “Tối qua rất muộn mẹ cậu gọi điện đến, hỏi cậu đã về chưa.” Tiếu Nhân giật mình lắng nghe. Họ đã nói Tiếu Nhân chưa về. Tiếu Nhân thầm nghĩ, chết rồi, để mẹ biết rồi. Mẹ sẽ buồn lắm đây. Cô ngồi phịch xuống giường. Bạn bè vẫn cười, thấy Tiếu Nhân thẫn thờ, họ liền kể tiếp: “Sau đó mẹ cậu lại gọi điện, bọn tớ nói Tiếu Nhân xuống dưới tiễn Dư Vĩ, mẹ cậu mới thôi không gọi điện đến nữa.” Tiếu Nhân cười ngay, mặt đỏ đến mức chính cô cũng cảm thấy mất tự nhiên. Đúng vậy, thực tế cô là một cô gái bảo thủ. Trước kia, cô luôn cho rằng mình rất nghiêm khắc trong chuyện này.
Hôm nay, Dư Vĩ và Tiếu Nhân đều rất nhớ nhau, nhưng cùng cảm thấy đã đủ rồi nên không ai gọi điện cho ai.
Đêm về khuya, Dư Vĩ lại lên mạng như thường lệ. Ngay từ thời còn học ở Mỹ, anh đã lập một website riêng, bằng cả tiếng Trung và tiếng Anh, người vào truy cập rất đông. Giáo sư Lưu Tử Kỳ - Hiệu trưởng trường Đại học Phương Bắc cũng quen Dư Vĩ qua mạng, ông đã trao đổi rất kỹ với Dư Vĩ, viết cho Dư Vĩ ba lá thư điện tử, nhiệt tình mời Dư Vĩ về trường Đại học Phương Bắc công tác. Mùa thu năm 2000, với tất cả sự cảm động của mình, Dư Vĩ đã đến ngôi trường đại học nổi tiếng trong nước này. Lưu Tử Kỳ rất coi trọng website của Dư Vĩ, cấp kinh phí để anh phát triển nó. Sau khi về nước, Dư Vĩ dành phần lớn thời gian cho mạng, chỉ hiềm công việc xây dựng website ở đây quá rề rà, tốc độ đường truyền lại chậm, người vào truy cập website của anh rất ít. Hôm nay, cuối cùng cũng có một số sinh viên post bài trên trang web của Dư Vĩ. Anh còn nhận được mấy bức thư điện tử. Trong đó có hai bức rất thú vị. Một bức kể về hoàn cảnh khó xử của một cô gái là con một khi vào đại học. Cô không biết làm gì hết, nhưng lại không cam chịu thua kém mọi người trong bất cứ việc gì. Bố mẹ cô ở ngay trong thành phố, ngày nào cũng gọi điện thoại, hằng tuần đều đến trường thăm và mua cho cô đủ mọi vật dụng cần thiết, kể từ cái bàn chải trở đi. Cô gái chỉ có việc học và tiêu tiền. Điểm thi đầu vào của cô bé cao nhất lớp, nhưng lên đại học rồi cô lại thấy chán học. Một năm sau, cô đứng ở vị trí thứ ba từ dưới lên. Cô thực sự khủng hoảng về tinh thần, vừa kiêu ngạo vừa tự ti, vừa tự cho mình là tài giỏi lại vừa khinh thường bản thân mình, cô mất hết mọi niềm tin vào tương lai. Cô không muốn sống trong ký túc xá, cũng không muốn sống chung với bố mẹ, thế là cô ra ngoài thuê phòng của nhà dân gần trường. Cô gần như không giao lưu hay tiếp xúc với bạn bè, cô dần chán ghét việc cha mẹ chiều chuộng mình, rồi cô quen với đám bạn hư hỏng trong xã hội, cuối cùng còn hút cả thuốc phiện. Hiện giờ cô đã là sinh viên năm thứ ba, đã biết nhận thức hoàn cảnh nguy hiểm của mình. Cô viết thư tâm sự với Dư Vĩ, mong anh giúp đỡ, nhưng không cho thêm một thông tin liên lạc nào khác ngoài nickname: Con Một. Bức thứ hai cũng là của một cô bé con một đang học đại học, vì thất tình
nên viết thư cầu cứu. Cô kể, cậu bạn trai đã bỏ rơi cô sau kỳ nghỉ hè để yêu một cô gái khác. Cô vốn đã không chịu nổi, huống hồ cô gái kia còn xấu hơn cô rất nhiều. Cô bé nói mình đã tự tử một lần nhưng được cứu sống; còn cậu bạn trai vẫn không tỉnh ngộ. Hiện giờ cô thấy sống chẳng có ý nghĩa gì, mong Dư Vĩ giúp đỡ cô, tốt nhất là “lôi” được cậu bạn trai của cô quay trở lại. Cô gái này cũng không cho anh biết tên thật mà chỉ có nickname: Yêu Thật Lòng.
Dư Vĩ dở khóc dở cười, anh lẩm nhẩm: “Con Một, Yêu Thật Lòng...”, rồi viết hai lá thư ngắn cho hai cô, coi như tạm thời hồi âm và an ủi họ.
Sau khi gửi thư đi, anh lại viết một bài rất nghiêm túc với tựa đề: Cảnh giác: Những cảnh ngộ của sinh viên là con một khi vào đại học.
Đột nhiên, chuông điện thoại réo vang. Tiếu Nhân gọi đến, giọng cô hấp tấp: “Dư Vĩ, em sợ quá!”
“Có chuyện gì vậy?”
“Vừa nãy em vào nhà vệ sinh, không cài chốt cửa phòng ký túc, lúc vào cũng không để ý lắm. Rồi em ngủ thiếp đi một lát, tự nhiên thấy có người vào phòng tìm gì đó. Em tưởng là bạn cùng phòng liền hỏi một câu, không có ai trả lời, em lại hỏi câu nữa thì người đó chạy ra luôn. Sợ quá! Anh đến đây mau!”
Dư Vĩ vội bắt xe đến trường Tiếu Nhân.
Bạn cùng phòng Tiếu Nhân đều đã dậy. Các nữ sinh phòng bên cũng đang tập trung trong phòng họ, thấy Dư Vĩ đến mới giải tán. Dư Vĩ hỏi họ bị mất những gì, Tiếu Nhân nói mất đồ trang điểm và quần lót, những cái khác vẫn còn nguyên, thậm chí cả ví tiền đặt trên bàn vẫn nằm đó. Tiếu Nhân không ngớt lời nguyền rủa tên trộm quá ghê tởm, lấy cái gì không lấy, lại đi ăn trộm quần lót. Xem ra tên trộm này đến đây không phải để ăn trộm tiền mà đến để lấy trộm đồ
lót và vật dụng hàng ngày của họ, và mục tiêu của hắn chính là Tiếu Nhân.
Tiếu Nhân sợ quá không dám ngủ tiếp nữa. Dư Vĩ hỏi cô có nhìn rõ tên trộm không. Tiếu Nhân nói gã người tầm thước, nghe thấy cô hét, gã liền chạy vụt ra ngoài. Đến khi họ chạy theo được thì không thấy bóng dáng tên trộm đâu nữa. Họ đứng kêu gào trên hành lang, các bạn phòng khác đều ra xem. Người gác cổng đã ngủ say. Cửa sổ nhà vệ sinh tầng một lại đang mở.
Một cô nghiên cứu sinh - tầm hơn ba mươi tuổi, nghe nói là người miền Nam, đã có một con, hai vợ chồng mỗi người một nơi, cô thi nghiên cứu sinh để sau này có thể đến sống cùng với chồng ở một thành phố, thậm chí cùng công tác trong một trường đại học - kể: mấy ngày nay, cô hay gặp một gã tầm hơn hai mươi tuổi, người thấp bé lảng vảng trong khu ký túc xá, mặt gầy, ánh mắt rất đáng sợ, giống kiểu người ban ngày không hoạt động, chỉ thích mò mẫm lúc đêm hôm. Các nữ sinh nghe kể đều vô cùng sợ hãi.
Năm giờ sáng, ai nấy đều thấm mệt, cảm thấy chuyện này thật lãng nhách, rồi tất cả mặc nguyên quần áo đi ngủ. Tiếu Nhân bảo Dư Vĩ nằm tạm với mình trên chiếc giường đơn, nhưng Dư Vĩ thấy ngại nên quay về. Trưa hôm sau, anh lại đến chỗ Tiếu Nhân. Nữ sinh tập trung rất đông trong phòng, họ đều nguyền rủa tên trộm, có người bảo tội này nghiêm trọng như tội hiếp dâm. Cứ nghĩ đến việc quần lót của Tiếu Nhân bị mất trộm, cơn giận của Dư Vĩ lại bốc lên ngùn ngụt. Họ quyết định báo cáo việc này với phòng bảo vệ của trường.
Phòng bảo vệ cho người đến hỏi qua tình hình, kể cũng buồn cười, nhưng họ nói gần đây có rất nhiều trường đã xảy ra hiện tượng này, thời gian gây án cũng đều là đêm thứ Bảy. Họ nói, từ giờ trở đi họ sẽ bắt tay hành động vào tối thứ Bảy.
Bảo vệ đi rồi, tự nhiên các nữ sinh lại sôi nổi hẳn lên, họ cho rằng đây là một vụ quấy rối tình dục điển hình. Trong số họ, rất nhiều người đã từng chứng kiến chuyện đó. Có ba cô từng gặp một
chuyện khó xử giống nhau: có một cậu sinh viên chặn họ lại giữa đường, nói cô em gái của cậu ta từ quê lên chơi, không có tất đi, cậu ta muốn mượn họ tất. Mấy cô nữ sinh vừa thấy tức vừa buồn cười, cuối cùng đành cho cậu ta “mượn” tất. Tiếu Nhân nói cô cũng đã gặp chuyện này hai lần.
Dư Vĩ liền cười và hỏi:
“Lúc cởi tất ra cho bọn họ, trong lòng các em rất vui, đúng không?”
Họ nhìn nhau cười lớn. Dư Vĩ lại hỏi tiếp: “Không những các em cảm thấy buồn cười, mà còn cảm thấy tự hào, đúng không?” Họ lại nhìn nhau cười. Dư Vĩ hỏi:
“Có phải lúc đó các em còn sợ có hành vi không tốt, đúng không?” Cười.
“Anh đã từng gặp một bệnh nhân – trong giới tâm lý học, bọn anh gọi họ là bệnh nhân chứ không coi là phạm nhân. Trong quá trình điều trị cho cậu ta, anh hỏi tại sao cậu lại làm như vậy, cậu ta nói không thể kìm chế được mình. Cậu ta nói mỗi lần lấy được quần áo lót hay tất của cô gái mà cậu ta thích thì cậu ta vui suốt buổi tối; chỉ cần được ngửi mùi của họ là cảm thấy vô cùng thỏa mãn rồi. Anh hỏi cậu ta có sợ bị bắt vào tù không, cậu ta nói rất sợ. Phần lớn các bệnh nhân đều không đủ can đảm đến chữa trị, họ cũng coi hành vi này là phạm tội, ít nhất là tội suy đồi về đạo đức. Chỉ người nào ý thức được rằng mình đã mắc bệnh, hoặc sau khi được bạn bè và người nhà khuyên nhủ, họ mới đến chữa trị, nhưng con số này thường rất ít. Xã hội có hai cách nhìn nhận về hành vi này: một, cho rằng đây là sự suy đồi về đạo đức hay phạm tội; hai, cho rằng đây là chứng bệnh tâm lý. Nhưng ở nước ta, tâm lý học phát triển rất chậm, những chuyện như thế này cũng không được mọi người coi trọng, đặc biệt là trong quá trình soạn thảo luật, rất ít người cho rằng đây là một chứng bệnh tâm lý. Nói thật lòng là anh rất thông cảm với tên trộm đó. Anh ta không muốn làm tổn thương ai, rất có thể chỉ là do anh ta quá yêu mà thôi.”
Nghe xong, có người đùa:
“Thế thì anh ta trở thành tình địch của anh rồi.”
2
Đ
êm Chủ nhật, Dư Vĩ mất ngủ.
Cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong đặt ở bên cạnh; mấy hôm nay không có thời gian đọc, giờ không ngủ được, bèn lấy ra giải trí. Tên truyện là Nhật ký phi thường. Dư Vĩ thấy có vẻ thú vị nên giở ra đọc, không ngờ lại được bước vào một thế giới tâm lý đa dạng, muôn màu. Mặc dù giọng văn bình thường, nhưng nó cũng giống như thơ và chính bản thân con người tác giả - không màu mè, diêm dúa. Câu chuyện cậu miêu tả cũng rất sinh động, chân thực, khiến cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng nhật ký này mang một phong cách độc đáo. Phần trước cuốn tiểu thuyết có kèm theo một lá thư gửi cho Dư Vĩ.
Thầy Vĩ kính mến!
Chắc thầy không thể nghĩ rằng em sẽ viết thư cho thầy, em là người không giỏi nói năng, đặc biệt sau khi gặp thầy, em càng không biết nên nói gì với thầy, nhưng em biết thầy có thể hiểu em. Sáu năm học ở trường Đại học Phương Bắc, chưa bao giờ em được nghe một bài thuyết trình nào tuyệt vời và độc đáo như bài của thầy. Chắc thầy không biết, sinh viên Đại học Phương Bắc đã đánh giá về thầy thế nào. Họ nói thầy là người thầy tinh thần của họ. Bài thuyết trình của thầy đã mở ra thế giới tâm hồn chưa bao giờ được gợi mở của chúng em. Sự thấu hiểu của thầy về giới trẻ đã khiến chúng em hiểu được một cách đúng đắn tâm lý và đạo đức của mình, đặc biệt là tâm lý giới tính. Trong số đó, em là người hạnh phúc nhất, bởi chỉ có em và thầy được giao lưu riêng với nhau. Nếu không có thầy, các tác phẩm văn học kia của em cũng chỉ là đám giấy vụn; nếu không có thầy, em sẽ cảm thấy vô cùng tuyệt vọng trước cuộc đời, thậm
chí sẽ bước vào con đường lầm lạc. Tóm lại, thầy đã cho em một con người mới.
Em phải quyết tâm lắm mới dám đến thăm thầy. Em không giỏi giao tiếp, nhưng thầy chưa bao giờ ghét bỏ em. Ngày nào em cũng muốn gặp thầy; nếu không gặp được, lòng em vô cùng hụt hẫng, thành thử hằng ngày em đều đến chỗ thầy, song ngại làm phiền thầy nhiều quá nên em chỉ loanh quanh dưới khu nhà thầy ở, như thế lòng em cảm thấy yên tâm hơn. Em chưa bao giờ có cảm giác này.
Thưa thầy, cuốn tiểu thuyết này em bắt đầu viết từ khi vừa bước chân vào cổng trường đại học, em đã chỉnh sửa rất nhiều lần, mấy hôm trước, em lại sửa một lần nữa, nhưng lần nào cũng chỉ thay đổi một vài câu chữ, em không muốn biến đổi diện mạo ban đầu của nó. Em không biết đây có phải là tiểu thuyết hay không, cũng không biết tại sao mình lại viết như vậy. Em chưa bao giờ có ý định xuất bản, và em nghĩ chắc không thể xuất bản được. Em cũng không định để cho ai đọc, đọc xong chắc chắn người ta sẽ cười em. Nhưng em muốn để thầy đọc, thầy là người thầy và người bạn mà lúc này em tin tưởng nhất. Đúng vậy, thầy Vĩ ạ, trong lòng em, thầy là bạn của em. Mong thầy thứ lỗi cho sự mạo muội và vô lễ này!
Và còn một điều, thầy ạ, ngoài thầy ra, em không muốn để cho người khác đọc nó. Đây là phần một, phần hai em vẫn chưa viết xong, đợi viết xong em sẽ mang đến và mong có sự chỉ giáo của thầy.
Em xin gửi tới thầy lời chào trân trọng nhất.
Học sinh của thầy
Lâm Phong
Ngày 20 tháng 10 năm 2000
Lá thư của Lâm Phong khiến Dư Vĩ vừa mừng vừa cảm thấy nặng nề. Chưa bao giờ anh nghĩ mình có ảnh hưởng lớn trong sinh viên
như vậy, và cũng chưa bao giờ anh nghĩ mình lại có một vị trí cao đến thế trong lòng Lâm Phong. Họ đã gặp nhau cả thảy năm lần. Lần thứ nhất là trong buổi thuyết trình đầu tiên khi anh mới từ nước ngoài về trường giảng dạy; hôm đó có một nhóm sinh viên vây quanh anh, cậu học sinh nọ chỉ đứng ở đằng sau nhìn anh, cho đến lúc cuối vẫn không nói câu gì. Lần thứ hai sau lần thứ nhất một tuần; khi buổi thuyết trình kết thúc, sinh viên đến vây quanh anh, cậu sinh viên nọ vẫn đứng sau các bạn và vẫn im lặng. Lần thứ ba cũng giống hệt hai lần đầu, chỉ khác là Dư Vĩ thấy ái ngại nên đã chủ động hỏi han cậu. Cậu đỏ bừng mặt, gương mặt rất gầy. Cậu ta nói nhỏ và có phần hơi lắp.
Cậu ngỏ ý muốn gặp Dư Vĩ để nói chuyện riêng, Dư Vĩ liền cho cậu số điện thoại và địa chỉ. Lần thứ tư là lần Lâm Phong cầm tập thơ tự sáng tác đến tìm Dư Vĩ. Dư Vĩ đã giới thiệu mấy bài cho trang phụ san của báo buổi tối, sau đó được đăng vài bài. Lần thứ năm là lần Lâm Phong mang tiểu thuyết đến. Trước khi ra về, cậu còn dặn Dư Vĩ đừng cho người khác xem truyện này. Dư Vĩ đồng ý.
Cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong mở đầu như sau:
Mùa thu năm 1995, tôi mười tám tuối, bắt đầu đặt chân vào cổng trường Đại học Phương Bắc. Bố tôi ước ao sau này tôi sẽ làm quan to, mẹ tôi lúc sinh thời chỉ mong tôi sống được bằng đồng lương nhà nước, không phải chịu khổ là tốt rồi; còn tôi, tôi ôm mộng trở thành nhà văn. Không ngờ tất cả mọi ước mơ đều lần lượt tan vỡ, tôi trở thành nô lệ của tình dục và bị giày vò đau khổ. Có lúc, tôi muốn tự tử để kết thúc cuộc đời vô nghĩa và đáng căm ghét này, nhưng nghĩ rằng người thân sẽ đau khổ, tôi đành miễn cưỡng mà sống. Nhưng sống thì lại phải suy nghĩ, lại phải chịu đựng làn roi đau đớn của tình dục.
Tối mùng 10 tháng 9, khoa Văn tổ chức đón sinh viên mới và chào mừng ngày nhà giáo tại nhà ăn sinh viên. Khoa yêu cầu tất cả mọi người phải tham gia; tôi người nhỏ, ngồi ngay hàng đầu tiên. Tôi vốn không thích các chương trình ca nhạc và khiêu vũ, nhưng lại không
thể bỏ ra ngoài, đành phải ngồi lại xem. Đến giữa chương trình, có mội sinh viên nữ khóa trên biểu diễn tiết mục múa ballet. Đây là lần đầu tiên tôi được tận mắt thưởng thức tiết mục múa ballet. Chỉ thấy cô ấy mặc chiếc váy trắng nhìn thấu bên trong, đi bằng năm đầu ngón chân và ra chào khán giả. Nụ cười của cô ấy thật tươi tắn. Tất cả mọi người đều nín thở nhìn. Khoảng cách giữa chúng tôi thật gần, tôi như ngửi thấy mùi thơm tỏa ra từ thân thể cô ấy. Tôi nhìn chăm chú vào bắp đùi và chiếc quần lót có phần lồ lộ, rồi cả cặp mông tròn trĩnh kia nữa, hơi thở mỗi lúc một dồn dập; sau sợ người khác nghe thấy, tôi vội vàng nín thở, tôi cũng không dám ngó nghiêng xung quanh, có cảm giác mọi người đều đang quan sát mình vậy. Mặt tôi chắc đỏ lắm. Tôi như sắp ngất đến nơi, cứ thế chẳng biết lâu hay chóng, đến lúc cô ấy cúi chào khán giả, tôi cũng vội vàng vỗ tay theo mọi người, nhân thể nhìn ra xung quanh, tôi mới biết chẳng có ai để ý đến mình cả. Tôi đưa tay vuốt mồ hôi đang chảy ròng ròng trên mặt.
Đêm về, tôi nằm mơ thấy mình ngồi xem cô ấy biểu diễn, sau đó còn ôm và làm tình với cô ấy nữa. Sợ quá, tôi vội vàng tỉnh giấc, nhận ra chỗ nằm ướt sũng. Nhìn sang đám bạn cùng phòng, thấy tất cả đều ngủ rất say, tôi mới yên tâm, nhưng tim vẫn đập thình thịch. Tôi nhớ lại rằng trước kia tôi đã nằm mơ mình làm chuyện đó với những phụ nữ khác, thậm chí mấy lần còn với chính người dì thân thiết nhất của tôi... dì đã bế ẵm tôi từ nhỏ đến lớn. Khi tôi mười sáu tuổi, mẹ tôi qua đời, dì thường đến nấu cơm cho chúng tôi. Đợt tôi thi đại học, hầu như ngày nào dì cũng lên huyện thăm tôi. Cứ nghĩ đến chuyện này, tôi lại cảm thấy mình thật tội lỗi. Đáng sợ nhất là hồi tôi mười lăm tuổi, một lần nằm mơ, rõ ràng tôi đang ôm một người không quen biết, nhưng thoắt một cái lại biến thành mẹ tôi. Choáng váng, tôi choàng tỉnh dậy và tát cho mình một cái. Càng không muốn có những giấc mơ như thế thì nó lại càng xuất hiện nhiều. Lắm lúc, thậm chí tôi còn sợ ngủ, sợ cứ ngủ thiếp đi là lại phạm tội. Sau khi mẹ mất, cũng may tôi không còn mơ thấy giấc mơ đó nữa. Nhưng không hiểu sao dì tôi lại xuất hiện. Tôi từng đọc sách của Freud, được biết đó là phức cảm Oedipus1. Theo như lời ông thì rất nhiều đàn ông từng có những giấc mơ như vậy. Tôi không tin.
1 Phức cảm Oedipus (Oedipus complex) là danh từ mà nhà Phân tâm học người Áo Freud đặt ra để chỉ hiện tượng thường thấy là con trai yêu mẹ hơn cha, còn con gái yêu cha hơn mẹ. Trong thần thoại Hy Lạp có chuyện: chàng Oedipus giết cha lấy mẹ. Khi nghiên cứu bệnh tâm thần, Freud nhận thấy con trai có ham muốn tình dục với mẹ và ghen tị với cha, ngược lại con gái có ham muốn tình dục với cha và ghen tị với mẹ, phức cảm này xuất hiện từ lúc ba tuổi đến năm tuổi ở em gái. Theo Freud, từ thời vượn cổ, ham muốn này bị dồn nén và gây nên rối loạn tinh thần ở những người bị bệnh tâm thần. Năm 1912, Freud cho nguyên nhân của phức cảm này là do vào thời Người Vượn, họ sống thành bầy hoặc thành dòng họ, trong đócon đực, bằng sức mạnh chiếm độc quyền hưởng dụng các con cái và loại trừ những đứa con trai; về sau lũ con này lớn lên khỏe mạnh, đã giết con vượn bố để chiếm đoạt quyền này. Đó là cách giải thích xuất phát từ khoái cảm tình dục cá nhân - ND.
Tôi cho rằng đấy là tội lỗi.
Hôm sau, tôi xấu hổ đến mức không dám đi cùng đám bạn, đành phải cúi đầu lầm lũi bước nhanh một mình, sợ người khác biết được những suy nghĩ trong lòng tôi. Ngày hôm sau nữa, tôi mới quên được cô nữ sinh học khóa trên đó. Bởi tôi biết, tôi và người con gái xinh đẹp đó thuộc về hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Chắc chắn cô ấy sẽ không bao giờ thèm để mắt đến một người như tôi.
Một buổi chiều, tôi tìm một giảng đường không có giờ để chuẩn bị viết cái gì đó. Trong phòng có một nhóm học sinh đang ngồi, bên cạnh mỗi người đều có chỗ để trống, dường như tất cả đều không muốn người khác làm phiền. Tôi nhìn thấy phía cuối còn có một chỗ trống nên đã xuống đó ngồi. Vừa ngồi xuống, quay đầu sang thì thấy cô sinh viên múa ballet hôm nào ngồi cách tôi không xa. Tim tôi đập mạnh. Trời nóng, mọi người đều ăn vận rất mát mẻ. Cô ấy mặc một chiếc váy bò ngắn, để lộ cặp chân dài. Tôi ngồi đó mà không viết được chữ nào, không nén nổi chốc chốc lại liếc nhìn cô ấy và cặp đùi. Hình như biết có người đang quan sát mình nên cô ấy ngoảnh sang, nhìn tôi một cái theo bản năng. Tôi vội cúi ngay đầu xuống,
nhưng tôi đã bị phát hiện, chỉ kịp thấy mắt cô ấy ánh lên vẻ xem thường.
Mấy đêm sau đó, tôi thường mơ về cô, nhưng lần nào cũng vấp phải ánh mắt cao ngạo đó.
Đau khổ nhất là tôi không thể quên được cô ấy, nhất là giấc mơ đêm đầu tiên. Những lúc không có giờ, tôi thường lang thang ở các giảng đường để trống trong khu nhà dành cho nhóm ngành xã hội, hết giảng đường này đến giảng đường khác, mong mỏi tìm thấy cô ấy. Sau giờ học, tôi còn cố tình lảng vảng ở hành lang, chỉ cầu được gặp cô ấy.
Cô tên là Lâm Miên, chỉ khác tên tôi một chữ, nhưng nghe cái tên sao mà danh giá, lãng mạn. Cô học trên tôi một khóa.
Ngày 20 tháng 9. Nắng.
Góc phía tây của trường là rừng dương. Giữa thu, lá dương đã rụng ít nhiều. Hoàng hôn buông xuống, rừng dương xào xạc, lấp lánh dưới nắng chiều. Tôi thích ngắm bức tranh phong cảnh đầy ý thơ đó. Từ nhỏ tôi đã thích mùa thu, thích ngắm cỏ dại đung đưa trong gió và hoa cải bát ngát mênh mông. Dạo này tôi thường đến đây ngồi một mình. Cuốn sách trong tay luôn để ngỏ nhưng không lật được trang nào. Cứ đến đây là tôi lại như người bị ma làm, thoắt vui thoắt buồn. Ngay từ nhỏ tôi đã ít nói, ưa ngồi một mình; bố tôi không yêu tôi lắm. Về sau, thành tích học tập của tôi lúc nào cũng đứng đầu trường, các thầy cô giáo đều rất quý tôi; bố mới thấy tôi cũng có cái đáng để ông tự hào và quan tâm. Nhưng ở trường, tôi vẫn rất ít lời, thích chơi một mình. Nhà tôi nghèo, mẹ đau ốm luôn, bố thì nóng tính, động một cái là đánh hai anh em tôi. Quần áo tôi mặc thường rách rưới nhất trong lớp, hình như bọn con gái đều rất coi thường tôi. Hồi học cấp một, tôi ngồi cùng bàn với con gái thầy hiệu trưởng, cô ta rất ghê gớm, thường chiếm nửa lớn bàn học, mỗi lần tôi tranh với cô ta, cô ta lại chửi tôi là thằng nghèo kiết xác. Tôi không chịu nổi, nhưng cũng chẳng biết làm thế nào. Từ đó trở đi, tôi
không ngồi cùng bàn bọn con gái nữa. Từ cấp một đến cấp ba, tôi rất ít nói chuyện với các cô nàng. Thời cấp hai, trong lớp có một cô bạn rất xinh, giống như người mẫu trong tranh. Hình như con trai trong lớp đều thầm thích cô ấy; tôi cũng không nằm ngoài số đó. Cô ấy chỉ nói chuyện với một vài cậu, số còn lại cô ấy không bao giờ để ý đến. Một lần, tôi và cô ấy cùng làm trực nhật, tôi vô cùng căng thẳng, rất muốn nói mấy câu với cô ấy, nhưng lại không biết nói chuyện gì. Dọn vệ sinh xong, cô ấy nhìn tôi cười cười, coi như tạm biệt. Tôi cũng nhìn cô ấy cười cười, thế là tôi thấy thỏa mãn lắm rồi, tối đến ăn hai bát cơm to. Đến khi vào cấp ba, tôi học trên huyện, con gái phố thị đều xinh xắn, nhưng tiêu chuẩn của họ rất cao. Tôi biết chắc họ chẳng coi tôi ra gì, nhưng tôi cũng coi thường họ. Cô thì học kém, cô thì chơi bời với đám con trai hư hỏng.
Trên thế gian này, chỉ có hai người phụ nữ gần tôi nhất, một là mẹ và hai là dì tôi. Chỉ có họ mới tôn trọng và yêu thương tôi hết lòng. Dì hơn tôi mười tuổi; so với phụ nữ ở quê tôi, dì là người xinh nhất. Dì bế tôi từ nhỏ đến lớn. Dì thích dắt tôi đến nhà họ hàng chơi. Tôi là niềm tự hào của dì, dì cũng là niềm tự hào của tôi. Dì nói nhất định tôi sẽ thi được vào một trường đại học tốt. Còn nhớ mấy năm trước, khi mẹ tôi ốm nặng, dì thường ở nhà chúng tôi. Tết đến, người trong nhà đông, tôi, mẹ và dì thường ngủ cùng nhau. Có lẽ là do khi tôi còn nhỏ dì thường ôm tôi ngủ, nên lúc đã ngủ say, dì thường đặt một cánh tay lên người tôi, có lúc còn nằm sát vào tôi. Tôi đã lớn, cơ thể có những ham muốn vô cùng mạnh mẽ. Tôi không ngủ được, có lúc đột nhiên trong đầu tôi xuất hiện hình ảnh dì trần truồng; tôi sợ quá, vội mở mắt ra để xua đi ý nghĩ xấu xa đó. Nhưng ngủ được một lát thì hình ảnh đó lại hiện về, tôi đành phải mở mắt hoặc cố gắng tránh xa dì, nằm lọt vào một góc để ngủ. Dì đã mệt nhoài nên ngủ rất say, vì thế không bao giờ phát hiện ra điều gì. Sau khi mẹ mất, tôi cũng lên huyện học nên rất ít khi được gặp dì. Một mình bố tôi vừa lo việc trồng cấy, vừa phải nấu cơm cho em trai tôi.
Xa nhà đã được một tháng, càng ngày tôi càng nhớ bố và em. Không biết họ thế nào rồi?
Họ có nhớ tôi không?
Ngày 24 tháng 9. Nắng.
Hôm nay tôi đã hạ quyết tâm lớn và mua tập thơ của nhà thơ Hải Tử2. Câu chuyện của người được mệnh danh là “nhà thơ thiên tài” này đã khiến tôi vô cùng cảm động. Không hiểu sao, tôi cứ có cảm giác rằng Hải Tử cũng đau khổ như tôi. Tôi rất thích thơ của ông nhưng lại không dám đọc thơ ông.
2 Hải Tử là nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc những năm 1980. Tháng 5 năm 1989, Hải Tử đã chọn cái chết để khẳng định thơ, phủ định cuộc sống lạnh lùng, dung tục - ND.
Khi hoàng hôn buông xuống, tôi cầm tập thơ đến rừng dương. Rừng dương đang trong độ nửa rừng xào xạc, nửa rừng chuyển màu; đây là thời điểm mà tôi thích nhất. Nếu thế gian thực sự có Thần thì đây chính là thời điểm thích hợp để họ xuất hiện. Vì lúc này, con người chúng ta thường tuyệt vọng; vì lúc này, chúng ta thường phải đơn độc đối mặt với chính mình; và vì lúc này, chúng ta thường không nén nổi lòng mình và nhìn xa xăm lên bầu trời, lòng trào dâng một niềm khát khao, mong muốn. Tôi lặng lẽ đọc những bài thơ ngắn của nhà thơ tự tử, tưởng chừng ông vẫn chưa chết, ông mượn suy nghĩ trong lòng tôi, mượn đôi mắt tôi để tìm kiếm ngôi sao mai của cuộc sống.
Còn tôi thì thường mượn thơ của ông để đi tìm sự đau khổ. Vườn lúa mạch
người khác nhìn thấy em
thấy em ấm áp, xinh đẹp
Tôi lại đứng giữa trái tim chất vấn sự đau khổ của em bị em thiêu cháy
Tôi đứng trên chiếc gai đau khổ của mặt trời
Người chưa từng sống ở nông thôn, chưa từng bị ánh mặt trời thiêu đốt, chưa từng ôm ảo tưởng và tuyệt vọng ở vườn lúa mạch, thì sẽ không thể thấu hiểu nỗi đau khổ của Hải Tử. Người sống ở thành phố không hiểu. Chỉ có tôi mới hiểu được. Thời mẹ tôi còn sống, chúng tôi thường làm ruộng cùng nhau; lúc mặt trời đổ lửa gay gắt nhất, mẹ tôi thường khuyên các con rằng: “Phải chăm chỉ học hành, nếu không suốt đời sẽ khổ thế này đây.”
Ngày 30 tháng 9. Âm u.
Tám người một phòng, chỉ trong một tháng ngắn ngủi đã chia thành hai phái. Bốn cậu nhà ở thành phố vào một phái, bốn cậu nhà ở nông thôn vào một phái. Hai phái này lại dựa vào tính cách và sở thích mà chia thành các phe nhỏ khác. Nhà Mã Phi ở ngay thành phố này, cậu ta là con một - một công tử nhà giàu chính cống, bố cậu ta là cán bộ cấp cao. Giường cậu ta lúc nào cũng khác người. Lúc đầu thì treo một cây đàn guitar nhập khẩu từ Nhật Bản, nửa tháng sau lại đổi thành guitar điện. Ngoài guitar điện, cậu ta còn mang vào ký túc xá chiếc máy nhắn tin. Tính cậu ta rất thoáng nhưng ít giao lưu với bạn cùng phòng. Bạn bè cậu ta đều là người của xã hội, nghe nói là làm về nghệ thuật, cậu nào cũng tóc dài phất phơ, không ra nam chẳng ra nữ, kiêu căng tự đại. Nghe nói hồi còn học cấp ba, Mã Phi có khá nhiều bạn gái, vào đại học chưa được một tháng, cậu ta lại quen với nhiều cô khác nữa. Mã Phi một mình một phe, tôi gọi là phe Quý tộc mới. Trong phái thành phố có hai người tính cách tương đồng, đều thích đá bóng, đi đâu cũng có nhau, tâm đầu ý hợp, thân thiết vô cùng. Họ lập thành một phe, tôi gọi là Giai cấp trung lưu. Một người thích mặc đồ màu xanh lam, tôi gọi là Gam xanh; còn cậu kia thích mặc complet, áo sơmi trắng, tôi gọi là Gam trắng. Phái thành phố còn một cậu, tính tình kì quặc, gia đình cũng không có gì nổi bật, bố mẹ đều là công nhân. Khi sinh cậu ta, vì gặp khó khăn trong công tác nên bố mẹ phải để cậu ta sống hai năm ở quê là tỉnh Thanh Hải, sau lại cho cậu ta sống với bà ngoại năm năm ở Thượng Hải; đến khi vào cấp một, cậu ta mới
được gặp cha mẹ mình. Cậu ta luôn có ác cảm, thù hằn cha mẹ, tính tình cũng rất quái đản. Cậu ta ít nói, mỗi lần đi học về đều ngồi hoặc nằm trên giường, có lúc chỉ lắng nghe mọi người nói chuyện mà không tham gia câu nào, có lúc ôm đầu suy nghĩ chuyện của mình. Cậu ta một mình một phe, gọi là Giai cấp vô sản. Bốn người thuộc phái nông thôn lại phân thành ba phe nhỏ. Trình Nhất Đào quê ở Hồ Nam, dáng người dong dỏng, gặp ai cũng cười, làm thơ hay, học giỏi, lúc đầu thì làm lớp trưởng, sau lại phụ trách công tác Hội sinh viên của khoa, suốt ngày bận rộn, rất ít khi gặp cậu ta. Cậu ta kể ông bố cậu là trưởng thôn, sau đó làm chủ thầu xây dựng, khá có tiếng trong giới xây dựng ở địa phương. Có thể coi cậu ta là dân mới phất. Cậu ta một mình một phe, tôi gọi là phe Cấp tiến. Tôi cũng tự thành một phe, phe Vùng ngoài. Ngoài ra còn có hai cậu, một cậu nhà ở Tứ Xuyên, một cậu nhà ở Cam Túc, hai người đều không có sở thích gì, không đá bóng, không thích nghệ thuật, cũng chẳng có ước mơ, hoài bão gì, ngoài giờ lên lớp thì ăn không ngồi rồi, thành ra đi khắp nơi để tìm nhận đồng hương, tôi gọi họ là phe Tiêu dao. Cậu quê ở Tứ Xuyên gầy nên gọi là Trưởng lão gầy, cậu quê ở Cam Túc béo nên gọi là Trưởng lão béo. Xét về ăn mặc và mức độ chi tiêu, họ cũng chẳng khá hơn tôi là mấy.
Trong tám người, bốn cậu có hộ khẩu thành phố thì nói tiếng phổ thông, bốn người nhà ở nông thôn như tôi thì nói bốn thứ tiếng địa phương, kể cũng thú vị. Trừ tôi và cậu bạn trầm tính, mấy chàng còn lại thường ngồi tán gẫu với nhau, buổi trưa, buổi tối, sau khi học xong đều râm ran một hồi. Khi Mã Phi và Trình Nhất Đào có mặt ở phòng thì họ sẽ đóng vai trò chủ chốt. Còn tôi, mãi mãi chỉ là một người khách lắng nghe, một người ngoài cuộc.
Ngày 20 tháng 10. Nắng.
Sắc thu dần phai, lá ngô đồng gần như phủ kín mặt đường. Khi chiều xuống, tôi thường mang theo một tập thơ và một quyển sách tiếng Anh đi dạo quanh sân trường. Giây phút này thật tuyệt vời làm sao! Nhưng mắt tôi lúc nào cũng rưng rưng lệ.
Vì lúc này đây, gần như tôi đã vỡ mộng hoàn toàn về đại học. Ở trên lớp, có rất nhiều giảng viên chẳng bao giờ chịu tập trung, toàn nghĩ về những chuyện “ở tít phương trời xa”, rất ít người chịu tĩnh tâm chuyên chú vào công tác nghiên cứu và giảng dạy. Trên giảng đường họ lớn tiếng chửi bới các chính sách của nhà nước và chỉ trích những người có quan điểm ngược với họ, có người thậm chí chửi từ Trung ương đến địa phương rồi chửi về khoa, trong khi đó chẳng nhắc nhỏm mấy đến nội dung bài học. Phần lớn sinh viên của trường đều học tiếng Anh; nếu không đạt cấp bốn thì sẽ không được tốt nghiệp. Vì vậy chẳng còn quan tâm được đến các môn chuyên ngành và sở thích cá nhân. Vào đại học dường như chỉ vì một việc: học ngoại ngữ. May mà hồi học cấp ba, tôi học ngoại ngữ rất tốt, mặc dù nói không ra gì nhưng điểm thi cũng khá. Điểm thi đại học môn tiếng Anh của tôi cao nhất lớp cấp ba.
Hồi chưa bước vào cánh cổng này, trong trí tưởng tượng của tôi, trường đại học là một thiên đường; không có thù hận, không có khoảng cách, chỉ có tình yêu, niềm vui và nụ cười.
Nhưng nó không hề tồn tại. Cái tồn tại chỉ là một góc văn hóa thế tục, chẳng khác gì với thế giới bên ngoài.
Ngày 25 tháng 11. Âm u.
Cách đây không lâu, có một bậc thầy khí công đến trường dán rất nhiều áp phích quảng cáo, thông báo sẽ thuyết trình ở hội trường chúng tôi, còn tuyên bố biết chữa bệnh. Dạo này, tên tuổi của ông xuất hiện thường xuyên trên các góc báo, một số giáo viên cũng nhắc đến ông ta trong giờ học. Tự nhiên ông ấy lại đến chỗ chúng tôi. Bản thân điều này rất có thể đã là một kì tích. Những lời bàn tán của mọi người càng làm tăng thêm vẻ kì bí cho ông ta. Mỗi vé mười tệ. Đắt quá!
Do tính hiếu kỳ, dù có đắt tôi cũng phải đi xem. Hội trường chật cứng người, phần lớn mọi người đến để chữa bệnh và xem thực hư ra sao. Bậc thầy nọ chừng hơn bốn mươi tuổi, ông ta yêu cầu chúng
tôi phải tập trung tinh thần trong lúc ông ta vận khí công; người có bệnh sẽ có các biểu hiện bất thường, tinh thần hoảng loạn. Quả nhiên, lúc ông ta vận khí công, một số người đã xuất hiện các triệu chứng bất thường, thậm chí còn có một người lăn lộn dưới đất.
Cuối cùng, ông ta nói với chúng tôi rằng, một thầy giáo trường tôi đã có được chân truyền của ông ta và cũng là một nhân vật có tầm cỡ đại sư, về sau có thể để thầy giáo đó dạy chúng tôi. Thầy giáo đó đứng lên, cũng tầm bốn mươi tuổi.
Lúc ra cửa, chúng tôi ghi danh sách xin học, tôi nói tôi không có tiền nhưng vẫn muốn học. Thầy giáo đã vui vẻ đồng ý.
Ngày 26 tháng 11. Nắng.
Sáng sớm hôm nay, chúng tôi đi theo thầy giáo đó để luyện khí công. Thầy họ Biên. Thầy Biên nói tôi có năng khiếu. Nghe thầy nói vậy, tôi rất phấn khởi. Buổi tối, chúng tôi vẫn học với thầy.
Ngày 4 tháng 12. Nhiều mây chuyển nắng.
Hơn một tuần sau, thầy Biên hỏi tôi:
“Lúc thầy vận công, em có cảm thấy có một dòng nước ấm không?” “Có ạ.” Hình như đúng là có thật.
“Bây giờ em nhìn vào ngón tay, có phải chúng dài bằng nhau không?”
“Đúng ạ.” Tôi hết sức tò mò.
Thầy Biên bảo với chúng tôi rằng, chúng tôi đã dần dần thoát khỏi thế giới của người bình thường, đang bước vào thế giới siêu phàm thoát tục. Những người đến luyện khí công, có cả giáo viên và học sinh. Trong số các giáo viên đó, có người còn là tiến sĩ và phó giáo sư. Tôi nhận ra họ cũng giống như tôi, thường lặng lẽ, ít nói, rất cô
độc, rất khó hòa đồng với cuộc sống đời thường. Lúc này đây, cuối cùng, những người không được người đời chú ý như chúng tôi đã đến với nhau. Chúng tôi cùng nhau phát biểu suy nghĩ, kể cho nhau nghe cuộc đời đã qua của mình. Thầy Biên nói với chúng tôi, thế giới này có Thần. Bắt đầu từ hôm đó, dường như cuộc sống của chúng tôi đều giống nhau. Chúng tôi đều có những cảnh ngộ đặc biệt trong cuộc sống, đều cảm thấy nghi ngờ thế giới. Giờ đây, các cảnh ngộ đặc biệt đó hội tụ lại, dường như đã chứng minh được rằng thế giới thực sự có Thần.
Thầy Biên giới thiệu với chúng tôi rất nhiều sách liên quan đến Phật học và các tác phẩm kinh điển của văn học Đạo giáo. Hằng ngày chúng tôi đọc các tác phẩm đó, quên rằng mình là người thường. Thầy Biên nói, cuối thế kỷ, nhân loại sẽ gặp đại họa, thầy bảo Thần đã không thể chấp nhận cảnh dục vọng cá nhân của nhân loại bùng phát khắp nơi, tội ác tày trời, Thần muốn cho một trận đại hồng thủy hoặc một trận hỏa hoạn lớn tiêu diệt nhân loại, sau đó sẽ gây dựng nên một thế hệ mới. Thầy nói, chỉ cần chúng tôi tập trung luyện công thì sẽ tránh được đại họa đó và may mắn sống sót.
Ngày 8 tháng 12. Nhiều mây.
Thầy giáo dạy môn Văn nghệ học là người theo đạo Hồi, thầy không thật tán đồng với thế giới quan duy vật, và cũng hoàn toàn phủ định thuyết Tiến hóa. Nhưng thầy chưa bao giờ nói thế giới có Thần hay không, thầy chỉ đứng từ góc độ triết học để chứng minh một điểm: Tinh thần chi phối vật chất, chỉ khi nào điều hòa, thống nhất được tinh thần và vật chất thì nhân loại mới có hạnh phúc.
Thầy giới thiệu với chúng tôi rất nhiều tác phẩm triết học nổi tiếng. Do phải luyện khí công nên tôi lại mượn rất nhiều tác phẩm viết về tôn giáo và triết học để đọc, hòng đứng từ góc độ triết học để chứng minh một điều: Cuộc đời có ý nghĩa.
Ngày 20 tháng 12. Nắng.
Bạn bè cùng phòng đều biết tôi đang luyện khí công, bèn hỏi:
“Có đúng là thiêng như thế không?”
Tôi cho họ xem ngón tay tôi, họ lắc đầu, nói không có gì biến đổi. Từ hôm đó, tôi bắt đầu nghi ngờ những cái mình đã luyện trong gần một tháng.
Ngày 26 tháng 12. Nắng.
Chuẩn bị thi ngoại ngữ, tôi không đi luyện khí công nữa. Nhưng từ đó, lòng tôi càng thêm nghi hoặc. Thế giới này có Thần thật không? Con người có linh hồn thật không?
Ngày 10 tháng 1 năm 1996.
Tôi không đi học với thầy Biên nữa. Thầy cho người đến tìm tôi, tôi cũng không đi. Tôi nghĩ, nếu đúng là cuối thế kỷ có ngày tận số của thế giới thì cứ để cho nó đến nhanh hơn! Tôi không còn tin thầy Biên nữa. Tôi nghĩ, ví như những người sống sót chỉ toàn là đám đàn ông tính khí kỳ quặc như chúng tôi, hoặc giả dụ không kỳ quặc như chúng tôi đi chăng nữa, mà chẳng có các cô gái như Lâm Miên thì sống còn có ý nghĩa gì.
Một học kỳ trôi qua chẳng đâu vào đâu. Cũng phải về thăm nhà thôi. …
Dư Vĩ say sưa đọc, anh quên mất việc đây là tiểu thuyết mà có cảm giác như đang đọc nhật ký của Lâm Phong. Qua những lời kể đó, cuối cùng Dư Vĩ đã hiểu được nguyên nhân tại sao Lâm Phong đến tìm anh, tại sao lại tin tưởng anh như vậy. Phần sau của cuốn nhật ký có phần rườm rà, chủ yếu kể chuyện giữa Lâm Phong và mấy cô bạn gái trong lớp cùng mối tình đơn phương của cậu. Có một cô bạn là hoa khôi của lớp Lâm Phong, gia đình quyền quý, đương nhiên là không tránh khỏi việc kiêu căng. Lâm Phong thích nhìn trộm người ta, lên lớp lúc nào cũng ngồi sau để ngửi hương thơm tỏa ra từ mái tóc của cô ấy, Lâm Phong rất thích ngắm nhìn mái tóc đó, sau đó cô bạn lại cắt tóc ngắn, để lộ chiếc cổ trắng ngần. Trên cổ có
một nốt ruồi nhỏ, Lâm Phong đã làm một bài thơ ngắn về nốt ruồi đó, ca ngợi nó là cây quế trên cung trăng sáng ngời. Cô bạn đó tên là Vi Tiểu Ngọc. Tiểu Ngọc thường quay đầu lại, nhìn Lâm Phong bằng ánh mắt tinh nghịch, đòi xem vở viết của cậu. Lâm Phong không dám cho xem, vì cậu không chép bài mà chỉ làm thơ vẩn vơ. Thấy Lâm Phong không cho xem, cô bạn bèn giật lấy xem, thấy có thơ bèn cất cao giọng đọc. Bất kể thơ gì, nếu đã đọc với giọng trêu chọc đó thì đều rất khó nghe. Lâm Phong cuống cuồng, ứa cả nước mắt. Trông thấy vậy, cô bạn không dám đọc nữa, vội trả lại vở cho cậu. May mà cô bạn chưa nhìn thấy bài thơ viết về cô, nếu không cậu sẽ phải làm thế nào? Từ đó trở đi, mỗi khi Tiểu Ngọc nghịch ngợm, trêu chọc Lâm Phong, cậu không còn rụt rè như trước mà đã có thể mạnh dạn cười và nói chuyện với cô. Quan hệ đơn giản giữa Lâm Phong và Tiểu Ngọc đã khiến cậu bạo dạn hơn trong quan hệ với bạn gái.
Tiểu Ngọc là người ăn mặc thời trang nhất trong đám con gái của lớp, Lâm Phong còn nhớ hình ảnh Tiểu Ngọc lúc đăng ký: phía trên là một chiếc áo sơmi ngắn, dưới là chiếc váy dài màu sắc sặc sỡ, trông rất cao ráo. Một hôm, Tiểu Ngọc mặc bộ đó đi học, đúng hôm ngồi trước mặt Lâm Phong. Thầy dạy môn Văn học cổ là người Hồ Nam, nói tiếng địa phương, cả lớp chẳng mấy ai nghe hiểu, nhiều sinh viên chỉ nghe một lúc là đã ngủ thiếp đi. Tiểu Ngọc cũng gục xuống bàn để ngủ. Vì áo rất ngắn nên khi gục xuống đã để lộ ra vòng eo. Lâm Phong nhìn thấy làn da trắng muốt đó. Những nếp gấp da trên eo Tiểu Ngọc toát lên vẻ dịu dàng và bí hiểm vô cùng. Đó là lần đầu tiên Lâm Phong được gần gũi với vòng eo con gái, ngay cả những chiếc lông tơ trên người cô ấy cũng trông rõ mồn một. Tim Lâm Phong đập thình thịch, người thẳng đờ, không dám nhúc nhích. Cậu cảm giác rất nhiều người đang nhìn mình. Cậu ngẩng đầu nhìn thầy giáo và liếc sang xung quanh thì thấy có rất nhiều nam sinh khác cũng đang dồn ánh mắt về vòng eo của Tiểu Ngọc. Lâm Phong đã miêu tả rất nhiều về bụng, bắp chân, bắp đùi, lưng của Tiểu Ngọc và say sưa ca ngợi chúng. Dưới ngòi bút của Lâm Phong, Tiểu Ngọc đã trở thành tấm gương cho các cô gái thời thượng.
Một cô bạn khác tên là Trần Mai. Trần Mai cũng là người nông thôn, bạn học cấp ba của Lâm Phong. Trần Mai dáng người to cao, má đỏ bồ quân, ăn mặc không hợp thời; Lâm Phong không thích lắm, cậu thấy Trần Mai chẳng khác gì phụ nữ nông thôn, đặc biệt là hai bờ má đỏ. Nhưng vì là bạn học nên không tránh khỏi việc thường xuyên qua lại. Một hôm, Trần Mai đến rủ Lâm Phong cùng lên giảng đường tự học. Họ ngồi gần nhau, người nào đọc sách người nấy, nhưng Trần Mai liên tục hỏi Lâm Phong chuyện nọ, chuyện kia. Hôm sau, Trần Mai lại đến rủ Lâm Phong đi học cùng, Lâm Phong lại đi, Trần Mai vẫn không chịu ngồi yên để học, vẫn hỏi Lâm Phong nhiều chuyện. Lâm Phong không hiểu tại sao Trần Mai lại có nhiều câu hỏi đến vậy. Hôm sau nữa Trần Mai lại đến rủ Lâm Phong, nhưng cậu đã từ chối. Cậu nói mình có việc, phải đi thăm một người bạn. Mùa hè đã đến. Tiểu Ngọc mặc một chiếc váy ngắn màu sắc sặc sỡ, tựa như ngọn lửa hừng hực. Tiểu Ngọc là lớp phó học tập của lớp. Trần Mai thì mặc quần dài, trông rất cục mịch. Thỉnh thoảng Trần Mai vẫn đến rủ Lâm Phong đi học. Một hôm. Lâm Phong hỏi Trần Mai sao không mặc váy, Trần Mai không nói gì. Mấy hôm sau, đột nhiên Trần Mai mặc một chiếc váy dài trắng, tối lại đến rủ Lâm Phong đi học cùng. Lâm Phong nhìn thấy có vẻ không được tự nhiên lắm, chắc là do chưa bao giờ cậu nhìn thấy Trần Mai mặc váy. Cũng vì đây là lần đầu tiên mặc váy nên ngay cả Trần Mai cũng cảm thấy mất tự nhiên. Cánh tay cô rắn rỏi, chắc nịch, khác hẳn với cánh tay thon dài, nõn nà của Tiểu Ngọc. Cánh tay thon dài đó thường khiến Lâm Phong dấy lên một cảm giác yêu thương dịu dàng; cậu nghĩ con gái là phải như vậy, để cho người ta yêu thương, che chở. Tối hôm đó, Trần Mai đòi Lâm Phong đưa đến rừng dương. Hiện giờ rừng dương là chốn hẹn hò lí tưởng nhất của các đôi tình nhân sinh viên. Các đôi ôm hôn nhau thắm thiết. Một hôm, khi đã khá muộn, Lâm Phong nhìn thấy có đôi trai gái ôm nhau rất chặt, cô gái ngồi trên chạc cây, váy xòe lên chân cậu bạn. Nghe đám bạn cùng phòng bảo đó là đang làm tình. Lâm Phong không tin. Đám bạn liền giải thích cho cậu. Mặc dù hiện giờ nhìn không rõ, nhưng cậu đã tin chuyện đó. Từ đó trở đi, Lâm Phong ít đến rừng dương hơn. Cậu có cảm giác chốn này đã bị ô nhiễm. Trần Mai đi bên cạnh Lâm Phong, vừa đi vừa nhìn các đôi trai gái ôm nhau. Bất ngờ Trần Mai liền nắm chặt tay
Lâm Phong. Lâm Phong sợ quá rụt ngay tay lại. Cậu hiểu ra rằng Trần Mai đã yêu cậu. Nhưng cậu lại không có hứng thú, trái lại còn cảm thấy tủi nhục nữa. Cậu nhớ đến Lâm Miên và Tiểu Ngọc. Cậu thầm nghĩ, người cậu yêu phải là những cô gái như thế, nhưng hễ nghĩ vậy, cậu lại cảm thấy vô cùng đau khổ, vì cậu biết rất rõ những cô gái ấy sẽ không bao giờ yêu người như cậu. Cậu là người sống không thực tế, từ nhỏ đã thích mơ mộng hão huyền. Đây là căn nguyên gây ra mọi sự đau khổ của cậu.
Trong tiểu thuyết của Lâm Phong còn xuất hiện mấy cô gái nữa, đều không phải là nhân vật chính, nhưng cậu đã miêu tả sự say mê của mình trước thân thể của các cô gái này. Trong quá trình miêu tả, cậu luôn cảm thấy mình đang phạm tội, đang sám hối. Ở phần này, điều khiến Dư Vĩ ngạc nhiên nhất là mối quan hệ giữa Lâm Phong và một người phụ nữ bán dưa hấu.
Chuyện đó xảy ra vào dịp nghỉ hè năm 1996.
Ngày 20 tháng 7. Nắng.
Dịp nghỉ hè, tôi viết đơn đề nghị, cuối cùng đã được nhà trường tạo điều kiện cho trông coi bãi cỏ. Đây là công việc nhàn nhã, lại được hưởng ba trăm tệ tiền trợ cấp. Tôi viết thư ngay kể cho bố, nói trường không cho về, và tôi còn báo cho ông chuyện tôi được hưởng tiền trợ cấp. Đối với bố con tôi, món tiền này rất quan trọng. Vì em trai tôi vẫn còn đang đi học, bố tôi không thể đi nơi khác làm thuê, làm ruộng lại chẳng kiếm được bao nhiêu, học phí của chúng tôi luôn là một vấn đề lớn. Tôi sợ nhất lúc này quay về phải gặt lúa mạch. Vết sém trên mặt tôi là do hồi nhỏ ra ruộng làm việc bị mặt trời thiêu cháy da, tôi luôn luôn mặc cảm vì điều này. Sau khi vào đại học, mặt tôi đã trắng hơn, nhưng vết sém ở hai bên mai vẫn còn hằn rõ. Tôi luôn cảm thấy đây là nỗi nhục của mình. Nó chứng tỏ xuất thân nghèo khổ và địa vị thấp hèn của tôi, thể hiện nội tâm tối tăm của tôi.
Trình Nhất Đào không về nhà, nhưng không phải vì bận trông bãi cỏ, mà để trực ban thay Bí thư chi đoàn của khoa. Kế hoạch của cậu ta thường lâu dài và thiết thực, cậu ta cũng có kiến thức và can đảm hơn chúng tôi nhiều.
Trông coi bãi cỏ là một công việc hết sức đơn giản; tôi vừa đọc sách vừa đi vòng quanh. Trường còn phát mũ che nắng cho chúng tôi. Hằng ngày tôi phải trực ở bãi cỏ từ tám giờ sáng đến chín giờ tối.
Nghỉ hè, sinh viên đều rời trường hết, nhưng lại có mấy nghìn sinh viên tại chức và một số sinh viên tự phí đến đây học. Họ không dễ quản lí như sinh viên chính quy; sinh viên tại chức còn có vẻ khá hơn, phần lớn đều là những người đã có kinh nghiệm sống, họ không gây chuyện, còn sinh viên tự phí thì khó quản hơn rất nhiều. Đáng lẽ họ cũng không phải đi học trong dịp nghỉ hè, nhưng vì có một môn thi chung của cả nước không đạt, mà sau khi vào học không lâu sẽ phải thi lại nên họ mới đến đây học thêm. Hàng ngày, sau bữa tối, sinh viên tại chức lê dép đi dạo quanh đây, một số còn nằm nghỉ trên bãi cỏ. Nhiệm vụ của tôi là nhắc nhở họ không dẫm lên cỏ. Bảo họ ra được thì các đôi sinh viên tự phí yêu nhau lại đến. Thông thường cứ mấy đôi cùng đến một lúc, tay cầm chai bia, ăn nói bậy bạ như bọn lưu manh và ngang nhiên đi vào bãi cỏ, không coi ai ra gì. Họ thường đến sau chín giờ tối - lúc chúng tôi đã nghỉ. Nói thật là tôi cũng không dám ra đuổi họ. Trong trường, hằng tuần đều xảy ra các vụ đổ máu, phần lớn đều do sinh viên tự phí uống bia rượu say bí tỉ gây ra. Họ trút ra nỗi bất mãn đối với xã hội, trút ra những thù hận với chính bản thân mình. Thực ra họ rất thông minh, chỉ tội không chịu khó học hành nên điểm thi thấp mà thôi. Bên cạnh đó, sự hiểu biết xã hội của họ lại nhiều hơn rất nhiều so với đám sinh viên bình thường như chúng tôi, khả năng thích nghi với môi trường xã hội của họ cũng rất tốt; đây là điều mà chúng tôi thua xa. Mặc dù còn đang đi học nhưng quan hệ xã hội của họ rất phức tạp. Bình thường chúng tôi đều tránh xa họ. Một hôm, vào khoảng một giờ đêm, tôi và một cậu bạn, vì trời nóng quá không ngủ được nên đã xuống sân đi dạo quanh trường, đi một lúc thì đến bãi cỏ. Hình như có hai người đang ở đó. Điều này vốn rất bình thường. Chúng
tôi liền ngồi xuống cạnh bãi cỏ. Đột nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng rên rỉ của một cô gái, hóa ra là tiếng của một trong hai người đó. Chúng tôi phải bước lên phía trước mới nhìn rõ. Trời đất ạ, hai người đang trần như nhộng làm chuyện đó, mồm còn chửi bậy. Chúng tôi sững người, máu nóng bốc lên từng hồi. Cậu bạn đi cùng tôi chửi một câu: “Mẹ kiếp, đồ súc sinh!”, tôi cũng chửi một câu. Chúng tôi đều rất phẫn nộ. Nhưng lại muốn xem thực hư ra sao. Cậu bạn đi cùng tôi tiến lại gần hơn, tôi cũng bước theo, không để ý nên đã phát ra tiếng động. Sợ quá, tôi lùi lại đằng sau, cậu bạn cũng vội lùi theo, giống như chúng tôi đang lén lút rình mò chuyện gì. Tiếng động đó đã làm kinh động đôi trai gái đang làm tình trên bãi cỏ. Không ngờ họ lại cười lớn. Chúng tôi càng kinh ngạc hơn.
Quay về, chúng tôi liền kể cho hai cậu bạn khác cũng ở lại trông coi bãi cỏ nghe; họ không tin, đứng dậy đòi đi xem. Hai chúng tôi vẫn chưa hết tò mò, bèn đưa hai cậu kia cùng đi. Lần này người đông, chúng tôi không sợ. Một cậu nói, nếu hai đứa nó vẫn còn làm thì mình sẽ lấy quần áo bọn nó, xem bọn nó làm thế nào. Khi chúng tôi đến bãi cỏ thì thấy đôi trai gái đó đã ôm nhau ngủ. Một cậu cao giọng quát họ dậy, hai đứa thấy chúng tôi đông người, mới mặc quần áo bỏ đi.
Chuyện này đã thực sự gây chấn động lớn cho chúng tôi. Tối hôm đó, chúng tôi không thể ngủ thêm được nữa. Lúc đầu, chúng tôi đều lớn tiếng chỉ trích hành vi đồi bại đó, nhưng chửi được một lúc, chợt một cậu nói, người ta làm tình thì liên quan gì đến bọn mình? Cả đám liền sững người. Đúng vậy, liên quan gì đến chúng tôi? Ảnh hưởng gì đến chúng tôi? Đè nát bãi cỏ? Làm suy đồi đạo đức xã hội? Một cậu nói, đây khác gì chuyện không ăn được nho chê nho chua, bọn mình là những kẻ không có khả năng, không đủ can đảm nên chẳng có con gái mà làm thế. Chắc là đã trúng tim đen của mọi người! Tiếp đó, một cậu nói, bốn thằng chúng ta, mỗi thằng phải kể một chuyện cười sex.
Kể xong chuyện cười, một cậu bạn nói với giọng nghiêm túc:
“Cậu bảo người và động vật có gì khác nhau? Nào là tình yêu, hôn nhân, tất cả đều không phải vì dục vọng đó sao?”
Có người phản bác lại:
“Tình yêu không nhất thiết phải có tình dục.”
“Thôi đi, cậu vẫn còn quan niệm chỉ yêu về tinh thần như Plato à? Hiện giờ có đôi nào yêu nhau mà không thích làm chuyện đó, ngoài cậu ra, đồ ngốc!”
“Đây chính là điểm khác nhau giữa con người và động vật. Ai giống cậu, chẳng khác gì con vật!”
“Con vật thì sao nào? Người ta thường chửi người khác là con vật, nói “mày là thằng súc sinh”’ gì gì đó, nhưng tớ thấy súc sinh còn khá hơn con người. Con vật còn làm tình theo mùa, còn biết chọn bạn đời tốt. Đâu có giống như con người, tìm đủ mọi trò để thay đổi cách làm, nào là uống thuốc, nào là phải có nghệ thuật, cuối cùng dính vào bệnh lậu, giang mai; thế đâu đã đủ, lại còn gây ra cả bệnh AIDS, ai biết về sau còn xuất hiện bệnh gì đáng sợ nữa!”
Hình như tất cả mọi người đều đồng tình với điều này. Cậu kia lại nói tiếp:
“Đúng đấy, cậu thử nói xem, tại sao lại bảo con vật ác hơn con người chứ? Có con vật nào một lúc sở hữu ba nghìn mĩ nữ trong cung hay không? Thế vẫn chưa đủ, lại còn cắt phăng của quý của sáu nghìn gã đàn ông đi, không cho phép họ được nghĩ đến chuyện đó, mồm thì suốt ngày nói đến “đạo trời”, không phải là ức hiếp người khác?
Không phải là lừa trời dối đất hay sao?”
“Còn nữa! Thế giới động vật có nhà chứa không? Thế giới động vật có kẻ đồng tính luyến ái không? Con người thì lại có, con người
mồm lúc nào cũng bảo ta đây nhân đạo, nói phải bảo toàn thiên tính, thật đúng chỉ được cái mồm nói phét.”
“Nói cho cùng, con người dâm đãng, hoang đường, tàn ác hơn động vật, sớm muộn cũng có ngày bị diệt vong thôi.”
“Ôi dào, chửi thì được cái gì? Cậu thử xem xem, các bộ phận của bọn mình đầy đủ như thế, ham muốn mạnh mẽ như thế, vậy mà lại không có người yêu.”
“Nói đến chuyện này tớ lại nghĩ, cậu bảo tại sao con người cứ đòi phải có tình yêu, cứ đòi tình dục phải được tiến hành trên cơ sở của tình yêu, không phải là bốc phét hay sao? Trước kia Trung Quốc đâu có từ tình yêu, lẽ nào vì thế mà người Trung Quốc không có tình dục? Ông cha ta chỉ cần thấy thích là lấy nhau, là có đời sống vợ chồng, tớ thấy thế lại hay. Đâu như bọn mình, bị từ tình yêu đó cám dỗ, cứ đòi đợi tình yêu đến, nhịn đến nỗi phải mắc cả bệnh. Trường học chết tiệt này lại không cho cậu lấy vợ, hơn nữa có muốn lấy cũng không được. Tớ nghi rằng, những thằng như bọn mình, chắc chắn rồi sẽ có bệnh, không tin cậu cứ chờ xem, chỉ mấy năm nữa thôi, của quý của chúng ta sẽ chẳng xài được nữa, giống như nhân vật nam trong tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng ấy, không xài được nữa thì phải dùng biện pháp đặc biệt mới chữa được. Nếu không chữa được thì sao? Cậu bảo thế có đáng sợ không?”
Nói đến đây, có người bật cười bảo chắc chắn của quý của cậu bạn kia không dùng được nữa. Cậu bạn đó rất tức, đòi lôi ra cho mọi người xem. Đùa vẫn là đùa, nhưng tất cả mọi người đều tự hỏi, liệu khả năng tình dục của chính mình có bị thui chột hay không?
Tối hôm ấy, tất cả chúng tôi đều chìm trong một nỗi bất an xao động.
Từ buổi đó, cứ đến tối là tôi lại cảm thấy trong người rạo rực. Trời càng ngày càng nóng. Nữ sinh viên tự phí ăn mặc rất mát mẻ. Chúng tôi cởi trần ngồi bên vệ đường trong trường nhìn mọi người qua lại, vừa nhìn vừa bình luận. Tôi vừa thấy đã mắt, vừa cảm thấy
mình hư hỏng. Nhưng tôi thà chịu mang tiếng là hư hỏng, còn hơn là về phòng để ngọn lửa ham muốn kia thiêu đốt.
Có một người phụ nữ đã khiến tôi chú ý suốt mấy ngày nay. Chị ấy chừng ba mươi tuổi, bán dưa hấu. Chị mặc một chiếc váy dài khá mỏng, trông rất mạnh khỏe và tươi tắn. Tôi thấy khát quá nên đến chỗ chị mua dưa hấu. Chị ấy nhìn tôi, hỏi tôi có phải là sinh viên không, tôi bảo vâng. Chị hỏi tôi sao không về nhà, tôi bảo trường có việc. Sau đó, chị ấy chọn cho tôi một quả dưa, bảo ngọt lắm.
Tôi trả tiền, chị liền bổ ra cho tôi xem, quả đúng là rất ngon. Tối hôm sau, tôi nhìn thấy chị ấy mặc một chiếc quần soóc bò, để lộ cặp giò tròn trĩnh. Rất đông người đến mua dưa hấu của chị. Tôi cũng đến mua. Vừa nhìn thấy tôi, chị ấy liền nói:
“Cậu thu tiền hộ tôi, dưa cậu có thể ăn thoải mái. Được không?” “Vâng!”
Đằng nào thì tôi cũng không có việc gì làm. Khoảng mười giờ, chị ấy đã bán hết dưa hấu. Chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Chị hỏi tôi tên gì, tôi nói cho chị biết. Tôi không hỏi chị tên gì. Chị bảo rất hâm mộ sinh viên đại học; tôi nói chẳng có gì đáng để hâm mộ cả. Nói chuyện được một lúc thì chị đạp xe ba bánh về nhà. Tôi hỏi chị về nhà muộn thế này có sợ không, chị nói ngày nào cũng về vào tầm này, chẳng có gì sợ cả. Chị cũng chỉ ở gần đây thôi.
Mấy hôm liền tôi đều đến thu tiền hộ chị ấy, chị đòi gửi tôi tiền công, tôi không nhận. Chị ấy nói sinh viên chúng tôi đều là những người có phẩm chất đạo đức tốt. Lúc về, tôi hỏi chị ấy sao không đi cùng chồng. Chị ấy nói chồng chị là một người tàn tật, bị liệt cả người. Nghe vậy, tôi vô cùng thông cảm với chị ấy, nhưng chị cười và nói:
“Có gì đâu, số tôi là như vậy. Tôi không được học hành, kiếp này cũng chỉ vậy thôi. Đâu giống như các cậu, tương lai rộng mở.”
Tôi nói chị có thể đi học tiếp, hiện giờ rất nhiều người ở độ tuổi như chị vào học đại học. Chị ấy cười và không nói gì thêm; chắc là nghĩ tôi quá ngây thơ.
Đêm hôm đó, mấy cậu bạn cùng trông bãi cỏ của trường trêu tôi, bảo người phụ nữ đó thích tôi. Tôi liền mắng bọn họ một trận, nhưng đến nửa đêm, bỗng nhiên tôi lại nhớ đến chị ấy.
Tối nay, chị ấy không đến, dường như tôi chẳng có việc gì làm, và hình như cũng chẳng có chỗ nào để đi, đành phải lang thang khắp nơi. Tự nhiên tôi cảm thấy nhớ chị vô cùng. Đám bạn vẫn đòi kể chuyện sex trước khi đi ngủ; có hai cậu đi ngủ rồi lại bò dậy, bảo là không ngủ được, muốn ra ngoài trường xem phim sex, hỏi tôi có đi không. Tôi lắc đầu. Sau khi họ đi, tôi lại hối hận, sao mình không đi nhỉ? Tôi đã bao giờ xem loại phim đó đâu? Tôi đành nhớ về người phụ nữ đó, nhớ đến cơ thể chị, dần dần mới chìm vào giấc ngủ.
Ngày 21 tháng 7. Nắng.
Tôi suy nghĩ miên man, có phải tôi đã yêu chị ấy không? Suy đi xét lại, cũng không phát hiện ra dấu hiệu chính xác. Tôi chỉ cảm thấy ham muốn mạnh mẽ khi đứng trước cơ thể chị. Tôi không biết có thể có cảm giác này hay không. Từ xa xưa con người luôn có thái độ đối địch với tình dục. Thánh nhân Trung Quốc thì khỏi phải nói, các hình thức tôn giáo lại càng không nên bàn đến, ngay cả những kẻ phàm phu tục tử như chúng tôi cũng không dám khởi xướng tình dục. Dĩ nhiên, Nietzsche3 hay một triết gia nào đó của phương Tây từng nói, đầu óc của mỗi chúng ta đều từng bị con ngựa của người khác chà đạp, chắc là chúng tôi đều đã từng bị chà đạp, hay nói cách khác là tất cả mọi tư tưởng của chúng tôi đều là của người khác, hành vi của chúng tôi cũng bị tư tưởng của người khác chi phối. Điều này còn phải hỏi nữa ư? Hiện giờ, tôi đã hiểu, cái gọi là phàm phu tục tử chính là những người không có tư tưởng riêng của mình.
3 Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 - 1900), nhà triết học nổi tiếng người Đức - ND.
Thế thì tôi còn có gì? Ngoài cơ thể thực này ra, chẳng còn gì khác. Chỉ có cơ thể của chúng tôi lúc này là đáng tin, nhưng cơ thể đáng tin hiện giờ chỉ có một khát khao: tôi đói, tôi ham muốn, tôi đau, tôi khổ.
Ngày 22 tháng 7. Nắng.
Tối qua mọi người lại rủ đi xem phim sex, tôi bèn đi theo. Một điều khiến tôi không ngờ là trong đó có rất đông nữ sinh. Họ đi cùng bạn trai, vừa xem vừa cười khúc khích. Họ cười khiến tôi cảm thấy mất tự nhiên. Băng hơi mờ, nhưng mọi người xem rất chăm chú. Hồi học cấp ba, bạn bè cùng phòng thường kéo tôi đi xem, nhưng tôi không dám đi lần nào, đây là lần đầu tiên tôi xem, thực sự thấy lạ. Lần đầu tiên tôi được biết chuyện của những kẻ đồng tính luyến ái, lần đầu tiên nhìn thấy cảnh làm tình tập thể của mấy đôi trai gái, lần đầu tiên nhìn thấy cảnh loạn dâm đáng sợ giữa người và động vật. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi vội vàng quay về, người mệt rã rời như vừa bị mất nước.
Buổi chiều, mọi người tỉnh giấc, dụi dụi mắt. Có người bật cười, mọi người liền cười theo, cảm thấy cuộc sống thật vô vị. Thế giới quả là hoang đường; sự hoang đường đó đã trở nên hết sức bình thường. Mọi người đều nằm, không ai muốn dậy. Lúc này, có cậu bạn đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có thật. Chuyện kể rằng làng cậu ta có một thanh niên, vì nhà rất nghèo nên đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa lấy vợ. Một hôm, anh này không chịu được nữa bèn chui vào chuồng dê đòi làm chuyện đó với con dê cái, không cẩn thận bị dê cái đá trúng bộ hạ, nằm vật xuống đất rồi chết. Mọi người không ai biết đã xảy ra chuyện gì. Nhưng có một đứa bé nhìn thấy, đã kể lại cho mọi người nghe. Chuyện này lan ra ngoài, vừa nghe xong, mọi người chợt hiểu ngay. Anh chàng này chỉ có một chị gái, nhà rất nghèo. Khi nghe tin em trai chết vì chuyện này, bà chị vừa khóc vừa than vãn:
“Tại sao em lại làm những chuyện không bằng cả loài chó lợn vậy? Nếu em thực sự muốn, chị...”
Không biết câu chuyện cậu bạn kể có phải là thật hay không, nhưng chúng tôi đã không thể cười được nữa. Tôi cứ nghĩ: Nếu chuyện này có thật, làm sao người chị đó lại có thể nói ra những lời như vậy? Nếu chị ta nghĩ chuyện cậu em trai hiếp con dê cái là chuyện không bằng con chó, con lợn, thế còn chị ta – lẽ nào hành vi của người chị ruột đó là hành vi của con người hay sao, cao cấp hơn con vật hay sao? Tại sao lại có suy nghĩ cả gan đến vậy? Lẽ nào sinh mệnh không quan trọng hơn tất cả mọi giá trị sao?
Chúng tôi đều lắc đầu và im lặng.
Lúc ăn cơm tối, tôi lơ đãng lật một quyển tạp chí, một bài viết ngắn trên đó đã khiến tôi thực sự bàng hoàng. Bài viết nói về một địa phương ở Tân Cương, có một loài ngựa thần kỳ sắp tuyệt chủng, người ta không thể tìm được ngựa giống, liền bắt ngựa con giao phối với ngựa mẹ, nhưng ngựa con nhất quyết không chịu. Trên thực tế, người vùng đó đều biết, giống ngựa này chưa bao giờ để ngựa con giao phối với ngựa mẹ, họ đành bịt mắt cả ngựa con và ngựa mẹ lại, cuối cùng cũng đã hoàn thành công việc giao phối.
Mọi người tưởng đã thành công, liền cởi miếng vải bịt mắt ngựa con ra. Ngựa con lúc này mới phát hiện ra ngựa mẹ, chú bèn hí lên mấy tiếng thảm thiết rồi phóng nước đại lao ngay xuống vực tự tử.
Tôi chợt nhớ đến Oedipus: chàng lấy kim châm trên áo chọc mù đôi mắt, máu tuôn chảy, giống như mọi tan nạn cùng nhau ập xuống đời chàng, chàng sai mở cửa hoàng cung để cho tất cả mọi người Thebe đến nhìn mình - hung thủ đã giết chết cha, sau đó yêu cầu đưa mình đi đày.
Tôi nghĩ đến tôi. Một con người tội lỗi.
Mấy trang nhật ký này đã khiến Dư Vĩ nhớ lại hồi anh còn học đại học. Cuối thập kỷ 80, ở phương Bắc, anh cũng chỉ được nghe nói về
băng sex; trên đường không có quán nào chiếu, chỉ chiếu trộm mà thôi. Một cậu bạn của Dư Vĩ nhà ở gần ga, một cậu bạn khác mang mấy cuốn băng video từ miền Nam đến, nói là phim kiếm hiệp. Dư Vĩ liền theo bạn về nhà xem. Cùng đến xem phim kiếm hiệp còn có ba người bạn học cùng lớp cấp ba với cậu ta. Cậu bạn này nói với bố mẹ là muốn xem phim kiếm hiệp, bố mẹ cậu ta liền vào buồng đi nghỉ. Đến mười một giờ, chưa xem hết một phim, cậu bạn đã vội vàng thay sang băng sex. Đó là lần đầu tiên Dư Vĩ được tiếp xúc với những thứ này. Anh thật sự bàng hoàng. Nói chính xác hơn, cuốn băng đầu tiên còn khá thú vị. Nói về chuyện một người phụ nữ bị tình dục giày vò, trong đó có cảnh chị ta thủ dâm khi sống một mình, có cảnh chị ta phải đi tìm trai điếm để giải quyết nhu cầu, có cảnh chị ta làm tình với người mình yêu. Cuốn băng thứ hai đã hoàn toàn khác, trong đó toàn chiếu những cảnh dân đồng tính luyến ái loạn luân và trai gái làm tình tập thể. Cuốn băng thứ ba toàn chiếu những cảnh giao phối ghê tởm giữa người và động vật. Dư Vĩ còn nhớ, sau hôm xem những cuốn băng đó, họ ngủ đến tận trưa hôm sau. Bố mẹ cậu bạn hình như cũng biết họ đang xem băng gì, cười với vẻ hiểu ý. Cảm nhận lớn nhất của họ sau khi xem là ghê tởm tình dục, phản cảm với phụ nữ. Ba tháng sau đó, cứ nhìn thấy con gái là Dư Vĩ lại nhớ ngay đến những hình ảnh khiến anh ghê tởm đó. Cũng chính những cuộn băng đó đã khiến anh có các suy nghĩ khác về hôn nhân và tình dục. Rất nhiều năm đã trôi qua, điều đã khiến anh không thể ngờ là, những hiểu biết của anh về tình dục và nghệ thuật chăn gối đều hoàn toàn nhờ vào những cuộn băng tươi mát đó. Anh còn nhớ hai, ba năm sau đó, băng sex bắt đầu được chiếu trộm ở các quán chiếu phim trên đường, bạn bè anh lén lút đi tìm xem khắp nơi. Anh còn nhớ thầy giáo dạy môn Văn nghệ học - thầy khoảng ba mươi tuổi, chưa có gia đình, trong lúc xem trộm phim sex đã bị bắt và bị giải đến đồn công an, lãnh đạo của khoa phải đứng ra bảo lãnh mới được thả. Những kí ức đó đã khiến anh có nhiều nhận thức mới về tình dục khi còn du học ở Mĩ, chúng cũng trở thành động cơ để anh nghiên cứu tâm lý tình dục của người Trung Quốc.
Điều khiến Dư Vĩ không bao giờ hài lòng là sự hiểu biết của mọi người về tình dục không phải thông qua giáo dục chính thống, công
khai trong nhà trường mà thường bắt nguồn từ các con đường lén lút, giấu giếm. Mỗi khi nhớ đến những chuyện này, một cảm giác bi ai lại trào dâng trong lòng anh.
Chắc là do chịu ảnh hưởng của các nguồn văn hóa đọc hiện nay, Lâm Phong đã miêu tả rất nhiều các cảnh liên quan đến tình dục trong tiểu thuyết của mình, khiến người ta thật khó tin. Như việc cậu ta gần như bê toàn bộ các cảnh làm tình trong các cuộn băng sex đó vào tiểu thuyết, hoặc anh chàng thanh niên đó đã hiếp con dê cái như thế nào, và còn tả tỉ mỉ cơ quan sinh dục của người đàn ông đó. Mặc dù sự miêu tả này có thể thu hút độc giả, nhưng đồng thời cũng làm ảnh hưởng đến giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Còn việc Lâm Phong nhắc nhiều đến chuyện mơ thấy mình làm chuyện đó với mẹ, Dư Vĩ lại thấy không có gì nghiêm trọng. Freud đã nói rất nhiều về vấn đề này; nhiều tiểu thuyết của phương Tây cũng kể về những câu chuyện như thế. Dư Vĩ nhớ đến một câu nói trong tác phẩm Vua Oedipus:
“Trước khi một người chưa vượt qua được giới hạn của sinh mệnh, chưa được giải thoát khỏi những đau khổ, thì đừng nói anh ta là người hạnh phúc.”
Ngày 24 tháng 7. Nắng.
Tối hôm qua, người phụ nữ đó lại đến bán dưa. Đã ba tối chúng tôi không gặp nhau. Vì tối hôm qua đi xem phim sex, không nén nổi tò mò nên tôi đã nhìn trộm những chỗ hở của chị ấy. Tôi thở gấp, cổ họng mỗi lúc một khô. Hôm nay dưa bán hết rất sớm. Chị ấy nói muốn đến xem ký túc xá của sinh viên. Đúng lúc mọi người đều đi xem phim sex hết, phòng chỉ còn lại mình tôi. Chị ấy theo tôi vào phòng. Tôi rót nước cho chị ấy, chị ngồi trên giường, còn tôi ngồi ở phía đối diện. Chị uống một ngụm nước và nói hôm nay nóng quá, tôi cũng nói nóng quá. Chúng tôi nói đủ mọi chuyện linh tinh. Chị ấy kể lý do hồi học cấp ba không chịu tập trung học hành, đó là trong lớp có một cậu thích chị ấy, nhưng chị không thích người ta mà thích một cậu bạn khác, mà cậu bạn này lại không thích chị. Thỉnh thoảng
chị lang thang chơi bời cùng cậu bạn thích mình, uống rượu, đi nhảy, xem phim sex (vừa nghe đến đó tôi liền đỏ bừng mặt, nhưng chị ấy không đỏ chút nào), chẳng coi việc học hành ra gì. Chị ấy hỏi tôi đã có bạn gái chưa, tôi nói chưa. Thực tế là cơ thể tôi đang phải chịu đựng một sự thử thách vô cùng to lớn, không thể tập trung nghe chị ấy nói. Tôi vừa nói chuyện vừa nghĩ xem tôi và chị có thể như thế được không. Chị ấy kêu nóng quá và cởi áo phông ra, chỉ để lại chiếc áo hai dây ngắn, lộ ra bờ vai tròn trĩnh và chiếc bụng thon. Trái tim tôi vô cùng tham lam, cơ thể yếu đuối của tôi gần như không thể chịu đựng được nữa. Mấy ngày hôm nay tôi luôn tưởng tượng ra cảnh này, không ngờ nó xảy ra thật. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy khó xử. Tôi không biết tại sao chị ấy lại như vậy, không biết chị ấy có muốn thế thật không, hay là chị ấy thích tôi? Không, thích và yêu là hai chuyện khác nhau; chắc chắn chị ấy không yêu tôi, tôi biết rất rõ điều này.
Chúng tôi cứ giằng díu như vậy. Tôi thực sự muốn có được chị ấy! Khắp cơ thể tôi đang gào thét, nhưng tự nhiên tôi lại thấy sợ. Sợ cái gì? Sợ chị ấy đùa cợt với tôi? Sợ chính tôi? Tôi không biết.
Hai bầu ngực của chị ấy cũng đang rung rung, chị ấy liên tục lau mồ hôi trên mặt. Chúng tôi nhìn vào mắt nhau, nhưng không ai vượt quá giới hạn này. Tôi không biết làm thế nào. Tôi chỉ mong đám bạn cùng phòng đêm nay không về làm phiền chúng tôi, tôi mong chiếm được chị ấy, nhưng tôi lại mong ai đó xuất hiện, phá vỡ cảnh ngộ bế tắc này. Tôi cảm thấy mình không thể chịu nổi nữa.
Đột nhiên, ký túc xá mất điện. Hóa ra là đã đến giờ đi ngủ.
Chị ấy vẫn không tỏ ra là có ý định về, đây là điều tôi vừa mong muốn lại vừa không. Tôi đốt nến. Trước ánh nến, cơ thể đầy đặn của chị ấy càng trở nên hấp dẫn. Chị ấy nói muốn xem sách của tôi, rồi chị bước đến và ngồi với tôi trên cùng một chiếc giường. Tôi sợ quá. Dường như tôi có thể ngửi thấy mùi trên cơ thể chị, có thể cảm nhận được cơ thể chị ấy cũng đang rừng rực cháy. Chị ấy xem sách
của tôi, còn tôi lại ngắm nhìn cơ thể chị. Tôi cảm thấy mình không thể kìm chế được nữa.
Đúng lúc này thì có tiếng của ông bảo vệ ký túc xá nói ngoài hành lang, hình như ông chửi đám sinh viên đang uống rượu ở ký túc xá bên cạnh, trong đó có cả con gái. Ông già chửi đám sinh viên không biết thế nào là xấu hổ.
Chị ấy đứng dậy, nói: “Chị về đây!”
Tôi cũng đứng dậy, nói:
“Để em tiễn chị.”
Chị ấy không từ chối. Tôi không biết tại sao tối nay tôi lại muốn tiễn chị ấy. Chúng tôi chầm chậm bước đi, dường như cả hai đều cảm thấy nuối tiếc vì vừa nãy không xảy ra chuyện đó. Chị ấy liếc tôi liên tục còn tôi thì không dám nhìn chị. Chị ấy là người từng trải, không những có một cơ thể từng trải, mà còn có một trái tim từng trải, có thể chịu đựng mọi thử thách. Còn tôi, tôi lại yếu đuối làm sao, trái tim của tôi non nớt và nhạy cảm biết bao. Ra đến cổng trường, bất ngờ chị ấy hỏi tôi:
“Bạn cùng phòng em đi đâu hết rồi?”
“Đi xem phim rồi.”
“Xem phim sex hả?”
Mặt tôi đỏ bừng, tôi cười và không trả lời. Chị ấy cũng cười. Chị ấy nói:
“Các cậu cũng xem cái đó à?”
Tôi cười mà không trả lời. Chị ấy vẫn nhìn vào mắt tôi, tôi không dám ngẩng đầu. Chị ấy hỏi tôi thích xem băng nào, tôi nói không biết. Tôi thực sự không biết mình thích xem băng nào, tôi rất ít đi
xem những thứ đó. Trong suy nghĩ của tôi, đó là trò tiêu khiển thấp kém nhất. Tôi nói tôi rất ít đi xem. Chị ấy nói:
“Đừng nên đi xem mấy thứ đó. Xem rồi sẽ học đòi hư hỏng.”
Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng tôi lại trả lời: “Em không có thời gian đi xem.”
Chị ấy nói: “Đúng là sinh viên khác với bọn chị.”
Nói đến đây, chị bảo phải về. Tự nhiên tôi cũng không thấy hứng thú nữa và nói lời tạm biệt. Trên đường quay về ký túc xá, tôi không biết nên tự khen hay nên chửi rủa mình.
Ngày 25 tháng 7. Nắng.
Cũng không hiểu tại sao, mùa hè ở đây, trời rất ít khi âm u, không hề có mưa. Chúng tôi nóng bức, khó chịu vô cùng.
Cả đêm hôm qua tôi không ngủ được. Lúc đầu còn thấy may mắn vì chưa xảy ra chuyện gì, đến nửa đêm thì bắt đầu chửi rủa mình là kẻ nhu nhược. Tại sao không đòi hỏi chị ấy? Không phải chị ấy cũng đang cần tôi đó sao? Nhưng tôi biết sau khi chuyện này xảy ra sẽ nảy sinh những vấn đề gì.
Tôi cảm thấy mình là một con quỷ. Càng ngày tôi càng không thể hiểu nổi mình. Ban ngày, tôi còn có thể yên tĩnh làm việc, nhưng khi đêm đến, tôi lại bị những tiếng gào thét và phẫn nộ trong cơ thể đánh thức. Nhìn tình hình của các cậu bạn khác đi xem phim sex về, thấy họ cũng giống như tôi, phải trải qua những cuộc chiến đáng sợ. Ban ngày, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ vì sự xấu xa của mình trong đêm, nhưng mỗi khi đêm đến, tôi lại quên hết tất cả, cứ thế kiếm tìm, cứ thế chống lại mình mà bất chấp tất cả.
Không biết cuộc chiến lâu dài, lãng phí thời gian này đến bao giờ mới kết thúc.
Ngày 28 tháng 7. Nắng.
Sáng hôm nay, Trình Nhất Đào kể cho chúng tôi nghe một chuyện xảy ra ngay trong trường:
Tối hôm qua, cậu ta thấy thầy hiệu phó và cán bộ phòng Quản lý sinh viên đi kiểm tra ký túc xá của sinh viên tự phí. Đây là lần đầu tiên kiểm tra ký túc xá của sinh viên tự phí. Nhà trường không thông báo tới các lớp và các khoa, chỉ muốn kiểm tra đột xuất một vài nơi để nắm bắt tình hình. Trong nửa số phòng ký túc xá được kiểm tra thì có một nửa số sinh viên chưa về phòng ngủ; xem đồng hồ thì đã đến mười một rưỡi. Khi họ đẩy cửa một phòng, không có người trả lời. Bật đèn lên thì thấy bốn chiếc giường để không, bốn chiếc còn lại đều kéo ri đô. Khi hỏi thì chỉ thấy bên trong có tiếng động, vẫn không một ai trả lời. Một người liền vén ri đô lên định hỏi tại sao các sinh viên khác chưa về, nào ngờ nhìn thấy ngay một đôi trai gái nằm trong đó. Thầy hiệu phó vừa bất ngờ vừa tức giận. Vén tiếp ri đô của ba giường còn lại, giường nào cũng có một đôi. Đến lúc này thì thầy hiệu phó đã thật sự sững sờ và giận sôi người. Thầy ra lệnh cho mấy sinh viên này phải dậy ngay lập tức. Năm phút sau, có ba sinh viên nữ cúi đầu định đi ra thì bị một sinh viên nam chặn lại. Còn lại một cô vẫn không có động tĩnh gì. Một người lại vén ri đô lên một lần nữa, phát hiện thấy cô ta vẫn đang ung dung nằm đó, chỉ che một chút ở chỗ kín. Cô ta nhìn mọi người bằng ánh mắt khiêu khích, giễu cợt: “Thế này thì có sao? Chúng tôi thích thế.”
“Đây là trường học, không phải nhà chứa.” Cuối cùng, thầy Hiệu phó đã không thể chịu được nữa.
“Ông nói cái gì? Ông già, ông quản được không? Trường học là nhà chùa à?”
Thầy hiệu phó già sắp về hưu tức quá không nói được gì thêm. Ai ngờ cô ta bỗng đứng phắt dậy, ném ngay miếng vải che trên người, tất cả mọi người đều sợ khiếp vía, vội vàng quay đầu đi nơi khác. Cô ta ung dung mặc quần áo vào, ra cửa còn buông một câu:
“Mất cả hứng. Ngủ cái thì đã sao?” Chúng tôi hỏi:
“Sau đó thì thế nào?”
“Hôm nay còn đang họp, chưa biết rồi sẽ ra sao.” Buổi tối, Trình Nhất Đào lại thông báo cho chúng tôi thông tin nóng hổi nhất: Nghe nói cô sinh viên đó đã bị nhà trường đuổi học, nhưng cô ta không chịu, chửi nội quy của trường bất hợp lí. Cô ta còn lấy ví dụ trai gái sống thử ở nước ngoài. Thầy hiệu phó nói nước ngoài là nước ngoài còn đây là đất nước Trung Quốc. Cô ta liền hỏi, lẽ nào học sinh nước ngoài không phải là người, hay chúng tôi không phải là người. Thầy hiệu phó hỏi tại sao mấy đôi trai gái lại sống cùng nhau, thế có phải là loạn dâm không. Cô ta vặn lại, ai ngủ với ai, thầy nhìn thấy ai loạn dâm nào. Cô ta còn vặn hỏi tại sao trường không có phòng đơn, nếu có phòng đơn thì bọn họ cũng chẳng đến nỗi phải bốn đôi ngủ cùng một phòng.
Cuối cùng cô sinh viên đó cũng bị đuổi học. Nhưng sự kiện này đã gây chấn động lớn trong trường.
Ngày 29 tháng 7. Nắng.
Trong mười mấy ngày ngắn ngủi đó, không những cơ thể tôi rơi vào trạng thái vô cùng bất an, mà cả tâm hồn tôi cũng chìm trong đau khổ.
Sau khi tắt đèn, chúng tôi thường thảo luận về vấn đề này. Tôi hầu như không phát biểu ý kiến gì, chỉ nghe mọi người nói, còn tôi thì âm thầm đối thoại cùng bọn họ và đối thoại với chính tôi. Ước mơ của một cậu là: được đi đến miền Tây, tốt nhất là ở hành lang Hà Tây, giữa vùng sa mạc rộng lớn – khu giáp ranh giữa Tân Cương và Tây Á, tốt nhất là ở vùng ven sa mạc, cậu ấy muốn xây dựng một sòng bạc lớn nhất, tráng lệ nhất trên thế giới, tại đó, cậu ấy sẽ mở một kĩ viện, tóm lại, cậu ấy muốn đàn ông – những con người trước kia có khí phách anh hùng và tinh thần mạo hiểm tột độ - được sống lại. Sau đó, có người tổng kết rằng, đó không chỉ là sự sống lại của anh hùng và đàn ông, mà còn là sự sống lại của Thần.
Tôi thầm nghĩ: Hình như hình ảnh này đã gặp ở đâu. Thời Đường? Thế giới miền Tây thần bí điên cuồng thu hút con người? Thời Hy Lạp cổ đại? Hay thời La Mã cổ đại?
Ngày 30 tháng 7. Mưa nhỏ.
Cuối cùng cũng đã có mưa.
Dường như đó là trận mưa thu mà chúng tôi đã mong đợi từ lâu. Nó không những tưới mát cho cả thế giới, mà còn len lỏi vào từng ngóc ngách đang khô khát của cơ thể chúng tôi, làm dịu từng tế bào đang bị ham muốn tình dục giày vò.
Một ngọn lửa lớn bùng cháy từ lâu đã bị dập tắt. Tôi bình tĩnh trở lại. Lại quay về với sự bình lặng ngày nào.
Nhớ lại sự đau khổ, giày vò suốt mười mấy đêm qua, tôi vô cùng chán ghét bản thân.
Ngày 31 tháng 7. Mưa lớn.
Mưa suốt cả ngày. Tôi vẫn đang đọc sách của Trang Tử. Càng bình tĩnh hơn.
Ngày 3 tháng 8. Mưa to.
Mấy ngày mưa to, trời đã dần dần dịu mát hơn. Người phụ nữ bán dưa hấu đó cũng không đến nữa.
Tôi vứt sách Trang Tử, đọc lại Schopenhauer4. Dư Vĩ không biết nhân vật “tôi” trong tiểu thuyết có phải là Lâm Phong thật hay không, cũng không biết những điều Lâm Phong viết có phải là thật hay không, nhưng Dư Vĩ đã coi hai người đó là một. Trong phần sau của cuốn nhật ký, Lâm Phong không còn nhắc đến người phụ nữ bán dưa hấu và người phụ nữ khác mà cậu từng miêu tả. Dường như họ chỉ xuất hiện thoáng qua, dường như các câu chuyện đó được sắp
đặt là để nói về một tâm trạng nào đó của cậu. Những câu chuyện đó dường như là chính bản thân cuộc sống nhưng lại khác với tiểu thuyết. Nhân vật trong tiểu thuyết thường xuất hiện nhiều lần, còn trong cuộc sống có thể chỉ xuất hiện một lần. Những chuyện mà Lâm Phong miêu tả đã khiến Dư Vĩ thật sự kinh ngạc, đồng thời nó cũng gợi lại những kí ức xa xăm trong anh. Dư Vĩ còn nhớ hồi học đại học, nghỉ hè anh cũng không về nhà, lúc thì đi làm thêm, lúc lại ở ký túc xá viết lách, có lúc lại đi khắp nơi biểu diễn hoặc tham gia hoạt động cùng các thầy cô giáo. Anh nhớ những mùa hè đó, anh cũng phải chịu đựng bao đau khổ như Lâm Phong, tuy nhiên tối nào anh cũng đi dạy thêm, và phòng chỉ có mình anh, không có người khác làm phiền nên cũng đỡ đau khổ.
4 Nhà triết học người Đức (1788 - 1860) - ND.
Ngày 2 tháng 9. Nắng.
Năm học mới, khoa Văn có hai cô gái khiến mọi người phải chú ý nhất: Lâm Miên và Tiểu Ngọc.
Lâm Miên là một cô gái vô cùng xinh đẹp và rất đặc biệt. Buổi tối của ngày đi học đầu tiên, Trình Nhất Đào nói với chúng tôi: “Đợt nghỉ hè, Lâm Miên đã tham gia cuộc thi người mẫu toàn quốc; trong vòng loại, cô đã chinh phục được tất cả ban giám khảo và đứng đầu bảng.” Đây là một sự kiện lớn. Cô là sinh viên đầu tiên của trường Đại học Phương Bắc tham dự một cuộc thi như vậy. Trong mắt chúng tôi, người mẫu không giống với các cô gái ở quán karaoke, mà phải giống Đổng Tiểu Uyển, Tô Tiểu Tiểu, tất nhiên là cũng không giống hoàn toàn. Họ là do bị bắt ép không có con đường nào khác, còn người mẫu là tự nguyện. Nghe nói tháng Mười, Lâm Miên sẽ tham gia cuộc thi người mẫu toàn quốc, hiện giờ đang trong giai đoạn tập luyện. Vì thế, vừa vào năm học mới, Lâm Miên đã thể hiện bốn đặc điểm nổi bật. Cô bắt đầu đi uốn éo, mông lắc rất chuẩn. Điều này khiến vẻ cao ngạo của cô càng thêm thướt tha. Sinh viên nam rất thích đi theo Lâm Miên, một số còn lộ liễu bình phẩm; Lâm Miên tảng lờ không thèm để ý. Nghe nói có cậu còn làm một bài thơ
“bút tre” miêu tả vẻ thướt tha của Lâm Miên. Chỉ tiếc là Lâm Miên đã cắt hết tóc, nghe nói là vì cuộc thi. Song sau khi cắt trụi tóc, Lâm Miên càng trở nên đáng yêu hơn, đôi mắt to tròn tuyệt đẹp càng có thần hơn, thỉnh thoảng lại ánh lên vẻ tư lự cao quý. Điều khiến người ta không thể chấp nhận được nhất là cô nuôi một con mèo trong ký túc xá. Đó là hai việc mà sau này đã trở thành những sự kiện lớn trong lịch sử của trường. Mặc dù trọc đầu có ảnh hưởng đến vẻ mĩ quan của trường, nhưng dù sao cũng còn có thể chấp nhận; còn nuôi mèo thì thật khó bao che. Có hôm Lâm Miên còn ôm mèo lên lớp, khiến vị giáo sư dạy môn Văn học cổ hết sức tức giận. Nghe nói trong buổi tọa đàm mới tổ chức gần đây, Lâm Miên đã trở thành tâm điểm phê bình của các giáo sư. Và đặc điểm thứ tư của Lâm Miên là thường xuyên bỏ học vì cô phải tham gia luyện tập. Hình như nhà trường không ủng hộ cô tham gia những cuộc thi như thế. Vì vậy, sau đó không lâu đã có người tìm Lâm Miên để nói chuyện, bắt cô phải “xử lý” con mèo và phê bình hành vi bỏ học của cô.
Dường như Lâm Miên không thèm để ý, thỉnh thoảng cô vẫn đi dạo với mèo trong trường lúc hoàng hôn buông xuống, và vẫn bỏ học như thường lệ. Nghe Trình Nhất Đào nói, Bí thư Chi đoàn khoa Văn vừa được giữ lại trường công tác đã mết Lâm Miên từ lâu. Hóa ra chàng Bí thư Đoàn này làm hậu thuẫn cho Lâm Miên nên cô mới chơi trội như vậy. Nhưng một điều bất hạnh là Lâm Miên không thèm để mắt đến anh chàng đó.
So với Lâm Miên, Tiểu Ngọc kém cỏi hơn nhiều, thậm chí là không thể so sánh. Hành vi táo bạo nhất của Tiểu Ngọc là đeo một cái chuông vào chân, mỗi lần cô bước đi, mọi người đều phải chú ý. Kèm theo đó, cô còn sắm cả máy nhắn tin, biểu tượng của giới quý tộc mới. Thỉnh thoảng thầy giáo đang cao hứng giảng bài, bạn bè đang say sưa trong giấc nồng thì máy nhắn tin của Tiểu Ngọc lại đổ chuông. Cuối cùng thầy giáo không chịu được phải quát mắng. Rốt cuộc Tiểu Ngọc không phải là Lâm Miên, không dám làm mất hứng giảng bài của thầy và ảnh hưởng đến giấc ngủ của bạn bè nữa.
Ngày 5 tháng 9. Âm u.
Đợt nghỉ hè, Mã Phi theo bố đi du lịch Singapore, Malaysia, Thái Lan, sau đó còn dạo một vòng quanh các nước châu Âu. Đến Thái Lan, mặc dù bị bố chửi, nhưng cậu ta vẫn chụp được một tấm ảnh với gay. Mã Phi đã để lại vô số dấu chân mình tại Paris, bờ sông Rhine5, Thụy Sĩ. Mã Phi là người đầu tiên trong phòng tôi, cũng là người đầu tiên của lớp tôi xuất ngoại. Vào năm học mới, ngày nào cũng có rất nhiều người đến xem ảnh của Mã Phi. Mọi người đã nhận ra vẻ quý tộc của cậu ta qua những tấm ảnh đó. Nhờ tấm ảnh chụp với gay mà cậu ta trở thành thần tượng của đám nam sinh; nhờ các dấu chân ở châu Âu, cậu ta đã trở thành người tình trong mộng của đám nữ sinh trong trường.
5 Sông nổi tiếng ở Đức - ND.
Một năm trở lại đây, Mã Phi yêu không dưới năm cô. Trình Nhất Đào rất không phục; khi vắng mặt thường chửi Mã Phi là loại công tử bột, là ký sinh trùng, thậm chí còn chửi cậu ta là loài ngựa giống. Còn Mã Phi cũng chẳng coi Trình Nhất Đào ra gì, nói các bài viết của Trình Nhất Đào giống hệt con người cậu ta, giống kiểu chó Nhật. Và Mã Phi cũng biết Trình Nhất Đào chửi mình; không rõ ai trong phòng đã tiết lộ ra.
Một hôm, có mấy cậu tóc dài, sau khi đèn tắt vẫn nằm trên giường Mã Phi tán dóc; Trình Nhất Đào bực mình nói:
“Mấy ông có thể ra ngoài nói chuyện được không?”
Mã Phi tức nổ đom đóm mắt, chửi toáng lên. Xem chừng sắp đánh nhau to; mấy cậu bạn Mã Phi phải đứng ra can, lúc ra cửa có nói một câu:
“Thằng nhóc. Cẩn thận đấy! Xem mày có bước ra khỏi cánh cửa này được không?”
Sáng hôm sau, Trình Nhất Đào dậy tập thể dục và nói với Mã Phi:
“Xin lỗi nhé, tối qua tâm trạng tớ không được tốt.”
Mã Phi cũng thoải mái, không để bụng thù dai. Nhưng bắt đầu từ hôm đó, chúng tôi hơi xem thường Trình Nhất Đào, và cũng có ý thù địch với Mã Phi.
Ngày 10 tháng 9. Nắng.
Phong trào uống rượu trong ký túc bắt đầu nổi lên từ học kì này, dường như sang học kì mới, tất cả mọi người đều thay đổi rất nhiều.
Trước tiên là việc Mã Phi đem chai Rémy Martin mà người ta biếu bố cậu đến phòng, cậu ta gọi đó là rượu hối lộ. Lần đầu tiên chúng tôi được uống rượu Tây, tưởng ngon thế nào, hóa ra cũng chỉ có vậy. Sau đó thì có điểm thi môn tiếng Anh cấp bốn; ngoài tôi ra, tất cả những người khác đều không qua, và thế là mọi người lại uống rượu một lần nữa. Nhà trường quy định không được uống rượu trong ký túc xá, nhưng phòng nào cũng uống trộm. Trên có chính sách, dưới có đối sách mà.
Trên thực tế, chỉ có bốn người có thể uống rượu: Giai cấp trung lưu thích đá bóng và phe Tiêu dao nhà ở nông thôn, Trình Nhất Đào không những tửu lượng kém, mà uống rượu xong còn hay gây chuyện, khóc lóc ầm ĩ. Mã Phi thì cố gắng ra vẻ ta đây là hảo hán, lần nào uống cũng phải nôn thốc nôn tháo mới chịu thôi, còn lại hai chúng tôi – hai kẻ ít nói, chỉ đơn thuần là không uống được rượu, thực tế là có tâm lý sợ rượu.
Chỉ còn lại ba người thích uống rượu: phe Qquý tộc mới và phe Tiêu dao. Phe Quý tộc mới thường uống bia tươi, lần nào cũng uống liền một lúc vài chai, phe Tiêu dao làm sao dám sành điệu như vậy, bọn họ chỉ có thể uống loại rượu trắng rẻ tiền nhất. Phe Quý tộc mới uống rượu là vì bạn bè đông, muốn tìm cảm giác lạ; phe Tiêu dao uống rượu là để giải sầu.
Tối nay mọi người lại uống rượu cùng nhau, chỉ có Trình Nhất Đào là vắng mặt. Kết quả là bị phòng sinh viên bắt được, nghe nói sẽ bị
kiểm điểm. Mọi người đều rất hối hận. Hối hận nhất là tôi và Giai cấp vô sản – chúng tôi hầu như không uống chút nào mà chỉ ngồi xem thôi.
Trình Nhất Đào về bày kế, bảo chúng tôi cấp tốc viết bản kiểm điểm, sáng mai đi tập thể dục sẽ nộp lên trên.
Ngày 11 tháng 9. Nắng.
Sáng sớm, bản kiểm điểm của chúng tôi đã được nộp cho Phó Chủ nhiệm Phòng Công tác sinh viên của khoa.
Buổi trưa, thông tin mà Trình Nhất Đào tìm hiểu được đã khiến chúng tôi sợ khiếp vía, thấy bảo không ai có thể tránh khỏi việc bị kiểm điểm. Trình Nhất Đào nhìn Mã Phi rồi nói:
“Hiện giờ chỉ còn một cách mà thôi.” “Cách gì?”
“Gọi điện cho ông bô cậu!”
“Không được, không được, ông bô tớ chúa ghét những chuyện thế này.”
“Thế thì chẳng còn cách nào khác, cậu phải biết rằng, từ giờ trở đi, các cậu sẽ mang tiếng là bị kiểm điểm, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc tốt nghiệp.” Nghe thấy vậy, tôi và phe vô sản lại càng tức hơn. Mọi người đều khuyên Mã Phi gọi điện thoại.
Trình Nhất Đào nói tiếp:
“Hay là nói với thư ký của ông bô cậu một tiếng.” “Xì, đều như nhau cả.”
Cuối cùng, bọn họ đã nghĩ ra một cách, để Trình Nhất Đào giả danh là thư ký của bố Mã Phi gọi điện cho trường, đằng nào cũng chẳng có ai biết nội tình bên trong. Trình Nhất Đào nhắc đi nhắc lại, bảo
chúng tôi phải tuyệt đối giữ bí mật mới chịu gọi điện thoại. Chúng tôi đều nhất trí.
Ai ngờ chuyện này đã được Trình Nhất Đào giải quyết êm đẹp.
Buổi chiều, lãnh đạo phòng sinh viên còn đến ký túc xá “phê bình” chúng tôi rồi gọi Mã Phi ra an ủi một hồi.
Sau chuyện này, quan hệ giữa Mã Phi và Trình Nhất Đào trở nên thân thiết hơn.
Ngày 30 tháng 9. Nắng.
Mã Phi thôi uống rượu trong phòng, còn phe Tiêu dao lại thường xuyên uống say bét nhè ở ký túc. Thực ra hai người đó chẳng có tiền uống rượu, nhưng bọn họ có thể nhịn ăn chứ không thể nhịn rượu, đã vậy lại còn nghiện cả thuốc nữa.
Mỗi dịp nhà một trong hai người đó gửi tiền lên, việc đầu tiên của họ là phải đi uống một bữa rượu, hút một bữa thuốc thật thỏa thích. Mọi người trong phòng đều rất bất bình với chuyện này, bảo không có tiền uống thì thôi, nhưng bọn họ lại có lí lẽ riêng của mình:
“Thì có sao nào! Hôm nay có rượu, hôm nay say! Ai biết ngày mai ra khỏi nhà có bị ô tô đâm chết hay không. Hiện giờ tai nạn giao thông nhiều vô kể, các cậu không biết à? Còn về ông già ở nhà á, mỗi người, mỗi thời đều có cuộc sống riêng của mình, làm sao giống nhau được.”
Một hôm, Trưởng lão gầy của phe Tiêu dao sáng tác một bài thơ đưa cho Trình Nhất Đào xem. Trình Nhất Đào hiện đã là trưởng ban sáng tác của khoa Văn, từng đăng rất nhiều bài trên báo. Trình Nhất Đào liền đọc cho chúng tôi nghe:
Khi bình rượu không đổ xuống
Tôi cũng quỳ xuống mặt đất
Ôi, tình yêu, ước mơ, chua xót đã nôn ra khắp đất
Nhìn chúng sao mà bẩn thỉu
Không thể chịu nổi
Đáng lẽ chúng tươi đẹp làm sao
Lẽ nào do tôi đã nhìn lầm cuộc sống
Tôi quỳ dưới đất, nước mắt giàn giụa
Ôi, anh em, hãy để tôi nôn
Để tôi nôn hết mọi suy nghĩ còn lại.
Mọi người đều khen bài thơ hay, hỏi tên là gì, nói Vô đề. Vô đề, không tựa đề, không chủ đề, mọi người đều khen cái tên này hay.
Hôm sau, Trưởng lão béo của phe Tiêu dao viết bài thơ này bằng bút lông rồi dán lên đầu giường. Mọi người đến đọc thử, có người lắc đầu, có người khen hay. Mã Phi còn đưa vài cậu bạn hát nhạc Rock đến, bảo phải phổ nhạc . Không ai có thể ngờ, bài thơ hay lại được sáng tác bởi phe Tiêu dao thích uống rượu; từ đó trở đi, mọi người đều nhìn bọn họ bằng con mắt khác. Tôi thấy đây đúng là một bài thơ hay, nhưng tôi không thích kiểu văn phong đó lắm.
Tôi thích văn phong của những năm 1980. Một khí chất anh hùng, một tình cảm u buồn, một phong cách uể oải, và còn có cả một chút gì đó rất bi ai. Đó là vẻ chán chường khi phồn hoa đã hết, là sự bi thương giấu kín trong lòng chờ ngày bùng phát, là những tình cảm kín đáo ẩn sau những chuyện giang sơn mĩ nhân.
Phong cách của tôi không giống bọn họ.
Ngày 5 tháng 10. Nắng.
Nghe nói cuộc thi người mẫu mà mọi người chờ đợi đã sắp khai mạc, sinh viên khoa Văn đều hỏi: Lâm Miên đi chưa?
Lâm Miên đi rồi, nhưng không dự thi.
Lâm Miên vừa xuống ga Tây Bắc Kinh thì thấy bố mình đang đợi ở đó. Hóa ra một vị lãnh đạo “tốt bụng” của khoa đã gọi điện thoại cho bố Lâm Miên.
Sinh viên trường Đại học Phương Bắc đều cảm thấy tiếc nuối, và hình như cũng cảm thấy thanh thản hơn.
Điều khiến nhà trường và tất cả sinh viên bất ngờ là: có một đài truyền hình đã phát sóng một phần chương trình của cuộc thi đó; mọi người phát hiện ra rằng, tham gia dự thi chỉ còn có hai sinh viên.
Ngày 20 tháng 10. Âm u.
Lâm Miên sau khi về “ẩn cư” một thời gian, cuối cùng đã lộ diện. Thực tế là cô ấy vẫn ở trong trường, nhưng thỉnh thoảng mới đi học nên rất ít người gặp. Sự lộ diện của Lâm Miên chứng tỏ cô đã lấy lại phong độ của ngày trước, lại có thể ngẩng cao đầu, tự tin xuất hiện trước mọi người.
Tóc cô ấy đã mọc khá dài, đúng mốt đầu đinh. Vẫn phong cách khác người.
Lâm Miên bắt đầu trang điểm. Trước kia Lâm Miên mang một vẻ đẹp vô cùng trong sáng, cô rất ít trang điểm; kể từ khi tham gia cuộc thi người mẫu, hình như cô muốn mình càng trở nên xinh đẹp hơn.
Cuối cùng cô đã “xử lí” con mèo. Nhưng thời kỳ yêu đương của cô cũng bắt đầu.
Mọi người đều nhớ, trước đó Lâm Miên cặp với anh chàng mặt tròn, da trắng, là sinh viên học nhạc ở khoa Nghệ thuật, hôm nay cô lại đổi sang một kẻ lạ mặt.
Ngày 28 tháng 10. Nắng.
Một tuần sau, vị trí bên cạnh Lâm Miên lại đổi sang nhân vật khác. Lần này, không ngờ lại là Mã Phi.
Còn nhớ có lần Mã Phi từng ngồi trong phòng và chửi Lâm Miên, bảo cô chẳng tốt đẹp gì, chẳng ra dáng con gái. Nhưng rồi một hôm, Lâm Miên đã nói chuyện với Mã Phi trên đường - lần đầu tiên - lúc đó, Mã Phi đang đi với bạn gái. Lâm Miên quen bạn gái Mã Phi, đầu tiên cô chào cô bạn, rồi cô quay sang hỏi Mã Phi:
“Thấy bảo là cậu có rất nhiều ảnh đẹp, bao giờ cho tớ xem được không?”
Mã Phi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có quan hệ gì với Lâm Miên, thực ra trong lòng cậu vừa thích các cô gái xinh đẹp như Lâm Miên, lại vừa căm ghét những cô gái như cô - không ra dáng con gái chút nào. Bố Mã Phi từng có nhân tình, gây bao sóng gió cho gia đình. Chuyện đó đã khiến Mã Phi có các yêu cầu rất khắt khe đối với con gái.
Lúc đó Mã Phi không nói câu nào mà chỉ cười cười. Lâm Miên cũng chỉ cười cười rồi đi. Nhưng bắt đầu từ đó, hồn phách Mã Phi không còn ở bên cậu ta nữa.
Thứ Bảy, bạn gái Mã Phi về nhà họ hàng chơi. Mã Phi chẳng có việc gì làm, đành ngồi trên lan can cạnh sân vận động ngắm cảnh. Đúng lúc Lâm Miên đi dạo về, cô cười với Mã Phi. Mã Phi đỏ bừng mặt, sau đó họ cùng nhau đi xem ảnh. Vì ký túc xá quy định sinh viên nam không được vào phòng sinh viên nữ, sinh viên nữ cũng không được đến phòng sinh viên nam nên họ đi đến một quán trà.
Chủ nhật, Lâm Miên hẹn Mã Phi đi chèo thuyền. Lâm Miên mặc rất đẹp, Mã Phi cũng ăn mặc chỉn chu, nhìn thì tưởng quần áo thể thao, nhưng thực ra còn đắt hơn cả complet. Lâm Miên chơi rất vui, còn Mã Phi có vẻ căng thẳng.
Thứ Hai, Lâm Miên vẫn đi dạo cùng bạn trai. Mã Phi thì lặng lẽ đứng nhìn từ xa.
Thứ Ba, cuối cùng Mã Phi không chịu được nữa, hẹn gặp Lâm Miên ở quán bar. Mã Phi nói với Lâm Miên rằng cậu đã yêu nàng. Lâm Miên chỉ cười mà không nói gì.
Thứ Tư, Mã Phi lại hẹn Lâm Miên. Lâm Miên trang điểm xinh đẹp đi đến điểm hẹn. Tối hôm đó, họ ngồi trong quán bar. Chúng tôi cũng không ngủ. Chúng tôi đoán già đoán non xem họ có thể đi đâu và làm gì. Đêm đó, tôi đã phát hiện ra rằng, thực lòng mà nói, tất cả chúng tôi đều yêu Lâm Miên, đều không muốn người bên cạnh mình trở thành người yêu của cô ấy.
Thứ Năm, bạn gái Mã Phi đến tìm Trình Nhất Đào, cô ấy mong được mọi người trong phòng tôi ủng hộ và giành lại Mã Phi cho cô ấy. Bạn gái Mã Phi nói với Trình Nhất Đào, cùng lắm là một tuần, Mã Phi sẽ bị Lâm Miên đá. Đêm hôm đó, Mã Phi về phòng rất muộn, mặt rạng ngời hạnh phúc; việc làm đầu tiên của cậu ta sau khi về phòng là một công việc vô cùng hiếm gặp trong cuộc đời cậu ta: viết nhật ký. Mã Phi viết về tình yêu của mình, miêu tả sắc đẹp của Lâm Miên. Mã Phi không đếm xỉa gì đến vẻ đau khổ của cô bạn gái.
Đây là một kết cục mà chúng tôi không hề nghĩ tới. Nhưng giờ nghĩ lại, thấy cũng hợp tình hợp lí thôi.
Ngày 6 tháng 11. Nắng.
Một tuần trôi qua. Tình yêu của họ vẫn mặn nồng, không hề tan vỡ. Lời tiên đoán của cô bạn gái Mã Phi đã không thành sự thật.
Hằng ngày Mã Phi đều sánh vai bên cạnh Lâm Miên, hoặc đi uống bia - Mã Phi nói, tửu lượng của Lâm Miên khá đến phát sợ; hoặc đi tự học, học ngoại ngữ. Môn ngoại ngữ của Lâm Miên vẫn chưa qua được cấp bốn, cô rất đau đầu vì chuyện này. Mã Phi học ngoại ngữ khá tốt, lần này cậu ta đã có thể phát huy sở trường rồi.
Tuy nhiên, không bao giờ chúng tôi thấy Lâm Miên đến tìm Mã Phi, và chúng tôi chưa bao giờ thấy mừng cho Mã Phi. Trưởng lão gầy của phe Tiêu dao nói: “Mẹ kiếp, giống như thế giới này đều do nhà nó tạo ra, nó thích gì là được nấy vậy!” Trình Nhất Đào cũng nói: “Ôi dào, ai bảo nhà bọn mình không giàu có, bố không làm quan to!” Trình Nhất Đào còn bảo Bí thư Chi đoàn khoa Văn đang rất hận Mã Phi nhưng không dám làm gì cậu ta. Trong phòng đã nảy sinh một mối thù. Trái tim tôi cũng bắt đầu bốc lửa.
Thực ra Trình Nhất Đào đã có người yêu, Giai cấp trung lưu cũng có ý trung nhân của mình. Tội gì họ phải như vậy!
Ngày 14 tháng 11. Nắng.
Tối nay, cuối cùng Mã Phi đã chấm dứt thiên tình sử và sự nghiệp sáng tác ngắn ngủi của mình.
Cậu ta đã bị Lâm Miên bỏ rơi không thương tiếc. Đúng hai tuần. Mã Phi gầy rộc và yếu đuối hơn bao giờ hết. Buổi trưa về phòng, cậu ta lên giường nằm mà không nói câu nào. Một cậu bạn tóc dài của Mã Phi hỏi chuyện, chúng tôi mới được biết lý do. Hóa ra, Lâm Miên chê Mã Phi không có chính kiến, không chín chắn.
Mã Phi ra ngoài cùng cậu bạn. Còn chúng tôi thì vỗ tay sung sướng, cảm thấy đã lâu lắm rồi mới được thoải mái như vậy. Mặc dù ai cũng cố gắng giấu đi niềm vui trong lòng, nhưng vẻ hoan hỉ vẫn hiện rõ trên từng gương mặt. Buổi tối, cuối cùng bảy đứa chúng tôi đã ngồi ăn cơm với nhau, chúng tôi gọi bảy món, giống như tổ chức mừng sinh nhật cho ai vậy.
Nhưng rồi đêm đến, sau khi đã tắt đèn, Mã Phi về phòng trong tình trạng say mèm. Cậu ta nằm sấp trên giường khóc lóc thảm thiết. Trông cậu ta như người mất hồn. Nhớ lại sự phóng khoáng và những việc trước kia cậu ta từng giúp, bỗng nhiên chúng tôi lại thấy cảm thông. Đầu tiên, Trình Nhất Đào lấy cho cậu ta chậu rửa mặt, Trưởng lão béo phe Tiêu dao cũng mang nước nóng đến. Mọi người
đều ngồi dậy. Sau đó cả phòng lại uống rượu cùng nhau, an ủi, tâm sự, thổ lộ cho nhau nghe những nỗi buồn và đau khổ trong lòng.
Nếu ai cũng có đau khổ, ai cũng có nỗi buồn trong tình yêu thì việc gì phải sầu não như thế này? Mã Phi đã tỏ ra vui vẻ hơn; cho đến khi cậu ta sắp nôn ra cả dịch vị, Trình Nhất Đào liền ngâm bài thơ Vô đề của phe Tiêu dao.
Lúc đó, tất cả đều đắm chìm trong yên lặng, đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình. Trời cũng đã sáng.
Ngày 18 tháng 11. Nắng.
Mặc dù Mã Phi vẫn rất đau khổ, nhưng nhờ có vụ thất tình của cậu ta, tự nhiên chúng tôi đoàn kết hơn hẳn. Mấy hôm đó, chúng tôi cùng lên lớp, cùng đến thư viện, cùng học giờ nghe của môn ngoại ngữ, cùng ra sân bóng, cùng lên giảng đường tự học, cùng đi uống rượu. Dường như đây mới là học đại học thực sự.
Nhưng cuộc sống này cũng không kéo dài được bao lâu. Chúng tôi không muốn để Mã Phi phải trả tiền rượu mãi, không muốn bị nhà trường kiểm điểm một lần nữa, vì thế đã nảy sinh một số bất đồng trong lúc uống rượu. Vì tôi không uống rượu nên bọn họ không gọi tôi. Trình Nhất Đào làm Phó Chủ tịch Hội Sinh viên, bận rộn, không có thời gian. Những người khác cũng có việc phải làm. Chỉ còn lại ba người là Mã Phi và phe Tiêu dao.
Cuộc sống lại quay về trạng thái ban đầu.
Đau khổ đã đến. Tình yêu chưa có hồi kết. Lòng tôi vẫn vậy. Ngày 20 tháng 11. Âm u.
Buổi chiều không có tiết, cả phòng tôi đều ngủ. Đột nhiên, ai đó gõ cửa. Cửa phòng không bao giờ khóa. Có người lên tiếng: “Mời vào!”
Đầu tiên, một cây gậy gỗ thò vào, tiếp sau là một người ăn mày bộ dạng rách rưới. Chúng tôi sững người, ăn mày sao lại vào đây? Sinh viên thì no đủ gì đâu? Nhưng tự nhiên tim tôi giật thột vì ông ấy cứ nhìn tôi cười. Trời ạ, bố tôi!
Tôi vội vàng xuống giường, lau sạch chiếc ghế để ông ngồi. Ông lại nhìn từng người cười, có vẻ rất tự hào. Tôi thì xấu hổ chỉ muốn chui xuống đất. Bố tôi là kẻ ăn mày. Bình thường mọi người đã có phần coi thường tôi, giờ thì toi hẳn rồi. Tôi nhìn thấy những đôi mắt đang thầm cười tôi, ánh mắt cười mà như không cười. Tôi tự cảm nhận được điều này; thực ra là tôi không dám nhìn bọn họ. Tôi biết, chắc chắn họ sẽ phao tin đến từng đứa bạn của tôi, nói bố tôi là ăn mày.
Bố tôi nói ông đến cao nguyên Thanh Tạng làm thuê, kết quả là bị người ta lừa nên phải quay về. Đi cùng còn có mấy người khác. Khi đi qua thành phố này, ông xuống xe, còn những người kia về trước. Ông nói phải tìm tôi đúng hai tiếng đồng hồ. Lòng tôi buồn vô hạn, nước mắt chỉ chực trào ra. Ông bảo chỉ đến thăm tôi chứ không có việc gì khác. Ngồi được mười phút thì ông bảo về. Tôi nhìn chiếc gậy trong tay ông, nói:
“Vứt gậy đi thôi!”
Ông nhìn tôi, miễn cưỡng vứt chiếc gậy ra đằng sau, tiếc nuối. Trên đường ra xe, ông nói:
“Chiếc gậy đó nhặt ở công trường chỗ bố làm, chắc chắn lắm, quê ta đâu có loại gỗ này. Có thể dùng làm cán xẻng. Nếu các con không dùng đến, nghỉ hè nhớ mang về nhà. Bố không dám để mấy ông cùng làng mang về hộ, sợ mang về rồi không chịu trả.”
Tim tôi như bị kim châm; tôi không cần biết giá trị của nó mà chỉ quan tâm đến sĩ diện của mình. Bố tôi đã nhận ra vẻ xấu hổ của tôi rồi ư? Nhưng ông không giận tôi, có phải ông không muốn để tôi mất mặt nhiều nên mới nhanh chóng rời ký túc xá không? Tôi bảo: “Vâng!”
Ông bắt xe khách đường dài; trong lúc đợi xe, tôi hỏi cậu em trai ở nhà thì làm thế nào. Ông nói ăn cơm ở nhà dì, bình thường không về nhà. Như thế ông mới có thể đi làm. Ông thở dài một tiếng rồi nói:
“Thực sự chẳng còn cách nào khác. Nó cũng muốn học đại học, cũng muốn thoát khỏi chốn đó.” Nói xong, ông móc từ trong người ra năm mươi tệ, nói: “Chắc con cũng cũng thiếu tiền, bố chỉ còn ngần này thôi, cầm lấy mà tiêu.”
Nước mắt tôi chực trào ra, nhưng tôi cố nuốt vào trong. Tôi cũng móc từ trong người ra năm mươi tệ rồi nói với ông:
“Con không thiếu tiền. Đây là tiền học bổng mới lĩnh, bố để cho em nó học.”
“Nó có rồi, con cứ cầm lấy!”
Tôi nói tôi không lấy gì hết, nhưng ông không chịu. Tôi nói ông cần tiền đi xe, nhưng ông nói:
“Nói với lái xe mấy câu là được. Đều là đồng hương, không có vấn đề gì đâu.”
Tôi không chịu. Ông liền nói:
“Con có mười tệ không, hay năm tệ cũng được.” Tôi móc mãi, được sáu tệ. Ông liền cầm sáu tệ đó, cố nhét vào tay tôi năm mươi tệ rồi nói:
“Người khác trả mười tệ, bố trả sáu tệ là được rồi.”
Tôi không chịu, nhưng xe đã đến. Ông liền nhảy lên xe, nhìn về phía tôi. Ông không biết vẫy tay tạm biệt, chỉ thò đầu qua cửa sổ, nhìn tôi cười cười, nói:
“Thôi, về đi!”
Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ông cười với tôi rạng rỡ như thế. Xe đã chạy. Nhưng tôi lại ngồi thụp xuống cạnh vườn hoa ven đường khóc nức nở. Trong tay tôi là tờ năm mươi tệ đó.
Sự xuất hiện của bố là một sự kiện lớn trong cuộc sống đại học của tôi. Từ hôm đó trở đi, tất cả mọi người đã biết về hoàn cảnh gia đình tôi. Những dịp trường phát tiền trợ cấp, tôi không bao giờ viết đơn đề nghị. Tôi không muốn để mọi người biết nhà tôi nghèo, biết tôi là kẻ mồ côi mẹ. Tôi không muốn mọi người nhìn tôi bằng ánh mắt thông cảm; bởi đằng sau vẻ thông cảm đó chắc chắn là sự thương hại và khinh bỉ. Tôi không thể quên được cách đám bạn cùng phòng nhìn tôi khi tôi tiễn bố về - ánh mắt vui mừng trước sự đau khổ của tôi vì cuối cùng đã biết được điểm yếu, đã nhìn thấy sự nghèo khổ, tự ti, cô độc và lặng lẽ của tôi; tôi chỉ ước mình được thoát khỏi nơi này ngay lập tức, chỉ ước được giết chết một người mới thấy hả giận.
Đêm hôm đó, tôi mất ngủ. Lòng vô cùng buồn chán và đau khổ. Tôi thề sau này sẽ kiếm thật nhiều tiền để bố và em được sống một cuộc đời khá giả.
Tôi giấu chiếc gậy đó dưới gầm giường, đợi khi nghỉ hè sẽ mang về cho bố.
Đọc đến đây, bất giác Dư Vĩ nhớ đến bài tản văn Bố của Chu Tự Thanh, nhớ đến nỗi buồn xót thoáng qua; đằng sau nỗi buồn đó là một niềm đau sâu sắc. Trong đoạn nhật ký này, Lâm Phong cũng viết về niềm đau sâu sắc đó, và phía sau niềm đau sâu sắc đó là một vết thương rỉ máu khó liền.
Vết thương như mũi kim châm vào Dư Vĩ khiến anh phải ngồi dậy, anh không thể đọc tiếp được nữa.
Anh đứng dậy và khẽ thở dài.
Trưa rồi. Dư Vĩ vừa buồn ngủ vừa đói bụng. Nhà có mì ăn liền, anh nấu hai gói ăn, ngắt dây điện thoại ra rồi ngủ thiếp đi.
T
3
iếng gõ cửa khiến Dư Vĩ giật mình tỉnh giấc. Hóa ra là Tiếu Nhân. Dư Vĩ nói mãi đến trưa anh mới ngủ, để anh ngủ thêm một lát. Tiếu Nhân để Dư Vĩ ngủ tiếp, còn mình thì ngồi cầm
tiểu thuyết của Lâm Phong ở đầu giường lên đọc. Hơn một tiếng sau, Dư Vĩ mới tỉnh giấc. Thấy Dư Vĩ đã tỉnh, Tiếu Nhân liền hỏi:
“Đây là cái gì vậy?”
Dư Vĩ nhìn sang thì thấy cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong, anh nói: “Tiểu thuyết của Lâm Phong.” “Tiểu thuyết gì vậy?”
“Sao thế?”
“Viết những cái gì đấy? Khó chịu quá!” “Khó chịu sao vẫn đọc?” “Chính vì khó chịu mới phải đọc!” Tiếu Nhân dẩu môi nũng nịu. “Đây mới là tâm lý thực của con người!”
“Chẳng ra cái gì! Toàn thứ ba lăng nhăng. Anh xem, những chuyện mình nói sáng hôm qua đều được cậu ta viết trong này.”
Nghe thấy vậy, Dư Vĩ vội cầm lấy xem, hóa ra trong phần sau của tiểu thuyết, Lâm Phong chủ yếu miêu tả sự biến đổi tâm lý giới tính của nhân vật. Anh vẫn chưa đọc đến đoạn này. Càng ngày anh càng cảm thấy cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng nhật ký này có giá trị rất lớn, đặc biệt là giá trị nghiên cứu trên phương diện tâm lý học.
Dư Vĩ và Tiếu Nhân cùng đi ăn cơm. Trên đường về, họ lại thảo luận về cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong. Hai bên có nhiều ý kiến bất đồng. Một mặt, họ có quan điểm khác nhau về đạo đức và các
chứng bệnh tâm lý; mặt khác, quan niệm của họ về tiểu thuyết và tác gia cũng rất khác nhau.
Kể từ hôm xảy ra chuyện đó, Tiếu Nhân không muốn tiếp tục sống trong ký túc nữa, cô đòi về nhà ở. Khoảng mười một giờ đêm, Dư Vĩ đưa cô về nhà; bố Tiếu Nhân đang trên đường đi dạo về. Ông có một thói quen: mười giờ tối đi dạo, lúc đó đường vắng người. Quay về bắt đầu ngồi vào bàn viết, viết đến năm giờ sáng mới bắt đầu đi nghỉ. Đây là thói quen từ thời còn trẻ của ông, sau này muốn đổi thành chín giờ tối đi ngủ, năm giờ sáng dậy, nhưng thấy không tài nào ngủ được vào chín giờ tối, vì thế cũng không thể dậy được vào năm giờ sáng. Thấy Dư Vĩ chuần bị về, ông giữ Dư Vĩ ở lại nhà ngủ. Nhưng Dư Vĩ kiên quyết nói phải về.
Sáng hôm sau, Dư Vĩ vừa cầm tiểu thuyết của Lâm Phong lên đọc, Tiếu Nhân lại gọi điện, nói mẹ cô muốn mời anh đến ăn trưa. Cả nhà Tiếu Nhân đều rất hài lòng về anh tiến sĩ Tây này, đặc biệt là ông nhà văn già. Mặc dù vừa gặp hai người đã cãi nhau, nhưng ông cho rằng thanh niên mà dám bảo vệ lập trường, quan điểm của mình như vậy là rất hiếm có.
Dư Vĩ tỏ ra do dự; trong điện thoại, Tiếu Nhân có phần không vui. Dư Vĩ đành phải nhận lời. Cô còn nói cô đã kể cho bố mình nghe về cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong và những chuyện xảy ra ở trường trong thời gian gần đây, bố cô rất có hứng thú với vấn đề này, muốn xem cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng nhật ký của Lâm Phong. Nghe thấy vậy, Dư Vĩ rất băn khoăn. Hôm qua quên dặn Tiếu Nhân rằng anh đã hứa với Lâm Phong, ngoài mình ra sẽ không cho người khác đọc, giờ biết làm thế nào? Dư Vĩ đành nói, đợi anh đọc xong rồi anh sẽ đưa cho bố Tiếu Nhân đọc, vì Lâm Phong đang chờ xin ý kiến của anh. Dư Vĩ đã nói rõ lí do với Tiếu Nhân qua điện thoại. Tiếu Nhân cũng đành phải nói với bố như vậy. Nhưng Tiếu Nhân muốn Dư Vĩ đến nhà cô sớm một chút để đi chợ cùng cô. Dư Vĩ thầm than thân trách phận nhưng vẫn phải nhận lời.
Dư Vĩ bắt xe đến nhà Tiếu Nhân. Bố cô đã dậy từ lâu; hóa ra tối qua ông đi ngủ sớm. Tiếu Nhân gọi Dư Vĩ đi chợ cùng mình, nhưng nhà văn già không cho anh đi. Mẹ Tiếu Nhân cũng không đồng ý cho Dư Vĩ đi chợ, và thế là hai người đàn ông lại bắt đầu tranh luận.
Không như buổi tranh luận đầu tiên, trong cuộc nói chuyện lần này, cả hai đều tỏ ra giữ ý và nhân nhượng. Thoạt tiên họ đàm đạo rất lâu về tiểu thuyết và tác gia hiện nay, sau đó nhắc đến cuốn tiểu thuyết viết dưới dạng nhật ký của Lâm Phong. Dư Vĩ định khuyên ông bố vợ tương lai, còn ông lại muốn giáo huấn cậu con rể.
Không ngờ vừa nhắc đến tiểu thuyết của Lâm Phong, nhà văn già lại càng cao hứng. Đầu tiên, ông chê loại tiểu thuyết này cố ý dùng tình dục để thu hút độc giả, sau đó ông lại lớn tiếng mạt sát các tác gia và tác phẩm dựa vào các chi tiết miêu tả tình dục để thỏa mãn một bộ phận độc giả có tố chất kém. Dư Vĩ nói với ông, tiểu thuyết của Lâm Phong không phải như vậy. Dường như nhà văn già đã mất khả năng kiềm chế, ông không thèm để ý đến lời Dư Vĩ nữa.
Ông già đỏ mặt tía tai, bực bội châm một điếu thuốc nói: “Tóm lại, xã hội đang tụt lùi vì đạo đức xuống cấp.”
Dư Vĩ không đồng ý:
“Còn cháu lại thấy xã hội đang tiến bộ. Hồi cháu học đại học, hầu như mọi người suốt ngày chỉ nói về chính trị; lên thạc sĩ, rất nhiều người bắt đầu nói về kinh tế; đến khi cháu từ nước ngoài trở về, số người nói chuyện về văn hóa, đời sống lại nhiều lên, hầu như mọi người không nói chuyện chính trị, cũng không nói về kinh tế nữa. Cháu cho rằng đây là một tín hiệu đáng mừng, mọi người đã có được môi trường sống thoải mái hơn, có quyền diễn ngôn tự do hơn. Rất nhiều lĩnh vực bị cấm đoán trước đây thì giờ đã không còn nữa. Nếu nói trước kia mọi người không có cơ hội và quyền lợi để quan tâm chính mình, thì bây giờ đã có rồi.”
Lúc này hai mẹ con Tiếu Nhân vui vẻ trở về, thấy họ lại cãi nhau đỏ mặt tía tai, mẹ Tiếu Nhân liền khuyên Dư Vĩ:
“Dư Vĩ, cháu đừng tranh cãi với ông ấy. Ông ấy thích giáo huấn người khác, đầu óc chỉ toàn đạo đức với trách nhiệm. Cô thường hỏi ông ấy không thấy mệt sao, việc gì phải như thế? Rất nhiều chuyện ông không thể làm được mà cứ tự dồn lên vai mình đủ thứ trách nhiệm, nhưng dồn rồi có gánh vác được đâu. Bây giờ còn ai thèm để ý đến cái kiểu đó nữa.”
Bố Tiếu Nhân gắt:
“Thôi, nấu cơm đi. Bà thì biết gì! Chính vì xã hội thiếu những người có tinh thần trách nhiệm nên mới ra nông nỗi này. Chính vì có quá nhiều những người như bà nên đạo đức mới ngày càng xuống cấp; mọi người mới nhìn nhiều thành quen như vậy.”
Mẹ Tiếu Nhân không giận mà cười bảo Dư Vĩ: “Cháu xem, tính khí ông ấy như vậy đó, cứ như cô làm cho xã hội xuống cấp không bằng. Tôi thèm vào tranh cãi với ông.” Dư Vĩ cười nói:
“Cô nói cũng có cái đúng. Xét từ góc độ tâm lý học, con người đều bình đẳng như nhau. Một người, cho dù ở địa vị xã hội nào, cho dù anh ta có kiến thức hay không, chỉ cần tâm lý anh ta lành mạnh thì anh ta sẽ là người khỏe khoắn. Có tinh thần chính nghĩa mạnh mẽ thì mới gánh vác được những trách nhiệm quan trọng; nhưng nếu tâm lý của anh ta có vấn đề thì anh ta vẫn là người có bệnh. Một khi anh ta có bệnh thì tinh thần trách nhiệm, tinh thần chính nghĩa v.v... ở con người anh ta đều trở thành các triệu chứng của bệnh tật; như thế thì phải từ bỏ những cái đó cho thật thích hợp.”
“Như vậy cô là người khỏe mạnh còn ông ấy là người có bệnh?” Mẹ Tiếu Nhân cười to; lần đầu tiên bà cảm thấy đã tìm được cơ sở lí luận cho cuộc sống của mình và cơ sở lí luận để thuyết phục chồng.
“Tôi có bệnh?” Bố Tiếu Nhân hơi choáng, “Sự phê phán và trách nhiệm của tôi đối với xã hội đã khiến tôi mắc bệnh về tâm lý?”
“Không, không, chú, ý cháu là, nếu những người được trọng vọng như chú mà có tâm lý không lành mạnh thì sẽ dẫn đến việc anh ta
không thể hòa hợp với xã hội và những người xung quanh, khiến cho tâm hồn anh ta đau khổ, thể xác và tinh thần bị tổn thương quá lớn; khi đó thì đúng là anh ta đã mắc bệnh.”
Tiếu Nhân cũng cười.
Ai mà ngờ kết quả của cuộc thảo luận hôm ấy lại là: Nhà văn già mắc chứng bệnh về tâm lý. Trước khi ra về, ông bảo Dư Vĩ:
“Cháu nói xã hội đang tiến bộ cũng có cái đúng của nó.”
T
4
iểu thuyết của Lâm Phong không những giúp Dư Vĩ hiểu thêm về cậu, mà còn giúp Dư Vĩ nhận thức đầy đủ hơn về tâm lý giới tính của lớp thanh niên trong độ tuổi Lâm Phong; đồng
thời nó cũng ảnh hưởng đến cuộc sống và nội tâm Dư Vĩ, đặc biệt là những suy nghĩ được Lâm Phong thể hiện trong đó. Dư Vĩ còn đọc được một số bài viết trên mạng, có rất nhiều bài viết về các vấn đề thuộc lĩnh vực tâm lý, đặc biệt là về cuộc sống riêng tư. Trong tiểu thuyết Thời đại sống thử, tác giả đã mô tả cảnh sống chung của mình với bạn gái thời đại học. Trong bài viết Chuyện tình một đêm, tác giả thuật lại mình đã trải qua đêm đó như thế nào. Còn trong tiểu thuyết Đàn cầm, tác giả kể chuyện một nam sinh học nhạc đã yêu cô giáo dạy thanh nhạc của mình, nhưng cô giáo dạy thanh nhạc lại yêu chồng, tâm lý cậu sinh viên biến đổi nhiều; cuối cùng không những làm hỏng cuộc đời mình, mà còn làm tan nát cả một gia đình. Ngoài ra có một số bài viết đơn giản, chủ yếu trút bày những ham muốn tức thời nhưng cũng rất thú vị, mặc dù thô tục nhưng vô cùng chân thực. Một cuốn tiểu thuyết có tên là Thời đại học đã miêu tả hết sức lộ liễu tâm lý tình dục của một sinh viên đại học. Dư Vĩ cảm thấy mạng Internet thật đáng sợ, chỉ cần mở ra là dường như có thể thâm nhập vào cơ thể con người, nhìn thấu mọi cái xấu xa của con người. Trước kia người ta chỉ viết về những cái đẹp, còn nay, dường như mạng chỉ chuyên viết về những cái xấu xa.
Sau đó Con Một gửi mấy lá thư cho Dư Vĩ. Dư Vĩ muốn cô cho anh biết tên thật của cô, hoặc có thể gặp mặt nói chuyện, nhưng hình như Con Một không muốn cho anh biết lai lịch thật của mình. Dư Vĩ cũng đành chịu. Trong thư anh đã kể ra những kinh nghiệm lâm sàng khi anh còn ở nước ngoài; anh nói với cô rằng, tìm ra lối thoát được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân cô, không ai có thể giúp cô được.
Còn Yêu Thật Lòng thì ngày nào cũng gửi thư cho Dư Vĩ. Một hôm bỗng ngừng bặt mọi tin tức, ba ngày liền Dư Vĩ không nhận được email nào của cô. Đến ngày thứ tư, anh nghe tin có một cô gái nhảy lầu tự tử vì thất tình nhưng không thành, bại liệt toàn thân. Dư Vĩ giật mình, anh đoán cô sinh viên đó có thể là Yêu Thật Lòng. Sau này, anh không còn nhận được thư của cô nữa. Dư Vĩ nghĩ, chắc chắn là cô ấy. Anh không ngờ khả năng chịu đựng của sinh viên lại kém thế; kém hơn rất nhiều so với tưởng tượng của anh.
Sự việc này khiến Dư Vĩ không thể đọc cuốn tiểu thuyết của Lâm Phong với tâm trạng thanh thản như trước được - trong khi đây lại là điều tối kị khi đọc tiểu thuyết. Anh theo dõi tiếp câu chuyện với một tâm trạng khác thường.
Ngày 5 tháng 3 năm 1997. Nắng.
Dường như mỗi lần kì nghỉ đến đều báo hiệu một sự thay đổi.
Mã Phi đã có người yêu mới, một cô ca sĩ. Cậu ta hầu như không sống ở ký túc nữa. Cô ca sĩ đó từng phát hành hai album, có ảnh hưởng khá lớn trong nước. Hằng ngày cô ta đều lái xe đến đón Mã Phi. Nghe Mã Phi kể, cô ta sống trong một biệt thự ngoại ô.
Giai cấp trung lưu cũng ít đá bóng hơn, người nào người nấy đều tập trung phục vụ bạn gái. Buổi trưa, họ về phòng rất sớm, cầm cặp lồng đến nhà ăn ăn cơm với người yêu. Tối đến, hôm thì họ qua đêm trong giảng đường, hôm lại qua đêm ở rạp chiếu phim và phòng chiếu video. Trưởng lão gầy phe Tiêu dao cũng đã có bạn gái. Ngay cả Giai cấp vô sản trầm lặng, ít nói cũng ngày ngày viết thư tình một cách đều đặn, hóa ra cậu ta vẫn liên hệ thường xuyên với cô bạn gái hồi cấp ba - hiện đang làm thư ký cho ông sếp của một công ty. Nghe giọng cậu ta thì thấy hình như người ta cũng không mặn mà lắm, nhưng cậu vẫn không chịu bỏ cuộc. Hiện giờ chỉ có tôi và Trưởng lão béo phe Tiêu dao là chưa có người yêu, cả ngày chẳng biết đi đâu, đành phải lên thư viện. Thư viện là đại
dương để tôi đặt bao dấu hỏi, tôi miệt mài mò chiếc kim đầy ý nghĩa ở đó.
Mọi người, kể cả lúc ngủ, cũng khó gặp nhau; trên giảng đường lại càng khó gặp hơn. Mã Phi càng ngày càng ít đi học. Cậu ta cho Trình Nhất Đào máy nhắn tin, còn mình thì đổi sang điện thoại di động. Vừa tan học, di động của cậu đã đổ chuông. Thỉnh thoảng gặp cậu ta, thấy cậu ta không còn phong độ như trước. Giường cậu ta thường xuyên để trống, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho phe Tiêu dao vì đồng hương của phe này đông, có lúc chuyện trò đến rất khuya liền ngủ luôn ở đó, không về nữa.
Ngày 7 tháng 3. Nắng.
Mai là ngày Quốc tế Phụ nữ. Trong giờ học Giáo dục phẩm chất đạo đức - tư tưởng, Bí thư Đoàn đưa ra câu hỏi: Sinh viên có nên yêu hay không? Mọi người cười đau cả bụng. Sinh viên ngồi dưới chê ông thầy cổ lỗ sĩ. Ông thầy cao hứng giảng, giảng mãi, giảng mãi, rồi chợt hỏi cô sinh viên xinh xắn Tiểu Ngọc:
“Tôi muốn hỏi quan điểm của em về tình yêu và hôn nhân?”
“Tình yêu là tình yêu, hôn nhân là hôn nhân, đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.”
“Em thấy câu: “Tình yêu là cơ sở của hôn nhân” đúng hay sai?”
“Không đúng. Có những cuộc hôn nhân không cần tình yêu. Cũng có nghĩa là em yêu một người nhưng không nhất thiết phải lấy anh ta.”
Bí thư Chi đoàn đứng như trời trồng trên bục giảng. Lúc này, một sinh viên đứng dậy nói:
“Em cho rằng câu hỏi đã quá lỗi thời, nó thuộc phạm trù những năm 1980, nên đổi sang câu khác, đại loại như: “Sinh viên có thể sống thử hay không?”, hoặc “Sinh viên có thể kết hôn hay không?”
Tất cả mọi người vỗ tay tán thưởng. Tôi không vỗ tay. Tôi cảm thấy mình giống sinh viên những năm 1980; có lẽ tôi là sinh viên còn sót lại của thập kỷ tám mươi.
Ngày 14 tháng 3. Nắng.
Lại đến thời gian phải học chính trị. Một người phụ nữ lạ tìm đến lớp tôi, giới thiệu là giáo viên Tâm lý học của trường, muốn làm một cuộc điều tra. Trước tiên, Bí thư Đoàn phát biểu vài câu, sau đó người phụ nữ trình bày với chúng tôi nội dung cần điều tra, liên quan đến vấn đề cuộc sống tình dục của sinh viên. Điều tra không ghi tên, sinh viên phải điền đúng tình hình thực tế. Tôi nhìn thấy trên đó thôi thì đủ mọi thứ. Ghê nhất là bắt mọi người phải điền mình đã từng có quan hệ tình dục hay chưa, quan hệ với mấy người. Càng đọc xuống phần sau, tôi càng thấy bất ngờ, lại còn có cả câu hỏi liên quan đến học thuyết Freud, hỏi có nằm mơ có quan hệ với mẹ mình hay không.
Mắt tôi nhòe đi, tôi có cảm giác như mấy chục đôi mắt đang nhìn tôi chằm chằm. Tôi không dám điền, đành điền qua loa một mạch cho hết rồi hoang mang rời khỏi giảng đường.
Tối đến, Trình Nhất Đào báo cho chúng tôi một kết quả thật kinh ngạc: Điều tra cho thấy, có một nửa sinh viên nam và hơn hai phần ba sinh viên nữ từng có quan hệ tình dục. Mọi người mồm năm miệng mười bàn tán chuyện này; trước tiên điều tra trong phòng xem ai còn là trai tân. Trước đây có lần mọi người điều tra ai đã mất trinh, lần này lại đổi thành ai là trai tân. Chắc là chỉ còn mình tôi. Nhưng bọn họ vẫn không tin. Cuối cùng, Trưởng lão gầy phe Tiêu dao hỏi:
“Mấy ông thử nói xem, lớp mình ai còn là gái trinh?”
“Làm sao ông biết người ta có còn là gái trinh hay không?” Trình Nhất Đào chế giễu.
Hai người của phe Tiêu dao liền nói, dáng đi của gái mất trinh không giống với gái còn trinh. Sau đó bọn họ bắt đầu điểm mặt từng người. Tiểu Ngọc là người đầu tiên bị loại khỏi danh sách, không cần phải nói đến khoảng cách giữa hai chân cô ấy, chỉ cần nhìn vào máy nhắn tin của cô ấy là đã thấy rõ vấn đề. Cuối cùng, Trần Mai cũng bị liệt vào danh sách đó, vì Trần Mai từ nhỏ phải đi lại trên đường đồi núi, chân hơi cong. Điều này đã trở thành lí do thất thân của cô ấy.
Đêm đó, tôi không tài nào chợp mắt được. Có lẽ tất cả bọn họ đều đã có người yêu, chỉ còn tôi vẫn là trai tân. Từ trước đến nay người ta đều tự hào vì mình còn trinh, hôm nay, không ngờ nó đã khiến tôi tự ti đến vậy.
Tôi không hiểu những người khác làm chuyện đó với con gái vào lúc nào, ở đâu, không hiểu tại sao trong lớp lại có nhiều con gái mất trinh đến thế. Trong đó có những người chưa bao giờ thấy có bạn trai.
Tôi nhớ đến người phụ nữ xinh đẹp bán dưa hấu mùa hè năm nào, nhớ đến Lâm Miên. Không biết Lâm Miên và Mã Phi đã làm chuyện ấy chưa? Tôi vô cùng căm thù đôi trai gái đáng ghét đó.
Ngày 20 tháng 3. Nắng.
Đã có điểm thi môn ngoại ngữ. Hai người phe Giai cấp trung lưu đã qua được cấp bốn, còn tôi thì qua cấp sáu.
Thời gian còn lại không biết làm gì, đành phải đi thư viện. May mà bắt đầu từ học kì này, thư viện của trường có nhiều cải tiến, có một số phòng mở cửa suốt hai mươi tư giờ, một số mở cửa từ tám giờ sáng đến tận mười một giờ đêm, thành ra tôi bỗng có một nơi trú ngụ lí tưởng.
Sáng dậy, trước hết là lên giảng đường; khi không có giờ tôi liền sang thư viện. Nhiều lúc trưa cũng không về, đến tận mười một giờ đêm mới về phòng. Không biết người khác học Triết học như thế nào, còn tôi càng đọc nhiều sách Triết học lại càng thấy cuộc đời vô
vị. Phòng lúc nào cũng thiếu người, hôm nay là phe Tiêu dao, ngày mai là Giai cấp trung lưu. Có lúc, ngay cả Giai cấp vô sản cũng không thấy mặt. Tôi là kẻ trung thành nhất với căn phòng.
Nghe nói Lâm Miên vẫn chưa qua được môn ngoại ngữ. Học kỳ này, hình như ánh mắt của Lâm Miên cũng hướng ra xã hội. Đợt mới vào học, nghe nói Lâm Miên làm trưởng phòng tiếp tân ở một khách sạn năm sao. Một tuần sau, một chiếc BMW xuất hiện ở trường. Lâm Miên bước từ trên xe xuống, tay cầm một chiếc ví da. Chiếc xe đó rời trường chưa được bao lâu, điện thoại trong ví da của Lâm Miên đã đổ chuông. Lâm Miên rút máy di động, vừa nói vừa cười bước vào khu sinh viên. Đúng lúc tan học.
Hôm nay, trong trường có dán một tờ thông báo, nói rằng trong thời gian tới, đài truyền hình thành phố sẽ tổ chức cuộc thi người đẹp, phần thưởng giải nhất là một vạn tệ.
Chúng tôi đều nghĩ Lâm Miên sẽ tham gia, và chắc chắn sẽ giành được giải nhất.
Ngày 1 tháng 4. Nắng.
Buổi trưa, Trình Nhất Đào quay về ký túc xá, thấy trên giường có một tờ giấy do Lâm Miên nhờ người đưa sang, nói muốn nhờ cậu giúp một việc. Trình Nhất Đào hỏi mọi người trong phòng, có người bảo là bạn bên phòng khác mang đến. Trên giấy nhắn buổi chiều gặp ở giảng đường nào đó.
Suốt buổi chiều, Trình Nhất Đào ngồi nghĩ tại sao Lâm Miên lại tìm mình. Cậu ta không ngủ trưa. Mọi người cũng không ngủ. Có người đưa ý kiến:
“Hay là Lâm Miên thích ông rồi?”
“Cô ta thích tớ, tớ thèm vào thích cô ta.” Trình Nhất Đào ra vẻ ta đây.
“Ông đừng để thành Mã Phi thứ hai đấy nhé.”
Mỗi người xen vào một câu khiến lòng dạ Trình Nhất Đào xốn xang. Buổi chiều không có giờ, Trình Nhất Đào đi khỏi, còn chúng tôi nằm xuống ngủ. Chúng tôi cũng đang tự hỏi, Lâm Miên tìm cậu ta làm gì?
Lúc này, cậu đưa tờ giấy ban sáng bước vào, hỏi Trình Nhất Đào đã đi chưa. Chúng tôi nói đi rồi. Cậu ta cười. Chúng tôi không hiểu, cậu ta nói:
“Hôm nay là ngày gì hả?”
Lúc này chúng tôi mới vỡ lẽ. Cá tháng Tư.
Tối đến, Trình Nhất Đào quay về mà không nói gì, tỏ vẻ như không có chuyện gì xảy ra. Trưởng lão gầy phe Tiêu dao hỏi cậu ta buổi chiều có gặp Lâm Miên không. Trình Nhất Đào vừa cười vừa chửi:
“Mẹ kiếp, không biết bố con thằng nào giở trò?” Trưởng lão gầy vẫn không chịu tha:
“Xem ra cậu vẫn rất có tình ý với Lâm Miên đấy chứ?” “Ai có tình ý với cô ta?”
“Đừng vờ vịt nữa. Có một vẫn muốn có hai mà.”
Ngày 5 tháng 4. Nắng.
Nghe nói cuộc thi người đẹp sắp khai mạc, số nữ sinh đăng ký dự thi của trường Đại học Phương Bắc lên tới một trăm.
Điều mọi người quan tâm nhất là Lâm Miên có tham gia hay không. Một hôm, Gam xanh của Giai cấp trung lưu đã nắm bắt được thông tin qua bạn gái cậu ta. Hóa ra bạn thân của cô bạn gái cũng đăng ký dự thi, cô ấy đã nhìn thấy tên của Lâm Miên trong danh sách đăng ký.
Lúc này mọi người mới yên lòng. Lại sắp có một chủ đề hấp dẫn, một sự kiện tương lai để chờ đợi.
Tôi cũng không ngoại lệ, nhưng tôi luôn cảm thấy chuyện này hết sức vô vị.
Ngày 10 tháng 4. Nắng.
Sự vô vị đó thường xuất hiện khi tôi vừa tỉnh giấc. Mở mắt ra, tôi gặp ánh mặt trời rọi chiếu khắp phòng, căn phòng hoàn toàn yên tĩnh. Tôi vội vàng ngồi dậy, tưởng chừng mình đã ngủ rất lâu, song nhìn quanh, mọi người vẫn đang say giấc, tôi dỏng tai lắng nghe, bên ngoài cũng rất im ắng. Rồi tôi thần người, vừa như suy nghĩ vừa như không. Cuộc đời không mục đích, buổi chiều nay lại càng không. Lỗ Tấn nói rất đúng: “Con người tỉnh dậy không có lối thoát là điều tất yếu.” Ông đã nhìn thấu được con người.
Có lẽ do ngủ quá lâu nên đầu hơi khó chịu, người rã rời; tôi lại nằm xuống. Tôi hồi tưởng thời gian học khí công với thầy Biên vào mùa đông năm ngoái. Hồi đó, sức khỏe tốt thật, thân thể dẻo dai, nhưng họ nói khó tin quá. Nghe nói năm nay vẫn tổ chức lớp, song rất nhiều người đã rút lui. Thầy Biên từng nói sẽ biểu diễn cho chúng tôi xem tiết mục vận khí công đốt giấy, tôi không được chứng kiến, nghe nói sau này thầy cũng không biểu diễn. Nhưng lớp học mà thầy tổ chức kiếm được rất nhiều tiền. Đấy là một nguyên nhân khiến tôi coi thường thầy. Một nguyên nhân khác là thầy Biên nói sắp đến ngày tận thế, thầy muốn cứu chúng tôi. Tôi nghĩ, nếu những kẻ có tâm lý bất bình thường như chúng tôi sống sót, còn những người khác, nhất là những cô gái như Lâm Miên mà cũng chết thì chúng tôi sống còn có nghĩa lí gì, thà chết cùng còn hơn! Nhưng thầy Biên cứ đòi cứu chúng tôi. Giáo sư dạy môn Văn nghệ học cũng không còn hứng thú với những trò khí công của họ; ông ca ngợi cuộc sống thế tục. Tôi cũng vậy, tôi cũng không muốn làm siêu nhân.
Tôi cứ nằm trên giường suy nghĩ miên man, Giai cấp vô sản cũng tỉnh giấc, ngồi bật dậy, cảm thấy ngày tận thế đã đến, rồi cậu ta lại từ từ nằm xuống, có lẽ cũng giống như tôi, khắp người bải hoải. Tiếp theo, những người khác lần lượt tỉnh giấc, sau đó lại nằm xuống. Cho đến khi có người ngáp một cái và bắt đầu nói chuyện, thế giới lại được khôi phục ý nghĩa của nó. Cuối cùng, tất cả mọi người đều đi hết, chỉ còn lại tôi và Giai cấp vô sản.
Cậu ta thở dài. Tôi cũng thở dài. Cậu ta hỏi: “Ông đang nghĩ gì vậy?”
Tôi liền kể cho cậu ta.
Cậu ta không cười mà nói bằng giọng nghiêm túc:
“Ôi, tôi mà nghĩ thấu được việc sau khi người ta chết thì tôi không buồn nữa.”
Hóa ra cậu ta luôn rầu rĩ vì câu hỏi này.
Ngày 12 tháng 4. Nắng.
Sau khi vào đại học, một suy nghĩ kỳ quái thường ám ảnh tôi. Cái gì cũng khác với tưởng tượng của tôi, tất cả đều mất đi ý nghĩa. Có lúc, đột nhiên tôi muốn tự tử. Tôi nghĩ, có lẽ tự tử sẽ chứng tỏ được ý nghĩa tồn tại của tôi. Đặc biệt là vào sáng Chủ nhật, tôi tỉnh giấc và phát hiện thấy trong phòng chẳng có ai, đúng vậy, ngay cả tôi cũng không còn tồn tại. Cái cảm giác cuộc đời thật vô nghĩa đó vô cùng mạnh mẽ, tôi liền nghĩ đến tự tử.
Tôi đã từng đọc rất nhiều bài bình luận và bài viết nói về chuyện nhà thơ tự tử. Những người đó giống như tôi, dường như đều mắc bệnh tâm lý, có các khuyết tật bẩm sinh, vì thế thường khác với người bình thường. Sự tự tử của họ là tất yếu, vì thế nên họ được đời đời sống mãi. Được đời đời sống mãi ư? Tôi thường tự hỏi mình. Họ biết là mình được đời đời sống mãi không?
Tôi đã từng nghe các buổi thuyết trình về Tâm lý học, tôi cũng biết ít nhất tôi mắc hai căn bệnh: chứng tự kỷ và chứng trầm cảm. Tôi thường buồn phiền vì chuyện này, nhưng tôi biết làm thế nào?
Ngày 15 tháng 4. Nắng.
Báo sáng ra ngày hôm nay đã đăng kết quả của cuộc thi người đẹp. Lâm Miên đầu đội vòng nguyệt quế, tay vẫy cao hoa tươi.
Cô ấy đã giành được thắng lợi.
Mọi người đều tranh nhau đọc tờ báo đó, cứ như là chưa bao giờ được gặp cô ấy vậy. Thực ra kết quả này hoàn toàn nằm trong dự đoán. Lâm Miên bỗng nhiên trở thành minh tinh của trường. Nếu như trước kia mọi hành động của cô ấy đều khiến các “vệ sĩ” không hài lòng, thì hôm nay cô đã tìm được đồng minh là các phương tiện thông tin đại chúng. Tục ngữ nói, những lời bịp bợm được nói nhiều cũng trở thành chân lí. Những cái thuộc về trào lưu, thời thượng được tuyên truyền nhiều cũng trở thành chính thống.
Buổi tối, sau khi đã tắt đèn, Trưởng lão béo phe Tiêu dao nói:
“Ông thử nói xem, hiện giờ liệu tay xã hội đen hoặc tay giàu có nào đang tìm hiểu các thông tin về Lâm Miên nhỉ? Ví dụ, gia đình này, số đo ba vòng hoặc bạn trai cô nàng.”
“Nghe nói đàn bà lên giường nhiều thì eo sẽ to ra, không hiểu sao Lâm Miên lại chẳng thay đổi gì nhỉ?” Một cậu khác cũng tỏ vẻ trầm ngâm.
“Sao ông biết là không thay đổi? Ông đo rồi à?” Giai cấp trung lưu vặn lại.
Đêm đến, tôi lại mơ thấy được làm tình với Lâm Miên. Nửa đêm tỉnh giấc, giường lại ướt sũng một góc.
Ngày 20 tháng 4. Nắng.
Tối nay, có một nhà thơ đến thuyết trình, tôi đã đi dự. Ông ấy kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện thú vị của bản thân. Khi mới tốt nghiệp, ông được phân công về làm ở một huyện nhỏ. Hằng ngày ông đều lang thang trên đường. Một hôm, có một cô gái xinh đẹp đi lướt qua ông, ông gọi cô gái và nói thẳng với cô ấy rằng tôi thích em vì em quá đẹp. Cô gái nghĩ gã này là một tên lưu manh nên chẳng đoái hoài gì đến ông. Ông cứ đi theo cô gái, thấy cô bước vào khu vực toàn nhà cấp bốn. Ông định theo vào thì cô gái đã khóa cửa lại. Ông đứng cách đó không xa để đợi. Buổi trưa, người đi làm, tan ca đông nên phải mở cửa. Ông đi vào trong, đúng lúc nhìn thấy cô gái đó đang ăn cơm với gia đình. Ông bước đến và giới thiệu với bố cô gái mình là ai, làm việc ở đâu, tại sao lại có cảm tình với cô gái, và nói rằng mình không thể sống thiếu cô, muốn lấy cô làm vợ. Người nhà cô gái đều nghĩ ông bị mắc bệnh tâm thần, tìm cớ đuổi ông đi. Sau đó, hằng ngày, sau khi đi làm về, ông đều đứng đợi cô gái. Một tuần sau, cô gái đó thấy ông thú vị quá, bèn nói chuyện với ông. Sau đó không lâu, cô gái đem lòng yêu ông. Họ đã cưới nhau. Ông nói, con người luôn cần sự can đảm.
Buổi thuyết trình của nhà thơ đã tác động rất lớn đến tôi. Cái mà con người tôi thiếu nhất chính là sự can đảm.
Ngày 23 tháng 4. Nắng.
Buổi chiều, mọi người đều đang ngủ say. Tôi không ngủ mà ra đường lang thang. Một mình loanh quanh trên đường, cảm thấy thật lẻ loi, thê lương.
Tôi luôn có cảm giác mình đang đi ngược chiều; người đi đường đều vội vã tấp nập, dường như đang vội vã đi làm một việc gì đó hết sức cấp bách, khẩn trương. Tôi không quen người nào, cũng không có người nào quen tôi. Không cần phải tự ti vì bất cứ điều gì, không cần phải buồn khổ vì bất cứ điều gì. Tôi chính là tôi, một thằng tôi cô đơn và có thực. Tựa như cảnh quay trong phim. Người đi đường không liên quan gì đến tôi, cảnh phồn hoa trên đường không liên quan gì đến tôi, người hát rong kia không liên quan gì đến tôi, thế
giới này không liên quan gì đến tôi. Tôi không cần phải quan tâm đến nhân loại, tôi chỉ quan tâm bản thân tôi. Trên con đường ồn ào náo nhiệt này, tôi lặng lẽ nhớ về quá khứ của mình, nhớ về những cô gái mà tôi thích.
Bất giác, tôi bước đến cổng trường Y, tôi đi lang thang vào trong. Hoa đinh hương bên đường đã nở, giống như một giấc mơ màu hồng phấn. Gió thổi nhè nhẹ, hương thơm dịu dàng như thiếu nữ len lỏi vào tận bên trong, khiến con người bỗng nhiên cảm nhận được một sự êm đềm vô bờ bến. Tôi không biết lúc mưa, dáng vẻ của đinh hương sẽ thế nào, chẳng biết có tiêu điều, lẻ loi như Đới Vọng Thư1 miêu tả trong thơ của mình hay không. Ấn tượng của tôi về đinh hương là vẻ ngây thơ trong trắng, đôi mắt bí ẩn như trẻ con, tựa như con gái trong trí tưởng tượng của tôi. Đúng vậy, tựa như người con gái, lặng lẽ mà thẹn thùng, kiêu ngạo mà không vênh váo, hơi thở kì diệu và thánh thiện.
1 Đới Vọng Thư (1905 - 1950), nhà thơ “dấn thân” của Trung Hoa, người đặt nền tảng cho thơ hiện đại Trung Quốc - ND.
Một cô gái xinh đẹp đeo chiếc balô nhỏ bước đến. Cô bước thong thả không mục đích, tôi rất thích ánh mắt lơ đãng đó. Đột nhiên, lòng tôi xốn xang lạ thường; tôi muốn được hôn cô ấy, dù là bộ phận nào cũng được. Cảm giác đó thật mạnh mẽ, cao thượng, trong trắng. Trước kia tôi chỉ có những rung động ấy với Lâm Miên, nhưng nó lại không giống như Lâm Miên. Cô ấy sắp bước đến gần tôi. Tôi nhớ lại câu chuyện của nhà thơ nọ.
Tôi đón đường cô ấy rồi nói lớn:
“Bạn ơi, xin lỗi. Tớ muốn phiền bạn một việc, tớ, tớ, tớ...” Tôi không biết phải nói thế nào. Tôi không đủ can đảm để nói ra, đặc biệt là khi nhìn thấy ánh mắt kiêu ngạo của cô ấy. “Bạn định nhờ việc gì?” Chắc là cô ấy nhìn thấy vẻ ngại ngùng của tôi, thấy tôi không giống với bọn lưu manh.
"""